Các bài suy niệm Chúa Nhật 4 Mùa Chay Năm B

957

CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY_B

Lời Chúa: 2Sb 36,14-16.19-23;  Ep 2,4-10;  Ga 3,14-21

——-

Mục lục

  1.  Đấng giải thoát.  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  2. Lời Chân Thật(Lm Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc)
  3. Thiên Chúa Yêu Chúng Ta Như Chính Con Một Ngài(Lm. Ngọc Dũng, SDB)
  4. Hòa Giải Với Thiên Chúa(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)
  5. Tiến về ánh sáng cứu độ  (Jorathe Nắng Tím)
  6. Chuộng bóng tối hơn ánh sáng  (Lm. Thái Nguyên)
  7. Mùa Chay hành trình trở về  (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
  8. Muốn và được    (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  9. Tin vào Thiên Chúa tình yêu  (Bông Hồng Nhỏ,  MTG.Thủ Đức)
  10. Nhìn lên Thập giá  (Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
  11. Thập giá, tột đỉnh tình yêu  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
  12. Ánh sáng, bóng tối  (Lm. Vũ Đình Tường)
  13. Thiên Chúa luôn tha thứ  (Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương)
  14. Tin Đấng bị treo  (Trầm Thiên Thu)
  15. Món quà tuyệt vời (Thiên San, MTG.Thủ Đức)
  16. Tình yêu và giá chuộc  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
  17. Niềm tin và hành động (Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa)
  18. Thiên Chúa yêu thế gian  (Lm. Giuse Nguyễn)
  19. Thập giá yêu thương, Thập giá cứu độ (Lm. Antôn Phạm Trọng Quang, SVD)
  20. Khắc sâu tâm niệm này  (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

 

Mục lục (2018)

1. Đấng giải phóng  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Nhìn lên ánh sáng  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Chúa Giêsu là mạch sống của người Kitô hữu (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

4. Lời xin lỗi  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5. Mừng vui và bước tiếp  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

6. Tình yêu Thiên Chúa vô biên  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

7. Ngước nhìn Thánh giá  (Bông Hồng Nhỏ, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

8. Chúa là ánh sáng thật  (Anna Cỏ May, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

9. Thập giá  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

10. Suy niệm Chúa Nhật 4 Mùa Chay_B  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

11. Suy niệm Chúa Nhật 4 Mùa Chay_B. (Lm. Giuse Nguyễn Tất Quý)

12. Đến cùng ánh sáng (JM. Lam Thy, ĐVD)

13. Ân sủng và lòng tin (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)

14. Ai tin vào Người thì được sống muôn đời (Fx. Đỗ Công Minh)

15. Ánh sáng thật  (Lm. Bar. Lê An Phong, SDB)

16. Sự điên rồ của tình yêu (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

17. Giương cao con rắn (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

18. Tại sao “Nhìn Lên” có khả năng chữa lành? (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

19. Nốt tình  (Trầm Thiên Thu)

20. Thánh giá, tình yêu cứu độ (Lm. Phêrô Trương Minh Thái)

21. Lòng Chúa yêu thương tha thứ  (Lm. Đinh Lập Liễm)

22. Thiên Chúa đã yêu trần thế (Lm. Nguyễn Thái)

23. Suy niệm chú giải Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Chay (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

24. Lòng tin và ân sủng (Lm. Trịnh Ngọc Danh)

25. Ánh sáng  (Lm. Vũ Đình Tường)

26. Tin thì được sống  (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)

27. Ai tin vào Người thì được sống muôn đời.  (P. Trần Đình Phan Tiến)

28. Chúa sửa phạt những người Chúa yêu (Lm. Trần Bình Trọng)

29. Chuyện thưởng phạt (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

30. Hãy nhìn lên (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

31. Suy niệm Chúa Nhật 4 Mùa Chay. Năm B. (Lm. Anthony Trung Thành)

32. Thiên Chúa thương xót chúng ta là kẻ tội lỗi  (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)

33. Ai tin vào Chúa Con sẽ được sống muôn đời (Lm. Đan Vinh)

34. Suy niệm Chúa Nhật 4 Mùa Chay. Năm B (Lm. Antôn)

 

ĐẤNG GIẢI THOÁT.

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Sống ở đời, chúng ta bị ràng buộc tư bề. Con người bị ràng buộc do lối sống ích kỷ, do những thành kiến mặc cảm, và cũng có thể do những tham vọng đam mê và nhất là do tội lỗi. Vì những ràng buộc này, con người trở thành nô lệ của chính mình, và họ luôn giãy giụa tìm cách để thoát ra khỏi vòng nô lệ ấy. Phụng vụ Chúa nhật IV Mùa Chay muốn khẳng định với chúng ta: Thiên Chúa là Đấng giải phóng và làm cho con người được tự do.

Dân Do Thái đang chán nản đau buồn trong cảnh lưu đày ở Babylon. Họ phải sống trong cảnh tủi nhục nơi đất khách. Không còn đền thờ, chẳng còn tư tế, vắng bóng các sinh hoạt truyền thống và các nghi thức tế tự. Lòng người Do Thái quặn đau nơi lưu đày. Họ không thể gượng vui mà hát xướng trước thái độ ngạo mạn của người bản địa. Những người đạo đức luôn hoài niệm về quá khứ. Họ hướng về Giêrusalem với đôi mắt đẫm lệ. Trong bối cảnh ấy, Chúa dùng vua Cyrus, vua Ba Tư, cứu dân khỏi ách lưu đày và quyết định cho họ trở về quê cha đất tổ. Khỏi phải nói, niềm vui của dân lưu đày vỡ oà. Họ nhận ra Cyrus là vị cứu tinh. Họ coi ông là người của Thiên Chúa đến để giải phóng dân riêng của Ngài và đưa về bến bờ tự do.

Nếu Thiên Chúa đã dùng ông Cyrus để cứu dân tộc Do Thái khỏi ách lưu đày ở Babylon, thì qua Đức Giêsu, Thiên Chúa muốn cứu độ cả thế gian, mọi nơi, mọi thời. Ngài không cứu thế gian khỏi ách nô lệ của một chế độ, nhưng là ách nô lệ của tội lỗi, của quyền lực tối tăm. Bài Tin Mừng ghi lại cuộc đàm đạo vào ban đêm giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô. Ông này là thành viên Công nghị Do Thái, tạm coi như thành viên của quốc hội. Ông cảm phục giáo huấn của Chúa Giêsu, nhưng còn nhiều điều băn khoăn nên đến gặp Người để khai thông trí tuệ. Chúa Giêsu đã nói với ông về tình thương của Thiên Chúa Cha. Tình thương ấy được chứng minh qua Ngôi Lời nhập thể, chính là người đang đàm đạo với ông về những thực tại thiêng liêng. Đức Giêsu cũng khẳng định với ông Nicôđêmô: Thiên Chúa sai con của Ngài đến để giải phóng nhân loại. Ai tin vào Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời. Những ai tin vào Chúa Giêsu sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi và quyền lực tối tăm. Tình thương của Thiên Chúa được chứng minh qua mầu nhiệm thập giá. Đức Giêsu đã nhắc tới con rắn đồng được treo trong sa mạc thời ông Môisen (x. Dân số 21,3-9) như hình ảnh báo trước cây thập giá. Đương nhiên, Tin Mừng được viết sau biến cố thập giá và phục sinh, nên tác giả muốn diễn tả qua hình ảnh con rắn đồng cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Cũng như con rắn mang lại sức chữa lành cho dân Do Thái – những người bị rắn cắn – cái chết của Chúa Giêsu và sự phục sinh của Người cũng chữa lành những vết thương của con người do tội lỗi gây ra.

Chúa Giêsu khẳng định: một trong những điều kiện căn bản để được cứu độ hay được ơn giải thoát, đó là Đức tin vào quyền năng Thiên Chúa. Tin là tự do chọn lựa Chúa và dấn thân sống hết mình vì chọn lựa đó. Nếu bạn tin vào Chúa, bạn sẽ tìm được sự sống, sẽ được cứu độ trong ngày xét xử, sẽ được ánh sáng chiếu soi. Một khi tin vào Chúa thì những hành động của bạn sẽ là những việc thiện lương. Bởi lẽ bạn không thể tin vào Chúa mà lại có một lối sống ngược lại với điều bạn tuyên xưng.

Một cách cụ thể, tin vào Chúa là tin vào Đức Giêsu Kitô. Tin vào Chúa không chỉ có nghĩa là tin Ngài đang hiện diện, mà còn là thiện chí thực hiện những điều Chúa Giêsu dạy. “Ai khước từ Thày là khước từ Đấng đã sai Thày”(Lc 10-16). Đức Tin giải thoát chúng ta khỏi sự chết và đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu. Đón nhận và thực hiện lời Chúa Giêsu là tuyên xưng Đức Tin vào Thiên Chúa cách hữu hiệu nhất. Nhờ việc tuân giữ giáo huấn của Người, chúng ta trở nên những tác phẩm của Thiên Chúa, được canh tân trong Chúa Giêsu, nên con người hoàn thiện, và như thế, chúng ta làm cho ánh vinh quang của Ngài tỏa rạng qua cuộc đời của chúng ta (x. Bài đọc II).

Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu vào ban đêm đã làm cho ông Nicôđêmô thay đổi cuộc đời. Từ một người còn nghi ngờ, dè dặt, ông đã trở nên môn đệ của Chúa. Ông không còn sợ hãi nữa, trái lại, ông đã công khai biện hộ cho Chúa Giêsu nơi những người biệt phái (x. Ga7,51) và đã cộng tác trong việc an táng Chúa Giêsu (x. Ga 19,39). Một điều đáng chú ý là khi Chúa chịu chết đau thương trên thập giá, cũng chính là lúc ông Nicôđêmô sẵn sàng từ bỏ công danh sự nghiệp để công khai nhận mình là môn đệ của Chúa Giêsu. Thông thường ở đời, người ta đi theo và tôn vinh một người chiến thắng, không mấy ai chấp nhận đi theo một người bị lên án tử hình, như trường hợp ông Nicôđêmô.

Mùa Chay là thời điểm sống Đức tin một cách mãnh liệt hơn. Phụng vụ khẳng định: nếu thành tâm tin vào Chúa, chúng ta sẽ tìm được niềm vui ở đời này và hạnh phúc vĩnh cửu. Chúng ta lựa chọn đứng về phía ánh sáng hay bóng tối? Chúng ta đang làm việc thiện hay việc ác? Chúng ta đang bảo vệ sự sống hay cổ võ sự chết? Tất cả những vấn nạn này cần được trả lời bằng cuộc sống cụ thể của mỗi người.

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Hãy nhìn lên cây thập giá để tôn vinh Chúa là Đấng giải phóng, để biết Chúa yêu chúng ta đến dường nào. Từ cây thập giá, chúng ta học được những bài học cần thiết trong mối tương quan với Chúa và cách ứng xử với anh chị em.

Về mục lục

LỜI CHÂN THẬT

Lm Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc

Mơ ước thành công, hạnh phúc, hoàn toàn chính đáng với con người qua các thời đại. Thích nghe những lời hay ý đẹp, hiểu mình, hiểu bạn, giúp nhau trải nghiệm và sống như thế nào để đạt tới cùng đích đời người ? Đâu nhất thiết phải tài giỏi, bằng cấp cao, mới lưu danh hậu thế, mới có thể chu toàn trọng trách bổn phận với gia đình xã hội. Điều mà người quân tử ngày đêm suy tư trằn trọc là “đức hạnh”, điều mà kẻ tiểu nhân lo nghĩ chính là bổng lộc, lợi ích. (Khổng Tử). Ông Nicôđêmô là thành viên của hội đồng Do-thái, là một biệt phái uy tín trong dân, ông đến gặp Đức Giêsu hẳn không phải vì uy quyền hay bổng lộc, mà là muốn được nghe, được hiểu về những điều sâu thẳm nơi tâm hồn. Đức Giêsu nhắc lại việc “nhìn lên con rắn đồng” để được sống, và tin vào Đấng chịu treo trên thập giá để được sống đời đời là do tình yêu thương của Thiên Chúa.

Cha ông chúng ta nói: chân thành và sự thật là cơ sở của mọi đức tính. Ông Nicôđêmô đến gặp Đức Giêsu ban đêm có phải đã là cởi mở, chân thành, dù tình yêu và niềm tin, ngày một ngày hai không thể hiểu ! Con rắn đồng liên quan đến chuyện sống chết ở quá khứ: cứ nhìn lên là sống, ai không nhìn lên là chết. Đức Giêsu nói ở hiện tại và tương lai, không phải chỉ là nhìn lên, mà ai cũng phải tin vào Đấng chịu treo mình trên đó mới được cứu. Gặp, đối thoại để hiểu, nhìn và tin để có sự sống đời đời, rất cần đến thời gian để tình yêu thấm nhuần. Yêu đâu phải là một tiếng, hai tiếng, ở bên nhau, mà đôi bên cần phải được chứng minh bằng thời gian. Cuộc trao đổi về “sinh lại bởi nước và Thần khí” không phải do kinh nghiệm hay bởi công thức có sẵn, nhưng từ việc tin và yêu. Thiên Chúa yêu thế gian được cụ thể bằng việc ban Con Một đến, để nhận lãnh niềm vui ơn cứu độ, tất cả đều phải tin và sống niềm tin đó.

Tiếp nối truyền thống tin yêu của cha ông, ai cũng có cơ hội gặp gỡ đối thoại, dù thao thức hạnh phúc luôn có sẵn trong mỗi người, bóng tối và ánh sáng vẫn đan xen với nhau. Người tốt kẻ xấu, lời hay ý đẹp, công việc làm ăn mờ ám, niềm vui bình an, đau khổ hạnh phúc, sống và chết, vẫn luôn chi phối con người, dù chúng ta có cơ hội để tin Đức Giêsu, Đấng đã đến ! Kinh nghiệm ở đời cho rằng: hạnh phúc đơn giản, bình dị, không cần những lời bay bổng có cánh như trong tiểu thuyết, văn thơ … Lời chân thành, việc làm rõ ràng, phản ánh vẻ đẹp của tình yêu và phong cách sống thật, vui thật, bởi chân lý không thay đổi, hạnh phúc luôn mời gọi. Lời chân thành, việc làm có tính thuyết phục, chưa chắc đã mang lại cho ta nhiều bạn bè, tuy nhiên, thành thật luôn mang đến cho ta những tình bạn đúng nghĩa.

Ông Nicôđêmô một biệt phái tìm đến Đức Giêsu, đáng được coi là chân thành, dù ông được xem là môn đệ trong “bóng tối”, vấn đề không phải là gặp, là nhìn, là nghe, quan trọng tâm hồn bình an, hạnh phúc. Người xưa nói rằng: bạn sẽ có tất cả khi niềm tin đã chín mùi, chỉ không phải tất cả sẽ đến cùng một lúc. Ông Nicôđêmô là vị thầy uy tín trong Do-thái, nhưng phải chăng ông vẫn thao thức có được một điều cao quý hơn nữa nơi Thầy Giêsu ? Người kitô hữu chúng ta cho rằng niềm tin và tình yêu ai cũng được ban tặng, còn việc thích ánh sáng và sợ bóng tối, tuỳ thuộc tự do mỗi người đang sử dụng ơn ban đức tin đó thế nào ? Dù suy nghĩ nông hay sâu, chúng ta vẫn hiểu bóng tối dẫn đến đau khổ sự chết, ánh sáng biểu lộ niềm vui và sự sống thật, hạnh phúc thật. Ông Nicôđêmô tìm gặp Đức Giêsu trong tư cách là “thọ giáo” khác với tư cách là thủ lãnh, trong khi Đức Giêsu nói lời chân thật với ông trong sứ vụ Con Thiên Chúa.

Đức Giêsu rất chân thành khi nói: “ai hành động xấu thì ghét ánh sáng, ai hành động trong sự thật thì đến cùng ánh sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa”. Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và chúng ta sẽ ý nghĩa biết bao, nếu mỗi người đủ khiêm tốn lắng nghe, để hiểu, để tin, để sống thật với tình yêu mà Chúa Cha đã ban tặng nơi Đức Giêsu Kitô. Có hai bạn trẻ tranh luận với nhau, một bạn nói rằng: tận cùng của tình yêu phải là hôn nhân. Bạn kia thì nói trong hôn nhân thì tận cùng phải là hạnh phúc đến lúc đầu bạc răng long. Họ đã tìm một cụ già uy tín để xin một đáp án. Cụ già đã trả lời hai bạn, chúng con hãy nhìn lên cây thập giá, suy gẫm, cầu nguyện, hẳn chúng con sẽ hiểu tận cùng của tình yêu là gì ?

Hạnh phúc mà người đời quan niệm: đủ ăn đủ mặc, đủ bình an, tình yêu, được như vậy là ổn ! Quả thực, nếu hạnh phúc chỉ cần được dồi dào vài thứ: đủ, được, giầu sang phú quý, địa vị danh vọng, vợ đẹp con ngoan, cả ông Nicôđêmô và nhiều người trong chúng ta đã đạt tới rồi. Đức Giêsu qua ông Nicôđêmô, Ngài vẫn gián tiếp mời gọi hãy nhìn lên cây thập giá, hãy tin, hãy cậy trông, hãy sống để minh chứng thứ hạnh phúc thật mà chúng ta khao khát chỉ có nơi Đấng đã đến thế gian, đã thắng thế gian. Lời nói chân thành, việc làm chân thành, tin Đức Giêsu là Thầy là Chúa, hẳn còn phải sống niềm tin Đức Giêsu Đấng cứu độ trần gian, dù khổ đau thập giá luôn là cám dỗ đáng sợ. Xin Đấng chịu treo trên thập giá, phù giúp chúng con biết tín thác vào tình yêu của Chúa, sống trọn vẹn hành trình làm con Chúa.

Về mục lục

THIÊN CHÚA YÊU CHÚNG TA NHƯ CHÍNH CON MỘT NGÀI

Lm. Ngọc Dũng, SDB

Tác giả sách Sử Biên Niên trong bài đọc 1 hôm nay kể cho chúng ta nghe về “lịch sử cứu độ” mà Thiên Chúa đã thực hiện để cứu dân Israel. Lịch sử này được viết lên với kiểu mẫu như sau: Con cái Israel lỗi phạm đến Đức Chúa – Đức Chúa giáng phạt con cái Israel – con cái Israel sám hối – Đức Chúa xót thương tha thứ. Thật vậy, bài đọc 1 đã thuật lại cho chúng ta thấy con cái Israel đã làm cho nhà Đức Chúa trở nên ô uế: “Khi ấy, tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giêrusalem ra ô uế” (2 Sb 36:14). Dù dân Israel bất trung với Đức Chúa, Ngài vẫn không bỏ rơi họ. Ngài vẫn tiếp tục sai các sứ giả đến kêu gọi họ trở về với Ngài, “vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người” (2 Sb 36:15). Nhưng con cái Israel đã “khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa” (2 Bs 36:16). Con cái Israel đã bị lưu đày qua Babylon cho đến khi lời các Tiên Tri được ứng nghiệm (x. 2 Bs 36:22). Đức Chúa đã dùng một vị vua của “dân ngoại” để đưa con cái Israel trở về với quê cha đất tổ và tái thiết lại ngôi nhà của Đức Chúa. Nhìn vào lịch sử này, chúng ta thấy Đức Chúa luôn trung thành với lời hứa của Ngài dù cho dân Israel không trung thành với lời hứa của mình. Lịch sử này phản ánh lịch sử cuộc đời mỗi người chúng ta. Nhiều lần chúng ta cũng bất trung với Đức Chúa, đã lỗi phạm đến Ngài, nhưng Đức Chúa vẫn yêu thương và chờ đợi chúng ta quay về với Ngài. Ngài vẫn đồng hành với chúng ta, nhất là trong những nỗi truân chuyên của cuộc sống. Chúng ta có sẵn sàng phó thác đường đời để được Chúa hướng dẫn và chăm sóc không?

Trong bài đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô trình bày cho các tín hữu Êphêsô về những điều Chúa Giêsu đã mang lại cho những người tin vào Ngài. Thánh nhân bắt đầu với việc vẽ lên bức tranh tương phản con người bẩm sinh và con người được Chúa Kitô cứu độ. Những người sống theo bẩm sinh là những người sống “theo trào lưu của thế gian này, theo tên thủ lãnh nắm giữ quyền lực trên không trung, tên ác thần hiện đang hoạt động trên những kẻ không vâng phục” (Ep 2:1-2). Không những thế, những người sống theo bẩm sinh là những người “buông theo các đam mê của tính xác thịt, thi hành những ước muốn của tính xác thịt và của trí khôn. Bẩm sinh chúng tôi là những kẻ đáng chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, như những người khác” (Ep 2:3). Còn những người được Chúa Giêsu cứu độ là những người “được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep 2:6). Tuy nhiên, Thánh Phaolô khuyến cáo rằng việc chúng ta được cứu độ không phải là do công trạng của chúng ta, nhưng là ân huệ của Thiên Chúa, nên chúng ta không có gì để tự phụ (x. Ep 2:8-9). Chính ân huệ của Thiên Chúa đã biến chúng ta thành những “tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2:10). Những lời này giúp chúng ta nhận ra giá trị cao quý của mình. Chúng ta là những tuyệt phẩm của Thiên Chúa. Chúng ta sống là để thực hiện công trình tốt đẹp mà Ngài đã chuẩn bị cho chúng ta, đó là được chia sẻ trong tình yêu và sự sống của Ngài. Thật vậy, mục đích tối hậu của đời người là được chia sẻ trong tình yêu và sự sống của Thiên Chúa. Để đạt được điều này, chúng ta phải tránh đi lối sống “bẩm sinh” của mình và hoàn toàn sống trong sự sống mới mà Đức Kitô đã mang lại cho chúng ta.

Trình thuật Tin Mừng hôm nay được trích trong cuộc đối thoại của Chúa Giêsu với Nicôdđêmô (Ga 3: 14-15) ám chỉ việc sinh ra bởi Thần Khí chỉ được mạc khải khi Ngài được giương cao trên thập giá: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” Trong ba phần từ lời giải thích của Chúa Giêsu, điều đáng để chúng ta suy gẫm đó là lời khẳng định của Ngài: rằng chỉ nơi Ngài chúng ta mới tìm được những “kiến thức cần thiết về Thiên Đàng.” Ai trong chúng ta cũng muốn lên Thiên Đàng và chúng ta loay hoay tìm đủ mọi cách để đạt đến điều đó. Nhưng nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta lại đi tìm không đúng chỗ. Chúng ta đi tìm trong sách vở để có được những tư tưởng vĩ đại về Thiên Đàng. Nhưng rồi khi trở về với thực tế của cuộc sống, thay vì sống với nhau và làm chứng cho nhau về Thiên Đàng qua đời sống yêu thương và tha thứ, chúng ta làm tổn thương nhau qua những lời ăn tiếng nói và cử chỉ không phải “của Thiên Đàng,” không phải của những người sinh ra bởi Thần Khí, mà là của những người sinh ra bởi thân xác. Để biết được Thiên Đàng là gì, hãy đến với Chúa Giêsu. Những ai có Chúa Giêsu trong đời sẽ cảm nếm được Thiên Đàng là gì và có khả năng biến nơi mình sống trở nên Thiên Đàng cho người khác nếm cảm. Một gia đình hay một cộng đoàn tu trì chỉ trở nên Thiên Đàng khi mỗi thành viên có Chúa trong con tim, và khi có Chúa Giêsu là vị trí trung tâm trong chính gia đình hay cộng đoàn của mình.

Thánh Gioan trình bày cách rõ ràng cho chúng ta mục đích Chúa Cha sai Con Một đến trong thế gian trong bài Tin Mừng hôm nay. Thánh sử đã đưa vào trong cuộc đối thoại của Chúa Giêsu với Nicôđêmô câu chuyện nói về việc Chúa Cha sai Con Một đến để mang sự sống cho thế gian. Chúng ta không thể không cảm thấy hạnh phúc và an ủi khi nghe những lời đầy yêu thương này: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Động lực để Thiên Chúa sai Con Một của Ngài là vì yêu chúng ta. Tự bản chất, Thiên Chúa là tình yêu, nên tất cả những gì Ngài làm cũng đều phát xuất từ tình yêu. Những gì phát xuất từ tình yêu luôn mang lại niềm vui và sự sống. Tình yêu luôn vượt qua sự chết và đau khổ. Nhìn từ khía cạnh này chúng ta hiểu được phần nào ý nghĩa của những lời trên. Tuy nhiên, để được sự sống muôn đời, chúng ta cần phải tin vào Con Một Thiên Chúa, là ‘sự nhập thể của tình yêu Thiên Chúa’ cho con người có thể đụng chạm đến và cảm nghiệm cách cụ thể qua đời sống thường ngày.

Đề tài đức tin trở nên tâm điểm của bài Tin Mừng: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:17-18). Đức tin sẽ là tiêu chuẩn để phân biệt người bị lên án hoặc không bị lên án. Ở đây, chúng ta thấy một câu khẳng định mang tính Kitô học, đó là ơn cứu độ chỉ có được nơi Đức Kitô. Chính niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng yêu thế gian đến nỗi ban con một của mình là điều mang lại cho chúng ta sự an ủi và cũng là một thách đố cho chúng ta. An ủi vì chúng ta biết Thiên Chúa luôn yêu chúng ta và mọi sự Ngài làm cho chúng ta xuất phát từ tình yêu vô bờ bến của Ngài; thách đố vì chúng ta được mời gọi sống xứng đáng với tình yêu đó để không phải bị lên án. Thông thường, chúng ta nghĩ rằng đức tin là một cái gì đó rất trừu tượng. Thật ra, đức tin là ‘sự gặp gỡ cá vị giữa tôi với Chúa.’ Chính trong cuộc gặp gỡ cá vị này mà chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa, cũng như qua đó chúng ta diễn tả tình yêu của mình dành cho Ngài. Tóm lại, chính việc gặp gỡ Chúa Giêsu mỗi ngày sẽ giúp chúng ta hiểu được tình yêu của Thiên Chúa.

Bài Tin Mừng kết thúc với hình ảnh quen thuộc trong Tin Mừng, đó là sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3:19-21). Như chúng ta biết, ánh sáng là một trong những biểu tượng quan trọng trong đêm vọng phục sinh và trong mùa phục sinh. Ánh sáng từ cây nến phục sinh, từ chính Chúa Giêsu phục sinh soi chiếu cho ta “biết bao điều cảm mến sướng vui.” Chính trong ánh sáng của Chúa Giêsu phục sinh mà chúng ta có thể phân biệt được bóng tối của sự chết, của con người cũ đang còn lại trong chúng ta. Thánh Gioan chỉ rõ cho chúng ta thấy ai là người sống trong ánh sáng phục sinh, đó là những người mà việc làm của họ không bị chê trách. Họ là những người luôn sống theo sự thật, nơi họ không có một dấu tích gì của Satan, cha của những kẻ gian dối. Là những người đang sống trong ánh sáng phục sinh của Chúa Giêsu, chúng ta hãy thực hiện tất cả mọi việc của mình trong Thiên Chúa, tức là trong tình yêu.

Về mục lục

HÒA GIẢI VỚI THIÊN CHÚA

 Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần 4 Mùa Chay, năm B này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã sai Con Một giáng trần để thực hiện công trình kỳ diệu là cho loài người được hòa giải với Chúa. Xin Chúa ban cho toàn thể Dân Chúa khắp hoàn cầu được lòng tin sống động mà hăm hở đón mừng lễ Vượt Qua sắp tới.

Con người được hòa giải với Thiên Chúa qua trung gian các tư tế. Các tư tế cầu thay nguyện giúp cho Dân Chúa và chuyển phúc lành của Thiên Chúa đến cho Dân của Người. Trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Lêvi tường thuật lại nghi thức tấn phong các tư tế trong Cựu Ước, đồng thời cho ta thấy vai trò quan trọng của cơ cấu này trong lịch sử Dân Chúa. Tư tế không chỉ là người dâng hy lễ, nhưng trên hết, tư tế là người giữ kho tàng hiểu biết về Thiên Chúa, là tôn sư dạy người ta giữ Giao Ước. Trong dòng tộc Lêvi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, bởi vì họ phải chết, không thể giữ chức vụ đó mãi. Còn Đức Giêsu, chính vì Người hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi.

Con người được hòa giải với Thiên Chúa qua cái chết của Đức Kitô. Trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh đã nói: Đức Kitô đã chết để giải thoát chúng ta khỏi cái chết. Thiên Chúa đã sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án chúng ta, nhưng để chúng ta nhờ Con của Người mà được cứu độ. Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy. Ta hãy hướng nhìn lên Chúa Giêsu, Đấng đã chịu khổ hình thập giá.

 Con người được hòa giải với Thiên Chúa, bởi vì, Thiên Chúa giàu lòng xót thương, Người giận trong giây lát, nhưng yêu thương suốt cả đời. Trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Sử Biên Niên quyển thứ hai cho thấy: Thiên Chúa đã dùng vua Kyrô để giải cứu Dân của Người và cho tái thiết Đền Thờ Giêrusalem. Do đó, trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 136, vịnh gia đã kêu gọi: Dù cho có bị đày ải, cực khổ thế nào, thì hãy cứ cậy trông vào Chúa, đừng lãng quên Giêrusalem, đừng lãng quên Lòng Thương Xót của Chúa: Giêrusalem hỡi, lòng này nếu quên ngươi, lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm. Bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Xion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn.

Con người được hòa giải với Thiên Chúa, bởi vì, Thiên Chúa đi bước trước đến hòa giải với con người, tuy nhiên, con người phải tin vào Đấng mà Chúa Cha sai đến. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã nói với ông Nicôđêmô rằng: Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.

Con người được hòa giải với Thiên Chúa, bởi vì, Thiên Chúa luôn đi bước trước đến với con người, Người không tiếc gì với con người, ngay cả, ban Con Một cho con người, như câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì được sống muôn đời. Thiên Chúa: Người tình vĩ đại nhất; yêu: hành động vĩ đại nhất; thế gian: con số vĩ đại nhất; đến nỗi: mức độ vĩ đại nhất; đã ban: sự trao hiến vĩ đại nhất; Con Một: quà tặng vĩ đại nhất; để: mục đích vĩ đại nhất; ai: người yêu vĩ đại nhất; tin vào: sự tín thác vĩ đại nhất; Con của Người: Ngôi Vị vĩ đại nhất; thì khỏi phải chết: sự giải thoát vĩ đại nhất; nhưng: sự khác biệt vĩ đại nhất; được: sự đảm bảo vĩ đại nhất; sống muôn đời: gia nghiệp vĩ đại nhất. Ước gì chúng ta luôn biết quảng đại đáp lại tình yêu vĩ đại của Chúa dành cho chúng ta. Ước gì được như thế!

Về mục lục

TIẾN VỀ ÁNH SÁNG CỨU ĐỘ

Jorathe Nắng Tím 

Muà Chay không là mùa tang thương, thất vọng nhưng là mùa của Yêu Thương, Hy Vọng, muà Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu, bao dung, và tội nhân được nhìn thấy và tiến về ánh sáng  cứu độ.

Bài đọc thứ nhất ghi lai bối cảnh lịch sử của Ítraen vào năm 586 trước công nguyên, thời điểm Đền Thờ Giêrusalem bị tàn phá bởi quân đội Babylon với cảnh tượng thật đau thương, kinh hoàng: Vua Canđê tiến đánh Ítraen ; “vua này dùng gươm giết các thanh niên ngay trong Thánh Điện của họ, chẳng chút xót thương, bất kể thanh niên thiếu nữ, kẻ đầu xanh cũng như người tóc bạc… Quân Canđê đốt nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giêrusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá hủy mọi đồ đạc qúy giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon ; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị” (2 Sb 36,17.19 -20). Và suốt 70 năm bị lưu đầy trên đất Babylon, người dân Ítraen đã không một ngày nguôi ngoai nỗi đau mất nước, nỗi nhớ quê hương, nỗi tủi nhục không còn Đền Thánh, nỗi khổ làm thân nô lệ, nên thường rủ nhau ra bờ sông Babylon nức nở khóc tưởng nhớ Xion (x. Tv 136).

Trong nước mắt ngậm ngùi trên đất Babylon những năm tháng dài nô lệ, Ítraen vẫn được các ngôn sứ của Thiên Chúa nhắc bảo : “Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ hằng thương xót dân và thánh điện của Người” (2Sb 36,15). Và này, Thiên Chúa đã dùng tay Kyrô, vua Ba Tư cất gánh nô lệ, và trả tự do cho dân, đồng thời cho họ được trở về quê hương, xây dựng lại Đền Thờ, như chính lời vua phán : “Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giêrusalem tại Giuđa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân Người, thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy tiến lên…!” (2Sb 36,23).

Ai có thể tả được niềm vui của một dân tộc từ bẩy mươi năm nay phải sống trong cảnh tang thương vì mất nước, trong sầu muộn vì phần lớn đã bị tiêu diệt, trong vất vả, nhục nhằn vì những ai sống sót phải biệt xứ làm nô lệ bỗng dưng  được trả tự do, được hồi hương, và xây dựng lại đất nước? Ai hiểu được nỗi sung sướng của những người ở tận cùng bất hạnh bỗng nhiên được Thiên Chúa xót thương, ban lại hạnh phúc đã mất?

Thực vậy, những gì Thiên Chúa đã thực hiện với dân Ngài trong Cựu Ước, Ngài cũng làm như vậy với mọi dân tộc trong Tân Ước. Nếu vì lòng thương xót, Thiên Chúa Giavê đã cứu dân Ngài khỏi những năm tháng dài nô lệ ở Babylon, thì Thiên Chúa của Đức Giêsu, Đấng “giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta”, cũng cứu chúng ta khỏi chết vì sa ngã và “cho chúng ta được sống với Đức Kitô” (Ep 2,4.5). Đây chính là niềm vui ơn cứu độ mà chúng ta được đón nhận trong Đức Giêsu, niềm vui mà không mấy khi chúng ta thấy được tầm vĩ đại, lớn lao, và giá trị vô cùng cao qúy ; niềm vui mà rất ít người cảm được sự dịu ngọt vô tận, không gì so sánh được, vì không nhận ra gánh tội rất nặng nề đáng ghê tởm và kinh sợ đè trên đời mình. Cũng như dân Ítraen năm xưa, nếu đã không phải sống bẩy thập niên nô lệ dài đẵng đẵng trên đất người, phải chịu cảnh áp bức, đầy đọa của dân mất nước, không còn quê hương, thì chưa chắc họ đã cảm nhận niềm vui được cứu thoát, hạnh phúc được về lại quê cha đất tổ, và xây dựng lại Đền Thờ.

Đó là lý do Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng tiến về gặp gỡ Đức Giêsu là  niềm vui của tội nhân được tha bổng, của phạm nhân được trắng án, khoan hồng, của người con yếu đuối, hoang đàng được tình Cha thương xót, bao dung, khi sống niềm hy vọng của  Mùa Chay, bằng đi tìm và tiến về ánh sáng cứu độ là Đức Giêsu, như ông Nicôđêmô, để được biết mình đang hạnh phúc bơi lội trong đại dương ơn cứu độ, khi nghe từ chính miệng của Ngôi Lời : “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Qủa vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3,16-17).

Vâng, ánh sáng cứu độ phải là ngọn hải đăng cho hành trình đức tin của mỗi người, bởi không thiếu những lúc lòng ta tan nát, thất vong như tâm hồn sầu muộn  của kẻ lưu đầy “bên bờ sông nức nở khóc, trên cành dương liễu treo cây đàn, đến cả bài ca kính Chúa, cũng không sao hát nổi” (x. Tv 136,1.2.4).

Về mục lục

CHUỘNG BÓNG TỐI HƠN ÁNH SÁNG

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Ánh sáng và bóng tối của trời đất là điều mà ta chứng kiến mỗi ngày, và phân biệt dễ dàng. Thế nhưng ánh sáng và bóng tối trong tâm hồn ta thì quả là phức tạp. Ta thường mệt mỏi khi phải đối diện với những xung đột bên trong, với những giằng co của ánh sáng và bóng tối. Trong tâm hồn ta có những lúc đầy ánh sáng, là niềm vui, hạnh phúc, những ước mơ đơn sơ ngay lành, nhưng vẫn có những lúc và những vùng đầy bóng tối: bóng tối của buồn sầu chán nản, của ích kỷ tự mãn, của những mưu mô, ghen ghét, hận thù, của cả những thói quen xấu, khiến ta cứ kéo lê cuộc đời mình vì không đủ can đảm để dứt bỏ.

Ánh sáng và bóng tối gần với ta như thế, nên ta có thể để cho mình chan hòa ánh sáng, nhưng cũng có thể vùi mình trong bóng tối. Đức Giêsu trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô đã cho thấy: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng”.

Nói đến chuộng bóng tối có vẻ khó nghe, nhưng lắm lúc lại đúng với lòng mình. Có những lúc ta thấy mình cần chút bóng tối để nương náu, nhất là những lúc thất bại ê chề, những lúc hổ ngươi bẽ mặt, những lúc sai lầm lỗi phạm… Dường như bóng tối che chở ta và cho ta cảm giác an toàn. Ta thấy dễ chịu hơn khi bước đi trong bóng tối. Có những lúc bóng tối là môi trường thuận lợi để ta tự do làm điều mình muốn, sống điều mình thích. Điều nguy cơ là ta dễ bị nghiện bóng tối. Sống càng lâu trong bóng tối, ta càng ngại bước ra ánh sáng. Ánh sáng khiến ta có cảm giác bị phơi trần, bị dò xét, bị phân xử.

Đức Giêsu giải thích việc người ta chuộng bóng tối là vì các việc họ làm đều xấu xa. Thật thế, ánh sáng bắt ta phải đối diện với sự thật, mà sự thật nhiều khi rất cay đắng và chua chát. Ánh sáng chất vấn ta và đòi ta phải đặt lại nhiều vấn đề trong đời mình. Ánh sáng làm bại lộ những điều ta muốn giữ kín, thấy mình mất an toàn, bị đe dọa. Nhưng vẫn có một sự thật hiển nhiên mà ta không muốn nghĩ tới: đó là không phải không có đe dọa trong bóng tối, nhưng là vì trong bóng tối, ta không thấy mình bị đe dọa. Hãy nhớ rằng, dù có bước đi với cảm giác an toàn trong bóng tối, ta vẫn là một nạn nhân bị chộp giữ. Ta tưởng mình được tự do, nhưng thực ra là đang tránh né và cuộn tròn mình lại. Ta tưởng mình được bình an, nhưng thực sự đang bất an. Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối luôn là cuộc chiến không khoan nhượng, hoặc là ta thuộc về ánh sáng, hoặc là ta sẽ bị bóng tối kiềm giữ.

Cuộc sống mỗi người không tránh được những nhập nhằng giữa ánh sáng và bóng tối. Nhưng phúc cho ai quay về với ánh sáng: “Quay đầu là bờ”, hay “Quay đầu trở lại, là trăm năm cơ đồ”. Chỉ có một cách ra khỏi bóng tối, đó là trở lại với ánh sáng, bằng cách ngước nhìn lên con rắn đồng như dân Israel xưa. Con rắn đồng là hình ảnh tiền trưng cho Đức Kitô, Đấng cứu độ. Nếu con rắn đồng nói lên lòng tha thứ của Thiên Chúa, thì Chúa Kitô khi được treo lên cao, chính là lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa đổ tràn xuống trên chúng ta. Chúng ta được cứu độ là nhờ tin tưởng nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên thập giá.

Ước gì mỗi ngày chúng ta biết nhìn lên Thập giá Chúa, để sống cuộc đời của mình vững vàng trong tin yêu và hy vọng, trong an vui và phấn khởi, nhờ đó mà vượt qua những lôi kéo của cám dỗ và sự dữ hằng ngày, với sự quyết tâm làm nên cuộc đời mới trong ánh sáng Đức Kitô đang dọi chiếu trên cuộc đời của chúng ta.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Đời người là một hành trình vượt qua,
vượt qua bóng tối để vươn tới ánh sáng,
là sự sống huy hoàng của Chúa phục sinh.

Nhưng bóng tối vẫn bàn bạc mênh mang,
bóng tối bên trong và bóng tối bên ngoài,
khiến tâm con vẫn u hoài thổn thức.

Lắm khi con chuộng bóng tối hơn ánh sáng,
vì bóng tối cho con cảm giác được an toàn,
nó như che chở và cho con được thanh thản,
nhưng thật sự con đã để mình bị chộp giữ,
có nguy cơ nhiều cạm bẫy đang rình chờ.

Để đón nhận và bước đi trong ánh sáng,
con phải can đảm bước ra khỏi bóng tối,
dù nhức nhối và tội lỗi bị phơi trần,
nhưng an vui trong tinh thần chân thật.

Nhìn lại đời sống con hằng ngày,
vẫn còn chỗ tối tăm chưa được khai sáng;
vẫn còn cảnh mù mờ chưa được khai quang;
vẫn còn ngục thất chưa được khai phóng;
vẫn còn hỗn mang chưa được khai nguyên.

Chúa biết tình trạng không tốt nơi con,
nhưng vẫn tín nhiệm đặt con là ánh sáng,
để soi chiếu vào cảnh tăm tối trần gian,
vì có bao người đang lầm than trong bóng tối.

Xin cho con luôn ngước nhìn lên thánh giá,
là tình yêu ơn cứu độ chan hòa,
luôn thứ tha và làm tinh sáng lại đời con,
để ước muốn của Chúa nơi con được vẹn tròn. Amen.

Về mục lục

MÙA CHAY HÀNH TRÌNH TRỞ VỀ

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Mùa Chay ta luôn được mời gọi trở về với Thiên Chúa tình yêu: “Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta” (Ge 2,12). Trở về với Ta là trở về với vòng tay mở rộng và đôi mắt chờ mong của người Cha nhân lành.

Vì trong hành trình dương thế đã nhiều khi bận bịu với công việc trần thế hay quá đam mê tìm kiếm khoái lạc trần gian để rồi chúng ta đã có lúc nói với Chúa: “Lạy Chúa, con sẽ đến với Chúa sau… Con không thể đến hôm nay, nhưng ngày mai con sẽ bắt đầu cầu nguyện và làm điều gì đó cho tha nhân.” Và cứ thế ngày này qua ngày khác chúng ta đã khất lần khất lượt, nhưng rồi một lúc nào đó, ta mới nhận ra lạc xa tình Chúa là đánh mất đi nguồn trợ lực và thành lũy chở che của Thiên Chúa. Một mình ta chơi vơi trong dòng đời sẽ có lúc ta cảm thấy thất vọng, chán chường vì cuộc đời không như ta mơ và luôn đưa ta đến biết bao đau khổ và bất hạnh. Đó là hình ảnh tan nát cõi lòng của người con hoang đàng đã dùng tiền của, gia sản của cha mà lao vào những đam mê lầm lỗi, rồi tới một ngày thân xác tả tơi, đói khổ và bị bỏ rơi, người con mới hối hận và chỉ mong trở về cùng Cha.

Mùa Chay là một sự hạ mình khiêm tốn để thấy rằng xa rời Thiên Chúa là lạc lối đi vào thế lực của sự dữ. Sự dữ lại quá ranh ma quỷ quyệt còn ta lại quá nhỏ bé như đứa trẻ thiếu hiểu biết sự đời. Chỉ có con đường trở về với Chúa mới an toàn, vì nơi đó Chúa sẽ bảo vệ và chữa lành chúng ta.

Năm xưa trên hành trình về đất hứa Dân Do Thái cũng từng mất lòng tin cậy nơi Chúa và có lúc thờ bò vàng dẫn đến bị tai ương và bị rắn cắn. Họ đã hối hận và xin Chúa lấy tình yêu để cứu chữa họ. Chúa Cha đã truyền cho Mô-sê treo con rắn lên để bất cứ ai bị rắn cắn mà ngước lên trời cao liền được cứu thoát.

Hôm nay, Chúa Giê-su cũng mời gọi chúng ta trên hành trình dương thế nếu đã từng bị những nanh vuốt của ma quỷ và sự dữ cấu xé. Hãy tin tưởng và trông cậy vào lòng thương xót của Chúa. Hãy chìm đắm trong đại dương bao la lòng thương của Chúa để được chữa lành.  Thế nên, nếu có lần nào ta vấp ngã vì yếu đuối hãy nhìn lên Chúa trên thập giá để thấy tình thương bao la của Thiên Chúa. Một tình thương có thể phủ lấp muôn vàn tội lỗi chúng ta.  Nhìn lên thập giá, để thấy bàn tay của Thiên Chúa đang mở rộng để ôm lấy nhân loại chúng ta. Nhìn lên Thập giá để chúng ta thấy Chúa vẫn đang mời chúng ta trở về với Người để khám phá lại niềm vui được yêu thương.

Ở đời ai mà không có những bệnh tật. Bệnh thể xác và tâm hồn. Nhất là những bệnh vềtâm hồn mà chúng ta không thể tự chữa lành được. Đó là  những tội lỗi đâm rễ sâu mà chúng ta không thể tự nhổ bỏ chúng. Đó là những niềm vui bất chính mà chúng ta quá quen hưởng thụ đến nỗi khó quay trở về.

Mùa chay mời gọi chúng ta hãy trở về với Chúa và hãy nhìn lên thập giá Chúa để xin ơn chữa lành. Hãy thưa với Chúa rằng: “Lạy Chúa Giê-su, con đang ở trước mặt Chúa, với tội lỗi của con, với những đau đớn thất vọng vì tội lỗi của con. Chúa là thầy thuốc. Chúa có thể giải thoát con. Xin chữa lành trái tim con. Nếu Chúa không cứu con ra khỏi sự dữ thì con sẽ bị chết muôn đời. Con biết đó là tội lỗi nhưng con lại quá yếu đuối, xin Chúa thương cứu chữa hồn xác con”.

Với niềm tin vào lòng thương xót của Chúa chắc chắn chúng ta sẽ được chữa lành. Vì chính Chúa đã dùng cây Thập giá để cứu chuộc chúng ta và cũng chính nhờ Thập giá mà chúng ta được giao hòa với Thiên Chúa để được sống trong ân sủng và bình an của Chúa. Amen

Về mục lục

MUỐN VÀ ĐƯỢC

Lm. Jos DĐH.

Muốn ăn nên làm ra, nhiều người có suy nghĩ: một là phải chăm chỉ làm việc, hoặc là phải mưu mô mánh lới. Muốn nhiều tiền lắm của, trước hết phải nhận ra mình còn nghèo túng, chưa có của ăn của để, sau đó mới nói đến việc đầu tư và thực hiện kế hoạch làm giầu. Để sống đức thảo hiếu với bậc sinh thành, thiết nghĩ ta nên hiểu, bậc làm cha mẹ chỉ vì “chữ tình”, các ngài không sợ xấu, không sợ già, không ngại khó khăn gian khổ, miễn sao con nên người hữu ích. Muốn và được, mới chỉ là bước khởi đầu vượt qua hy vọng đến thành công. Câu thành ngữ quen thuộc mà chúng ta hằng nghe: muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học. Cho dù hoàn cảnh mỗi người không giống nhau, đích điểm đời người vẫn là hạnh phúc, là có bình an, có niềm vui thật.

Ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh người Do-thái, ông đến gặp Đức Giêsu, mà lại gặp ban đêm ? Có phải người cô thế cô thân mới cần được quan tâm, chắc cũng không phải những gia đình kín cổng cao tường, họ đáng phải chịu cảnh cô đơn, có phải chỉ duy nhất ông Ni-cô-đê-mô, phát hiện nơi Đức Giêsu, một vị thầy quả là đặc biệt ? Muốn biết Đức Giêsu là ai, người ta nên gặp Ngài, nếu muốn được thế gian, được danh vọng địa vị, cần đến với vua chúa quan quyền của họ. Thao thức được giầu có về sự bình an, về niềm vui tâm hồn, không những người ta cần gặp Đức Giêsu, tin và còn phải sống giáo huấn của Ngài ! Chắc không phải chỉ những người nghèo mới cần được ăn, cũng không phải người văn võ song toàn là không sợ chết, cũng không phải người tội lỗi mới là đối tượng của lòng thương xót Chúa.

Có bao giờ bạn và tôi đặt vấn đề: tôi đang muốn được dồi dào tình yêu của Đức Giêsu, hay mơ ước được bổng lộc, được quyền lực thế gian ? Thánh sử Gioan chắc không nói liều, nói bừa đâu: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời”. Không phải vô tình mà tiền nhân chúng ta có thể nói: người hiểu đời, coi việc lo liệu, chăm sóc cho con cháu là nghĩa vụ, là niềm vui không chờ mong báo đáp. Chúng ta không thể hiểu hết đằng sau cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người biệt phái Ni-cô-đê-mô, nhưng sau khi hoàn tất sứ mạng tại trần thế, ơn ban và hồng ân cứu độ đã lan rộng trên toàn thế giới. Ước muốn được bình an và hạnh phúc thật, thao thức tìm gặp sự sống đời đời, từ người thánh thiện đạo đức, đến người tội lỗi, ai cũng có cơ hội để bày tỏ, để sống niềm tin Đức Giêsu là Thiên Chúa.

Khi trưng dẫn hình ảnh con rắn đồng ở sa mạc năm xưa, Đức Giêsu hướng mọi người tới “Đấng” sẽ chịu treo lên,  con rắn và Đấng chịu treo, chính là dấu chỉ của sự sống. Muốn sống, dân Do-thái phải nhìn lên con rắn đồng, muốn không phải chết đời đời, hãy nhìn bằng niềm tin, “Đấng” chịu treo sẽ cho ta được trường sinh. Chắc không trừu tượng đâu, khi tôi và bạn cùng ước mơ đủ ăn đủ mặc, đừng lười biếng, đừng làm việc gì trái với lương tâm chân chính. Trong đời sống thiêng liêng, muốn tâm hồn bình an, hãy liên đới cầu nguyện, đừng “lơ là” cậy trông Đức Kitô, Đấng chịu treo trên cây thập giá, hầu đủ sức mạnh và tình yêu, chu toàn thánh ý Chúa. Muốn sống hạnh phúc và được cứu khỏi chết đời đời, hãy nhìn lên thập giá Đức Kitô, sám hối ăn năn, bạn và tôi nhất định sẽ hiểu thế nào là tình yêu Thiên Chúa ban tặng thế gian.

Dân Do-thái năm xưa là hình ảnh những người vi phạm giao ước, họ muốn sống phải nhìn lên con rắn đồng. Dân kitô qua các thời đại, muốn được cứu độ, ai cũng phải vượt qua đau khổ thập giá Đức Kitô, ước muốn và được sống đời đời không phải là lý thuyết. Với toan tính hơn thiệt, người đời cho rằng: dâu hiền hơn con gái, rể hiền con trai. Với Đấng cứu độ, sẽ không còn cảnh phân biệt Do-thái hay Hylạp, đạo gốc hay đạo theo, muốn và được, sẽ không còn là ước mơ hoặc hy vọng, vì mỗi người, mỗi tâm hồn, đều được Đấng ở trên cây thập giá tẩy rửa tội lỗi, ban hạnh phúc thật cho ta. Con đường tiến tới niềm vui và hạnh phúc thật, sẽ không còn là giầu sang địa vị, nhìn lên thập giá Đức Kitô không còn là biểu tượng, mà là diễn tiến của từng tâm hồn đầy năng lực của tình yêu thương.

Cho đến khi gặp khó khăn tư bề, người ta sẽ thực sự hiểu, cha mẹ mới là bậc cứu tinh, không oán trách, không làm con cháu tổn thương. Cho đến khi ước muốn và được cứu của chúng ta có mờ nhạt vì tội lỗi, Đấng ở trên cây thập giá, vẫn có những lời nhẹ nhàng yêu thương: “lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Nhận ra Đấng ở trên thập giá là Thiên Chúa yêu thương, đã đẹp lòng Chúa rồi, nhận ra con người không thể sống bình an mà thiếu quảng đại tha thứ, phải hạnh phúc hơn. Biết cậy trông, biết sống niềm tin: “Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”. Quả thực, ước muốn của bạn và tôi đã được, đã đạt tới hạnh phúc đời đời rồi. Amen.

Về mục lục

TIN VÀO THIÊN CHÚA TÌNH YÊU

Bông hồng nhỏ

Nicôđêmô, người môn đệ thầm lặng tìm đến gặp Thầy Giêsu ban đêm. Thầy nói với ông nhiều điều lắm. Thầy báo trước cho ông biết về cuộc thương khó Người sẽ trải qua: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3, 14-15). Thầy cho ông biết rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Sau khi Thầy Giêsu trút hơi thở cuối cùng, ông đã đến xin quan Philatô cho lãnh thi hài của Người và mai táng trong chính ngôi mộ đã đục sẵn cho mình. Vượt qua mọi nghi ngại và sợ hãi, ông đã hành động để minh chứng tình yêu và lòng tin ông đặt nơi Thầy Giêsu.

Để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình, ta cũng được mời gọi diễn tả tình yêu và đức tin của mình. Thiên Chúa yêu ta, tình yêu của Người vượt trên sự hiểu biết của ta, nhưng trái tim bé nhỏ của ta vẫn có thể đón nhận tình yêu cao vời ấy. Đó là hồng ân Thiên Chúa tặng ban cho ta. Người yêu ta không theo cách ta cảm nghĩ và hiểu biết. Ta vẫn cảm nhận được tình yêu của Người giữa cuộc sống bình an. Mọi thứ Người dành cho ta thật tuyệt vời: thời gian, sức khỏe, trí tuệ, tình yêu, sự nghiệp,… Trong nhịp sống thật bình yên ấy, tình yêu của ta cứ thế lớn lên. Mỗi ngày, ta được mời gọi cảm nếm tình yêu của Chúa ngang qua những điều bình dị. Thiên Chúa vẫn ở gần bên ta, Người lôi kéo ta đến gần Người. Khi thực hiện một việc bác ái dù nhỏ bé và âm thầm, ta vẫn cảm nhận được ánh mắt trìu mến của Người đang mỉm cười với ta. Mỗi khi ta vấp ngã, Người hối thúc lòng ta hãy đứng lên, quay trở về bên Người để được Người chữa lành cho. Ta tỏ lòng biết ơn Chúa bằng chính thái độ thờ lạy, và tôn thờ Người. Người hiện diện nơi những người anh em bé nhỏ bên cạnh ta, nơi cả những ai đã làm ta tổn thương, yêu người cả khi bị người thù ghét. Người mời gọi ta chiêm ngắm dung nhan của Đấng giàu lòng xót thương và đón nhận tình yêu của Người trong trái tim của mình. Tình yêu của Thiên Chúa sẽ làm ta trái tim ta mở ra với mọi người.

 Ta vẫn nghĩ ta đã yêu Chúa thật nhiều. Chỉ đến khi tình yêu bị thử thách, ta mới hiểu được tình yêu đích thật là gì? Theo bản tính tự nhiên, ta luôn mong đợi một cuộc sống diễn ra theo chương trình và kế hoạch ta đã vạch sẵn. Nhưng điều Thiên Chúa muốn thì cao và xa hơn, tốt lành hơn. “Lời mời gọi của Chúa luôn gây xáo trộn đời con. Bao dự định riêng tư dường như mất hút trong đời. Con mong muốn thế này Chúa lại mong muốn thế kia. Con không sao hiểu được nhưng tin vào tình thương của Ngài” (lời bài hát “Tâm tình xin vâng”, linh mục Thái Nguyên). Trong gian truân và thử thách, ta có còn tin tưởng và yêu mến Thiên Chúa không? Vâng theo thánh ý Thiên Chúa đòi buộc ta phải sẵn sàng từ bỏ ý riêng, từ bỏ kế hoạch của bản thân để đi theo chương trình của Người. Chúa Giêsu đã báo trước cho ông Nicôđêmô rằng: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3, 14-15). Trên thập giá, trong đau đớn tột cùng, nhân tính của Chúa Giêsu cũng đã phải thốt lên: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15, 34). Trong nhân tính của mình, Người đón nhận đến tận cùng cùng của nỗi đau đớn, Người đi qua kinh nghiệm bị bỏ rơi. Chúa Giêsu đã xin vâng theo thánh ý của Chúa Cha, thực thi chương trình cứu độ nhân loại. Người một lòng yêu mến Chúa Cha nhưng ngay trong nỗi đau khổ, Người đã thốt lên như bao người tuyệt vọng, bởi Người chia sẻ với ta sự yếu đuối của phận người. Đức tin của ta cũng sẽ phải được tôi luyện qua nhiều đau khổ giống như Chúa Giêsu. Tình yêu của ta dành cho Thiên Chúa được diễn ta qua thái độ vâng phục trong những trái ý của đời mình. Tác giả thư Do thái đã cho ta thấy: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8). Ta hãy kiên nhẫn bước đi trong thái độ tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa theo gương Chúa Giêsu – Con Một yêu dấu của Người. Ta đã đóng đinh ý riêng của mình lên thánh giá chưa?

Lạy Thiên Chúa là Cha nhân lành! Cảm tạ Chúa đã cho con được đón nhận tình yêu cao vời của Chúa. Chúa biết con yếu đuối và dễ đổi thay. Mỗi ngày, xin Chúa cùng con diễn tả niềm tin và tình yêu vào Thiên Chúa khi kiên trì vượt qua mọi thử thách trong đời sống, nỗ lực sống đức ái như Chúa mời gọi, vâng phục trong tin yêu và hy vọng. Amen.

Về mục lục

NHÌN LÊN THẬP GIÁ

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng

Bất cứ ai đã đọc sách Xuất Hành trong Cựu Ước, kể lại cuộc hành trình về đất hứa của dân Do thái, đều nhớ câu truyện con rắn đồng. Đó là khi gần đến đất hứa, dân Do thái lại kêu trách Chúa và trách ông Mô-sê.

Chúa liền cho rắn bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Thấy vậy, dân chúng lại ăn năn hối hận, chạy đến kêu ông Mô-sê cứu giúp. Ông Mô-sê cầu xin Chúa. Chúa bảo ông hãy làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên rắn đồng thì được khỏi. Rắn đồng đó, như bài Tin Mừng kể lại, Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để chỉ về Ngài: cũng như xưa, rắn đồng bị treo lên, Ngài cũng phải bị treo lên như vậy. Và cũng thế, rắn đồng chữa cho bất cứ ai nhìn lên nó, thì Chúa cũng chữa bất cứ ai tin cậy ở Ngài. Vì thế, sau khi dùng hình ảnh để so sánh, Chúa quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời”.

Quả thật, thập giá của Chúa đem lại sự sống đích thực, sự sống đời đời cho những ai tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Bằng chứng cụ thể để bảo đảm điều này là người trộm lành trong Tin Mừng: khi Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá trên núi Sọ, thì có hai phạm nhân khác là hai tên trộm cướp, cũng bị đóng đinh như thế ở hai bên Chúa: Đít-ma bên phải và Ghét-ta bên trái. Khi ba thập giá được dựng lên, treo ba thân xác chơ vơ giữa nền trời, người ta nghe tiếng tên trộm Ghét-ta chửa bới, nguyền rủa, nói những lời xúc phạm và đòi xuống khỏi thập giá. Trái lại, tên trộm Đít-ma, như được ánh sáng từ thập giá ở giữa chiếu soi, anh buồn rầu, hối hận tội lỗi tầy trời của mình và quay sang Chúa Giêsu, anh tha thiết thưa: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của Ông, xin nhớ đến tôi”. Trước lời khẩn nài đầy tin tưởng ấy, Chúa nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.

Trước khi thưa với Chúa Giêsu như trên, người trộm này đã nhìn nhận tội lỗi của mình khi anh đối chất với người bạn tù cùng bị đóng đinh với anh. Anh nói: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm”. Như vậy, dầu sao trong tâm hồn người đạo chích này cũng đã dậy lên những tâm tình thống hối nồng nàn. Dĩ vãng của anh thật tồi tệ, có lẽ tệ hơn cả Ba-ra-ba, vì Ba-ra-ba thì được tha, còn anh lại bị đóng đinh. Đời anh xấu xa quá. Anh biết và thành thật cảm nhận điều đó; đồng thời anh cũng tin nhận Đấng cùng chịu án với anh thật vô tội và qua cung cách của Ngài, anh tin phải là Đấng Thánh. Nên chỉ một tia sáng từ thập giá Chúa chiếu ra đã làm rực sáng đức tin của anh. Anh đã thấy thập giá, anh đã tin vào giá trị của thập giá, và biết Đấng bị đóng đinh là ai, nên anh mới xin Ngài nhớ đến anh khi Ngài về nơi vương quốc của Ngài.

Như vậy, trên núi Sọ, đám đông dân chúng đòi Chúa xuống khỏi thập giá, thì người trộm lại đòi được đưa lên. Quần chúng cầu mong Chúa thuyết giảng một thứ tôn giáo không thập giá, còn người trộm lại tìm được niềm tin khi bị treo trên thập giá. Phải chăng sự hối cải của người trộm là chìa khóa, là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta ngày nay?

Kể từ khi thập hình của người Rô ma được áp đặt cho Chúa Giêsu, thì thập giá đã trở thành Thánh giá và bóng Thánh giá của Ngài đã bao trùm cả trái đất. Không ai có thể đứng ngoài bóng mát của Thánh giá. Không ai có thể ở ngoài vòng lôi kéo của Chúa Giêsu. Không bao giờ con người có thể loại bỏ Chúa ra khỏi lịch sử của mình nữa.

Thánh giá không chỉ được dựng lên trên nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà của người tín hữu mà còn phải được tôn vinh giữa phố chợ, ở khắp mọi nơi. Chúa Giêsu đã không bị đóng đinh trong một thánh đường, giữa hai hàng nến cháy, nhưng trên thập giá giữa hai người trộm cướp. Ngài đã bị treo lên giữa ngã ba đường để cho mọi người qua lại đều nhìn thấy. Ngài đã chết trước sự chứng kiến của mọi người. Ngài đã chết cho mọi người. Ngài đã chết cho từng người trong nhân loại. Ngài đã chết nhân danh chúng ta để chúng ta được qui tụ vào gia đình con cái của Thiên Chúa.

Khi chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục Sinh, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương cao cả dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã phạm để thúc giục chúng ta ăn năn sám hối. Do đó, sự hối cải của người trộm lành là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta.

Đúng thế, ở trần gian chỉ có một điều xấu xa hơn tội lỗi, đó là không nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình. Không có bệnh, chẳng ai tìm đến bác sĩ. Cũng vậy, không nhận mình tội lỗi, chẳng ai đi tìm Chúa Cứu Thế. Chỉ khi nào cho mình là dại dột hay chỉ khi nào bắt đầu công nhận mình là người tội lỗi, đó là lúc khởi sự bước vào con đường của người trộm lành đưa đến hối cải. Biết mình tội lỗi, đó là điều kiện để hối cải, cũng như biết mình bệnh hoạn là điều kiện để chữa trị.

Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy đến với Chúa và hạ mình xuống như người trộm lành, nhìn nhận mình là người tội lỗi và tin tưởng vào lòng khoan dung của Chúa, thì kể cả trong tình trạng xấu xa nhất, chúng ta vẫn được Chúa thương yêu tha thứ

Về mục lục

THẬP GIÁ, TỘT ĐỈNH TÌNH YÊU

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Trong Tin Mừng Chúa Nhật này, chúng ta tìm thấy một trong những câu nói đẹp nhất của Kinh Thánh: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).

Để diễn tả tình yêu của Người đối với chúng ta, Thiên Chúa đã dùng những kinh nghiệm tự nhiền về tình yêu mà con người trao tặng cho nhau. Nhà thơ Dante cho rằng, tất cả mọi điều hữu hạn đều diễn tả điều vô hạn nơi Thiên Chúa. Mọi tình yêu con người như tình yêu vợ chồng, phụ tử, mẫu tử, bạn bè là những trang của một cuốn sách, hoặc những ngọn lửa của đống lửa; chúng có nguồn gốc và tìm thấy sự viên mãn trong Thiên Chúa.

1- Những dạng thức tình yêu Thiên Chúa

Trước hết, trong Kinh Thánh, Thiên Chúa nói với chúng ta về tình yêu của Người qua hình ảnh của tình yêu phụ tử. Tình yêu phụ tử được thể hiện bằng sự cổ võ, khích lệ và thúc đẩy. Một người cha muốn người con của mình lớn lên, bằng cách ông khuyến khích người con cố gắng hết mình. Đây là lý do tại sao chúng ta ít nghe người cha ca ngợi con mình trước mặt nó. Vì ông sợ rằng nó nghĩ mình đã hoàn hảo rồi nên không cần phải cố gắng nữa.

Nét đặc trưng khác của tình yêu phụ tử là sửa dạy. Người cha là thầy dạy hướng dẫn và uốn nắn người con trưởng thành. Một người cha đích thực đồng thời cũng là người ban cho con cái sự tự do và an toàn, nhờ đó, người con cảm thấy mình được bảo vệ trong đời sống. Đây là lý do tại sao Thiên Chúa giới thiệu mình với con người qua hình ảnh “đá tảng và thành lũy” để bảo vệ con người, một “thành lũy vững vàng” trước những gian nan thử thách và lo lắng (x. Tv 27,1).

Nơi khác, Thiên Chúa nói với chúng ta qua hình ảnh tình yêu mẫu tử. Người nói: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49,15). Tình yêu của một người mẹ được ban nhờ sự đón nhận, cảm thương và sự dịu dàng; tình mẫu tử là một tình yêu sâu nặng và mênh mông như biển cả. Người mẹ luôn luôn đồng hành, bảo vệ con mình và can thiệp cho chúng trước mặt người cha. Kinh Thánh luôn nói về sức mạnh của Thiên Chúa như là sức mạnh của người cha; nhưng Kinh Thánh cũng nói về sự dịu dàng và từ tâm của Thiên Chúa như là sự dịu dàng và từ tâm của người mẹ. Đó là sự “dịu dàng mẫu tử.”

Nhờ kinh nghiệm, con người biết đến một dạng thức khác của tình yêu, tình yêu vợ chồng, đó là một thứ “tình yêu mãnh liệt như tử thần, cơn đam mê dữ dội như âm phủ. Lửa tình là ngọn lửa bừng cháy, một ngọn lửa thần thiêng” (Dc 8,6). Thiên Chúa cũng dùng hình thức tình yêu này để nói về tình yêu vô biên của Người đối với con người. Tất cả những danh từ mang sắc thái tình yêu giữa người nam và người nữ, bao gồm cả từ “quyến rũ” cũng được dùng trong Kinh Thánh để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Thiên Chúa quyến rũ chúng ta (x. Gr 20,7).

2- Đức Giêsu, sự viên mãn tình yêu

Khi đến trần gian, Chúa Giêsu kiện toàn tất cả những hình thức này của tình yêu: tình phụ tự, tình mẫu tử, tình vợ chồng (biết bao lần Người ví mình là một chàng rể (x. Mt 9,15); nhưng Người còn thêm vào một hình thức tình yêu khác: đó là tình bạn hữu. Người nói với các môn đệ: “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,14-15).

Tình bạn hữu là gì? Nó có thể là một tương quan lớn hơn cả mối tương quan ruột thịt. Tương quan họ hàng hệ tại ở việc có cùng huyết tộc; tình bạn hệ tại ở việc có chung một quan điểm, lý tưởng và những quan tâm. Nó phát xuất từ lòng tin tưởng, nhờ đó tôi sẵn sàng thổ lộ cho người khác biết những tư tưởng, tâm tư, tình cảm sâu kín nhất, cũng như những kinh nghiệm riêng tư của mình.

Giờ đây, Chúa Giêsu gọi chúng ta là bạn hữu của Người, bởi vì những gì Người biết bởi Cha Trên Trời, Người đã mạc khải cho chúng ta, Người đã thổ lộ với chúng ta, tin tưởng chúng ta. Người đã xem chúng ta là những người bạn tri âm tri kỷ để chia sẻ với chúng ta những ẩn dấu của mầu nhiệm Ba Ngôi! Chẳng hạn, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa ưu thích những người bé mọn và những người nghèo, hay Người yêu chúng ta như người cha nhân hậu; hoặc Người chuẩn bị một nơi vĩnh cửu cho chúng ta.

3- Thập giá, tột đỉnh tình yêu

Hơn thế, Chúa Giêsu bày tỏ tình yêu lớn lao nhất của Người đối với chúng ta khi Người bước lên thập giá. Nơi thập giá, tình yêu của Người thể hiện qua ba năng động: Thứ nhất, tình yêu tự hạ (kenosis): Con Thiên Chúa trút bỏ địa vị cao cả, mặc lấy thân phận người Tôi Tớ đau khổ. Đây là tình yêu được thể hiện bằng chính hành động và dám hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu; Thứ đến, tình yêu đảm nhận (ricapitolatio): Con Thiên Chúa cưu mang mọi đau khổ và tội lỗi của nhân loại, Người chịu chết thay cho chúng ta; Thứ ba, tình yêu tự hiến (agape): Người tự hiến vì chúng ta một cách vô điều kiện. Đây là tình yêu ở mức cao nhất. Bởi thế, thánh Gioan quả quyết: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).

Như thế, Chúa Giêsu mang đến cho hạn từ “bạn hữu” một ý nghĩa đầy đủ nhất khi hiến mình để cứu độ chúng ta. Nhờ đó, chúng ta đón nhận được lòng thương xót Chúa và ơn cứu độ. Chính nhờ ân sủng và lòng tin mà chúng ta được sống và được cứu độ (x. Ep 2,4-10).

Chúng ta phải làm gì đối với tình yêu Chúa dành cho chúng ta? Chúng ta làm điều gì đó rất đơn giản thôi: hãy tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa, hãy đón nhận tình yêu đó, hãy nhắc lại nhiều lần với thánh Gioan: “Còn chúng ta, chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó!” (1 Ga 4,16).

Đồng thời, chúng ta được mời gọi đáp trả tình yêu của Chúa bằng việc tuân giữ các giới răn, xa lánh các dịp tội và quyết tâm không phạm tội nữa. Bởi lẽ, bao lâu còn phạm tội, bấy lâu Chúa Giêsu vẫn phải hấp hối và tiếp tục chịu chết một lần nữa vì chúng ta. Như lời của Dinsmore nói: “Vẫn có một cây thập giá trong cung lòng Thiên Chúa trước khi cây thập giá đó được trồng trên một ngọn đồi bên ngoài thành thánh Giêrusalem. Và giờ đây, dù cây thập giá gỗ đã bị loại trừ, cây thập giá đó vẫn còn trong cung lòng Thiên Chúa và nó sẽ vẫn còn bao lâu vẫn còn dù chỉ một tội nhân để cho Thiên Chúa phải đau khổ.”

Ước gì trong Mùa Chay thánh này, chúng ta nhìn lên thập giá và hoán cải đời sống mình để được sống đời đời. Amen!

Về mục lục

ÁNH SÁNG, BÓNG TỐI

Lm Vũđình Tường

Sáng và tối là hai thực thể trái nghịch nhau. Nơi đâu có ánh sáng, nơi đó vắng bóng tối bởi ánh sáng xoá tan bóng tối. Nơi đâu có bóng tối, nơi đó thiếu ánh sáng. Bóng tối đi chung với hành động tối tăm, u ám, mù mờ. Ánh sáng cổ võ cho việc làm trong sáng, minh bạch. Nhân loại biết hành động minh bạch tốt lành, nhưng nhân loại thường chọn hành động thoả mãn dục vọng, hành động cách mờ ám. Nhược điểm chung của nhân loại là chiều theo đam mê xác thịt.

Câu chuyện con rắn đồng treo trên cây trong Cựu Ước là một thí dụ điển hình. Sách Dân Số 21:4-9 thuật lại chuyện dân Chúa chọn, Israel, cả một dân tộc ưa thích bóng tối trong hành trình đi về Đất Hứa. Người ta càm ràm thời gian hành trình trong hoang địa khổ sở hơn cả thời gian sống lưu đầy bên Ai Cập. Có người mạnh bạo so sánh cho là chẳng thà sống lưu đầy còn sung sướng hơn. Người ta không nhận biết thời gian hành trình trong hoang địa không phải là thời gian thử thách, mà chính là thời gian tẩy xoá, làm trong sáng cuộc sống, xứng đáng sống nơi vùng Đất Hứa. Đây là thời gian giúp con người nhận ra lòng nhân từ của Chúa, nhận ra tình yêu Chúa dành cho dân Chúa chọn, thời gian phản tỉnh, nhận ra sai lầm tội lỗi xưa để hoán cải, trở về cùng Thiên Chúa yêu thương, tha thứ. Phản tỉnh là hành trình cần thời gian tỉnh ngộ, không phải một chốc lát mà là một con đường. Con người cần cố gắng, phấn đấu để vượt qua con đường phản tỉnh. Càm ràm xảy ra bởi thiếu kiên nhẫn, sợ khó. Dưới sự lãnh đạo của Môisen, trên đường về Đất Hứa, người ta than van, trách móc, và Thiên Chúa làm ngơ để cho rắn độc hoành hành dân chúng. Người ta kêu ca, than vãn và Môisen đại diện dân chúng, cầu xin cùng Đức Chúa. Ngài phán bảo dựng một cột cây cao, treo con rắn bằng đồng trên đó, khi rắn cắn nhìn con rắn đồng sẽ thoát chết. Con rắng đồng không có khả năng cứu sống người. Thiên Chúa dậy nhìn con rắn đồng nhắc nhớ Thiên Chúa là Đấng hằng sống. Ngoài Ngài ra không ai có thể ban sự sống. Hình ảnh con rắn đồng là hình ảnh sự ác, sự chết, sự tội, dối trá, ma lanh. Rắn tượng trưng cho hình ảnh ma quỉ phủ dụ con người phạm tội. Nhìn rắn đồng nhắc nhớ mình sa ngã, phạm tội, làm mất lòng Chúa. Hãy mau quay về, thống hối, ăn năn để nhận sự sống. Nhìn con rắn đồng để nhận biết tình yêu Chúa cao hơn tội ta phạm. Lòng Chúa xót thương vượt trên mọi sự tội, cao hơn thất trung, thất tín, tôn thờ ma quỉ.

Ngày nay chúng ta nhìn hình tượng Chúa nát tan trên thập tự để nhận biết tình Chúa cao vời. Vượt lên trên mọi tội lỗi con người xúc phạm nơi trần gian. Tình yêu Chúa sáng chói đánh tan mọi bóng đen tội lỗi. Chúa trên thập tự kiên nhẫn chờ đợi con cái Chúa hồi tâm, quay về, đón nhận ơn tha thứ. Tình yêu không điều kiện này vượt khỏi trí tưởng con người. Cách thức Chúa tự nguyện chọn để ban ơn cứu độ nhân loại khó hiểu không kém. Chúa có toàn quyền chọn cách nhẹ nhàng hơn, bớt đau khổ hơn, nhưng Chúa chọn cách đau khổ cùng cực nhất, tàn ác nhất con người có thể nghĩ ra để hành hạ nhau. Chúa chọn cách nhân loại hành hạ tội phạm để nói cho con người biết Chúa tự nhận tội nhân loại, biến tội chung toàn thể nhân loại thành tội riêng để nhận lấy hình phạt tàn ác. Qua đó Đức Chúa ban ơn tha thứ, ơn hoà giải, ơn cứu độ cho nhân loại. Ngài vô tội, không phải là tội phạm nhưng tự nguyện đón nhận hình phạt dành cho tội nhân để nói lên tình thương Chúa dành tặng nhân loại. Chọn xuống thế làm người là chọn chấp nhận đau khổ, lo lắng, mệt mỏi giống hệt như mọi người.

Chúa là ánh sáng thực. Mọi hành động tối tăm, gian trá đều là kết quả con người cộng tác với ma quỉ gieo đau thương, sầu khổ cho con người. Như thế tối tăm trần gian chính là tối tăm trong tâm hồn, trong tim óc con người, từ đó sinh ra hành động tối tăm, mờ ám. Ánh sáng Chúa soi sáng con tim dẫn đến ơn cứu độ, ưa thích sự sáng, tin tưởng, phó thác và chọn làm điều trong sáng dẫn đến sự sống trường sinh. Bóng tối ma quỉ đại diện cho chỉ trích, phê bình, lên án, thích điều mờ ám, thiếu tin tưởng, thích ngờ vực, từ đó dẫn đến diệt vong.

Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và Ngài không để mặc cho ma quỉ hoành hành, làm hại đến điều Chúa tạo dựng. Con người nghe ma quỉ phủ dụ, ưa ngọt, ưa nịnh nên bị chúng cám dỗ phạm tội. Thiên Chúa không để mặc sự chết thống trị thế gian. Thiên Chúa ban cho nhân loại Con Chúa xuống trần cứu độ con người, giải thoát con người khỏi bóng tối tử thần. Những ai đón nhận Con Chúa đều nhận được sự sống trường sinh do Máu Thánh Con Thiên Chúa ban tặng. hãy chung lời cảm tạ tình Chúa cao vời.

Về mục lục

THIÊN CHÚA LUÔN THA THỨ

Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương

Trong lúc thánh Giêrônimô đang quì cầu nguyện trong hang đá ở Belem để suy niệm về mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, thì Chúa Giêsu Hài Đồng hiện ra và nói với thánh nhân:

– Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày Ta giáng sinh không?

Thánh nhân trả lời:

– Lạy Chúa Hài Đồng, con xin dâng Chúa trái tim của con.

– Đúng thế, nhưng còn gì khác nữa không?

– Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và hết những gì con có thể.

Chúa Hài Đồng hỏi:

– Con còn điều gì khác nữa không?

Thánh nhân khẩn khoản thưa:

– Con có điều gì khác để dâng Chúa nữa đâu.

Chúa Hài Đồng bảo:

– Này Giêrônimô, hãy dâng cho Ta cả những tội lỗi của con nữa.

Thánh nhân hốt hoảng hỏi lại:

– Ồ, lạy Chúa, làm sao con dâng cho Chúa tội lỗi của con được?

– Được chứ! Ta muốn con dâng cho Ta tội lỗi của con để Ta có thể tha thứ cho con. Đó là điều Ta rất mong đợi.

Nghe thế thánh nhân bỗng bật khóc vì sung sướng.

Sau đó, thánh nhân đã đi xưng tội.

Mùa chay, mùa giao hoà giữa Thiên Chúa với con người, giữa con người với nhau, với chính mình và với thiên nhiên. Tuy nhiên, sự giao hoà đó chỉ có thể được diễn ra và được thực hiện khi chúng ta biết bắt nguồn từ Thiên Chúa. Sự giao hoà đó chính là sự thứ. Chính Chúa là nguồn mạch yêu thương và tha thứ. Ngài luôn mong muốn con người được cứu độ và đón nhận ơn tha thứ. Chúng ta sẽ thấy điều đó qua các bài đọc phụng vụ của Chúa nhật 4 Mùa Chay năm B hôm nay.

Nơi bài đọc I, (2Sb 36,  14-16.19-23), tác giả diễn tả tình trạng bất trung bất nghĩa của dân Israen: “tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế. Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa…”(2sb 36, 14-16). Dầu cho dân tội lỗi và phản bội như thế, nhưng Thiên Chúa tiếp tục yêu thương và tìm cách cứu thoát họ. Ngài đã dùng vua Ky-rô trị vì nước Ba-tư như là trung gian để cứu dân hầu đem lại sự bình an cho dân. Tình thương và sự tha thứ đó được diễn tả như sau: “Ky-rô, vua Ba-tư, phán thế này : ‘Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giê-ru-sa-lem tại Giu-đa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người, thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy tiến lên …!’ ”(2 Sb 36, 23).

Bài đọc II, Ep 2,4-10, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa được diễn tả qua lời giảng dạy của Thánh Phaolô đối với cộng đoàn Ê-phê-xô: “Thưa anh em, Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời.” (Ep 2, 5-6). Quả thật, sự tha thứ và lòng thương xót của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của con người. Ngài chỉ biết yêu, biết thương, biết tha thứ chứ không biết giận, biết thù. Ngài là một vị Thiên Chúa hay quên vì Ngài đã không chấp tội của chúng ta, không nhớ đến tội của chúng ta nhưng sẵn sàng bỏ qua tất cả những sai lỗi hầu cứu vớt con người chúng ta khỏi chết. Ngài không lên án vì Ngài là Đấng giàu lòng xót thương. Ngài không bao giờ muốn con người phải đau khổ và phải chết: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối để được sống” (Ed 18, 23).

Điều đó được diễn tả cách mạnh mẽ hơn nơi bài Tin Mừng của Thánh Gioan (3,14-21). Thánh sử Gioan trình bày như sau: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. (Ga 3, 16-17). Vì yêu nên Thiên Chúa tìm mọi cách thế để cứu độ con người, thậm chí Ngài đã chấp nhận hy sinh Con Một của Ngài để ai tin vào Con của Người, là Đức Giê-su thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời. Một vị Thiên Chúa luôn yêu thương và tha thứ dẫu con người bất trung, bất nghĩa. Một vị Thiên Chúa vô hình nhưng hiện diện một cách hữu hình nơi Ngôi Hai Thiên Chúa, là Ngôi Lời Nhập Thể, là Đức Giê-su Ki-tô, luôn luôn gần gũi, thân thiện và đầy lòng nhân hậu đối với con người, nhất là những người tội lỗi.

Chúng ta trích dẫn một vài ví dụ để nói lên lòng quảng đại tha thứ của một vị Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su: Nơi người đàn bà ngoại tình, đáng lý ra chị phải bị ném đá cho đến chết. Nhưng may mắn cho chị đã gặp Đức Giê-su, Đấng Cứu Thế, là hiện thân của Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Tình Yêu. Thay vì lên án và ném đá chị, Đức Giê-su đã thể hiện một vị Thiên Chúa vô cùng bao dung và nhân hậu, khi Ngài nói: “Ta không kết án chị đâu. Hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11). Vì Đức Giê-su đến trần gian nhằm để cứu con người như Ngài đã khẳng định: “Con Ngưòi đến để cứu vớt, chứ không phải để huỷ diệt; Ta đến không phải kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi” (Lc 5,32). Nơi khác, Đức Giê-su thể hiện sự tha thứ của một vị Thiên Chúa đầy quyền năng và lòng thương xót khi chấp nhận người trộm lành cùng chịu đóng đinh bên phải với Ngài. Ngài đón nhận anh ta và quên hết quá khứ tội lỗi của anh. Ngài mạnh mẽ tuyên bố: “Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”. (Lc 23, 43)

Bên cạnh đó, “Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng:“Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3, 14-15). Đức Giê-su, hiện thân của lòng thương xót của Thiên Chúa tiếp tục mời gọi con người tin vào Ngài để đón nhận sự sống đời đời. Chỉ nơi Ngài, trong Ngài và nhờ Ngài, tất cả chúng ta mới được cứu độ. Chỉ nơi Ngài sự tha thứ của Thiên Chúa, tình yêu của Thiên Chúa và Lòng thương xót của Thiên Chúa mới được tỏ lộ cách thiết thực và rõ ràng nhất. Tuy nhiên, để đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi nhận ra tội lỗi của mình với tâm tình khiêm tốn và tin yêu. Chúng ta không chỉ đón nhận sự tha thứ từ một phía Thiên Chúa, nhưng mỗi người được mời gọi hãy biết tha thứ cho tha nhân. Chỉ qua sự tha thứ cho người khác cách chân thật, chúng ta mới thực sự đón nhận sự thứ tha của Thiên Chúa. Quả thật, nếu chúng ta tha thứ sẽ được thứ tha là vậy. Tha thứ là hành vi thứ nhất đòi buộc ta phải thực hiện nơi cuộc sống đời thường cho anh chị em chung quanh, nhờ đó, chúng ta mới dễ dàng đón nhận sự tha thứ của Thiên Chúa. Nói cách khác, chúng ta chỉ nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa đích thực khi chúng ta biết tha thứ cho nhau. Chúng ta không thể đón nhận sự tha thứ của Thiên Chúa khi chúng ta mắc tội, mà lại không khoan dung với tha nhân. Chúng ta không thể tận hưởng vị ngọt của sự tha thứ của Thiên Chúa, mà lại cay đắng hận thù anh chị em ta. Chúng ta đang sống trong tình trạng hận thù, ghen ghét, bất hoà bất thuận, nói hành nói xấu, gây hấn, lỗi đức bác ái, đâm thuê, chém mướn,…mà vẫn hiên ngang dâng lễ và đón lấy sự tha thứ của Thiên Chúa. Phải chăng chúng ta đang sống trong tình trạng hai lòng/ giả tạo? Liệu điều đó có phù hợp với tâm tình Mùa chay thánh không?

Thật vậy, tình yêu của Thiên Chúa vẫn luôn trải dài trên cuộc đời chúng ta, nhưng liệu tình yêu đó có thật sự được toả lan cho anh chị em không? Thiên Chúa luôn yêu thương và luôn tha thứ cho chúng ta, cũng vậy, chúng ta cũng cố gắng sống yêu thương và tha thứ cho hết thảy những ai có lỗi với chúng ta. Tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa chỉ thật sự hiện diện trong cõi lòng của chúng ta nếu chúng ta biết thực thi cử chỉ đó cho anh chị em đồng loại.

Về mục lục

TIN ĐẤNG BỊ TREO

Trầm Thiên Thu

Kinh Thánh xác định: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.” (Ga 19:37) Chắc chắn họ không nhìn xem Chúa Giêsu như thế nào, chết thật hay chưa, mà họ đã thực sự run sợ và bắt đầu tin. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Chưa đánh được người, mặt đỏ như vang; đánh được người rồi, mặt vàng như nghệ.” Thế đấy!

Niềm tin trừu tượng nhưng có thể cảm nhận. Niềm tin là gì trong đời sống chúng ta? Bác học Albert Einstein (1879-1955, Đức quốc) cho biết: “Mối liên kết giữa Thiên Chúa và con người chính là niềm tin. Nhờ niềm tin mà tất cả vạn vật trong vũ trụ này có thể tồn tại và chuyển động.” Ôi, như vậy thì niềm tin tuyệt vời biết bao!

Cũng liên quan đức tin, Thánh Piô Năm Dấu xác định: “Thiên Chúa muốn kết ước với linh hồn trong đức tin, linh hồn nào muốn cử hành hôn lễ thiên đàng ấy PHẢI bước đi trong đức tin tinh ròng, đó là phương thế duy nhất thích hợp cho sự kết hợp tình yêu.” Thánh Thomas Aquinô cho biết: “Mặc dù cái nhìn chúng ta bị giới hạn và mờ nhạt về những sự rất linh thánh, nhưng chỉ thoáng thấy những sự ấy cũng đã là hoan lạc lắm rồi. Có ba điều cần thiết cho phần rỗi con người: hiểu biết điều nào PHẢI TIN; hiểu biết điều nào PHẢI ƯỚC AO; và hiểu biết điều nào PHẢI THỰC HIỆN. Có những điều ta phải nắm giữ bằng đức tin, nhưng lý trí vẫn có thể tìm hiểu; nhờ đó, mọi người đều có thể chia sẻ tri thức về Thiên Chúa một cách dễ dàng, không hoài nghi và lầm lạc.”

Với kinh nghiệm riêng, Chân phước Charles de Foucauld chia sẻ: “Giây phút tôi nhận biết Thiên Chúa hiện hữu, tôi biết tôi không thể làm gì khác hơn ngoài việc sống cho một mình Người. Đức tin tước lột mặt nạ khỏi thế giới này và tỏ ra Thiên Chúa trong mọi sự. Đức tin làm cho không còn sự gì là không thể, làm cho những từ ngữ như lo lắng, nguy hiểm và sợ hãi trở nên vô nghĩa. Nhờ đó, tín hữu sống cuộc đời yên hàn thanh thản, với một niềm tin sâu xa – như một con trẻ được mẹ cầm tay.”

Niềm tin lệch lạc dẫn tới tội lỗi. Mê tín dị đoan là dạng tin sai lầm, khiến người ta làm những điều mâu thuẫn. Kinh Thánh cho biết về mức tăng vọt về tội lỗi ngày xưa: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giêrusalem ra ô uế. Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ, vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa.” (2 Sb 36:14-16) Được đằng chân, lân đằng đầu. Tội chồng lên tội theo cấp số cộng, rồi cấp số nhân. Con người quá đỗi lộng hành, thế mà Thiên Chúa vẫn im lặng, làm ngơ. Không phải là Ngài không biết, mà Ngài tạo cơ hội để người ta sám hối.

Và Kinh Thánh cho biết thêm: “Quân Can-đê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giêrusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị. Thế là ứng nghiệm lời Đức Chúa phán, qua miệng ngôn sứ Giêrêmia rằng: cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn.” (2 Sb 36:19-21) Lịch sử mãi mãi vẫn là lịch sử, không ai thể che giấu sự thật.

Lịch sử vẫn diễn biến theo dòng thời gian, và Thiên Chúa luôn hiện hữu và theo dõi từng động thái của con người. Quả thật, Thiên Chúa có mặt trong lịch sử loài người, trong lịch sử cuộc đời của riêng từng người – kể cả những người vô thần. Đó là sự thật vừa mặc nhiên vừa minh nhiên, dù người ta muốn hay không muốn.

Quá khứ, hiện tại, và tương lai là ba thời (thì) chính của cuộc sống, của thời gian. Cuộc đời mỗi người cũng có ba thời như vậy, nhưng quá khứ đã qua, tương lai chưa biết, nghĩa là chúng ta không thể “nắm giữ” quá khứ và tương lai, mà chỉ có hiện tại. Như vậy, chúng ta phải cố gắng sống thời hiện tại cho tốt để không phải khóc ngày mai, và hãy quên chuyện hôm qua, bởi vì quá khứ có là nụ cười hay nước mắt thì chúng ta không thể làm gì được nữa, nhưng chúng ta có thể rút được số vốn kinh nhiệm để sống cho hôm nay và hướng tới tương lai.

Kinh Thánh cho biết: “Năm thứ nhất thời vua Kyrô trị vì nước Ba Tư, để lời Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia được hoàn toàn ứng nghiệm, Đức Chúa tác động trên tâm trí Kyrô, vua Ba Tư. Vua thông báo cho toàn vương quốc và ra sắc chỉ như sau: Kyrô, vua Ba Tư, phán thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giêrusalem tại Giuđa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ, ở với họ, và họ hãy tiến lên!” (2 Sb 36:22-23) Chính Thiên Chúa luôn mong chờ chúng ta biến đổi, nhất là trong Mùa Chay Thánh – cơ hội thuận tiện. Càng dứt khoát thì càng dễ biến đổi, càng mau biến đổi thì càng hữu ích cho chúng ta – cả thể lý và tinh thần.

Tha phương cầu thực đã thấy khổ, càng khổ hơn khi phải lưu đày, thế nên Thánh Vịnh gia than thở: “Bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn. Bọn lính canh đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên: “Hát đi, hát thử đi xem Sion nhạc thánh điệu quen một bài!” (Tv 137:1-3) Đang buồn làm sao vui nổi, đang khóc làm sao cười được? Vậy mà ngày nay thấy có dạng “khóc thuê,” cái gì cũng thuê, thậm chí người ta còn có dịch vụ khấn thuê, dâng lễ vật thuê,… Thần linh cũng không biết tính sao. Thần linh cũng khổ lắm chứ đâu an nhàn như những kẻ tham lam, vội vàng vơ vét vào!

Tâm sự canh cánh, nỗi niềm nặng trĩu cõi lòng, Thánh Vịnh gia chia sẻ: “Bài ca kính Chúa Trời, làm sao ta hát nổi nơi đất khách quê người? Giêrusalem hỡi, lòng này nếu quên ngươi thì tay gảy đàn thành tê bại! Lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm, nếu ta không hoài niệm, không còn lấy Giêrusalem làm niềm vui tuyệt đỉnh của tâm hồn.” (Tv 137:4-6) Khi buồn thì người ta chán mọi sự, chẳng cần gì nữa, chỉ muốn khóc, cảnh vật cũng như lây nhiễm nỗi buồn. Nước mắt thường trào ra ngoài và chảy xuôi xuống theo gò má, nhưng cũng có loại nước mắt buồn không chảy ra ngoài mà chảy ngược vào trong. Bên ngoài nhìn họ rất tĩnh mà lòng họ rất động. Nỗi buồn quá dày, nỗi đau quá lớn, đã cô đọng thành sự tĩnh lặng, bất động. Đá không đeo mà nặng trĩu!

Kiếp phàm nhân là chuỗi dài đau khổ, thấm đẫm nỗi buồn, ướt sũng nước mắt. Vì không có niềm tin vào Thiên Chúa nên người ta thất vọng, có những người tuyệt vọng nên đã tự kết liễu đời mình. Tội chất chồng lên nhau.

Là tín nhân, chúng ta cũng đau khổ nhưng vẫn hạnh phúc, bởi vì chúng ta có niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, Đấng đã chịu chết để chúng ta được sống và sống dồi dào. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời.” (Ep 2:4-6) Tất cả là hồng ân, chúng ta chẳng làm được gì đáng công trạng, giả sử chúng ta có làm được điều gì khác thường, hơn người, thì cũng chỉ là con số không to lớn và rỗng tuếch mà thôi. Nhưng chúng ta luôn phải canh chừng “cái tôi” kẻo sinh ảo tưởng và ảo giác.

Vừa nhấn mạnh vừa giải thích tỉ mỉ, Thánh Phaolô nói: “Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người. Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” (Ep 2:7-10) Ai cũng được Thiên Chúa đặt vào một vị trí nhất định nào đó để vinh danh Ngài, nhưng chúng ta thường đặt ra những cái “nếu” theo trí hiểu hữu hạn, vì thế chúng ta thường khen người này, chê người kia, không ưa người nọ,… Kiểu áp đặt Thiên Chúa theo ý mình như vậy là dạng ấu trĩ liên quan đức tin.

Thánh Mark khổ tu cho biết: “Các công việc là điều cần thiết và được Thiên Chúa minh nhiên an định, nhưng chúng ta nên dứt bỏ các công việc không hợp giờ giấc và dành ưu tiên cho việc cầu nguyện, nhất là nên dứt bỏ những công việc đòi hỏi chi tiêu quá đáng hoặc sinh được quá nhiều của cải dư thừa. Ai biết vì Chúa mà tự hạn chế và loại bỏ những của cải dư thừa của họ bao nhiêu, người ấy càng giữ tâm trí khỏi bị xao lãng bấy nhiêu… để dành chỗ cho việc cầu nguyện tinh tuyền và chứng tỏ một niềm tin chân thành nơi Chúa Kitô. Còn ai vì kém đức tin hoặc vì một yếu đuối nào khác mà không làm được điều ấy thì ít nhất cũng hãy thừa nhận thực trạng, tố cáo sự ấu trĩ của mình, và hãy hết sức vươn lên.” Rất tuyệt vời, nhưng cũng rất khó thực hiện.

Kinh Thánh cho biết: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3:14-15) Chúa Giêsu chịu đau khổ để diệt khổ, chịu chết để chiến thắng tử thần, đó là vì tội lỗi của mỗi chúng ta: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.” (Ga 3:16-18)

“Ngày nào có nỗi khổ của ngày ấy.” (Mt 6:34) Đau khổ có đủ kích cỡ, đủ mức độ, không tránh đâu được. Muốn hết khổ thì chỉ có cách là “sống chung” với nó; muốn nhẹ lòng thì cứ khóc cho “trôi” bớt. Chẳng ai thương mình hơn ta thương mình, có an ủi cũng chỉ cảm thông một phần nhỏ với ít nhiều “giả dối” mà thôi. Trên Đường Thập Giá, Chúa Giêsu đã khuyên các phụ nữ ĐỪNG khóc thương Ngài, mà hãy khóc thương cho chính phận mình và con cháu. (x. Lc 23:28) Chính mình phải biết thương mình trước, để gia tăng niềm tin, rồi mới có thể biết thương người khác.

Thánh sử Gioan cho biết: “Đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.” (Ga 3:19-21) Lời lẽ rõ ràng và sắc bén lắm.

Bất kỳ ai muốn được Thiên Chúa xót thương thì phải chân thành ăn năn, đền tội, và không ngừng cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin nghe con giãi bày lẽ phải, lời con than vãn, xin Ngài để ý; xin lắng tai nghe tiếng nguyện cầu thốt ra từ miệng lưỡi chẳng điêu ngoa.” (Tv 17:1) Và thành tâm xác tín: “Phần con đây, con tin cậy vào tình thương Chúa, được Ngài cứu độ, lòng con sẽ vui mừng. Con sẽ hát bài ca dâng Chúa, vì phúc lộc Ngài ban.” (Tv 13:6)

Những ngày vừa qua, thế giới “nóng” lên và khâm phục cô gái trẻ Ma Kial Sin, 19 tuổi, đã can đảm tranh đấu vì chính nghĩa, và cô đã bị quân đội bắn chết tại Mandalay, Myanmar, ngày 03-03-2021. Trên áo cô mặc có in câu: “Everything will be OK.” (Mọi thứ sẽ ổn thôi.) Cô gái này tuổi nhỏ nhưng chí lớn, dám quên mình vì đại nghĩa, và cô có niềm tin mạnh mẽ vào sự thật. Chúng ta cũng phải can đảm hành động vì sự thật, đặc biệt là trong lĩnh vực tâm linh.

Đại đế Napoléon nói: “Thế giới phải chìm đắm trong đau khổ không phải vì tội ác của những kẻ xấu, mà là vì sự im lặng của những người tốt.” Vĩ nhân Mahatma Gandhi phân tích: “Bất cứ ai bảo rằng họ không quan tâm đến chính trị thì cũng giống như kẻ đang chết đuối mà luôn mồm khẳng định họ không cần biết xung quanh mình là nước.” Tục ngữ Iran có câu rất đáng suy tư: “Nấm mồ thực sự của chúng ta không phải ở trong lòng đất mà ở trong tim của người ta.”

Thập Giá là nhục hình, nhưng đối với Thiên Chúa lại hoàn toàn khác. Cuối cùng, tướng cướp Dismas cùng chịu đóng đinh với Chúa Giêsu đã phải cầu xin: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23:42) Và chính viên đại đội trưởng cũng đã thức tỉnh lương tâm: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa.” (Mc 15:39)

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con can đảm hành động vì chân lý của Ngài, thương cho phận mình và yêu tha nhân, để nhờ đó mà chúng con được cứu độ. Vì Cuộc Khổ Nạn và Bửu Huyết của Chúa Giêsu, vì Châu Lệ của Thánh Mẫu, xin Chúa thương cứu các linh hồn, cứu thế giới và chúng con – các hối nhân chân thành. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

MÓN QUÀ TUYỆT VỜI

Thiên San

Sách Sáng Thế kể lại, sau khi con người (A đam) và vợ phạm tội, con người đặt tên cho vợ mình là Eva, vì bà là mẹ của chúng sinh. Thiên Chúa may những chiếc áo bằng da và mặc cho họ (x. St 3, 20-21). Mặc dù tội lỗi và hậu quả của tội lan tràn khắp mặt đất nhưng sự sống Thiên Chúa đã ban vẫn tiếp tục phát triển. Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương, bao bọc con người, tìm cách để khôi phục tương quan đã bị bẻ gãy bởi tội. Đức Giêsu chính là món quà tuyệt vời, là lời hứa, là trung gian giao hòa và là ơn cứu độ Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại.

Câu chuyện nửa đêm giữa Đức Giêsu và ông Nicôđêmô mặc khải cho chúng ta biết về kế hoạch của Thiên Chúa. Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta biết rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời (Ga 3, 16). Thật vậy, Đức Giêsu chính là Con Một yêu dấu của Chúa Cha được ban cho nhân loại. Qua người con ấy, chúng ta được cứu chuộc, được giao hòa cùng Thiên chúa. Để lãnh nhận ơn cứu độ, chúng ta được mời gọi tin vào Đấng Chúa Cha sai đến. Tội lỗi đã lan tràn kể từ khi Nguyên tổ phạm tội. Là hậu duệ của các ngài, chúng ta nhận thấy rằng: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 50, 7). Thiên Chúa không chỉ may cho con người những chiếc áo bằng da để che phủ tội lỗi và sự khốn cùng của con người mà còn ban chính Con Một làm giá chuộc tội cho cả nhân loại. Tình yêu, sự sống Thiên Chúa vẫn tiếp tục được trao ban.

Nhìn về tình yêu bao la của Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi điều gì? Thiết nghĩ, sám hối là một trong những thái độ ta cần có để đáp lại tình yêu của Ngài. Như tác giả Thánh vịnh 50, chúng ta hãy thân thưa cùng Thiên Chúa về sự yếu hèn của ta cùng bày tỏ sự ăn năn, thống hối. Suốt Mùa Chay, mẹ Giáo hội không ngừng kêu mời con cái mình sống sự sám hối ấy, đến với Thiên Chúa qua bí tích Hòa Giải, đến với anh chị em qua nghĩa cử bác ái và trong cầu nguyện, ta ca tụng tình yêu Thiên Chúa và cầu nguyện cho mọi người. Sám hối là lời mời gọi cho tất cả chúng ta. Hơn hết, một sự sám hối chân thành rất cần đến một sự thay đổi đời sống tận căn để có thể tin yêu và sống theo những đòi hỏi của Con Một.

“Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa” (Ga 3, 19). Kinh nghiệm cho thấy, khi phạm phải một lỗi gì đó, chúng ta thường có xu hướng che dấu tội của mình hoặc tìm cách biện minh, không muốn ai biết đến. Chúng ta cảm thấy “an toàn” khi ở trong bóng tối đó. Bóng tối sẽ giúp ta che đậy tất cả. Dường như những ai càng phạm tội, càng muốn ở lại trong bóng tối. Nhưng, sự “an toàn” ấy là giả tạo. Chúng ta sẽ sớm cảm thấy bứt rứt, khó chịu, không vui. Can đảm trở về cùng ánh sáng, bước ra khỏi tội là điều không hề dễ dàng. Như người con thứ trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu”, chúng ta hãy hồi tâm và tự nhủ để biết rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. “Thôi ta đứng lên, trở về cùng Cha” (Lc 15, 18).

Chúng ta thuộc về ánh sáng. Thiên Chúa đã dùng chính giá máu của Người Con yêu dấu để cứu chúng ta thì tội lỗi chúng ta có lớn, có nhiều đến mấy thì Ngài cũng sẵn sàng tha thứ. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3, 17). “Dù tội ta, có cao biết mấy, nhưng tình Chúa vẫn cao hơn nhiều…”. Chúng ta hãy đón nhận món quà tình yêu Thiên Chúa đã trao ban.

Về mục lục

TÌNH YÊU VÀ GIÁ CHUỘC

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Ai chúng ta đều có trái tim để yêu. Trái tim đó trao đi, nhiều khi trao gần hết, rồi chợt đến một câu hỏi: “Được gì khi trao hết tình yêu? Có nuối tiếc vì một tình yêu đã trao? Và tình yêu ấy có đáng giá không?”. Rất nhiều những câu hỏi và cuối cùng mới biết tình yêu ấy là gì khi đã trao hết. Định nghĩa về tình yêu Thiên Chúa, Thánh Gioan đã nói về giá chuộc “Tình yêu cho đến nỗi phó nộp người con duy nhất của Người” (Ga 3, 16).

Yêu là gì? Khi quen nhau một tháng, họ cùng nhau đi ăn, khi biết nhau một năm, họ cùng nhau đi du lịch. Khi thân biết nhau vài năm, họ trao nhau chiếc nhẫn đính hôn. Và sau đó họ trao nhau nhẫn cưới. Sau nữa nhiều năm, bao nhiêu hy sinh, nhẫn nại, tình yêu vợ chồng, chăm con khôn lớn. Bên ngoài công việc lao đao, bao thăng trầm, hỷ nộ, ái ố. Tất cả đều đã trải qua, vẫn chưa thể định giá tình yêu. Cho đến khi xuôi tay nhắm mắt, mới hiểu ra được tình yêu trao đi là vô giá.

Nếu tình yêu có giá, tình yêu ấy vẫn là giới hạn trong cuộc đổi trao, vẫn là những tính toán hơn thiệt. Tình yêu vẫn còn so đo. Tình yêu lời lỗ như là một thuơng vụ mua bán, sớm phai tàn, lạnh nhạt, không bao giờ là một tình yêu. Một trải nghiệm mất nhiều hơn được, cũng là cái giá của tình yêu.

Trong tình yêu, có khi trao nhầm, có khi chỉ cuộc vui chóng tàn. Một tình yêu bị bội phản, một tình yêu bị chối từ. Bao thất vọng, bao ê chề, tủi nhục, nỗi khổ của tinh yêu. Tình yêu lúc đó mới hiểu, đau thương là giá trả của tình yêu.

Một tình yêu chết cho người mình yêu, người đời cho đó là một sự điên rồ vì tình yêu. Định nghĩa cho tình yêu: Yêu là chấp nhận, yêu là hy sinh, yêu là nhẫn nhịn, yêu là tha thứ. Chẳng bao giờ đủ, vẫn tiếp tục, nhẫn nại, hy sinh, tha thứ. Không có giá để trả, để được gọi đó là tinh yêu phó nộp,Thánh Phaolô gọi đó là “sự điên rồ của thập giá” (1 Cor 1, 18).

Chúng ta không thể sống mà không biết yêu thương. Yêu thương là chấp nhận nỗi nhọc nhằn của tình yêu và chắc chắn không đến nỗi như Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta.

Xin Chúa ban cho chúng con đủ sức mạnh để yêu thương, đủ lý trí, con tim, gánh vác buồn vui cuộc đời.

Về mục lục

NIỀM TIN VÀ HÀNH ĐỘNG

Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa

Tôi không nhớ đã nghe ở đâu đó câu chuyện kể rằng. Có một người đàn ông lên Thiên đàng gặp Thánh Phêrô và hỏi: Vợ con đã có ở trên này chưa? Thánh Phêrô trả lời là vợ con đã ở trên này rồi. Thế là anh ta nói với Thánh Phêrô: Thế thì con không vào đâu vì con đã sống bao nhiêu năm với nó trên trần gian và chịu muôn vàn tủi nhục vì nó. Giờ lên đây lại gặp nó nữa thì đời con tiêu hẳn rồi. Còn một người đàn ông khác lên Thiên đàng và cũng hỏi Thánh Phêrô câu hỏi tương tự và nhận được câu trả lời là vợ con chưa có trên Thiên đàng. Anh ta nói với Thánh Phêrô rằng nếu vợ con chưa có ở đây thì con cũng không vào đâu vì con không thể sống thiếu vợ con được. Cô ấy và con đã có một cuộc hôn nhân tuyệt vời. Giờ cô ấy ở đâu con sẽ đi tới đó.

Câu chuyện giả tưởng trên đây muốn diễn tả một chân lý tuyệt hảo rằng Thiên đàng hay hỏa ngục chẳng phải là một thực tại xa xăm nào. Thiên đàng hay hỏa ngục là ở đây và bây giờ. Chính chúng ta tự tạo ra Thiên đàng và cũng chính chúng ta tự tạo ra Hỏa ngục. Thiên đàng và Hỏa ngục nếu có thì cũng phải bắt đầu từ ngày hôm nay.  Đây cũng là điều mà tôi cảm nghiệm được khi đọc Tin Mừng Chúa nhật IV Mùa Chay năm B. Thánh Gioan nói với chúng ta Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi ban Con Một mình để những ai tin Con Ngài thì không bị hư mất nhưng được sống đời đời. Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi. Không cần phải đợi tới ngày cánh chung chúng ta mới bị xét xử mà ngay hôm nay, chúng ta đã bị xét xử rồi. Chúng ta đứng trước lựa chọn hoặc tin vào Thiên Chúa hoặc khước từ Ngài. Tin vào Thiên Chúa chính là tin vào tình yêu và hành động theo tình yêu. Làm như thế, chúng ta sẽ không bị hư mất. Còn nếu không làm như thế, chúng ta sẽ bị tiêu diệt. Theo Thánh Gioan thì phần nhiều trong chúng ta sẽ khước từ Ngài. Lý do là bởi vì chúng ta chuộng bóng tối hơn ánh sáng. Chúng ta sợ ánh sáng vì những việc làm của chúng ta xấu xa. Chúng ta sợ bị phơi bày sự thật trước Thiên Chúa là ánh sáng vĩnh cửu.

Nhìn vào thực tế cuộc sống, tôi thấy giữa niềm tin và cuộc sống thực luôn có một khoảng cách quá xa vời. Người ta có thể vẫn đi dự lễ, vẫn tham gia các Hội đoàn, nhưng trong cách hành xử với đồng loại thì luôn không ổn tí nào. Chúng ta cũng dễ dàng coi trọng những điều chúng ta cho là linh thiêng nhưng lại bỏ quên thực tại là những con người cụ thể chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Hồi mới ra trường, tôi vào Sài gòn và mua 1000 cây thánh giá gỗ nhỏ để tặng cho các bạn trẻ. Tôi đến Fatima Bình triệu và gặp một Sơ bán hàng ở đó. Số lượng Thánh giá lớn quá nên Sơ đó hẹn tôi đến chiều quay lại. Buổi chiều hôm đó tôi có việc nên 18h00 mới tới được. Sơ đó bảo giờ đó thì con không thể tiếp Cha được vì con phải chầu Mình Thánh Chúa với cộng đoàn. Tôi không hiểu ngày đó làm sao tôi lại có thể nói được một câu mà đến giờ tôi cũng bất ngờ. Tôi bảo Sơ đó rằng liệu Sơ có thể để lại một Giêsu trong Nhà Chầu để gặp một Giêsu giữa đời được không? Sau một chút ngần ngại, Sơ đó bảo tôi rằng thôi được Cha cứ đến. Bất cứ giờ nào con cũng sẵn sàng tiếp Cha.

Đó là một kinh nghiệm gây ngạc nhiên cho chính bản thân tôi. Nhiều khi chính tôi cũng lấy lý do này lý do nọ để từ chối tha nhân. Có những linh mục đã xua đuổi chính con chiên của mình chỉ vì họ đến không đúng ngày tiếp khách, ngày làm việc của ngài. Có những linh mục không kìm hãm được cơn giận dữ của mình nên sẵn sàng lên Tòa giảng để thóa mạ giáo dân. Thật xót xa khi chứng kiến những cảnh tượng như vậy. Làm sao chúng ta rao giảng một Thiên Chúa giàu lòng thương xót khi chính chúng ta lại thể hiện một bộ mặt đầy trái ngược? Làm sao nói về Cứu Độ, nói về Nước Trời, nói về Thiên đàng khi mà những cái nhỏ nhặt nhất chúng ta chưa làm được?

Lạy Chúa, Chúa nhật IV Mùa chay là Chúa nhật của màu hồng, Chúa nhật của niềm vui. Cũng như dân Do Thái xưa vui mừng vì được Hoàng đế Ba Tư là Cyrus cho hồi hương tái thiết Đền Thờ sau bao ngày lưu lạc tha hương, xin cho chúng con cảm nghiệm được niềm vui vì được Chúa yêu thương mỗi ngày. Nhưng niềm vui ấy chỉ thực sự trọn vẹn khi chúng con thực tâm trở về sống tình huynh đệ chan hòa yêu thương với những người chúng con gặp gỡ trên đường đời. Xin giúp chúng con thực hiện được điều đó hôm nay. Amen.

Về mục lục

THIÊN CHÚA YÊU THẾ GIAN

Lm. Giuse Nguyễn

 Trong những ngày này, Giáo hội Việt Nam sống lại kỷ niệm với Đức cố TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc, TGM. Sài Gòn khi kỷ niệm 3 năm ngày mất của ngài trong chuyến Ad Limina cùng với HĐGMVN, nghĩa là cuộc viếng mộ các thánh Tông đồ, mà cụ thể là 2 thánh Phêrô và Phaolô để bày tỏ sự hiệp thông với Giáo hội và cũng để báo cáo với Tòa thánh về hiện trạng Giáo phận của mình. Còn nhớ 3 năm trước, Giáo Hội Việt Nam bàng hoàng trước tin Đức TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc qua đời. Không bàng hoàng sao được khi mới hôm trước Ngài còn vui vẻ, tươi cười hạnh phúc khi được yết kiến Đức Thánh Cha Phanxicô; không bàng hoàng sao được khi Ngài vừa mới chủ sự Thánh lễ tại vương cung thánh đường thánh Phaolô ngoại thành một cách rất sốt sắng… Nhưng xem ra sự ra đi của Ngài lại nằm trong hành trình trở về với yêu thương, vì Ngài đang trở về Rôma, “kinh thành muôn thuở” của người Công giáo, và hơn thế nữa trở về trong tình hiệp thông huynh đệ với Đức Thánh Cha và anh em Giám mục của mình, điều mà có lẽ chưa một vị Giám mục nào được diễm phúc. Và nhất là sự ra đi của Ngài là để trở về với Thiên Chúa là Cha yêu thương, một sự thật mà phụng vụ lời Chúa muốn gởi đến chúng ta hôm nay.

Tác giả Sử Biên Niên đã điểm lại những giai đoạn lịch sử của dân tộc Israel trước, trong và cuối cuộc lưu đày bên Babylon. Vì dân chúng phản nghịch, lại không chịu nghe lời Thiên Chúa thông qua các ngôn sứ và thủ lãnh, nên Thiên Chúa đã trừng phạt họ. Họ bị mất nước, bị lưu đày bên Babylon. Tuy nhiên, “giận thì giận mà thương thì vẫn thương”. Khi dân biết tội lỗi của mình, ăn năn sám hối, thì Thiên Chúa đã làm cho vua Kyrô thay đổi lòng dạ để ông ban sắc chỉ trả tự do cho dân của Chúa. Cho nên tất cả mọi sự đều do Thiên Chúa hành động để thanh luyện con người cho xứng với hạnh phúc cao quý Chúa ban.

Trong bài Tin Mừng, khởi đi từ cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô về sự sống vĩnh cửu, về ơn cứu độ. Hôm nay, Đức Giêsu như độc thoại, cho thấy vấn đề không còn là riêng của ông Nicôđêmô nữa mà là vấn đề của mọi người. Ngài nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”(Ga3,16). Đó là sự thật của phụng vụ lời Chúa hôm nay. Thiên Chúa yêu thế gian và muốn cứu độ tất cả mọi người. Phần con người muốn được cứu độ phải tin và đón nhận tình yêu đó; phải sống trong và trở về với yêu thương.

Như vậy tình yêu của Thiên Chúa không chỉ đem đến cảm xúc ngọt ngào theo kiểu: “Khi tình yêu đến dẫn ta đến bờ bến lạ”, mà tình yêu của Thiên Chúa thường là sự thanh luyện như việc mài cho đến khi viên ngọc sáng lên, rèn cho đến khi con dao sắc bén, tập luyện cho đến khi thuần thục, giỏi giang một bộ môn nào đó như tục ngữ Việt Nam có câu: “Ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”, hay “Thao trường đổ mồ hôi thì chiến trường bớt đổ máu”.

Chúng ta dừng lại một chút ở điểm này vì đó chính là thực tế đời sống đức tin của chúng ta. Có mấy người trong cuộc sống yên ổn, mọi sự đều tốt đẹp, không gặp điều chi phiền muộn? Dường như đa số chúng ta nếu không muốn nói là tất cả đều có “vấn đề” trong cuộc sống. Nếu không gặp “vấn đề” cho chính bản thân thì cũng sẽ gặp “vấn đề”  do người thân và hoàn cảnh. Những “vấn đề” này đến từ 2 lý do.

Lý do thứ nhất là hậu quả của những việc chúng ta đã làm như những người Do Thái trong bài đọc thứ nhất. Họ bị mất nước, bị lưu đày là do hậu quả của việc phản nghịch cùng Thiên Chúa và làm những điều ghê tởm. Những đau khổ, bệnh tật và những “vấn đề” chúng ta đang gặp phải có khi là do hậu quả chính mình làm ra: Uống rượu bia, hút thuốc lá, thức khuya, sống vô độ sẽ dễ bị bệnh; sử dụng những chất kích thích sẽ gây ảo giác dẫn đến không kiềm chế được bản thân, làm điều xấu; chạy xe tốc độ cao, không tuân thủ luật lệ giao thông sẽ dễ gây tai nạn; các hình thức cờ bạc như đánh bài ăn tiền, cá độ, đá gà có ngày sẽ “tán gia bại sản”; buôn bán không trung thực, lường gạt người khác có ngày sẽ vô tù; trộm cướp, móc túi, giựt dọc sẽ có ngày bị người ta phát hiện và đánh nhừ tử cho chừa cái thói gian tà… Và nhiều những bất trắc khác mà nếu xét lại thì chính chúng ta là nguyên nhân.

Lý do thứ hai là Thiên Chúa muốn dùng những hoàn cảnh đó để thanh luyện chúng ta. Thiên Chúa có quyền làm như thế vì Ngài là chủ, là cha, là chúa tể muôn loài, nên trước khi trao điều gì quý giá, Ngài muốn xem chúng ta có xứng đáng hay không. Sau khi thử thách đức tin của Apraham, Thiên Chúa mới cho ông trở thành “tổ phụ của những kẻ tin”. ĐHY. Phaxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận khi còn làm Giám mục ở Việt Nam đã bị tù đày một cách vô cớ suốt 11 năm trời, sau này Ngài đã được trả công xứng đáng khi được Tòa Thánh tin tưởng trao cho những trọng trách quan trọng trong Giáo hội cùng với tước Hồng Y, và hiện tại đang tiến hành hồ sở tuyên thánh cho Ngài… Cũng vậy có những người không làm điều chi gian ác, sống tốt lành, thánh thiện… nhưng vẫn gặp những bất hạnh trong cuộc đời. Ví dụ gia đình nọ có người cha rất tốt, yêu thương lo lắng cho vợ con, đọc kinh, đi lễ hằng ngày… bỗng nhiên đột quỵ, qua đời. Gia đình buồn quá sức. Nhưng qua sự kiện đó, những người thân trong gia đình đi xưng tội để cầu nguyện cho ông, sau đó đi lễ, sống đạo rất tốt. Người vợ chia sẻ: “Con cám ơn Chúa, vì nhờ ba nó mà mấy đứa con của con đã trở lại”.

Điểm chung của cả 2 lý do này là dù như thế nào chúng ta vẫn gặp những đau khổ trong cuộc đời. Nhưng như lời của thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai: “Anh em đã chết vì phạm tội, nhưng được cứu độ nhờ ân sủng” (x. Ep2,5); nghĩa là mọi sự đều là ân sủng của Chúa để cứu độ chúng ta, và đó là tình yêu vĩ đại nhất của Ngài.

Điều đáng nói là con người chúng ta chỉ tìm kiếm thứ tình yêu êm dịu ngọt ngào. Nếu như vậy thì chúng ta chưa sống đức tin thực sự. Đức tin đòi hỏi nơi chúng ta sự tín thác vào tình yêu của Chúa và sống theo những gì Ngài chỉ dạy.

Ví dụ khi gặp những khó khăn chúng ta chỉ xin Chúa giải quyết theo ý chúng ta: “Con bị bệnh, xin Chúa cho con hết bệnh”; “Con đang thiếu nợ xin Chúa cho con trúng số để trả nợ”; “Gia đình con đang trục trặc, xin Chúa cho gia đình con yên ổn”… mà không tìm hiểu những nguyên nhân do đâu dẫn đến những khó khăn đó. Nếu do chính chúng ta thì phải giải quyết từ bản thân của mình. Có chăng là xin Chúa ban sức mạnh để con có thể sửa đổi. Ví dụ con bị bệnh vì con ăn nhậu quá sức ; gia đình con trục trặc vì con “ham của lạ” ; con thiếu nợ vì con bài bạc…

Còn nếu xét mình lại những khó khăn không phải do mình, và có những điều mình không thể chấp nhận được, thì hãy biết rằng Thiên Chúa đang có chương trình đặc biệt cho chúng ta. Ngài muốn dùng chúng ta để thanh luyện kẻ khác và chắc chắn hạnh phúc của chúng ta là rất lớn lao.

Mùa Chay là thời gian nhắc nhở về tình yêu của Thiên Chúa để mỗi người hãy lo sám hối vì những việc làm sai trái của mình kẻo không xứng đáng với công trình cứu độ của Chúa; cũng là thời gian để chúng ta hy sinh hãm mình đón nhận tất cả mọi đau khổ Thiên Chúa muốn, vì Đức Giêsu có trãi qua đau khổ mới đến vinh quang. Nhất là để nhắc nhở chúng ta về hành trình trở về với yêu thương để “Làm mọi sự vì Đức Ái”. Chỉ khi nào con người có Thiên Chúa họ mới bình an và sẵn sàng trong mọi sự.

Xin Thánh Cả Giuse là Đấng chúng con đang hướng đến trong năm đặc biệt này, giúp chúng con luôn sống theo thánh ý Chúa như Ngài đã từng sống. Xin Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp mà chúng con vừa cử hành lễ giỗ lần thứ 75 chuyển cầu cho nỗi lòng của chúng con, để dù thế nào chúng con vẫn được bình an trong cuộc sống.

Về mục lục

THẬP GIÁ YÊU THƯƠNG, THẬP GIÁ CỨU ĐỘ

Lm. Antôn Phạm Trọng Quang

Truyền thuyết Hy Lạp kể rằng con trai của thần Thái Dương Appolon là Esculape, được coi là ông tổ của ngành y dược. Vì ông không chỉ có khả năng chữa bệnh mà còn có thể làm cho người chết sống lại.

Esculape chào đời khoảng năm 1260 trước Công nguyên. Theo truyền thuyết, mẹ ông qua đời khi ông còn trong bụng mẹ nên cha của ông phải mổ lấy con ra khỏi bụng bà. Vì không có mẹ nên cha ông bỏ ông lên núi, ông được dê cho bú và chó canh chừng nên đã sống sót. Lớn lên do bản tính thích quan sát nên ông nhận ra nhiều loài cây dược thảo có thể dùng để chữa bệnh hoặc cải tử hoàn sinh.

Chuyện cũng kể rằng, một hôm nọ, Esculape đang trên đường đi thăm bạn, ông nhìn thấy một con rắn đang tiến về phía mình, ông đưa gậy ra thì con rắn liền quấn quanh cái gậy. Như một cách phản ứng tự nhiên, ông ném cây gậy xuống đất với mục đích giết chết con rắn đi. Nhưng ngay lập tức ông lại thấy xuất hiện một con rắn khác bò tới. Miệng con rắn này ngậm một loài thảo dược dùng để cứu đồng loại của nó. Từ sau đó Esculape đã để tâm đến loài thảo duộc này, rồi dùng nó để chữa bệnh cho mọi người.

Dựa vào truyền thuyết trên, ngành y đã lấy hình ảnh con rắn quấn quanh cái gậy để làm biểu tượng cho ngành. Với hy vọng tượng trưng cho sự khôn ngoan, khả năng chữa trị bệnh và kéo dài tuổi thọ của con người.

Câu chuyện về con rắn treo trên cây gậy cũng được đề cập đến trong Cựu Ước ở Sách Dân Số chương 21. Kinh Thánh kể rằng, khi dân Israel chịu cảnh nô lệ bên Ai cập, họ đã kêu cầu xin Chúa giải thoát họ khỏi cảnh tù đầy. Thiên Chúa đã nghe tiếng kêu cầu than khóc của họ, nên Ngài đã chọn ông Môsô để dẫn đưa dân Ngài ra khởi cảnh lưu đày và đưa họ về với vùng đất hứa.

Tuy nhiên trên đường đi họ đã trách móc nặng lời và chống lại Thiên Chúa nhiều lần. Vì thế, Thiên Chúa đã để cho loài rắn độc từ trong sa mạc tiến ra cắn chết nhiều người. Ông Môsê thấy thế liền kêu van Thiên Chúa tha thứ vì sự phản bội và vô ơn của dân, đồng thời xin Người ra tay cứu sống những người bị rắn cắn. Thiên Chúa nhận ra lòng thành và truyền cho ông Môsê đúc một con rắn đồng, treo lên cây gậy, để ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó thì sẽ được cứu sống. Nghe lời Đức Chúa, ông Môsê đã làm như vậy, thế nên dân Israel đã được thoát chết.

Con rắn đồng chính vì vậy đã trở thành biểu tượng của lòng từ bi và hay tha thứ của Thiên Chúa. Nhất là trong Tin Mừng của Thánh Gioan chương 3, Chúa Giêsu cũng dùng hình ảnh con rắn đồng nơi sa mạc để so sánh với chính Ngài, Chúa nói: “Như ông Môsê đã dương con rắn đồng trong sa mạc thế nào, Con Người cũng phải được giương cao như vậy, để tất cả những ai tin vào Người, sẽ không bị hủy diệt, nhưng được sống đời đời” (3, 14-15).

Thật vậy, việc Đức Giêsu bị treo lên trên cây thập tự nói lên tình thương của Người dành cho nhân loại, Ngài dùng chính mạng sống của mình để cứu lấy phần rỗi nhân loại chúng ta. Vì sau khi con người phạm tội, phản nghịch cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa đã không từ bỏ con người, nhưng sai Con Một của Người là Đức Giêsu Kitô xuống thế làm người để cứu chuộc. Như lời của thánh Gioan tuyên bố: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).

Tình yêu đó thật lớn lao, tình yêu của người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình, đó là tình yêu mà Đức Kitô đã dành cho loài người chúng ta (x. Ga 15,13). Thiên Chúa không cần gì khác ngoài việc khao khát chúng ta hướng lòng lên ngài. Còn chúng ta, để đáp lại tình yêu đó, không cần gì khác ngoài việc đặt hết niềm tin tưởng và cậy trông vào Chúa.

Cuộc đời chúng ta gặp đầy những đau khổ và bệnh tật, không quản bệnh về thể xác, tinh thần hay cả tâm hồn. Vì thế, ngoài việc tìm thầy chạy thuốc, chúng ta cũng biết chạy đến cùng Chúa Giêsu để xin Ngài cứu giúp. Thiên Chúa là Cha nhân từ, Ngài không bao giờ ngoảnh mặt làm ngơ nhưng sẽ ghé mắt thương đến chúng ta, như lời Ngài đã hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7,7).

Xin cho chúng ta, khi nhìn lên thánh giá, luôn cảm nghiệm được lòng từ bi hay thương xót của Ngài. Xin cho chúng ta khi nhìn lên thập giá Chúa Kitô, luôn được củng cố niềm tin về quyền năng chữa lành của Chúa. Và xin cho chúng ta, khi nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh, biết cải đổi tâm hồn, trở về với Chúa tình yêu để được ơn giải thoát và đón nhận ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã dành sẵn cho mỗi người chúng ta.

Về mục lục

KHẮC SÂU TÂM NIỆM

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

Lời phán của Chúa Giêsu: “Như Môisen giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy”, khiến ta nhớ lại câu chuyện rắn đồng trong sa mạc:

Sau khi xuất Aicập, bốn mươi năm ròng rã trong hoang địa, dân Israel gặp mọi thử thách. Họ oán trách Chúa đã để họ lầm than. Cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đã để mặc rắn độc cắn nhiều người. Dân quá khiếp sợ. Họ nhìn nhận tội lỗi. Đấng Chí Thánh hằng ấp ủ tình yêu, một lần nữa lại đoái thương nỗi thống khổ của họ. Ngài dạy ông Môisen hãy làm một con rắn bằng đồng, treo lên cây, để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng, sẽ được cứu.

Con rắn đồng được giương lên, thì ngay chính lúc đó, lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa tỏa sáng và trao ban. Từ nay, Thiên Chúa cứu sống dân, những kẻ đã từng oán trách, thậm chí chống đối Ngài.

Lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa mạnh vô song. Nó sẵn sàng vượt mọi thác ghềnh, mọi trở ngại, dẫu là trở ngại lớn nhất, kinh khủng nhất, để trao ban cho loài người.

Chính lòng yêu thương khiến Thiên Chúa như ném chính Người Con Duy Nhất và yêu quý nhất của mình để ban lòng tha thứ đối với trần gian vô vàn lần xúc phạm Thiên Chúa:

“Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính Con Một, để ai tin vào Con của Ngài (…) được sống muôn đời. Thiên Chúa không sai Con của Ngài đến luận phạt trần gian, nhưng để trần gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”.

Thiên Chúa luôn ở về phía chúng ta để ra tay cứu chứ không phải phạt. Từ ngàn đời, Thiên Chúa vẫn chỉ trung thành với chính lòng yêu thương và tha thứ của mình.

Từ ngàn đời, dẫu nhân loại có tìm cách thoát ly tình yêu của Thiên Chúa, dẫu hết lần này đến lần khác, nhân loại không ngừng phản bội, chống đối chương trình tình yêu của Ngài, thì Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn đợi chờ, kiên nhẫn mời gọi họ trở về để hưởng sự sống xuất phát từ tình yêu của chính Thiên Chúa, một thứ tình mãnh liệt không gì bằng, một thứ tình không bao giờ có cùng, không bao giờ có dấu hiệu mệt mỏi, không bao giờ chậm lại.

Lời Chúa Giêsu: “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính Con Một…”, là một trong những lời khẳng định rõ nét nhất về khuôn mặt đích thật và cõi lòng bao dung trung nghĩa của Thiên Chúa.

Thiên Chúa yêu thế gian, yêu từng người và yêu tất cả nhân loại. Thiên Chúa vẫn một mực yêu thương, dù con người là ai, đang ở tình trạng nào.

Thiên Chúa thủy chung trong tình yêu của mình dành cho nhân loại, đơn giản là vì Ngài sinh ra nhân loại. Ngài là người Cha của tất cả. Thiên Chúa không nỡ nhìn đàn con bị hiểm nguy, nhất là bị cái chết đời đời đe dọa.

Vì thế, Thiên Chúa, trong một tình yêu quặng thắt và thổn thức, đã không ngừng trao ban tất cả, ngay cả trao ban chính Người Con Duy Nhất của mình.
Phần chúng ta, những kẻ thụ hưởng tình yêu vô cùng của Thiên Chúa, hãy luôn ý thức và cố gắng đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mình. Chẳng hạn:

– Một lòng tin tưởng vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh, dù phải đối diện không biết bao nhiêu may hay rủi, thuận lợi hay khó khăn, thành công hay thất bại…

– Siêng năng chiêm ngắm Thánh giá với hết cõi lòng sám hối và tin yêu. Chính Thánh giá là lời nói hùng hồn và chung cuộc về tình thương ngút ngàn của Thiên Chúa. Chính Thánh giá là suối nguồn ơn cứu độ dành cho tất cả mọi người.

Hãy nhìn lên Thánh giá mà thật lòng xin lỗi Chúa, thật lòng quyết tâm và đoan hứa với Chúa không để tội lỗi, không để sự sa ngã đè bẹp mình. Hãy giục lòng yêu mến Chúa nhiều hơn để sự cứu độ của Chúa không ra không, nhưng mang lại lợi ích cho chính bản thân mình.

– Hãy cảm tạ Chúa không ngừng, suốt đời chúng ta. Chúng ta phảu cưu mang lòng biết ơn Chúa, vì dù Chúa là Thiên Chúa, lại không bao giờ muốn đánh phạt, nhưng vẫn nhẫn nại để chờ đợi, để âu yếm, để cứu thoát chúng ta.

Hãy luôn khắc sâu tâm niệm này: TRONG ĐỜI NÀY, KHÔNG CÓ BẤT CỨ CÁI GÌ LỚN BẰNG TÌNH YÊU CỦA CHÚA.

Về mục lục

 

ĐẤNG GIẢI PHÓNG

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Trong Cựu ước, Thiên Chúa vừa được trình bày như Đấng sáng tạo muôn loài, vừa như Đấng giải phóng dân tộc Israen. Là Đấng sáng tạo, Ngài làm cho muôn vật từ hư vô trở thành hiện hữu. Là Đấng giải phóng, Ngài đã dùng cánh tay hùng mạnh mà giải phóng dân riêng ra khỏi cảnh nô lệ áp bức của người Ai Cập. Trải qua mọi thời đại, Chúa vẫn tiếp tục sáng tạo và làm cho công trình tạo vật trở nên hoàn hảo. Ngài cũng tiếp tục giải phóng con người, giúp họ thoát khỏi tội lỗi, cho họ được hưởng tự do của con cái Chúa. Lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu với chúng ta: Ơn cứu độ là một cuộc giải phóng nhờ Đức Giêsu Con Thiên Chúa
 
Bài đọc trích sách Sử Biên niên mang nội dung suy tư của các bậc hiền nhân. Tác giả đã nhìn lại lịch sử, tìm ra nguyên nhân của cuộc lưu đày đau thương. Đó là hậu quả do sự bất tuân của dân tộc Israen. Họ đã tôn thờ ngẫu tượng, xa lìa Luật Chúa, vi phạm các giới răn. Vì thế, Đền thờ bị phá hủy, lưỡi gươm của quân thù đã lấy đi biết bao mạng người, và cuối cùng là cuộc lưu đày sang Babylon. Sau mấy chục năm lưu đày, Chúa đã sai một vị cứu tinh đến để giải phóng dân tộc, đó là Kirô, vua Ba Tư. Vừa sau khi lên ngôi, vị vua này đã quyết định cho người Do Thái hồi hương, về với quê cha đất tổ. Hơn thế nữa, ông còn cung cấp tiền bạc cho các vị kỳ mục để tái thiết Đền Thờ đã bị phá hủy. Vì vậy, người Do Thái suy tôn vị vua này, và cho rằng ông chính là người được Chúa sai đến để cứu họ khỏi ách lưu đày, phục hưng xứ sở. Chính vị vua này cũng tin rằng ông làm việc theo lệnh truyền của Thiên Chúa: “Đây hoàng đế Kirô, vua xứ Ba-tư tuyên bố: Chúa là Thiên Chúa trời đất đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất, và chính Người đã ra lệnh cho trẫm xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong xứ Giuđa”.
 
Vua Kirô đã giải phóng dân Do Thái khỏi kiếp lưu đày. Kitô giáo sau này nhận ra vị vua này  là hình ảnh của Đức Giêsu, Đấng cứu nhân độ thế. Người là Đấng Chúa Cha sai đến trần gian, để giải thoát con người khỏi đau khổ và khỏi chết. Trong cuộc đàm đạo với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Vâng, nếu vua Ki-rô của vương quốc Ba Tư đã giải phóng dân Do Thái khỏi ách nô lệ trần gian, thì  Đức Kitô giải phóng nhân loại khỏi tội lỗi. Người là Đấng Thiên sai, đến trần gian để soi sáng cho con người đang bước đi trong u tối. Những ai đón nhận giáo huấn của Người sẽ được ánh sáng thiêng liêng chiếu rọi. Trước ánh sáng thiêng liêng ấy, người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Các tác giả Tin Mừng kể với chúng ta, sinh thời, Chúa Giêsu đã chữa lành rất nhiều người, thuộc đủ mọi chứng bệnh khác nhau, thậm chí Người còn cho kẻ đã chết được sống lại. Trong một số trường hợp, Chúa vừa chữa bệnh, vừa tha tội cho bệnh nhân. Như thế, Người là Đấng giải phóng con người khỏi đau khổ, bệnh tật. Người cũng giải phóng con người khỏi ách ma quỷ ràng buộc. Nhiều người bị quỷ ám, khi đến với Chúa, Người đã cứu thoát họ khỏi ách ma quỷ và cho họ được lành.
 
Trong Mùa Chay, Giáo Hội nhắc lại lời mời gọi sám hối canh tân. Canh tân là can đảm bước ra khỏi tối tăm, nhờ quyền năng của Chúa. Tin vào Chúa Giêsu là Đấng Cứu độ và là Đấng Chúa Cha sai đến, đó là một điều kiện để chúng ta được giải thoát khỏi tối tăm, đón nhận ánh sáng vĩnh cửu của Chúa.
 
Chúng ta đừng tự ti mặc cảm về quá khứ tội lỗi của mình. Thánh Phaolô nói với chúng ta: “Thiên Chúa là Đấng giàu lòng từ bi, vì lòng yêu thương cao cả mà Người đã yêu thương chúng ta, đến nỗi khi tội lỗi làm cho chúng ta phải chết, thì Người làm cho chúng ta sống lại trong Đức Kitô, nhờ ơn Ngài mà chúng ta được cứu rỗi” (Bài đọc II). Vâng, quyền năng tối cao của Thiên Chúa đã thể hiện trong Đức Giêsu. Hãy tin tưởng và mạnh dạn đến với Người, xin Người chỉ cho chúng ta biết con đường về với Chúa Cha.

Về mục lục

.

NHÌN LÊN ÁNH SÁNG

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Trong sa mạc, dân Israel kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Thiên Chúa cho rắn độc ra cắn họ, khiến nhiều người phải chết. Dân chúng xin ông Môsê khẩn cầu Thiên Chúa. Thiên Chúa truyền cho ông làm một con rắn bằng đồng và treo lên để ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống (Ds 21, 4b-9).

Hôm nay, khi nói Người sẽ bị treo lên như con rắn đồng của Môsê, Đức Giêsu mời gọi ta cũng hãy biết nhìn lên Thánh giá để được sống. Việc nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên Thánh giá mở ra cho ta những nhận thức sau:

1) Nhận thức về tội lỗi của ta. Dân Do thái phản nghịch với Chúa, nên họ đã bị rắn lửa cắn chết. Chính tội lỗi làm người ta phải đau khổ. Chính tội lỗi đã gây ra tai hoạ cho toàn dân. Chính tội lỗi đã gây ra chết chóc. Nhìn lên con rắn đồng là nhận biết mình tội lỗi. Cũng vậy, vì tội lỗi của ta mà Đức Giêsu đã chịu treo trên Thánh giá. Người nào có tội tình gì mà phải chết đau đớn, tủi nhục như thế. Không một mảnh vải che thân. Chết lúc tuổi thanh xuân. Chết như một tội nhân. Chết như một người nô lệ. Trước khi chết đã bị sỉ nhục, bị hành hạ đến tan nát hình hài, đến chẳng còn hình tượng con người. Tất cả chỉ vì tội lỗi của ta. Tội lỗi đã làm ta phải chết. Tội lỗi làm linh hồn ta bị biến dạng, méo mó, xấu xa. Tội lỗi khiến ta tủi nhục chẳng dám ngẩng mặt nhìn lên. Đức Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi của ta. Người chịu nhục nhã cho ta được vinh quang. Người chịu thương tích để chữa lành vết thương của ta. Người chịu chết như nô lệ để ta được tự do. Người chịu chết cho ta được sống. Người chịu treo lên để kéo ta khỏi vũng bùn nhơ tội lỗi. Nhìn ngắm Người chính là nhìn ngắm tội lỗi của ta. Hiểu được cái chết đau đớn tủi nhục của Người là ý thức được tội lỗi nặng nề của ta.

2) Nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Nhận thức về tội lỗi đưa ta đến nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Ta tội lỗi đáng phải chết. Nhưng Chúa thương yêu không bỏ rơi ta. Người tìm hết cách cứu ta. Tình yêu Chúa dành cho ta thật bao la tha thiết. Tình yêu đã khiến Chúa ra như điên dại. Còn ai điên dại hơn người dám hy sinh con một mình để cứu người khác. Thế mà Chúa Cha đã “yêu ta đến nỗi đã ban Con Một” của Người cho ta. Còn ai điên dại hơn kẻ dám liều mạng chết vì người yêu. Thế mà Đức Giêsu đã tự nguyện chết cho ta. Người đã dậy ta: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã hy sinh mạng sống để làm chứng tình yêu Người dành cho ta. Ta có xứng đáng gì đâu? Ta chỉ là một hạt bụi. Ta ngập trong yếu đuối tội lỗi. Thế mà Người yêu thương đến điên dại, đến chết vì ta. Càng nhìn lên Thánh giá, ta càng thấy mình tội lỗi. Càng thấy mình tội lỗi, ta lại càng thấy tình yêu thương của Chúa dành cho ta thật là bao la, tha thiết, mênh mông khôn tả.

3) Nhận thức về ơn cứu độ của Chúa. Trong sa mạc họ chẳng tìm ra người có thể cứu chữa họ. Chẳng có thuốc nào cứu họ khỏi chết. Chỉ mình Thiên Chúa có thể cứu họ. Thế nên họ phải nhìn lên con rắn đồng để được Chúa cứu. Ta cũng thế. Biết thân phận mình tội lỗi yếu hèn, ta càng cảm nghiệm được ơn cứu độ của Chúa. Ta ngập chìm trong tội lỗi, chẳng thể nào vươn lên được nếu không có ơn cứu độ của Chúa. Ta yếu đuối, chẳng thể nào tự sức mình đứng lên nếu không có ơn Chúa nâng đỡ. Ta bị giam cầm trong ngục tù sự chết, chỉ có Chúa mới có thể tháo bỏ xiềng xích, đưa ta tới miền sự sống. Linh hồn ta ngập ngụa nhơ uế, chỉ có Chúa mới có thể rửa sạch tội tình. Linh hồn ta bị bóng tối tội lỗi phủ vây, chỉ có ánh sáng của Chúa mới soi chiếu cho ta biết đường ngay lẽ phải.

Nhìn lên Thánh giá chính là từ nơi tối tăm nhìn lên ánh sáng. Ánh sáng tình yêu thương từ Thánh giá chiếu toả sẽ giúp ta an tâm trở về với Chúa là Cha, người Cha nhân hiền lúc nào cũng chờ đón đứa con hoang đàng trở về, lúc nào cũng sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho ta. Ánh sáng cứu độ từ Thánh giá chiếu toả sẽ giải thoát ta khỏi bóng tối tội lỗi, đưa ta trở về làm con cái Thiên Chúa Sự Sáng. Ánh sáng tình yêu và ánh sáng cứu độ sẽ nâng ta lên, để từ nay ta vượt thoát lên khỏi bóng tối tội lỗi, sống thanh sạch công chính, luôn mơ ước những điều cao thượng, xứng đáng là con cái sự sáng. Trong mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh, ta hãy năng chiêm ngắm Thánh giá, để Chúa nâng tâm hồn ta lên với Chúa.

Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32), xin hãy lôi kéo hồn con lên với Chúa.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Bạn có cảm thấy mình được Chúa yêu thương không? Hãy kể lại một kinh nghiệm trong đó bạn cảm nhận được tình yêu thương của Chúa.

2) Bạn có thấy mình yếu đuối, cần ơn Chúa cứu độ không?

3) Bạn đã chiêm ngắm Thánh giá lâu giờ chưa? Bạn có muốn chiêm ngắm Thánh giá trong mùa Chay này không?

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU LÀ MẠCH SỐNG CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Chúa Giêsu đã quả quyết :” Không có tình yêu nào cao quý bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ). Đức Giêsu là mạch sống của người Kitô hữu trong cuộc hành trình dương thế tới tiến về Quê Trời. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã sai chính Con Một của Người đến trần gian để cứu chuộc loài người, cứu vớt nhân loại qua cái chết tự hiến trên Thập giá.

Đọc Kinh Thánh, chúng ta nhận ra ngay trong Cựu Ước, Isaac con trai của tổ phụ Abraham là hình bóng của Chúa Giêsu. Isaac là con trai duy nhất của Abraham, Chúa Giêsu cũng thế. Isaac được Cha mình rất mực yêu thương, Chúa Giêsu cũng được Thiên Chúa Cha yêu thương như thế. Isaac được dâng làm của lễ, Chúa Giêsu cũng thế. Isaac được Cha mình dẫn lên một ngọn đồi để hiến tế, Chúa Giêsu cũng vậy. Thánh Phaolô trong thư thứ nhất hữu tín hữu Corintô cũng đã so sánh :”  Ađam con người đầu tiên, đã được dựng nên là một con người sống động, nhưng Ađam sau cùng là Đức Giêsu là Thần Khí ban sự sống…Ađam được nắn nên bằng đất, từ đất mà sinh ra, còn Ađam thứ hai, Đức Giêsu từ trời mà sinh ra….Người thuộc về đất thế nà, thì người thuộc về trời cũng thế ấy…” ( 1 Co 15, 45-49 ).  Bài Tin mừng của Thánh Gioan hôm nay viết :” Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời “. Hình ảnh con rắn đồng được ông Môsê treo lên cao trên cây gỗ trong sa mạc để ai bị rắn độc cắn nhìn lên đó sẽ được khỏi là tiên trưng cho việc Đức Giêsu chấp nhận cái chết theo Thiên Chúa Cha để cứu độ con người, cứu chuộc nhân loại. Thập giá Đức Kitô là dấu chỉ của tình yêu tuyệt vời của Thiên Chúa đối với nhân loại, nhưng đồng thời cũng là đòi hỏi của Thiên Chúa đối với con người. Đức Giêsu đã quả quyết để những ai tin vào Người sẽ không phải chết và có sự sống đời đời. Thập giá là hình phạt nhục nhã của người tử tội, nhưng Đức Giêsu đã chấp nhận Thập giá để mang lại sự sống và hạnh phúc cho con người.Đức Giêsu đã nói với những ai muốn theo Người :” Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình đi, vác Thập giá của mình mà theo Ta “. Vác Thập giá có nghĩa là chấp nhận bỏ ý riêng, từ bỏ bóng tối tội lỗi mà bước theo ánh sáng của Chúa.

Sống trong một thế giới vật chất, con người từ chối ánh sáng, vẫn lầm lũi bước đi trong đêm tối. Chúa Giêsu mời gọi mọi người hãy sống tình yêu vì thực sự Thập giá là hình phạt nhục nhã, nhưng chấp nhận Thập giá không có nghĩa là chấp nhận tôn thờ đau khổ, nhưng say mê tình yêu vì chỉ nơi “ Thập giá ơn cứu độ mới chứa chan “. Người môn đê của Chúa say mê Thập giá, nhưng Thập giá dẫn con người đến vinh quang. Đức Giêsu đã quả quyết :” Khi nào Ta bị đưa lên cao khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta”.

Thánh Phaolô  đã viết :” Chính nhờ ân sủng của Thiên Chúa mà anh chị em được cứu rỗi. Khi chúng ta kết hiệp với Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã làm cho chúng ta được sống lại cùng với Con Ngài và cùng người Con ấy cai trị thiên giới…Chính nhờ ân sủng của Thiên Chúa mà anh chị em được cứu rỗi qua đức tin. Chẳng phải do kết quả những nỗ lực riêng của anh chị em mà do ân huệ của Thiên Chúa…Thiên Chúa đã làm cho chúng ta được như hiện nay “.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cứu độ chúng con qua cái chết trên Thập giá.Xin cho chúng con luôn biết say mê Thập giá vì Thập giá chính là nguồn mạch tình yêu của chúng con.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

  1. Con rắn đồng trong sa mạc mà ông Môisê treo lên cây gỗ cao tượng trưng cho ai ?
  2. Thập giá đối với chúng ta là gì ?
  3. ”Khi nào Ta được treo lên cao, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta “ có nghĩa gì ?
  4. Tại sao lại nói:” Chúa Giêsulà mạch sống của chúng ta trong cuộc hành trình dương thế tiến về Quê Trời ? “.

Về mục lục

.

LỜI XIN LỖI

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Có câu chuyện kể rằng: vào buổi tối có hai mẹ con đang ăn tối trong nhà hàng. Thình lình có bà cụ bán vé số tới mời mua, người mẹ nhẹ nhàng mỉm cười và mua cho bà 2 tờ. Bà thấy thằng nhóc kế bên bà nựng nó tí. Thế là nó la lên và hất bà cụ ra tỏ vẻ sợ hãi đứng dậy. Bà mẹ thấy thế xin lỗi bà cụ rối rít. Bà cụ gật đầu và lủi thủi đi trong sự im lặng. Có 1 điều làm tôi khá bất ngờ, nếu đứng ở khía cạnh khác, người mẹ đã la đứa con hay tỏ vẻ khó chịu. Nhưng không, bà mẹ nói với con trai: “Nếu sau này mẹ già mẹ ra ngoài đường bán vé số, bị người ta làm như vậy con sẽ làm gì?”. Cậu con trai bối rối im lặng và thủ thỉ xin lỗi mẹ, mai mốt con không làm như vậy nữa. Hai mẹ con mỉm cười và tiếp tục ăn tiếp.

Cách giáo dục của bà mẹ này rất hay, không la con, nói từ tốn nhẹ nhàng nhưng làm cho cậu nhóc đau, và hiểu được những gì mình đã gây ra là không tốt. Người Việt Nam hôm nay rất ngại nói lời xin lỗi. Có thể vì kiêu căng không dám cúi mình nhận lỗi. Có thể là thiếu giáo dục nên không nhận ra cái sai để nói lời xin lỗi.

Nhiều gia đình đang đánh mất hạnh phúc khi vợ sai vẫn cố gào to tiếng để lấn át chồng. To còi là thắng mà! Nhiều người chồng sai vẫn cố dùng thói vũ phu để đè bẹp người khác. Thói gia trưởng mà! Nhiều đứa con  sai vẫn cố tình ngang bướng xem thường bố mẹ chẳng bằng tui! Mình giỏi hơn ông bả mà!

Cuộc sống sẽ hóa giải mọi hiềm khích nếu những người sống bên nhau biết nói lời xin lỗi. Đừng để khi đứng trước quan tài người thân mới nghẹn lời nói trong nước mắt. “Con nợ mẹ cha một lời xin lỗi” như bao bạn trẻ mà tôi đã thường gặp . . .

Thánh phaolo nói anh em đừng mắc nợ nhau điều gì ngoại trừ tình yêu. Nếu xét về tình yêu ta thấy mình còn nợ nhiều. Nợ ai đó một bổn phận, một công việc. Nợ ai đó một trách nhiệm mình chưa hoàn thành. Nợ ai đó một lời xin lỗi vì mình quá thờ ơ. Nợ ai đó một lần phản bội, phụ bạc với người hết mình yêu ta.

Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một của Ngài cho thế gian. Nhưng xem ra chúng ta còn nợ Ngài rất nhiều lời “xin lỗi Chúa” vì những lần xúc phạm đến Ngài, vì những lần không chu toàn bổn phận với Ngài và vì những lần ta phản bội để chạy theo thú vui trần thế.

Thiên Chúa ngàn đời vẫn thế, vẫn yêu là yêu cho đến cùng. Ngài vẫn tiếp tục thi thố tình yêu của mình trên từng cuộc đời chúng ta. Giá máu cứu chuộc Ngài vẫn đổ ra để mang đến ơn giao hòa cho chúng ta. Thánh giá Ngài vẫn mang lấy tội lỗi nhân loại khi Ngài tiếp tục hiến tế chính mình trên bàn thờ để sinh ơn cứu rỗi cho loài người chúng ta.

Xin cho chúng ta biết trả lại món nợ cho Chúa khi chính mình cũng chịu hiến tế hy sinh cho anh em. Xin loại bỏ nơi chúng ta tính hưởng thụ, thói ích kỷ để sống một đời yêu thương và phục vụ tha nhân. Đồng hãy hãy biết noi gương Ngài là sống yêu thương, sống phục vụ với hết khả năng và trách nhiệm để khi đi đến cuối cuộc đời có thể nói như thánh Phaolo tông đồ: “Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha”. 2 Tm 4, 1. Xin cho mùa chay thánh này giúp chúng ta sửa đổi và canh tân theo như lòng Chúa mong ước. Amen

Về mục lục

.

MỪNG VUI VÀ BƯỚC TIẾP

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Phụng vụ Chúa nhật IV Mùa Chay với chủ đề (Lætare – Mừng vui lên). Phụng Vụ của Giáo hội đang từ màu tím chuyển sang màu hồng mời gọi chúng ta tận hưởng trước niềm vui Phục Sinh : “Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem ! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành ! Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan.” (Ca nhập lễ)  Hay lời của Thánh vịnh gia : Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi : Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. Vui lên nào…… “.

Những lời trên diễn tả niềm vui thiêng thánh ngập tràn của Dân Chúa. Mừng vui lên, hỡi những người trước kia ở trong sầu khổ vì coi thường lời Chúa, bất trung, tội lỗi và nhạo báng các tiên tri nên mất nước, lâm vào cảnh nhà tan cửa nát phải đi lưu đầy, nay được trở về tái thiết quê hương. Mừng vui lên, vì Chúa dừng cơn thịnh nộ đổ xuống trên dân, nay được thay bằng lòng từ bi và tha thứ, ” Chúa thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư, nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: Đây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố : Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên ” (x. 2 Sb 36, 14-16. 19-23).

Sao không thể vui, không thề mừng được. Vì trước kia, dân phạm tội khiến đền thờ Chúa bị quân thù đốt cháy, tường thành Giêrusalem bị phá huỷ, các lâu đài và mọi đồ vật quý giá bị hỏa thiêu. Nay họ được kêu gọi tái thiết đền thờ Giêrusalem, được mời gọi đón nhận lại Thiên Chúa đến ở giữa họ, đón nhận sức mạnh của tình yêu và tha thứ” (x. 2 Sb 36, 14-16. 19-23).

Chúa là niềm vui, là hạnh phúc của Dân Chúa. Chúa luôn muốn Dân Chúa sống vui và sống hạnh phúc. Một người ốm đau bệnh tật cả về tinh thần lẫn thể xác sẽ sống không vui và sống hạnh phúc được. Cho dù tội lỗi có thể làm cho họ xa Chúa, mất niềm tin và trông cậy vào Chúa. Tội có thể đẩy đưa họ đến bờ sông Babylon đi chăng nữa, Thiên Chúa vẫn tiếp tục nói với họ : “Lưỡi tôi dính vào cuốn họng, nếu tôi không nhớ đến ngươi” (Tv 136,6). Và món quà làm cho Dân Chúa thỏa mãn niềm vui là Thiên Chúa yêu thương loài người đến nỗi “đã ban Con Một Người” (Ga 3,16).

Quả thật, Thiên Chúa dựng nên con người, ban bố những giới răn, không phải như những ách trói buộc, nhưng là như nguồn tự do, để con người cư xử khôn ngoan, sống theo công lý và hoà bình, biết đặt tin tưởng nơi tha nhân và cùng nhau thực hành các việc công chính dựa theo ý của Chúa để vui sống hạnh phúc.

Chúng ta ngày hôm nay thì sao ? Chúng ta đang trên hành trình cùng với Chúa Giêsu bước trong “hoang địa”. Ðây là quãng thời gian chúng ta lắng nghe tiếng Chúa và cũng để vạch trần mặt nạ của những cám dỗ trong lòng chúng ta. Ở phía chân trời của hoang địa này chúng ta thấy nổi lên cây thập giá. Thập giá Chúa Kitô là đỉnh điểm của tình yêu đem lại ơn cứu độ cho chúng ta. Chính Chúa Giêsu khẳng định : “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14-15).

Khi sánh ví mình như con rắn được Môse giương lên trong sa mạc, Chúa Giêsu gợi cho chúng ta nhớ tới con rắn trong vườn địa đàng (St 3, 1-5). Nếu con rắn trong địa đàng xuất hiện đang lúc loài người đang ở đỉnh cao hạnh phúc, thì con rắn đồng trong sa mạc xuất hiện giữa cảnh cơ cực của những người tha hương vừa thoát khỏi kiếp nô lệ cho người Aicập.

Nếu con rắn trong địa đàng là hiện thân của tội lỗi và sự dữ, thì con rắn đồng trong sa mạc là “tin mừng” cho những kẻ ngước nhìn lên nó.

Nếu con rắn trong địa đàng hủy diệt mọi tương quan tốt đẹp giữa con người với Thiên Chúa, thì con rắn đồng trong sa mạc mang lại niềm hy vọng vì nhận ra lòng thương xót của Chúa.

Và nếu con rắn trong địa đàng gieo sự chết vào thế giới loài người, thì con rắn đồng trong sa mạc lại có khả năng trao ban sự sống.

Như vậy, hình tượng của hai con rắn Cựu Ước hoàn toàn trái nghịch nhau. Tuy nhiên, dù trái nghịch, hai con rắn Cựu Ước chẳng những không mâu thuẫn nhau, mà hậu quả do con rắn trong địa đàng gây nên, sẽ được con rắn đồng trong sa mạc báo trước ngày chữa trị. Bởi hậu quả của con rắn thứ nhất gây nên chỉ toàn đổ vỡ, mất mát, ô nhục, sẽ được con rắn thứ hai bổ túc bằng cách cho thấy sự sống bắt đầu phát sinh, hạnh phúc bắt đầu ló dạng và niềm vui cứu chuộc bắt đầu tỏa sáng.

Bởi do con rắn trong địa đàng, nhân loại đã phạm tội. Vì tội, nhân loại đáng được “Đấng Cứu độ đời đời” (bài ca Exultex – đêm Phục sinh), thì con rắn đồng trong sa mạc làm trọn vai trò của mình là báo trước ơn cứu độ đời đời ấy.

Khi nhắc lại: “Như Môisen giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy” (Ga 3, 14). Chúa Giêsu ám chỉ lúc mình được giương cao trên thập giá, ai đang ở trong hiểm nguy của tội lỗi, nhìn lên Người với lòng tin thì sẽ được cứu độ như Gioan nói: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ ” (Ga 3,17).

Nếu ngày xưa ai nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống, thì ngày nay thập giá Chúa Kitô chính là ơn cứu độ trọn vẹn cho những ai tin (x.Ga 3, 15). Hình bóng cũ thoáng qua đã được hoàn tất bằng thực tại mới sống động và vững bền. Chúa Kitô mãi mãi là Đấng Cứu độ duy nhất của trần gian (x.Dt 13, 8).

Tình yêu Thiên Chúa là vô biên và Người đã ban Con Một để chuộc tội con người. Phần chúng ta, mỗi người cũng phải chịu trách nhiệm về mình, phải nhìn nhận chính tội của mình để ơn tha thứ của Thiên Chúa, đã thể hiện trên Thập giá.

Hãy để Thiên Chúa yêu thương chúng ta, đáp lại chúng ta yêu mến Ngài, và như thế chúng ta bước tiếp hành trình Mùa Chay Thánh với niềm vui. Chúng ta sẽ nhận lãnh niềm vui lớn lao tràn trề vào Lễ Vượt Qua sắp tới.

Chúa là niềm vui của chúng con, xin cho chúng con cảm nghiệm được niềm vui ơn cứu chuộc mà Chúa mang lại cho chúng con nhờ cái chết và sự phục sinh của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

TÌNH YÊU THIÊN CHÚA VÔ BIÊN

Lm. Inhaxio Trần Ngà

Thiên Chúa tạo dựng nên vạn vật trong vũ trụ nầy và Ngài điều hành vũ trụ bằng các quy luật bất di bất dịch. Ví dụ, theo quy luật Chúa truyền thì nước phải chảy về chỗ trũng, khi gặp nóng thì bốc thành hơi, khi gặp lạnh dưới 0 độ thì đông cứng như đá… Cứ thế, nước luôn tuân hành quy luật đó không bao giờ sai chạy.

Và loài người cũng phải tuân theo quy luật mà Thiên Chúa đã an bài, một trong những quy luật đó là: Tội lỗi gây ra sự chết. Ai có tội thì người đó phải chết (nghĩa là phải chịu cực hình trong hỏa ngục đời đời.)

Quy luật nầy đã được tiên tri Ê-dê-ki-ên công bố từ ngàn xưa: “Ai phạm tội, người ấy phải chết” (Ê-dê-ki-ên 18,20).

Quy luật nầy lại được thánh Phao-lô lặp lại trong thư Rôma: “Chỉ vì một người mà tội lỗi đã đột nhập trần gian và tội lỗi gây nên cái chết” (Rm 5, 12. Rm 6, 23. Galat 6,7).

Điều đáng tiếc là mọi người sinh ra trên đời đều có tội và chiếu theo luật thì tất cả đều phải bị án chết. Nhưng nếu để cho muôn người phải chết vì tội lỗi họ gây ra thì Thiên Chúa quá đau lòng. Còn nếu để cho loài người mắc tội mà không phải chết thì chính Thiên Chúa lại tự huỷ bỏ lề luật mà Ngài đã ban hành. Như thế, loài người sẽ tha hồ phạm tội mà chẳng sợ hậu quả nào; thế là nhân loại sẽ sa đoạ, con người dần dần hư hỏng và trần gian này sẽ hoá nên địa ngục.

Vậy phải giải quyết thế nào?

Giải pháp chết thay

Để giải quyết vấn đề này, Thiên Chúa chọn một giải pháp tuyệt vời, đó là tìm người chết thay.

Thiên Chúa Cha đã cho Con Một của Ngài xuống thế làm người, trở nên Anh cả của loài người, trở nên người đại diện chính thức của loài người, nhờ đó, Ngài mới có thể nhận tội, đền tội và chết thay cho muôn người được.

Đây quả là một giải pháp tuyệt vời: “Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt” (Ga 11, 50).

 

Tình yêu Thiên Chúa vô biên

Thế là Chúa Giê-su, Con Một của Thiên Chúa Cha, vì chấp nhận gánh lấy tội lỗi của muôn người trên thế gian, nên Ngài phải mang lấy hậu quả của tội, là bị kết án như một tên gian phi, chịu chết treo trên thập giá để đền tội cho muôn người, đúng như lời Ngài báo trước với ông Ni-cô-đê-mô:

“Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” Ga 3,14-15).

Và thánh Phê-rô đã xác nhận điều này như sau:

“Tội lỗi của chúng ta, chính Ngài đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Ngài phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (I Pr 2, 24).

Khi chịu khổ nạn đau thương và chịu chết trên thập giá, Chúa Giêsu đền tội cho chúng ta, chết thay cho chúng ta. Nhờ Ngài phải chịu đòn vọt đau đớn mà chúng ta được tha tội, nhờ Ngài chịu chết thay mà chúng ta thoát khỏi án chết mà được sống đời đời.  

Từ đó, thập giá Chúa Giêsu trở thành biểu tượng cao nhất của tình yêu.

Nơi đây vang lên sứ điệp yêu thương ngàn đời của Thiên Chúa Cha: “Thiên Chúa Cha đã yêu thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một, để ai tin vào con của Ngài thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).

Nơi đây cũng vọng lên sứ điệp yêu thương bất tận của Chúa Con: “Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu của người hiến mạng cho bạn hữu mình” (Ga 15, 13).

Yêu thương đến nỗi hiến thân chịu chết cho người khác quả là một tình yêu hết sức cao vời và đó là tột đỉnh của tình yêu.

Tôi tớ thấp hèn chết thay cho ông chủ cao sang quyền quý, hay người dân đen cùng khốn chết thay cho đức vua cao trọng, hoặc con cái trong gia đình chết thay cho cha mẹ tốt lành… là điều tuy hiếm nhưng có thể hiểu được; còn việc Ngôi Hai Thiên Chúa là Chúa tể trời đất, vốn rất cao sang, quyền phép… chấp nhận chết thay cho con người thấp hèn, tội lỗi là điều không trí óc nào tưởng tượng được.

Duy chỉ có Thiên Chúa mới dám nghĩ, dám làm điều không tưởng đó.

Duy chỉ có tình yêu cao vời của Thiên Chúa mới đủ sức thực hiện điều phi thường đó mà thôi.

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa là Chúa Tể quyền năng, là Vua thống trị muôn loài, là Đấng vô cùng cao cả; trước mặt Ngài, con người chỉ là tro bụi thấp hèn bé mọn, thế mà vì yêu thương, Ngài đã hạ mình xuống thế làm người và hiến thân chết thay cho loài người thấp hèn tội lỗi chúng con. Chúa đã dành cho chúng con một tình yêu vô lượng vô biên. Xin cho chúng con cố gắng sống tốt, sống đẹp, sống thánh thiện mỗi ngày, để đền đáp phần nào tình yêu cao vời của Chúa.

Về mục lục

.

NGƯỚC NHÌN THÁNH GIÁ

Bông hồng nhỏ

Mỗi khi ngước nhìn bầu trời, ta tìm một hình thù kỳ lạ từ những đám mây trắng bồng bềnh. Gió đẩy đưa từng đám mây và chúng trộn lẫn vào nhau trở thành một con cún con, một hình tròn và từ cái hình tròn ấy từ từ lại trở thành một trái tim. Có khi ta ngước nhìn trời mong tìm một cơn mưa giữa mùa hè oi ả. Có những cái ngước nhìn để tìm lại sự sống của dân Itrael khi họ bị rắn cắn. Theo lời Đức Chúa truyền dạy, ông Môsê cho đúc con rắn đồng và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên thì được cứu.

Đó là câu chuyện của thời Cựu Ước, là hình ảnh tiên trưng cho việc Con Người cũng sẽ phải được treo lên để cứu chuộc muôn người.  “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3, 14- 15). Hôm nay, đọc đoạn Tin Mừng theo thánh sử Gioan, ta cũng tự hỏi chính mình: Tôi đã ngước nhìn lên Đấng Chịu Đóng Đinh với tâm tình và thái độ nào? Giữa những gian truân của kiếp người, chắc hẳn không ít lần ta đã tìm đến để tâm sự với Người. Ta như một bệnh nhân tìm đến vị bác sĩ của mình để được chữa lành. Dân Itrael xưa bị rắn độc cắn đã nhìn lên con rắn đồng để được chữa khỏi phải chết. Thầy Giêsu đã khẳng định rằng chính Người cũng sẽ phải được giương cao lên để ai tin thì được cứu độ. Mỗi lần ngước nhìn Chúa Giêsu trên thánh giá, tâm hồn ta như được nâng đỡ giữa những đau khổ của kiếp người. Ta cần ngước lên kêu cầu thánh danh Đức Chúa. Thiên Chúa luôn yêu thương ta. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Chính nhờ đức tin vào Thiên Chúa mà ta hành động và khi ấy ta sống trong Thần Khí và sự thật. “Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.” (Ga 3, 21). Hãy cảm tạ Chúa về hồng ân được làm con Chúa và được sống trong ân sủng của Ngài.

Lạy Chúa Giêsu yêu mến! Chúa đã làm người và chịu chết trên cây thập tự vì Chúa yêu con và nhân loại. Xin cho con can đảm bước đi trong ánh sáng tình yêu của Chúa để nhờ đó, con được tự do làm con cái Chúa. Những khi kiệt sức và chán chường, xin cho con biết ngước nhìn lên Thánh giá để thấy rằng, Chúa đang rất yêu con. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA LÀ ÁNH SÁNG THẬT

Anna Cỏ may

Ánh nắng xế chiều. Bóng tối buông xuống. Những ánh đèn được thắp lên trong khắp mọi nhà và các đường phố. Nơi miền quê xa xôi phải chịu nguồn điện yếu hơn ở thành phố. Bởi đó, cứ đến mùa hè, việc cúp điện thường xuyên xảy ra. Mỗi khi mất điện, lũ trẻ sợ hãi và hét lên. Mọi người phải nhanh tay nhanh chân đi tìm nến và đèn để thắp sáng lên. Ánh sáng của nến đu đưa theo làn gió, có lúc sáng rực lên, có lúc mập mờ như muốn vụt tắt. Dù là vậy, lũ trẻ con vẫn an tâm khi nến được thắp lên.

 Còn mỗi người chúng ta mỗi khi đi ra đường, thường muốn đi dưới con đường đầy ánh sáng cũng như luôn muốn sống trong một căn nhà thoáng mát và đầy đủ ánh sáng. Những ánh sáng ấy thường do con người chế tạo nên. Còn có một thứ ánh sáng mà mọi người chúng ta ít quan tâm là Ánh Sáng Chúa Giêsu. Ánh Sáng Chúa được tỏa sáng trong cuộc sống nơi bổn phận hằng ngày. Ánh sáng ấy chính là những sự thật, những chân lý, sự công bằng và bác ái với nhau. Song vì thân phận yếu đuối và nhiều lý do khác khiến chúng ta dễ buông mình vào trong bóng tối của sự chết. Lời Chúa đã nói “Ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm không bị chế trách” (Ga 3, 20).

Với cuộc sống hiện nay, dường như chúng ta có nhiều lối suy nghĩ nhằm biện minh cho hành động của mình.  Chẳng hạn chúng ta thường nói “thật thà mà chết đói à”. Do đó, chúng ta dễ bị lôi cuốn vào lối sống ấy. Bên cạnh đó, cũng có nhiều người sống trong sự thật nhưng không đủ niềm tin vào Chúa và bản thân mà phải thất bại trước thử thách hằng ngày. Nhưng, dám chắc một điều là ai cũng muốn được sống trong ánh sáng hơn là sống trong bóng tối.

Không có gì là bí mật mãi. Dù chúng ta giấu, bao bọc, luồn lách đến thế nào thì sự thật vẫn là sự thật, ánh sáng vẫn tỏa sáng. Tin tức cập nhật 24h, các bài báo, bài viết đã liên tục đưa tin cho chúng ta hay về những nhân vật đã ẩn nấp sau nhiều năm cũng phải xuất hiện. Bởi đó, chúng ta đừng quá sợ, hãy can đảm sống trong ánh sáng của Chúa. Ánh sáng bất diệt không bao giờ tắt. Để sống trong ánh sáng của Chúa, chúng ta cần phải nỗ lực cố gắng từng ngày. Mỗi ngày chúng ta hãy can đảm giảm một chút bóng tối trong cuộc đời mình với niềm tin tưởng tín thác vào Chúa, và tin tin rằng chỉ có ánh sáng Chúa mới có thể giúp cho cuộc sống của ta thêm bình và hạnh phúc.

Lạy Chúa, thời gian này là quý báu nhất cho chúng con. Chúng con cảm tạ Chúa và xin Chúa ban cho mỗi người chúng con nhận ra giá trị ánh sáng của Chúa. Đồng thời biết xa lánh những việc làm không đẹp lòng Chúa. Amen.  

Về mục lục

.

THẬP GIÁ

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Lữ hành sa mạc hoang vu,

Đám dân phạm tội, dập trù oán than.

Môi-sen treo rắn lên ràn,

Người nào rắn cắn, cầu van khỏi liền.

Con Người sẽ phải treo lên,

Ai tin được sống, cõi thiên muôn đời.

Chúa sai Con Một từ trời,

Xả thân cứu độ, mọi người trần gian.

Ai tin Con Chúa thiên nhan,

Nguồn ơn Thập giá, trao ban sống đời.

Không tin danh Chúa rạng ngời

Chịu phần án phạt, một đời gian nan.

Chúa là nguồn sống thương ban,

Đi trong sự thật, ơn ban bởi trời

Chối từ nguồn sáng trong đời,

Đi trong bóng tối vào nơi thảm sầu.

Đỉnh cao của ơn cứu độ đó là thập giá Chúa Kitô. Xưa Môisen treo con rắn lên trong hoang địa, để những ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng sẽ được cứu khỏi. Chúa Giêsu vâng ý Chúa Cha, hiến dâng mình làm lễ hy tế trên thập giá để cứu mọi người. Những ai tin vào Chúa sẽ có sự sống đời đời. Tin vào Chúa là tin vào công trình cứu độ của Ngài.     

Chương trình cứu độ của Thiên Chúa xảy ra trong lịch sử của loài người. Từ khi tổ tiên sa ngã phạm tội, con người đã lần bước trong bóng đêm của tội lỗi. Thiên Chúa không ngừng mời gọi và dẫn dắt trở về. Qua các biến cố trong lịch sử cứu độ, Chúa đã sai các tổ phụ, các tiên tri và sau cùng sai chính Con Một của Ngài để mang ánh sáng cứu độ giải thoát con người.  Chính Chúa Giêsu đã nhập thể hoá thân làm người. Ngài đã dâng hiến thân mình làm hy tế xóa tội trần gian. Chúa còn hiện diện thực sự qua các Bí Tích để mang ơn cứu độ cho chúng ta.   

Chúa không sai Con Ngài giáng trần để luận phạt mà là để cứu độ. Rất nhiều người chưa nhận biết Chúa. Rất nhiều người chối từ Chúa. Chúa vẫn hóa thân len lỏi vào cuộc sống con người qua hình ảnh của những kẻ bần cùng, những người đói khổ, nghèo nàn, cô đơn, góa bụa và bệnh hoạn tật nguyền. Chúa chiếu dọi ánh sáng qua những kẻ thấp hèn nhất. Chính họ là hình ảnh của Chúa.   

Ánh sáng của Chúa đến thế gian nhưng thế gian không muốn tiếp nhận ánh sáng. Con người đã nhiều lần từ chối ân huệ của Thiên Chúa. Chúa vẫn kiên nhẫn đợi chờ với lòng yêu thương.  Tình yêu của Chúa không vơi giảm cho dù con người tệ bạc và phản bội. Chúa luôn sẵn lòng mở rộng cánh tay đón những người con phung phá và tội lỗi trở về.    

Trong Mùa Chay Thánh, mỗi người chúng ta hãy dừng lại đôi phút gẫm suy về tình yêu Chúa. Đã biết bao lần chúng ta sa ngã phạm tội, biết bao lần chúng ta ngoảnh mặt làm ngơ và biết bao lần chúng ta đã phản bội lời thề hứa, mùa chay là dịp thuận lợi cho chúng ta trở về. Trở về với nguồn tình yêu là Cha nhân hiền. Ngài giang tay trên thập giá, trong khi chờ đón chúng ta để ôm ấp và tha thứ. Xin ánh sáng của Chúa chiếu dọi vào tâm hồn để chúng ta nhìn nhận được lòng yêu thương vô bờ của Chúa.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY_B

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Tin mừng Chúa nhật 4 Mùa Chay ghi lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô. Đức Giêsu nhắc lại câu chuyện con rắn đồng trong sa mạc thời xuất hành. Từ đó, Người mạc khải về tình thương của Thiên Chúa:

“Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian, để tất cả những ai tin vào Người Con ấy, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời”.

Khi đề cập đến tội lỗi loài người, Đức Giêsu còn khẳng định: “Thiên Chúa sai Con mình xuống thế gian, không phải để phạt loài người, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”.

Xưa kia trong sa mạc, Môsê đã treo con rắn đồng lên để ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được khỏi chết, được chữa lành (Ds 21, 8-9). Hình ảnh con rắn đồng biểu tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá: “Ai tin vào Người sẽ được cứu sống, không phải chết và được sự sống đời đời”.

Tình thương cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện qua sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu Kitô: Thiên Chúa muốn cứu độ mọi người qua Đức Giêsu Kitô và tình thương của Thiên Chúa được hiện thực nơi con người Đức Giêsu Kitô. Tin vào Đức Giêsu Kitô là điều kiện để được ơn cứu độ:“Những ai tin vào Con Ngài được sống đời đời. Thánh Augustinô đã diễn tả cho mọi thế hệ nhân loại về hình ảnh của Đức Kitô giương cao trên thập giá:

“Trong cái chết của Chúa Giêsu, sự chết đã bị chết, sự viên mãn của cuộc sống đã nhận chìm sự chết, sự chết đã bị tiêu tan trong cái chết thân xác của Đức Kitô. Những ai bị vết cắn của con rắn, bởi ngước nhìn con rắn sẽ không chết. Cũng giống vậy, những ai nhìn vào đức tin vào cái chết của Đức Kitô sẽ được chữa lành mọi vết tổn thương của tội lỗi. Những người Do Thái đã tránh khỏi cái chết cho một cuộc sống lữ hành. Đức Kitô cho chúng ta cuộc sống vĩnh cửu. Dấu chỉ biểu tượng của con rắn đồng cho cuộc sống tạm thời ở trần gian, nhưng nội dung của biểu tượng là Đức Kitô cho chúng ta cuộc sống muôn đời”.

Đức Giêsu đã đem ơn cứu độ cho nhân loại qua cuộc Tử nạn và Phục sinh của Ngài để chúng ta được sống muôn đời. Tin vào Đức Kitô và sống theo Đức Kitô là điều kiện được cứu rỗi. Sống theo Đức Kitô là chết cho con người tội lỗi, nết xấu, những đam mê xấu, những hành vi bất chính để chúng ta có tương quan tốt với Chúa và tha nhân trong tình thương mến để được phục sinh với Chúa.

Ngược lại, nếu không tuân theo Đức Giêsu Kitô thì chúng ta sẽ bị luận phạt “Án phạt là sự sáng đã đến thế gian và người đời yêu thế gian hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa”. Chúa Giêsu là ánh sáng, là chân lý, là sự sống đã đến thế gian. Người đời yêu sự tối tăm hơn sự sáng: tham lam, bất công, gian dối, hận thù ghen ghét, giết người, đánh bom liều chết… Ngày hôm nay bóng tối dường như thắng sự thiện trong xã hội, trong gia đình nhân loại. Hơn bao giờ hết, con người hôm nay cần phải tuân nghe theo lời giáo huấn của Giáo hội “Sống nền văn minh tình thương và sự sống” bằng những việc làm cụ thể đạo đức, lương thiện, bác ái phục vụ tha nhân.

Bài Tin mừng hôm nay mời gọi người tín hữu sống tinh thần Mùa Chay thánh bằng cách tin và sống theo Chúa Kitô để được sống muôn đời.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY_B.

Lm Giuse Đinh Tất Quý

Chúng ta vừa nghe một trích đoạn trong cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô. Trong cuộc dạ đàm này Chúa Giêsu đã nói với Nicôđêmô, một nhân sĩ nổi tiếng trong giới trí thức của người Do thái nhiều điều quan trọng. Phụng vụ hôm nay không đề cập đến tất cả những vấn đề Chúa đã nói mà chỉ đề cập đến một lời mời gọi của Chúa Giêsu. Chúa mời ông Nicôđêmô và qua Nicôđêmô, Chúa cũng mời gọi chúng ta nhìn lên Thánh giá của Ngài. 

Nhìn lên Thánh giá, chúng ta sẽ thấy gì ?

1. Trước hết chúng ta sẽ thấy tội lỗi của chúng ta và thứ đến là thấy tình thương tha thứ bao la của Thiên Chúa.

Vâng! Khi nhìn lên Thánh Giá chúng ta sẽ thấy được tội lỗi của chúng ta. Thánh Phaolô đã nói rất rõ về vấn đề này: “Trước hết tôi truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh” (1Cr 15,3)  Ngài còn quả quyết: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Ngườ”(2Cor,5,21.) Thánh Phêrô nói rõ thêm: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây Thánh Giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính.” (1Pr 2,24). 

Có một ông đạo đức kia đêm nằm chiêm bao thấy Chúa Giêsu bị một tên lính Rôma trói. Ông thấy rõ trong tay tên lính cái roi có dây da rất dày, và những mũi đinh nhọn. Ông rùng mình sởn óc vì thấy những vết thương ghê gớm nơi con người của Chúa, máu chảy ra như “suối”. 

Khi tên lính vung roi định đánh thêm nữa, ông bèn xông tới ngăn cản. Tên lính thình lình quay lại và kìa. . .ông nhận ra tên lính ấy chính là ông! Ông sửng sốt không hiểu ra làm sao. Chợt Chúa cho ông nhớ lại lời Tiên tri Isaia: “Người đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác của chúng ta mà bị thương. Bởi sự sửa phạt Ngài chịu, chúng ta được bình an, bởi lằn roi Người, chúng ta được lành bệnh”( Is 53,5) 

Vâng vì tội lỗi của ta mà Đức Giêsu đã phải chịu treo trên Thánh Giá như thế. Người nào có tội tình gì đâu mà phải chết đau đớn, tủi nhục như vậy…không một mảnh vải che thân…chết giữa lúc tuổi còn thanh xuân… chết như một tội nhân…chết như một người nô lệ. 

Bên cạnh đó khi nhìn lên Thánh Giá chúng ta còn thấy được tình thương tha thứ bao la của Thiên Chúa. “Chính Đức Kitô đã chịu chết một lần vì tội lỗi.  Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa” (1Pr 3,18).  Đáng lý ra khi phạm tội chúng ta đã phải chết. Nhưng vì yêu thương Chúa đã không bỏ rơi ta. Người tìm hết cách để cứu ta. 

Đây là câu chuyện xảy ra ở Italia. 

Một người sĩ quan tên là LOHSER, mang cấp trung uý trong quân đội Đức Quốc Xã. Năm 1944, Lohser chỉ huy toán quân Đức Quốc Xã đóng tại Thành phố Molina. Trước đây anh là người công giáo, nhưng rồi đã bỏ đạo để gia nhập Đảng Quốc Xã Phát Xít. 

Hôm ấy, Lohser uống rượu trong quán Graziani, và khi đã quá chén, anh ta rút súng lục ra, nhắm vào tượng Thánh Giá treo trên tường làm bia để biểu diễn tài nghệ: 

Phát một: trúng con mắt tượng phải của Chúa. 

Phát hai và ba: trúng ngực tượng Chúa. 

Phát bốn: trúng bàn chân trái tượng Chúa 

Thấy vậy, mọi người sợ hãi bỏ trốn, chỉ còn lại anh tài xế Georgis phải lái xe đưa Lohser về đơn vị. Khi xe đang chạy trên đường bỗng một máy bay địch xuất hiện và nhắm vào xe Jeep bắn xuống. Lohser bị trúng đạn, máu ra nhiều, viên tài xế phải dừng xe lại săn sóc vết thương: 

Mắt phải anh trúng một viên đạn, 

Ngực anh trúng hai viên, 

Bàn chân trái anh trúng một viên. 

Nhưng rất may là cuối cùng anh ta đã kịp hối lỗi. Anh cầu nguyện với Chúa: “Lạy Thánh Giá Chúa, Lạy Thánh Giá Chúa, trong mấy năm qua, con mắt linh hồn con mù quáng, không nhìn thấy Chúa, không nhìn thấy đời sau, mà chỉ thấy có tiền tài, danh vọng. Giờ đây, con được thấy Chúa, thấy sự công bình của Chúa và nhất là lòng yêu thương thư tha của Chúa”. 

Mười phút sau đó, anh ta tắt thở. 

Ngày nay, tượng Thánh Giá được Lohser dùng làm bia được cất giữ trong chiếc tủ kính tại Nhà thờ Molina, và cứ vào ngày 15 thánh 06 hằng năm, giáo dân ở đây lại tổ chức rước kiệu Thánh Giá này chung quanh Nhà thờ. 

2. Bây giờ chúng ta thử hỏi Chúa yêu thương ta như thế, chúng ta phải làm gì?  Khi chết vì yêu thương chúng ta có lẽ Chúa chẳng mong gì hơn là chúng ta biết nhận ra ơn cứu độ của Người.

Ngày xưa trong sa mạc dân Do Thái chẳng tìm ra được ai có thể cứu chữa họ. Họ cũng chẳng có được vị thuốc nào giúp họ khỏi chết. Họ cảm thấy mình bất lực. Họ đã phải chạy đến với ông Moise để xin Ông cầu cứu với Thiên Chúa bởi vì họ hiểu rằng chỉ có một mình Chúa mới có thể cứu họ. Chúa bảo họ phải nhìn lên con rắn. Họ đã nghe lời Chúa và họ đã được cứu. 

Ngày xưa là như vậy và bây giờ cũng thế. Càng ý thức được thân phận mình tội lỗi yếu hèn của mình, ta lại càng cảm nghiệm thấy ơn cứu độ của Chúa thật là kỳ diệu. 

Bên Âu Châu trong một nhà thờ ở Tây Ban Nha, người ta tôn kính một cây Thánh Giá cổ xưa. Cây Thánh Giá này có một lịch sử rất đặc biệt: Cánh tay phải của Chúa Giêsu đã tách rời khỏi lỗ đinh và buông xuống trong tư thế như đang ban phép lành cho người nào đó ở dưới. Truyền thuyết thuật lại rằng: 

Ngày nọ, có một tội nhân “gạo cội” tìm đến xưng thú tội lỗi của mình dưới cây Thánh Giá này với tất cả lòng sám hối chân thành. Sau khi nghe người này thú tội, cha giải tội đã do dự không muốn ban phép tha tội cho ông ta vì các tội của ông quá nhiều và quá kinh khủng. Thế nhưng hối nhân cứ kiên trì cầu xin sự tha thứ. 

 – Tôi sẽ ban phép giải tội cho ông, Vị Linh mục nói, tuy nhiên, ông phải hứa là không được tái phạm nữa nghe! 

Tội nhân xin hứa và giữ được lời hứa trong một thời gian. Nhưng rồi sau đó, ông lại yếu đuối và sã ngã. Lòng thống hối lại thúc đẩy ông đến tòa giải tội. Vừa thấy ông vị Linh mục đã nói ngay: 

 – Lần này thì tôi không ban phép giải tội cho ông đâu! 

 – Con thống hối, hối nhân đáp lời vị Linh mục. Con rất chân thành khi đoan hứa với cha, nhưng con yếu đuối ! Xin hãy tha thứ, tha thứ cho con! 

Một lần nữa cha giải tội phải miễn cưỡng tha thứ và nhưng ngài dặn thêm : 

 – Đây là lần cuối cùng đó nhé ! 

Một thời gian khá lâu sau đó, phần do thói quen, phần vì yếu đuối, ông ta lại rơi vào vòng tội lỗi. 

– Bây giờ thì dứt khoát! Vị Linh mục bảo ông, ông lại phạm lại những tội đã phạm. Sự thống hối của ông không thành thực. 

– Thưa Cha, con rất chân thành sám hối. Con đã sa ngã vì con yếu đuối. Con thẳng thắn, chân thực, nhưng con bệnh hoạn. 

– Không, không còn sự tha thứ nào cho ông nữa 

Và vào chính lúc đó thì người ta nghe thấy có tiếng người khóc. Tiếp đến là những tiếng động phát xuất từ cây Thánh Giá, nhìn lên người ta thấy cánh tay phải của Chúa đang tự tháo rời ra khỏi lỗ đinh, giơ lên hướng về phía hối nhân và ban phép lành cho ông ta. Sau đó người ta nghe thấy có tiếng từ trên cây Thánh Giá nói vọng xuống: 

–  Ngươi, ngươi có đổ máu ngươi cho người này đâu! 

Lạy Chúa chúng con là những người tội lỗi. Xin tha thứ cho chúng con những lỗi lầm và xin hoàn lại cho chúng con sức sống thần linh của Chúa để chúng con có thể sống xứng đáng với tình yêu thương Chúa dành cho chúng con. Amen.

Về mục lục

.

ĐẾN CÙNG ÁNH SÁNG

JM. Lam Thy 

Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay (CN IV MC-B – Ga 3, 14-21) Thánh sử Gio-an viết: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3, 14-15). Khi còn đi chia sẻ Tin Mừng tại các Huynh đoàn Đa Minh trên toàn quốc VN, kẻ viết bài này đã gặp thật nhiều thắc mắc xoay quanh hình ảnh con rắn được giương cao: Theo sách Sáng thế thì “Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà Đức Chúa là Thiên Chúa đã làm ra.” (St 3, 1). Vậy không hiểu sao Kinh Thánh lại lấy nó làm biểu tượng cho sự cứu độ, đồng thời còn nói là Đức Giê-su cũng được giương cao như vậy. Một chuyện tương tự cũng khiến chúng tôi thắc mắc là ngành Y Dược cũng lấy con rắn làm biểu tượng cho sự cứu chữa bệnh nhân. Tại sao vậy?

Trước hết xin nói về con rắn trong Y học. Tra cứu trên Wikipedia thì được biết: Đối với Tây y, rắn chiếm vị trí khiêm nhường trong số khổng lồ các phương thuốc trị liệu nhưng lại có vinh dự trở thành biểu tượng có tính chất truyền thống của cả ngành Y và ngành Dược. Biểu tượng ngành Y là hình con rắn quấn quanh cây gậy. Còn biểu tượng ngành Dược là con rắn có đuôi quấn quanh chân một cái ly đựng thuốc và thân của nó vòng qua miệng ly để đầu chúi xuống, thè lưỡi nếm thuốc. Biểu tượng ngành Dược thường được gọi bằng nhiều tên như: “Cái ly con rắn”, “Cái cốc con rắn” hoặc “Chén thuốc Hygeia”. Câu chuyện khá dài dòng, có thể tóm tắt như sau:

Theo thần thoại Hy Lạp, một lần, thần Esculape (ông Tổ ngành Y) đến thăm một người bạn bị bệnh. Trông thấy một con rắn độc đang bò vào nhà, ông liền lấy cây gậy đang cầm trên tay đánh chết nó. Ngay sau đó, một con rắn khác lại tiến vào và trên miệng ngậm một lá cỏ đến mớm cho đồng loại vừa mới bị đánh chết. Kỳ lạ thay, con rắn chết bỗng hồi sinh. Esculape tình cờ biết được thứ cỏ lạ ấy, nghiên cứu và tìm hiểu thêm, từ đó trở thành một thần y chữa bệnh cứu sống rất nhiều người. Đó là “con rắn quấn quanh cây gậy” biểu tượng ngành Y. Còn ngành Dược là “con rắn quấn quanh cái ly”, con rắn này có tên là Hygeia (đây là tên con gái của Esculape, cũng là một vị thần chuyên về thuốc chữa bệnh).

Riêng về con rắn đồng trong bài Tin Mừng hôm nay thì xin chia sẻ: Bài Tin Mừng Chúa nhật trước (CN III.TN-B – Ga 4, 14-16) trình thuật về “Cơn thịnh nộ bất thường của Đức Giê-su”. Cứ tưởng đến thời Tân Ước thì Đền thờ Giê-ru-sa-lem mới bị ô uế bởi hàng tư tế và dân Do Thái khiến Đức Giê-su nổi giận, thật không ngờ ngay từ thời Cựu Ước đã có chuyện “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà ĐỨC CHÚA đã được thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế.” (xc. Bài đọc 1 CN III.TN-B – 2Sb 36, 14-16.19-23; nói chung cả chương 36 của Sử biên niên). Thế mới biết “tội lỗi là bản tính con người” dù ở bất cứ thời đại nào, môi trường nào, và hình như càng tiến bộ con người càng tội lỗi nhiều hơn. Nhận xét này có vẻ bi quan, nhưng nhìn kỹ lại vấn đề, thấy quả nhiên không xa sự thật chút nào. Duy có điều tội lỗi ở cái thế kỷ XXI này không giống như thời thượng cổ, mà thiên biến vạn hoá đến độ có nhiều khi con người không nhìn ra được chân tướng của nó, thậm chí còn hiểu lầm mà khoác cho nó cái áo chân thiện nữa. Đáng sợ thật!

Suy cho cùng, từ Nguyên tổ cho đến hậu lai – ngoại trừ Đức Maria được đặc sủng vô nhiễm nguyên tội – tất cả loài người đều có tội, không nặng thì nhẹ, chẳng ít thì nhiều. Ấy cũng bởi vì con người thường muốn dễ dãi hơn là khó khăn, muốn đi trên những con đường rộng thênh thang hơn là những con đường nhỏ hẹp, muốn bóng tối hơn là ánh sáng. Cái nghịch lý của con người như thánh Phao-lô nói (“Tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm… Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm.” – Rm 7, 15…19) tưởng cũng dễ hiểu, vì ”Tất cả chúng tôi xưa kia cũng thuộc hạng người đó, khi chúng tôi buông theo các đam mê của tính xác thịt, thi hành những ước muốn của tính xác thịt và của trí khôn. Bẩm sinh chúng tôi là những kẻ đáng chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, như những người khác.” (Ep 2, 3). Như vậy thì phải chăng tội lỗi của loài người đã tới hồi “hết thuốc chữa”?

Đọc sách Xuất Hành trình thuật cuộc hành trình trở về Đất Hứa của dân tộc Do Thái, ai mà không chú ý đến câu chuyện “CON RẮN ĐỒNG”. Đó là trên lộ trình đầy gian nan thử thách, khi đã gần tới Đất Hứa, dân Do Thái lại kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê, Đức Chúa liền cho rắn lửa bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Thấy vậy, dân chúng mới kinh hoàng nhận ra sai lầm, tỏ vẻ hối hận, chạy đến kêu cầu với ông Mô-sê xin cứu giúp. Ông Mô-sê cầu xin cùng Đức Chúa và Người bảo ông hãy làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn mà nhìn lên rắn đồng thì sẽ được khỏi. Con rắn đồng trở thành một biểu tượng ơn cứu độ của Thiên Chúa và vì thế, trong bài Tin Mừng hôm nay (CN IV MC-B: Ga 3, 14-21), Đức Giê-su đã mượn hình ảnh đó để nói lên công trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nơi Người – Người cũng sẽ bị treo lên như con rắn đồng.

Con rắn đồng chỉ là một vật thể vô tri vô giác được Thiên Chúa đặt làm biểu tượng Tình Yêu Cứu Độ, chỉ được một số ít người Do Thái biết ăn năn hối cải nhìn lên và được chữa khỏi; nhưng khi trở về tới Đất Hứa thì họ lại quên đi một cách vô tư. Họ lại tiếp tục phạm tội, lại tiếp tục than trách Chúa và nhất là lại tiếp tục thích dễ dãi hơn là khó khăn, thích đi trên những con đường rộng thênh thang hơn là những con đường nhỏ hẹp, khoái bóng tối hơn là ánh sáng. Hơn thế nữa, họ còn cố tình huỷ bỏ giao ước bằng cách phản bội lại Thiên Chúa nữa.

Dân được tuyển chọn còn như thế, huống hồ dân ngoại. Tất cả nhân loại đã hầu như quên mất hình ảnh con rắn đồng và chính vì thế, nên Thiên Chúa phải lập một giao ước mới bằng cách sai chính Con Một xuống thế làm một con rắn bằng xương bằng thịt, bằng cả bản thể Thiên Chúa, treo lên thập giá để không chỉ là một biểu tượng mà còn là chính  Máu Thịt Con Chiên làm lễ vật hy  sinh (hy tế) cứu độ loài người (“Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.” – Gr 31-32). Điều đó chứng tỏ dù con người có tội lỗi đến thế nào mặc lòng, Thiên Chúa vẫn thương yêu, vẫn dang rộng vòng tay mong họ trở về đường ngay nẻo chính.

Căn bệnh trầm kha, căn bệnh truyền kiếp của loài người vẫn không phải, chưa phải là “hết thuốc chữa”, bởi “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” – Mc 2, 17). Người Thầy Thuốc Chí Nhân Chí Ái đã đến và đã được treo lên như con rắn đồng thủa xưa. Sự kiện Con Người được “giương cao” bao hàm một ý nghĩa vô cùng thâm thúy: Đức Ki-tô không chỉ chết khổ nhục trên thập giá vì tội lỗi loài người, mà còn phục sinh và được đưa lên ngự bên hữu Chúa Cha. Vì thế, khi Con Người được treo lên thập tư thì thập tự đã trở thành Thánh Giá để những ai biết nhìn lên biểu tượng Tình Yêu cao vời khôn ví đó, sẽ được cứu độ. Nhìn lên Thánh Giá (cũng như thủa xưa, dân Chúa biết nhìn lên con rắn đồng) không phải và không thể như nhìn một hình ảnh kiều diễm, hay một chiếc cúp quán quân, hoặc một thần tượng siêu nhân nào đó. Điều kiện tiên quyết là phải biết nhìn lại mình để thấy được những sai lầm thiếu sót, toàn tâm toàn ý ăn năn hối cải, nhiên hậu nhìn lên Thánh Giá với một đức tin chân thành vào Ơn Cứu Độ. Chỉ có như thế mới có hy vọng được cứu, bởi “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy.” (Dt 11, 1).

“Nhìn lên con rắn đồng” thì được cứu chữa; “nhìn lên Con Người” trên thập giá sẽ được cứu độ. Việc “nhìn lên” và việc “được cứu chữa” liên kết chặt chẽ với nhau và mối dây liên kết đó phải chăng chính là đức tin? Vâng, “Nếu mạc khải là con đường Thiên Chúa đến với con người thì Đức tin là con đường con người đến với Thiên Chúa, là sự đáp trả của con người trước tiếng nói của Thiên Chúa.” (Thánh Au-gus-ti-nô). Một hệ luận bất di bất dịch: “Có bệnh thì mong được khỏi, muốn khỏi bệnh phải biết nhìn lên Thầy Thuốc được giương cao trên Thánh Giá, đến với Thiên Chúa Cứu Độ bằng một đức tin kiên cường.” Ấy cũng bởi vì “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.” (Ga 3, 18). Cho nên có thể nói: Không phải ai nhìn lên con rắn đồng, nhìn lên Thánh Giá đều được cứu sống, mà chỉ có những ai có cái nhìn đức tin (nhìn lên với một niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa qua biểu tượng con rắn đồng, hoặc chính Con Thiên Chúa) mới được cứu độ mà thôi.

Tóm lại, Dân Chúa thời Cựu Ước đã thật vui mừng khi Thiên Chúa phán bảo ông Mô-sê giương cao con rắn đồng để những ai biết nhìn lên sẽ được cứu chữa. Mở đầu kỷ nguyên Tân Ước, thì chính Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật được giương cao trên Thánh Giá làm hy tế cứu chuộc nhân loại, và như thế thì còn nỗi vui mừng nào sánh bằng Dân Chúa thời kỳ Tân Ước cho đến thiên thu vạn đại? Vì thế, Chúa Nhật IV Mùa Chay thường được gọi là Chúa Nhật “Hãy vui lên” (Ca Nhập Lễ mở đầu bằng câu “Hãy vui lên!…” – Is 66, 10-11); áo lễ được dùng màu hồng. Vâng, sau những hy sinh hãm mình, làm việc từ thiện trong suốt Mùa Chay, hãy vui lên trong Chúa là Đấng đã yêu thương cứu chuộc nhân loại. Hãy vui lên vì Thánh Giá là nguồn ơn cứu rỗi. Hãy vui lên để hướng tâm hồn về niềm vui Phục Sinh. Hãy vui lên!

Trong niềm hân hoan tận cùng đó, hãy vui mừng nhìn lên Thánh Giá, hướng tâm hồn lên Đấng Cứu Độ, để cùng hiệp lời cầu nguyện cho bản thân, cho mọi người biết dùng nhiều thời giờ hơn trong Mùa Chay Thánh – nhất là trong Mùa-Chay-cuộc-đời – để từ đó biết nhìn lại mình mà sám hối lỗi lầm, biết từ bỏ những tính hư, tật xấu, canh tân đời sống; đồng thời cầu nguyện cho những người tội lỗi biết ăn năn hối cải, và cầu nguyện cho những người chưa biết Chúa được có dịp chiêm ngắm Thánh Giá, ngõ hầu trở về cùng Chúa. Ước được như vậy.

Ôi! “Hãy vui lên muôn loài trên thế giới. Hãy ca lên muôn loài khắp vũ hoàn. Hãy tôn vinh khen ngợi Đấng Hóa Công. Hãy cảm tạ tôn thờ Vua chí nhân. Cùng với tiếng ca vang vang ngợi khen Chúa huy hoàng. Cùng tiếng đàn trổi râm rang ngợi khen Vua cả sáng. Nào hợp lời tôn vinh Cha, trần hoàn cùng vang câu ca: Chúa chúng ta là Đấng Hóa Công quyền năng oai hùng.” (TCCĐ “Hãy Vui Lên”).

Về mục lục

.

ÂN SỦNG VÀ LÒNG TIN

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một,

để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”

I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (3,14-21):

 (14) Khi ấy, Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, (15) để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. (16) Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (17) Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. (18) Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. (19) Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta ưa chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. (20) Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. (21) Những kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”

II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (3,14-21):

2.1 Hẳn có nhiều người Do Thái thời Đức Giê-su đã thắc mắc và tự hỏi: Đức Giêsu đến trần gian này đế làm gì? Chắc chắn ngày nay cũng có nhiều người đặt lại câu hỏi ấy.

Trong đoạn Phúc âm theo Thánh Gio-an của Phụng Vụ hôm nay, chúng ta có được câu trả lời:

”Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.” (Ga 3,16-18).

2.2 Vậy là đã quá rõ: Đức Giê-su, Con Một của Cha, đã đến thế gian để mặc khải Cha cho loài người và cũng là để cho loài người được cứu chuộc khi họ TIN vào Người. Chúa Cha là nguồn cội và cùng đích của mọi loài mọi vật, nên con người chỉ đạt tới trình độ viên mãn khi khám phá và nhìn nhận Cha là nguồn cội và cùng đích của đời mình. Trong tiến trình ấy, ân sủng và lòng tin hòa quyện vào nhau. Ân sủng là quà tặng của Thiên Chúa, lòng tin là công sức của con người. Ân sủng hay ơn trời và lòng tin hay công người là hai yếu tố làm nên ơn cứu độ. 

III. THỰC THI  LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (3,14-21):

3.1 Giáo hội nói chung và mỗi Ki-tô hữu nói riêng, cùng lúc có hai nhiệm vụ: đón nhận và giới thiệu ân sủng của Thiên Chúa là Đức Giê-su Ki-tô và thể hiện lòng tin  của mình vào Đấng mà Thiên Chúa đã sai đến.

3.2 Nói cách cụ thể hơn, Giáo Hội và mỗi Ki-tô hữu phải lớn tiếng chúc tụng Tình Thương của Cha và chứng tỏ Lòng Tin mạnh mẽ của mình vào Đấng đã dựng nên vũ trụ vạn vật và đã mời gọi con người đi vào huyền nhiệm của Tình Yêu và Lòng Tin.  Ân sủng của Thiên Chúa thì đã có sẵn đó và có một cách dư thừa. Quan trọng là lòng tin hay công người thì phải có sự tác động của Giáo Hội và của các Ki-tô hữu thì mới có và càng có tác động mạnh thì càng có nhiểu kẻ tin. Đó chính là động lực cho các hoạt động làm chứng và loan báo Tin Mừng của chúng ta.

IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (3,14-21):

Lạy Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su Ki-tô và là Cha của chúng con, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Cha vì Cha đã ban Con Một Cha cho chúng con để Người mạc khải Cha cho chúng con và dẫn đưa chúng con về với Cha.

Xin Cha ban cho chúng con lòng Tin mạnh mẽ vào Tình Yêu của Cha, vào sứ mệnh của Con Một Cha, vào ơn phúc mà Cha muốn ban cho chúng con.

Chúng con cầu xin Cha nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô Con Cha, Chúa chúng con Amen.

Về mục lục

.

AI TIN VÀO NGƯỜI THÌ ĐƯỢC SỐNG MUÔN ĐỜI

 Fx. Đỗ Công Minh

Bài  tin mừng hôm nay thuật lại cuộc đối đáp giữa Đức Giêsu và Ông Nicôđêmô, một bậc Thầy trong dân Israel. Ông là một nhà thông thái đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Hẳn ông muốn biết về con người và giáo lý của Chúa Giêsu. Qua cuộc đối thọai này, Người cho ông và qua ông đến mỗi người tín hữu chúng con nhận ra sứ mệnh mà Thiên Chúa Cha trao cho Người, khi đến trần gian này :”Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời“. Người nói cho ông về tình yêu thương và lòng thương xót của Thiên Chúa với con người.

Nhân lọai mà khởi đi từ Adam đã bất tuân phục Thiên Chúa, chối bỏ và tự cắt đứt mối liên lạc với Thiên Chúa. Cũng từ đó con người phải chịu bao đau khổ trong cuộc đời, dẫn đến sự chết. Thế nhưng tình yêu của Thiên Chuá thì vượt qua tất cả. Thiên Chúa chẳng những không chấp nhất tội lỗi con người, như lời Đức Giêsu :” Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời “. Đức Giêsu như một “Adam mới” đến cứu độ muôn người. Nhưng con người không phải ai cũng nhận ra được tình yêu ấy và đáp trả. Nhiều người trong chúng con đã không đón nhận Chúa, đón nhận Lời Người như  ánh sáng soi đường mà vẫn chìm ngập trong bóng tối sự chết, như những lời tiên báo trong Tin Mừng của Thánh Gioan hôm nay: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa . . .” .

            Lạy Chúa,

Lời cảnh báo của Chúa cách đây hơn 2000 năm vẫn còn nguyên giá trị. Con đã được diễm phúc đón nhận vào làm con Thiên Chúa qua bí tích Thanh Tẩy, con đã được đón nhận ánh sáng Tin Mừng, tức là luôn có sự sáng của Chúa chiếu tỏa trong cuộc đời, giúp con dễ dàng phân biệt điều xấu, điều ác mà tránh xa, từ bỏ, Biết nhận ra điều tốt, điều đẹp lòng Chúa để hướng theo và thực hiện. Thế nhưng  bóng tối lại che phủ cuộc đời con lớn hơn, lấn át sự sáng khiến con không dám tiến đến cùng ánh sáng.

Nhân những ngày mùa chay Thánh này xin Chúa giúp con biết sám hối và tin vào Tin Mừng. Biết sửa đổi con người mình, hầu thóat ra khỏi bóng tối đang từng ngày, từng ngày đe dọa đời sống đức tin của con. Xin Chúa giúp con biết “Sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ:các việc của người ấy được thực hiện trong Thiên Chúa.”

Xin cho con biết nhìn lên Chúa treo trên thập tự, chính Người đã đến trần gian chịu chết vì tội lỗi của con, để con sẽ được phục sinh với Người, luôn ý thức về mình là người con, gắn bó với Thiên Chúa là Cha, với Hội Thánh để đón nhận được tình yêu Chúa trao ban và làm triển nở tình yêu ấy tên trái đất này. AMEN.

Về mục lục

.

ÁNH SÁNG THẬT

Lm. Bar. Lê An Phong

Tin mừng tuần thứ IV Mùa Chay này nằm trong phần mà Thánh sử Gioan nói cho chúng ta về cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và Trưởng lão Nicodemo. Cuộc chuyện trò của Chúa với Nicodemo (Ga 3, 1-13) đề cập đến sự tái sinh trong Chúa Thánh thần như là việc cần thiết để có sự sống mới hay “được vào Nước Trời”. Ở hồi kết (Ga 3, 14-21), câu chuyện đã khép lại với lời mời gọi “nhận biết ơn cứu độ” nơi Con Thiên Chúa, và “tin vào Người” để được sống, như chuyện đã xảy ra thời ông Mose với con rắn đồng được treo cao trong hoang địa.

Thông điệp mà Lời Chúa (Ga 3,14-21) gởi đến cho chúng ta là một lời tỏ bày về chính Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Người qua Đức Giêsu. Đó là mạc khải về một Thiên Chúa Tình yêu. Người yêu “thế gian”, yêu nhân loại, yêu đến nỗi đến trần gian để gặp gỡ họ. Cách thức mà Thiên Chúa thực hiện cuộc gặp gỡ này là việc việc Ngôi Lời nhập thể.

Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).

“Con Thiên Chúa đã làm người”, đã đến trần gian để thực hiện một “cuộc trao đổi diệu kỳ giữa trời và đất”, đã mang đến cho trần gian đang ngập trong bóng  tối của sự dữ và tội lỗi một tia hy vọng. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ”(Ga 3, 17). Đó cũng là một kế hoạch yêu thương mà Thiên Chúa đã định trong Đức Kitô, nhờ Đức Kitô mà thực hiện, để con người được hưởng nhờ hồng ân cứu độ (x. Ep 1,9). Ai từ chối kế hoạch này, hay là không tin nhận Thiên Chúa tình yêu, không chấp nhận Đức Kitô – Con Thiên Chúa, sẽ lìa xa tình yêu Thiên Chúa và tự nhận lấy “án phạt” đời đời, là sống kiếp kiếp trong “bóng tối” và “sự dữ” (x. Ga 3, 18-19).

Lời Chúa Giêsu nói với ông Nicodemo là một cảnh báo đối với chúng ta trong Mùa Chay: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì họ vẫn tiếp tục làm các việc xấu xa. Một dấu hiệu khác cho ta thấy rằng ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách; còn ai sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, “để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa (x Ga 3, 19-21).

Chúng ta đang sống trong tình trạng nào: của ánh sáng hay bóng tối, của sự tỏ hiện như những chứng nhân hay là ẩn nấp trong tội tình và sợ sệt vì tâm hồn bất an và vì hành vi bất minh của một kẻ tội phạm?

Dù sao đi nữa, vẫn còn có đó cho chúng ta nhiều “cơ hội” để “làm lại cuộc đời”, vì chính Chúa Giêsu cũng đã nói với Nicodemo: Con Thiên Chúa không đến để luận phạt thế gian nhưng là để giải thoát, đến để mang Tin vui của Yêu thương và Tha thứ. Chúng ta còn có thời gian để ăn năm, sám hối và hoán cải lòng mình.

Lời Chúa kêu gọi chúng ta bỏ đi sự cố chấp, sự ẩn khuất, việc né tránh tiếng gọi lương tâm và bỏ quên luật sống theo Tin mừng. Mến Chúa và yêu thương anh em mình vẫn luôn là con đường chúng ta cần tiến bước để sống ơn gọi làm kitô hữu mọi thời và mọi nơi.

Lời Chúa tiếp tục kêu mời chúng ta bỏ đi con đường sai trái, hòa nhập với Ánh sáng Chân lý là Đức Kitô, tin và sống theo lời Ngài. “Ai sống trong Sự thật thì đến cùng Ánh sáng”. Chúng ta vẫn còn có cơ hội để khám phá Sự thật của Thiên Chúa và sự thật về con người, để sống thật với chính mình, sống thật với anh chị em và với Chúa trong đời thường, giữa bao khó nguy ngập tràn, thử thách, cám dỗ. Trong ánh sáng của Đức tin và hy vọng mà Chúa Kitô đã rọi vào lòng ta, chắc chắn chúng ta có thể làm mọi việc hợp với thánh ý Chúa Cha. Và hy vọng đây cũng chính là niềm vui mà chúng ta có thể cảm nhận được trong hành trình sám hối của Mùa Chay năm nay.

Về mục lục

.

SỰ ĐIÊN RỒ CỦA TÌNH YÊU

Lm. GB. Trần Văn Hào

Khi suy niệm về tình yêu Thiên Chúa, Cha Rey Mermet, một nhà tu đức khá nổi tiếng, đã chia sẻ như sau: “Tình yêu của Thiên Chúa là một nghịch lý chúng ta không thể hiểu nổi, bởi lẽ đường lối yêu thương của Thiên Chúa khác xa với những suy nghĩ của con người. Một đứa con đi hoang vẫn có chỗ ngồi rất trang trọng của nó trong bàn tiệc gia đình. Một cô gái điếm vẫn có thể bình lặng ngồi bên chân Chúa để tâm sự và hôn lên đôi bàn chân thánh thiện của Ngài. Thậm chí, một tên trộm khét tiếng với quá khứ đặc kín tội ác vẫn có thể là một vị đại thánh. Cao điểm của nghịch lý nơi tình yêu Thiên Chúa là Ngài đã thực hiện một giấc mơ hết sức điên rồ bằng việc phân thây xẻ thịt chính người con một yêu dấu để trao tặng chúng ta”. Thập giá Đức Kitô chính là cách diễn bày sự điên rồ ấy nơi tình yêu Thiên Chúa. Giấc mơ điên rồ của Thiên Chúa cũng được thánh Phaolô nói tới trong thơ gởi giáo đoàn Rôma: “Thiên Chúa đã không dung tha chính con một của Ngài, nhưng đã trao nộp hết thảy vì chúng ta” (Rm 8, 32). Cũng tương tự, thánh ký Gioan đã tóm kết nghịch lý về tình yêu Thiên Chúa qua lời tuyên bố của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay : “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban con một, để ai tin vào Con của Ngài thì không phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).

Thập giá, nghịch lý vĩ đại nhất

Nhiều nhà chú giải nhận định rằng, lời công bố của Chúa Giêsu trong Tin mừng Gioan chương 3 câu 16 mà Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay là câu tóm kết toàn bộ Kinh thánh. Nó mang chở ý nghĩa sâu xa nhất về hoạch định của tình yêu Thiên Chúa thể hiện ngang qua Thập giá Đức Giêsu. Mãi mãi, Thập giá vẫn là một ẩn số đối với đầu óc con người. Một Thiên Chúa cao cả lại bị hạ xuống tận đáy bùn đen của xã hội loài người. Một Đấng Công chính và Thánh thiện lại bị kết án như một tên tội phạm và bị phanh thây, chết nhục nhã trên Thập giá. Nhưng Thập giá Chúa Giêsu là cả một bầu trời bao la, in đậm dấu ấn tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Khi đàm đạo với Nicôđêmô, Đức Giêsu gợi lại hình ảnh con rắn đồng mà Môisen đã treo lên trong sa mạc năm xưa để tiên báo về cái chết của Ngài. Trong y khoa, người ta cũng vay mượn  hình ảnh con rắn được treo vào một cây cột trên cao để nói về sứ mạng cứu chữa bệnh nhân của các lương y. Hình ảnh truyền thống này bắt nguồn từ văn hóa Hy Lạp kèm theo những lời tuyên thệ Hypocrate của các bác sĩ trong ngày ra trường. Nhưng nguồn gốc sâu xa của truyền thống trên khởi nguồn từ sách Dân số trong cựu ước với giai thoại kể lại việc Môise đã treo một con rắn đồng lên cao giữa sa mạc, để ai bị rắn độc cắn mà ngước nhìn lên con rắn đồng đó sẽ được cứu sống (Ds 21, 6-9). Cũng vậy, những ai nhìn lên Đức Giêsu bị đóng đinh trên Thập giá, thì sẽ được chữa lành. ‘Nhìn lên’ ở đây là thái độ tin vào Đức Giêsu và tín thác vào lòng thương xót của Chúa Cha thể hiện nơi cái chết của người Con một yêu dấu. Vì thế trong bài Tin mừng hôm nay, Thánh Gioan đã kết luận :“Ai tin vào Người Con ấy, thì sẽ không phải chết, nhưng được sống muôn đời”.

Tin vào tình yêu của Thiên Chúa

Đức Hồng y Jean Marie Lustiger, Tổng Giám mục giáo phận Paris, là một tân tòng. Ngài đã chia sẻ kinh nghiệm trong cuộc hành trinh đức tin của Ngài như sau :

“Tôi được sinh ra trong một gia đình Do Thái giáo. Gia đình tôi rất sùng đạo và tuân giữ chặt chẽ các luật lệ cũng như các tập tục của đạo Do Thái. Mẹ tôi trước khi chết còn căn dặn các con là phải ý tứ đừng theo đạo Công giáo. Năm lên 14 tuổi, có một lần tôi cảm thấy tâm hồn trống rỗng và tò mò tìm đến một nhà thờ Công giáo trùng hợp vào ngày Thứ Năm tuần thánh. Tôi cảm thấy nhàm chán với những nghi lễ rườm rà và ầm ĩ bên ngoài. Vào ngày hôm sau, Thứ Sáu tuần thánh, tôi lại tìm đến nhà thờ ấy một lần nữa. Nhà thờ hoàn toàn vắng lặng chẳng có ai đi ra đi vào. Cung thánh trống trơn không một bông hoa, không một ngọn nến, và duy nhất chỉ có cây Thánh giá đứng sừng sững ở giữa. Bầu khí tĩnh lặng hoàn toàn. Tôi ngắm nhìn tượng Thánh giá khá lâu và trầm ngâm suy nghĩ. Trên Thập giá, đôi mắt Chúa Giêsu nhắm nghiền và đôi tay vẫn luôn giang rộng. Ngài thinh lặng, thinh lặng cách tuyệt đối. Nhưng từ Thập giá, Chúa Giêsu dường như vẫn đang nói, vẫn đang vang lên một sứ điệp rất mạnh mẽ đánh động tâm hồn của tôi. Tôi bắt đầu chú tâm cầu nguyện trong thinh lặng. Ánh sáng từ Thập giá Chúa Giêsu đã hắt dọi vào tâm hồn tôi một luồng sáng mới. Cuộc hành trình đức tin của tôi bắt đầu từ giây phút này. Tôi đã đón nhận đức tin khởi nguồn từ Thập giá của Đức Giêsu”.

‘Tin’ là chủ đề xuyên suốt trong toàn bộ Tin mừng của Thánh Gioan. Chủ đề đó cũng được lặp lại trong trình thuật Tin mừng hôm nay. Chúa nói :“Ai tin vào Người Con ấy sẽ không phải chết, nhưng được sống muôn đời”.

Đức tin mà Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô không phải là kết quả của những lý luận theo đầu óc suy lý của con người. Vì vậy, thoạt đầu Nicôđêmô ngơ ngác không hiểu gì. Ông ta là bậc thầy trong dân Israel (3,9), tức là một con người có học thức, rất am tường Kinh thánh, có những suy tư và lý luận theo logic, nhưng ông chưa thể đi vào lộ trình đức tin cách thực sự. Đức Giêsu đã khai sáng cho Nicôđêmô và ông đã dần dần bước vào thế giới linh thánh. Sau này khi đối diện trước cái chết và Thập giá Đức Giêsu, Nicôđêmô đã dần hiểu ra và ông đã tin. Đức tin nơi ông trở nên chín mùi khi ông dang rộng đôi tay đón nhận xác Đức Giêsu được hạ xuống từ trên Thánh giá và ông đã đem đi an táng trong huyệt mộ.

Đây là mô hình kiểu mẫu về đức tin cho tất cả chúng ta. Cũng như Nicôđêmô đã tìm đến với Chúa vào giữa đêm khuya thanh vắng để nghe Chúa nói, chúng ta cũng cần phải biết rút lui vào trong tĩnh lặng để đi sâu vào cảm thức đức tin. Muốn khơi dậy ngọn lửa đức tin, điều quan trọng nhất, là chúng ta phải mở rộng cõi lòng để ánh sáng từ Thập giá Chúa soi dọi vào những chỗ tăm tối nơi nội tâm chúng ta.

Bác sĩ Alexis Carmel, một người vô thần cũng đã tìm lại được ánh sáng đức tin. Ông đã viết lại cảm nghiệm của mình như sau : “Chỉ có những ai biết yêu mới có thể gặp được Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ lánh mặt đối với những ai tìm đến với Ngài chỉ vì tò mò”.

Thập giá Đức Giêsu là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta

Đây là câu tâm niệm của Đức Cha Lambert de la Motte cũng như của các nữ tu các Hội dòng Mến Thánh giá. Câu tâm niệm này được nhắc tới trong tu luật của hội dòng và được các nữ tu  Mến Thánh giá lập đi lập lại mỗi ngày, nhất là khi tuyên khấn. Tuy nhiên, linh đạo Thập giá cũng phải là lối nên thánh độc đạo cho tất cả các học trò của Đức Giêsu, vì Chúa đã nói : “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá mỗi ngày mà theo”. (Lc 9, 23).

Trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay, thánh Phaolô trong thơ gởi giáo đoàn Êphêsô cũng nhắc lại giáo huấn này. Thánh tông đồ còn nhấn mạnh về lòng thương xót vô điều kiện của Thiên Chúa thể hiện nơi cái chết của Đức Giêsu. Đây là  quà tặng vô giá được trao ban một cách nhưng không. Chỉ cần tin, chúng ta sẽ lãnh nhận được ơn cứu độ (Ep 2, 7-8).

Kết luận

Một văn sĩ người Anh đã viết một câu chuyện với tựa đề ‘Thập giá và bầu trời’ với một dụng ý khá thâm thúy. Có một thanh niên nọ là Kitô hữu đã bỏ đạo. Anh ta ghét đạo, ghét cay ghét đắng những người Công giáo và căm thù Thập giá của Chúa Giêsu. Thấy hình ảnh Thánh giá ở đâu anh ta lao vào đập phá. Anh ta giật ảnh Thánh giá vợ đeo nơi cổ và hậm hực vất vào sọt rác. Trong cơn điên cuồng, anh ta cũng trèo lên đỉnh tháp chuông nhà thờ để phá đổ tượng Thánh giá trên đó.

Với cặp mắt cuồng loạn, anh ta thấy hình Thập giá ở khắp nơi, từ những cành cây khô bên vệ đường, đến ban công trước cửa nhà. Ngay cả căn nhà anh ta đang ở cũng đầy hình tượng Thánh giá. Anh hung hãn xông vào, thắp lửa đốt cháy căn nhà anh đang ở và cuối cùng anh bị chết cháy trong đó như một người điên. Tham vọng duy nhất của anh ta là muốn tiêu diệt Thập giá nhưng không thể làm gì được.

Còn chúng ta, chúng ta có đặt niềm tin tuyệt đối vào Thánh giá Chúa, đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta hay không? Song điều quan trọng nhất, là chúng ta đã thể hiện niềm tin ấy một cách cụ thể như thế nào.

Về mục lục

.

GIƯƠNG CAO CON RẮN

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Thiên Chúa có bộ mặt nào? – Thánh thiện, quyền phép, thông minh hay công thẳng…? Ai mà biết được khuôn mặt thật của Người nếu như Người không đích thân mặc khải cho biết!

Người Do Thái tin rằng họ biết rất rõ bộ mặt thật của Đức Chúa; họ gọi Ngài là Gia-vê (theo ký tự YHWH), một tên vừa nói lên bản chất tự hữu mang tính triết học, lại vừa diễn tả quyền phép vô song của một đấng tạo dựng muôn loài, mang tính lịch sử. Khuôn mặt hiển hách đó, theo họ, đã lộ rõ qua các dấu lạ điềm thiêng mà Mô-sê nhân danh Ngài thực hiện trong cuộc Xuất Hành giải phóng kiêu hùng, sau khi đã hoàn toàn khuất phục quyền lực thần thánh của Pha-ra-ô được coi là vô địch thời bấy giờ. Thế nhưng Đức Giê-su lại khảng định rằng, khuôn mặt đó chưa hoàn toàn chính xác! Lý do thật đơn giản: đó vẫn chỉ dựa trên suy đoán của loài người, vì thật sự đã có ai từng sống với Thiên Chúa để biết rõ Ngài thế nào đâu; “không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho” (Mt 11:27)

Vấn đề ở đây là: diện mạo Thiên Chúa mà ‘Con Người muốn mạc khải cho’ là thứ diện mạo nào? Trước hết Đức Giê-su đưa ra một hình ảnh có sẵn trong Cựu Ước, nhưng rất ít được người Do Thái thời đó quan tâm: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc”. Quả vậy câu truyện được kể trong chương 21 sách Dân Số đã không được các luật sĩ và biệt phái thời đó quan tâm giải thích. Họ cho rằng đó chỉ là một giai thoại mang tính sự kiện lịch sử; dân phạm tội kêu trách Mô-sê, và thế là Đức Chúa đã báo oán qua việc cho rắn độc bò ra cắn hại dân khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết. Rồi Mô-sê chủ động khẩn cầu cho dân, và Đức Chúa truyền cho ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống!” (Ds 21:6-9) Câu chuyện không nhằm vẽ lên khuôn mặt Đức Chúa từ nhân và xót thương; có vẻ ngược lại là đàng khác, Ngài lộ rõ diện mạo nghiêm khắc, trừng phạt; ‘Dân kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê… và Đức Chúa cho rắn độc bò ra cắn chết họ’. Nếu dân có được cứu thì chẳng qua là do lời khẩn cầu của Mô-sê, tôi trung của Ngài. Còn tại sao lại giương cao con rắn là biểu tượng của hình phạt, để ‘hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên đó’ thì được cứu sống, thì không ai giải thích nổi, vì… đơn giản Đức Chúa muốn như thế! Khi Đức Giê-su dùng chính hình ảnh này để công bố mạc khải vĩ đại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” thì xem ra lại càng rối mù hơn. Ni-cô-đê-mô, hay bất cứ người Do Thái nào cũng vậy thôi, sẽ cho điều đó là hoàn toàn vô lý, không thể chấp nhận, nhất là sau dẫn chứng sự kiện hình phạt rắn độc cắn: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”.

Riêng đối với Ki-tô hữu chúng ta, tất cả đều biết một điều căn bản: Tin Mừng chính yếu hệ tại ở điều này, đó là Thiên Chúa yêu thương thế gian, là Thiên Chúa không lên án, là Thiên Chúa không đánh phạt, một khi Đức Ki-tô đã được giương cao trên thập giá. Đó là diện mạo đích thực của Thiên Chúa mà Đức Ki-tô đã thân hành vẽ lên bằng chính thập giá của Người. Chỉ cần ‘tin vào Con của Người’, chỉ cần ngước nhìn lên Thập Giá cứu độ với lòng khiêm tốn và cậy trông, chỉ cần ‘sống theo sự thật và đến cùng ánh sáng’, thì cũng đã đủ để bất cứ ai, cho dầu tội lỗi tới mấy, cũng sẽ không bị lên án chết. Và ‘sự thật’ của Tin Mừng đơn giản chỉ là, căn cứ lời quả quyết của môn đệ Gio-an – người được coi là hiểu biết Thiên Chúa tình yêu rõ hơn ai hết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta… Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (1Ga 1:8-10). Và thật lạ lùng, bản án nếu có bị tuyên, sẽ không căn cứ vào tội lỗi đã phạm, mà chỉ dựa trên một điều duy nhất xem ra chẳng mấy nhằm nhò gì: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng…” ‘Bóng tối’ và ‘ánh sáng’ Gio-an đề cập tới sẽ không mang nội dung luân lý của tội lỗi hay nhân đức, mà chỉ là từ khước hoặc tin nhận Tin Mừng về một ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian tới nỗi…. Nói cách khác, bóng tối là vẫn nhắm mắt tin vào một Thiên Chúa công thẳng và luận phạt, một Thiên Chúa chỉ biết lên án và trừng trị. Ai cứ cố chấp ở lì trong bóng tối đó, chắc chắn sẽ bị lên án thôi. Lý do là vì mọi việc người ấy làm, cho dầu trong cái nhìn của con người có là tốt lành thánh thiện tới mấy đi nữa, thì cũng vẫn chưa phải là được thực hiện trong Thiên Chúa tình yêu xót thương và cứu độ. Còn ánh sáng đơn giản sẽ là nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, để mở lòng đón nhận ơn cứu độ đầy từ tâm của Thiên Chúa

Trong tư cách Ki-tô hữu, nhất định mỗi người chúng ta phải sống theo sự thật, và chân thành đi trong ánh sáng của ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian…’ thôi, đặc biệt trong thời khắc cuối của mùa chay thánh, để trong niềm tin vào Đức Ki-tô thập giá cứu độ, chúng ta không còn chút sỡ hãi nào bị lên án nữa.

Lạy Chúa Giê-su được giương cao trên thập giá, xin cho con biết không ngừng chiêm ngắm Thánh Giá để thấu hiểu, ‘Thiên Chúa đã yêu con tới nỗi đã phó nộp…’, và để nhờ nhận biết trong tin yêu điều này, con sẽ ‘không bị lên án’, cho dẫu có tội lỗi và bất toàn tới mấy. Xin cho con cùng với Phao-lô, biết tập trung trọn đời mình vào duy nhất một mình Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh mà thôi. A-men.

Về mục lục

.

TẠI SAO “NHÌN LÊN” CÓ KHẢ NĂNG CHỮA LÀNH

Lm .Giuse Nguyễn Hữu An

Sách Dân Số (21, 4b-9) kể chuyện, dân Do thái đi trong sa mạc, họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê rằng : “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? …”. Vì thế, Thiên Chúa đã cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người. Sau đó dân hối lỗi chạy đến với Môsê và ông đã cầu khẩn cùng Chúa. Thiên Chúa thương xót, đã truyền cho Môsê đúc một con rắn đồng treo lên giữa sa mạc, và bất cứ ai, hễ bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì được chữa lành.

Bài Tin Mừng, trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu khẳng định : “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”.

Lời Chúa trong sách Dân Số và trong Tin Mừng Gioan, qua hình ảnh “Con Rắn”, sẽ đưa chúng ta đi xuyên suốt lịch sử cứu độ, khởi đi từ kinh nghiệm phạm tội trong sa mạc (Ds 21,6), trở về với thời điểm khởi đầu của sự sống (St 3), sau đó đi đến ngôi vị của Đức Kitô (Ga 3,14) và vươn xa tới tận thời cánh chung (Kh 12,7-10).

Con rắn cám dỗ Eva và bà đã sa ngã thua cuộc, để lại cho nhân loại tội tổ tông truyền. Con rắn đồng ông Môsê treo lên trong sa mạc giúp cứu sống người bị rắn độc cắn. Bà Eva nhìn lên và nghe theo lời con rắn “phán”. Dân Do thái nhìn lên con rắn đồng và nghe theo Lời Chúa truyền. Chúng ta nhìn lên Thánh Giá Chúa Kitô sẽ được sự sống và ân sủng chứa chan.

Dịp hành hương Thánh Địa, chúng tôi có lên núi Nebo bên đất nước Jordanie. Chiêm ngắm tác phẩm điêu khắc Thánh giá theo hình con rắn, biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê dựng nên, nhìn về Thánh địa và dâng lễ tại nhà nguyện trên núi.

1. Núi Nebo

Núi Nebo là một dãy núi ở Vương quốc Jordanie, cao khoảng 817m. Cựu ước đã đề cập đến nơi này. Trên núi Nebo, Thiên Chúa đã cho Môsê nhìn về Đất Hứa. Từ đỉnh núi nhìn bao quát bức tranh toàn cảnh về Thánh Địa và thành phố bờ Tây sông Giođan là Giêricô, thậm chí vào một ngày rất đẹp trời người ta có thể nhìn thấy cổ thành Giêrusalem.

Theo chương 34 của sách Đệ Nhị Luật, Môsê đã đi lên núi Nebo từ đồng bằng Môáp đến đỉnh Pisgah đối diện với Giêricô để nhìn về Đất Hứa.Giavê phán với Môsê: Đó là đất Ta đã thề với Abraham, ysaac và Giacop rằng: Ta sẽ ban nó cho dòng giống ngươi! Ta đã cho ngươi thấy tận mắt, nhưng ngươi sẽ không qua đó! . Và Môsê đã chết trong xứ Môab. Người ta đã chôn cất ông trong thung lũng, ở xứ Môab, trước mặt Bet-pơor, nhưng không biết được mộ ông cho đến ngày nay.(Đnl 34,4-6).

Theo truyền thống Kitô giáo, Môsê đã được chôn cất trên núi này, tuy nhiên người ta vẫn không xác định được nơi chôn cất ông. Một vài truyền thống Hồi giáo cũng khẳng định điều tương tự, nhưng ngôi mộ của Môsê thì họ cho là ở Maqam El- Nabi Musa nằm về phía nam cách Giêricô 11 km và về phía đông cách Giêrusalem khoảng 20km trong hoang địa Giuđêa. Các học giả tiếp tục tranh luận xem ngọn núi hiện nay được gọi là là Nebo có phải là ngọn núi ngày xưa được đề cập trong bộ Ngũ kinh của Cựu ước không.

Theo sách Maccabê (2 Mcb, 2,4-7): Tiên tri Giêrêmia đã giấu Nhà tạm và Hòm Bia Giao Ước trong một cái hang trên núi Môsê đã lên và được chiêm ngắm cơ nghiệp của Thiên Chúa.

Ngày 20/03/2000, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến núi Nebo trong cuộc hành hương Thánh địa. Ngài đã trồng một cây ô liu bên cạnh nhà thờ theo phong cách Byzantine như là một biểu tượng cho hòa bình.

Ngày 9/5/2009, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã đến thăm địa danh này, đọc bài diễn văn ở đây và ngài nhìn về thành Giêrusalem từ đỉnh núi Nebo.

Nghệ sĩ người Ý, Giovanni Fantoni đã thực hiện tác phẩm điêu khắc Thánh giá theo hình con rắn. Đây là biểu tượng cho con rắn đồng ngày xưa được Môsê làm theo lệnh của Chúa để cứu sống người bị rắn cắn (Ds 21,4-9) và là thánh giá trên đó Chúa Giêsu bị đóng đinh (Ga 3,14) .

Trên đỉnh cao nhất của ngọn núi mang tên Syagha, người ta khám phá ra di tích ngôi nhà thờ và một tu viện vào năm 1933. Ngôi Nhà thờ được xây dựng lần đầu vào nửa bán thế kỷ thứ IV để kỷ niệm nơi Môsê qua đời. Thiết kế nhà thờ theo phong cách một Vương cung Thánh đường. Nó được mở rộng vào cuối bán thế kỷ thứ V và được xây dựng lại năm 597. Ngôi Nhà thờ đầu tiên được nhắc đến trong bản báo cáo về một cuộc hành hương của một người phụ nữ tên Aetheria vào năm 394. Người ta đã tìm thấy 6 ngôi mộ trống rỗng từ những phiến đá tự nhiên nằm dưới sàn khảm đá của nhà thờ.
Trong ngôi nhà nguyện hiện đại được xây dựng để bảo địa danh này và cung cấp nơi thờ phượng, người ta có thể nhìn thấy thấy những di tích của những sàn nhà khảm đá từ nhiều thời kỳ khác nhau. Một trong những bức tranh khảm đá lâu đời nhất là một tấm ghép với những hình chữ thập có viền hiện nay được đặt ở phía đầu Đông của bức tường phía Nam.

2. Tại sao lại treo con rắn ?

Trong trình thuật về Tội Nguyên Tổ (St 3,1-7), lời dụ dỗ của con rắn đã làm cho Evà và Adam nghi ngờ Thiên Chúa : Thiên Chúa nói rằng, ăn trái cây đó thì chắc chắn sẽ chết, nhưng con rắn nói: chẳng chết chóc gì đâu! Tin vào lời con rắn, đồng nghĩa với việc cho rằng Thiên Chúa nói dối ! Đó là cho rằng, Thiên Chúa lừa dối con người, vì Ngài không muốn chia sẻ sự sống của mình; đó là nghĩ rằng, Ngài tạo dựng con người để bỏ mặc con người trong sa mạc cuộc đời và nhất là cho số phận phải chết. Tin vào lời con rắn, chính là bị con rắn cắn vào người, chính là bị nó tiêm nọc đọc vào người. Và hậu quả là tương quan tình yêu giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với con người bị phá vỡ. Hậu quả tất yếu là chết chóc, như Thiên Chúa đã báo trước: Ngày nào ngươi ăn chắc chắn ngươi sẽ phải chết (St 2,17).

Dựa vào trình thuật Vườn Eden, chúng ta hiểu ra rằng, rắn độc mà sách Dân Số nói đến chính là hình ảnh diễn tả sự nguy hại chết người của thái độ nghi ngờ Thiên Chúa : kế hoạch cứu sống, khi gặp khó khăn lại bị coi là kế hoạch giết chết. Nghi ngờ Thiên Chúa đó là để cho mình bị rắn cắn, là mang nọc độc vào người.

3 . Tại sao “Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy” ?

Trong Vương cung Thánh đường Thánh Ambrôsiô ở Milan, có 2 cột đá thật ấn tượng và giàu ý nghĩa; “cột rắn”: một con rắn bằng đồng thời Byzantine vào thế kỷ thứ X được đặt trên đỉnh một cột ngắn, đối diện bên kia có “cột thập giá”.

Sách Dân Số (21,9) là một lời tiên báo rất huyền nhiệm về Đấng Cứu Thế, về mầu nhiệm Thâp giá, nơi Đức Kitô là Con Người được “giương cao”. Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh, tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt “đến nỗi Chúa Cha đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yêu của Chúa Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, một hy lễ dâng lên Chúa Cha và cũng là sự tự hiến cho loài người, trở nên lương thực nuôi sống chúng ta. Chúa Giêsu “chết để cho chúng ta được sống”.

Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu ngay từ những lời nói đầu tiên đã đặt mầu nhiệm Thập Giá trong tương quan trực tiếp với hình ảnh con rắn biểu tượng của Tội và Sự Dữ : Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.

Một bên là con rắn bị giương cao. Một bên là Đức Kitô được giương cao trên cây thập giá.Trong Cuộc Thương Khó, Đức Kitô sẽ tự nguyện thế chỗ cho con rắn.Theo Thánh Phaolô: Đức Giêsu tự nguyện trở nên “giống như thân xác tội lội” (Rm 8, 3) và Người “đồng hóa mình với tội” (2Cr 5, 21 ; Gl 3, 13). Tội có bản chất là ẩn nấp, khó nắm bắt, giống như con rắn, nhưng đã phải hiện ra nguyên hình nơi thân xác nát tan của Đức Kitô : “tội để lộ chân tướng và cho thấy tất cả sức mạnh tội lỗi của nó” (Rm 7,13). Thập Giá Đức Kitô mặc khải cho loài người hình dạng thật của Tội. Chính vì thế mà trong Tin Mừng theo thánh Máccô, Đức Giêsu dạy, (chứ không phải báo trước) cho các môn đệ về cuộc Thương Khó của Người (Mc 8, 31).

Chúng ta được mời gọi nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh trên Thánh Giá để nhìn thấy:
– Thân thể nát tan của Người vì roi vọt, kết quả của lòng ghen ghét, của lòng ham muốn, của sự phản bội, của sự bất trung, và của những lời tố cáo lên án vô cớ, của vụ án gian dối.
– Đầu đội mạo gai của Người tượng trưng cho những lời nhạo báng, diễu cợt trên ngôi vị; chân tay của Người bị đinh nhọn đâm thủng và ghim vào giá gỗ; hình ảnh này cho thấy con người đã đánh mất nhân tính và hành động theo thú tính; cạnh sườn của Người bị đâm thủng thấu đến con tim. Sự Dữ luôn đi đôi với bạo lực và bạo lực luôn muốn đi tới tận cùng là hủy diệt. Nhưng đồng thời cũng ở nơi đây, trên Thập Giá, tình yêu, lòng thương xót, sự thiện, sự hiền lành và cả sự sống của Thiên Chúa cũng đi tới tận cùng!

4 . Tại sao “nhìn lên” có khả năng chữa lành?

Theo lời của Đức Chúa, Môsê đã treo một con rắn bằng đồng lên cột gỗ và ai nhìn lên thì được chữa lành. Hình phạt bị rắn độc cắn là rất nặng nề, còn ơn chữa lành thật nhẹ nhàng: nhìn lên thì được sống.

Nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh: “Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19, 37) với lòng tin chúng ta đón nhận ơn tha thứ và được chữa lành.

Thánh Giá Đức Kitô chịu đóng đinh được các giáo phụ gọi là Cây Sự Sống vì đã mang đến cho nhân loại Sự Sống của Thiên Chúa.

Thánh Giá mang lại cho nhân loại Ơn Tha Thứ của Thiên Chúa. Sự bất tuân của Ađam đã mang đến án phạt và sự chết cho toàn thể nhân loại. Giờ đây sự vâng phục của Chúa Giêsu mang lại Ơn Tha Tội của Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại. Vì sự vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá của Chúa Giêsu, Chúa Cha đã tha hết mọi tội lỗi cho nhân loại. Ơn tha thứ đã được ban một cách tràn đầy và cho mọi người, không trừ một ai. Ơn Tha Thứ ấy phát xuất từ Tình Yêu của Chúa Cha. Tình Yêu lớn hơn tội lỗi. Tình Yêu khỏa lấp muôn vàn tội lỗi. Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết trên Thánh Giá biểu lộ Gương Mặt đích thực của Chúa Cha giàu lòng thương xót.

Thánh Giá mạc khải Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha và đối với nhân loại chúng ta. Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha đến nỗi sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa Cha, dâng hiến sự sống mình lên Chúa Cha. Thánh Giá cũng biểu lộ Tình Yêu của Chúa Giêsu đối với chúng ta: không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì những người mình yêu.

Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.

Nhìn lên Thánh Giá, chúng ta yêu mến và tôn thờ Chúa Cứu Thế.Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Ðức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người. Trong Mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh sắp tới, chúng ta hãy năng nhìn lên Thánh Giá, đó là địa chỉ mạc khải tình thương của Thiên Chúa và là suối nguồn ơn cứu độ. Nhìn lên Thánh Giá với niềm tin vào tình yêu tha thứ, tình yêu vô bờ bến của Đấng Chịu Đóng Đinh, chúng ta được dồi dào ân sủng và được sự sống đời đời.

Về mục lục

.

NỐT TÌNH

Trầm Thiên Thu

“Chỉ mong con yêu Ngài đến chết, bởi vì Ngài tự nguyện chết vì yêu con” (Thánh Phanxicô Assisi). Một ước muốn tuyệt vời, xem chừng đơn giản nhưng lại khá nhiêu khê!

Tình yêu luôn quan trọng trong cuộc sống, cả đời thường và tâm linh, vì ai cũng muốn “yêu” và “được yêu”. Không ai định nghĩa được tình yêu, vậy có thể ví nó như cái gì để dễ hiểu? Người Ấn Độ có cách so sánh độc đáo: “Tình yêu giống như một dây leo, nó sẽ khô héo và chết đi nếu không có gì để nó quấn quýt”. Quả thật, cuộc sống không có tình yêu thì không còn là cuộc sống nữa. Tình yêu vô hình nhưng khả dĩ cảm nhận, và nó là báu vật: “Tình yêu thương là tài sản quý giá nhất của con người” (Ngạn ngữ Ả Rập).

Tông đồ trẻ Gioan đã được tựa đầu vào ngực Chúa Giêsu và được mệnh danh là người-môn-đệ-Chúa-yêu, ông xác định: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 và 16). Và ông nhấn mạnh: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1 Ga 4:10).

Trong cuộc sống, khi nói đến vấn đề vô ân bạc nghĩa, người Việt thường nói: “Khi vui chẳng nhớ tới ai, đến khi nóng cứ trái tai mà sờ”. Cái trái tai cần thiết mà luôn bị lãng quên. Chúng ta cũng thường đối xử với Chúa theo kiểu như vậy. Nhưng Ngài vẫn “làm ngơ”, coi như không biết, vì tình yêu thương của Ngài luôn bao la, là bản trường ca đầy những Nốt Tình kỳ diệu dệt thành Giai Điệu Xót Thương tuyệt vời nhất để chúng ta tận hưởng. Khối Thánh Tình đó của Ngài được phát xuất từ Thánh Tâm, Nguồn Mạch Yêu Thương, và đó cũng chính là Lòng Thương Xót vô biên của Ngài.

Hôm nay, vậy là chúng ta đã đi được nửa chặng đường của Mùa Chay. Xin mạn phép nhắc lại một chút cho dễ hiểu: Chúa Nhật IV Mùa Chay còn được gọi là Chúa Nhật Vui (Lætare), với lễ phục màu hồng, xuất phát từ ca nhập lễ trong ngày này (Lætare Jerusalem – Hãy vui lên hỡi Giêrusalem). Niềm vui này dẫn chúng ta tới đỉnh Đồi Sọ để cùng chết với Thầy Chí Thánh.

VÌ LÀ TỘI NHÂN…

Thánh Vịnh gia xác định: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 51:7). Đó là “kiếp tội nhân” của mọi phàm nhân. Tất cả chúng ta đều là những hạt-bụi-nhỏ-nhoi-và-yếu-hèn, đều là những tội nhân, ngay cả những người công chính cũng vẫn phạm sai lầm mỗi ngày 7 lần (x. Cn 24:16).

Thật vậy, sách Sử Biên Niên nói: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giêrusalem ra ô uế” (2 Sb 36:14). Do đó, Thiên Chúa không ngừng sai sứ giả của Ngài đến cảnh cáo, vì Ngài hằng thương xót dân và thánh điện của Ngài. Thế nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Ngài và chế giễu các ngôn sứ của Ngài. Dân Chúa phạm tội tăng theo cấp số nhân, dân Chúa cũng chính là chúng ta. Và rồi Thiên Chúa buộc lòng phải bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Ngài đến vô phương cứu chữa. Nhưng Ngài trách phạt chúng ta vì yêu thương, vì thương xót, chứ không vì ghét bỏ, để chúng ta có thể “sáng mắt” và giác ngộ mà nhận ra những sai lầm thái quá của mình.

Chuyện kể trong sách Sử Biên Niên thế này: Ngày xưa quân Canđê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giêrusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị. Theo “luật nhân quả” thì “gieo gì gặt nấy”, và chúng ta cũng thường nói: “Gieo gió thì gặt bão”. Hình phạt là hậu quả từ sự ngang ngược của chúng ta: Lỗi tại tôi mọi đàng – một hệ lụy tất yếu!

Chỉ vì to gan, lớn mật, coi trời bằng nắp bia, dám phạm tội phản nghịch Thiên Chúa mà dân chúng phải đi đày. Khổ nên buồn, buồn nên nhớ quê hương, thế nên dân chúng than thở thảm thiết: “Bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn” (Tv 137:1-2). Mỗi người trong chúng ta cũng đã bao lần tự cắt mối dây liên lạc với Chúa vì phạm tội, đến lúc ở “bước đường cùng” rồi thì chúng ta chỉ còn biết năn nỉ ỉ ôi: “Xin Chúa thương xót chúng con”. Lời cầu nguyện này không chỉ được chúng ta đấm ngực và kêu xin trong thánh lễ hằng ngày mà còn nhiều lần khác trong ngày. Rõ ràng “cứ trái tai mà sờ”. Thật tồi tệ, thế nhưng lại là tốt, bởi vì Thiên Chúa tươi cười khi thấy chúng ta biết sám hối!

Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Đã khổ sở vì lòng ray rứt, dân chúng còn bị bọn lính canh “khiêu khích” để chạm vào vết thương lòng đang sưng tấy: “Hát đi, hát thử đi xem! Sion nhạc thánh điệu quen một bài!” (Tv 137:3). Ui da, vần thơ lục bát êm đềm thế mà sao nhức buốt quá! Đúng là “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Buồn não lòng như vậy thì còn đâu hứng khởi mà hát xướng, dù là bài ca kính Chúa Trời? Và rồi lòng lại dặn lòng: “Giêrusalem hỡi, lòng này nếu quên ngươi, thì tay gảy đàn thành tê bại! Lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm, nếu ta không hoài niệm, không còn lấy Giêrusalem làm niềm vui tuyệt đỉnh của tâm hồn” (Tv 137:5-6). Con cái chẳng bao giờ rời khỏi cha mẹ, chúng ta cũng chẳng bao giờ thoát khỏi Thiên Chúa. Chắc chắn như thế!

…NÊN CẦN TÌNH CHÚA

Thiên Chúa là Đấng THẤU SUỐT mọi sự (1 Sbn 28:9b; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20), Ngài biết rõ chúng ta đau khổ vì đã chống lại Ngài, nhưng Ngài vẫn “làm như không hay biết” vì muốn chúng ta tự nhận thức và sám hối thật lòng. Chừng nào chúng ta “đầu hàng vô điều kiện” thì Ngài sẽ ra tay ngay. Thánh Phaolô trần tình: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Ngài cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô” (Ep 2:4-5). Ôi, chúng ta thực sự hạnh phúc vô cùng, nhưng đừng ảo tưởng mà cho rằng Thiên Chúa “phải” yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta vì thương xót chúng ta, “chính do ân sủng mà chúng ta được cứu độ” (Ep 2:5), chứ chúng ta chẳng là gì mà Ngài phải bận tâm!

Tất cả là hồng ân. Ngài không chỉ cứu độ chúng ta mà còn “cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep 2:6). Ngài tỏ lòng nhân hậu đối với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau thấy ân sủng dồi dào và phong phú của Ngài. Thánh Phaolô tái xác định: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa, cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện” (Ep 2:8-9). Quả thật, chúng ta không hề có mảy may gì để mà hãnh diện!

Đó là điều vừa mặc nhiên vừa minh nhiên, bởi vì “chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu”, và chúng ta có trách nhiệm “sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2:10). Đó là sự công bình hoàn toàn hợp lý!

Qua sách Dân số, chúng ta biết rằng, từ núi Horép, dân Chúa lên đường theo đường Biển Sậy (Sea of Reeds, còn gọi Biển Đỏ – Red Sea), vòng qua lãnh thổ Êđôm, trong cuộc hành trình qua sa mạc, với lương thực duy nhất là “món” mana, dân Ít-ra-en mất kiên nhẫn nên kêu trách Chúa và ông Môsê: “Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này!” (Ds 21:5). Thiên Chúa cho rắn độc ra cắn khiến nhiều người chết. Thấy vậy, dân chúng hoảng sợ quá nên đành phải cầu xin ông Môsê: “Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách Đức Chúa và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu Đức Chúa để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi” (Ds 21:7). Ông Môsê cầu nguyện, và Thiên Chúa “mủi lòng” nên bảo ông đúc một con rắn bằng đồng, đem treo lên cây cột, và “hễ ai bị rắn cắn mà NHÌN lên con rắn đồng thì ĐƯỢC CỨU SỐNG” (Ds 21:9).

Biểu tượng ơn cứu độ thời Cựu Ước là “con rắn đồng treo trên cây cột trong sa mạc”, biểu tượng ơn cứu độ thời Tân Ước là “Đức Kitô bị treo trên Thập giá”, để “ai tin vào Ngài thì được sống muôn đời” (Ga 3:15). Lời hứa đó là niềm hy vọng chắc chắn đối với chúng ta, nhưng tất cả đều là hồng ân, và nhờ Lòng Chúa Thương Xót. Thật vậy, Thiên Chúa không hề tiếc chúng ta điều gì: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).

Ôi, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa quá đỗi lớn lao, ngoài sức tưởng tượng của nhân loại: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3:17). Thiên Chúa công minh chính trực (Dcr 9:9b; Hc 5:3; Br 2:6; Br 2:9; Đn 9:14; Tv 7:18; Tv 9:9; Tv 11:7; Tv 25:8; Tv 67:5; Tv 146:7), không thiên tư tây vị bất kỳ ai, không “ưu tiên” người “có thế giá”, cũng chẳng “chèn ép” người cô thân – dù là người cùng đinh nhất thế gian: “Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:18). Đó là sự công bằng – vừa minh nhiên vừa mặc nhiên.

Đâu là nguyên nhân của bản án? Rất đơn giản: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa” (Ga 3:19). Thiên Chúa giải thích: “Ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3:20-21). Rất rõ ràng, rất rạch ròi!

Còn chúng ta? Trách nhiệm của chúng ta là gì? Đó là “thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta”, nếu ai hoàn thành tốt thì “việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa”. Một hệ lụy rất lô-gíc và quá tuyệt vời! Nếu vậy, mỗi chúng ta sẽ trở thành một “nốt tình” trong bản tổng phổ của bài “Trường ca Lòng Chúa Thương Xót”.

Tuy nhiên, Thánh Phêrô cảnh báo: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8). Ma quỷ rất tinh quái, đủ mánh khóe để đưa chúng ta vào tròng, thế nên phải luôn cảnh giác như Thánh Têrêsa Hài Đồng: “Ma quỷ thường hay đánh lừa những linh hồn quảng đại bằng cách thúc đẩy họ bước vào những hy sinh thái quá, vừa làm hại sức khỏe vừa khiến họ không thể chu toàn bổn phận, đồng thời lại lấy đó làm tự mãn”. Đáng sợ là nó làm cho chúng ta cảm thấy mình đạo đức, vì thế mà kiêu ngạo và khinh người khác.

Ba thù rất đáng quan ngại, mỗi loại có “chiêu” riêng, vì thế mà phải ăn chay để khuất phục chúng. Chịu khó ăn chay một chút nhưng được nhiều ích lợi. Thánh GM TS Augustinô cho biết: “Ăn chay tẩy sạch linh hồn, nâng cao tâm trí và thể lý, làm cho tâm hồn khiêm nhường và hối hận, phá tan những ham muốn trần tục, kiềm chế nhục dục, và thắp sáng lửa tinh tuyền. Hãy đi vào nội tâm của chính mình”. Cố vượt qua chính mình và phải cậy nhờ vào Đấng toàn năng: “LẠY CHÚA TRỜI, XIN TỚI GIÚP CON! – DEUS, IN ADJUTORIUM MEUM INTENDE ! – O GOD, COME TO MY ASSISTANCE !”.

Dù ở vào hoàn cảnh nào thì cũng “đừng sợ!”, bởi vì chúng ta luôn có Chúa Giêsu đồng hành và cùng chiến đấu với chúng ta. Tưởng cũng cần biết điều thú vị này: Thành ngữ “đừng sợ” được đề cập 365 lần trong Kinh Thánh, với các sắc thái khác nhau. Như vậy, trong suốt cả năm, mỗi ngày chúng ta đều được Thiên Chúa động viên trong các trường hợp khác nhau với mệnh lệnh: “ĐỪNG SỢ!”. Tạ ơn Chúa!

Lạy Thiên Chúa, còn biết bao người chịu đau khổ đủ cách và đủ mức ở khắp nơi trên thế giới này, xin Ngài thêm sức và cứu thoát họ. Thưa Ngài, con là kẻ bạc tình bạc nghĩa – với Ngài và với tha nhân, chỉ lo ngoại tại mà quên nội tại, nói nhiều mà chẳng làm được bao nhiêu, xin Ngài đại lượng tha thứ. Xin ban ánh sáng Thánh Linh để thức tỉnh lòng con và giúp con biết sống khiêm nhường để có thể thực sự trở nên lợi khí của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

THÁNH GIÁ, TÌNH YÊU CỨU ĐỘ

Lm. Phêrô Trương Minh Thái 

Chúa nhật IV Mùa Chay hôm nay là Chúa nhật Mừng (Laetare), còn gọi là Chúa nhật Hồng. Vui mừng vì Thiên Chúa đã quá yêu thương thế gian đến độ thí ban Con Một để thực hiện công trình kỳ diệu là cho loài người được hoà giải với Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa được tỏ bày đến tột cùng qua hình ảnh Chúa Giêsu chấp nhận chịu treo trên thập giá vì trần gian. Vui mừng vì ơn cứu độ, vì sự sống đời đời sẽ được ban cho những ai, với lòng tin tưởng và thống hối, biết nhìn lên Đấng bị đóng đinh, Đấng bị “giương lên” trên cây thập giá, như con rắn đồng trong sa mạc năm xưa. 

Nơi trang Tin Mừng chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu đã lấy lại hình ảnh con rắn đồng được treo cao trong hoang địa để cứu sống dân Do thái khỏi nọc độc rắn lửa cắn, để giới thiệu thập giá là tình yêu cứu độ, khi Ngài chấp nhận bị chết treo lên cao để cứu con người khỏi nọc độc của tội lỗi. Câu chuyện con rắn đồng không lạ gì với ông Nicôđêmô, với dân Do thái. Trong sách Xuất hành, kể lại cuộc hành trình về đất hứa của dân Do thái, một cuộc hành trình dài 40 năm đầy cam go, khổ sở và nhiều thử thách. Khi gần đến đất hứa, dân Do thái lại kêu trách, xúc phạm đến Chúa và chống đối ông Môisen. Chúa liền cho rắn lửa bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Dân chúng hoảng sợ và hối hận, họ chạy đến kêu cầu ông Môisen cứu giúp. Ông Môisen cầu xin Chúa. Chúa bảo ông hãy đúc một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn, đến nhìn lên rắn đồng với lòng ăn năn thống hối thì được khỏi. Trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô nơi bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh này để chỉ về Ngài: cũng như xưa, rắn đồng bị treo lên, Ngài cũng phải bị treo lên như vậy. Và cũng thế, rắn đồng chữa cho bất cứ ai nhìn lên nó, thì Chúa cũng cứu chữa bất cứ ai tin cậy nơi Ngài. Chúa Giêsu bị giương cao trên thập giá và Ngài trở thành nguồn ơn cứu độ và giải thoát cho chúng ta.

Nhưng Chúa Giêsu cứu chuộc chúng ta bằng cách nào? Phải chăng Ngài cứu chúng ta chỉ bằng đau khổ thập giá? Chúng ta hãy nhớ lại trên đồi Can-vê chiều hôm ấy có ba bản án tử hình và ba cây thập giá được dựng lên, nhưng chỉ có một cây được gọi là “Thánh giá” và hai cây kia thì bị gọi là “khổ giá” hay “thập ác”. Chỉ có cây thập giá treo Chúa Giêsu lên thì được gọi là Thánh giá. Trong khi đó cả ba người tử tội đều cùng một hình phạt, cùng chịu đau khổ và nhục nhã như nhau và cùng chết thê thảm như nhau. Nhưng cái chết của hai tên trộm cướp kia có cứu được ai đâu? Chỉ có cái chết của Chúa Giêsu cứu chuộc chúng ta. Thật vậy, Chúa Giêsu không cứu chúng ta bằng đau khổ nhưng là bằng tình yêu. Ở nơi thập giá Chúa Giêsu, Thiên Chúa bày tỏ dung nhan của Người là tình yêu hiến ban, như Chúa Giêsu quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời”. Ở trên thập giá Chúa Giêsu, Thiên Chúa biểu lộ tình yêu tột cùng của Người, vượt lên trên sự hiểu biết và suy tưởng của con người. Thiên Chúa đã thí ban Con Một dấu ái của Người để gánh lấy tội lỗi nhân loại, để đền thay và chết thay cho mọi người, nhờ đó con người được tha thứ, được cứu sống và sống đời đời.

Thật vậy, thập giá của Chúa Giêsu đem lại sự sống đích thực, sự sống đời đời cho những ai tin tưởng, cậy trông vào Ngài. Không đâu xa, ngay tại nơi Chúa Giêsu bị treo lên, vào buổi chiều Thứ Sáu trước lễ Vượt qua năm ấy, khi ba cây thập giá được dựng lên, treo ba thân xác tả tơi đầy thương tích của ba người tử tội, người ta nghe tiếng của tên trộm bị treo bên tả chửi bới, nguyền rủa, nói những lời xúc phạm và đòi xuống khỏi thập giá. Ngược lại, tên trộm phía bên hữu, như được sức mạnh của ánh sáng từ thập giá ở giữa chiếu soi, anh buồn rầu, hối hận vì tội lỗi ngập đầu của mình và quay sang Chúa Giêsu, anh tha thiết kêu xin: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Trước lời cầu cứu đầy tin tưởng ấy, Chúa nói: “Tôi bảo thật với anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.

Người trộm lành đã nhìn nhận tội lỗi của mình và chấp nhận chịu trừng phạt, khi anh đối chất với người bạn tù cùng bị đóng đinh với anh. Anh nói: “Mày đáng chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm”. Như vậy, dù cả đời anh ta xấu xa tồi tệ, cả đời trộm cướp, chiếm đoạt cách bất công tiền bạc, của cải của người khác, bất chấp đã gây ra biết bao đau khổ, mất mát cho tha nhân. Nhưng giờ đây, nhờ nhìn vào thánh giá Chúa Giêsu, tên trộm khét tiếng gian ác đã trở thành người trộm lành. Ánh sáng nơi thập giá Chúa Giêsu đã khơi dậy tâm tình thống hối nồng nàn tha thiết trong tâm hồn anh. Anh biết và thực tâm cảm nhận điều đó. Đồng thời tận đáy tâm hồn anh lòng kính sợ Thiên Chúa cũng đã được khơi gợi lên mạnh mẽ. Anh cũng đã nhận ra và tin tưởng Đấng cùng chịu đóng đinh với anh hôm nay là người vô tội, là Đấng thánh, là Đấng có thể cứu anh được sống đời đời. Nên khi quay sang thập giá Chúa Giêsu để cầu xin Ngài cứu giúp, thì lại chính là lúc anh được đón nhận ánh sáng từ thánh giá Chúa, và làm rực sáng đức tin của anh. Anh đã thấy thánh giá, anh đã tin vào giá trị của thánh giá, và biết Đấng bị đóng đinh là ai, nên anh mới xin Ngài nhớ đến anh khi Ngài về nơi vương quốc của Ngài.

Đứng trước thập giá Chúa Giêsu, đám đông dân chúng thì đòi Chúa xuống khỏi thập giá, trái lại tên trộm lành thì lại muốn được Chúa đưa lên cao. Thế gian thì cầu mong Chúa rao giảng một thứ tôn giáo không thập giá, còn người trộm lành thì lại tìm được niềm tin khi chịu đau khổ, bị treo trên thập giá. Anh ta đã thấy tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn mọi tội lỗi cả đời của anh, một tình yêu không loại bỏ thân phận thấp hèn và nhơ nhớp của anh. Anh đã thấy sức mạnh và quyền năng vô biên nơi tình yêu của Chúa Giêsu trên thập giá đã tha thứ, và cho anh được sống đời đời. Phải chăng sự hối cải và niềm tin của người trộm lành đang chất vấn chúng ta, và là mẫu gương cho đời sống đức tin và lòng sám hối của chúng ta hôm nay? Hãy học cách nhìn lên thánh giá Chúa Giêsu của người trộm lành, người đầu tiên được hưởng tình yêu cứu độ nơi thập giá Chúa Giêsu, người đầu tiên được Chúa Giêsu hứa ban hạnh phúc thiên đàng.

Kể từ chiều Thứ Sáu Tuần Thánh năm ấy, khi thập giá Chúa Giêsu được giương lên cao, thì khổ hình thập giá đã trở thành thánh giá ; và bóng mát của tình yêu cứu độ nơi thánh giá Chúa đã bao phủ cả trời đất. Biết bao người suốt 2.000 năm qua đã được cứu độ, được sống đời đời nhờ Thánh giá Chúa Giêsu. Biết bao người đã tìm thấy niềm tin, ý nghĩa và giá trị cuộc sống nhờ tin vào thánh giá Chúa Giêsu. Họ đã cống hiến đời mình để tiếp tục ra đi dựng cây thánh giá Chúa ở mọi nơi khắp cùng trái đất. Nhờ đó mà Tin Mừng và ơn cứu độ của Chúa đến được với mọi dân tộc trên hành tinh này.

Cùng với mọi thành phần dân Chúa giáo phận Qui Nhơn đang hợp mừng Năm Thánh hồng ân, với ánh sáng lời Chúa hôm nay, chúng ta được mời gọi hãy nhìn lên thánh giá Chúa với hết lòng tin yêu và chân thành sám hối; đồng thời cũng nhìn vào gương các bậc tiền nhân để tiếp tục dấn thân dựng xây gia đình giáo phận. Ước gì mỗi một người con của đất Mẹ Qui Nhơn hôm nay biết nhìn lên Thánh giá Chúa với tâm tình tạ ơn chân thành, với lòng tin tưởng mãnh liệt vào tình yêu Thiên Chúa mà biết sám hối, canh tân đời sống. Đồng thời cũng biết nhìn vào gương sống của các bậc tiền nhân, gương hy sinh quên mình và chấp nhận mọi gian lao khốn khó để loan báo Tin Mừng và gầy dựng giáo phận, để mỗi người thêm lòng nhiệt thành mà dấn thân phục vụ vô vị lợi và nổ lực sống chứng nhân cho Tin Mừng của Chúa trên mãnh đất giáo phận thân yêu.

Về mục lục

.

LÒNG CHÚA YÊU THƯƠNG THA THỨ

Lm. Đinh Lập Liễm

Con người được Thiên Chúa yêu thương. Đây là một chân lý mà không ai chối cãi được. Chân lý gây xúc động sâu xa nhất mà Giáo Hội rao giảng là chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương từ trước muôn đời (Jer 31:3). Kitô giáo được xây dựng trên một niềm xác tín rằng tình yêu Thiên Chúa đã hạ cố đến thế gian đau khổ bệnh tật qua con người Đức Kitô. Đối với mọi tín hữu, đây là lời cốt tủy của Tin Mừng. Không có đoạn văn nào trong Kinh Thánh nói rõ điều này hơn là lời Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô: ”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một Mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời” (Ga 3:16).

Thiên Chúa yêu thương từng người chúng ta cứ như là không còn ai khác để cho Ngài yêu thương. Ngài như người cha luôn mong muốn cùng gia đình đồng hành suốt cuộc đời, và không thể an lòng cho đến khi con cái đi đây đó, ai nấy đều an toàn trở về mái ấm gia đình.

Bài đọc thứ nhất (Jer 31:31-34) cho chúng ta biết dân Do Thái đã bất tuân lề luật và phụ bạc đối với tình yêu Thiên Chúa như thế nào. Họ đã phá vỡ giao ước và kéo theo sự sụp đổ hoang tàn của đền thờ và thành thánh. Chúa đâu có muốn trách phạt họ; Ngài muốn cho họ sống trung thành với Ngài như con cái đối với người cha, nhưng họ cứ đi sâu vào đàng tội, bỏ Chúa mà đi theo tà thần dân ngoại, bất đắc dĩ Ngài phải phạt để cho họ tỉnh ngộ (Is 10:5-6). Cho đến lúc mà Thiên Chúa không còn dung thứ được nữa, Ngài liền cho phép quân thù đến tấn công họ. Quân Babylon đến xâm chiếm đất nước của họ, giết chết hàng ngàn, hàng vạn người. Quân thù phá hủy thành thánh, đốt phá đền thờ và cưỡng ép dân còn sống sót đi lưu đầy bên Babylon.

Tuy nhiên vừa khi họ bị sát phạt, thì các tiên tri của Chúa liền xuống giọng. Các tiên tri bảo họ: đó là hình phạt của Thiên Chúa yêu thương và nhân hậu. Nhiều tiên tri đã lên tiếng kêu gọi thống hối và sửa đổi cách sống, nhưng đã hoài công, chẳng ai màng tới. Chưa hết, ngay trong những giây phút đen tối nhất của cuộc lưu đầy, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi dân Ngài nhưng tiếp tục kêu gọi họ quay về với lề luật, với Thiên Chúa.

Lịch sử dân Do Thái thật là một kho lưu trữ nhắc nhở cho chúng ta hay biết những gì sẽ xẩy ra mỗi khi chúng ta phũ phàng từ chối tình yêu Thiên Chúa. Lịch sử ấy cũng đem lại cho chúng ta niềm an ủi rằng chúng ta phải đối diện với sự lựa chọn: đón nhận hay từ chối lòng nhân từ yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta đã tự đặt mình vào một tình thế nguy hiểm là sống xa lìa với Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn kính trọng tự do cá nhân của chúng ta và sẽ không áp đặt ép uổng tình yêu của Ngài, đi ngược với những ước vọng chúng ta. Chúng ta có thể từ chối lòng thương yêu cũng như quà tặng tình nghĩa của Chúa. Chúng ta có thể quay lưng lại với tình yêu của Chúa mà ôm lấy bóng tối của tội lỗi và tự mình vĩnh viễn tách xa khỏi Ngài.

Tuy vậy, Chúa không nỡ bỏ rơi dân Ngài. Chúa dùng vua của dân ngoại là Cyrô, vua Ba tư, để cứu thoát dân Ngài và đưa họ trở về quê cha đất tổ (Ez 1:1-3). Như vậy ta thấy những hình phạt của Chúa, không phải nhằm báo thù, trách phạt, mà là cách thế để luyện lọc, thanh tẩy và chữa trị họ, khiến họ trở nên tùy thuộc vào Chúa.

Trong bài Tin Mừng hôm nay có nhắc đến chuyện con rắn đồng (Jn 3:14). Sau khi xuất Ai cập, bốn mươi năm ròng rã trong hoang địa, dân Israel gặp mọi thử thách. Họ oán trách Chúa đã để họ lầm than. Một lần cơn thịnh nộ của Chúa đã để cho rắn độc cắn chết nhiều người. Dân Chúa quá sức khiếp sợ. Họ nhìn nhận tội lỗi của mình, và Chúa đã đoái thương nỗi khốn khổ của họ. Ngài dạy ông Maisen hãy làm một con rắn bằng đồng, treo lên một cái sào để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng, sẽ được khỏi. Như vậy, khi con rắn đồng được giương lên, thì ngay chính lúc đó, lòng tha thứ của Thiên Chúa lại tỏa sáng và trao ban. Từ nay Thiên Chúa sẽ cứu sống dân, những kẻ đã từng oán trách Ngài.

Thiên Chúa yêu thương con người, nhưng con người không nhìn ra. Chính vì thế Thiên Chúa đã biểu lộ một cách cụ thể tình yêu của Ngài cho nhân loại nơi Đức Giêsu Kitô, Con yêu của Ngài, như lời Thánh Gioan đã nói: ”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban chính Con Một Ngài, để tất cả những ai tin vào Con Ngài sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3:16), và Ngài còn nói tiếp: ”Thiên Chúa đã không sai Con Ngài đến để luận phạt mà là để cứu độ” (Ga 3:17).

Tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại qua Đức Kitô đã được ám chỉ trong Cựu Ước. Ta có thể nói Cựu Ước là hình ảnh của Tân Ước. Cựu Ước là hình ảnh, Tân Ước là thực tại. Chính vì thế, ta thấy có sự sánh đôi giữa Cựu Ước và Tân Ước. Những nhân vật chính yếu và những biến cố then chốt trong Cựu Ước đều là hình bóng của những nhân vật chính yếu và những biến cố then chốt trong Tân Ước.

Chẳng hạn, họ chứng tỏ cho thấy Isaac, con trai tổ phụ Abraham là hình bóng của Đức Giêsu như thế nào: Isaac con trai độc nhất, Đức Giêsu cũng thế. Isaac được cha mình rất mực yêu dấu, Đức Giêsu cũng thế. Isaac bị dâng làm hy lễ, Đức Giêsu cũng thế. Isaac bị hiến tế trên một ngọn đồi, Đức Giêsu cũng thế. Isaac vác củi dùng vào việc hy tế, Đức Giêsu cũng thế.

Thánh Phaolô cũng so sánh tương tự như thế giữa Cựu Ước và Tân Ước. Chẳng hạn, trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, Ngài đã so sánh giữa Adong và Đức Giêsu. Ngài viết: ”Con người đầu tiên là Adong, đã được dựng nên là một người sống động, nhưng Adong sau cùng (Đức Giêsu) là Thánh Linh ban sự sống… Adong thứ nhất được dựng nên bằng đất, từ đất mà sinh ra, còn Adong thứ hai (Đức Giêsu) từ trời mà sinh ra. Người thuộc về đất thế nào, thì những người thuộc về đất cũng thể ấy. Người thuộc về trời thế nào thì những kẻ thuộc về trời cũng thể ấy. Như chúng ta đã mang hình ảnh của người thuộc về đất, thì chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh của người thuộc về trời” (1 Cr 15:45-49) (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm B, tr 88).

Chính khi nhìn vào thập giá, chứng kiến hình ảnh Đức Kitô chịu khổ hình treo trên thập giá, thấm đẫm bao nhiêu là quyền lực của sự dữ nơi tội lỗi, chúng ta mới bắt đầu nhận ra tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta cao cả biết bao. Tất cả mọi độc ác hận thù ghen ghét bất công của cuộc đời đều đổ dồn vào cây khổ giá, sừng sững giữa trời và đất, trên ngọn đồi Calvê. Một trong những chi tiết đầy ngỡ ngàng nhất về cuộc thương khó và tử nạn của Đức Giêsu chính là Thập giá nay trở nên bằng chứng tột cùng cho tình yêu Thiên Chúa. Thập giá sừng sững trên đồi cao, xưa kia là dấu chỉ của tủi nhục, nay trở nên chiếc cầu ân sủng thần kỳ có sức chữa lành cả thế giới. Cây chết chóc nay trở nên cây sự sống, cây thất bại nay trở thành cây chiến thắng.

Con rắn đồng là biểu trưng cho Đức Giêsu bị treo trên thánh giá. Sách Dân số 21,4-9 kể rằng: Dân Do Thái đi từ núi Horeb về phía Biển đỏ đi vòng quanh xứ Eđom. Quãng đường dài này đã làm cho dân chúng kêu trách Đức Chúa và ông Maisen: ”Tại sao đem chúng tôi ra khỏi Ai cập để rồi cho chúng tôi chết trong rừng? Không có bánh, không có nước, chúng tôi đã chán món ăn khốn nạn này lắm rồi.” Bấy giờ Đức Chúa cho một thứ rắn lửa từ trong rừng bò ra cắn dân chúng, nhiều người phải chết.

Dân chúng chạy đến ông Maisen, thưa với ông: ”Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi đã nói phạm đến Đức Chúa và đến ông, xin ông cầu với Đức Chúa cho chúng tôi để Ngài đuổi lũ rắn này xa khỏi chúng tôi đi.” Ông Maisen cầu cho dân. Chúa bảo Maisen: ”Hãy làm một con rắn và treo trên ngọn sào, hễ ai bị rắn cắn mà nhìn vào đó thì được sống.” Maisen làm một con rắn đồng và treo lên ngọn sào. Hễ ai bị rắn cắn nhìn vào rắn đó đều được khỏi.

Không phải tự con rắn treo lên có sức chữa người ta, nhưng cái sức chữa đó do Đấng truyền lệnh đã ban cho. Việc treo rắn đồng là tượng trưng cho việc Chúa chịu treo sau này. Ai tin vào Chúa chịu treo trên Thánh giá sẽ được cứu rỗi (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật, năm B, tr270).

Thiên Chúa có thể cứu chuộc nhân loại bằng bất cứ cách nào nhưng Ngài lại muốn Con của Ngài phải đổ máu ra trên thập giá để cứu chuộc. Máu ấy có thể rửa sạch mọi tội lỗi của nhân loại, làm linh hồn con người được trở nên trong trắng, xứng đáng được làm con Chúa và làm đền thờ của Ngài. Chúng ta không thể hiểu được việc này vì đây là một mầu nhiệm lớn, mầu nhiệm “Ngôi hai cứu chuộc.” Vì thế, suy niệm về ơn cứu độ này, Thánh Phaolô trong thư gửi cho tín hữu Do Thái đã khẳng định: ”Không có đổ máu ra thì không có ơn tha thứ” (Dt 9:22).

Thánh Gioan nói: ”Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Ngài, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:17-18). Tin đối với Gioan là nhìn nhận Đức Giêsu là Con và là sứ giả của Chúa Cha, là đến với Đức Giêsu và gặp Ngài, là biết Ngài và cùng với Ngài biết Chúa Cha. Đức tin còn là hồng ân và một sự lôi cuốn của Chúa Cha.

Người tin bước vào một cuộc sống mới; đó là được thông phần sự sống của Thiên Chúa, là một ân huệ Đấng Messia mang lại. Tin là từ bỏ bóng tối của tội lỗi, của gian tà, của ma quỉ. Phải, chính trong đêm tối của tối tăm mà con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, miễn là đừng khép kín lòng lại: ”Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm họ đều xấu” (Ga 3:19). Hãy tin vào Đức Giêsu thì sẽ được tha thứ và được hưởng nhờ ơn cứu độ.

Tại một nhà thờ bên Tây ban nha có một tượng Thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành. Chuyện kể rằng: một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị Linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi toà giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã; rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục nói: ”Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh.” Hối nhân ra khỏi toà giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ. Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát: ”Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha.” Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây Thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lỗ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình: ”Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con.” Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào Thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: ”Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ.”

Thiên Chúa đã không dạy bài học tha thứ suông, nhưng đã dạy bài học tha thứ bằng chính mạng sống của Con yêu dấu Ngài là Đức Giêsu. Nếu ngày xưa, con rắn đồng trong sa mạc được giương lên, thì hôm nay chính Chúa Giêsu được giương lên. Mãi mãi chúng ta biết ơn Chúa Giêsu và khắc sâu lời Ngài: ”Như Maisen đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ giương cao như vậy” (Jn 3:14).

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA ĐÃ YÊU TRẦN THẾ

Lm. Nguyễn Thái

Hôm nay, Giáo Hội kêu gọi chúng ta: “Mừng vui lên, Giêrusalem hỡi!… Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở reo mừng, và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan” (Is 66: 10-11). Tại sao Giáo Hội lại kêu gọi chúng ta hãy vui lên giữa lúc phải ăn năn sám hối của Mùa Chay? Câu chuyện sau đây có thể giúp trả lời.

William Willimon kể rằng: “Một trong những điều xảy ra lạ lùng nhất và ám ảnh nhất trong tuổi thơ của tôi đó là vết cắn của một con rắn. Bảo tàng viện The Field Museum ở Chicago, nơi cha tôi làm việc, có một bộ sưu tầm về những con vật sống cũng như những con đã chết được trưng bày và làm giống như còn sống. Câu chuyện xảy ra cho một nhà khoa học chuyên môn nghiên cứu về rắn. Một đêm nọ, trong văn phòng, ông làm việc rất khuya để ghi nhận những đặc điểm về vài loại rắn độc mà viện bảo tàng vừa có được. Có một con rắn mà ông đặc biệt chú ý đến vì chưa ai biết về nó. Rủi thay, đang khi nghiên cứu về con rắn này, nhà khoa học đã bị nó cắn. Ông nhận ra ngay rằng đây là một con rắn rất độc, và cũng biết rằng nó là loại rắn chưa ai biết và phân loại, nên cũng chưa có thuốc giải độc. Toàn bộ khu vực bảo tàng viện hoàn toàn vắng người, chỉ trừ mấy người gác gian ngoài cửa chính, nhưng lại rất xa chỗ văn phòng làm việc của ông. Chẳng còn cách nào để gọi cầu cứu, ông đã mau chóng quyết định trở lại bàn giấy và bắt đầu viết xuống, diễn tả những triệu chứng ông đang trải qua.

Sáng sớm hôm sau, khi những nhân viên làm việc đến, nhà khoa học đã chết gục trên bàn làm việc của ông. Những điều ông viết xuống kể lại những gì đã xảy ra là một di sản quý báu cho những người tiếp tục công việc ông làm. Qua cuộc khám nghiệm tử thi người ta đã biết được làm thế nào nọc độc đã giết chết ông, và từ đó đã có thuốc chống nọc độc thích hợp. Biết bao nhiêu người đã được cứu sống vì ông đã lãnh nhận toàn bộ nọc độc của con rắn trong người ông.”

Sự hy sinh của nhà khoa học nhắc nhở chúng ta về điều mà Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi dân thành Côrintô đã viết: “Nọc độc của sự chết là tội lỗi, và sức mạnh của tội là lề luật. Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì Ngài đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (1 Cor 15:56-57).

Lý do của sự vui mừng hôm nay là Tình Yêu Thiên Chúa. Nhà khoa học đã hy sinh mạng sống mình cho người khác được sống là một hình ảnh minh họa cho tình yêu của Chúa Giêsu Kitô. Ngài đã hy sinh mạng sống mình để cứu nhân loại được sống.

Con rắn đưa chúng ta trở về với câu chuyện Thánh Kinh đã diễn tả trong Cựu Ước. Trong sa mạc, nạn dịch đã xảy ra cho dân Do Thái. Thiên Chúa ra lệnh cho Môsê treo con rắn lên cây cột và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó thì được sống (Ds 21:9). Hình ảnh của con rắn bằng đồng biểu tượng cho ơn cứu độ nhờ Ngôi Lời Nhập thể (GLCG # 2130). Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã phán dạy những lời mà các nhà chú giải Thánh Kinh gọi là “Thánh Kinh thu nhỏ lại – Bible in miniature”, hay “Trái tim của Thánh kinh – The heart of the Bible”: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để tất cả những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng có sự sống đời đời” (Ga 3:16). Để dễ nhớ, một tác giả đã đơn giản hóa lại như sau:

– “Thiên Chúa”… Người Yêu vĩ đại nhất.

– “Đã yêu… đến nỗi”… Cấp độ vĩ đại nhất.

– “Thế gian”… Con số vĩ đại nhất.

– “Đã ban”… Hành động vĩ đại nhất.

– “Con Một Ngài”… Món quà vĩ đại nhất.

– “Để tất cả những ai”… Thiệp mời vĩ đại nhất.

– “Tin”… Sự đơn giản vĩ đại nhất.

– “Vào Ngài”… Con Người vĩ đại nhất.

– “Khỏi phải chết”… Sự giải thoát vĩ đại nhất.

– “Nhưng”… Sự khác biệt nhất.

– “Có”… Sự chắc chắn nhất.

– “Sự Sống đời đời”… Sở hữu vĩ đại nhất.

Để diễn tả tình yêu, tiếng Hy Lạp có ba từ khác nhau cho ba loại tình yêu, trong khi Anh ngữ chỉ có một từ chung là “love” để chỉ ba tương quan đó: 1- Eros: tình yêu vợ chồng, nam nữ – romantic love – trong hôn nhân. 2- Philia: tình bạn hữu – fellowship love – trong xã hội. 3-Agape: tình yêu tận hiến, hy sinh – sacrificial love – như người mẹ liều thân mình bảo vệ và hy sinh cho người con còn trong bụng mẹ.

Tình yêu nam nữ, vợ chồng, thường có khuynh hướng muốn đón nhận nhiều hơn. Trong khi tình bạn lại muốn được chia sẻ, có qua có lại. Còn tình yêu tận hiến thì chỉ muốn cho đi. Với tình yêu tận hiến (agape or sacrificial love): “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban”. Đây là sự khác biệt lớn lao giữa tình yêu của Thiên Chúa và của chúng ta: Thiên Chúa cho đi và tha thứ; chúng ta đón nhận và lãng quên. Cho đi là dấu hiệu của tình yêu tận hiến.

Sách Giáo Lý Công Giáo diễn tả tình yêu Thiên Chúa như sau: “Tình yêu của Thiên Chúa dành cho Israel được ví với tình yêu của người cha đối với con mình (Hs 11:1). Tình yêu này mạnh hơn tình yêu của người mẹ đối với các con mình (Is 49:14-15). Thiên Chúa yêu Dân của Ngài hơn là vị phu quân yêu ái thê của mình (Is 62: 4-5); và tình yêu này sẽ thắng vượt tất cả những sự bất trung xấu xa nhất (Hs 11); và tình yêu này sẽ đi tới sự trao ban quý trọng nhất: ‘Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến mức đã ban Con Một của Ngài’ (Ga 3:16)” (số 219).

Đây là loại tình yêu mà Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và Ngài cũng đòi hỏi chúng ta phải yêu nhau bằng tình yêu này (Ga 15:12). Có thể nói, đây cũng là loại tình yêu đang được sống trên thiên đàng. Và bất cứ nơi nào vắng mặt tình yêu tận hiến này đều làm cho chúng ta xa cách khỏi Thiên Chúa.

Có một vị thánh cầu xin với Chúa tỏ cho biết sự khác biệt giữa thiên đàng và hỏa ngục. Chúa mới sai một thiên thần dẫn bà đi xem, đầu tiên xuống hỏa ngục trước. Ở đó bà trông thấy quý ông quý bà ngồi quây quần xung quanh một bàn ăn đầy dẫy những lương thực thơm ngon. Nhưng chẳng có ai ăn được miếng nào cả. Tất cả ngồi buồn bã ngáp dài. Bà thánh mới hỏi một người trong họ, “Tại sao quý vị không ăn đi?” Người đó mới đưa bàn tay lên cho bà xem. Nó bị cột chặt vào một cái nĩa dài chừng một mét rưỡi, mỗi lần họ cố gắng lấy đồ ăn xúc vào miệng thì chỉ làm tung tóe xuống nền nhà. Nhìn thấy họ đói khát, thèm muốn mà tội nghiệp!

Rồi thiên thần đưa bà lên thiên đàng. Bà rất ngạc nhiên vì cảnh ở thiên đàng cũng hầu như giống với cảnh ở hỏa ngục. Quý ông quý bà cũng ngồi xung quanh một cái bàn tiệc với đủ loại đồ ăn ngon tuyệt vời, và tay mỗi người cũng bị cột vào một cái nĩa dài một mét rưỡi. Nhưng không giống như ở hỏa ngục, mọi người ở đây rất vui vẻ, cười đùa thỏa thích. Bà thánh mới hỏi một trong những người của họ, “Cái gì vậy? Tại sao các ngài lại vui vẻ trong tình trạng như thế này được?” Một người trả lời, “Ở đây, trên thiên đàng chúng tôi săn sóc, phục vụ và giúp cho nhau ăn uống.”

Chúng ta có thể nói rằng: “Ở đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời.” Theo thơ của Thánh Gioan Tông Đồ: “Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Jn 4:16). Ở đâu có sự săn sóc, phục vụ và giúp đỡ cho nhau, ở đấy là thiên đàng.

Một ngày nọ, em bé gái bày đồ chơi trong phòng nơi người mẹ đang may vá quần áo. Thình lình bé chạy đến chỗ mẹ ngồi may vá, trèo lên đùi mẹ, quàng hai tay xung quanh cổ mẹ, rồi hôn mẹ. Sau đó với một cử chỉ yêu thương bé nghiêng cái đầu nhỏ bé lên bờ vai của mẹ và thì thầm vào tai mẹ, “Mẹ ơi, bé yêu mẹ lắm!” Người mẹ mỉm cười ngọt ngào nói: “Bé ơi, tại sao bé thương mẹ?” Với những giọt nước mắt long lanh trên khóe mắt, bé trả lời, “Bé thương mẹ là bởi vì mẹ yêu bé khi bé còn quá nhỏ để thương mẹ lại.”

Tương tự như tình yêu của người mẹ dành cho con cái (Mt 7:11), Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, ngay cả khi chúng ta còn chưa có gì để yêu thương lại Ngài (Rm 5:8). Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta hãy vui mừng trong tình yêu của Thiên Chúa ban cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta. Đó là “đã ban Con Một Ngài” cho chúng ta (Rm 8:32).

Chúng ta được mời gọi để tin vào Con Thiên Chúa, dấu tích của tình yêu Thiên Chúa cho chúng ta. Vì thế chúng ta phải dâng lời chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa như Thánh Phaolô đã làm (Ep 1: 3-5, 9-10). Trong Tông Sắc “Mầu Nhiệm Nhập Thể”, nhân dịp triệu tập năm thánh 2000, Đức Gioan Phaolô II đã viết: “Trong Đức Kitô, lịch sử cứu rỗi đạt đến chóp đỉnh và ý nghĩa cuối cùng…, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác (Ga 1:16), và được giao hòa lại với Thiên Chúa Cha” (Rm 5:10; 2 Cr 5:18) (Bulla Apostolisca số 1).

Chúng ta cũng được mời gọi để sống một cuộc đời biết ơn Thiên Chúa bằng tình yêu thương đối với anh chị em đồng loại; không phải một tình yêu chỉ đi tìm sự đáp trả, nhưng với tình yêu hy sinh, tận hiến cho đi một cách quảng đại như Thiên Chúa đã ban cho chúng ta khi Ngài ban chính Con Một Ngài (Ep 4: 1-6; 3:17-19). Đây là ý nghĩa của Mùa Chay khi chúng ta ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái với một tình yêu hy sinh, tận hiến, và phục vụ cho tha nhân.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Chay năm B đều xoay quanh kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng, vì yêu thương, muốn cứu độ nhân loại, đưa nhân loại ra khỏi vòng tội lỗi và dẫn họ đến với Ngài.

 2Sb 36: 14-16, 19-23

Bài Đọc I cho chúng ta thấy Thiên Chúa dẫn dắt mọi biến cố và theo đuổi ý định của Ngài qua những thăng trầm lịch sử.

Ep 2: 4-10

Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa giàu lòng xót thương và rất mực yêu yêu thương chúng ta, nên đã hoạch định chương trình cứu độ chúng ta bởi và trong Đức Ki-tô.

Ga 3: 14-21

Trong đoạn trích Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su khẳng định rằng: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.

BÀI ĐỌC I (2Sb 36: 14-16, 19-23)

Hai sách Sử Biên vạch lại lịch sử dân Ít-ra-en từ những giai đoạn ban đầu cho đến khi vương quốc Giu-đa sụp đổ (587 trước Công Nguyên). Bài Đọc I là phần cuối của sách Sử Biên quyển hai. Đoạn trích này  nhắc cho chúng ta nhớ những nguyên nhân sâu xa của tai họa và tấn thảm kịch mà Giê-ru-sa-lem đã trải qua vào năm 587 trước Công Nguyên: Đền Thờ và thành đô bị phá hủy, dân thành bị thảm sát hay bị lưu đày, lãnh thổ bị tàn phá.

  1. Tội của dân Ngài

Tác giả ghi lại những biến cố này  vào thời gian rất lâu sau này , cuối thế kỷ thứ tư hay vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, nhưng ông đọc lại Lịch Sử Thánh trong ánh sáng của những viễn cảnh thần học. Đối với ông, những thăng trầm mà dân Ít-ra-en đã kinh qua gặp thấy lời giải thích ở nơi việc dân Ít-ra-en trung thành hay bất tín với Đức Chúa, Thiên Chúa của dân.

Vả lại, dưới triều vua Xê-đê-ki-a (598-587 trước Công Nguyên) những hành vi vô đạo và thờ ngẫu tượng tràn lan khắp xứ. Việc dân bị trừng phạt là điều không sao tránh khỏi. Nhưng tác giả cho thấy rằng trước khi trừng phạt họ, Thiên Chúa “đã kịp thời sai các sứ giả đến cảnh báo họ không ngừng”.

Dù ngôn sứ Giê-rê-mi-a và ngôn sứ Ê-dê-ki-en không được nêu tên nhưng được ám chỉ rất rõ ở nơi những lời này: “Nhưng họ cứ nhạo báng các sứ giả của Thiên Chúa, khinh dể lời Người và chê cười các ngôn sứ”. Quả thật, vua Giơ-hô-gia-kim đã xé và bỏ vào lò sưởi cuốn sách ghi lại những sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a, còn các chức sắc tôn giáo đã nhục mạ ông, tống giam ông.v.v…Thiên Chúa đã cảnh báo ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta” (Ed 2: 3). Vì thế, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đã giáng xuống trên dân.

  1. Thiên Chúa tha thứ

Nhưng cơn thịnh nộ này  chỉ hạn định trong một thời gian: Thiên Chúa tha thứ cho dân Ngài sau bảy mươi năm thử thách, như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã loan báo. Vì lịch sử ở trong tay Thiên Chúa, Ngài muốn cứu độ dân Ngài và không từ chối những lời hứa mà xưa kia Ngài đã hứa với vua Đa-vít. Đây là một trong những ý tưởng chủ đạo của tác giả hai sách Sử Biên này . Sách Sử Biên quyển hai kết thúc trên viễn cảnh của bảy mươi năm tang thương. Sách Ét-ra tiếp nối khi tường thuật cuộc tái thiết Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ. Quả thật, phần cuối của đoạn trích này  là phần đầu của sách Ét-ra, được lập lại ở đây để đóng lại tác phẩm trên một điểm nhấn chứa chan hy vọng.

Chúng ta lưu ý rằng tác giả tập trung mọi chú ý của mình vào Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Tội ác tột cùng của dân bất trung bất nghĩa “làm nhơ nhuốc Đền Thờ Chúa đã thánh hiến tại Giê-ru-sa-lem”. Nếu Thiên Chúa sai phái các sứ giả của Ngài, chính “vì Ngài thương đến nơi Ngài ngự”. Hành động đầu tiên của đạo quân Ba-by-lon xâm lăng là thiêu hủy Đền Thờ. Cuối cùng, khi sự thử thách chấm dứt, vua Ba-tư là Ki-rô tuyên bố “xây một đền thờ kính Người tại Giê-ru-sa-lem”.

Mầu nhiệm Đền Thờ là trọng tâm của hai sách Sử Biên. Vào thời đại của tác giả, Đền Thờ là nguồn nâng đỡ lớn lao của dân ông, dân đã đánh mất nền độc lập chính trị của mình. Dân Ít-ra-en đã được tổ chức theo thần quyền, chung quanh các tư tế của mình, bên cạnh Đền Thờ duy nhất của Thiên Chúa duy nhất. Trước tiên, dân là một cộng đồng tôn giáo, cộng đoàn ấy phải là một cộng đồng thánh thiện và trung tín. Đây là một bài học lớn lao mà tác giả hai sách Sử Biên, vừa sử gia vừa thần học gia, muốn nhắc nhở cho những người đương thời của ông.

BÀI ĐỌC II (Ep 2: 4-10)

Thánh Phao-lô viết thư này  từ Rô-ma trong hoàn cảnh bị giam cầm vào những năm 61-63. Thật ra, thánh nhân viết thư này  không chỉ cho cộng đoàn  Ê-phê-sô nhưng nhất là muốn bức thư của mình được luân lưu đến các cộng đoàn miền Tiểu Á.

Thư này  biểu thị một trong những đỉnh cao tư tưởng của thánh Phao-lô. Thư này là một tổng đề tích luỹ những vấn đề chính yếu mà thánh nhân đã gợi lên ở nơi những thư khác rồi, nhưng ở đây được bàn đến một cách sâu rộng.

Chủ đề chính yếu của đoạn trích hôm nay chính là ý định của Thiên Chúa liên quan đến ơn cứu độ của nhân loại đã được thực hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô. Dù đoạn trích này  rất ngắn, chúng ta gặp lại ở đây vài chủ đề lớn của thánh Phao-lô.

  1. Quyền Tối Thượng của Chúa Cha

Thánh Phao-lô luôn luôn quy chiếu công trình cứu độ và tâm tình cảm tạ tri ân vào Chúa Cha. Đây là nét đặc trưng của đoạn trích thư này , trong đó Chúa Cha là chủ từ của một loạt động từ. Chính Chúa Cha là Đấng “giàu lòng xót thương” và rất mực “yêu thương” chúng ta, đã “biểu lộ tình yêu” của Ngài đối với chúng ta trong Đức Ki-tô, đã cho chúng ta được cùng “sống lại” và cùng “ngự trị” với Đức Ki-tô trên cõi trời, đã “tỏ cho chúng ta thấy” ân huệ dồi dào phong phú của Ngài…

  1. Chúa Cha giàu lòng xót thương

Diễn ngữ: “giàu lòng xót thương” đã là chủ đề, đồng thời cũng là nhan đề cho Tông Huấn “Đức Chúa Cha giàu lòng xót thương” của thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II. Đức Thánh Cha nhắc nhớ rằng diễn ngữ “lòng xót thương” muốn nói “quyền năng đặc thù của tình yêu, quyền năng này còn mạnh hơn tội lỗi”. Chính lòng thương xót này là từ then chốt nói lên ý định cứu độ của Ngài, bởi vì tội lỗi của con người là chướng ngại phải vượt thắng. Ân ban tuyệt vời của lòng xót thương chính là Đức Giê-su Ki-tô, nhờ Ngài con người đã “chết vì phạm tội” cũng được sống lại với Ngài. Trong vài hàng, thánh Phao-lô diễn tả chính xác thành quả ơn Cứu Chuộc: con người có thể gặp lại cuộc sống siêu nhiên nhờ và trong Đức Ki tô.

  1. Cuộc sống tương lai

Đoạn trích này thật sự là một bài suy niệm. Ở đây, cuộc sống tương lai được gợi lên rất rõ nét. Thánh nhân diễn tả niềm hy vọng tương lai của các Ki-tô hữu, thậm chí tương lai này được diễn tả ở thì hiện tại: Thiên Chúa cho chúng ta “cùng được sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su trên cõi trời”. “Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người”, nghĩa là một sự liên tục, bất tận, không hề gián đoạn.

Phải chăng đây là tư tưởng suy niệm sâu xa nhất của thánh nhân trong những ngày tháng bị giam cầm? Phải chăng đây là kỷ niệm của người đã được chiêm ngưỡng trong một cuộc xuất thần “cho đến tầng trời thứ bảy”? Phải chăng kẻ tử tù nghĩ đến cái chết của mình sắp đến gần? Hay đơn giản hơn, phải chăng đây là niềm xác tín thần học của vị Tông Đồ, niềm xác tín này đã đem lại cho thánh nhân những quả quyết dạn dĩ này? Đối với thánh Phao-lô, cuộc sống ân sủng là bước khởi đầu của cõi đời đời rồi.

  1. Đức tin, việc làm và ân sủng

Chúng ta gặp lại giáo thuyết về ơn cứu độ nhờ đức tin mà thánh Phao-lô phác họa ở đây. Việc làm của chúng ta tự nó không thể nào tương xứng với ơn cứu độ này . Chúng ta được cứu độ là do ân huệ nhưng không của Thiên Chúa. Tuy nhiên, phải nhấn mạnh một cách tinh tế rằng việc làm của chúng ta có tác sinh hiệu quả hay không chính là nhờ công nghiệp của Đức Ki-tô; chính qua trung gian của Đức Giê-su mà việc làm của chúng ta mới thực sự là tốt lành và phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa.

Như vậy, nhờ lòng nhận hậu vô lượng hải hà của Ngài, Thiên Chúa đã sắp đặt mọi sự để cứu độ chúng ta và nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Trung Gian duy nhất; nhờ Ngài, chúng ta mới có thể có giá trị và được sống đời đời. Đó chính là ý nghĩa của đoạn trích hôm nay.

TIN MỪNG (Ga 3: 14-21)

Đoạn Tin Mừng Gioan hôm nay được trích từ phần cuối cuộc trò chuyện của Đức Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh thuộc nhóm Biệt Phái đến gặp Ngài ban đêm. Với đoạn trích này , nhân vật Ni-cô-đê-mô biến mất khỏi câu chuyện: không còn cặp đối thoại giữa “tôi và ông” như trước, nhưng là “chúng tôi và các ông” (3: 11). Diễn từ của Đức Giê-su không còn ngỏ lời với người biệt phái thiện cảm này  nhưng với tất cả những ai phải chọn lựa: “tin hay không tin”, đứng về phía ánh sáng hay bước đi trong bóng tối. Quả thật, hậu cảnh của “phiên tòa” lộ ra trong Tin Mừng thứ tư, không chỉ phiên tòa xét xử người Do thái nhưng còn xét xử thế gian.

Đoạn văn này gồm ba phần: trước hết, dấu chỉ của con rắn đồng; tiếp đó, ơn cứu độ Chúa Con đem đến cho muôn người; sau cùng, tấn thảm kịch của sự chọn lựa.

  1. Dấu chỉ của con rắn đồng(3: 14-15)

Đối với những người Biệt Phái chất vấn Ngài, Chúa Giê-su cho những câu trả lời thường bí ẩn. Đối với ông Ni-cô-đê-mô, Ngài ám chỉ đến một sự kiện sắp đến mà ông không thể nào hiểu được: việc Ngài bị treo lên trên thập giá được sánh ví với việc con rắn đồng được ông Mô-sê treo lên trên một cây sào trong hoang địa để mà những ai bị rắn cắn nhìn vào con rắn mà khỏi phải chết. Rõ ràng điều này muốn nói rằng những ai hiện ở trong thế gian như xưa kia trong hoang địa, bị sự Dữ tấn công, thì sẽ được cứu nếu đặt trọn niềm tin của mình vào Đấng chịu đóng đinh.

Ba lần trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giê-su quy chiếu đến dấu chỉ của con rắn đồng (Ga 3: 14; 8: 28; 12: 32), loan báo hành vi cứu độ của Thập Giá. Tin Mừng Gioan trình bày thần học về Thập Giá là tột đỉnh ý định của Thiên Chúa.

  1. Ơn cứu độ Chúa Con đem đến cho muôn người(3: 16-18)

Thánh Gioan là thánh ký duy nhất gọi Chúa Giê-su bằng tước hiệu “Con Một” có thể để quy chiếu đến chuyện tích tổ phụ Áp-ra-ham dâng I-sa-ác, đứa con một yêu dấu của mình, làm lễ tế (St 22: 2); nhưng nhất là để nói rằng tất cả tình yêu của Chúa Cha đều gói trọn ở nơi quà tặng duy nhất này: chính ở nơi Người Con duy nhất này mà Thiên Chúa thực hiện ý định của mình là cứu độ hết mọi người, chứ không chỉ riêng dân Ít-ra-en. “Mọi người” đều có được sự sống đời đời, nếu “tin vào Con Một của Thiên Chúa”.

Thánh Gioan thường hằng khẳng định chiều kích phổ quát của ơn cứu độ. Đức Giê-su đã đến với tư cách là Đấng Cứu Độ chứ không là một quan tòa. Chính con người tự kết án mình nếu họ từ chối ánh sáng, nghĩa là nếu họ từ chối nhận biết Đức Giê-su là Con Một của Thiên Chúa.

Đoạn Tin Mừng này gợi lên rất rõ nét một tình yêu duy nhất của Chúa Cha và Chúa Con. Ở nơi tình yêu duy nhất này tràn ra cho hết mọi người, Giáo Hội đã nhận ra một cách thức diễn tả Chúa Thánh Thần, “Đấng nhiệm xuất từ Chúa Cha và Chúa Con”, Đấng thông truyền và khuếch trương sự sống thần linh. Vì thế, bản văn này cũng được chọn để cử hành lễ “Chúa Ba Ngôi”.

  1. Tấn thảm kịch của sự chọn lựa (3: 19-21)

Ơn cứu độ, tức là tha thứ tội lỗi và tái sinh nhân loại nhờ dự phần vào sự sống của chính Thiên Chúa. Sự sống này được dâng hiến cho hết mọi người, nhưng tùy thuộc vào lời đáp trả của mỗi người. Đó là tấn thảm kịch: tấn thảm kịch của sự chọn lựa giữa ánh sáng và bóng tối, giữa đón nhận và từ chối “tin vào Con Một của Thiên Chúa”. Đoạn cuối này  cô đọng Thần Học Gioan.

Trong hậu cảnh, ẩn hiện thái độ của Do thái giáo không nhận biết Đức Ki-tô: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng”. Nhưng sự chọn này cũng được đặt ra cho hết mọi người; ấy vậy, đức tin không phải là một điều dễ dàng, thái độ ngần ngại của  ông Ni-cô-đê-mô là một bằng chứng.

Trong những viễn cảnh phổ quát Tin Mừng Gioan, có một khía cạnh lạc quan đầy khích lệ: lối ngõ đến cùng ánh sáng qua việc chọn sống theo sự thật: “Những ai sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng”. 

Về mục lục

.

LÒNG TIN VÀ ÂN SỦNG

Lm Trịnh Ngọc Danh

Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân  Nhưng Thiên Chúa vẫn không ngừng sai các sứ giả của Ngài đến để cảnh tỉnh họ, vì Ngài vẫn hằng yêu thương họ. Thế nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Ngài, khinh thường lời của Ngài và chế giễu các ngôn sứ.  Nhưng nhờ lời cầu của Môsê mà ai nhìn lên con rắn đồng được treo lên thì được thoát chết để được vào miền đất hứa. Nhưng vào được đất hứa, dân Chúa lại thất trung, không nghe lời các ngôn sứ, nên Chúa lại để cho kẻ ngoại đến dẹp thánh địa của họ, và để cho dân Ngài bị bắt đi lưu đày bên Babylon.Lòng dạ con người là như thế đó. Nhưng trong thời kỳ lưu đày tại Babylon, dân Ngài đã biết sám hối, và Ngài lại cho vua Ba tư là Cyros giải phóng họ khỏi ách lưu đày ở Babylon.Dầu cho con người bội tình bội nghĩa, tình yêu của Thiên Chúa đối với con người vẫn không thay đổi.

Bài Tin Mừng hôm nay, nhắc lại cho ông Nicôđêmô về việc ông Môsê giương cao con rắn đồng trong sa mạc để ai nhìn lên con rắn ấy thì được chữa lành, Đức Giê su muốn ám chỉ về số phận của Ngài: “ Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” Rồi Ngài quả quyết : “ Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” ( Ga 3: 14-15) Như thế, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài mà được cứu độ.

Một câu chuyện huyền thoại của Ấn Độ kể rằng: Thời xưa, lúc đất nước còn hoang sơ, có một con thỏ tên là Pôlixa. Thỏ Pôlixa rất thương người, ai xin gì cũng cho, không từ chối ai bao giờ. Một hôm có một cụ già lom khom chống gậy đi tới và nói: “Già đói lắm! Suốt mùa nước lũ, già không có gì ăn. Chắc già sắp chết mất! Giờ đây già chỉ thèm một miếng thịt thỏ. Pôlixa có cho già được không?” Thỏ nhìn ông già hom hem yếu đuối, tội nghiệp quá! Thỏ bảo ông: “Được rồi. Ông chờ cháu một lát.” Pôlixa đi kiếm củi xếp thành đống, rồi nổi lửa lên và nói: “ Ông chờ thịt cháu chín, ông lấy mà ăn.” Rồi thỏ chụm chân nhảy vào lửa. Bỗng nhiên lửa tắt và ông già biến mất. Thì ra đó là một vị thần được được Thượng Đế cho phép đến thử lòng thỏ. Về sau, để thưởng công, Thượng Đế cho thỏ Pôlixa về vui đùa mãi bên  mặt trăng.

Đây chỉ là một câu chuyện huyền thoại, nhưng hàm ý nói đến lòng bác ái thương người, sẵn sàng hy sinh chính mình vì người khác. Vì yêu thương và muốn cứu chuộc con người khỏi phải diệt vong, Đức Kitô đã vâng theo ý của Chúa Cha  để chết cho con người được sống. Đức Kitô đã hiến mạng sống mình vì người mình yêu.

Con người tự lên án mình khi không tin vào Con Thiên Chúa là ánh sáng thế gian: “ Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng vì các việc họ làm đều xấu xa ( c. 19). Ánh sáng xóa tan bóng tối ấy là Đức Kitô.  Ngài là đường, là sự thật và là sự sống.Vì thế, “ Ai tin vào con của Ngài thì không bị lên án, nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi. Vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.” ( Ga 3 : 18)

Ngày nay, nhìn lên thánh giá, chúng ta thấy được gì ở đó?Thấy tình yêu thủy chung, bao dung, luôn tha thứ của Thiên Chúa,thấy sự vô ơn bội phản của con người.Tình yêu của Thiên Chúa không dành riêng cho một dân tộc nào nhưng cho mọi dân tộc, không dành riêng cho con cái của ánh sáng, nhưng cũng cho những con cái của bóng tối. Điều kiện để được cứu độ, ngoài đức tin, còn phải có ân sủng của Thiên Chúa như thánh Phaolô đã viết cho tín hữu Êphêxô: “ Chính do ân sủng và lòng tin mà anh em được cứu độ.”( Ep 2 : 5a)

Tin và yêu là hai thực tại không thể tách biệt trong tình yêu. Không tin thì không thể yêu, và không yêu thì không thể tin. Ánh sáng và bóng tối là hai thực tại đối nghịch.Tin và yêu vào Đức Kitô là đi trong ánh sáng, ngược lại là đi trong bóng tối!

Về mục lục

.

ÁNH SÁNG

Lm Vũdình Tường

Bước vào vùng ánh sáng là chọn lựa sáng suốt Nicodemus đã chọn trở về vùng ánh sáng Đức Kitô. Ai bước đi trong ánh sáng của Đức Kitô sẽ không vấp ngã và nếu có vấp ngã sẽ mau chóng nhận ân sủng Chúa, chỗi dậy tiếp tục con đường ánh sáng. Nicodemus đi tìm sự sống trong bóng tối và chỉ nhận được sự sống không bền vững. Ông luôn khao khát sự sống vĩnh cửu và nhận biết Đức Kitô là Đấng ban sự sống ấy. Nicodemus đến cùng Đức Kitô vào ban đêm vì ông sợ đồng nghiệp kết án hoặc chế diễu nên tìm đêm tối đến cùng Đức Kitô. Bóng tối theo nghĩa tâm linh đại diện cho sự tối, sự dữ. Ánh sáng biểu tượng của tình yêu Chúa, bác ái và thứ tha. Đi từ vùng tối sang vùng sáng chính là từ bỏ con đường tà về đường ngay chính. Đường công chính là con đường Đức Kitô hướng dẫn bởi

Ngài là đường là sự thật và là sự sống. Gn 14,6

Trong Cựu Ước đoàn lữ hành trên đường về Đất Hứa họ đã mất kiên nhẫn, bất trung với Thiên Chúa và bị rắn độc giết hại. Con rắn đồng được dựng nên cảnh tỉnh toàn dân. Con đường tà thần là đường dẫn đến sự dữ, sự chết. Nhìn hình ảnh rắn đồng nhắc nhở họ biết nhận sai trái, đấm ngực, thống hối, ăn năn trở về con đường công chính. Đây là con rắn cuối cùng trong Cựu Ước. Con rắn đầu tiên cám dỗ nhân loại trong vườn Địa đàng và con rắn cuối cùng, hình ảnh của thần dữ, chết chóc xảy ra trong hoang địa.

Trong Tân Ước Đức Kitô dùng hình ảnh Ngài treo trên thập tự nói lên tình yêu tự hiến của Ngài. Nhìn vào hình ảnh Con Thiên Chúa treo trên thập tự để nhận ra tình yêu Chúa, lòng bác ái chan hoà từ con tim yêu mến Ngài mở ra tha thứ cho nhân loại. Nhìn lên thập tự Chúa để nhận ra Đức Kitô tự nguyện đến trần gian và tự nguyện hiến thân trên thập tự ban ơn cứu độ, ban ơn tha thứ cho những tâm hồn có lòng thống hối ăn năn. Đức Kitô đến trần gian không phải chỉ xoa dịu đau thương, sầu khổ. Ngài đến trần gian ban sự sống vĩnh cửu và những ai đáp trả lại tình yêu đó sẽ nhận được sự sống trường sinh. Tình yêu đáp trả tình yêu. Nhân loại không có gì quí hơn là dùng chính tình yêu trong tim ta và tâm tình tạ ơn đáp trả tình Chúa. Ngoài tình yêu và tâm tình tạ ơn ra con người không còn gì tốt hơn để báo đáp tình yêu Chúa. Chúa nhân từ cũng không mong gì hơn là tình yêu ta dành cho Ngài.

Đức Kitô xuống trần gian cứu độ toàn thể nhân loại nhưng Ngài ban cho cá nhân quyền tự do chọn lựa lối sống riêng. Nicodemus chọn ánh sáng Đức Kitô bởi ông mong mỏi tìm kiếm ánh sáng sự sống và ông vui mừng đón nhận ánh sáng đó. Số khác sợ ánh sáng bởi sợ sống theo ánh sáng Đức Kitô sẽ bị mất một sợ quyền lợi đang hưởng. Sợ ánh sáng, sợ sự thật, sợ điều tối đang làm bị phơi bày ra ánh sáng, sợ bị thiệt thòi, sợ mất bổng lộc. Tất cả những điều trên không đáng sợ. Có một điều cần sợ, cần hết sức mình tránh cho bằng được đó là sợ mất sự sống đời đời. Đó là điều đáng sợ nhất.

Đại đa số chọn sống theo ánh sáng và rồi trong cuộc sống bận rộn khi thì lầm lẫn trong chọn lựa, khi thì bị những bóng tối mê hoặc, mới đầu coi thường, rồi quen dần với chúng và càng lúc càng xa rời ánh sáng. Khi nhận biết sống xa ánh sáng lại thiếu can đảm chỗi dậy trở về con đường công chính. Từ tối ra sáng, từ sáng vào tối đều cần thời gian thích hợp với hoàn cảnh mới vì thế để trở về ánh sáng chúng ta cần khuyến khích nâng đỡ, hỗ trợ, cầu nguyện để tự tin hơn, can đảm hơn trở về với đời sống ánh sáng, đường công chính.

Về mục lục

.

TIN THÌ ĐƯỢC SỐNG

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Biểu tượng của nghành y chính là con rắn quấn quanh cây gậy. Hình ảnh này được bắt nguồn từ thần thoại Hy Lạp và truyền thuyết “Con giun”. Bên cạnh đó, biểu tượng này còn có nguồn gốc từ một câu chuyện được kể trong Kinh Thánh Cựu Ước khi dân Dothái trên đường trở về Đất Hứa (x. Ds 21, 4b-9).

Hôm nay, kết thúc phần hội thoại với ông Nicôđêmô, Đức Giêsu đã nhắc tới sự kiện này như tiền đề cho một chủ đề lớn, đó là cái chết và ơn cứu chuộc do Ngài mang lại ngang qua thập giá, để qua đó, những ai ngước nhìn và tin thì sẽ được cứu độ

  1. Sự liên hệ giữa con rắn đồng và Đức Giêsu

Khởi đi từ việc Đức Giêsu đem chuyện con rắn đồng trong Cựu Ước, nơi sa mạc để so sánh với chính Ngài: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy” (x. Ds 21,4-9).

Để hiểu được ý nghĩa của việc Đức Giêsu so sánh trên, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về câu chuyện con rắn đồng trong Cựu Ước, để làm toát lên hình ảnh tiên trưng về Đức Giêsu sau này.

Câu chuyện về con rắn được tác giả sách Dân Số trình thuật rằng: vì yêu thương, Thiên Chúa đã nghe được tiếng ai oán của dân bên đất Aicập kêu than do nỗi thống khổ của họ phải chịu bởi những tên cai của nhà vua Aicập hành hạ…!

Trước cảnh tượng đó, qua Môsê, Thiên Chúa đã ra tay giải thoát họ, để dẫn họ về Đất Hứa. Tuy nhiên, trên đường, họ đã nổi loạn, kêu trách nặng lời với Thiên Chúa và Môsê nhiều lần. Vì thế, Thiên Chúa đã không cho họ được đi trên con đường thẳng để tiến vào Đất Hứa (x. Ds 14,25. 33). Người cũng không cho bất kỳ một ai trong đám dân này được đặt chân vào đó! Hơn thế, Người đã cho rắn độc trong sa mạc tiến ra và cắn chết nhiều người!

Thấy vậy, dân chúng đã van nài Môsê kêu cầu lên Thiên Chúa để xin tha thứ vì sự phản bội, vô ơn mà họ đã chót phạm, đồng thời, xin Người ra tay cứu sống cho những người bị rắn cắn. Môsê đã thay mặt cho toàn dân để chuyển cầu lên với Thiên Chúa.

Thiên Chúa đã nhận lời Môsê và truyền cho ông làm con rắn treo lên cây cột, nếu ai bị rắn cắn mà nhìn lên thì liền được sống. Ông Môsê đã làm như vậy và nhiều người đã được sống nhờ nhìn lên con rắn này.

Con rắn đồng chính là biểu tượng về lòng thương xót của Thiên Chúa, và cụ thể là hình ảnh báo trước về chính Đức Giêsu bị treo trên thập giá sau này!

Qua câu chuyện trên, Thiên Chúa muốn dạy cho dân một bài học nhớ đời, đó là: vô ơn, bội nghĩa và đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa thì sẽ phải chết. Ngược lại, nếu tin tưởng tuyệt đối vào Người, thì sẽ được sống.

Khi nhắc lại biến cố này trong câu chuyện với ông Nicôđêmô, Đức Giêsu muốn cho ông hiểu rằng: cần phải có một bước tiến cụ thể, rõ ràng, xác quyết với niềm tin, chứ không phải khơi khơi bề ngoài hay phụ thuộc vào kiến thức mà mình có. Những thứ đó chỉ làm cho ông thỏa mãn sự hiếu tri mà thôi. Vì thế, nó không thể đem lại cho ông ơn cứu chuộc. Ơn cứu chuộc chỉ đến với ông khi ông nhận thức về tội lỗi của mình; cảm nghiệm và tin tưởng tuyệt đối vào tình thương của Thiên Chúa và ơn cứu chuộc ngang qua chính Người Con của Người qua mầu nhiềm thập giá (x. Ga 3,15).

  1. Ý Nghĩa Lời Chúa với đời sống đức tin của chúng ta

Qua câu chuyện và những mặc khải của Đức Giêsu cho ông Nicôđêmô, Ngài cũng  mời gọi chúng ta hãy quan tâm đến đời sống đức tin của mình ngang qua những cảm nghiệm sau:

Trước hết là ý thức về thân phận yếu đuối của mình:

Cuộc sống của chúng ta không thiếu gì những bất toàn. Chính vì những yếu đuối do bản tính của con người, nên chúng ta dễ hướng chiều và làm theo sự tội. Vì thế, tội lỗi đã làm cho con người đau khổ, thất vọng, nhất là nó nhấn chìm và làm cho chúng ta mất ơn cứu chuộc.

Lời mời gọi nhìn lên con rắn đồng là hình ảnh và cũng là lời mời gọi chúng ta hướng nhìn lên Thánh Giá Chúa Kitô, để ý thức mình tội lỗi và cần được cứu chuộc.

Thật vậy, mỗi khi chúng ta nhìn lên Chúa chịu đóng đinh, hẳn ai cũng cảm thấy thật xấu hổ, bởi vì do tội lỗi của chính mình mà Con Thiên Chúa quyền năng lại phải chịu treo trần trụi trên Thánh Giá như một kẻ tử tội…!

Khi nhìn lên Thánh Giá Chúa, chúng ta hiểu được ý nghĩa cái chết của Đức Giêsu và chúng ta sẽ không thể không sám hối ăn năn, bởi vì nơi ấy, Đức Giêsu đã gánh lấy hết tội lỗi của nhân loại để cho con người được sống và sống dồi dào.

Thứ đến, là cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa:

Mỗi khi nhìn lên Thánh Giá Đức Giêsu, chúng ta nhớ lại lời Kinh Thánh đã nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Thật vậy, tội lỗi của con người rất nặng nề, khiến chúng ta chắc chắn phải chết, nhưng Thiên Chúa đã yêu chúng ta bằng một tình yêu tuyệt đối và trọn vẹn khi trao ban chính con của Người đến để yêu và yêu đến cùng. Tình yêu ấy được chứng minh bằng cái chết trên thập giá. Qua đó, Đấng chịu treo trên thập giá mặc khải cho chúng ta hiểu rằng: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13

Như vậy, mỗi khi chúng ta nhìn lên Thánh Giá Đức Giêsu, chúng ta cảm nghiệm được tình yêu thương của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu nơi cái chết của Ngài thật lớn lao vô kể….

Cuối cùng, nhìn lên Thánh Giá Chúa để chúng ta được cứu chuộc:

Khi đã phạm tội, con người không thể tự thân cứu chuộc được mình. Cũng như những người Dothái xưa, khi đã phạm tội và bị rắn cắn, họ không còn có thể tự cứu được mình khỏi chết, mà chỉ còn cách, đó là: nhìn lên rắn đồng thì mới được cứu sống.

Chúng ta cũng cùng chung số phận, nên khi phạm tội, con người không thể nào đụng chạm được ơn giải thoát nếu không có lòng thương xót của Thiên Chúa!

Như vây, mỗi khi nhìn lên Thánh Giá với Đấng chịu treo trên đó, chúng ta sẽ nhớ lại những tội lỗi do yếu đuối của mình đã xúc phạm đến Chúa, đồng thời, biết cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa, luôn ăn năn, tin tưởng vào hiệu quả của Đấng chết thay cho nhân loại được cứu chuộc.

  1. Sứ điệp Lời Chúa

Sứ điệp Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu, vì Ngài là Con Thiên Chúa làm người, là Đấng gánh tội và cứu chuộc trần gian.

Khi tin vào Đức Giêsu tuyệt đối, chúng ta được mời gọi đi trên con đường mà Ngài đã đi để được cứu chuộc. Con đường ấy là: tự hủy, yêu thương và vâng phục. Bên cạnh đó, chúng ta được mời gọi thuộc về Đức Giêsu là Ánh Sáng, khi sống những giá trị Tin Mừng trong cuộc sống và khước từ những thứ thuộc về bóng đêm của tội lỗi như: ích kỷ, kiêu ngạo, khoe khoang, bất hòa, chia rẽ….

Tuy nhiên, muốn được tiếp bước trên con đường của Đức Giêsu và thuộc về Ngài là Ánh Sáng, chúng ta phải sống Lời Chúa mời gọi cụ thể trong Mùa Chay này, đó là: hãy sám hối, ăn năn và canh tân đời sống…

.

Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã phán: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32), xin hãy lôi kéo chúng con lên với Chúa để được Chúa yêu thương và cứu chuộc. Amen.

Về mục lục

.

AI TIN VÀO NGƯỜI THÌ ĐƯỢC SỐNG MUÔN ĐỜI.

P.Trần Đình Phan Tiến

Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn, sự sống hệ tại bởi cái chết, vì nếu không chết, thì làm sao có sự sống muôn đời. Người thê gian cứ là , ăn , uống, ngủ nghĩ, bệnh hoan, chết chóc rồi cứ xoay vần như vậy, gọi là “ cuộc sống”, theo triết lý nhà Phật, như thế gọi là “ luân hồi”. Nhưng, luân hồi còn có “ quả báo”, nghĩa là : nếu kiếp nầy làm người ác, thì kiếp sau không được làm người, mà có thể làm súc vật.

Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn, làm người không phải là chuyện dễ, làm người lương thiện khó hơn, nhưng được làm con cái Thiên Chúa càng khó hơn nữa. Vì không phải tự chúng ta muốn làm con cái Chúa hay không là quyền của chúng ta đâu?! Mà là do ân ban nhưng không từ Thiên Chúa.

Vì thế, Đoạn Lời Chúa hôm nay, (Ga 3, 14 -21) là Đọan Lời Chúa Chi tiết , Cuộc đối thoại về “sự sống đời đời” giữa Chúa Giêsu và ông Ni-cô-Đe-mô, một thủ lãnh của người Dothai, thuộc nhóm Pharisieu. Theo đó, người Dothai cũng tin có sự sống đời đời, tin xác sống lại ngày sau hết. Nhưng, Chúa Giêsu cho Nicodemo biết “ nếu ai tin vào Người thì sẽ được sống đời đời”.

Nhưng, Đấng ấy phải từ Trời mà xuống, và pahi3 được “ giương cao như con rắn đồng xưa trong sa mạc”, vì “ như ông Moisen đã giương cao con rắn như thế nào, thì Con Người cũng phải được giương cao nhưa vậy” (Ga 3, 14)

Tám câu trong Đoan Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy, từng Lời của Chúa Giêsu trong cuộc hội thoại trên, có thể nói  ông Nicôdemo là người Dothai diễm phúc nhất , được Chúa Giêsu mặc khải trực tiếp mầu nhiệm của sự sống qua Con Người  với sự sống đời đời, điều mà người Dothai cũng như mọi phàm nhân đều ước ao, nhưng không thể được, ngoại trừ “ TIN “ vào Người Con Một bởi Thiên Chúa.. “Thiến Chúa đã yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con Một cho thế gian, để ai tin vào Người Con ấy, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16)

Nhưng, “ khỏi phải chết” ở đây phải được hiểu như thế nào? Vì, thực tế ai cũng phải chết.  Vâng, cái chết ở đây là chết thân xác và chết siêu nhiên chết vĩnh cửu , chết đời đời. Vậy, nếu ai sống mà “tin” vào Chúa Giêsu, thì khỏi phải chết “đời đời” tức chết siêu nhiên.

Vâng, thưa các bạn, một chân lý dễ hiểu là gì khi “tin “ vào Con Một Thiên Chúa, thưa đó là : “NGƯỜI LÀ ÁNH SÁNG”, ánh sáng thì mặc nhiên ban sự sống, vì ai đi theo ánh sáng, thì nơi người đó không có tối tăm, tối tăm là quyền lực của sự dữ, sự ác, sự chết. tồi tăm không có ánh sáng, như vậy, sự chết là nơi tối tăm nghĩa đen và nghiã siêu nhiên.

Theo đó, ai sống mà tin vào Đức Giêsu- Kitô, thì mặc nhiên nơi người đó không có ánh sáng. Như vậy, rõ ràng,, một người được định nghĩa là “ sống “ thì phải hiểu cả hồn và xác, khi nói đến sự sống không phải chỉ có sự sống nới thân xác mà thôi , mà là linh hồn nữa . Linh hồn là một “đặc ân“ của Thần Khí, rõ ràng thân xác con người không hoàn toàn có sự sống, một sự sống hữu hình, rồi phải chết đi, thì không phải là sự sống đích thực , sự sống viên mãn được. Sự sống được nhìn thấy nơi thân xác, không biểu lộ sự sống vĩnh hằng. Vì, thế lực mạnh hơn sẽ tiêu diệt được sự sống nơi thân xác, nhưng, không thế lực nào tiêu diệt được sự sống Thần Linh là linh hồn thuộc về Thiên Chúa. Tội lỗi là những vết hoen, vết ố, chứ không phải là những tấm màn đen. Chỉ trừ phi phàm nhân không tin vào Con Một của Thiên Chúa, lúc ấy họ mới bị chết đời đời mà thôi.

Chết đời đời là vĩnh viễn lìa khỏi ánh sáng chân lý là Thiên Chúa, theo thần dữ là satan. Satan luôn quyến rũ những kẻ ngạo mạn, ngông cuồng, không suy phục Đấng Cứu Thế Giêsu, satan là những kẻ chạy theo thế gian. Với những tiện nghi giả trá của chúng.

Bài đọc II hôm nay (Ep 2, 4-10) , thánh Phao-lô cho chúng ta biết : “ … Thiên Chúa  giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu cho chúng chúng đã chết vì sa ngã, Người cũng cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô…” ( 4 -5)

Thánh Vịnh 136 hôm nay nhắc cho chúng ta về tâm trạng đau buồn, tủi nhục của người Dothai xưa. Tâm trạng bị lưu đày xa xứ là tâm trạng buồn thương, khắc khoải, Cũng giống như thân xác con người khắc khoải chờ mong ơn cứu độ, hay linh hồn con người đã chết còn trong chốn giam tạm, chờ ngày phan xét chí công.

Ngày 25/02/2018 , Hội Đồng Giám Mục Việt Nam lên đường viếng thăm Tòa Thánh , gọi là chuyến viếng thăm Ad Limina , ( Visital Ad Limina Apostorlorum ) .Nghĩa là viếng một hai thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô , và triều yết Đức Giáo Hoàng, theo chu kỳ ngũ niên, nhưng lần trước vào tháng 06 năm 2009, như vậy là 09 năm chứ không phải là 05 năm. Lần viếng thăm nầy không chỉ riêng có Hội Đồng Giám Mục Việt Nam , mà còn có mầy phái đoàn của Hội Đồng Giám mục anh em khác. Trong nội dung chuyến viếng thăm , chúng ta được theo dõi qua  các kênh Công giáo mạng, được nhìn thấy tỏ tường 33 vị Giám Mục, hồng y Việt Nam yết kiến Đức Giáo Hoàng , quây quần bên vi cha chung của Giáo Hội Hoàn Vũ thật là đầm ấm, hùng hậu và vui vẻ, để múc lấy ân sủng từ Thánh Đô, và phép lành cũng như huấn từ truyền giáo từ vị Đại diện Tông Tòa thánh Phê-rô cho toàn thể giáo dân Việt Nam. Chúng ta thấy, sức sống Đức Tin từ Giáo Hội nhỏ bé Việt Nam thông qua 33 vị Giám Mục , là một giáo Hội thật mạnh mẽ, hùng hậu và tràn đầy sức sống của Đức Tin thật là một niềm vui tràn đầy ơn thiêng liêng và lời cầu nguyện của mọi thành phần dân Chúa tại Việt Nam và khắp nơi trên thế giới.

.Như thông tin vừa loan báo, Đức Tổng Giám Mục Phao-lô Bùi Văn Đọc, vị cha chung của Tổng Giáo Phận Sài gòn , vừa về với Chúa rạng sáng ngày 07/03/2018, hưởng thọ 74 tuổi. Vâng, thật là ngỡ ngàng, nhưng cũng thật là bình an, vì có mấy ai được chết như vậy, được chết  trong ân sủng Thiên Chúa là quà tặng vô giá.được triều yết Đức Giáo Hoàng, được hôn nhẫn thánh, được chết tại thánh Đô, được chết trong khi dâng Hy Tế của Đức Kitô cũng là hy tế đời linh mục của mình, thì thật là diễm phúc “ ân phúc cá biệt”. Ngài được du học tại thánh đô cách đây 50 năm, năm mươi năm sau được trở lại và chết thân xác hữu hình, để hòa nhập vào vinh quang bất tử của Thiên Chúa trong Mùa Chay, là Mùa ân phúc Mùa Trở về. Chúa gọi ngài về trong khi còn tại vị, nếu sang năm thì, ngài cũng đủ tuổi hưu theo giáo luật, thì có lẽ không rực rỡ như còn tại chức, vâng ngài không cò phải lo lắng việc nghĩ hưu, thật là một cái chết bình an, một sự trở về nhà Cha thật tốt đẹp, điều gì tốt đẹp, điều đó là chân thật.

  • Xin cầu nguyện cho Đức Cố Tổng Phao-lô được lên chốn nghĩ ngơi – RIP.

Lạy Chúa là Cha toàn năng hằng hữu Cha đã ưu ái ban muôn ơn lành cho những ai chạy đến với Đức Kitô, Người Con Chí Ái của Cha. Xin Cha thương ban cho  nhiều con cái tin nhận Đức Giêsu- Kitô, để họ nhờ được ân sủng của Con Cha, mà cùng được sống đời đời với Người ./. Amen

Về mục lục

.

CHÚA SỬA PHẠT NHỮNG NGƯỜI CHÚA YÊU

Lm Trần Bình Trọng

Ðọc Thánh kinh Cựu ước, người ta có cảm tưởng Thiên Chúa có vẻ dữ tợn và hay trách phạt. Chẳng hạn khi dân chúng trở mặt chống lại Người, Chúa cho nước lụt tràn ngập đất đai, ruộng vườn của họ. Khi họ không tuân giữ giới răn Chúa, Người cho hạn hán tiêu hủy mùa gặt, và những sản phẩm ruộng vườn của họ.

Khi dân chúng bất trung phản nghịch cùng Người, Chúa gửi dịch tả đến miền đất của họ. Khi họ toan bỏ Chúa đi thờ các thần ngoại lai, Chúa ra tay sát phạt họ, và dùng dân ngoại thi hành hình phạt của Chúa.

Tuy nhiên vừa khi họ bị sát phạt, thì hàng ngôn sứ của Chúa liền xuống giọng. Các ngôn sứ bảo họ: đó là hình phạt của Thiên Chúa yêu thương và nhân hậu. Vừa khi dân chúng thay đổi cách sống và ăn năn hối tội, thì họ lại được tha thứ và đưa về đất hứa. Lòng nhân từ hay thương xót của Chúa là một thực tại được thể hiện bằng những việc Người làm trong Thánh kinh. Bài trích sách Biên Niên quyển hai hôm nay là một ví dụ điển hình về lòng xót thương của Chúa. Bài Sách này được viết vào khoảng ba trăm năm trước Chúa giáng sinh, khi tác giả đã có thể nhìn về lịch sử quá vãng, mà dân chúng chồng chất bất trung này lên bất trung khác. Từ lần nọ qua lần kia, họ mần ngơ trước sự hiện diện của các sứ giả của Chúa. Và họ còn bách hại các ngôn sứ và các tổ phụ của Người (2 Sb 36:14-16).

Cho tới lúc Thiên Chúa không còn dung thứ được nữa, Người liền cho phép quân thù đến tấn công họ. Quân Ba-by-lon đến xâm chiếm đất nước của họ, giết chết hàng ngàn, hàng vạn người. Quân thù phá huỷ thành phố, thiêu đốt Ðền thờ và cưỡng ép dân còn sống sót đi lưu đầy bên Babylon (2 Sb 36:19-20).

Tuy vậy Chúa không nỡ bỏ rơi dân Người. Chúa dùng ông vua ngoại đạo là Ky-rô, vua xứ Ba Tư, để cứu thoát  dân Người và đưa họ trở về đất hứa (2 Sb 36:23). Như vậy ta thấy những hình phạt của Chúa, không phải nhằm báo thù, mà là cách thế để luyện lọc, thanh tẩy và chữa trị họ, khiến họ trở nên tuỳ thuộc vào Chúa.

Phúc âm hôm nay nhắc nhở cho ta về một tai hoạ xẩy ra cho dân Người trong sa mạc trên đường tìm về đất hứa. Khi dân riêng của Chúa chối bỏ Người, đi thờ thần ngoại lai và còn đúc bò vàng để thờ, Chúa phạt họ bằng cách cho rắn độc đến giữa họ. Rồi với lòng thương xót, Chúa truyền cho Môsê làm con rắn đồng, treo trên cây gậy để cứu chữa họ. Bất cứ khi nào ai bị rắn độc cắn mà nhìn lên con rắn đồng, với niềm tin vào Chúa, thì được chữa khỏi. Ðức Giêsu coi việc treo con rắn đồng lên cây gậy như là dấu chỉ Người sẽ bị treo trên thập giá để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời (Ga 3:16). Thánh Phaolô, người am hiểu lịch sử ơn cứu độ trong Thánh kinh Cựu ước đã thốt lên trong thư gửi tín hữu Ê-phê-sô hôm nay: Thiên Chúa là Ðấng giẩu lòng thương xót, và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Ðức Kitô (Ep 2:4-5).

Người ta có thể nói Thánh kinh Cựu ước gắn liền với lịch sử của dân Do thái. Nói cách khác, cổ sử của họ là Thánh kinh và họ luôn ghi nhớ lời Thánh kinh. Ði tản mát khắp thế giới sau khi Ðền thờ bị phá hủy mà họ vẫn ghi nhớ lời Thánh kinh, nhất là nhớ ngày lễ Vượt qua. Có chi họ bị thất lạc cả hai ngàn năm bên xứ Ê-thi-óp cận đại (xứ Cút cổ xưa) hay bên Ấn độ mà vẫn nhớ cội rễ của họ, mặc dầu có những người da ngăm ngăm đen mà họ vẫn nhận có máu Do thái và có những người vẫn muốn trở về đất hứa. Vào thập niên cuối cùng của thế kỉ 20, chính phủ Do thái thương lượng với chính phủ của một quốc gia mà họ đang sinh sống, gửi những chuyến bay bí mật chở họ về tái định cư tại Do thái.

Tại sao bị sát phạt như vậy mà họ vẫn tưởng nhớ đến Chúa? Một ví dụ trong đời sống hằng ngày có thể giúp ta hiểu phần nào tại sao bị phạt mà người ta vẫn nhớ đến người ra hình phạt mà không để lòng uẫn ức. Có những học sinh đã trải qua chương trình giáo dục nghiêm  khắc. Họ vẫn nhắc lại những mẩu chuyện như xưa bị thầy giáo nọ nhéo tai, bẹo má, bà sơ kia dùng thước kẻ đánh vào bàn tay, mà họ vẫn có thể cười được vì bây giờ họ thành công trên đường đời, có địa vị trong xã hội, có việc làm tốt, có thể kiếm được việc mới và tái tạo cuộc sống mới ở nơi khác.

Không phải chỉ có dân Chúa trong Cựu ước mới phản nghịch lỗi nghĩa cùng Chúa. Lịch sử dân Chúa thời Tân ước cũng không hơn gì, có khi còn tệ hơn nữa. Dân mới được chọn cũng chồng chất từ tội này đến tội khác, lại còn phạm thêm những tội mới như tội phá thai, hoặc những tội mà người ta phạm qua phương tiện truyền thông như phim ảnh, báo chí, truyền hình và ngay cả mạng tin. Có những tội mà người ta còn công khai phạm, không còn phải giấu giếm vì người ta coi là một lối sống của thời đại. Còn cá nhân mỗi người tín hữu, chính ta cũng có tội: tội phạm đến Chúa, tội phạm đến tha nhân, tội trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Thiên Chúa là Ðấng nhân từ hay thương xót, nhưng ta phải nhìn nhận tội lỗi mình, thành tâm sám hối và quyết tâm dốc lòng chừa, rồi xin Chúa xót thương tha thứ thì ơn cứu độ mới đến với ta được. Không nhận tội là tội, người ta sẽ không tìm đến thầy thuốc thiêng liêng và như vậy sẽ hết thuốc chữa.

Lời cầu nguyện xin cho được ơn biết chấp nhận việc sửa lỗi:

Lạy Thiên Chúa, Ðấng công minh và khoan hậu.

Chúa trách phạt không phải vì muốn trả thù báo oán

nhưng vì yêu thương với mục đích giáo huấn

hầu cho loài người được sống.

Xin cho con biết nhìn nhận tội lỗi mình

chấp nhận việc sửa lỗi và làm việc đền tội

với quyết tâm cải thiện đời sống

hầu trở về sống trong ơn nghĩa với Chúa. Amen.

Về mục lục

.

CHUYỆN THƯỞNG PHẠT

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

 Chúa hạ con xuống rồi Người lại nâng con lên. Chúa dìm con xuống hố sâu và Người lại nhấc con lên…Bàng bạc đâu đó cái ý tưởng này trong các lời ca, trong nhiều cái nhìn tu đức và cả trong một vài kiểu cách diển tả của Thánh Kinh,

đặc biệt là Cưụ Ước. Khi dân được tuyển chọn bất trung, phản bội, Thiên Chúa trừng phạt dân, thông thường bằng cách đày ải dân vào kiếp nô lệ ngoại bang để bày tỏ cơn thịnh nộ. Nhưng rồi sau đó Người lại giải thoát dân để bày tỏ lòng thương xót.

Lời mạc khải là Lời của Thiên Chúa, nhưng lại được trình bày bằng ngôn ngữ nhân loại, qua những con người cụ thể của một thời gian, không gian, nền văn hoá nhất định. Chắc chắn khó có thể tránh khỏi chuyện gán cho Thiên Chúa những tâm tình, ý nghĩ, đường lối, cung cách hành xử mang đậm nét con người. Vì thế chuyện “suy bụng ta ra bụng người” một cách nào đó vẫn bàng bạc ít nhiều trong các trang Kinh Thánh.

Thiên Chúa đày ải và lại giải phóng dân để dân không chỉ để cho dân nhận ra quyền năng và tình yêu của Người mà còn để dân phải gắn bó, trung thành với Người ư? Không lẽ chuyện vừa đấm vừa xoa, chuyện kế sách “cây gậy và củ cà rốt”, chuyện dìm người ta xuống nước cho gần chết ngạt rồi sau đó thả tay ra cho người ta hít thở để người ta rối rít cám ơn mình… cũng là “chuyện tình” giữa Thiên Chúa với nhân loại ư? Chắc chắn tuyệt đối không phải thế. Nếu giả như Thiên Chúa cũng hành xử với con người theo kiểu cách mà nhiều nhà cầm quyền khôn ranh, hay nhiều thể chế độc tài gian ác đã hành xử thì Người chỉ đáng cho chúng ta kính sợ hay kinh sợ mà không bao giờ đáng được kính mến.

Để có cái nhìn tương đối khá chính xác và “gần” chân lý hơn, thiết tưởng không gì hơn hãy lắng nghe những lời do miệng Con Thiên Chúa làm người phán: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” ( Ga 3,15 ).

  1. Thiên Chúa không phải là tác giả của sự dữ.

Là Đấng toàn thiện, nên sự dữ không thể và không bao giờ do Thiên Chúa gây ra. Thế mà con người rất nhiều khi gặp phải sự dữ thì lại gán ghép cho Thiên Chúa. Xưa kia, khi đi trong hoang địa, dân Chúa đã phản loạn và khi rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người thì người ta cho rằng Thiên Chúa trừng phạt họ bằng cách “cho” rắn bò ra cắn chết họ. Cái ý nghĩ về chuyện “trời phạt” đã từng có trong tâm thức của con người xưa nay. Nhờ lời mạc khải, đặc biệt là lời hoàn hảo của Đấng Cứu độ, chúng ta mới biết rằng Thiên Chúa không phải là ông thần thích báo thù hay trừng phạt. Tuy nhiên, có nhiều lúc Người lại “để” cho sự dữ xảy ra mà không ra tay ngăn cản để cảnh tỉnh con ngưòi về tình trạng tội lỗi của họ hoặc để thanh luyện tình yêu của họ đối với Người, giúp họ ngày càng yêu mến Người cách vô vị lợi và chân thành hơn.

Không kể những sự dữ mang tính mầu nhiệm mà ta không thể suy thấu, thì có thể nói hầu hết các sự dữ xảy ra là do hậu quả của tội lỗi của con người gây ra cho nhau hay cho chính bản thân mình. Con người ta, khi “chẹt chân thì dễ há miệng” và “hữu sự thì dễ vái tứ phương”. Như thế, những sự dữ vẫn có đó ý nghĩa của nó với kiếp người chúng ta. Những sự khốn khó ở đời này vẫn còn đó vai trò của người thầy dạy giỏi. Cho dù đôi khi cái khó bó cái khôn, nhưng sự thường thì “gian nan rèn nhân đức”. Dưới khía cạnh nhân bản thì gian khổ là cơ hội giúp ta rèn luyện sự nhẫn nại, sự bền chí…còn dưới chiều kích đức tin, thì gian khổ giúp ta biết khiêm nhu và tín thác vào tình yêu và của Thiên Chúa. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định: “Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện.” (Ep 2,8-9).

  1. Thiên Chúa là Đấng đầy lòng xót thương.

Có thể nói đây là ý chính của phần Phụng Vụ lời Chúa mà Hội Thánh dọn cho chúng ta trong Chúa nhật IV Mùa Chay B này. Trong cảnh tha hương lưu đày, dân Chúa xưa luôn hướng về Đền thánh Giêrusalem. Khi bày tỏ nổi lòng của dân: “Giêrusalem, lòng này nếu quên người thì lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm” ( Tv 136 ), tác giả Thánh Vịnh mời gọi dân suy đến tấm lòng của Thiên Chúa. Các sứ ngôn sau khi cảnh báo dân về tội phản nghịch của họ cùng với các hình phạt sẽ phải hứng chịu thì liền sau đó thường bày tỏ lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa. “ Ta sẽ chữa chúng khỏi tội bất trung, sẽ yêu thương chúng hết tình, vì cơn giận của Ta sẽ không còn đeo đuổi chúng” ( Hs 14,5 ). Cố nhạc sĩ họ Trịnh đã từng ca thán: “Chúa đã bỏ loài người. Phật đã bỏ loài người”. Thế nhưng Kinh Thánh khẳng định rằng dù cho có người mẹ nào nhẫn tâm bỏ con mình đi nữa thì Thiên Chúa sẽ chẳng bao giờ bỏ loài người. Thánh Phaolô nói với tín hữu Ephêsô: “Thưa anh em, Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô” ( Ep 2,4 ).

Thiên Chúa không thể bỏ con người. Một lời khẳng định xem ra khá hàm hồ, nhưng thật chính xác vì “Thiên Chúa không thể chối bỏ chính Người, vì Người là Tình Yêu ( x.1Ga 4,8 ). Dù trời cao hay đất thấp, dù thiên thần hay thiên phủ…không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu ( x.Rm 8,39 ). Như thế, nếu chúng ta vẫn chìm trong bóng tối thì chính chúng ta phải chịu trách nhiệm vì đã khước từ ánh sáng.

Thiên Chúa là Đấng ân thưởng. Và chính chúng ta là những người luận phạt. Nếu chúng ta chọn ánh sáng tức là tin vào Chúa Giêsu và sống theo lời của Người thì chúng ta được Thiên Chúa ân thưởng. Trái lại nếu chúng ta chối từ Chúa Kitô thì chúng ta, chứ không ai khác, là người kết án, luận phạt chính bản thân mình.

Về mục lục

.

HÃY NHÌN LÊN

Lm. Jos. DĐH.

Sống trên đời, ai cũng có quyền mơ ước hạnh phúc, dù hoàn cảnh, điều kiện, không giống nhau, “trầm bổng, đắng cay hay ngọt bùi”, người ta vẫn có cơ hội để vươn lên, hầu sống tốt nhất theo “ơn gọi”: nồi nào úp vung nấy. Con người tự nhiên ưa nhìn lên, không thích nhìn xuống: một người làm quan cả họ được nhờ ; thấy sang bắt quàng làm họ. Khuynh hướng thích người hiền tài, mơ ước được người quyền cao chức trọng bao bọc chở che, không phải là không có lý, khi mà xã hội vẫn quan niệm: làm đầy tớ thằng khôn, hơn làm thầy thằng dại.

Khi nhắc tới con rắn, ai cũng biết chúng là loài đáng ghê sợ, rắn to, rắn nhỏ, đều có thể cắn chết người, do đó phải cảnh giác, tránh xa chúng. Không biết từ bao giờ và vì lý do nào, cha ông chúng ta có câu: gặp rắn thì đi, gặp quy thì về. Cũng không còn phải là chuyện tình cờ, hên xui, ông Môi-sê kêu gọi dân chúng, hễ ai bị rắn cắn, hãy nhìn lên con rắn đồng để được sống. (Ds 21, 9). Nhìn lên theo quán tính, nhìn lên theo mệnh lệnh, mang lại hiệu quả tức thời cho đám dân mà ông Môi-sê coi là tội lỗi, họ được tha thứ, thân xác họ được cứu khỏi rắn cắn, khỏi chết. Cũng là nhìn lên, nhìn lên cây thập giá, nhìn lên để thấy Một Con Người chịu chết treo trên đó, khác xa với việc nhìn lên con rắn đồng, nhìn lên thập giá để được tha thứ tội lỗi, để phần hồn được sống muôn đời.

Nhìn lên, là một quá trình hết sức tự do, một tình yêu kỳ diệu đến độ sẽ thu hút chúng ta dù lời nói, hành động, còn mờ nhạt, tình yêu đó vẫn đang biến đổi cách sống của chúng ta. Nhìn lên là nhìn về trời cao để cầu nguyện, là nhìn lên bàn thờ gia đình, nhìn lên thập giá, cũng là nhìn đến lòng nhân từ của Thiên Chúa. Nhìn lên để thấy mình còn thấp bé, để hiểu chúng ta cần được yêu thương, được tẩy rửa cho thanh sạch, hầu nhận ra lời giáo huấn: đức tin không có hành động là đức tin chết. (Gc 2, 17). Hãy nhìn lên, chúng ta sẽ thấy, sẽ gặp, sẽ hiểu, đau khổ thập giá của Đức Kitô chính là tình yêu Thiên Chúa ban cho nhân loại để những ai tin, thì sẽ được sống, và sống đời đời.

Vì sao dân chúng thời ông Môi-sê phải nhìn lên con rắn ? vì sao chúng ta hôm nay được nhắc nhớ hãy nhìn lên thập giá ? tất nhiên là vì tội lỗi, vì sợ phải chết chết, và vì mọi người đều muốn được sống. Nhìn lên con rắn đồng, dấu hiệu của tha thứ, phép lạ của tình yêu Chúa thực hiện qua trung gian ông Môi-sê truyền dạy. Nhìn lên thập giá, nhìn tới sự khổ đau cùng tận của Đấng đã chết vì tội lỗi nhân loại, Đấng hết tình hết mình vì yêu. Khi trưng dẫn hình ảnh con rắn và Con Người, cùng bị treo ở trên cao, Đức Giêsu cho thấy có sự đối nghịch giữa đau khổ vinh quang, giữa chết và sống, đều được minh chứng bằng tình yêu và niềm tin.

Kinh nghiệm ở đời cho thấy, khi nhìn vào bức tranh chúng ta rất cần đến một chút kiến thức để hiểu tính nghệ thuật mà người nghệ sĩ chuyển tải. Nhìn thực tế cuộc đời, tuy mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh rất phong phú, nhưng chúng ta sẽ không khỏi giật mình khi cha ông chúng ta nhắn nhủ: người có lúc vinh lúc nhục, sông có lúc đục lúc trong. Tiền nhân chúng ta đầy khôn ngoan và sáng suốt, các ngài có ý mời gọi con cháu hãy đặt trọn vẹn tâm tình yêu thương khi nhìn lên, nhìn để thấy sau cơn mưa trời sẽ sáng. Có nhìn kỹ, nhìn nghiêm túc, người ta sẽ có cơ hội để hiểu, để biết, tình yêu mới là chiếc chìa khoá để mở ra một khung trời hạnh phúc ; tiền của vật chất chỉ là phương tiện đưa tới một giấc mơ thoáng qua. Hôm nay chúng ta được mời gọi nhìn Đức Giêsu, nhìn lên thập giá, Đức Giêsu sẽ giúp chúng ta hiểu: Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời.

Ngày hôm nay, chúng ta vẫn nhìn nhận thân xác con người rất quý vì được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Ở hoang địa người Do-thái dù tội lỗi, bất xứng, họ chỉ cần nhìn lên con rắn đồng là được cứu sống. Thân xác linh hồn chúng ta quý trọng biết bao, khi đức tin mách bảo có sự hiện diện của tình yêu Chúa. Một lần nữa, Đức Giêsu đã nói rõ ràng Ngài là sự sáng thế gian, là Đấng sẽ xua tan bóng đêm tội lỗi, dẫn đưa chúng ta đến sự sống, khi chúng ta thông hiệp với mầu nhiệm thập giá. Tin và sống niềm tin, là cách diễn tả chúng ta có sự hiện diện của tình yêu Đức Kitô, Đấng đã vượt qua đau khổ sự chết để đến vinh quang phục sinh. Hãy nhìn lên thập giá, chúng ta sẽ thấy niềm tin của mình đang lớn lên mỗi ngày, đang trổ sinh hoa trái mỗi ngày trong tình yêu của Đấng Kitô. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY. NĂM B.

Lm. Anthony Trung Thành

Lịch sử cứu độ là lịch sử Tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Đó là tình yêu tạo dựng, tình yêu quan phòng và tình yêu cứu chuộc. Thật vậy, vì yêu nên Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người. Vì yêu nên Ngài đã tạo dựng mọi sự để cho con người cai quản và sử dụng. Vì yêu nên Ngài đã không chấp tội con người, trái lại đã ban chính Con Một của mình để cứu chuộc nhân loại. Tin mừng hôm nay khẳng định: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã sai Con Một Mình, ngõ hầu những ai tin vào Ngài sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời”(Ga 3,15). Trong bài đọc II, Thánh Phaolô cũng cho biết : “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời.” (Ep 2,4-6). Ngài còn cho biết thêm : “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa.” (Ep 2,8). Cũng vì yêu nên khi xuống trần gian, Đức Giêsu đã chọn các Tông đồ để lập nên Giáo hội, thiết lập các Bí tích nhất là Bí tích Thánh Thể để ở lại với loài người cho đến Tận thế. Điều đặc biệt hơn nữa là Thiên Chúa không những yêu thế gian chung chung mà Ngài yêu thương chăm sóc chu đáo từng người một trong chúng ta giống như người cha yêu thương từng người con trong gia đình vậy.

Nhưng con người hay phản bội, đi ngược lại với tình yêu của Thiên Chúa. Lịch sử dân Do Thái là một lịch sử Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, nhưng đồng thời cũng là một lịch sử nói lên sự phản bội của con người đối với Thiên Chúa. Đoạn sách Sử Biên Niên quyển thứ II được trích đọc trong bài đọc I hôm nay cho chúng ta thấy điều đó. Thật vậy, dân Do thái đã sống bất trung, bắt chước những sự ghê tởm của dân ngoại. Họ làm dơ bẩn đền thờ Chúa đã được Chúa thánh hoá tại Giê-ru-sa-lem. Họ phụ bạc với tình yêu của Thiên Chúa, bất tuân lề luật, phá vỡ giao ước đã ký kết với Thiên Chúa (x. 2Sb 36,14). Hậu quả là đền thờ và thành thánh của họ bị sụp đỗ tan tành. Dân chúng bị tàn sát vô số, những người sống sót còn lại bị đưa đi lưu đầy (x. 2Sb 36, 19-20).

Tuy nhiên, cho dù Thiên Chúa có giận, có ra án phạt nhưng không phải vì ghét, vì oán thù mà nhằm mục đích để thanh luyện, thanh tẩy và chữa trị họ. Bằng chứng là khi dân sai phạm, Ngài đã sai các sứ giả đến để nhắc nhở họ nhiều lần: “Chúa là Thiên Chúa tổ phụ họ, đã luôn luôn đêm ngày sai sứ giả đến với họ, vì Người thương xót dân Người và đền thờ của Người.” (2Sb 36,15). Không những thế, Ngài còn thúc đẩy tâm hồn hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư để nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban chiếu chỉ rằng: “Ðây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố: Chúa là Thiên Chúa trời đất đã ban cho trẫm mọi nước trên mặt đất, và chính Người đã ra lệnh cho trẫm xây cất cho Người một đền thờ ở Giêrusalem trong xứ Giuđa. Ai trong các ngươi thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên.” (2Sb 36, 22-23).

Hình ảnh con rắn đồng được nhắc tới trong đoạn Tin mừng hôm nay cũng là biểu tượng của Tình yêu Thiên Chúa. Thật vậy, sau khi ra khỏi đất Ai cập, dân Do Thái phải sống ròng rã suốt 40 năm trong sa mạc, gặp mọi thử thách gian nan. Họ phàn nàn kêu trách Chúa vì đã để họ phải chịu cảnh lầm than khốn khổ. Thiên Chúa đã nổi cơn thịnh nộ và để cho rắn lửa cắn chết nhiều người. Họ khiếp sợ và thống hối tội lỗi của mình. Họ đến với Môsê và xin ông cầu nguyện cùng Thiên Chúa cứu giúp họ : “Chúng tôi đã phạm tội, vì chúng tôi đã nói phạm đến Đức Giavê và đến ông, xin ông cầu với Đức Giavê cho chúng tôi để Ngài đuổi lũ rắn này xa khỏi chúng tôi đi” (Ds 21,7). Thiên Chúa đoái thương bảo Môsê đúc một con rắn đồng treo lên và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được cứu thoát (x. Ds 21,8).

Con rắn đồng là biểu tượng của Đức Giêsu bị treo lên thập giá và ai tin vào Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá sẽ được cứu rỗi. Thánh Gioan nói: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Ngài, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”(Ga 3,20). Cho nên, Thánh giá cũng là biểu tượng của tình yêu. Vì yêu thương nên Đức Giêsu đã chấp nhận bước vào con đường đau khổ, con đường thập giá. Khi suy niệm về những hình khổ Đức Giêsu đã chịu: đánh đòn, đội mạo gai, vác thập giá, đóng đinh vào thập giá…chắc chắn không ai không nghĩ đến tình yêu mà Đức Giêsu dành cho nhân loại. Đó là tình yêu cao quý trên mọi tình yêu. Chính Đức Giêsu đã nói: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13).

Thánh giá cũng là biểu tượng của sự tha thứ. Đức Giêsu đã chịu chết trên thập giá để cứu độ loài người, tha thứ tội lỗi cho loài người. Chính trên thập giá Ngài đã tha thứ cho kẻ đóng đinh Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Cũng trên thập giá, Ngài đã tha thứ cho kẻ trộm lành cùng đóng đinh với Ngài và hứa ban phúc Thiên đàng cho anh ta ngay ngày hôm đó.

Và nhờ công ơn cứu chuộc của Ngài, Ngài muốn Giáo hội tiếp tục sự tha thứ như thế mãi cho đến tận thế. Câu chuyện sau đây nói lên tinh thần đó. Chuyện kể rằng : một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị Linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi toà giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe: “Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh”. Hối nhân ra khỏi toà giải tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ.

Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha”. Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây Thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lỗ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình: “Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con”.

Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: “Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ”. (Sưu tầm)

Lạy Thiên Chúa là nguồn tình yêu. Xin cho mỗi người chúng con luôn cảm nhận được tình yêu của Chúa để chúng con biết yêu thương tha nhân như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT CHÚNG TA LÀ KẺ TỘI LỖI

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi 

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (2 Sb 36:14-16, 19-23; Ep 2:4-10; Ga 3:14-21)

          Mùa Chay không những giúp chúng ta nhìn lại mình, nhưng cũng nhìn lên Chúa nữa.  Nhìn lại mình để chúng ta nhận biết tình trạng tội lỗi và những sai trái mình đã phạm.  Tuy nhiên nhìn lại như thế không phải để chúng ta thất vọng, mà là động lực khiến chúng ta nhìn lên Chúa để chiêm ngưỡng lòng từ bi nhân hậu của Người cũng như để cầu xin Người xót thương.  Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta thấy khuôn mặt của lòng Chúa thương xót.  Thiên Chúa tỏ lòng thương xót cho dân Ít-ra-en bị lưu đày bên Ba-by-lon.  Qua đoạn thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô chỉ cho chúng ta thấy nơi Chúa Giê-su Ki-tô lòng thương xót ấy được biểu lộ như thế nào.  Sau hết, con rắn đồng do ông Mô-sê treo cao giữa trại dân Ít-ra-en là tiền ảnh của Chúa Giê-su chết trên thập giá, đã nói lên tột đỉnh của lòng Chúa thương xót.

          Trước hết chúng ta hãy xem trong hoàn cảnh nào Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót đối với dân riêng của Người.  Sau khi vương quốc Ít-ra-en miền bắc bị ngoại bang chiếm đóng, thì vương quốc Giu-đa miền nam cũng bắt đầu rơi vào tình trạng suy đồi đạo đức.  “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế”. Chúa sai các ngôn sứ đến cảnh báo họ, nhưng “họ nhạo cười các sứ giả, chế diễu các ngôn sứ của Người”.  Do đó Chúa đã trừng phạt họ bằng cách để cho quân Can-đê tràn vào đốt Đền Thờ, triệt hạ tường thành, thiêu rụi các lâu đài và chém giết dân chúng.  Những ai còn sống sót thì quân địch bắt họ đem đi đày tại Ba-by-lon.  Nhưng Chúa không bỏ quên họ.  Người can thiệp bằng cách tác động tâm trí vua Ky-rô của Ba-tư, để vua cho phép dân Chúa hồi hương và vua còn ra lệnh giúp đỡ họ tái thiết đất nước và xây lại Đền Thờ nữa.  Tội lỗi của dân Ít-ra-en vô cùng nặng nề, thế mà lòng Chúa thương xót còn trổi vượt thật xa trên cả tội lỗi của họ!

          Tuy nhiên Chúa không chỉ tỏ lòng thương xót với dân riêng Người, mà Người còn tỏ lòng thương xót hết thảy chúng ta, vì Người là “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta”.  Thánh Phao-lô còn cho chúng ta thấy Chúa thương xót chúng ta như thế nào.  Dù chúng ta đã chết vì tội tổ tông và không còn được làm con cái Chúa nữa, thì Người vẫn thương cho chúng ta được cùng sống với Chúa Ki-tô để trở về làm con cái Người.  Rồi nếu chúng ta sống trọn bổn phận làm con Chúa “mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta”, thì Người sẽ cho ta “được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời”.  Chỉ có một Thiên Chúa giàu lòng thương xót mới quan tâm tới chúng ta như vậy, mặc dù chúng ta không xứng đáng.  Cho nên thánh Phao-lô khẳng định rằng không phải bởi sức riêng chúng ta hay bởi những việc ta làm mà ta được cứu độ, nhưng hoàn toàn là do ân sủng Chúa và lòng tin của ta.  Ngài còn quả quyết rằng Thiên Chúa “tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Ki-tô Giê-su”.  Bài Tin Mừng đã trình bày việc làm này của Thiên Chúa như sau:  “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”.  Đó chính là cách Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu đối với ta “trong Đức Ki-tô Giê-su”.  Thiên Chúa muốn cho mọi người “thấy được” lòng thương xót và tình yêu của Người, nên Người sẵn sàng để cho Con Một là Chúa Giê-su bị đóng đinh thập giá và được giương cao lên.  Giống như ông Mô-sê đã treo con rắn bằng đồng lên cây cột cao giữa trại dân Do-thái trong sa mạc, đế cứu chữa những người bị rắn độc cắn, thì Chúa Giê-su cũng bị giương cao trên thập giá để chúng ta là những kẻ tội lỗi tin vào Người mà được cứu độ.

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Tại sao trong mùa Chay, ta phải thực hiện lòng sám hối?  Là vì ta xác tín rằng Chúa giàu lòng thương xót sẽ tha thứ chúng ta và dẫn chúng ta tới nguồn ơn cứu độ.  Nếu quả thực Chúa không có lòng thương xót, thì dù ta có sám hối thế nào đi nữa củng chỉ là vô ích thôi!  Lời Chúa hôm nay đã trưng dẫn lịch sử dân Ít-ra-en, lời giảng dạy của thánh Phao-lô và nhất là sự kiện Chúa Giê-su chịu đóng đinh thập giá để giúp ta xác tín rằng:  Thiên Chúa giàu lòng thương xót!  Đấy là chân lý không thể quên, nhất là trong mùa Chay!

Về mục lục

.

AI TIN VÀO CHÚA CON SẼ ĐƯỢC SỐNG MUÔN ĐỜI

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

1.TIN MỪNG: Ga 3,14-21

(14) Khi ấy Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, (15) để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. (16) Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (17) Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. (18) Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án ; Nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào Danh của Con Một Thiên Chúa. (19) Và đây là bản án: Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. (20) Quả thật, ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. (21) Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.

  1. Ý CHÍNH:

Khi nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su đã mặc khải về tình thương cứu độ của Thiên Chúa như sau:

Để cứu chuộc thế gian đang sống trong bóng tối sự chết, Thiên Chúa đã sai Con Một giáng trần làm Đấng Thiên Sai. Nhờ chấp nhận cái chết đau thương trên thập giá để đền tội thay và giao hòa loài người với Thiên Chúa.

Từ đây, những ai muốn được ơn cứu độ phải có mấy điều kiện sau: Một là phải được tái sinh bởi Nước và Thánh Thần. Hai là phải tin Đức Giê-su, Đấng đã chịu chết trên thập giá để đền tội thay, mà con rắn đồng thời Xuất Hành là hình bóng. Ba là phải vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Người.

Nhờ cùng chết với Đấng Thiên Sai, họ cũng sẽ được ánh sáng của Người chiếu soi để được tham phần vào sự sống lại vinh quang của Người và được hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên đàng.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 14-15: + Ni-cô-đê-mô: Một người vị vọng trong dân Do Thái, là thành viên của Công Nghị tại Giê-ru-sa-lem. Ông muốn tìm hiểu về con người và giáo lý của Đức Giê-su, nhưng còn với thái độ dè dặt. Sau này ông đã can đảm bênh vực Đức Giê-su trong Công Nghị (x. Ga 7,50-52; 12,32). Và khi an táng Người, ông đã can đảm gia nhập vào hàng ngũ các môn đệ của Đức Giê-su (x. Ga19,39). + Mô-sê giương cao con rắn trong sa mạc: Khi được cứu thoát khỏi ách nô lệ cho người Ai Cập, dân Do Thái thay vì biết ơn Chúa và Mô-sê, họ lại kêu ca trách móc khi phải chịu chút kham khổ. Họ thà quay lại làm nô lệ cho dân Ai-Cập, miễn là hằng ngày được ngồi bên nồi thịt và được ăn uống no nê, còn hơn được tự do mà bị đói khát thiếu thốn giữa nơi sa mạc hoang vu. Chúa đã trừng phạt họ về thái độ vô ơn bạc nghĩa ấy. Họ bị rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Bấy giờ họ mới hồi tâm sám hối và xin ông Mô-sê chuyển cầu Đức Chúa tha tội. Đức Chúa đã tha và truyền phải đúc tượng một con rắn bằng đồng, treo lên cây cột, để ai bị rắn cắn mà tin vào tình thương tha thứ của Đức Chúa nhìn lên con rắn đồng này, thì sẽ được cứu sống (x. Ds 21,8-9). + Con Người: là một hình ảnh được ngôn sứ Đa-ni-en nhìn thấy trong giấc chiêm bao. Con Người nói đây là một nhân vật được Đức Chúa tuyển chọn và trao sứ mệnh cai trị muôn dân trong sự công minh chính trực (x. Đn 7,13-14). Đức Giê-su nhiều lần đã tự xưng là Con Người với ý nghĩa này (x. Mt 8,20; 12,32). + Cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời: Đức Giê-su đã tiên báo Người sẽ được nâng lên khỏi mặt đất, hay bị treo trên cây thập giá, giống như con rắn đồng thời Mô-sê xưa, để giao hòa tội nhân với Đức Chúa và nên dấu chỉ ơn cứu độ cho loài người. Người cũng được nâng lên trong vinh quang của Thiên Chúa, nghĩa là được tôn vinh trong Thiên Chúa (x. Ga 3,13; 6,62), để kéo mọi tín hữu lên trời hưởng hạnh phúc với Người (x. Ga 8,28; 12,32-34).

– C 16-18: + Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một: Thánh Gio-an đã khẳng định nhiều lần: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8). Người thể hiện tình yêu qua việc ban Con Một yêu dấu cho thế gian. Thế gian chính là mọi loài thụ tạo, đặc biệt là loài người. Sự ban tặng này, gợi lên hình ảnh tổ phụ Áp-ra-ham xưa đã vâng lời Đức Chúa, đem hiến dâng con trai độc nhất là I-sa-ác để làm của lễ toàn thiêu tiến dâng Đức Chúa (St 22,2-13). + Để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời: Điều kiện để được ơn cứu độ là phải tin vào Đức Giê-su – Con Một Thiên Chúa, là Đấng ban ơn cứu độ cho loài người. Ơn cứu độ là ơn tha thứ mọi tội lỗi, xóa bỏ hình phạt đáng chịu vì tội, và saư này được sống lại trong ngày tận thế để được hưởng hạnh phúc muôn đời trong Nước Trời với Chúa. + Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án: Tin ở đây là chấp nhận Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. Tin cũng là vâng nghe lời Người mời gọi, là từ bỏ mọi sự mà vác thập giá bước theo chân Người. Tin đòi ta phải kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su để sống tình yêu thương đối với tha nhân, giống như cành nho chỉ phát sinh hoa trái nếu được tháp nhập vào thân cây nho và hút được nhựa sống từ thân cây chuyển sang cho (x. Ga 15,4). NÓI CÁCH KHÁC: Tin là sống trong ơn nghĩa với Thiên Chúa. Những ai đặt trọn niềm tin vào Đức Giê-su như vậy thì không bị kết án nữa vì họ đã được Người chịu chết đền tội thay cho rồi. + Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi vì không tin vào Danh Con Một Thiên Chúa: Không tin là từ chối Chúa, là không sống trong ơn nghĩa với Chúa. Đây là những kẻ thù ghét Đức Giê-su và chống lại Hội Thánh của Người. Vì kẻ không tin không được dự phần vào ơn cứu độ của Đức Giê-su, nên tội và án phạt của họ vẫn còn đó. Vì không tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, nên họ sẽ không được cứu độ nhờ Danh Người (x. Pl 2,9-11). Như vậy, những kẻ không tin đã tự loại mình ra khỏi Ơn Cứu Độ của Đức Giê-su

– C 19-21: + Ánh sáng đã đến thế gian: Đức Giê-su là “Vầng Đông soi sáng” (x. Lc 1,78-79 ; 2,32) là “ánh sáng đích thực” đã đến thế gian và chiếu soi mọi người (x Ga1,9). Người đã tự ví mình là “Ánh Sáng thế gian” để ai theo Người thì sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống đời đời (x. 9,5). Những ai tin vào Danh Người thì không phải chết và không bao giờ bị hư mất (Ga 12,46). + Người ta thích bóng tối hơn ánh sáng vì các việc họ làm đều xấu xa: Thánh Phao-lô giải thích lý do người ta thích bóng tối hơn ánh sáng là do tội bất phục tùng của nguyên tổ A-đam nên tội lỗi đã nhập vào thế gian, và tội là nguyên nhân dẫn đến sự chết (x. Rm 5,12). Tội nguyên tổ làm cho con người dễ chiều theo bóng tối hơn ánh sáng. Thánh Phao-lô cũng thú nhận như sau: “Muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,18-19). + Ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách: Bóng tối và ánh sáng luôn xung khắc nhau. Ánh sáng đi đến đâu thì sẽ xua tan bóng tối. Người đời thường ưa thích bóng tối là các đam mê tội lỗi hơn là ánh sáng của sự khiêm hạ phục vụ tha nhân. Họ không chấp nhận ánh sáng là Đức Giê-su và còn xuyên tạc các việc tốt Người làm (x. Mt 9,33-34). Họ rình để bắt lỗi từng lời nói việc làm của Người để tố cáo Người (x. Mc 3,2). Cụ thể là phái Pha-ri-sêu và Hê-rô-đê, đã liên minh với nhau để tìm cách triệt hạ Người (x. Mc 3,6). + Kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa: Những người ăn ở lương thiện và công minh chính trực, thì dễ dàng tìm thấy chân lý và sẵn sàng đi theo ánh sáng soi đường là Đức Giê-su. Nhờ đó họ sẽ làm được nhiều việc tốt theo thánh ý Thiên Chúa.

  1. CÂU HỎI: 1) Hãy cho biết đức tin vào Đức Giê-su của ông Ni-cô-đê-mô diễn tiến thế nào? 2) Con rắn trong sa mạc thời Cựu Ước, liên quan thế nào với việc Đức Giê-su chịu chết trên thánh giá thời Tân Ước sau này? 3) Ngày nay muốn được hưởng ơn cứu độ do Đức Giê-su thiết lập, các tín hữu cần những điều kiện nào? 4) Tin vào Con Thiên Chúa cụ thể đòi chúng ta phải làm gì? Tin như vậy ta sẽ được lợi ích nào? 5) Hình phạt dành cho những kẻ cố chấp không tin vào Đức Giê-su ra sao? 6) Đức Giê-su đã mặc khải Người là ánh sáng thế nào? Tại sao người đời lại thích bóng tối hơn ánh sáng do Đức Giê-su mang lại? 7) Ai đi theo ánh sáng của Đức Giê-su thì sẽ được những ơn ích gì?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”(Ga 3,15)
  2. CÂU CHUYỆN:
  3. BIỂU TƯỢNG CỦA TÌNH THƯƠNG CỨU ĐỘ:

Các du khách có dịp viếng thăm nhà thờ chính tòa Gen-gi-ba bên Phi Châu, sẽ nhìn thấy lời chào đón ghi trên cửa nhà thờ: “Bạn đang đứng trong ngôi nhà của Đức Ki-tô”.

Ngôi nhà thờ này đã được xây dựng ngay trên mảnh đất trước kia buôn bán những người nô lệ da đen giống như buôn bán súc vật. Đặc biệt bàn thờ được đặt trên một tảng đá là nơi các người nô lệ bị đánh đòn để kiểm tra về sức khỏe của họ.

Cây thánh giá bằng vàng được treo trên một chiếc cột trụ có khắc tên bác sĩ Livdy Stone, một người Anh đã từng lên tiếng chống lại tệ nạn buôn bán nô lệ. Trên cột trụ này bác sĩ  thường đứng để cổ vũ giải phóng nô lệ. Mãi đến ngày 16.6.1873 việc buôn bán nô lệ tại Phi châu mới bị ngăn cấm do một đạo luật được ban hành. Kể từ đó, phẩm giá đích thực của người da đen mới được nhìn nhận.

Chiếc cột trụ đã trở nên dấu chỉ, gợi nhớ đến những hy sinh gian khổ và cả cái chết để giải phóng những người nô lệ da đen và giúp họ có được một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đối lại với thù hận là tình yêu thương chân thật, đối lại với bóc lột là tự do và công bằng, đối lại với chiến tranh là hòa giải và tha thứ.

Câu chuyện trên gợi lên cho chúng ta về tình thương của Thiên Chúa. Thời Xuất Hành, Đức Chúa đã truyền cho Mô-sê đúc một con rắn đồng, treo lên một cây cột trong hoang địa, để những ai bị rắn lửa cắn sẽ nhìn lên con rắn đồng biểu tượng của tình thương cứu độ thì sẽ được chữa lành.

  1. TIN VÀO LÒNG CHÚA XÓT THƯƠNG:

Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một tượng thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào thập giá, nhưng cánh tay mặt thì đã rời ra và giơ lên phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.

Người Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng thánh giá này như sau: Một hôm có một tội nhân đến xưng tội với vị linh mục đang ngồi tòa ở dưới cây thánh giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân phạm tội nặng, vị linh mục đã ra việc đền tội nặng và ngăm đe đủ điều. Nhưng bản tính khó chừa, chẳng bao lâu sau ông ta lại phạm tội và đến xưng tội. Lầm này sau khi giải tội, vị linh mục nói với ông ta: “Đây là lần cuối cùng tôi xá giải tội này cho anh!”

Nhiều tháng trôi qua, một hôm tội nhân lại đến quỳ tại tòa giải tội dưới cây thánh giá để xin ơn tha thứ. Nhưng lần này, vị linh mục dứt khoát: “Ông đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội cho anh được nữa!”. Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ ban ơn tha tội, thì nghe thấy có tiếng thì thầm từ cây thánh giá phía trên. Ngước nhìn lên ông thấy cánh tay phải của Chúa Giê-su đã bung ra khỏi thánh giá và đang ban phép lành cho hối nhân. Rồi vị linh mục lại nghe thấy tiếng Chúa phán với ông như sau: “Chính Ta là người đã đổ máu ra cho tội nhân này chứ không phải ngươi”.

Từ đó, bàn tay của Chúa Giê-su luôn trong tư thế ban phép lành, để mời gọi mọi người hãy đến xin ơn tha thứ. Du khách đến viếng, nhìn lên thánh giá đều có cảm tưởng như ánh mắt của Chúa đang nhìn mình và nói: “Ta không kết án con đâu. Hãy về bình an và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11).

  1. CHẾT VÌ NGƯỜI YÊU MỚI LÀ TÌNH YÊU TỘT ĐỈNH:

Thời xưa, khi trái đất còn hoang sơ, có một con thỏ tên là PÔ-LI-XA. Thỏ Pô-li-xa rất thương người, ai xin gì nó cũng cho và không từ chối một người nào. Một hôm có một cụ già lom khom chống gậy tới gần nói rằng:

– Già đang bị đói lắm, suốt mùa nước lũ vừa qua, già không có gì ăn cả. Chắc già sắp chết đến nơi rồi. Giờ đây già chỉ thèm ăn một miếng thịt thỏ, vậy Pô-li-xa có cho già được không?

Thỏ Pô-li-xa nhìn ông già hom hem yếu đuối tội nghiệp quá, liền bảo ông rằng:

– Được rồi, ông chờ cháu một lát.

Nói xong nó chạy kiếm củi xếp thành đống, nhóm lửa và nói:

– Ông chờ thịt cháu chín, rồi hãy lấy ra mà ăn.

Sau đó thỏ nhảy vào đống lửa. Bấy giờ đống lửa đang cháy to tự nhiên bị tắt ngúm và ông lão cũng biến mất. Thì ra đó là một vị thần, được Thượng đế phái tới để thử lòng tốt của thỏ Pô-li-xa. Về sau để thưởng công, Thượng Đế đã cho thỏ Pô-li-xa được sống vui vẻ hạnh phúc mãi mãi trên mặt trăng.

Đây là một câu chuyện ngụ ngôn đề cao những ai có lòng nhân ái, sẵn sàng hy sinh chết cho người khác như Tin Mừng hôm nay đã viết: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). 

  1. TÌNH ĐỜI ĐEN BẠC:

Xưa kia có một vị hoàng đế rất giàu sang và cũng có lòng đại lượng. Vua sẵn sàng ban phát vàng bạc châu báu cho những ai làm cho vua hài lòng. Thế là các nịnh thần mọc lên như nấm trong triều đình.

Các hoàng tử thì xu nịnh để được vua cha ban cho ngai vàng nối ngôi. Các quan trong triều thì xu nịnh để được thăng quan tiến chức. Ai cũng huênh hoang nói mình hết dạ trung thành, sẵn sàng chịu chết để bảo vệ nhà vua.

Nhà vua đã tin vào những lời nịnh hót đó và đã ban cho họ nhiều vàng bạc khiến ngân khố của triều đình bị cạn kiệt.

Trong triều chỉ có quan ngự y là người duy nhất có lòng trung thực. Ông đã nhiều lần can gián thuyết phục vua đừng tin vào những lời đường mật của lũ xu nịnh, nhưng vua không nghe.

Một hôm, nhà vua bất ngờ bị lâm trọng bệnh thập tử nhất sinh, tính mạng chỉ còn được đếm từng giờ. Quan ngự y tâu trình là bệnh vua chỉ được chữa lành nếu ăn được trái tim của một vị hoàng tử con vua.

Nghe tin nầy, các hoàng tử trong cung đều trốn biệt!

Khi không thể tìm được trái tim của hoàng tử, nhà vua hỏi quan ngự y xem có thể sử dụng tim của một người khác được không. Quan ngự y trả lời ít ra phải dùng trái tim của các vị quan lớn trong triều đình.

Nghe tin đó, các quan lớn rồi các quan nhỏ trong triều đều trốn biệt tăm.

Túng quá, thôi thì dùng tạm trái tim của lính hầu, của công chúa cũng được. Nghe tin đó, cả công chúa, cả lính hầu, cả hàng trăm thê thiếp cũng không ai còn lai vãng trong cung điện nữa. Cung điện thường ngày huyên náo, bây giờ vắng lặng như bãi tha ma!

Bấy giờ vua liền ngồi dậy, và đã thấu hiểu tình người đen bạc.

Chính quan ngự y đã dựng lên màn kịch nầy để thử lòng trung thành của mọi người chung quanh!

Cuộc đời là thế! Không ai dám chết thay cho người mình yêu. Nhưng vẫn có một người đã dám hy sinh tính mạng cho những kẻ đã phản bội mình là Chúa Giê-su. 

  1. SUY NIỆM:

1) Thiên Chúa yêu thế gian đã sai Con Một cứu độ:

Từ lâu, hình ảnh một con rắn cuộn tròn quanh một cây gậy đã được ngành y dược thế giới chọn làm biểu tượng của khoa chữa bệnh cho con người. Hình ảnh ấy xem ra cũng giống như con rắn đồng thời Mô-sê, được treo trên cây cột để chữa lành những ai bị rắn cắn được khỏi chết. Tuy nhiên chỉ có Đức Giê-su, Đấng đã chịu chết treo trên thập giá, mới thật là linh dược chữa lành mọi bệnh hoạn thể xác và linh hồn của chúng ta.

Nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su đã mặc khải về tình thương cứu độ của Thiên Chúa như sau: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).

2) Sám hối tội lỗi là điều kiện để được ơn Chúa cứu độ:

Những ai muốn được hưởng ơn cứu độ của Chúa Giê-su cần phải có đủ điều kiện như sau:

– Một là phải khiêm tốn nhận mình là tội nhân để hồi tâm sám hối và chịu phép rửa tội để được tái sinh làm con Thiên Chúa.

– Hai là phải tin Chúa Giê-su, Đấng đã chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho loài người, mà con rắn đồng thời Xuất Hành là hình bóng của Người.

– Ba là phải “bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà đi con đường hẹp và leo dốc của Người”.

Lòng tin yêu và sám hối của người trộm lành cùng chịu đóng đinh với Đức Giê-su chính là gương mẫu cho sự hồi tâm sám hối của mỗi người chúng ta hôm nay.

3) Phải đi theo con đường thập giá của Chúa Giê-su:

Khi bị mắc bệnh nan y, nếu muốn khỏi bệnh, bệnh nhân phải đi khám bệnh để tìm ra nguyên nhân và uống thuốc theo toa bác sĩ để điều trị bệnh. Bệnh nhân chỉ được khỏi nếu tin vào thầy thuốc và uống thuốc theo đúng liều lượng đã được chỉ dẫn. Rồi còn phải nghe lời bác sĩ để tránh các nguyên nhân gây bệnh.

Cũng vậy, khi phạm tội mà muốn khỏi bị chết, tội nhân cần tin nhận Đức Giê-su, đi theo con đường “qua đau khổ vào vinh quang” của Người, năng nhìn lên Chúa đã bị chết treo trên thập giá để xin Người tha tội noi gương người trộm lành (x. Lc 23,40-43). Chắc chắn chúng ta cũng sẽ nhận được ơn Chúa tha thứ và sẽ được Chúa cho vào hưởng hạnh phúc Nước Trời là Thiên Đàng đời sau.

4) Làm gì để loại trừ thói hư và nhận được ơn tha tội?:

Mùa chay mời gọi chúng ta nhìn lại để biết mình đang sống trong ánh sáng hay trong bóng tối sự chết? Chúng ta hãy đến bệnh viện của Chúa là Hội Thánh để kiểm tra sức khỏe tâm hồn, để được Chúa chữa lành bênh tật và tập các nhân đức đối lập với các thói hư trong kinh Cải Tội Bảy Mối có Bảy Đức.

Một tác giả vô danh đã kể về cuộc kiểm tra sức khỏe tâm linh của ông ta nơi bệnh viện của Chúa mà sau đó ông đã được Chúa ban ơn chữa lành như sau:

– Đầu tiên khi đo huyết áp cho tôi, bác sĩ Giê-su cho biết tôi bị bệnh thiếu máu Đức Tin và Đức Bác  Ái. Và khi cặp độ, nhiệt kế báo hiệu tôi đang bị sốt Ích Kỷ lên tới 40 độ C cần phải cấp thời được điều trị.

– Ðiện tâm đồ chỉ ra rằng trái tim của tôi thiếu những rung động Tình Thương, chứng huyết áp cao do mạch máu bị tắc nghẽn vì lớp cholesterone Ganh Ghét và có nguy cơ đột quỵ bất cứ lúc nào.

– Tới khoa xương khớp, tôi đã tìm ra nguyên nhân tại sao chân tay của tôi thường bị đau nhức và đi đứng khó khăn, là do Mỡ Tự Mãn trong máu lên khá cao và chất đạm Axit Uric do ăn uống thiếu điều độ cũng tăng gấp đôi mức an toàn, nên bị cục Gút ở mắt cá chân rất khó đi lại bình thường. Cũng vì thế mà tôi không thể “Đi Bước Trước” để mỉm cười bắt tay người mới gặp hay cố gắng làm hòa với bà mẹ chồng khó tính thường la rầy và phê phán tôi với mấy người hàng xóm.

– Chứng cận thị Tham Lam làm mờ mắt khiến tôi đánh giá tha nhân dựa trên vẻ bề ngoài như nhà cửa, xe cộ, quần áo… thay vì nhìn vào bản chất và động cơ ẩn giấu trong tâm hồn họ.

– Do quen nghe những tiếng ồn ào của quán nhạc Ka-ra-ô-kê nên một bên tai tôi đã bị Ðiếc Nặng, không còn nghe được hoặc không còn muốn nghe những lời tâm sự của những người bất hạnh.

Tôi đã được bác sĩ Giê-su tận tình khám bệnh miễn phí với  Lòng Thương Xót. Người đã cho tôi một toa thuốc gồm hai loại đặc trị là Lời Chúa và Thánh Thể, đồng thời khuyên tôi thực hành vật lý trị liệu là Thao Luyện Tâm Linh và thực hành Bác Ái là năng thăm viếng tha nhân.

Tôi quyết tâm trong Mùa Chay này sẽ chữa bệnh theo toa thuốc của Chúa như sau:

Mỗi sáng khi vừa thức dậy, tôi sẽ dùng ngay một ly nước Tạ Ơn Chúa. Trong bữa điểm tâm, tôi uống thêm một thìa súp Nụ Cười Thân Thiện và Chào Hỏi những người tôi gặp gỡ.

Ở cơ quan làm việc, lợi dụng các giờ nghỉ giữa giờ, tôi làm các động tác vật lý trị liệu là Nghĩ Đến Người Khác và Đáp Ứng Nhu Cầu của họ. Trong bữa trưa, tôi không quên uống thêm viên thuốc Nhẫn Nại Chịu Đựng. Buổi tối về nhà, tôi dành thời gian vận động tay chân bằng cách giúp người thân làm các việc nhà để biểu lộ Tình Thương Cụ Thể. Rồi trước khi đi ngủ, tôi uống thêm thuốc Sám Hối Tạ Ơn và Cậy Trông Phó Thác vào Chúa quan phòng.

4. THẢO LUẬN: 1) Phân biệt Tội nặng nhẹ về giống tội, về mức độ phạm và về hình phạt? 2) Có khi nào người ta chỉ phạm bằng lời nói mà vẫn có tội nặng không? 3) Khi ý thức mình đã phạm tội nặng, chúng ta cần làm gì noi gương người phụ nữ tội lỗi (x Lc 7,47) tông đồ Phê-rô (x Lc 22,61-62), để sớm được giao hòa với Chúa?

5.  NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa đã yêu thương chúng con đến cùng, nên đã ban Lời Chúa và dạy chúng con phải ăn ở thế nào để nên con thảo của Chúa Cha, và nên anh chị em của mọi người. Chúa cũng ban bí tích Thánh Thể làm lương thực nuôi dưỡng đức tin trong cuộc hành trình về Nhà Cha trên trời. Chúa còn ban chính mạng sống mình, chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho chúng con. Mỗi lần lỡ sa ngã phạm tội, xin cho chúng con biết tin thác vào tình thương của Chúa và nhìn lên Thánh giá, để xin ơn tha thứ. Trong những ngày Mùa Chay này, xin Chúa giúp chúng con năng suy niệm chặng đàng Thánh giá, chăm chỉ đến nhà thờ suy ngắm mười lăm sự thương khó, tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Chay để cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương và quyết tâm chừa cải các thói hư. Nhờ đó, hy vọng chúng con sẽ được biến đổi nên người mới, thành con yêu của Chúa Cha, nên môn đệ thực sự của Chúa và nhiệt tình làm việc tông đồ để xứng đáng được ơn cứu độ của Chúa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY. NĂM B

Lm. Antôn

Chúng ta thấy bất cứ một quốc gia nào trên thế giời đều có một lịch sử, và trong lịch sử ấy được đánh dấu bởi những cuộc thăng trầm.  Cuộc đời và hành trình đức tin của mỗi người chúng ta cũng thế được đánh dấu bởi tội lỗi và ân sủng.  Nhìn vào lịch sử dân Do thái, còn được gọi là Dân Chúa, qua Kinh thánh, chúng ta thấy lịch sử của họ cũng được đánh dấu bởi ân sủng và tội lỗi, trung thành và bất tín, đón nhận và từ chối, ánh sáng và bóng đen. Ðó là lịch sử một tình thương hải hà, nhưng vô cùng mầu nhiệm. Thiên Chúa giàu lòng yêu thương đã sai nhiều sứ giả đến với họ, nhưng họ vẫn giả điếc làm ngơ, và hơn thế nữa, họ còn nhạo báng, hành hạ và giết chết các tiên tri. Thiên Chúa, dù là Ðấng nhân ái từ bi, đã buộc lòng phải trừng phạt để cảnh tỉnh và lôi cuốn họ trở về với Người. Chúa cho dân đi lưu đày, mất quê hương, mất đền thờ, mất tất cả, để từ đó họ khám phá lại những hồng ân lớn lao của Chúa.

Thánh Phao-lô ý thức sâu xa về thực trạng tội lỗi của con người và hồng ân của Chúa.  Người đã kinh nghiệm về ảnh hưởng của tội trong chính bản thân, trong môi trường người sống và những nơi người đến rao giảng. Về bản thân, thánh Phao-lô đã phải thốt lên những lời chua xót: “Tôi thuộc về xác thịt, bị bán làm tôi sự tội.” (Rm 7,14). Và “Không phải tôi hành động, nhưng chính là tội lỗi cư ngụ trong tôi.” (Rm 7,17)   Thánh Phaolô không những thấy rõ tội lỗi của riêng mình và của mọi người, nhưng cũng cảm nhận được tình thương yêu vô biên và cao cả của Thiên Chúa. Người  xác định rằng: “Thiên Chúa là Chúa của hồng ân, và “tội lỗi phát sinh càng nhiều, ân sủng càng dồi dào gấp bội.” (Rm 5, 30)

Thật vậy, chính Chúa Giê-su Kitô là hồng ân trọn vẹn và cao quí của Thiên Chúa cho chúng ta. Người là dấu hiệu của tình thương và chính là tình thương sâu thẳm bao la của Thiên Chúa.  Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình… để thế gian nhờ Người mà được cứu độ.”  Chúa Giê-su đã dùng cây Thánh giá để cứu độ con người chúng ta. Thế nhưng hồng ân cứu độ này có liên hệ đến một số sự kiện đã xảy ra và được kể trong sách Dân số.

Hồi ấy, sau khi ra khỏi Ai cập để về đất hứa, dân Do thái phải qua sa mạc.  Ngày thì nóng như thiêu, đêm thì lạnh như cắt. Hơn nữa đời sống trong sa mạc đâu có phải là đời sống bình thường vì thiếu thốn đủ thứ.  Có lúc bị đói và khát, nhưng Chúa đã làm phép lạ cho họ có thức ăn, thức uống, nhưng vì sống lâu trong sa mạc, sức chịu đựng của họ có giới hạn, họ đã kêu trách Chúa và ông Mô-sê.  Nhiều khi chúng ta cầu xin ơn này ơn nọ mà Chúa chưa kịp ban cho, thì chúng ta cũng kêu trách Chúa như họ!  Họ kêu trách Chúa không tiếc lời. Sự kiện đó đã khiến Chúa phải dùng đến hình phạt để cảnh tỉnh họ. Chúa đã cho những con rắn lửa bò ra gieo chết chóc và tang thương cho họ.   Sau đó, họ ăn năn hối hận và Chúa lại thương, truyền cho Mô-sê đúc một con rắn đồng rồi treo lên một cây cột cao để như lời Chúa nói với Mô-sê: “Ai nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu sống.”  Và quả đúng như thế, tất cả những ai bị ra71n lửa cắn mà nhìn lên con rắn đồng đó thì đều được sống.

Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giê-su đã nhắc lại câu truyện xưa để giúp cho ông Ni-cô-đê-mô hiểu một việc Chúa sắp làm, và nói với ông: “Như Môsê đã treo con rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Người, sẽ không bị huỷ diệt, nhưng được sống đời đời.”  Hay nói một cách khác Chúa muốn bảo chúng ta con rắn đồng trong sa mạc xưa là hình bóng cho sự việc Chúa chịu chết trên Thánh giá để ban ơn cứu độ cho con người, có nghĩa là làm cho con người được hưởng sự sống đời đời.

Thế nhưng, ông bà anh chị em thân mến, ngày hôm nay muốn được Chúa cứu độ thì chúng ta phải làm gì?

Thưa, trước hết, phải xác tín vào tình yêu thương vô biên và cao cả của Thiên Chúa.  Qua những biến cố trong lịch sử, Thiên Chúa đã từ từ mạc khải cho dân Do thái thấy rằng Người không phải là một Thiên Chúa hay phạt, nhưng là Thiên Chúa nhân từ hay tha thứ.  Mỗi lần họ phản bội, không trung thành và cứng lòng ngoảnh mặt đi thờ thần khác, như trong bài đọc 1 hôm nay, Chúa dùng mọi phương cách để cảnh tỉnh và nhiều người để lôi cuốn họ về với Chúa.  Khi họ biết ăn năn sám hối thì Chúa sẵn lòng tha thứ và lại yêu thương họ. Dần dần họ nhận ra Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu.  Thiên Chúa đã ban cho chúng ta chính Con Một Người là Chúa Giê-su, để những ai tin vào Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời.  Chúng ta phải tin vào Chúa Giê-su là Đấng Cứu Độ chúng ta.

Nhưng tin vào Chúa thì phải làm gì?  Thưa phải sống lời Chúa dạy và nhìn ra và nhận tội lỗi của mình, ăn năn sám hối, quay trở về và quyết tâm sửa lại, sống đời sống mới.   

Tôi muốn chia sẻ với ông bà anh chị em những phương cách ăn năn sám hối của thánh Gioan Kim khẩu sau đây.  Thứ nhất là lên án tội lỗi của mình.  Ngài khuyên chúng ta hãy là người đầu tiên xưng tội lỗi của mình với Chúa để được Chúa tha thứ và trở nên công chính. Vì chúng ta không thể nào che dấu Chúa tội lỗi của mình được, cho nên hãy trước hết xưng tội ra với Chúa.  Cách thứ hai không kém gì cách thứ nhất là nếu người khác sỉ nhục, nói xấu, thù hằn và ghen ghét thì đừng để tâm, hãy chế ngự tính giận hờn của mình và biết tha thứ tội lỗi cho anh chị em mình.  Như thế, khi chúng ta xin Chúa tha thứ điều gì xúc phạm đến Chúa thì Chúa cũng sẽ tha thứ cho chúng ta.  Cách thứ ba là phải siêng năng và sốt sắng cầu nguyện, và thành tâm lắng nghe Lời Chúa. Cách thứ tư là có lòng yêu thương, hy sinh và quảng đại, làm những việc bác ái, phúc đức vì những việc này có hiệu lực, ảnh hưởng tốt đến tâm hồn. Ngoài ra thánh Gioan Kim khẩu cũng khuyên chúng ta có cuộc sống khiêm nhường, vì cuộc sống khiêm nhường sẽ tiêu diệt tội lỗi tận căn. 

Như ông bà anh chị em nhìn lên tấm băng rô trên đây, mùa Chay kêu gọi chúng ta ăn năn sám hối, sửa đổi đời sống. Chúng ta nhận biết chúng ta là những người tội lỗi và chúng ta xác tín vào tình yêu thương của Chúa. Chúa đã dùng cây Thánh giá để cứu chuộc chúng ta. Chúng ta tin rằng nếu chúng ta nhìn lên Cây Thánh Giá và thành khẩn xin Người tha tội, Chúa sẽ tha thứ cho chúng ta.

Về mục lục

.