Các bài suy niệm Chúa Nhật I Mùa Chay Năm B

942

CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY_B

Lời ChúaSt 9,8-15; 1Pr 3,18-22; Mc 1,12-15

——- 

Mục lục

1. Tội lỗi và tình thương (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Cám dỗ  (Lm. Thái Nguyên)

3. Giao ước: Ánh sáng để nhận ra Thần Khí Thiên Chúa  (Jorathe Nắng Tím)

4. Cám dỗ là gì?  (Lm. Tạ Duy Tuyền)

5. Cùng Chúa Giêsu lên Giêrusalem (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

6. Thiên Chúa đơn phương tỏ tình với con người  (Lm. Giuse Lê Danh Tường)

7. Sức mạnh để chiến thắng cám dỗ   (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

8. Thao luyện  (Lm. Vũ Đình Tường)

9. Hiệp sĩ của Thiên Chúa (Thiên San, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

10. Sám hối để được hưởng giao ước (Maria Việt Trinh, Thanh tuyển sinh MTG.Thủ Đức)

11. Sống với chính mình (Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa)

12. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 1 Mùa Chay_B (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

13. Tam độc  (Trầm Thiên Thu)

14. Trung thành với lời giao ước Rửa tội  (Lm. Trần Bình Trọng)

15. Chiến thắng cám dỗ (Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)

16. Chiến thắng sự xấu  (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

17. Cuộc chiến đấu thiêng liêng   (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

18. Cám dỗ thời nay  (Lm. Xuân Hy Vọng)

19. Tin mừng giúp hoán cải (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

20. Chiến thắng ma quỷ và cám dỗ của chúng  (Lm. Dương Trung Tín)

 

Mục lục (2018)

1. Canh tân đổi mới  (Lm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Vào hoang địa  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Hãy hồi tâm đổi mới (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

4. Thách thức  (Anna Cỏ May, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

5. Cầu nguyện với Thầy (Bông Hồng Nhỏ, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

6. Chiến thắng cám dỗ nhờ Chúa Giêsu  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

7. Các thiên sứ hầu hạ Người (Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)

8. Sau cơn hồng thủy  (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)

9. Ăn năn   (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

10. Cám dỗ đời người  (Lm. GB. Trần Hào, SDB)

11. Lòng thương cảm sâu xa (Peter Feldmier – Văn Hào chuyển ngữ)

12. Ngươi chớ thử thách Đức Chúa  (Fx. Đỗ Công Minh)

13. Hành động và tuyên bố đầu tiên của Đức Giêsu (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)

14. Mầu nhiệm sự dữ  

15. Suy niệm Chúa Nhật I Mùa Chay_B  (Lm. Anthony Trung Thành)

16. Suy niệm Chúa Nhật I Mùa Chay_B.  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

17. Để chiến thắng ma quỷ cám dỗ  (Lm. Đan Vinh)

18. Những con dã thú (Lm. Nguyễn Thái)

19. Mùa thanh tẩy tâm hồn  (Lm. Đinh Lập Liễm)

20. Noi gương Chúa để chiến thắng cám dỗ (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)

21. Từ bỏ tội lỗi và trung tín với tình yêu Thiên Chúa  (Lm. Nguyễn Văn Phan)

22. Những sa mạc cuộc đời (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD)

23. Tái sinh  (Lm. Vũ Đình Tường)

24. Liên đới yêu thương   (Lm. Jos. DĐH. Gp.Xuân Lộc)

25. Cám dỗ tốt hay xấu?  (JM. Lam Thy, ĐVD)

 

TỘI LỖI VÀ TÌNH THƯƠNG

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Chúng ta đã bước vào Mùa Chay. Đối với người tín hữu, đây là “thời Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2 Cr 6,2). Sống tinh thần Mùa Chay là khiêm tốn nhìn nhận mình còn nhiều tội lỗi, đồng thời nhận ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Nhờ tình thương, chúng ta được canh tân đổi đời và nên giống Chúa Giêsu trong tư tưởng, lời nói và việc làm.

Mỗi khi Mùa Chay về, chúng ta được mời gọi thực hành những việc đạo đức truyền thống như chay tịnh, hãm mình, hy sinh, cầu nguyện. Thoạt nghĩ đến những thực hành này, chúng ta thường coi đó là những ràng buộc nặng nề, làm giảm tự do ngăn cản ham muốn hưởng thụ của chúng ta. Tuy vậy, những việc đạo đức của Mùa Chay, nếu được thực hiện có ý thức, sẽ giúp chúng ta hoàn thiện bản thân, sống đẹp lòng Chúa và sống tốt với anh chị em mình.

Bài đọc I trích sách Sáng thế giúp chúng ta rút ra bài học từ một biến cố trong quá khứ. Đây cũng là một kinh nghiệm về lòng từ bi hay thương xót của Thiên Chúa, mặc dù con người tội lỗi phản nghịch. Vào thời xa xưa, đã có lúc nhân loại trở nên xấu xa và đầy tội lỗi. Chúa đã muốn dùng cơn Đại hồng thủy để xóa đi cả dòng giống con người. Tác giả sách Sáng thế diễn tả với nỗi đau đớn: “Thiên Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất” (St 5,6). Ngài đã muốn dùng cơn Đại hồng thủy để xóa đi loài người và mọi loài thụ tạo, để thiết lập một dòng giống mới, tinh tuyền thánh thiện hơn. Dòng giống này phát sinh từ gia đình ông Nôê, người sống đạo đức và kính sợ Chúa. Bằng con tàu khổng lồ ông đã chuẩn bị theo lệnh truyền của Chúa, gia đình ông và các loại có cây, súc vật, chim trời đã trở thành những nhân tố đầu tiên của cuộc sáng tạo mới sau khi nước hồng thủy rút đi. Nước vừa có sức mạnh hung dữ nhấn chìm mọi tạo vật, vừa có khả năng làm sinh ra một thế hệ mới. Các hiền sĩ Do Thái đều nhìn nhận biến cố này diễn tả thân phận tội lỗi của con người và lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Đoạn sách Sáng thế chúng ta được nghe hôm nay là kế hoạch của Thiên Chúa sau khi nước hồng thủy đã rút đi. Thiên Chúa hứa với ông Nôê và các con ông: từ nay về sau sẽ không bao giờ tái diễn sự hủy diệt tàn khốc như vậy. Lời hứa của Chúa được gọi là giao ước, và được đánh dấu bằng cầu vồng trên các tầng mây. Sau này, thánh Phêrô và các nhà thần học đầu tiên của Giáo Hội đều giải thích Đại hồng thủy là hình bóng của bí tích Thánh tẩy (Bài đọc II). Thánh nhân còn diễn tả: “Lãnh nhận phép Rửa, không phải để được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô”. Nhờ dòng nước tái sinh, con người cũ của chúng ta đã chết đi để nhường chỗ cho con người mới, tức là con người được ân sủng của Chúa nâng đỡ và thánh hóa. Nhờ tình thương của Chúa, nhất là nhờ ơn cứu độ của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã ký kết giao ước với con người một giao ước mới. Đây là giao ước được ký kết trong máu của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, để quy tụ muôn dân về một mối, làm thành gia đình của Thiên Chúa có Chúa Giêsu là trưởng tử.

Việc cảm nhận thân phận tội lỗi sẽ dẫn chúng ta tới sự sám hối chân thành để cầu xin ơn tha thứ của Chúa. Những thực hành đạo đức của Mùa Chay sẽ giúp chúng ta lãnh nhận ơn tha tội, được trở nên con người mới. Chúa nhật đầu tiên này của Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng vào sa mạc với Chúa Giêsu để tìm lại chính mình. Bởi lẽ, giữa biết bao bon chen giành giật của cuộc sống, nhiều khi chúng ta trở thành vong bản, tức là đánh mất bản thân, sống trong lầm lạc, không có định hướng và tương lai. Khi diễn tả Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú” trong sa mạc, Thánh Máccô giúp chúng ta liên tưởng tới khung cảnh vườn địa đàng thuở ban sơ, ở đó, mối tương quan Thiên Chúa – Con người và Tạo vật rất hài hòa êm đẹp, niềm vui và hạnh phúc luôn tràn trề viên mãn. Nếu biết sống tinh thần sa mạc giữa lòng đời, chúng ta sẽ được gặp Chúa, được tâm sự với Ngài và được Ngài hướng dẫn, giúp chúng ta bước theo đường ngay nẻo chính. Thực hành tốt những việc đạo đức của Mùa Chay (cầu nguyện, chay tịnh và bác ái) chính là sống tinh thần sa mạc, nhờ đó, chúng ta trở nên giống Chúa Giêsu, để cùng với Người đem phần rỗi cho anh chị em. Tinh thần sa mạc giúp ta có sức mạnh để chiến thắng cám dỗ đang bủa vây xung quanh chúng ta.

“Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Đó là lời rao giảng mở đầu trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Hai ngàn năm đã qua, lời kêu gọi này vẫn mang tính cấp bách. Bởi lẽ con người khước từ lời Chúa, chuộc sống gian dối hơn là sự thật; thích chiều theo lối sống thế gian hơn là hy sinh để nên trọn lành. Nhờ sám hối, chúng ta được hòa giải với Chúa và với anh chị em, để cùng nhau tiến bước trên con đường về nhà Cha, Đấng luôn yêu thương và chúc phúc cho chúng ta.

Về mục lục

CÁM DỖ

Lm. Thái Nguyên

Chúng ta bước vào Mùa Chay trải dài 40 ngày. Con số 40 trong Kinh Thánh có một ý nghĩa biểu tượng mạnh mẽ. Trước hết là nhắc nhớ  40 năm đầy thử thách của dân Israel trong sa mạc trước khi vào Đất Hứa; Luca cũng diễn tả việc Đức Giêsu cũng phải chịu thử thách và cám dỗ như là một biến cố để Ngài chuẩn bị cho sứ mạng theo kế hoạch của Thiên Chúa. 40 ngày ngôn sứ Êlia lặn lội tới núi Horeb, và ở đó ông được gặp Đức Chúa; đây cũng là thời gian hoàn toàn yên tịnh để Đức Giêsu sống với Thiên Chúa. 40 ngày Môsê chay tịnh trên núi Sinai để chờ đón nhận Giao ước, cũng là thời gian chay tịnh của Đức Giêsu để Ngài chuẩn bị trở thành Giao ước mới của Thiên Chúa với loài người. Điều đặc biệt ở đây là chính Thần Khí thúc đẩy Ngài vào hoang địa để chịu Satan cám dỗ, và Thánh Thần sẽ là Đấng điều dẫn Ngài trong mọi sự để thi hành và hoàn thành ý định cứu độ của Thiên Chúa.

Thánh Kinh đã ghi nhận từ buổi đầu sáng tạo đã có cám dỗ. Các thiên thần cũng phải đối đầu với cám dỗ, vì không vượt qua nổi nên Lucifer, một thiên thần sáng láng đã trở thành Satan tối tăm. Thụ tạo đầu tiên trong thế giới loài người là Ađam và Eva cũng đã gục ngã trước cám dỗ, nên đau khổ sự chết đã tràn vào thế gian. Trong cuộc hành trình về Đất Hứa, dân Israel đã không ngừng bị cám dỗ: cám dỗ trở lại Ai Cập làm nô lệ để có bánh ăn; cám dỗ thờ ngẫu tượng; cám dỗ thử thách Thiên Chúa. Vua Đavit cũng sa ngã trước cám dỗ sắc dục. Cám dỗ gắn liền với thân phận làm người.

Thánh Gioan Kim Khẩu đã quả quyết: “Trên đời này không ai mà không bị cám dỗ”. Người Việt Nam cũng thường nói “Con người ta, già cái lợi cái răng, nhưng ba cái lăng nhăng không già”. Cám dỗ là một điều dai dẳng và luôn lôi kéo mạnh mẽ. Chấp nhận làm người, Chúa Giêsu cũng chấp nhận đối đầu với cám dỗ, nhưng Ngài đã chiến thắng để mở đường cho chúng ta trong cuộc sống hôm nay. Là những người theo Đức Kitô trên con đường về Nước Trời, đòi chúng ta cũng phải trải qua những thử thách và thanh luyện. Thời gian 40 ngày mùa chay thật quí giá để mỗi người nhìn lại bản thân, đánh giá lại chính mình, đừng chủ quan và ảo tưởng nữa, để có thể sống theo Lời Chúa mời gọi: “Anh em phải sám hối và tin vào Tin mừng”.

Mùa chay là mùa hồi tâm để sám hối. Sám hối trước hết là trở về với Chúa. Cũng là thời gian dừng lại để nhận ra những cám dỗ đang rình rập, những cạm bẫy đang bủa vây. Nếu cuộc đời là một chuỗi những lựa chọn, thì nó cũng là một chuỗi những cám dỗ: cám dỗ nào cũng khiến ta khép kín, chỉ nghĩ đến mình và sống cho mình.

Xã hội càng văn minh tiến bộ, con người càng gặp nhiều cám dỗ: cám dỗ hưởng thụ và chiếm đoạt; cám dỗ sống tầm thường và buông thả; cám dỗ cao ngạo, háo danh và trục lợi… Bao nhiêu giác quan là bấy nhiêu cánh cửa mở ra trước cạm bẫy. Nếu đời người như cây sậy trước gió dễ ngả nghiêng, chúng ta càng phải biết nương tựa vào Chúa. Nếu người đời tôn thờ khoái lạc, xa hoa hưởng thụ, chúng ta càng phải biết chay tịnh cõi lòng. Nếu thế giới đầy hình ảnh vẩn đục, phô bày thân xác, chúng ta càng phải biết giữ gìn con mắt. Quả thật,“Kitô giáo là một trận chiến, chứ không phải là một giấc mơ.” (Wendell Philips).

Nhưng nên nhớ, chúng ta không thể chiến đấu một mình trước sự ranh mãnh và sức mạnh của Satan. Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cám dỗ bằng quyền năng Thánh Thần, bằng sức mạnh Lời Chúa, bằng sự chay tịnh và cầu nguyện. Ngài còn phải chiến đấu với cơn cám dỗ kinh khủng trong giờ phút cuối cùng, nhưng cũng đã chiến thắng, bằng cách vâng theo ý Cha để chọn chén đắng, chọn thập giá, chọn cái chết, để ý định cứu độ của Thiên Chúa được hoàn thành. Đó cũng là cách chọn lựa của chúng ta để có thể chiến thắng mọi cám dỗ. Cần sống thân tình với Chúa Giêsu, nhìn ngắm Ngài, theo gương Ngài, và nương mình theo sự tác động của Chúa Thánh Thần, để ta có được nội lực thâm hậu, hầu chiến thắng tội lỗi và vượt qua mọi cạm bẫy của ma quỉ.

Cầu nguyện

Lạy Cha!
Như Chúa Giêsu ngày xưa vào hoang mạc,
theo ánh sáng thúc đẩy của Thánh Linh,
để sống bốn mươi ngày trong cô tịch,
trong chay tịnh và kết hiệp với Cha,
để chuẩn đi ra với sứ vụ cứu đời.

Mỗi khi mùa chay tới,
con cũng được thúc giục đến một nơi,
không phải du lịch tâm linh để xả hơi,
nhưng là được kêu mời vào thinh lặng,
để trở về với Cha trong tình yêu sâu lắng,
tìm lại cân bằng và chỉnh đốn lại hướng đi.

Nhưng chính khi an tĩnh và chay tịnh,
mà Chúa Giêsu thấy mình bị cám dỗ,
con cũng thấy mình bị thách đố liên hồi,
luôn ham muốn để sống với “cái tôi”,
nên khiến đời con luôn trôi nổi,
và cám dỗ luôn kéo lôi tứ phía,
làm cuộc sống dần dà xa cách Chúa,
có nguy cơ tàn úa theo tháng ngày.

Xin cho con đôi mắt sáng của trái tim,
đừng mềm yếu để khỏi bị sa chìm,
đừng cứng cỏi và cố chấp trong suy nghĩ,
nhưng biết khiêm nhu mở ra trước chân lý,
đừng để con vô tri và ù lì trong lối sống,
nhưng luôn theo tác động của Thánh Thần.

Xin cho con biết thật tâm tu luyện,
biết ăn chay và cầu nguyện hằng ngày,
để vững mạnh trên con đường sứ mạng,
hầu đi từ thập giá đến vinh quang. Amen.

Về mục lục

GIAO ƯỚC: ÁNH SÁNG ĐỂ NHẬN RA

THẦN KHÍ THIÊN CHÚA

Jorathe Nắng Tím

Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều tường thuật biến cố Đức Giêsu chịu cám dỗ trong sa mạc, và cả ba đều bắt đầu bằng sự có mặt và hoạt động của Thần Khí Thiên Chúa, tức Chúa Thánh Thần trên Đức Giêsu : thánh Mátthêu và Máccô  dùng từ Thần Khí : “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa…” (Mc 1,12) ; “Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa” (Mt 4,1) ; riêng thánh Luca thì chọn từ Thánh Thần : “Đức Giêsu được đầy Thánh Thần.. Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu qủy cám dỗ” (Lc 4,1-2).

Để hiểu thế nào là Thần Khí, chúng ta cùng đọc tài liệu “Các loại thần khí” của tác giả Hàn Cư Sĩ được đăng trên trang mạng của Dòng Tên Việt Nam ngày 4.5.2017, một bài nghiên cứu có giá trị, mà người viết trân trọng giới thiệu cùng qúy Bạn.

Theo tác giả, “Thần khí là một năng lực vô hình mang tính thiêng liêng, vượt khỏi không gian và thời gian, một sức mạnh tự than có tính siêu phàm, tác động cả bên trong lẫn bên ngoài, có sức mạnh đẩy con người phải làm theo và có thể bị lệ thuộc hoàn toàn. Trong đời sống tâm linh, mỗi Kitô hữu có những lúc phải đối mặt với những thử thách, có thể làm đức tin của con người bị chao đảo, tê liệt hay tắt lịm. Những lúc như thế, con người rất cần phải phân định để biết rõ thần khí nào đang hoạt động nơi linh hồn.

Theo cha Jordan Anmaun o.p, các thần khí có thể được sắp thành ba loai : thần khí của Thiên Chúa, thần khí của ma qủy, thần khí của con người. Thiên Chúa luôn hướng chúng ta về điều thiện hoăc trực tiếp hoặc gián tiếp qua các nguyên nhân phụ. Ma qủy luôn xúi giục chúng ta làm điều xấu, nó hoạt động bằng sức riêng của mình hoặc qua vẻ quyến rũ của những sự vật trần thế. Thần khí của con người có thể hướng về điều xấu hoặc điều tốt, tùy theo cá nhân đó trong lẽ phải hay theo những ước muốn vị kỷ”.

Tin Mừng khẳng định Đức Giêsu được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, thúc đẩy vào hoang địa để chịu qủy cám dỗ. Như thế, mục đích của hành trình vào hoang địa là để chịu cám dỗ bởi Xatan, có biệt danh là “Tên Cám Dỗ” (Mt 4,3) : Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người mà nói : “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!” (Mt 4,3).

Khi nói với Đức Giêsu điều này, Xatan tỏ ra biết rất rõ  Đức Giêsu là Thiên Chúa. Nói cách khác, vì là thụ tạo thiêng liêng, thần khí của ma qủy không lệ thuộc không gian, thời gian, nên biết chính xác Đức Giêsu là Thiên Chúa, mà không cần phải đi tìm, hay chờ được mạc khải như loài người chúng ta. Ma qủy biết rõ Thiên Chúa, nhưng cái biết Thiên Chúa của ma qủy không là cái biết của con cái biết cha, cái biết của trái tim biết ơn, yêu mến, phụng thờ Thiên Chúa của người môn đệ. Trái lại, cái biết của ma qủy chỉ nhắm đến mục đích phá hoại công trình cứu chuộc loài người của Thiên Chúa. Đó là tình trạng của nhiều người bị thần khí ma qủy hướng dẫn, thúc đẩy đi “tìm tòi Thiên Chúa, học hỏi giáo huấn của Ngài” nhưng  không vì yêu mến và để tuân giữ, mà để bôi bác, phá hoại và làm cho nhiều người khác thù ghét, khinh mạn, bất tuân Thiên Chúa như mình.

Xatan còn dùng chính Lời Thiên Chúa trong Kinh Thánh để cám dỗ Đức Giêsu khi nói với Ngài : “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng : Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Mt 4,6). Khi trích dẫn chính xác Lời Chúa trong Kinh Thánh, ma qủy tự hào hiểu thấu đáo Kinh Thánh, thuộc lòng Kinh Thánh, rành rẽ từng câu, từng đọan Kinh Thánh, lại còn biết xử dụng Kinh Thánh đúng người đúng việc, đúng nơi đúng lúc, nhưng mục đích của kiến thức Kinh Thánh nơi ma qủy không để giúp người ta yêu mến Thiên Chúa, làm điều thiện, giúp con người sống tốt, trái lại  chúng chỉ tìm đạt một mục tiêu duy nhất là làm hư hỏng con người, đẩy con người vào mê lộ, để tự chuốc lấy bất hạnh, hư vong, và mãi mãi cho đến tận thế, ma qủy quyết tâm thực hiện cho kỳ được muc tiêu này.

Thực vậy, chúng ta đừng tưởng thần khí của ma qủy ngu dốt, đần độn, và hậu đậu, ngay ngô. Trái lại, thần khí của chúng rất tinh ranh, bén nhạy,  xảo quyệt, nhanh như chớp, biến hoá muôn hình trạng, để lôi cuốn, thu hút thần khí của con người vốn dễ chao đảo, lung lay vì dục vọng ích kỷ. Chúng ta cũng đừng lầm tưởng thần khí của ma qủy không biết gì về Lời Chúa. Bằng chứng là Xatan dã vanh vách trích dẫn Lời Thiên Chúa khi cám dỗ Con Thiên Chúa những ngày trong hoang địa.

Tóm lại, Tin Mừng chúa nhật thứ nhất Mùa Chay cho chúng ta thấy cuộc chiến gay go giữa Thần Khí của Thiên Chúa và thần khí của Xatan, nhằm thu phục thần khí của con người.

Chiêm ngắm Đức Giêsu khi vào hoang địa để chịu qủy cám dỗ, chúng ta thấy Ngài đã mang lấy tất cả những gì của con người, kể cả yếu đuối của con người trong những cơn cám dỗ dữ dội, bởi Ngài muốn trở nên như con người trong mọi sự, mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện của đời sống, ngoại trừ tội lỗi  để thông cảm với chúng ta trong vất vả chiến đấu, để thương xót chúng ta trong yếu đuối, thất bại, nhất là để dậy chúng ta phân định đâu là thần khí của Thiên Chúa, đâu là thần khí của ma qủy trong  mọi lựa chọn. Chúng ta cũng có thể nói : khi vào hoang địa để chịu  qủy cám dỗ, Ngôi Lời Thiên Chúa đã mang lấy hết nhân loại trong trái tim Ngài, đã gánh vác hết loài người trên thân xác “cảm thấy đói sau bốn mươi đêm ngày ăn chay ròng rã” (Mt 4,2) của Ngài, để cùng con người chiến đấu, và dậy con người chiến đấu với thần khí của ma qủy.

Ngài muốn mỗi người cũng như Ngài được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trên mọi nẻo đường, cùng được đầy ơn Thánh Thần như Ngài ở mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh vui buồn, hạnh thông, thử thách, mạnh dạn, yếu đuối, thất bại thành công.

Ngài muốn mỗi người cũng như Ngài  dựa vào Lời Chúa để phân định trái phải, xấu tốt, với một trái tim gắn bó với Thần Khí của Thiên Chúa, Thần Khí ấy luôn hướng tâm hồn mỗi người về điều thiện trong tinh thần tự do của con cái Chúa, với ước muốn đi theo Đức Giêsu và thực hiện tình yêu vô vị lợi đối với mọi người.

Ngài bảo đảm : Thần Khí Thiên Chúa luôn mang lại cho chúng ta : “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22-23), là hoa trái của Thánh Thần Tình Yêu.

Nhưng quan trọng hơn cả, Đức Giêsu dậy chúng ta chọn lựa giữa các thần khí, bằng nhớ lại “Giao Ước Thiên Chúa đã ký kết với chúng ta”, bởi chỉ quy chiếu vào Giao Ước khi bị ma qủy, thế gian cám dỗ, chúng ta mới kiên định ở lại trong Chúa, kiên tâm đi theo Chúa, kiên quyết nhận Chúa là Lẽ Sống, Gia Nghiệp đời đời.

Thực vậy, khi bị ma qủy cám dỗ, Đức Giêsu đã không chỉ lấy Lời Thiên Chúa để giập tắt lửa kiêu căng, tham vọng ma qủy đốt lên cám dỗ Ngài, mà còn bám chặt vào Giao Ước giữa Ngài với Chúa Cha, khi cho Xatan biết Ngài đến để thi hành Thánh Ý Chúa Cha như người con hiếu thảo, như người tôi tớ trung thành, chứ không như đối thủ kiêu căng, ngạo mạn, và thụ tạo vô ơn, phản bội của Thiên Chúa như chúng. Bằng chứng là trong cả ba câu trả lời của Đức Giêsu, Ngài đều xác định và tuyên xưng : Thiên Chúa là Thiên Chúa của Ngài, và Ngài tuyệt đối tin tưởng, yêu mến, phụng thờ và tuân phục : “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi léơi từ miệng Thiên Chúa phán ra”, “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”, “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4,4.7.10).

Cũng như ông Noê đã nhận ra Thần Khí của Thiên Chúa trong trận hồng thủy tiêu diệt loài người, trừ tám người thuộc gia đình ông, qua cầu vồng là dấu  hiệu của Giao Ước Thiên Chúa thiết lập với ông : “Ta lập giao ước của Ta với các ngươi : mọi xác phàm sẽ không còn bị nước hồng thủy hủy diệt, và cũng sẽ không còn có hồng thủy để tàn phá mặt đất nữa”,“Ta gác cây cung của Ta lên mây, và đó sẽ là dấu hiệu giao ước của Ta với cõi đất… Cây cung sẽ ở trong mây. Ta sẽ nhìn nó để nhớ lại giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa với mọi sinh vật, nghiã là với mọi xác phàm trên mặt đất” (St 9,11.13.16). Cây cung Thiên Chuá gác trên mây đây chính là cầu vồng nối đất với Trời.

Với chúng ta hôm nay, giữa một  thế giới đang bị thần khí ma qủy khuynh đảo, chúng ta rất cần ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần để phân định  thần khí nào là Thần Khí của Thiên Chúa, thần khí nào là thần khí của ma qủy, thế gian. Và để phân định, Đức Giêsu dậy chúng ta quy hướng và bám chặt vào Giao Ước mà mỗi người tín hữu đã ký kết với Thiên Chúa khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, giao ước mà thánh Tông Đồ trưởng Phêrô đã qủang diễn trong thư của ngài : “Lãnh nhận phép rửa, không phải là được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời…” (1P3,21-22).

Một cách cụ thể, người Kitô hữu được đi vào Giao Ước vĩnh cửu với Thiên Chúa qua bí tích  rửa tội,  để trở thành chi thể của Thân Thể mầu nhiệm Đức Kitô là Giáo Hội. Chính Giáo Hội là dấu hiệu của Giao Ước giữa mỗi người Kitô hữu với Đức Giêsu Thiên Chúa, và nhờ dấu hiệu của Giao Ước là Bí Tích Giáo Hội, chúng ta không lạc lối, lầm đường khi bị thần khí ma qủy, thế gian  cám dỗ, bởi Thần Khí Thiên Chúa luôn có mặt và hoạt động trong Giáo Hội của Đức Giêsu.

Mùa Chay là mùa Trở Về, nhưng đường về chỉ thực sự được mở ra và chúng ta chỉ có thể lên đường dưới sự hướng dẫn, thúc đẩy của Thần Khí Thiên Chúa, mà Thần Khí Thiên Chúa luôn đợi chờ chúng ta ở trong Giáo Hội là Nhà của Thiên Chúa giữa con người, là Hiền Thê yêu dấu, và Thân Thể của Đức Giêsu Kitô, Đấng chúng ta yêu mến, tôn thờ, phụng sự.

Về mục lục

CÁM DỖ LÀ GÌ?

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Từ xa xưa cha ông ta đã sử dụng 2 từ cám dỗ, và cho đến hôm nay, chúng ta vẫn tiếp tục sử dụng nó như một tiếp nối của truyền thống. Cám dỗ là sự lôi kéo thúc dục, khơi gợi lòng ham muốn của con người và khiến họ thực hiện một điều gì đó sai trái, sa ngã vào nó. Cám dỗ cũng có thể hiểu là một hiện tượng nổi lên trong cuộc sống khiến bạn chạy theo nó mà không nghĩ đến hậu quả sau này.

Và như vậy, cám dỗ là một phần trong cuộc sống, cám dỗ là gia vị cho cuộc sống mình. Dùng gia vị không đúng thì cuộc sống chua cay bất hạnh. Biềt điều tiết gia vị thì cuộc sống có hương vị tốt hơn.

Như trong tình yêu luôn có cám dỗ mời gọi con người phản bội với người mình yêu. Nếu biết dừng đúng lúc thì tình yêu càng hạnh phúc hơn, người được yêu càng tin tưởng hơn. Ngược lại, nếu đã từng nếm thử sự cám dỗ của phản bội, người ta mới thấy sự hổ thẹn, và tình yêu trở thành bất hạnh cho tất cả những người liên quan.

Cám dỗ luôn dẫn dụ chúng ta nổi loạn để sống theo ý thích của mình, nó kích thíc dục vọng khiến con người vì ham muốn hưởng thụ mà bất chấp hậu quả và ngay cả bất chấp luật pháp và luân thường đạo lý.

Thông thường ta thấy có những cám dỗ như sau:

Có người bị cám dỗ bởi tham lam. Lòng tham thường không đáy. Lòng tham luôn tìm cách mở rộng lãnh địa để chiếm lĩnh mọi sự về mình. Sự cám dỗ của lòng tham đã gây nên biết bao đau thương cho nhân thế qua nhiều thế hệ bởi tranh giành, chiếm đoạt có khi dẫn đến chiến tranh điêu tàn, cướp phá đói nghèo. . .

Có người bị cám dỗ luôn cho mình hơn người khác nên dễ tức giận và nổi nóng. Nổi nóng quạt nạt khi người khác sai. Đây cũng là biểu hiện của sự kiêu căng. Kiêu căng đi đến thái quá sẽ tìm mọi cách để hơn người khác bằng sự đê tiện bỉ ổi như vu khống và gian lận.

Con người luôn đối diện với cám dỗ, nhưng người bị cám dỗ thì không xấu nếu biết kiểm soát cám dỗ để luôn đi theo luân thường đạo lý. Nếu con người biết tự chủ trước cám dỗ thì chính cám dỗ lại là động lực để mình sống tốt hơn và thánh thiện hơn.

Bài phúc âm hôm nay, thánh Marco nói về việc Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Ma qủy đã tìm cách lôi kéo Chuá Giêsu quay lưng lại với Chuá Cha. Từ khước sống vâng phục thánh ý Chúa để được thoả mãn cái bụng của mình. Nó hướng mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy từ những hòn đất hòn đá cũng biến thành của ăn, từ sỏi đá cũng thành cơm, mà vượt xa hơn nữa là nắm gọn trong tay thiên hạ, kẻ hầu người hạ và thừa hưởng mọi vinh hoa lợi lộc trần gian.

Chúa Giê-su không những đã khước từ những lời mời mọc của ma quỷ và còn cho ma qủy nhận ra rằng không có gì cao qúy hơn là được sống trong tình nghĩa với Thiên Chúa, sống trong sự quy phục Thiên Chúa, vì người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.

Những cám dỗ mà ma qủy tuy đã thất bại với Chúa Giêsu nhưng nó vẫn dung con mồi này để quyến rũ chúng ta là: danh vọng, tiền tài, địa vị, thú vui xác thịt. Kết quả là nhiều người vì ham tiền, ham lợi lộc đã trở thành tay sai cho ma qủy, không chỉ mình làm điều ác mà còn lôi kéo, dẫn dụ nhiều người khác đi vào con đường tội lỗi. Ma qủy đã thành công khi sai khiến chúng ta làm sự dữ, là những điều trái với luân thường đạo lý như: trộm cắp, đánh nhau, hận thù ghen ghét, tự cao tự đại .. . Đó là những mối tội đầu đã gây nên biết bao đau khổ cho chính mình và những người chung quanh.

Ở khởi đầu mùa chay khi cho chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu bị ma qủy cám dỗ, Giáo hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của mình và sức mạnh của sự dữ, của ma qủy luôn rình rập để lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa, đi trong tối tăm của đam mê lầm lạc. Vì thế, chúng ta cần nhận ra sự giới hạn của kiếp người để nhờ ơn Chúa giúp mới chiến thắng cám dỗ và trung thành với Chúa. Amen

Về mục lục

CÙNG CHÚA GIÊSU LÊN GIÊRUSALEM

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

Lễ Tro khai mạc Mùa Chay Thánh, đánh dấu 40 ngày (không kể ngày Chúa nhật) chuẩn bị đến lễ Phục Sinh.

40 ngày Chay Thánh

Trong Kinh Thánh, con số 40 ngày là một khoảng thời gian chờ đợi, một quá trình, tượng trưng cho việc chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa. Số 40 còn diễn tả hành trình trong sa mạc trên đường về Đất hứa của Dân Do thái kéo dài 40 năm. Ông Môisen đã ở trên núi Chúa 40 ngày (x. Xh 24, 18; 34,28). Những người trinh sát đã ở trong vùng đấy 40 ngày (x. Ds 13, 25). Elia đã đi 40 ngày trước khi tới được hang ở đó Ngài được thị kiến (x. 1V 19, 8). Ninivê đã được cho 40 ngày để sám hối (x. Gn 3, 4). Và quan trọng nhất là Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy vào trong hoang địa 40 ngày để ăn chay cầu nguyện trước khi thi hành sứ vụ công khai (x. Mt 4,2).

Như vậy, 40 ngày chay thánh gợi cho chúng ta nhớ lại 40 năm hành trình trong sa mạc của dân Do Thái, 40 ngày trong hoang địa của Chúa Giêsu. Con số 40 ngày, là thời gian đi vào hoang địa của cõi lòng, thinh lặng để chuẩn bị gặp gỡ Chúa. Đây là thời gian phụng vụ cao điểm thuận tiện thích hợp cho các kitô hữu noi gương Đức Kitô dùng 40 ngày để ăn năn đền tội và dấn thân phục vụ anh chị em. Và bằng 40 ngày long trọng của Mùa Chay, mỗi người được liên kết mật thiết hơn với các Mầu Nhiệm của Chúa Giêsu, Đấng đang tiến đến cái chết và sự sống lại.

40 ngày Chúa Giêsu trải qua trong hoang địa

Sau khi chịu phép rửa nơi sông Giordan “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với các dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Người” (Mc 1,12-13).

Với những lời trên cho thấy, trước khi khai mào sứ vụ cứu thế, Chúa Giêsu đương đầu “giáp lá cà” với Satan trong 40 ngày cô tịch, một khoảng thời gian đầy thử thách. Nhưng Chúa Giêsu đã đã chiến thắng khi vạch trần Tên Cám Dỗ, đem lại cho chúng niềm tin, tình yêu và niềm hy vọng để chiến thắng trong cuộc sống đầy những cám dỗ hàng ngày bủa vây quanh chúng ta.

Satan là kẻ thù lớn nhất của chúng ta. Nó đã cám dỗ Chúa Giêsu đi khác đường lối của Chúa Cha, giống như con rắn xưa đã cám dỗ Ađam và Evà. Chúa Giêsu đã bị cám dỗ bất tuân lệnh truyền của Chúa Cha, Người đã chống trả quyết liệt và đã vâng phục cho đến chết. Chúa Giêsu đã dựa vào Lời Chúa và sức mạnh của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần để chiến đấu. Người đã chiến thắng, ma quỷ đã phải rút lui, và các các thiên sứ đến hầu hạ Người (x. Mc 1,13). Những quỉ kế mà Satan dùng để cám dỗ Chúa Giêsu, cũng là những cách hắn dùng để cám dỗ chúng ta ngày hôm nay. Noi gương Chúa Giêsu chúng ta sống triệt để Lời Chúa dạy.

Theo Chúa lên Giêrusalem

Chủ đề sứ điệp Mùa Chay năm 2021 này là: “Này chúng ta lên Giêrusalem” (Mt 20,18). Mùa Chay: Thời gian làm tươi mới Niềm tin, Hy vọng và Tình yêu.

Bước vào Mùa Chay 2021, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta cùng lên Giêrusalem với Chúa trong niềm tin, yêu, và hy vọng mới. Đức Thánh Cha viết: “Mỗi giây phút của cuộc đời đều là thời gian để chúng ta tin tưởng, hy vọng và yêu thương. Lời kêu gọi sống Mùa Chay như hành trình hoán cải, cầu nguyện và làm phúc, giúp cho niềm tin đến từ Chúa Kitô hằng sống, niềm hy vọng được cảm hứng do hơi thở của Chúa Thánh Thần và tình yêu chảy tràn từ trái tim nhân hậu của Chúa Cha được sống động trở lại nơi cộng đồng và cá nhân mỗi người chúng ta” (Trích sứ điệp Mùa Chay 2021).

Vậy chúng ta bước vào Mùa Chay với một thái độ như thế nào? Chúng ta chuẩn bị ra làm sao để cho việc cử hành Mầu Nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đạt được nhiều ý nghĩa và sinh ích lợi cho đời sống chúng ta? Nói khác đi, chúng ta lên Giêrusalem với Chúa bằng tâm tình nào, vui hay buồn, hy vọng hay thất vọng, yêu thương hay hận thù?

Hướng về lễ Phục Sinh, cuộc chiến thắng chung kết của Chúa Giêsu chống lại Ma Quỷ, chống lại tội lỗi và chống lại sự chết là ý nghĩa Chúa Nhật thứ I Mùa Chay. Chúng ta nhất quyết bước theo Chúa Giêsu trên con đường dẫn đến sự sống, theo Chúa tiến qua hoang địa của lòng ta. Nơi đây, ta có thể lắng nghe tiếng Thiên Chúa và cũng nghe thấy cả tiếng nói của Tên Cám Dỗ.

Nơi hoang địa, giúp chúng ta chống lại những điều trần tục, giúp chúng ta đi tới những chọn lựa can đảm phù hợp với Tin Mừng và củng cố tình liên đới với anh chị em chúng ta.

Theo Chúa Giêsu vào hoang địa. Chúng ta có Chúa Giêsu, Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Ðúng hơn, Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn chúng ta từng bước trong Mùa Chay này.

Chúng ta cầu xin Ðức Trinh Nữ Maria và Thánh Giuse trợ giúp, để chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa Giêsu và sửa chữa những khuyết điểm để đương đầu với những cám dỗ hằng ngày tấn công chúng ta.

Về mục lục

THIÊN CHÚA ĐƠN PHƯƠNG TỎ TÌNH VỚI CON NGƯỜI

Lm. Giuse Lê Danh Tường

Thiên, địa, nhân hay Trời, đất, và con người mang một mối dây liên kết kỳ diệu. Một khi Thiên thời địa lợi nhân hòa thì mọi sự hanh thông. Con người được đặt để giữa trời và đất: đầu đội trời, chân đạp đất. Ông Trời đã tác tạo nên con người và làm mọi sự cho con người. Ông Trời cũng dựng nên đất để đất phục vụ con người. Trời và đất luôn nặng tình với con người. Mùa Chay về, chúng ta cùng ngồi lại ngẫm về tình Trời với người. Trong Chúa nhật thứ nhất này, Sách Thánh bộc lộ một cuộc tình đơn phương của Thiên Chúa với con người.

Đơn phương tỏ tình

Bài đọc thứ nhất trích từ sách Sáng Thế (St 9, 8-15) là trình thuật về việc Thiên Chúa ký kết với ông Noe sau trận Đại Hồng Thủy. Gọi là ký kết, nhưng thực ra chỉ có một mình Thiên Chúa đơn phương kết ước với ông Noe cũng như với toàn thể sinh vật trên mặt đất. Ông Noe đã chẳng nói gì, chẳng thề hứa gì với Chúa. Còn Thiên Chúa thì hứa bảo vệ ông cũng như mọi loài: “Ðây Ta ký kết giao ước của Ta với các ngươi và con cháu các ngươi, với tất cả sinh vật đang sống với các ngươi…: nước lụt không còn tiêu diệt mọi loài nữa, cũng không khi nào còn lụt tàn phá trái đất nữa”.

Không những Chúa đã tự đưa ra lời hứa mà còn đặt để một dấu chỉ để không quên lời kết ước: “Ta sẽ đặt trên trời một cái mống, và nó sẽ là dấu chỉ giao ước giữa Ta với trái đất. Khi Ta quy tụ mây lại trên trời, mống sẽ xuất hiện trên mây, và Ta sẽ nhớ lại giao ước đã ký kết giữa Ta với các ngươi và mọi sinh vật”.

Từ ngày con người phạm tội, muốn ngoi lên bằng Trời thì con người đã trở nên sa đọa. Nó không còn được sống trong cảnh thái bình của vườn Địa Đàng nữa. Con người lang thang vô định và ngày càng trở nên tồi tệ, tội lỗi lan tràn khắp mặt đất. Lụt Hồng thủy là phương thế để Chúa Cả trời đất dùng mà tẩy xóa tội lỗi của con người. Nhưng cho dù thế nào, Thiên Chúa vẫn giữ lại dòng giống loài người, giữ lại gia đình ông Noe. Với số sót ấy, Thiên Chúa gầy dựng lại dân của Ngài.

Cho dù con người đã chống lại Ngài, nhưng Thiên Chúa đã không tận diệt con người. Ngài vẫn âm thầm, lẽo đẽo đi theo con người, tìm cách giúp đỡ con người. Ta chỉ có thể cắt nghĩa hành vi ấy là vì tình yêu. Chỉ có thể là vì yêu con người thì Chúa mới làm như vậy. Mà quả thực, Thiên Chúa đã mặc khải rất rõ cho con người trong Tin mừng Gioan “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).

Với việc ký kết với ông Noel, Thiên Chúa đã tỏ tình với con người; Với hình ảnh cầu vồng làm dấu chỉ để hằng nhắc lại lời kết ước, Thiên Chúa đã đặt nơi con người nguồn hy vọng lớn lao; Việc con người im lặng trong nghi lễ kết ước càng làm cho Thiên Chúa hiện lên với hình ảnh đơn độc, hình ảnh của một người tình đơn phương đang bị người mình yêu ngó lơ.

Hiện thực hóa lời hứa

Dọc theo chiều dài của Cựu Ước là hành trình Thiên Chúa tìm đến với con người. Bước sang Tân Ước, với sự hiện diện của chính Thiên Chúa trong thân phận một con người, chúng ta được chiêm ngắm hiện thực của tất cả những lời hứa của Chúa trong Cựu Ước.

Bài Tin mừng theo thánh Marco trong Chúa nhật này (Mc 1, 12-15) là trình thuật về việc Chúa Giêsu ở trong sa mạc 40 ngày.

Hình ảnh sa mạc với con số 40 gợi lại khung cảnh dân Do thái đi trong sa mạc suốt 40 năm. Chính 40 năm trong sa mạc là thời gian dân cảm nếm lòng trung thành và sự yêu thương dìu dắt của Thiên Chúa đối với họ. Nhưng cũng nơi ấy đã chứng kiến biết bao lần dân xa ngã trước cám dỗ, bao lần rời bỏ Thiên Chúa, bao lần phản bội Đấng hằng yêu họ hết lòng.

Trước khi công khai rao giảng về Trời, Đức Giêsu đã ở trong sa mạc 40 ngày. Ngài đã cảm nếm mọi cung bậc tình cảm của con người trong sa mạc 40 năm xưa kia với sự khắt khe của thiếu thốn, sự cám dỗ của ma quỷ, sự rình rập của thú dữ. Nhưng với sự xuất hiện của các thiên thần đến hầu hạ Ngài ở cuối trình thuật đã khiến ta gợi nhớ đến một khung cảnh khác. Nó không còn là sự ô nhục của cảnh xa ngã và phản bội, nhưng là cảnh thái bình mà tiên tri Isaia đã tiên báo về khung cảnh ngày cứu độ: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ.” (Is 11,6).

Ngày mà Thiên Chúa công khai ngỏ lời với con người qua chính Ngôi Lời làm người, Thánh Marco đặt để Đức Giêsu trong một khung cảnh cô đơn thực sự. Chúa Giêsu đã đơn thân một mình trong sa mạc. Một Thiên Chúa xuống thế làm người để ngỏ lời với con người, để tỏ tình với con người. Nhưng ngày ngỏ lời lần đầu công khai ấy sao cô đơn vắng lặng một tình yêu đơn phương.

Ngẫm

Hỏi tại sao Thiên Chúa yêu con người. Khi hỏi như vậy dường như tôi đã xúc phạm đến chính Ngài. Làm sao tôi có thể hiểu được tại sao Thiên Chúa yêu con người. Nếu như tôi cố tình tìm câu trả lời thì chính khi tôi trả lời là tôi đã khuôn đúc tình yêu của Ngài vào một cái khuôn cứng nhắc của lý trí. Tình yêu không phải là những phạm trù của lý trí. Nó là những rung cảm của những thớ thịt nóng bỏng của một trái tim đang sống. Khi lý giải tình yêu là tôi không còn coi tình yêu ấy mang đầy sức sống.

Thánh Gioan tông đồ là người được mô tả đã gục đầu vào ngực Chúa trong bữa Ăn cuối cùng; Là người được gọi là “Người môn đệ Chúa yêu”; Và cũng là người môn đệ duy nhất được nhắc đến dưới chân cây Thập tự. Ngài đã cảm nhận tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mình, một Thiên chúa trong hiện thân là chính Đức Giêsu. Chính ngài đã chốt hạ cho chúng ta câu trả lời tại sao Thiên Chúa lại yêu con người. Câu trả lời đơn giản là: Bởi “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,16).

Lạy Chúa, khi dừng lại suy tư con nhận biết Chúa đã yêu con. Chúa đã yêu con từ ngàn đời xa trước. Nhưng vì quá đam mê trần thế, vì quá ham vui thế gian nên trái tim con thường xuyên loạn nhịp rời xa nhịp đập với trái tim Ngài. Xin Chúa hãy ôm ghì lấy con, cho con được cảm nếm tình yêu của Ngài, để trái tim con luôn hòa cùng nhịp đập với tình yêu nồng nàn trong trái tim Tình Yêu viên mãn.

Về mục lục

SỨC MẠNH ĐỂ CHIẾN THẮNG CÁM DỖ

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Trước khi bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu được Thánh Thần thúc đẩy đi vào hoang địa. Sau bốn mươi đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Người cảm thấy đói. Satan xuất hiện, mon men lại gần để cám dỗ. Chúa đã chiến thắng Satan bằng sức mạnh Thánh Thần và Lời Thiên Chúa.

  1. Ba cơn cám dỗ

– Cơn cám dỗ thứ nhất phát xuất từ cái đói. Ma quỷ gợi ý cho Chúa Giêsu “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi” (Mt 4,3). Cơn cám dỗ về bánh nói lên ước muốn căn bản nhất là bản năng sinh tồn của con người. Thân xác với những khát khao thèm muốn luôn đòi hỏi phải được nuôi nấng, chiều chuộng và vỗ về.

– Trong cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ đưa Chúa Giêsu lên thượng đỉnh đền thờ và nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống coi! Bởi đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Mt 4,5). Ma quỷ dùng Tv 91,11 để gợi ý cho Chúa Giêsu nhảy từ nóc đền thờ xuống, xem Thiên Chúa có biểu lộ quyền năng của Người hay không. Cám dỗ thách đố Thiên Chúa biểu lộ quyền năng để tìm vinh quang cá nhân. Đó là bản năng đối kháng lại những giới hạn của cuộc sống nhân sinh. Con người thường muốn quên đi những điều kiện sinh sống giới hạn của mình. Họ muốn cất cánh bay lên cõi thần tiên bằng men rượu, ma túy, lạc thú…

– Trong cơn cám dỗ thứ ba, ma quỷ đem Chúa Giêsu lên một ngọn núi cao và chỉ cho Người thấy các nước thiên hạ và các thứ phú quý, rồi nói: “Tôi sẽ cho ông tất cả những cái ấy, nếu ông sấp mình thờ lạy tôi…” (Mt 4,9). Một cơn cám dỗ đã hằng theo đuổi dân Israel, chẳng những trong thời gian hành trình sa mạc mà cả khi định cư trên đất Palestina. Đó là thờ lạy các tà thần mong được giàu sang, quyền thế, có khả năng thống trị các quốc gia khác. Bản năng thống trị, cái “ý chí quyền lực” nằm sẵn trong mỗi một con người. Người ta thường muốn cai trị và sai khiến những người yếu hơn mình. Xưa dân Do thái đã tạc tượng bò vàng và thờ lạy nó. Ngày nay, ngẫu tượng hay bò vàng chính là tiền tài, danh vọng, lạc thú, vật chất, tiện nghi, sắc dục.

Ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu đều đã bắt đầu bằng chữ “nếu”. Chúng khởi sự bằng một lý luận với những lý do có vẻ chính đáng, hợp lý và đáng ao ước để tấn công vào những đòi hỏi của bản năng con người Giêsu.

Tuy là ba cơn cám dỗ, nhưng vẫn chỉ là một. Bởi trọng tâm của vấn đề chính là gieo rắc sự khủng hoảng của niềm tin. Chúa Giêsu bị cám dỗ nghi ngờ về căn tính Con Thiên Chúa của chính mình. Cả ba Phúc âm Mátthêu, Máccô, Luca đều mô tả cơn cám dỗ ngay sau khi Chúa chịu phép Rửa ở sông Giođan, và có tiếng từ trời phán “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3.17). Ma qủy cám dỗ Chúa Giêsu quay lưng lại với sứ mạng đã nhận từ nơi Chúa Cha (GLTC #394).

Cơn cám dỗ Chúa Giêsu cũng giống như cơn cám dỗ của Ađam và Eva trong bài đọc một (St 2,7-9;3,1-7). Ma qủy gieo sự nghi ngờ và mất niềm tin nơi những kẻ được gọi là con cái Thiên Chúa. Qua bản năng ăn uống thèm khát của thể xác, nó khơi dậy bản năng phản kháng bất tuân lệnh Chúa và sau cùng, con người sa ngã ở “ý chí quyền lực”, bản năng đòi bá chủ và thống trị vì muốn ngang hàng với Thiên Chúa.

Thụ tạo đầu tiên trong hàng các thiên thần đối diện với cám dỗ là Lucifer. Không vượt qua được cơn cám dỗ, Lucifer đã trở thành Satan.

Thụ tạo đầu tiên trong con người là Ađam và Evà cũng đã nếm mùi cám dỗ. Và hai Nguyên Tổ này cũng đã gục ngã thảm thương trước cám dỗ.

Như vậy cám dỗ là một cái gì hết sức mạnh mẽ, hết sức lôi cuốn, và rất khó chống cự.

Chúa Giêsu sau khi đã trải qua những cám dỗ và thắng các cám dỗ cũng thấy được điều này, nên Người đã dạy các môn đệ không được coi thường bằng cách dựa vào sức lực, tài trí, và khả năng của riêng mình. Người dạy phải cầu nguyện và xin ơn Chúa Thánh Thần: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Nhưng cứu chúng con khỏi sự dữ”.

  1. Sức mạnh nào giúp vượt thắng cám dỗ?

Cả ba Phúc Âm đều đề cập đến một chi tiết rất thú vị, đó là Chúa Giêsu không đi vào hoang địa một mình, nhưng mà Người đi cùng với Chúa Thánh Thần.

– “Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ” (Mt 4,1)

– “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (Mc 1,12-13).

– “Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ” (Lc 4,1-2).

Khi vào hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và Lời của Thiên Chúa để đối đáp với ma quỷ và đã chiến thắng.

Khi chúng ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của Satan, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Chúa Giêsu mà còn cần đến Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta.

Cần phải cầu nguyện (Lc 22,40; Cv 2,42; LGTC #2612,2742). Nhờ cầu nguyện, Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn” (Mt 4,1). Nhờ cầu nguyện chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thánh Thần và với các thánh trên trời.

Vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan trọng trong đời sống của chúng ta. Những lúc bị cám dỗ, những khi sống trong cô đơn, buồn chán và thất vọng…hãy cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh Thần xin ơn phù trợ. Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều” (Ga 14,26).

  1. Cầu khẩn và kêu xin Chúa Thánh Thần bằng cách nào?

– Khi thằng quỷ dâm ô xúi tôi mở những emails lạ, dụ dỗ tôi tò mò đi vào những websites của Trư Bát Giới… Tôi phải mau mắn và thành tâm xin Chúa Thánh Thần soi lòng mở trí để tôi nhận ra rằng: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục (Mt 5,28-29).

– Khi thằng quỷ gian dối xúi tôi nói dóc, nói xạo, nói quanh co, nói sai sự thật, lừa bịp thiên hạ … tôi phải lập tức xin Chúa Thánh Thần ban ơn khôn ngoan để tôi có thể nhớ lời của Chúa Giêsu phán dạy tôi rằng: “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không.’ Thêm thắt điều gì là do ác quỷ mà ra!” (Mt 5,37).

– Khi thằng quỷ kiêu căng, ngạo mạn xúi tôi phê bình chỉ trích người này, xét đoán người kia, lên án người nọ … thì tôi phải lập tức xin Chúa Thánh Thần giúp tôi nhớ rằng: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án” (Lc 6,37).

– Khi bị thằng quỷ dâm ô xúi tôi ly dị, bỏ chồng, phụ vợ, làm giấy ly dị giả … tôi phải cầu xin với Chúa Thánh Thần ngay để Ngài giúp cho tôi hiểu rằng “[Tôi và người bạn đời của tôi] không còn là hai [nữa], nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,8-9).

– Khi thằng quỷ kiêu căng xúi tôi khoe khoang, tự kiêu tự đại … thì tôi xin Chúa Thánh Thần nhắc nhở cho tôi rằng: “Kiêu hãnh đi liền với ô nhục … kiêu căng đưa đến sụp đổ, ngạo mạn dẫn đến té nhào” (Cn 11,2; 16,18).

– Khi thằng quỷ giận hờn xúi tôi giận người này, ghét người kia, thù người nọ … thì tôi phải cần đến sự trợ lực của Chúa Thánh Thần, xin Ngài soi sáng để tôi hiểu rằng: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt (Mt 5,22).

– Khi thằng quỷ dâm dục xúi bẩy tôi đi ngoại tình, ăn chơi trác táng, quan hệ bừa bãi … tôi phải van nài Chúa Thánh Thần, xin Ngài nhắc nhở cho tôi nhớ rằng: “Thân xác [của con] là Đền Thờ của [Ta đấy nhé! Chớ có làm cho nó ra ô uế!]” (1 Cr 6,19).

Sau khi chịu phép Rửa tội để trở nên một Kitô hữu, chúng ta dấn thân vào đời với nhiều thử thách của niềm tin, phải chịu nhiều cám dỗ của phận người lữ thứ. Nếu chúng ta tin rằng “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta” (Tt 3,6) thì hãy vững tâm và tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ không bao giờ xa rời chúng ta đâu! Điều quan trọng là chúng ta có thánh tâm để cầu xin và nhờ cậy Ngài, hay là không thôi!

Hãy tin tưởng và trông cậy vào Chúa Thánh Thần. Bảy hồng ân của Chúa Thánh Thần luôn trao ban cho người: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn nhận thức, ơn chỉ bảo, ơn dũng mạnh, ơn thánh thiện và ơn kính sợ Thiên Chúa.

Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận ơn Chúa Thánh Thần và hăng hái cộng tác với chương trình của Ngài, nhờ đó “Hoa trái của Thần Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22-23) sẽ tràn đầy trong tâm hồn và đời sống của chúng ta.

Việc gặp gỡ Chúa Thánh Thần rất dễ dàng. Chỉ cần hồi tâm lại, ý thức Ngài đang hiện diện ngay trong bản thân mình, và muốn được tan hòa vào trong Ngài. Chúa Thánh Thần sẽ mở tung cánh cửa ích kỷ. Ngài sẽ phá tan cánh cửa hẹp hòi. Ngài sẽ ban thêm sức mạnh. Ngài sẽ quét sạch mọi lớp bụi bặm rêu phong. Ngài sẽ đổ tràn vào hồn chúng ta nguồn sống mới giúp chúng ta chiến thắng mọi cám dỗ và hăng hái lên đường.

Về mục lục

THAO LUYỆN

Lm Vũđình Tường

Samạc là hầm mỏ của hiểm nguy. Tai vạ tràn lan, vận may khan hiếm. Cuộc sống samạc bị thử thách tận tâm can. Những ai chịu cực, chịu khổ được một thời gian dài trong samạc được coi như người có í chí sắt đá, bền gan, kiên tâm, bền chí trong trường đời. Đại đa số trong chúng ta khi cuộc sống gặp khó khăn, nghịch cảnh, cách thông thường là tháo lui, chạy trốn, mong được an toàn, tồn tại, sống sót. Chúng ta coi nhẹ cân nhắc hơn thiệt, lợi hại người khác trong chọn lựa, và không ngại chọn ngay cả việc làm bất lợi, điều xấu, điều tệ miễn là giảm bớt hoàn cảnh cơ cực chính mình đang trải qua. Đau khổ, khó khăn, sợ hãi là những yếu tố làm nhụt í chí phấn đấu. Tệ hại nhất là không lượng được sức mạnh bản thân, tự tin vào khôn ngoan cá nhân. Phấn đấu không dựa vào sức mạnh Thiên Chúa. Bất cứ hành động, quyết định lớn nhỏ nào, sức mạnh Thiên Chúa là thứ yếu; hành động đó, quyết định đó đều sai lầm. Cái lợi ngay lúc đó, lợi trước mắt làm lu mờ, che khuất thấy cái hại khổng lồ trong tương lai. Nguy hiểm hơn cả khi vấn đề đó hại đức tin. Hại niềm tin đi chung với hại sự sống vĩnh cửu. Đức Kitô chọn đối đầu với nghịch cảnh. Thay vì đầu hàng, Đức Kitô đối chọi nghịch cảnh mong tìm phương thế thi hành thánh í Chúa Cha.

Đức Kitô sống bốn mươi ngày trong samạc. Con số ‘bốn mươi’ cho biết nghịch cảnh nào cũng có điểm khởi hành và điểm kết. Thử thách nào cũng có đoạn kết. Samạc đời người cũng như samạc tâm linh đều có điểm kết. Khi đối diện với samạc tâm linh, thay vì than thân, trách phận, than khóc, vật vã, so sánh; hãy dùng thời gian đó củng cố niềm tin, tịnh dưỡng, tăng sức cho ơn gọi. Biến nghịch cảnh thành cơ hội thuận tiện cho việc củng cố tâm linh.

Trước khi bước vào cuộc sống rao giảng, Thánh Thần Chúa dẫn Đức Kitô vào hoang địa. Nơi đó Đức Kitô sống qua nghịch cảnh để nhận biết khả năng mạnh yếu khi thân xác đối diện với nghịch cảnh. Đây cũng là thời gian ước định sức mạnh tâm linh. Samạc là đấu trường khắc nghiệt không biên giới, không thời gian. Ngày cũng như đêm, cần đề phòng, chuẩn bị, sẵn sàng chống lại tấn công bất cứ khi nào nó đến. Sống sót khỏi nanh vuốt ban ngày, chưa chắc đã thoát nọc độc ban đêm. Ngoài sức nóng rát mặt ban ngày, cơn lạnh căng da về đêm, còn phải chịu cảnh thực phẩm khan hiếm, nước uống hạn chế; bệnh không thuốc, thương tật không băng bó. Tất cả những điều trên ảnh hưởng rất nhiều đến sức khoẻ. Mệt mỏi, lo lắng, bất an đều làm cho cơ thể rã rời. Tỉnh thức cầu nguyện lúc bình thường đã khó, nói chi đến tỉnh thức, yên tâm cầu nguyện khi cơ thể rã rời. Đức kitô đã trải qua hoàn cảnh này. Kinh nghiệm Ngài sống nơi samạc giúp ích rất nhiều trong chiến trường tâm linh, chống lại sức mạnh ác thần. Đức Kitô vào hoang địa với một mục đích duy nhất, suy gẫm về sứ mạng cứu thế của Ngài. Đó là hoàn thành thánh í Chúa Cha, giải thoát nhân loại khỏi bóng tối ác thần.

Kinh nghiệm chống lại nghịch cảnh, đói khát, giá lạnh, đau khổ, sợ sệt đều là những kinh nghiệm thật của một con người. Ngài bộc lộ những kinh nghiệm bản thân trên qua các dụ ngôn. Từ đó chúng ta nhận biết Đức Kitô tận dụng thời gian samạc là thời gian suy gẫm về kế hoạch. Tìm phương thế vẹn toàn, trọn hảo, thực hành thánh í Chúa Cha. Sách lược rao giảng nước Thiên Chúa. Hoạch định phương sách tiêu diệt ác thần. Tìm biện pháp chống lại cơn cám dỗ bằng cách dựa vào sức mạnh Lời Chúa.

Đức kitô loan báo trước Ngài sẽ chiến thắng ma quỉ, chiến thắng ác thần, nhưng cuộc chiến nhiều cam go, đau khổ chồng chất. Trước khi ma quỉ đầu hàng, bị tiêu diệt, chúng sẽ giẫy chết vừa bạo động, vừa hung tàn. Đức Kitô chiến thắng ác thần. Môn đệ trung tín Đức Kitô sẽ được Ngài hỗ trợ, ban sức chiến thắng ác thần, và vào chung hưởng vinh quang trong nước Chúa.

Bước theo Đức Kitô, chúng ta có kinh nghiệm đôi khi chiến thắng ma quỉ; đôi khi thất bại trong tội lỗi. Đức Kitô không bao giờ thất bại. Ngài luôn đứng vững trước cám dỗ, thử thách. Ngài không trốn chạy nhưng ngang nghiên đương đầu với mọi nghịch cảnh. Ngài kiêu hùng dối diện với đóng đanh thập giá. Trung tín vâng phục Chúa Cha đến hơi thở cuối cùng.
‘Lậy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha’ Lk 23,46.
Nói xong Ngài tắt thở.

Samạc với ta là nơi sức sống héo tàn; tương lai màu cát xám. Đức kitô vào samạc chỉ cho nhân loại con đường sống, cách sống vui, sống mạnh, sống vĩnh cửu. Ngài vạch ra con đường tương lai tươi sáng cho ai bước theo con đường Ngài đi qua. Ngài đến loan báo khởi đầu nước Thiên Chúa nơi trần gian. Những ai bước theo con đường Samạc Kitô sẽ tiến vào nước Thiên Chúa khi hoàn thành cuộc lữ hành trần gian:

‘Thời kì đã mãn và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng’. Mk 1,15.

Nước Thiên Chúa đến cho những ai đón nhận Đức Kitô làm chủ đời mình. Tìm kiếm nước Thiên Chúa mà từ chối đón nhận Đức Kitô là một cám dỗ lớn. Tìm kiếm nước Thiên Chúa hàng ngày chính là một phần của cuộc sống Kitô hữu. Mọi chiến thắng lớn nhỏ đều trông cậy vào ơn Chúa giúp sức, phù trợ, ban ơn. Ngoài ra đều là tìm vinh danh cho chính mình.

Về mục lục

HIỆP SĨ CỦA THIÊN CHÚA

Thiên San

Tin Mừng thánh Maccô kể lại rất gắn gọn việc Đức Giêsu vào hoang địa chịu quỷ cám dỗ. Sau khi chịu phép rửa tại sông Giođan, Đức Giêsu được Thần Khí đẩy vào hoang địa. Người ở đó bốn mươi ngày, chịu quỷ cám dỗ, sống giũa loài dã thú và được các thiên sứ hầu hạ. Sau đó, người đi rao giảng Tin Mừng, kêu gọi người ta sám hối ăn năn vì Nước Trời đã đến gần (x. Mc 1, 12-15).

Sau khi chịu phép rửa, Đức Giêsu hoàn toàn để cho Thần Khi đẩy Người vào hoang địa. Ở đó, Người trải qua bao thử thách, cám dỗ của xa tan nhưng Người đã chiến thắng nhờ Lời Thiên Chúa (Mt 4, 1-11). Cuộc sống của chúng ta nơi trần gian này cũng tựa như một hoang địa, bủa vây bao cám dỗ. Chúng ta hãy bước vào hoang địa ấy với tâm thế sẵn sàng chiến đấu của Đức Giêsu, trong sự thúc đẩy của Thánh Thần. Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta cũng được đầy tràn Thánh Thần và trở nên con cái Thiên Chúa. Chúng ta hãy bước vào cuộc chiến ấy như một “hiệp sĩ” của Thiên Chúa. Nếu chiến đấu với sức riêng, ta sẽ dễ dàng bị đánh gục.

Đức Giêsu cũng bước vào cuộc chiến ấy với bản tính con người thật sự. Người chia sẻ thân phận con người với chúng ta. Bởi đó, người cũng hiểu rất rõ những khó khăn khi phải chiến đấu với ba thù: thế gian, ma quỷ, xác thịt. Cũng trong cuộc chiến này, Đức Giêsu dạy ta hiểu rằng, là hiệp sĩ của Thiên Chúa thì phải chiến đấu bằng vũ khí của Thiên Chúa ban cho là Lời của Người. Đó cũng là vũ khí của sự sáng: “Chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu” (Rm 13, 12). Mục đích của cuộc chiến nhằm giúp ta tôi luyện khả năng sống theo thánh ý Thiên Chúa.

Hình ảnh Đức Giêsu sống giữa loài dã thú cách hài hòa là hình ảnh rất đẹp. Nếu ta sống trong sự hướng dẫn của Thần Khí, chiến đấu như một hiệp sĩ đích thực của Thiên Chúa chúng ta sẽ dành được chiến thắng. Các thế lực của sự dữ sẽ không làm chủ được ta. Khi ấy, ta sẽ có khả năng sống hài hòa với mọi người, với mọi sinh vật và với thiên nhiên. Hoa quả của Thần Khí chẳng phải là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ (Gl 5, 22). Còn nếu sống theo sự thúc đẩy của xác thịt, thế gian hay “bán linh hồn cho quỷ dữ” chúng ta sẽ không có khả năng sống hài hòa như vậy, ngay cả với chính mình. “Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng,thờ quấy,phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (Gl 5, 19-21).

Chúng ta là những “hiệp sỹ” của Thiên Chúa. Chúng ta không được chủ quan vì “ma quỷ không bao giờ ngủ”. Trên tay của chúng phải luôn trang bị đầy đủ khí giới của Thiên Chúa. Lời Chúa có khả năng giúp ta chiến thắng. Ta hãy sống Lời Chúa mỗi ngày để Lời của Người trở thành lợi khí trong cuộc chiến nơi hoang địa của ta. Thánh Thần sẽ luôn hướng dẫn ta “dàn binh bố trận”.  Hãy để Thánh Thần đẩy ta đi. Can đảm lên hỡi những “hiệp sĩ” của Thiên Chúa!

Về mục lục

SÁM HỐI ĐỂ ĐƯỢC HƯỞNG GIAO ƯỚC

Maria Việt Trinh

Bước vào Chúa Nhật đầu tiên của Mùa Chay, bài đọc 1 nhắc lại sự kiện Thiên Chúa cho Đại Lụt Hồng Thủy để thanh tẩy mặt đất, đưa cuộc sống muôn loài trở lại như trước qua giao ước với ông Nô-ê, với con cái cùng với muôn loài ở với ông (x. St 9, 8-15). Bài đọc 2 của vị Tông đồ trưởng Phêrô gửi cho các tín hữu để khích lệ, củng cố niềm tin vào Đức Ki-tô Phục Sinh của họ. Cả ba bài đọc đều diễn tả chân dung tuyệt hảo của Thiên Chúa.

Thật vậy, vì yêu nên Thiên Chúa đã kí kết giao ước với dòng dõi ông Nô-ê và hứa sẽ không còn cho nước trở lại trong cơn Hồng thủy để tiêu diệt mọi xác phàm nữa. Vì yêu nên Thiên Chúa đã để Đức Ki-tô đến thế gian cùng sống, cùng chung chia kiếp sống nhân sinh, và cuối cùng chịu sỉ nhục, chịu chết đau đớn trên cây Thập giá vì tội lỗi chúng ta.

Thiên Chúa đã yêu chúng ta quá nhiều. Tình yêu Ngài dành cho tôi, cho bạn luôn trọn vẹn, mãi mãi, không thể nào nhiều hơn và cũng không thể ít đi. Vì thế, chúng ta được mời gọi hãy đến gần hơn với Thiên Chúa, hãy đáp trả tình yêu của Ngài, dành cho Ngài trọn tâm trí, trái tim, cuộc đời, cái mà đáng lẽ Ngài luôn xứng đáng được hiện diện. Sự gắn kết giữa chúng ta với Thiên Chúa không đem lại vinh quang mới nào cho Ngài, nhưng đem lại cho chúng ta mối tương quan đằm thắm và hạnh phúc vững bền ngàn đời, đó là được Ơn Cứu Độ. Hãy bắt chước Đức Giêsu-Kitô, tuy là ngôi Hai Thiên Chúa, cùng chung một tinh thần kết hợp mật thiết giữa ba Ngôi với nhau, nhưng Người vẫn hằng liên lỉ cầu nguyện, thinh lặng để gặp gỡ, lắng nghe Thiên Chúa Cha dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần.

Thiên Chúa vì yêu mà sáng kiến ra giao ước. Con người vì được Chúa yêu mà cam kết hãm mình ăn năn, một lòng hướng về Thiên Chúa duy nhất. Thế nhưng, trải qua bao thế hệ, con người vẫn sa đi ngã lại trước cám dỗ, vì sự yếu đuối của mình mà đánh mất ân nghĩa với Thiên Chúa, phản bội Giao ước đã thiết lập từ xưa. Nhưng Ngài vẫn chờ đợi, lại còn đặt để các ngôn sứ đến thúc bách, kêu gọi con người ăn năn sám hối để được tha tội. Cuối cùng, Ngài đã sai chính Con một mình là Đức Giêsu-Kitô đến. Người đã lui mình vào hoang địa bốn mươi ngày để cầu nguyện; sau khi chịu phép rửa tại sông Giođan, khi hay tin Gioan Tẩy giả đã bị nộp, Người mới bắt đầu rời hoang địa, đến miền Galilê kêu gọi mọi người ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng. Lời Chúa nhắc nhở chúng ta khi muốn khởi sự bất cứ công việc gì, dù lớn hay nhỏ, đừng quá vội vàng làm mà quên tĩnh lặng cầu nguyện với Thiên Chúa. Vì chính Ngài mới có thể giúp chúng ta hoàn tất mọi công việc cách hoàn hảo nhất.

Hãy sám hối để được hưởng giao ước. Thiên Chúa vẫn cho chúng ta cơ hội và chờ đợi chúng ta. Nhưng vào ngày sau hết, chính Ngài sẽ phán xử công minh với mỗi người. Đừng để ngày tàn mới biết trời từng sáng; đừng để cái chết ập đến mới biết mình từng có cơ hội sửa sai. Lạy Chúa! Ngay chính khi tâm hồn con hối lỗi ăn năn trở lại, vẫn là nhờ ơn Ngài. Xin thương xót mà đánh thức tâm hồn mỗi chúng con, kẻo quá muộn!.

Về mục lục

SỐNG VỚI CHÍNH MÌNH

Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa

Tôi lạc quan giữa đám đông, nhưng khi một mình thì lại không
Cố tỏ ra là mình ổn, nhưng sâu bên trong nước mắt là bể rộng”
.

Đây là những lời mở đầu trong đoạn rap của ca khúc “Người lạ ơi” một thời được bao bạn trẻ yêu thích. Lần đầu tiên tôi nghe ca khúc này, tôi rất ấn tượng với những lời trên đây. Nhạc sĩ Châu Đăng Khoa đã diễn tả tuyệt vời tâm trạng của phần đông chúng ta. Chúng ta hay cảm thấy rất ổn khi sống với đám đông. Nhưng khi trở về với chính mình, chúng ta lại thấy vô cùng bất ổn. Có cái gì đó khiến ta luôn không hài lòng với chính bản thân mình.

Mười hai năm học phổ thông, và đôi khi là cả bốn năm đại học, chúng ta đã được nhồi nhét đủ thứ kiến thức. Những kiến thức ấy khiến chúng ta có khả năng làm việc và hòa nhập với cuộc sống xã hội. Tuy nhiên, không một thầy cô giáo nào dạy chúng ta học sống với chính mình. Không có ai gần gũi mình cho bằng chính bản thân mình, thế mà chúng ta luôn lãng quên điều đó. Chúng ta học sống với tha nhân, với bạn bè, với cộng đồng. Chúng ta được dạy để tranh đoạt, để làm cho mình thành công trong mọi lãnh vực. Có một nhận xét rất sâu sắc của một tác giả mà tôi không thể nhớ được tên của ông. Đại khái ông nói rằng nền giáo dục vô thần của chúng ta đã tước đoạt đi của các em một cái gì đó thiêng liêng. Thay vì nở hoa thì tâm hồn các trẻ em lại mọc lên những gai cùng góc. Tôi thấy thật chí lý. Con em của chúng ta đã bị nhồi sọ và đánh mất đi cái phần Thần Linh, cái làm cho con người thực sự là con người.

Chúa Nhật thứ nhất mùa chay năm B, Chúa Giê-su dạy ta cách sống với chính mình. Ngài được Thánh Thần dẫn vào hoang địa để ăn chay và chịu Satan cám dỗ 40 đêm ngày. Thánh Marcô chỉ mô tả vắn gọn rằng Chúa sống chung với dã thú và được các Thiên Thần hầu hạ Người (Mc 1,12). Có một chi tiết mà cả ba Tác giả Tin Mừng Nhất Lãm đều nhắc đến đó là Chúa được Thánh Thần dẫn vào hoang địa. Đây là chi tiết rất quan trọng. Con người chúng ta thường lãng quên Thánh Thần. Chúng ta để cho bao thứ hướng dẫn và thúc đẩy chúng ta. Điều đó khiến con người chúng ta cứ loay hoay không biết đâu là bến bờ. Chúa được Thánh Thần đưa vào hoang địa. Suốt 40 ngày, Chúa ở đó trong thinh lặng cô tịch. Hoang địa là vùng đất không có người ở. Nhưng lại có dã thú đến sống chung với Chúa. Và cả các Thiên Thần hầu hạ Chúa. Có một cái gì đó thật đẹp đã xảy ra. Khi con người để cho Thần Linh hướng dẫn, con người sẽ sống hòa hợp với mọi tạo vật. Ngay cả dã thú cũng trở thành bạn. Không có chiến tranh và thù hận mà chỉ có tình yêu thương ngự trị.

Giữa cuộc sống xô bồ hôm nay, con người đã dần lãng quên Thiên Chúa. Cũng như thời Nôe, tội lỗi đã lan tràn (St 9,8-15). Điều đó khiến Thiên Chúa phải thanh lọc. Ngài chọn Nôe để làm mới lại tương quan với con người. Ngài nhắc lại giao ước từ ngàn xưa với con người để tái tạo một nhân loại mới. Nhưng rồi con người lại sa ngã và cứ đi sai đường lối Chúa. Chúa đã sai chính Con Một của mình đến để nhắc lại một lần cho tất cả rằng con người chỉ có thể hạnh phúc khi trở với với Chúa. Trước khi công bố sứ điệp Tin Mừng, hôm nay Chúa vào hoang địa để sống thân mật với Chúa Cha. Chúa dạy ta một bài học vô cùng quan trọng. Trước khi đi vào hội nhập với cuộc sống xã hội, con người cần phải hòa hợp với Tạo Hóa. Khi con người hòa hợp với Tạo Hóa, con người sẽ thông suốt để hòa hợp với bản thân và với muôn loài muôn vật.

“Người lạ ơi xin giúp tôi mượn bờ vai, người lạ ơi xin giúp tôi mượn niềm vui…”. Nhạc sĩ Châu Đăng Khoa đã kêu gọi người lạ đến trợ giúp mình. Nhưng chẳng người lạ nào làm được. Người lạ có đến thì rồi cũng sẽ bỏ đi để lại ta một mình. Hôm nay tôi muốn chỉ cho các bạn người lạ đó không ai khác mà chính là Thiên Chúa, Đấng đang hiện diện kín ẩn trong chính cung lòng của các bạn. Đấng đó hằng yêu thương bạn. Bạn đã lãng quên Ngài. Tôi muốn mời bạn trong mùa chay thánh này, hãy quay trở lại với chính bản thân mình. Hãy tự tạo ra sa mạc của cuộc đời mình. Trong thinh lặng nội tâm, bạn sẽ tìm được sự thanh thản và bình yên. Hãy trân trọng và yêu thương bản thân mình. Đừng tự đầy đọa chính mình. Học sống với chính mình là bước nền tảng đầu tiên và quan trọng nhất của con người. Đừng lãng quên điều đó.

Lạy Chúa, xin giúp con kết nối lại với Chúa để con không bao giờ lạc lõng cô đơn giữa cuộc đời này. Amen.

Về mục lục

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY_B

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật I Mùa Chay năm B nêu bật Phép Rửa, tức là cuộc vượt qua từ cõi chết để bước vào cõi sống.

St 9: 8-15

Đoạn trích sách Sáng Thế gợi lên hình bóng của Phép Rửa qua việc một nhân loại mới được cứu thoát khỏi trận Hồng Thủy. Thiên Chúa lập giao ước với nhân loại mới này qua ông Nô-ê.

1Pr 3: 18-22

Trong thư thứ nhất của mình, thánh Phê-rô muốn những người lãnh nhận Phép Rửa hiểu rằng việc vượt qua nước là dấu chỉ việc họ tham dự vào cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô và đó cũng là dấn thân vào giao ước với Thiên Chúa.

Mc 1: 12-15

Tin Mừng Mác-cô tường thuật rất ngắn gọn cuộc thử thách mà Đức Giê-su đã kinh qua trong hoang địa: Ngài chiến thắng các chước cám dỗ, tức thế lực của sự Ác.

BÀI ĐỌC I (St 9: 8-15)

Chữ “Ước”, để chỉ hai phần của bộ Kinh Thánh: “Cựu Ước và Tân Ước”, được dịch từ nguyên ngữ Hy-lạp sang tiếng La-tin: “Testamentum”, có nghĩa là “Giao Ước”. Vì thế, “Cựu Ước và Tân Ước” phải được hiểu trọn nghĩa là “Giao Ước Cũ và Giao Ước Mới”.

Quả thật, chữ “Giao Ước” tóm gọn tinh thần của toàn bộ Kinh Thánh, nghĩa là, những quan hệ giữa Thiên Chúa và con người chạy xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh. Ấy vậy, có một chỗ đứt đoạn giữa công việc của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và thi ân, và cách hành xử của con người, tội nhân. Nhưng chỗ đứt đoạn này về phương diện lịch sử được lòng xót thương của Thiên Chúa chắp lại: sau vài án phạt điển hình, Thiên Chúa tha thứ và tái lập giao ước với nhân loại.

  1. Giao Ước với ông Nô-ê

Đây là Giao Ước mà Thiên Chúa đã thiết lập sau trận Hồng Thủy như án phạt của Thiên Chúa trên khắp toàn cõi địa cầu. Giao Ước với hai ông bà nguyên tổ, A-đam và E-và, được thiết lập cách mặc nhiên; Giao Ước với ông Nô-ê được thiết lập cách minh nhiên. Qua ông Nô-ê và hậu duệ của ông, Thiên Chúa giao ước với toàn thể nhân loại.

Chiều kích hoàn vũ của Giao Ước với ông Nô-ê này càng đáng chú ý hơn khi so sánh với những giao ước sau này. Thật vậy, Giao Ước với tổ phụ Áp-ra-ham cũng như Giao Ước với ông Mô-sê bị thu hẹp, chỉ còn liên quan đến một dân tộc được tuyển chọn giữa muôn dân (thực ra, dân Chúa chọn này có sứ mạng chuẩn bị ơn cứu độ cho hết mọi người).

Mặt khác, sau trận Hồng Thủy, Thiên Chúa ban cho cuộc sáng tạo một khởi điểm mới, một nhân loại mới lại bắt đầu. Ông Nô-ê là một người công chính, như A-đam trước đây đã là người công chính khi xuất ra từ bàn tay của Đấng Tạo Hóa. Vì thế, đây đích thật là một công trình sáng tạo mới.

  1. Ơn cứu độ phổ quát dưới dấu chỉ của nước

Tác giả soạn thảo chuyện tích trận Hồng Thủy này dựa trên những truyền thống xưa và những dữ kiện huyền thoại. Phải nói có hai chuyện tích về trận Hồng Thủy được đan quyện vào nhau. Một chuyện tích xưa thuộc truyền thống Gia-vít không biết đến đề tài Giao Ước và một chuyện tích khác muộn thời hơn thuộc truyền thống tư tế (có lẽ trong thời kỳ lưu đày hay sau đó ít lâu) nêu bật đề tài Giao Ước.

Bài Đọc I được trích từ chuyện tích thuộc truyền thống tư tế này, trong đó chúng ta gặp thấy đề tài Giao Ước. Tác giả của chuyện tích này khoác cho chuyện tích xưa thuộc truyền thống Gia-vít một quan niệm thần học. Khi phân biệt giáo huấn của Thiên Chúa trong chuyện tích thuộc truyền thống Gia-vít, tác giả tư tế đã đọc thấy dấu chỉ của ơn cứu độ được dâng hiến cho hết mọi người, ở đó nước sẽ đóng một vai trò quan trọng. Nếu toàn thể nhân loại đã bị trừng phạt, thì cũng chính toàn thể nhân loại sẽ được cứu, vì lòng xót thương của Thiên Chúa còn lớn hơn cả tội lỗi nữa. Ơn cứu độ sẽ được thực hiện dưới dấu chỉ của nước, biểu tượng của cuộc tái sinh. Thánh Phê-rô, trong thư mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật này, gợi lên chuyện tích này là hình bóng Phép Rửa.

  1. Giao ước với tất cả mọi sinh vật

Giao Ước của Thiên Chúa trải rộng cho hết mọi sinh vật. Cử chỉ này là một hành vi sáng tạo trong các chuyện tích về nguồn gốc nhân loại (St 1-11). Ông Nô-ê, A-đam mới, cũng như những sinh vật đều đã được cứu thoát, từ nay được bảo tồn. Thiên Chúa không từ bỏ bất cứ gì từ cuộc sáng tạo ban đầu.

Chúng ta có thể nhấn mạnh thêm rằng đại họa Hồng Thủy đã đến hồi kết thúc, nước phía trên đã được phân rẽ khỏi nước phía dưới, và đất trồi lên, như trong cuộc sáng tạo đầu tiên. Mọi sự lại bắt đầu. Như vậy, Phép Rửa có ý nghĩa của một cuộc vượt qua từ cõi chết bước vào cõi sống.

  1. Cầu vồng

Dân Hy-lạp xem cầu vồng là khăn quàng của nữ thần Iris, sứ giả của các thần linh. Dân Do thái đặt trọng tâm trên vấn đề về những mối quan hệ giữa trời và đất, vì thế thấy ở đây một dấu chỉ của việc Thiên Chúa giao hòa với nhân loại. Chiếc cầu vồng nối liền trời với đất biểu thị chiều kích phổ quát của Giao Ước, một lời giải thích mang đậm nét thi ca về lời hứa của Thiên Chúa. Từ nay, Thiên Chúa “gác cây cung lên mây”, tức là không còn dùng khí cụ tiêu diệt nữa. Việc cầu vòng xuất hiện trên không trung loan báo điềm lành: cơn mưa đã tạnh.

BÀI ĐỌC II (1Pr 3: 18-22)

Đoạn trích thư này vang dội Bài Đọc I, nhắc lại trận Hồng Thủy và Giao Ước mà Thiên Chúa thiết lập với ông Nô-ê. Qua đó, thánh Phê-rô nêu bật hình bóng Phép Rửa.

  1. Hoàn cảnh   

Thư thứ nhất của thánh Phê-rô này được viết ở Rô-ma vào những năm 60-64 (thánh nhân được phúc tử đạo vào năm 64). Thư được gửi đến cho tất cả Ki-tô hữu bị phân tán khắp miền Tiểu Á vì bị quấy nhiễu hay bị bách hại. Vị lãnh đạo Giáo Hội quan tâm đến đoàn chiên của mình. Trong thư, thánh nhân nhắc nhớ những chân lý cốt yếu của đức tin.

Bức thư này đã được một cộng tác viên của thánh Phê-rô là ông Xin-va-nô biên soạn: “Nhờ tay anh Xin-va-nô mà tôi coi là một người anh em trung tín, tôi viết ít lời để khuyên nhủ anh em…” (5: 12). Ông này cũng là người bạn đồng hành thân tín của thánh Phao-lô. Có lẽ vì thế mà những dấu ấn của thánh Phao-lô được gặp thấy ở nhiều đoạn trong thư này; như trong đoạn trích hôm nay, chúng ta ghi nhận “chết vì tội lỗi chúng ta”, hay việc đối lập giữa “thân xác và thần khí”, hoặc “Phép Rửa” đồng nghĩa với việc “tham dự vào cuộc Phục Sinh của Đức Ki tô”.

Thánh Phê-rô ngỏ lời với những người Ki-tô hữu đang phải hứng chịu những lời chế nhạo và vu khống của dân ngoại. Thánh Tông Đồ khuyên họ hãy can đảm theo gương Đức Ki-tô, Người đã chịu đau khổ dù vô tội. Từ đó, thánh nhân gợi lên ơn Cứu Độ và những ân phúc của nó đối với những người đã qua đời cũng như những người đang sống.

  1. Đối với những người đã qua đời

Đây là một đoạn văn đặc thù trong các bản văn Tân Ước gợi lên Đức Ki-tô xuống ngục tổ tông. Việc Đức Ki-tô xuống ngục tổ tông muốn nói lên rằng việc cứu độ những tội nhân không chỉ có giá trị đối với những ai đã qua đời sau biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô, nhưng cũng có hiệu lực trở về trước nữa. Đức Ki-tô đã đến “loan báo Tin Mừng” cho các vong nhân, và đặc biệt hơn nữa, cho những vong nhân bị quên lãng và bị nguyền rủa, thậm chí vào thời ông Nô-ê, ông là người công chính duy nhất (3: 19-20). Những vong nhân này xuất hiện trong truyền thống Do thái (và đặc biệt trong văn chương khải huyền) như những kẻ nổi loạn. Chắc chắn đó là lý do mà thánh Phê-rô viện dẫn họ để ca ngợi quyền năng Cứu Độ và lòng xót thương vô lượng hải hà của Thiên Chúa.

Mặt khác, việc Đức Giê-su xuống cõi âm ty nêu bật giá trị của việc Ngài lên trời trong vinh quang. Đấng xuống cõi âm ty chính là “Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền”. Vinh quang tuyệt mức tương ứng với sự khiêm hạ tột cùng của Con Thiên Chúa, Đấng đã dự phần vào cõi hư vô của sự chết.

  1. Đối với những người đang sống

Đối với những ai hiện đang sống (và đối với những ai sinh ra sau này), biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki tô dâng hiến ơn cứu độ dưới dấu chỉ Phép Rửa. Thánh Tông Đồ nhấn mạnh không cốt “được tẩy sạch vết nhơ thể xác” như trong các nghi thức thanh tẩy của lương dân, nhưng nhất là “cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô”.

Cùng với những bản văn của thánh Phao-lô, bản văn này làm chứng rằng vào những năm 60, thần học Phép Rửa đã được bày tỏ và khẳng định rất rõ nét.

TIN MỪNG (Mc 1: 12-15)

Đoạn trích Tin Mừng Mác-cô hôm nay gồm có hai phần: phần thứ nhất (1: 12-13) tường thuật việc Đức Giê-su chuẩn bị cần thiết cho sứ vụ công khai của Ngài; phần thứ hai (1: 14-15) tường thuật việc Đức Giê-su bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài.

  1. Đức Giê-su chuẩn bị cần thiết cho sứ vụ công khai (1: 12-13)

Tin Mừng Mác-cô thuật lại cuộc thử thách của Đức Giê-su trong hoang địa. Dù bài trình thuật của thánh Mác-cô rất giản dị so với thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca, nhưng những điều cốt yếu đều được nói ở đây: Thánh Thần thúc đẩy; bốn mươi ngày trong hoang địa, chịu Xa-tan cám dỗ; Đức Giê-su chiến thắng thế lực sự Dữ. Trong phần thứ nhất này, thiết tưởng phải phân biệt hai khía cạnh: rút vào hoang địa và chịu Sa-tan thử thách.

A. Rút vào hoang địa (1: 12)

Ngay sau khi chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả và trước khi bắt đầu sứ vụ của mình, Đức Giê-su rút vào hoang địa để chuẩn bị sứ vụ của mình trong chiêm niệm, cầu nguyện và chay tịnh. Trước khi khởi sự cuộc đời của một nhà giảng thuyết lưu động, khiêm hạ và hoàn toàn tuân phục mọi hướng dẫn của Chúa Cha, Đức Giê-su sống trong sự mật thiết với Cha Ngài và trang bị cho mình sức mạnh Thánh Thần.

Về phương diện nhân loại, Đức Giê-su chắc hẳn đã kinh qua nỗi sợ hãi và xao xuyến, bởi lẽ Ngài đã gánh lấy thân phận yếu hèn của chúng ta. Ngài đặt mình vào trong sự liên đới với những âu lo của chúng ta. Ngài tăng cường lời cầu nguyện của mình bằng chay tịnh như cách thức huấn luyện mình để “làm chủ bản thân mình”, đồng thời như một hành vi “phụ thuộc vào Thiên Chúa”.

Trong cuộc đời của mình, vào những giây phút mang tính quyết định, Đức Giê-su nhiều lần rút vào nơi cô tịch để cầu nguyện. Ngài đã cầu nguyện thâu đêm trước khi chọn các Tông Đồ của mình (Lc 6: 12). Ngài đã cầu nguyện lâu giờ trước khi hỏi các môn đệ Ngài là ai và đón nhận lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô (Lc 9: 18). Ngài cũng đã thức suốt đêm cầu nguyện (Ga 6: 15) trước khi công bố rằng bánh mà Ngài ban chính là Mình Ngài làm của ăn để nuôi sống chúng ta (Ga 6: 51).

B. Chịu Xa-tan thử thách (1: 13)

Tại sao Đức Giê-su phải chịu Xa-tan thử thách? Xin được đưa ra ba lý do để soi sáng vấn đề này.

a). Chấp nhận thân phận con người

Việc Đức Giê-su chịu ma quỷ cám dỗ theo tiến trình hợp lý về ơn gọi của Ngài: Ngài đã đồng hóa mình với nhân loại tội lỗi bằng cách chấp nhận phép rửa sám hối bởi Gioan Tẩy Giả. Ngài đã đi cho đến tận cùng của sự đồng hóa này khi chấp nhận chịu những cơn cám dỗ như số phận của con cái A-đam và E-và. Qua kinh nghiệm của mình, Ngài chỉ cho chúng ta thấy làm thế nào chiến thắng những chước cám dỗ. Và chính nhờ mẫu gương của Ngài, chúng ta, được ơn phù trợ của Thánh Thần như Ngài, có thể lập lại lời khẩn cầu mà Ngài đã dạy: “Lạy Cha… xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ…” (Mt 6: 13).

b). Kinh qua những cơn cám dỗ của Dân Chúa

Nếu Đức Giê-su là một A-đam mới, một A-đam khải hoàn, thì Ngài cũng là một Mô-sê mới. Đức Giê-su đã muốn đồng hóa mình với dân Ngài bằng cách sống lại những cơn cám dỗ của họ trong hoang địa. Ngài đã trải qua cuộc lưu đày ở Ai-cập khi vừa mới chào đời. Ngài cũng đã kinh qua những chước cám dỗ trong hoang địa. Bốn mươi ngày chay tịnh và cầu nguyện của Ngài nhắc nhớ không chỉ bốn mươi ngày chay tịnh và cầu nguyện của ông Mô-sê trên núi Xi-nai, trước khi đón nhận những lời Giao Ước, nhưng cũng bốn mươi năm truân chuyên mà dân Do thái đã trải qua trong hoang địa.

c). Khúc dạo đầu cho cuộc chiến thắng tối hậu

Cuộc đời của Đức Giê-su đầy những dấu chỉ. Cuộc thử thách trong hoang địa là một trong những dấu chỉ lớn lao. Đây là khúc dạo đầu cho một cuộc chiến vĩ đại chống lại quyền lực sự Dữ. Về phía mình, Xa-tan đã tiên cảm rằng Đức Giê-su là một đối thủ đáng gờm; vì thế nó sẽ tăng gấp bội nổ lực của mình, sẽ gây ra những phản bội và bỏ rơi, và bên ngoài có vẽ chiến thắng vào ngày thứ sáu Thương Khó của Ngài. Nhưng cuối cùng, cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài đã chiến thắng trên mọi quyền lực của sự ác.

  1. Đức Giê-su bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài (1: 14-15)

Phần thứ hai cũng gồm có hai khía cạnh: Khung cảnh (1: 14) và sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su (1: 15):

A- Khung cảnh (1: 14)

Sau khi nghe tin “ông Gioan bị nộp”, Đức Giê-su biết rằng sứ vụ của Ngài bắt đầu. Thông tin này cho chúng ta biết rằng Chúa Giê-su khởi đầu sứ vụ công khai của Ngài khi vị Tiền Hô chấm dứt sự vụ của thánh nhân. Như vậy, có một mối quan hệ mật thiết giữa sứ vụ của vị Tiền Hô và sứ vụ của Đấng mà vị Tiền Hô có sứ mạng dọn đường. Trong Tin Mừng Mác-cô, động từ “bị nộp” nêu bật cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Đức Giê-su. Động tự này xuất hiện ở đây cho thấy số phận của thánh Gioan báo trước số phận của Đức Giê-su.

– “Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê”: Đức Giê-su đã đến bờ sông Gio-đan để chịu phép rửa của thánh Gioan Tẩy Giả; sau đó, Ngài đi vào hoang địa Giu-đê để chịu những chước cám dỗ; giờ đây, Ngài trở về miền Ga-li-lê để khởi đầu sứ vụ của mình. Nói chung, miền Ga-li-lê thuận tiện cho sứ vụ của Đức Giê-su hơn miền Giu-đê. Miền Ga-li-lê là ngã tư quốc tế, là nơi giao thương giữa các dân tộc chung quanh, là nơi người Do thái không chỉ sống chung với lương dân nhưng còn là nơi giao tiếp với muôn dân, nên từ xưa miền này được ngôn sứ I-sai-a gọi là “miền đất ngoại bang” (Is 8: 23). Vì thế, khi coi miền Ga-li-lê là địa bàn hoạt động chính của Đức Giê-su, thánh Mác-cô muốn nhấn mạnh sứ điệp phổ quát của Đức Giê-su.

– “Rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa”: Diễn ngữ: “Tin Mừng của Thiên Chúa” muốn nói rằng Tin Mừng xuất phát từ Thiên Chúa. Đức Giê-su là hiện thân của Tin Mừng này. Vì thế, Tin Mừng xuất phát từ Thiên Chúa chính là Đức Giê-su Ki-tô; nói cách khác, Đức Giê-su Ki-tô chính là Tin Mừng của Thiên Chúa.

B- Sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su (1: 15):

Sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su được tóm kết ở đây: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.

– “Thời kỳ đã mãn”: Các ngôn sứ chia thời gian làm hai thời kỳ: thời hiện tại và thời sẽ đến. Thời sẽ đến là thời điểm quyết định dứt khoát của Thiên Chúa, mọi sự đều tùy thuộc thời điểm này (x. Đn 7: 22; Ed 7: 12; 9: 1; Ac 4: 18; Kh 1: 3; 1Pr 1: 1). Với động từ: “đã mãn”, Chúa Giê-su loan báo thời hiện nay đến hồi chấm dứt và một thời đại mới, thời đại cuối cùng, thời cánh chung đã tới. Đó là thời Thiên Chúa ấn định để thực hiện và thành tựu các lời hứa và các sấm ngôn của Ngài.

– “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”: Kể từ ngày thoát khỏi cảnh lưu đày Ba-by-lon, dân Do thái đặt tất cả mọi hy vọng vào việc Thiên Chúa đích thân ngự đến và thiết lập Vương Quyền của Ngài trên mọi dân tộc (Mk 4: 7; So 3: 15b; Dcr 14: 9; vân vân). Ở đây, Đức Giê-su khẳng định rằng với sự hiện diện của Ngài, “Triều Đại Thiên Chúa” đã đến và đang có mặt ở đây. Như thế, Triều Đại Thiên Chúa đã đến rồi, đến trong con người của Đức Giê-su.

– “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”: Triều Đại Thiên Chúa đòi hỏi thay đổi đời sống, như thánh Gioan Tẩy Giả đã nói rõ ra: “chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (1: 4). Trong lời rao giảng của mình, Đức Giê-su mời gọi “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”, nghĩa là “Hãy sám hối tức là tin vào Tin Mừng”. Lòng sám hối phải được bày tỏ ra qua việc tin vào Tin Mừng, mà tin vào Tin Mừng đồng nghĩa với việc tin vào Đức Giê-su, Đấng là hiện thân Tin Mừng của Thiên Chúa. Đó cũng là lời rao giảng đầu tiên của các Tông Đồ: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ được ân huệ là Chúa Thánh Thần” (Cv 2: 38). Đó cũng là lời rao giảng của thánh Phao-lô như ở Ê-phê-xô: “Tôi kêu nài những người Do thái và Hy-lạp trở lại với Thiên Chúa và tin vào Chúa Giê-su” (Cv 20: 21).

Về mục lục

TAM ĐỘC

Trầm Thiên Thu

Có nhiều thứ độc hại, nhưng ba thứ nguy hiểm là ba thù – ma quỷ, thế gian, xác thịt. Ba thứ cám dỗ “độc hại” là ăn uống, kiêu ngạo, danh vọng. Nói chung cũng bởi “cái tôi” mà thôi.

Thánh Maximus hiển tu nhận định: “Ma quỷ đích thân đến cám dỗ chúng ta hoặc xui xiểm những người không có lòng kính sợ Thiên Chúa chống lại chúng ta. Chúng đích thân cám dỗ khi chúng ta rút vào những nơi xa cách với đời, vì chính Chúa Giêsu đã từng bị cám dỗ trong hoang mạc. Chúng dùng người khác để cám dỗ khi chúng ta có những giao tiếp với đời, như chúng đã từng cám dỗ Chúa Giêsu qua những người Biệt Phái – Pharisêu. Nhưng nếu chăm chú nhìn ngắm Chúa Giêsu, chúng ta sẽ xua đuổi được chúng trong từng trường hợp.” Thánh Lêô Cả nói: “Tên cám dỗ lúc nào cũng tỉnh táo, khai chiến thật dữ dội để chống lại những người mà nó thấy rất cẩn trọng tránh tội.”

Ma quỷ rất tinh ranh, những kẻ theo phe chúng cũng ranh mãnh chẳng kém. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã xác định: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.” (Lc 16:8) Sự khôn khéo ở đây mang ý nghĩa xấu xa, tức là mưu mô, mưu mẹo, toan tính và sắp đặt ngầm để thực hiện điều bất chính – được gọi là mưu ma chước quỷ. Là sinh vật cao cấp nhất nhưng con người cũng nhiêu khê vì luôn “biến hóa” với thất tình và lục dục, [*] thậm chí còn cảm thấy sợ chính mình.

Một ký ức buồn là Đại Hồng Thủy, sự kiện “rửa đất” hoàn toàn, xảy ra ngày 17 tháng 02 năm 600. (St 7:11) Chương 7 của sách Sáng Thế miêu tả Đại Hồng Thủy xảy ra là sự trừng phạt của Thiên Chúa vì sự suy thoái đạo đức của loài người. Khi ông Nôê được 600 tuổi, Thiên Chúa cho mưa tuôn suốt 40 ngày đêm, nước dâng lên ngập cả những đỉnh núi cao nhất, nước ngập suốt 150 ngày. (St 7:24) Sau Đại Hồng Thủy, chỉ có gia đình ông Nôê còn sống sót trên một con tàu lớn cùng với các loài vật – 1 đực và 1 cái, loài thanh sạch 7 đôi, loài không thanh sạch 1 đôi.

Sau đó Thiên Chúa phán với ông Nôê và các con ông: “Đây Ta lập giao ước của Ta với các ngươi, với dòng dõi các ngươi sau này, và tất cả mọi sinh vật ở với các ngươi: chim chóc, gia súc, dã thú ở với các ngươi, nghĩa là mọi vật ở trong tàu đi ra, kể cả dã thú. Ta lập giao ước của Ta với các ngươi: mọi xác phàm sẽ không còn bị nước hồng thủy huỷ diệt, và cũng sẽ không còn có hồng thủy để tàn phá mặt đất nữa.” (St 9:8-11) Lời hứa đó của Thiên Chúa là điều diễm phúc cho cả nhân loại, vì không còn cảnh “tẩy rửa” địa cầu như thời Cựu Ước.

Ngài cho dấu chỉ cụ thể, rõ ràng: “Đây là dấu hiệu giao ước Ta đặt giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật ở với các ngươi, cho đến muôn thế hệ mai sau: Ta gác cây cung của Ta lên mây, và đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với cõi đất. Khi Ta cho mây kéo đến trên mặt đất và cây cung xuất hiện trong mây, Ta sẽ nhớ lại giao ước giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật, nghĩa là với mọi xác phàm; và nước sẽ không còn trở thành hồng thủy để tiêu diệt mọi xác phàm nữa.” (St 9:12-15) Ngày nay, chúng ta thường thấy “cây cung” đó sau những cơn mưa to, gọi là Cầu Vồng, với bảy sắc màu lung linh rất đẹp, rất kỳ diệu, chứng tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa.

Ngày nay, mỗi khi nhìn thấy Cầu Vồng, chúng ta lại được nhắc nhở về giao ước xưa, về ơn thứ tha của Thiên Chúa nhân lành, Ngài không trừng phạt nhãn tiền nữa. Tuy nhiên, đừng vì thế mà ỷ lại, luôn cần phải noi gương Thánh Vịnh gia cầu xin: “Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy dỗ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con. Sớm hôm con những cậy trông Ngài, bởi vì Ngài nhân ái.” (Tv 25:4-5)

Mùa Chay là lời nhắc nhở không chỉ về lòng sám hối mà cả tâm tình biết ơn: “Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời. Tuổi xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến, nhưng xin lấy tình thương mà nhớ đến con cùng. Chúa là Đấng nhân từ chính trực, chỉ lối cho tội nhân, dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính, dạy cho biết đường lối của Người.” (Tv 25:6-9) Nếu mà Thiên Chúa chấp tội thì chẳng ai được cứu rỗi. (Tv 130:3) Thật diễm phúc cho chúng ta vì Ngài hằng thương xót và tha thứ.

Giá cứu chuộc chúng ta được tận hưởng là Bửu Huyết của Đức Giêsu Kitô, và mọi vết tội được tẩy sạch. Thánh Phaolô xác định: “Chính Đức Kitô đã chịu chết một lần vì tội lỗi – Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương – hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh. Người đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm, tức là những người xưa đã không vâng phục Thiên Chúa, trong thời Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi, nghĩa là thời ông Nôê đóng tàu. Trong con tàu ấy, một số ít, cả thảy là tám người, được cứu thoát nhờ nước.” (1 Pr 3:18-20) Nước bình thường mà kỳ diệu, rất mềm mà rất cứng, người ta có thể “cắt” nước nhưng không thể làm “đứt” nước. Vô cùng lạ lùng!

Từ nước của Đại Hồng Thủy tới nước của Phép Rửa, rồi Nước (và Máu) từ Thánh Tâm Chúa Giêsu khi bị lưỡi giáo đâm thâu. Thánh Phêrô cho biết: “Nước đó là hình bóng phép rửa nay cứu thoát anh em. Lãnh nhận phép rửa, không phải là được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền.” (1 Pr 3:21-22) Chuỗi liên kết thật tuyệt vời!

Ai cũng biết tội lỗi là điều ghê tởm, rất ô uế, nhưng chúng ta lại được rửa sạch nhờ Bí tích Thánh Tẩy. Và rồi vì yếu đuối, chiếc “áo trắng” của chúng ta lại vấy bẩn, nhưng vẫn tiếp tục được “giặt sạch” nhờ Bí tích Hòa Giải. Tội chồng lên tội, mà phúc lại chồng lên phúc. Xui mà lại hên! Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải tiếp tục ăn chay và sám hối. Ăn chay và đền tội không chỉ cho chính mình, mà còn cho cả người khác trong tình liên đới Kitô giáo. Thiên Chúa chuẩn bị cho chúng ta mọi thứ thuận lợi, rõ ràng Ngài muốn chúng ta hoàn thiện để nên thánh, để được ở bên Ngài mãi mãi.

Cơn cám dỗ mà Chúa Giêsu chịu sau khi đã ăn chay ròng rã suốt 40 đêm ngày được nói ngắn gọn: “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.” (Mc 1:12-13) Trong Mt 4:1-11 và Lc 4:1-13 nói chi tiết hơn: Cám dỗ thứ nhất về sự ăn uống – đệ nhất khoái trong tứ khoái của con người; cám dỗ thứ nhì về tính kiêu ngạo – “cái tôi” nhỏ bé mà cồng kềnh, nó có thể nổi dậy bất cứ lúc nào; cám dỗ thứ ba về danh vọng và chức quyền – ai cũng muốn để chứng tỏ mình tài giỏi và bản lĩnh hơn người. Rất đáng quan ngại!

Trước khi thi hành sứ vụ công khai mạc, Chúa Giêsu đã ăn chay dài ngày, điều đó cho thấy việc ăn chay luôn gắn liền với việc cầu nguyện, và rất cần thiết. Trước khi hành động bất cứ điều gì đều cần phải cầu nguyện. Một trong những điều quan trọng ai cũng cần cầu xin: “Xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ.” (Kinh Lạy Cha) Điều này đã được chính Chúa Giêsu dạy khi các môn đệ xin Sư Phụ dạy cách cầu nguyện. Trong đó, Chúa dạy không chỉ xin cho mình mà cho cả người khác, dùng “chúng con” – đại từ số nhiều, chứ không dùng “con” – đại từ số ít.

Ông Gioan bị bắt, Đức Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy SÁM HỐI và TIN vào Tin Mừng.” (Mc 1:15) Chúng ta đang sống trong thời kỳ cuối. Ngày nay, người ta thường than “đạo đức xuống cấp” hoặc “suy thoái nhân bản.” Thật vậy, chưa cần va quẹt nhau, chỉ cần nhìn thôi, người ta đã có thể to tiếng hoặc ẩu đả nhau, thậm chí là rút dao đâm ngay, không hề gớm tay. Vậy thì không thể hiện tinh thần sám hối của Đức Kitô, thậm chí còn hành động trái ngược với lời Ngài khuyên.

Thật vậy, ngày nay người ta mưu mô và thủ đoạn rất tinh vi. Khoa học càng tiến bộ thì tội lỗi càng tinh vi. Thế thì việc ăn chay, sám hối và đền tội càng cần hơn nhiều. Ước gì mỗi chúng ta đều biết chân thành thú tội để được Thiên Chúa đại xá: “Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài.” (Tv 51:6)

Lời nói của cổ nhân không bao giờ lỗi thời: “Hàm huyết phún nhân, tiên ô tự khẩu.” (Ngậm máu phun người thì bẩn miệng mình trước.) Thế nhưng kẻ xấu vẫn bất chấp. Suy nghĩ xấu dẫn tới ước muốn xấu, ước muốn xấu dẫn tới hành động xấu, hành động mãi thành thói quen, và thói quen trở thành số phận. Vô cùng nguy hiểm!

Người ta thường nói màu sắc. Màu liên quan Sắc. Cái gì Đen thì Tối. Việt ngữ rất thâm thúy. Thánh Phaolô cảnh báo: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu.” (Rm 13:12) Đó là động thái đặc biệt của Mùa Chay Thánh – cơ hội nên thánh.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con nhận biết Ngài, nhận biết mình, và nhận biết mưu ma chước quỷ, để chúng con đủ can đảm sống ngay thẳng và sám hối suốt đời. Xin Ngài gia ân nâng đỡ và bảo vệ chúng con trên suốt hành trình sám hối và hành trình đức tin. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

 [*] Thất tình: Hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục. Lục dục: (1) Sắc dục: ham muốn nhìn thấy sắc đẹp; (2) Thính dục: ham muốn nghe âm thanh êm tai; (3) Hương dục: ham muốn ngửi mùi thơm dễ chịu; (4) Vị dục: ham muốn món ăn ngon miệng; (5) Xúc dục: ham muốn xác thân sung sướng; (6) Pháp dục: ham muốn ý nghĩ được thỏa mãn.

Về mục lục

TRUNG THÀNH VỚI LỜI GIAO ƯỚC RỬA TỘI

Lm Trần Bình Trọng

Theo Thánh kinh, thì mỗi khi Thiên Chúa có điều chi thoả thuận với dân mình, thì Người lập giao ước. Giao ước Thánh kinh khác với hợp đồng giữa hai phe nhóm hoặc hiệp định giữa hai quốc gia.

Một bên của hợp đồng hay hiệp định có thể giầu mạnh hoặc ảnh hưởng hơn bên kia, nhưng hai bên coi nhau như ngang hàng. Trong hợp đồng hay hiệp định, nếu một bên lỗi phạm, thì bên kia không phải tuân giữ. Còn giao ước Thánh kinh thì có tính cách đơn phương. Thiên Chúa luôn đứng chủ động để khởi sự giao ước bằng việc bày tỏ tình yêu của Người cho nhân loại. Và Thiên Chúa mời gọi loài người đáp trả lại tình yêu đó.

Giao ước đầu tiên được ghi lại trong Thánh kinh là giao ước giữa Thiên Chúa và ông Nô-ê khi Chúa phán: Ðây Ta lập giao ước của Ta với các ngươi, với dòng dõi các ngươi sau này và tất cả mọi sinh vật ở với các ngươi (St 9:9-10). Bài trích sách Sáng thế hôm nay ghi lại: Sau khi Chúa cứu gia đình ông Nôê khỏi hồng thuỷ, thì Chúa cho cầu vồng xuất hiện như là một biểu hiệu của lòng nhân từ hay thương xót của Chúa. Cầu vồng là biểu hiệu của giao ước giữa Thiên Chúa và ông Nôê có nghĩa là bão táp đã qua đi và nước lụt đã rút xuống.

Còn giao ước quan trọng nhất trong thời Cựu ước là giao ước Chúa ban cho dân Người qua Môsê trên núi Sinai (Xh 20:1-21) khi Chúa ban Mười Giới luật cho dân Người và được phê chuẩn bằng máu chiên đổ trên bàn thờ (Xh 24). Trong thời Cựu ước, qua các ngôn sứ, Thiên Chúa luôn nhắc nhở cho dân Người phải trung thành với lời giao ước và Thiên Chúa luôn trung thành với lời giao ước. Tuy nhiên dân riêng Chúa không mấy khi giữ lời giao ước. Họ thường bất trung, phản bội. Lỗi lời giao ước thì Chúa chỉ phạt, rồi Chúa lại giang tay đón nhận họ trở về khi họ thực lòng ăn năn sám hối.

Sau cùng Thiên Chúa làm một giao ước vĩnh cửu với dân riêng qua chính Con Một của Người. Giao ước đó được kí kết, không phải bằng máu hiến tế của chiên cừu trong Cưu ước, nhưng bằng Máu Con Thiên Chúa như ta nghe linh mục chủ tế công bố lời Chúa truyền phép trên chén rượu trong thánh lễ: Máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và muôn người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy (Mt 26:28; 1Cor 11:25).

Thư thứ nhất của Thánh Phêrô tông đồ cho thấy có sự song hành giữa giao ước của Thiên Chúa với ông Nôê và giao ước Chúa thiết lập trong Bí tích Rửa tội. Theo thánh Phêrô thì việc gia đình ông Nôê được cứu thoát khỏi nạn hồng thuỷ, là dấu báo hiệu người tín hữu cũng được cứu thoát qua nước rửa tội (1Pr 3:20-21).

 Hôm nay Giáo hội muốn nhắc nhở cho ta một biến cố đã xẩy ra cho mỗi người khi còn ở tuổi măng sữa: đó là Bí tích Rửa tội. Các nhà tâm lý học thường nhấn mạnh đến những gì ta có kinh nghiệm, ngay cả khi còn nhỏ tuổi, đều có ảnh hưỏng đến đời sống hiện tại. Bí tích rửa tội là một biến cố vĩ đại. Hoặc ta chịu phép Rửa tội khi còn ở tuổi măng sữa, hay khi đã lớn, ta phải tìm hiểu ý nghĩa của phép Rửa tội và sống phù hợp với ý nghĩa của Bí tích.. Bí tích Rửa tội là một giao ước giữa Thiên Chúa với loài người. Trong Bí tích Rửa tội, Thiên Chúa ban tình yêu và lòng thương xót, còn người chịu phép rửa tội hứa giữ lòng trung tín, lo tròn bổn phận làm con.

Theo truyền thống cổ xưa, thì Giáo hội luôn nhấn mạnh việc rửa tội người dự tòng trong mùa Chay. Ngay từ hồi khởi đầu, Giáo hội đòi hỏi người dự tòng phải dùng suốt mùa Chay để học đạo, sửa soạn cho việc rửa tội trong đêm thánh Vọng Phục sinh.

Giáo hội thiết lập mùa Chay kéo dài bốn mươi ngày để ghi nhớ 40 ngày Chúa Giêsu đi vào hoang địa, ăn chay và chịu Xa-tan cám dỗ (Mc 1:13). Ngày nay Giáo hội khuyến khích người tín hũu giữ truyền thống mùa Chay, thời gian cầu nguyện, ăn năn sám hối và làm việc từ thiện bác ái. Mùa Chay là thời giờ giúp ta từ bỏ tội lỗi và đền tội, cải tạo đời sống để trở về với Chúa. Ðể sửa soạn cho giao ước trên núi Sinai, Môsê cũng ăn chay 40 ngày (Xh 34:28; Ðnl 9:9). Êlia, một ngôn sứ có giọng thét ra lửa, ăn chay 40 ngày trong cuộc hành trình lên núi Khôrếp (1V 19:8). Theo truyền thống Kitô giáo, Gioan tiền hô, một đại ngôn sứ cuối cùng thời Cựu ước, cũng ăn chay 40 ngày trước khi được gọi để sửa soạn cho việc Chúa đến bằng cách kêu gọi dân chúng chịu phép rửa thống hối. Như vậy việc người tín hữu ăn chay, không phải là một hành động tách biệt riêng rẽ, nhưng là ăn chay cùng với Ðức Kitô và theo gương các ngôn sứ và đồng thời với các tín hữu khác.

Trong Đêm thánh vọng Phục sinh, Giáo hội mời gọi người tín hữu ôn lại lời hứa khi chịu Phép Rửa tội là từ bỏ Xa-tan, cùng những xúi giục và quyến rũ của nó. Xatan đã được nhắc đến trong Thánh kinh năm mươi bảy lần. Riêng bốn Phúc âm thì nhắc đến Satan mười bốn lần. Như vậy Xatan phải có thật. Xatan là tướng quỉ đã được phép cám dỗ Ðức Giêsu thì quỉ – hoặc qủi đực hay quỉ cái – lại càng nhất quyết tấn công loài người để lôi kéo người ta vào thế giới tối tăm. Theo các nhà dẫn đàng thiêng liêng và theo lời dạy bảo của thánh Giacôbê thì, nếu ta dứt khoát với Xatan một vài lần, quỉ dữ sẽ cụt hứng không còn dám bén bảng đến nữa (Gc 4:7). Ðể cho việc ôn lại lời hứa khi chịu phép rửa tội khỏi trở thành vô nghĩa, ta cần sống tinh thần mùa chay: đó là tinh thần cầu nguyện, tạ tội và làm việc từ thiện bác ái.

Lời cầu nguyện xin Chúa giúp chống trả cám dỗ:

Lạy Chúa, Chúa đã chịu để Xa-tan cám dỗ

và Chúa lướt thắng cám dỗ.

Xin tha thứ những lần con không tránh xa dịp tội,

những lần con không chịu kỉ luật hoá mình,

cho nên cám dỗ mới đến với con.

Xin dạy con biết luyện chưởng thiêng liêng

để con có thể chống trả cám dỗ. Amen.

Về mục lục

CHIẾN THẮNG CÁM DỖ

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

Năm nào cũng vậy, cứ vào Chúa nhật thứ nhất Mùa chay, Giáo hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng kể về việc Chúa Giêsu bị cám dỗ và chiến thắng Satan. Năm A và C, đọc Tin Mừng của thánh Matthêu và thánh Luca, kể lại sự kiện này khá dài, kể rõ ba chước cám dỗ và ba lần Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ.

Năm nay năm B, đọc Tin Mừng của thánh Marcô, kể lại rất vắn tắt, chỉ cho biết: “Thần khí thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa. Người ở đó 40 ngày, chịu Satan cám dỗ”. Tuy thánh Marcô không trực tiếp cho biết Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan, đã xua đuổi nó, nhưng suốt sách Tin Mừng, thánh Marcô sẽ cho thấy Chúa Giêsu đi tới đâu thì Satan bị đánh bại đến đấy. Giáo hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng này để mời gọi chúng ta chiêm ngắm hình ảnh Chúa Giêsu như kiểu mẫu và bảo đảm cho chúng ta trong cuộc chiến đấu với Satan và những cám dỗ của nó.

Đời người được ví như một đấu trường, ở đó con người phải luôn chiến đấu: chiến đấu với ngoại cảnh, chiến đấu với nhiều thứ, nhất là chiến đấu với chính mình. Tại sao vậy? Bởi vì mang thân phận con người, ai ai cũng bị giằng co, xâu xé bởi hai khuynh hướng mâu thuẫn nhau: một cái kéo con người lên và một cái lôi con người xuống. Hai khuynh hướng đó đều nội tại trong con người, khiến cho nội tâm con người trở thành chiến trường, đôi khi rất cam go làm con người đau khổ.

Khuynh hướng đi lên là khuynh hướng căn bản của ý chí con người. Ai cũng muốn mình là người tốt, ai cũng muốn mình làm điều thiện, chứ không ai muốn mình xấu hay làm điều ác cả. Nhưng muốn là một chuyện, còn có làm điều tốt hay không lại là chuyện khác. Thánh Phaolô đã nói: “Tôi không hiểu nổi việc tôi làm: điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm”. Vì thế, muốn đi lên, con người phải cố gắng, phải dùng chính sức mạnh của mình, phải hao tổn năng lực của mình.

Còn khuynh hướng đi xuống cũng ở trong nội tâm, nhưng kể từ khi nguyên tổ phạm tội, khuynh hướng này đã được ma quỉ tăng cường làm cho mạnh lên, khiến con người muốn đi lên phải chiến đấu rất vất vả. Còn muốn đi xuống thì chẳng cần phải cố gắng gì cả, chỉ cần buông thả, không cố gắng nữa là tự động đi xuống. Chính vì thế làm thiện khó hơn làm ác rất nhiều. Và cái lực hấp dẫn mọi người làm ác hoặc không làm thiện là lực của ma quỉ.

Đúng vậy, đàng sau bối cảnh chiến trường mà con người phải chiến đấu, ẩn hiện chập chờn một nhân vật rất nguy hiểm mà Kinh thánh gọi là kẻ thù, ấy là satan. Satan là quỉ, nó là “xếp xòng” của loài quỉ. Satan hay quỉ trước kia là các thiên thần, nhưng vì làm loạn cùng Thiên Chúanên bị tống cổ ra khỏi thiên đàng và bị đày xuống hỏa ngục. Từ ngày thất thế, Satan và bè lũ trở nên những kẻ thù nguy hại của loài người. Chúng chuyên môn áp đảo, quấy phá để làm cho người ta hư hỏng theo chúng. Chúng đã làm hư hỏng biết bao nhiêu người. Chúng đã du nhập vào trần gian đủ thứ gian tham, lừa lọc, tội ác, bất công và những lối sống lố bịch, nham nhở, nhăng nhít… Tất nhiên có người sẽ nói: có thấy Satan hay quỉ nào công khai làm những chuyện đó đâu? Đúng thế, ngày nay chúng ta ít được chứng kiến những vụ quỉ ám nhãn tiền mà Kinh Thánh đã ghi lại. Ngày nay rất ít trường hợp Satan hiện nguyên hình trực tiếp tác oai tác quái nữa, nhưng gián tiếp điều khiển trong bóng tối. Đó là một sức mạnh vô hình luôn tác động trong tâm trí chúng ta: lôi kéo, xúi bẩy chúng ta đến chỗ hành động xấu xa, tội lỗi. Chiến thuật hay phương thế ma quỉ sử dụng là cám dỗ. Chúng không kiêng nể ai hay buông tha ai. Vì thế, không ai thoát khỏi cám dỗ của chúng.

Theo nghĩa thông thường chúng ta quen hiểu, cám dỗ là dịp phạm tội. Bị cám dỗ là khi chúng ta thấy mình hướng chiều về một điều ưa thích thuộc phạm vi cấm đoán. Chẳng hạn: một vẻ quyến rũ từ bên ngoài lôi cuốn, một sự xôn xao, rạo rực, thèm khát từ bên trong thúc đẩy; một âm mưu hay thủ đoạn bày vẽ ra trong trí khôn thúc đẩy chúng ta hành động; một sự nhắm mắt làm liều, một hành động nổi loạn của toàn thân từ chối ép mình trong trật tự… Đó là những phát hiện của cơn cám dỗ. Như vậy, bị cám dỗ, bất cứ là cám dỗ về phương diện gì, không phải là tội. Khi chúng ta bị cám dỗ thì chỉ có nghĩa là chúng ta bị thử thách thôi. Và chỉ khi nào chúng ta bị thua chước cám dỗ thì mới có tội.

Đành rằng ma quỉ cám dỗ chúng ta. Nhưng chúng chỉ là kẻ thù nguy hiểm thứ hai sau xác thịt của chúng ta: thế gian, ma quỉ và xác thịt. Đó là ba kẻ thù ghê gớm. Ma quỉ chỉ là kẻ xách động, cám dỗ, thúc đẩy, xúi giục chúng ta phạm tội, nhưng chúng có gặp được sự đồng tình đồng ý của chúng ta hay không? Tức là chúng ta có chấp nhận và chiều theo chước cám dỗ hay không? Nói khác đi, ma quỉ chỉ có thể cám dỗ được chúng ta khi chúng ta có nhu cầu, ham thích, đam mê đối với những thực tại trần gian. Chúng ta có làm chủ được những nhu cầu thể chất ấy chúng ta mới dễ dàng thắng lướt được những cám dỗ, và không để cho khuynh hướng xấu làm chủ mình. Từ ngày có trí khôn cho đến giờ, ai trong chúng ta cũng đều có kinh nghiệm về việc cám dỗ. Chúng ta đã bị cám dỗ nhiều lần. Có lần chúng ta đã vượt qua được, và nhiều lần đã bị vấp ngã. Đó chính là thân phận của con người yếu hèn và bất toàn. Không bao giờ vấp ngã, đó là chuyện khác thường, đặc biệt, vô cùng tạ ơn Chúa. Còn hay bị vấp ngã, đó là chuyện bình thường. Và điều quan trọng là chúng ta phải ăn năn sám hối ngay.

Về mục lục

CHIẾN THẮNG SỰ XẤU

Lm. Jos DĐH.

Xã hội thời nào cũng cần đến người tài giỏi đức độ, gia đình giầu nghèo, kiến thức hẹp hay rộng, đều cho thấy tính thời sự hết sức đẹp, khi quê hương đất nước mỗi ngày mỗi lúc được phồn vinh thịnh vượng. Sống trên đời này, tự nhiên người ta hướng đến hạnh phúc, và nghĩ đến công thành danh toại. Ở trong phạm vi cao sâu hơn, người ta luôn khao khát bình an, niềm vui, dù ước muốn hạnh phúc còn mờ ảo mông lung. Cùng chung mơ ước: cha mẹ giầu thì con có, bậc sinh thành đầu tư cho con cháu, xã hội luôn ưu đãi và thu phục người tài đức, mở ra một tương lai tươi sáng, xứng hợp với thiên ý: anh em bốn bể một nhà. Khởi đi từ Đức Giêsu, người tín hữu chúng ta được mời gọi đến sa-mạc, tiến sâu vào cõi lòng mình, mọi người sẽ được ơn soi sáng để biết, hiểu, và sống thánh ý Chúa cách trọn vẹn hơn.

Sau 30 năm chuẩn bị tại Nagiarét, Đức Giêsu đã thấy những khổ đau của con người, đã nghe biết Gioan hoàn tất sứ mạng làm chứng thật xuất sắc. Để diễn tả tình yêu thương của Thiên Chúa, cũng là thánh ý Chúa Cha được xác thực, Đức Giêsu được Thánh Thần dẫn vào hoang địa cầu nguyện, Ngài đã chiến thắng cám dỗ bằng sức mạnh của tình yêu và vâng phục. Người kitô hữu theo Đức Kitô hôm nay, ai ai cũng được mời gọi chiến đấu và chiến thắng, trước là bản thân mình, sau là thế gian và ma quỷ. Chiến thắng tội lỗi của mình, chiến thắng sự xấu nơi xung quanh mình, sẽ không giống như một công thức sẵn có: khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương. Tính chuẩn mực hay còn gọi là sức mạnh của niềm tin, chính là sự thinh lặng cầu nguyện, Đức Giêsu đã chiến đấu tại sa-mạc và chiến thắng xuyên suốt hành trình cứu nhân độ thế của Ngài.

Nếu ở đời cho rằng: to mập béo bền, ăn chắc mặc bền, một số khác lại nói: nhỏ gọn mới đẹp, mới phù hợp với con người hiện đại. Nơi sa-mạc cõi lòng, Đức Giêsu cho thấy sự “nên một trong cầu nguyện”, chính là điều cần thiết để hiểu và để sống thánh ý Chúa Cha rõ ràng nhất. Trong đời sống tự nhiên, chẳng ai đủ khôn khéo để né tránh đau khổ và nước mắt, hẳn trong đời sống thiêng liêng, ai cũng cần phải tập luyện nhân đức, cần đến sự kết hiệp cầu nguyện, hầu có thể chiến đấu, chiến thắng sự xấu, cám dỗ và quỷ thần ám ảnh. Nếu không hệ trọng trước thiên tính và nhân tính, Đức Giêsu đâu cần Thánh Thần dẫn vào sa-mạc, và Ngài cũng chẳng cần sống chay tịnh tới 40 đêm ngày. Chắc chắn việc ăn chay cầu nguyện phải hữu hiệu lắm, vì thế, khi kết thúc những ngày sống mật thiết với Chúa Cha tại sa-mạc, Đức Giêsu liền đi rao giảng: “…Triều đại Nước Thiên Chúa đã gần, anh em hãy sám hối và tin vào Tin mừng”.

Hiền nhân chúng ta ắt phải trải qua nhiều gian khổ, nên mới đủ kinh nghiệm nhắn gởi hậu thế: giới hạn cao nhất của lòng kiên nhẫn là, không nhiều lời, không cáu, không giận hờn. Đức Giêsu với tư cách là Thầy dạy đức tin, không những Ngài mặc khải tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, Ngài còn cho thấy tầm quan trọng của chay tịnh cầu nguyện là cần thiết, do đó, sám hối luôn thiết thực nhằm giúp ta sống đúng, sống đẹp, ý Chúa. Ngày hôm nay, ăn chay, kiêng thịt, nhiều tôn giáo vẫn đang thực hiện, nhưng người kitô giáo mời gọi sống chay tịnh, kiêng khem, với mục đích giúp tâm hồn thanh thản để cầu nguyện, gặp, hiểu thánh ý Chúa, hầu có thể đạt tới bình an và hạnh phúc thật.

Cuộc sống phức tạp đủ điều, rất cần đến sức mạnh của tình yêu, của ơn thánh Chúa, con người tự nhiên: nghèo sinh bệnh, giầu sinh tật, tài giỏi dễ mắc bệnh kiêu căng, dại khờ chút thì đầy mặc cảm tự ti. Nhà đạo có câu truyện như sau: một chàng trai trẻ sống vô kỷ luật, một hôm chàng gặp một tên quỷ hiện hình, nó đưa ra ba chọn lựa: uống rượu, giết người, đốt nhà, trong 3 điều đó phải chọn một. Chàng trai nghĩ nếu không thể né được, thôi thì ta chọn uống rượu chắc là ổn hơn. Tuy nhiên, sau khi uống rượu, chàng trai la hét đốt nhà, vợ can ngăn, anh ta điên lên giết vợ, sau đó là đốt nhà. Con người giới hạn, đôi khi vì thiếu khôn ngoan, không đủ bình tĩnh để xử trí vấn đề, có thể dẫn đến gục ngã bất cứ lúc nào.

Ngụ ý của câu truyện chắc chắn muốn nhắc đến: cám dỗ nào chẳng nguy hiểm, sự xấu nào cũng đáng sợ, chỉ khi người ta biết sống kỷ luật với bản thân, có đời sống kết hiệp cầu nguyện, có sức mạnh của tình yêu, kẻ ấy mới đủ sức chiến thắng sự xấu. Cha mẹ ông bà là chỗ dựa của con cháu, thì Chúa Giêsu chính là mục tử chăn dắt đoàn chiên. Mỗi người tín hữu trước hết phải có lòng mơ ước đủ ơn Chúa, đủ khôn ngoan của Chúa, người ấy mới thấy và hiểu cầu nguyện, chay tịnh là phương thế hữu hiệu để chiến thắng cám dỗ, chiến thắng sự dữ ở đời này. Amen.

Về mục lục

CUỘC CHIẾN ĐẤU THIÊNG LIÊNG

Bông hồng nhỏ

Bước vào Mùa Chay thánh, Lời Chúa mời gọi ta: cùng với Chúa Giêsu để Thần Khí đẩy vào hoang địa, nơi sâu thẳm của lòng mình để lắng nghe Thần Khí hướng dẫn, tìm kiếm và thi hành thánh ý Thiên Chúa.

Sau khi chịu phép rửa tại sông Giođan, Chúa Giêsu liền được Thần Khí đẩy vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (Mc 1, 12-13). Chúa Giêsu bắt đầu bước vào cuộc chiến đấu thiêng liêng. Người mở đường cho những ai muốn được lớn lên trong ân nghĩa cùng Thiên Chúa. Cuộc chiến đầy thử thách ấy sẽ tôi luyện ý chí và nghị lực của Người. Bốn mươi ngày sống trong hoang địa, Người sống trong sự thiếu thốn, khắc khổ, nguy hiểm luôn rình rập. Đó cũng là những gì Người sẽ trải qua trong cuộc đời rao giảng của Người: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9,58). Người chia sẻ tất cả những khó khăn, thử thách với con người trong cuộc chiến đấu thiêng liêng ấy. Đã nhiều lần ta cũng phải trải qua cuộc chiến đấu dành cho chính mình. Ta cũng đã cảm nhận rằng những cám dỗ lôi cuốn ta cách mạnh mẽ. Ta yếu ớt chống chọi và dễ dàng quỵ ngã, buông theo dục vọng. Nếu không bám vào ơn Chúa, không để cho sức mạnh của Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, ta sẽ bị Satan khuất phục. Mỗi lần vấp ngã, ta hãy khiên tốn để cho Thiên Chúa vực ta đứng dậy, để sức mạnh của người đẩy ta tiếp tục đứng lên. Đó là khi ta mau mắn đến với Bí tích Giải tội để được giao hòa cùng Thiên Chúa, siêng năng lãnh nhận các Bí tích, nhất là đón nhận Mình Thánh Chúa để có sức thiêng chống lại địch thù. Bản thân ta có rất nhiều nhu cầu, nếu không dừng lại để phân định và chọn lựa, ta sẽ vấp ngã ngay. Quá dễ dãi với chính mình thường đem đến nhưng chọn lựa sai lầm và làm ta phải hối hận. Ở trong Thần Khí, để Thần Khí hướng dẫn, Chúa Giêsu đã từng bước chiến thắng các cám dỗ. Chúa Giêsu dạy ta hãy mở lòng ra trước sức mạnh tình yêu của Thần Khí Thiên Chúa, Thần Khí sẽ lôi cuốn và đẩy ta tiến bước. Chúa Giêsu đã tự nguyện để Thầy Khí đẩy vào hoang địa, chịu thử thách, đón nhận sự thanh luyện của Thiên Chúa, luôn tìm kiếm và thi hành thánh ý Người. Ta có muốn chọn lựa cùng một hành động như Chúa Giêsu không?

Ta hãy chiêm ngắm gương Chúa Giêsu, chiêm ngắm mỗi ngày để thấy rõ từng hành động của Người và sống như Người đã sống. Khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu loan báo: “Thời kỳ đã mãn và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 15). Ta có nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời mình, ngay trong lòng mình không? Đứng trước lời mời gọi của Chúa, ta có vui mừng đón lấy vì Tin Mừng đang đến với ta và ở trong ta, hay ta buồn bực vì phải từ bỏ điều mình mong muốn. Chúa Giêsu đã chẳng dạy ta rằng nếu ta muốn theo Người, ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Người sao. Sám hối chính là thái độ ta cần phải có mỗi ngày. Đức Giáo hoàng Phanxicô từng khẳng định: Thiên Chúa không mệt mỏi khi tha thứ cho ta. Điều quan trọng là ta có đủ khiêm tốn để đón nhận lòng thương xót của Người không. Khi sám hối, ta hãy xin Chúa giúp ta biết diễn tả đức tin của mình cách sống động. Thánh Giacôbê tông đồ đã khuyên nhủ ta: Đức tin không có việc làm là đức tin chết. Tình yêu không có hành động là tình yêu chóng tàn, nếu không muốn nói đó là một tình yêu giả dối. Mùa Chay, Hội Thánh mời gọi con cái mình thi hành ba việc: cầu nguyện, ăn chay, bố thí. Cầu nguyện giúp ta gắn bó mật thiết hơn với Thiên Chúa. Ăn chay giúp ta chế ngự con người tự nhiên trong ta, giúp ta khiêm tốn đón nhận giáo huấn của Chúa Giêsu. Làm việc bác ái giúp ta mở rộng trái tim, cảm thông và yêu thương anh chị em như Chúa mời gọi. Cả ba việc làm ấy được thực hiện với lòng yêu mến Chúa, được dẫn dắt bởi Thần Khí Tình yêu và để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã đến và ở trong con mỗi ngày. Con tin rằng, ở trong Chúa, con sẽ mạnh mẽ và can trường hơn trong cuộc chiến đấu thiêng liêng, biết lắng nghe sự thúc đẩy của Thánh Thần và mau mắn thi hành thánh ý Thiên Chúa mỗi ngày. Amen.

Về mục lục

CÁM DỖ THỜI NAY

Lm. Xuân Hy Vọng

Nhiều người trong chúng ta có thể đã hỏi ít nhất một lần trong đời rằng: Đức Giê-su vào hoang địa, chịu cám dỗ để làm gì? Ngài là Ngôi Lời, là Thiên Chúa, thì chắc chắn sẽ chiến thắng mọi cơn xúi giục, lôi kéo, cám dỗ của ma quỷ, điều này không đúng sao? Trước khi bắt đầu sứ vụ rao giảng Nước Trời cách công khai, biến cố Đức Giê-su chịu cám dỗ có ý nghĩa gì? Hơn hết, cuộc chiến chống lại cám dỗ của Ngài có cần thiết và hệ trọng đối với chúng ta, đặc biệt trong đời sống đạo của mỗi người chúng ta chăng?

Đây chỉ là một số câu hỏi, thiết nghĩ chúng ta đôi lần cũng tự đặt ra cho mình, cũng như cho những ai có trách nhiệm giảng dạy, đào tạo và đồng hành thiêng liêng. Tuy nhiên, ở đây, chúng ta không cố gắng tìm lời giải đáp cho tất cả mọi nghi vấn, câu hỏi mà chúng ta đặt ra. Cho bằng, chúng ta cùng đặt bản thân mình vào các bài đọc hôm nay, nhất là đoạn Tin Mừng ngắn ngủi này, hy vọng chúng ta sẽ tìm thấy, sẽ khám phá điều gì Chúa muốn nói với chúng ta trong Mùa Chay Thánh này: “Khi ấy, Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giê-su vào hoang địa và Ngài ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Sa-tan cám dỗ, sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Ngài” (Mc 1, 12-13).

Như chúng ta biết, sau khi Chúa Giê-su chịu phép rửa tại sông Gio-đan, thì Ngài được Thần Khí thúc đẩy đưa vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ, nơi đó Ngài ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày (x. Mt 3, 16 – 4, 2; Lc 3, 21- 4, 2). Như thế, đây không đơn giản là cuộc chiến chống lại cơn cám dỗ đơn thuần, mà đúng hơn, qua biến cố này, Đức Giê-su để lại tấm gương quý giá, và bộc lộ khả năng thần thiêng nơi con người, bởi lẽ con người được Thiên Chúa dựng nên giống Ngài và theo hình ảnh Ngài (Imago Dei). Thật sự, con người đã sa ngã, phạm tội, không giữ lời hứa với Thiên Chúa (x. hình ảnh A-đam và E-và ăn trái cấm), nhưng tiềm ẩn trong con người vẫn không mất đi tính thần thiêng, cũng chẳng mất đi khả năng chống lại cơn cám dỗ của ma quỷ. Thánh Sử Mác-cô không kể chi tiết Đức Giê-su đã chịu cơn cám dỗ ra sao, và Ngài đã chiến đấu với những cơn cám dỗ thế nào; nhưng Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu và Lu-ca cho chúng ta thấy rõ ba loại cám dỗ chính liên quan đến vật chất (tiền bạc), quyền lực và danh vọng (x. Mt 4, 2-11; Lc 4, 2-13). Đức Giê-su đã dùng Lời Chúa, dùng việc ăn chay cầu nguyện và sự tín thác kiên vững của Ngài mà chống lại sự xúi giục của ma quỷ. Đây chính là cách chúng ta soi vào, noi gương Ngài mỗi khi bị cám dỗ, hoặc có những xu hướng lệch lạc, khiến chúng ta xa rời Thiên Chúa, hoặc đối nghịch với giáo lý Giáo Hội.

Giữa thời đại này, có quá nhiều kiểu cám dỗ, vô vàn loại hình lôi kéo chúng ta bỏ đàng công chính, sống buông thả theo lối ‘đến đâu hay đến đấy’. Một trong nhiều thứ cám dỗ mà chúng ta cảm nhận rõ rệt ngày nay, đó là: ‘chẳng sao đâu, anh (chị) vẫn còn nhiều thời gian/thời giờ mà!’, ‘để sau cũng được mà! Chứ vội vàng (xưng tội, ăn năn sám hối…) làm chi!’, ‘hôm nào tiện thì làm (ví dụ: chần chừ đi xưng tội, phạm hết tội nhẹ đến tội trọng, nhưng dự định gộp một lần rồi xưng tội) luôn một thể’, đặc biệt khi sống làm việc ở xứ người, vừa không biết ngôn ngữ vừa biếng nhác, chưa trưởng thành trong đời sống đạo. Ngoài ra, một loại cám dỗ khác cũng khá phổ biến thời nay, đó là: ‘hành vi/hành động sai/xấu nhưng nếu chẳng ai bắt được tận tay, thì xem như bình thường’, ví dụ: ăn cắp vặt, ăn trộm vặt, nếu không ai thấy thì hành vi sai trái ấy vẫn coi như chẳng có gì nghiêm trọng cả. Như chúng ta biết hành vi sai trái, tội lỗi ở bản chất nó thì cho dù khi thực hiện có ai bắt được hay có ai thấy hay không, hành vi đó vẫn sai trái, tội lỗi. Hơn thế, một thứ cám dỗ khác như thể ‘vàng thật vàng thau lẫn lộn’, ấy là: hành động sai ngay tại bản chất của nó, nhưng nếu nhiều người làm thì nó lại trở nên bình thường như ‘bình chân như vại’! Một hành vi xấu xa ở bản chất của nó, thì cho dù nhiều hay ít người làm đi chăng nữa, nó vẫn là hành vi sai trái. Tuy ba kiểu cám dỗ thời đại này tinh vi, và hầu như phải chiến đấu nội tâm, nhưng ở mức độ nào đó, chúng vẫn liên quan đến tiền-tài-tình hoặc tiền tài-quyền lực-danh vọng-sắc dục.

Với tấm gương kiên định chống lại cám dỗ của Đức Giê-su, và trong niềm tín thác “Chúa Ki-tô đã chết một lần cho tội lỗi chúng ta, Ngài là Đấng công chính thay cho kẻ bất công, để hiến dâng chúng ta cho Thiên Chúa” (1Pr 3, 18), thì chúng ta vượt thắng mọi cơn cám dỗ. Nhờ vào lòng nhân từ Chúa, gia đình ông No-ê (gồm tám người) được cứu khỏi lụt đại hồng thuỷ (x. St 8-9) và Ngài đã ký kết giao ước với ông qua dấu chỉ ‘chiếc cầu vòng’ (‘cái mống’ hoặc ‘cây cung trên trời’ như một số bản dịch Kinh Thánh tiếng Việt sử dụng), rằng: Thiên Chúa sẽ không trừng phạt như vậy nữa; thay vào đó, Ngài khoan dung, nhân từ, nhẫn nại, chờ đợi con người. Ngài thanh tẩy và ban cho con người một lương tâm ngay thẳng, nhờ sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa hằng sống (x. 1Pr 3, 21-22). Nhờ đó, chúng ta thêm mạnh sức, chống chọi với mọi cám dỗ, mọi xúi giục, mọi lôi kéo của ma quỷ, hòng tách rời chúng ta xa lìa Thiên Chúa. Với đời sống cầu nguyện liên lỉ bền bỉ, ăn chay hãm mình đền tội, và tận tâm làm việc bác ái yêu thương trong Mùa Chay Thánh này, chúng ta sẽ luôn cảm nghiệm Chúa nâng đỡ, và đồng hành qua Giáo Hội; chúng ta sẽ được thông phần vào mầu nhiệm Thương Khó-Tử Nạn-Phục Sinh của Đức Ki-tô.

Giờ đây, chúng ta thành tâm dâng lời nguyện cầu:

Chúa đã chiến thắng cám dỗ thế nào
Xin cho chúng con chẳng nao lòng vậy
Kiên vững chống lại ma quỷ xấu thay
An chay, cầu nguyện, tháng ngày yêu thương. Amen!

Về mục lục

TIN MỪNG GIÚP HOÁN CẢI

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

“Thời kỳ đã mãn và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”(Mc 1,1..). Nội dung lời rao giảng của Đấng Cứu Thế, Giêsu Kitô thật ngắn gọn mà rõ ràng và đủ đầy ý nghĩa. Đang bước vào Mùa Chay thánh, xin được sẻ chia đôi tâm tình liên hệ đến vế sau lời rao giảng của Chúa Kitô: “Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng. Thử hỏi rằng phải chăng nhờ ăn năn sám hối nên chúng ta tin vào Tin Mừng hay nhờ tin vào Tin Mừng nên chúng ta sám hối ăn năn?

Để có được câu trả lời mang tính khả tín thì chúng ta cần làm rõ nội hàm của hai từ Tin Mừng. Hai từ Tin Mừng vừa nói lên sứ điệp gieo rắc niềm vui đích thực vừa nói đến chính niềm hạnh phúc, niềm vui trọn hảo. Như thế Tin Mừng ở đây chính là Chúa Kitô, là con người, cuộc đời, các hoạt động và lời giảng dạy của Người. Nước Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta. Nước Trời chính là Chúa Kitô và Tin Mừng cũng chính là Người. Và ai thấy Người là thấy Chúa Cha (x.Ga 14,9).

Đến thế gian này sứ mạng chủ yếu của Chúa Kitô là tỏ bày cho nhân loại nhận biết chân dung đích thực của Thiên Chúa tối cao cũng như chương trình ý định của Ngài trên toàn thể thụ tạo, cách riêng trên loài người chúng ta.

Bài đọc thứ nhất trích sách Sáng thế nói đến một Thiên Chúa tự nguyện ký kết giao ước với nhân loại. Người tự nguyện cam kết rằng sẽ không trừng phạt con người: “Ta lập giao ước của ta với các ngươi: mọi xác phàm sẽ không còn bị nước hồng thuỷ huỷ diệt…”(St 9,11). Thiên Chúa sẽ không bao giờ quên giao ước Người đã lập. Và mọi đường lối của Người đều là yêu thương và thành tín (x.Tv 24). Lòng thành tín của Thiên Chúa đã hiện lộ cách rõ nét khi đến thời viên mãn với công cuộc nhập thể cứu độ của Chúa Kitô.

Để giúp con người từ bỏ tội lỗi, ăn năn sám hối và đổi thay nếu sử dụng phương pháp hù doạ, nghĩa là trình bày các hậu quả xấu xa phải gánh chịu, thi dường như dễ có kết quả tức thời nhưng lại không bền. Bên cạnh đó cái phương pháp này nhiều khi làm méo mó chân dung Thiên Chúa, Đấng tốt lành vô cùng, là Cha nhân hậu, giàu lòng xót thương.

Khởi đầu sứ vụ rao giảng tin mừng, Chúa Kitô đã xác nhận lời tiên tri Isaia ứng vào sứ mạng của mình: “Thần Khí chúa ngự trên tôi, vì chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…” (Lc 4,18-19). Một nội dung chính của Tin Mừng đó là :“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).

Mùa Chay thánh đã về, đoàn Kitô hữu thường được nghe các vị chủ chăn nói đến chủ đề tội lỗi. Đây là một việc làm chính đáng. Thế nhưng nếu quá chăm chăm dán mắt vào cái được gọi là tội lỗi thì nhiều khi chúng ta sẽ bị lệch lạc trong cái nhìn. Mầu nhiệm tội lỗi chỉ được sáng tỏ khi chúng ta quy chiếu cái nhìn vào Thiên Chúa và tình yêu Người đã dành cho chúng ta. Thiên Chúa, Đấng Tối Cao và giàu lòng xót thương là khởi điểm để chúng ta nhận ra thân phận tội lỗi của mình và cũng là đích đến khi chúng ta nỗ lực ăn năn hoán cải, đổi thay, trở về.

Một thực tế của Mùa Chay: Nơi nơi, xứ xứ đều có lời mời gọi sám hối và các cử hành bí tích Hoà Giải. Chuyện các Kitô hữu Công Giáo, cách riêng người Công Giáo Việt Nam chen nhau đến toà giải tội dịp Mùa Chay là chuyện quá phổ biến, ít ai chối cãi. Các vị mục tử có nơi phải sắp xếp lịch trình hợp lý mới có thể đáp ứng được nhu cầu này của đoàn tín hữu. Thế nhưng có chăng việc xưng thú lỗi lầm ấy chẳng qua là chỉ để thanh thản lương tâm chút nào đó hầu tham dự các Lễ nghi của Tuần Thánh và để đủ điều kiện rước Thánh Thể dịp Phục sinh? Đại Lễ Phục sinh đến thì mọi sự lại trở về như xưa. Mùa Chay vội qua như nó chưa từng đến. Một sự đổi thay mang tính tích cực và lâu bền chỉ có thể đặt trên nền tảng một cảm nghiệm sâu xa về Tin Mừng là tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta.

Không phải chúng ta sám hối ăn năn rồi chúng ta mới tin vào Tin Mừng là Thiên Chúa Tình Yêu, nhưng nhờ tin vào Tin Mừng là Thiên Chúa giàu lòng xót thương thì chúng ta mới thành tâm ăn năn sám hối, thay đổi đời sống cách cụ thể thiết thực và lâu bền. Ước gì chân dung Thiên Chúa Tình yêu được tỏ lộ nơi đoàn tín hữu Kitô, đặc biệt nơi các vị mục tử để nhiều tâm hồn lầm lạc biết ăn năn trở về. Và khi ấy chúng ta có thể nói rằng Mùa Chay không phải là mùa của sầu khổ, đau buồn mà đich thực là Mùa của hồng ân.

Mong sao không chỉ các đấng bậc trong Hội thánh mà cả đoàn tín hữu Kitô nhiệt thành loan Tin Mừng để tội nhân khi “tin vào Tin Mừng, thì biết sám hối ăn năn”. Tin Mừng cần được loan báo ở đây đó là: làm cho kẻ bị giam cầm thoát khỏi xiềng xích ngục tù, làm cho người mù được sáng mắt, trả tự do cho người bị áp bức, làm cho người nghèo hèn, kém phận biết họ được ưu ái, cho người tội lỗi biết họ luôn được đón chờ và thứ tha…

Về mục lục

CHIẾN THẮNG MA QUỶ VÀ CÁM DỖ CỦA CHÚNG

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

“Thời kỳ đã mãn và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”(Mc 1,1..). Nội dung lời rao giảng của Đấng Cứu Thế, Giêsu Kitô thật ngắn gọn mà rõ ràng và đủ đầy ý nghĩa. Đang bước vào Mùa Chay thánh, xin được sẻ chia đôi tâm tình liên hệ đến vế sau lời rao giảng của Chúa Kitô: “Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng. Thử hỏi rằng phải chăng nhờ ăn năn sám hối nên chúng ta tin vào Tin Mừng hay nhờ tin vào Tin Mừng nên chúng ta sám hối ăn năn?

Để có được câu trả lời mang tính khả tín thì chúng ta cần làm rõ nội hàm của hai từ Tin Mừng. Hai từ Tin Mừng vừa nói lên sứ điệp gieo rắc niềm vui đích thực vừa nói đến chính niềm hạnh phúc, niềm vui trọn hảo. Như thế Tin Mừng ở đây chính là Chúa Kitô, là con người, cuộc đời, các hoạt động và lời giảng dạy của Người. Nước Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta. Nước Trời chính là Chúa Kitô và Tin Mừng cũng chính là Người. Và ai thấy Người là thấy Chúa Cha (x.Ga 14,9).

Đến thế gian này sứ mạng chủ yếu của Chúa Kitô là tỏ bày cho nhân loại nhận biết chân dung đích thực của Thiên Chúa tối cao cũng như chương trình ý định của Ngài trên toàn thể thụ tạo, cách riêng trên loài người chúng ta.

Bài đọc thứ nhất trích sách Sáng thế nói đến một Thiên Chúa tự nguyện ký kết giao ước với nhân loại. Người tự nguyện cam kết rằng sẽ không trừng phạt con người: “Ta lập giao ước của ta với các ngươi: mọi xác phàm sẽ không còn bị nước hồng thuỷ huỷ diệt…”(St 9,11). Thiên Chúa sẽ không bao giờ quên giao ước Người đã lập. Và mọi đường lối của Người đều là yêu thương và thành tín (x.Tv 24). Lòng thành tín của Thiên Chúa đã hiện lộ cách rõ nét khi đến thời viên mãn với công cuộc nhập thể cứu độ của Chúa Kitô.

Để giúp con người từ bỏ tội lỗi, ăn năn sám hối và đổi thay nếu sử dụng phương pháp hù doạ, nghĩa là trình bày các hậu quả xấu xa phải gánh chịu, thi dường như dễ có kết quả tức thời nhưng lại không bền. Bên cạnh đó cái phương pháp này nhiều khi làm méo mó chân dung Thiên Chúa, Đấng tốt lành vô cùng, là Cha nhân hậu, giàu lòng xót thương.

Khởi đầu sứ vụ rao giảng tin mừng, Chúa Kitô đã xác nhận lời tiên tri Isaia ứng vào sứ mạng của mình: “Thần Khí chúa ngự trên tôi, vì chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…” (Lc 4,18-19). Một nội dung chính của Tin Mừng đó là :“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).

Mùa Chay thánh đã về, đoàn Kitô hữu thường được nghe các vị chủ chăn nói đến chủ đề tội lỗi. Đây là một việc làm chính đáng. Thế nhưng nếu quá chăm chăm dán mắt vào cái được gọi là tội lỗi thì nhiều khi chúng ta sẽ bị lệch lạc trong cái nhìn. Mầu nhiệm tội lỗi chỉ được sáng tỏ khi chúng ta quy chiếu cái nhìn vào Thiên Chúa và tình yêu Người đã dành cho chúng ta. Thiên Chúa, Đấng Tối Cao và giàu lòng xót thương là khởi điểm để chúng ta nhận ra thân phận tội lỗi của mình và cũng là đích đến khi chúng ta nỗ lực ăn năn hoán cải, đổi thay, trở về.

Một thực tế của Mùa Chay: Nơi nơi, xứ xứ đều có lời mời gọi sám hối và các cử hành bí tích Hoà Giải. Chuyện các Kitô hữu Công Giáo, cách riêng người Công Giáo Việt Nam chen nhau đến toà giải tội dịp Mùa Chay là chuyện quá phổ biến, ít ai chối cãi. Các vị mục tử có nơi phải sắp xếp lịch trình hợp lý mới có thể đáp ứng được nhu cầu này của đoàn tín hữu. Thế nhưng có chăng việc xưng thú lỗi lầm ấy chẳng qua là chỉ để thanh thản lương tâm chút nào đó hầu tham dự các Lễ nghi của Tuần Thánh và để đủ điều kiện rước Thánh Thể dịp Phục sinh? Đại Lễ Phục sinh đến thì mọi sự lại trở về như xưa. Mùa Chay vội qua như nó chưa từng đến. Một sự đổi thay mang tính tích cực và lâu bền chỉ có thể đặt trên nền tảng một cảm nghiệm sâu xa về Tin Mừng là tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta.

Không phải chúng ta sám hối ăn năn rồi chúng ta mới tin vào Tin Mừng là Thiên Chúa Tình Yêu, nhưng nhờ tin vào Tin Mừng là Thiên Chúa giàu lòng xót thương thì chúng ta mới thành tâm ăn năn sám hối, thay đổi đời sống cách cụ thể thiết thực và lâu bền. Ước gì chân dung Thiên Chúa Tình yêu được tỏ lộ nơi đoàn tín hữu Kitô, đặc biệt nơi các vị mục tử để nhiều tâm hồn lầm lạc biết ăn năn trở về. Và khi ấy chúng ta có thể nói rằng Mùa Chay không phải là mùa của sầu khổ, đau buồn mà đich thực là Mùa của hồng ân.

Mong sao không chỉ các đấng bậc trong Hội thánh mà cả đoàn tín hữu Kitô nhiệt thành loan Tin Mừng để tội nhân khi “tin vào Tin Mừng, thì biết sám hối ăn năn”. Tin Mừng cần được loan báo ở đây đó là: làm cho kẻ bị giam cầm thoát khỏi xiềng xích ngục tù, làm cho người mù được sáng mắt, trả tự do cho người bị áp bức, làm cho người nghèo hèn, kém phận biết họ được ưu ái, cho người tội lỗi biết họ luôn được đón chờ và thứ tha…

“Người ở trong hoang địa 40 ngày, chịu Xa-tan cám dỗ, sống giữa loài dã thú và có các thiên sứ hầu hạ Người” (Mc 1,13).

   Câu hỏi được đặt ra là tại sao Đức Giê-su lại chịu cám dỗ và ý nghĩa của việc này ra sao? Chúng ta cùng suy gẫm và tìm hiểu. Theo sách Giáo lý công giáo thì:

   “Các Tin Mừng đều nói đến thời gian Đức Giê-su sống cô tịch trong hoang địa, ngay sau nhận được phép rửa của ông Gio-an. “Được Thánh Thần thúc đẩy” vào hoang địa, Đức Giê-su ở lại đó, nhịn đói 40 ngày, sống giữa loài dã thú và các thiên thần hầu hạ Người. Cuối thời gian này, Xa-tan 3 lần cám dỗ Đức Giê-su, hòng lung lạc thái độ con thảo của Người đối với Thiên Chúa. Đức Giê-su đã đẩy lui những cuộc tấn công đó, được xem như là thu tóm các cám dỗ của A-đam trong vườn địa đàng và của Ít-ra-en trong hoang địa” (x. GLCG, số 538).

   Chúng ta cùng tìm hiểu con số 40.

   Theo nhân gian, con số 40 là con số may mắn, vạn vật đi đến thành toàn; bình an vượt qua mọi khổ nạn, mọi sự mừng vui như ý nguyện (Trích simthanhcong.net).

   Theo Thánh Kinh, Cơn hồng thủy kéo dài 40 ngày 40 đêm (x.St 7,12); ông Mô-sê vào giữa đám mây và đi lên núi và ở lại đó 40 ngày 40 đêm (x.Xh 24,18); Khi được chẵn 40 tuổi, ông Mô-sê nảy ra ý định thăm viếng các anh em mình (x. Cv 7,23); Đúng 40 năm sau, một Thiên Sứ hiện ra với ông (Mô-sê) tại sa mạc Xi-nai, trong ngọn lửa đang cháy (x. Cv 7, 30); Dân Ít-ra-en đi trong sa mạc 40 năm (x. Tv 94(95) 10); 40 ngày đi do thám đất Ca-na-an (x. Ds 13,25); Tiên tri Ê-li-a đi suốt 40 ngày, 40 đêm tới Khô-rếp, là núi của Thiên Chúa(x.1V 19,8); Tiên tri Gio-na công bố : “Còn 40 ngày nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá đổ” (x. Gn 3,4); Đức Giê-su nhịn đói suốt 40 ngày trong sa mạc (x. Mc 1,13); và 40 ngày sau phục sinh, Người lên trời: “Trong 40 ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa”(x. Cv 1,3).

   Con số 40, tượng trưng cho số nhiều với một thời gian dài là 40 ngày hay 40 năm. Ý nghĩa sâu xa trong số 40 là những gì xảy ra trong khoảng thời gian đó có thể là sự kiên nhẫn; sự thử thách và sự phấn đấu. Nhưng đáng kể nhất, con số 40 mang ý nghĩa thời gian chuẩn bị để đón nhận ân sủng của Thiên Chúa.(Trích donghanh.org, Con số 40 trong Kinh Thánh).

   Quả thật, có kiên nhẫn; có thử thách và có phấn đấu, thì chúng ta mới có bình an, vượt qua mọi khổ nạn và có được mọi sự mừng vui như ý nguyện. Con số 40 là con số may mắn.

  Riêng tôi, chịu chức năm 40 tuổi(1967-2007). Đúng là trải qua 40 năm thử thách, phấn đấu và kiên nhẫn, tôi mới đạt được điều mình mong ước. Thời gian đó chuẩn bị để tôi lãnh nhận ân sủng của Thiên Chúa qua bi tích truyền chức.

    “Các tác giả Tin Mừng cho thấy ý nghĩa cứu độ của biến cố huyền nhiệm “chịu cám dỗ” này. Đức Giê-su là A-đam mới, vẫn trung thành đang khi A-đam cũ sa ngã. Đức Giê-su chu toàn ơn gọi của Ít-ra-en, khác hẳn với dân xưa kia đã thách thức Thiên Chúa suốt 40 năm trong hoang địa. Đức Giê-su tỏ mình ra là người tôi tớ hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Như thế, Đức Giê-su toàn thắng ma quỉ. Việc Đức Giê-su chiến thắng tên cám dỗ trong hoang địa thể hiện trước chiến thắng trong cuộc khổ nạn khi Người tuyệt đối vâng phục Chúa Cha với tình con thảo” (x. GLCG, số 539).

   Chúng ta cùng tìm hiểu 3 cơn cám dỗ của ma quỉ đối với Đức Giê-su.

  1. “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi”. Nhưng Đức Giê-su đáp: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ bởi mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (x. Mt 4, 3-4).

    Đây là cám dỗ về của ăn. Mà của ăn này là của ăn nuôi sống phần xác. Câu ma quỉ này mà cám dỗ Chủ nghĩa Xã Hội thì ma quỉ thua là cái chắc. Vì các đồng chí ấy nói rằng : “Với sức người thì sỏi đá cũng thành cơm”. Thế nhưng ý của ma quỉ là nói Chúa hãy làm phép lạ, khỏi phải làm gì, cứ hồ biến một cái là đá biến thành bánh và sỏi đá biến thành những hạt cơm.

   Quả thật, bánh ăn hay cơm gạo là điều thiết yếu cho con người sống, nhưng nó cũng dễ trở thành cám dỗ khi con người chỉ chăm chú vào của ăn nuôi sống thân xác thôi, mà không lo nuôi sống linh hồn. Của ăn nuôi sống linh hồn chính là Lời Chúa.

  1. “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống đi, vì có lời chép rằng: “Thiên Chúa sẽ truyền cho Thiên Sứ lo cho bạn và Thiên Sứ sẽ tay đỡ, tay nâng cho bạn khỏi vấp chân vào đá”. Đức Giê-su đáp: “ Nhưng cũng có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi” (x. Mt 4,6-7).

    Đây là cám dỗ “hiểu sai Lời Chúa”. Ma quỉ đã chưng dẫn Lời Chúa trong Thánh Vịnh 90 (91), câu 12 đấy chứ nhưng lại đặt sai hoàn cảnh. Câu Lời Chúa đó nói Chúa sẽ sai các Thiên sứ đến giúp đỡ chúng ta khi chúng ta gặp bước ngặt nghèo; chứ không bảo chúng ta trèo lên nơi cao nhảy xuống để các Thiên Sứ “tay đỡ tay nâng” cho ta khỏi gãy tay, què chân. Ai mà làm như vậy là “thử thách” Thiên Chúa. Thiên Chúa không cần làm những việc trái khoáy, vô duyên như vậy.

    Chúng ta là con người chứ không phải làm chim; muốn xuống thì bắc thang mà xuống, đâu cần Chúa phải làm phép lạ. Chúng ta cứ nhìn lại trong cuộc đời của mình mà xem, có bao nhiêu điều kỳ diệu Chúa làm rồi, mà chúng ta có nhận ra không? Đòi Chúa làm phép lạ như thế là một trọng tội, cho nên Đức Giê-su nói : “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi”.

  1. Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình thờ lạy tôi”. Đức Giê-su đáp : “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ lạy một mình Người mà thôi” (x. Mt 4,9-10).

     Đây là cám dỗ về của cải, tiền bạc và danh vọng. Tiền tài, của cải, danh vọng có là gì đối với Chúa, chúng chẳng khác gì những tờ giấy vụn, những bụi đất li ti; những thứ đó quan trọng với con người thôi. Con người coi chúng là “Thần tài”, xì xụp, vái lạy; làm nô lệ, làm tôi mọi cho chúng. Con người dành hết cuộc đời; dành hết sức lực; dành hết trí khôn để tìm kiếm của cải, tiền bạc, danh vọng, để khi chết đi chẳng mang theo được gì. Thật là “Công dã tràng”.

   Con người chúng ta phải thờ lạy một mình Thiên Chúa mà thôi. Tiền bạc, của cải, danh vọng là những thứ cần cho cuộc sống chứ không phải là Thiên Chúa của chúng ta. Người ta có nói: “tiền là ông chủ xấu, nhưng là tên đầy tớ tốt”. Nghĩa là tiền tài, của cải, danh vọng giúp đỡ chúng ta, chúng ta dùng chúng để sống thì chúng tốt; chứ để chúng làm ông chủ, là chúa của chúng ta thì xấu lắm. Chí lý !!!!!

  Do đó, chúng ta phải thờ lạy một mình Thiên Chúa và xin Chúa ban cho chúng ta khôn ngoan, để chúng ta biết dùng tiền của cho đúng.

   Qua các“Cơn cám dỗ cho thấy cách thế Con Thiên Chúa thực hiện chức năng Mê-si-a, khác hẳn đề nghị và mong muốn của con người. Vì chúng ta, Đức Giê-su đã chiến thắng tên cám dỗ. Hằng năm, bằng 40 ngày Mùa Chay, Giáo Hội kết hiệp với mầu nhiệm Đức Giê-su trong hoan địa”(x. GLCG, số 540).

    Chúng ta phải làm gì để chiến thắng ma quỉ và các cám dỗ của ma quỉ? Chúng ta phải “Sám hối và tin vào Phúc Âm”. Vì “Thời kỳ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần” rồi.

    “Đức Giê-su mời những kẻ tội lỗi dự tiệc trong Nước Thiên Chúa: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi”. Người mời gọi họ hoán cải, vì không hoán cải thì không thể vào được Nước Người. Người cũng dùng lời nói và hành động, cho họ thấy lòng thương xót vô biên mà Chúa Cha dành cho họ, cũng như : “Niềm vui lớn lao trên trời vì một người tội lỗi ăn năn sám hối. Bằng chứng cao cả nhất của tình yêu này là, việc Người dâng hiến mạng sống để tha thứ tội lỗi” (x. GLCG, số 545).

   Vậy chúng ta hãy Sám hối và tin vào Phúc Âm. Theo tôi Sám Hối LÀ tin vào Phúc Âm. Chúng ta làm gì để gọi là sám hối? Đó chính là chúng ta tin vào Phúc Âm. Tin đây là tuân giữ và thực hành Lời Chúa. Có tuân giữ Lời Chúa chúng ta mới đổi đời, đổi cách tư duy; đổi cách sống để trở về với Chúa. Theo thánh Gio-an Kim Khẩu, “chúng ta có thể chiến thắng cám dỗ thứ nhất bằng cách ăn chay và tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa; chiến thắng cám dỗ thứ hai bằng sự khiêm nhường và chiến thắng cám dỗ thứ ba bằng cách coi tất cả những sự thế gian, là không đáng để người tín hữu công giáo chúng ta phải bận tâm. Để qua những thử thách này, chúng ta trau giồi sức mạnh từ ơn trên, được gìn giữ khỏi tính kiêu hãnh và tự phụ. Chúng xác nhận từ bỏ ma quỉ và mọi công việc quyến rũ của chúng như chúng ta đã hứa trong lễ Rửa Tội. Chúng ta sẽ mạnh mẽ hơn, chuẩn bị tốt hơn cho các cuộc tấn công trong tương lai”.

Về mục lục

 

CANH TÂN ĐỔI MỚI

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Một văn sĩ công giáo đã sánh ví Mùa Chay với hình ảnh của con sâu thoát xác trở thành con bướm. Tiền thân của bướm là sâu. Con sâu thì sù sì đáng sợ, con bướm thì duyên dáng đáng yêu. Với ơn phù trợ của Chúa và nỗ lực cố gắng của bản thân, Mùa Chay giúp ta đổi đời, như con sâu lột xác để trở thành con bướm. Quá trình lột xác bao giờ cũng đau đớn hy sinh, nhưng đó là một điều kiện để thoát kiếp sâu và trở thành bướm. Sự lột xác này, chính là nỗ lực cố gắng để canh tân đổi mới cuộc đời.
 
Tại sao phải canh tân đổi mới cuộc đời? Vì giữa dòng đời xuôi ngược, chúng ta thường bị lôi cuốn theo những trào lưu đi ngược với giáo huấn của Chúa, đến nỗi đánh mất chính mình. Mùa Chay là thời điểm nhìn lại cuộc đời, để nhận ra những tội lỗi thiếu sót, đồng thời sửa lại những sai lầm, trở nên con người mới. Lời Chúa trong Chúa nhật I Mùa Chay này nhắc chúng ta nhớ lại bí tích Thánh tẩy chúng ta đã lãnh nhận, để sống xứng đáng với ơn của bí tích này. Vào thời xa xưa, đã có lúc nhân loại trở nên xấu xa và đầy tội lỗi. Chúa đã muốn dùng cơn Đại hồng thủy để xóa đi cả dòng giống con người. Tác giả sách Sáng thế diễn tả với nỗi đau đớn: “Thiên Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất” (St 5,6). Để gây dựng một dòng giống mới, tinh tuyền thánh thiện hơn, Thiên Chúa đã chọn gia đình ông Nôê, là người sống đạo đức và kính sợ Chúa. Bằng con tàu khổng lồ ông đã chuẩn bị theo lệnh truyền của Chúa, gia đình ông và các loại cỏ cây, súc vật, chim trời đã trở thành những nhân tố đầu tiên của cuộc sáng tạo mới sau khi nước hồng thủy rút đi.
 
Nước vừa có sức mạnh hung dữ nhấn chìm mọi tạo vật, vừa có khả năng làm sinh ra một thế hệ mới. Các hiền sĩ Do Thái đều nhìn nhận biến cố này diễn tả thân phận tội lỗi của con người và lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa với ông Nôê và các con ông: từ nay về sau sẽ không bao giờ tái diễn sự hủy diệt tàn khốc như vậy. Lời hứa của Chúa được gọi là giao ước, và được đánh dấu bằng cầu vồng trên các tầng mây. Sau này, thánh Phêrô và các nhà thần học đầu tiên của Giáo Hội đều giải thích Đại hồng thủy là hình bóng của bí tích Thánh tẩy (Bài đọc II). Nhờ dòng nước tái sinh, con người cũ của chúng ta đã chết đi để nhường chỗ cho con người mới, tức là con người được ân sủng của Chúa nâng đỡ và thánh hóa. Nhờ tình thương của Chúa, nhất là nhờ ơn cứu độ của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã ký kết giao ước với con người một giao ước mới trong máu của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Qua giao ước này, Ngài đã quy tụ muôn dân về một mối, làm thành gia đình của Thiên Chúa có Chúa Giêsu là Anh Cả của nhân loại.
 
Vì mang thân phận con người yếu đuối và nhiều đam mê, mặc dù được dòng nước của bí tích tấy rửa, con người vẫn sa ngã phạm tội. Đó là lý do tại sao chúng ta phải sám hối mỗi ngày. Nhờ bí tích Thanh tẩy, những ai tin vào Chúa không chiến đấu một mình. Họ có Chúa đồng hành và ban sức mạnh để vượt lên mọi cám dỗ, trung thành với Chúa. Chúa Giêsu là gương mẫu tuyệt hảo cho chúng ta trong trận chiến với ma quỷ. Mỗi năm, khi Mùa Chay về, Phụng vụ lại giới thiệu với chúng ta hình ảnh Đức Giêsu kiên cường mạnh mẽ trước mưu đồ cám dỗ của ma quỷ. Trong cuộc sống của chúng ta hôm nay, ma quỷ cũng vẫn đang lôi kéo cám dỗ chúng ta. Những cơn cám dỗ của thời đại hôm nay nhiều khi mang những nhãn hiệu hay danh xưng đẹp đẽ nhưng chứa đầy nọc độc giết người. Danh vọng, bổng lộc, quyền thế, tiền bạc, đó là những cám dỗ của thời hiện đại. Chúng thường lôi kéo con người bằng những “viên đạn bọc đường”, khiến nhiều người ảo tưởng và sa ngã.
 
Khi diễn tả Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú” trong sa mạc, tác giả Mác-cô giúp chúng ta liên tưởng tới khung cảnh vườn địa đàng thuở ban sơ, ở đó, mối tương quan Thiên Chúa –  Con người và Tạo vật rất hài hòa êm đẹp, niềm vui và hạnh phúc luôn tràn trề viên mãn. Nếu biết sống tinh thần sa mạc giữa đời, chúng ta sẽ được gặp Chúa, được tâm sự với Ngài và được Ngài hướng dẫn, giúp chúng ta bước theo đường ngay nẻo chính. Thực hành tốt những việc đạo đức của Mùa Chay (cầu nguyện, chay tịnh và bác ái) chính là sống tinh thần sa mạc, nhờ đó, chúng ta trở nên giống Chúa Giêsu, để cùng với Người đem phần rỗi cho anh chị em xung quanh.
 
“Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Đó là lời rao giảng mở đầu trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Hai ngàn năm đã qua, lời kêu gọi này vẫn mang tính cấp bách. Bởi lẽ con người khước từ lời Chúa, chuộng sống gian dối hơn là sự thật; thích chiều theo lối sống thế gian hơn là hy sinh để nên trọn lành.
 
Chúa nhật I Mùa Chay năm nay cũng là ngày mồng 3 tết Mậu Tuất. Canh tân đổi mới, đó là thông điệp của Mùa Chay, đó cũng ý nghĩa của Mùa Xuân. Nhờ khiêm tốn sám hối. chúng ta sẽ trở nên con người mới, tràn đầy nghị lực và niềm vui, vì có Chúa ngự trong tâm hồn chúng ta. Một khi có Chúa ngự trị, con sâu chứa đầy nọc độc sẽ trở thành con bướm xinh tươi, cuộc sống của chúng ta sẽ mãi mãi là mùa xuân.

Về mục lục

.

VÀO HOANG ĐỊA

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Ai yêu bóng đá đều say mê theo dõi những trận đấu đỉnh cao giữa các đội ngoại hạng Anh, hoặc giữa các đội tranh Cúp C1. Ta say mê vì các cầu thủ siêu hạng phô diễn kỹ thuật cá nhân điêu luyện, các đội bóng di chuyển chiến thuật kỳ ảo, các bài bản tinh vi của các huấn luyện viên bậc thầy, các pha phối hợp đẹp mắt giữa các cầu thủ. Không phải tự nhiên mà các cầu thủ chơi bóng giỏi đến mức độ nghệ thuật như thế. Họ phải mất nhiều thời gian tập luyện. Tập luyện để đạt được kỹ thuật cá nhân điêu luyện. Tập luyện để có thể lực dẻo dai. Tập luyện để có những xử lý thông minh theo tình huống. Tập luyện để hiểu nhau tiến đến những pha phối hợp nhịp nhàng ăn ý. Những buổi tập rất nghiêm ngặt, đòi hỏi cầu thủ phải có quyết tâm cao, có tinh thần kỷ luật nghiêm túc. Ai không chịu nổi các bài tập khó, sẽ bỏ cuộc. Ai vượt qua được những buổi tập nghiêm túc sẽ trở thành những cầu thủ giỏi.

Đời sống tâm linh là một cuộc chiến đấu. Chiến đấu với ba thù: ma quỷ, xác thịt, thế gian. Để có đủ khả năng chiến đấu, ta phải được rèn luyện, phải trải qua những thử thách. Đức Giêsu, sau khi chịu phép rửa, được Thánh Thần đưa vào hoang địa để chịu thử thách.

Hoang địa là nơi hoang vu không nhà không cửa, không người thân, không cây cối, tức là không có một tiện nghi tối thiểu nào, không có một nguồn trợ lực nào. Chỉ có cát đá, thú dữ, ma quỷ, tức là chỉ có những khó khăn thách đố bắt ta phải chiến đấu, phải đương đầu.

Cuộc chiến đấu thứ nhất mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu với thiên nhiên. Người sống trong hoang địa phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt. Tại các sa mạc cát phủ, đêm thì lạnh thấu xương, ngày thì nóng như thiêu. Hầu như không có thực phẩm. Người sống trong hoang địa phải chịu đói, chịu khát, chịu cái nóng nung người, chịu cái lạnh cắt da, chịu tất cả mọi thiếu thốn của đời sống thường ngày. Xưa, dân Do Thái được Chúa đưa vào nơi hoang địa để huấn luyện trước khi đưa họ vào Đất Hứa. Trong hoang địa, người Do Thái không chịu nổi những thiếu thốn, nên đã nhiều lần nổi loạn chống lại Chúa, chống lại ông Môsê, muốn quay trở lại làm nô lệ bên Ai cập để được ăn no ngủ kỹ. Trái lại, tổ phụ Abraham đã chấp nhận vượt qua hoang địa, nên đã tới Đất Hứa, tiên tri Êlia đã vượt qua hoang địa 40 đêm ngày, nên đã đi đến núi của Thiên Chúa. Và hôm nay, Đức Giêsu đã thắng được cái lạnh, cái nóng và nhất là đã thắng được cái đói cái khát, đã hoàn toàn làm chủ được bản thân trước những nhu cầu của thân xác.

Cuộc chiến đấu thứ hai mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu chống lại ma quỷ. Thiên Chúa cho phép ma quỷ thử thách con người. Từ tạo thiên lập địa, hai ông bà nguyên tổ đã bị ma quỷ cám dỗ và đã thua cuộc. Ông thánh Gióp cũng đã bị ma quỷ thử thách, mất hết tài sản, mất hết con cái, mất hết danh dự. Nhờ kiên quyết trung thành với Chúa đến cùng, ông đã thắng được ma quỷ. Đức Giêsu đã thắng vượt mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới nhờ Người vững lòng tin ở Thiên Chúa. Những cơn cám dỗ của ma quỷ thường là cám dỗ về đức tin. Adong và Evà không vững lòng tin nên đã sa ngã. Ông thánh Gióp vững lòng tin nên luôn đứng vững qua mọi thử thách. Đức Giêsu luôn vững niềm tin vào Chúa Cha, nên đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ thâm độc nhất của ma quỷ.

Cuộc chiến đấu thứ ba mà Đức Giêsu đã trải qua là cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để tìm thánh ý Chúa Cha. Hai ông bà nguyên tổ đã tìm ý riêng hơn ý Chúa, nên đã đi trệch đường. Đức Giêsu luôn tìm thánh ý Chúa Cha, nên Người đã từ bỏ con đường rộng để đi vào con đường hẹp, từ bỏ con đường dễ để đi vào con đường nghèo hèn, từ bỏ con đường riêng tư để đi vào con đường Chúa Cha đã định. Nên Người đã toàn thắng trong cuộc chiến đấu.

Hoang địa không phải chỉ là nơi thử thách. Hoang địa còn là nơi gặp gỡ Chúa. Sau khi đã thắng vượt tất cả các cuộc thử thách, ta sẽ gặp được Chúa, sẽ sống thân tình với Chúa và sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa. Ông Môsê, sau 40 đêm ngày ở trên núi Sinai, đã trở nên bạn nghĩa thiết của Chúa. Mặt ông trở nên sáng láng đến nỗi dân Do Thái không dám nhìn thẳng vào. Tiên tri Êlia, sau khi đi 40 đêm ngày, đã tới núi của Chúa và đã gặp được Chúa. Đức Giêsu đã gặp gỡ Chúa Cha, đã tìm được ý Chúa Cha và đã kết hiệp mật thiết với Chúa Cha đến độ từ nay Người trọn vẹn thuộc về Chúa Cha. Thánh ý Chúa Cha đã trở thành kim chỉ nam hướng dẫn đời Người. Thi hành thánh ý Chúa Cha trở thành lương thực nuôi dưỡng Người. Người sẽ hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để cho thánh ý Chúa Cha được nên trọn. Chính vì thế mà Người đã được gọi là “Con yêu dấu” của Chúa Cha.

Trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi ta hãy vào hoang địa với Đức Giêsu để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường. Ta không có điều kiện để vào nơi hoang vắng, nhưng ta vẫn có thể vào hoang địa của cuộc đời.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thiếu thốn trong đời sống, dù đói nghèo vẫn giữ được tâm hồn tự do, không chịu nô lệ vật chất.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới, luôn vững niềm tin vào Chúa dù gặp những khó khăn thử thách.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là từ bỏ những ý riêng để luôn tìm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực hành thánh ý Chúa, dù có phải đau đớn, thiệt thòi.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là giữ tâm hồn bình an thanh thản để gặp gỡ Chúa, tiếp xúc thân mật với Chúa, hoàn toàn thuộc về Chúa để trở nên “Con yêu dấu” của Chúa.

Nếu ta chuyên tâm rèn luyện trong suốt mùa Chay, tâm hồn ta sẽ trở nên vững mạnh chống lại được những cám dỗ ma quỷ đưa tới; nhanh nhẹn dấn thân vào những việc đạo đức không ngại khó khăn vất vả; quen từ bỏ ý riêng để tuân theo ý Chúa và sẽ trở nên Con hiếu thảo của Chúa.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Bạn có quen chấp nhận những điều khó chịu không?

2- Bạn đã bị cám dỗ bao giờ chưa? Bạn đã chống trả thế nào?

3- Mùa Chay này, bạn sẽ sống thế nào để thêm lòng mến Chúa yêu người?

4- Bạn có thường từ bỏ ý riêng để theo ý Chúa không?

Về mục lục

.

HÃY HỒI TÂM ĐỔI MỚI

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Mùa chay mời gọi chúng ta hồi tâm, sám hối, đổi mới để trở về với Chúa. Mùa chay cũng nhắc nhở chúng ta ý thức, tỉnh thức trước những thử thách, những cám dỗ, cạm bẫy đang bủa vây xung quanh chúng ta. Do đó, Chúa luôn cảnh tỉnh chúng ta hãy sáng suốt, hãy tỉnh thức để biết phân định đâu là cám dỗ, đâu là cạm bẫy, đâu là những gì phải chọn lựa để đi theo đúng đường lối củả Chúa.

Thánh Máccô thuật lại cho chúng ta về câu chuyện Chúa Giêsu vào sa mạc ăn chay, cầu nguyện bốn mươi đêm ngày để chuẩn bị sứ vụ công khai của Ngài. Trong hoang địa, Chúa Giêsu đã chìm đắm trong chay tịnh, cầu nguyện thân mật với Thiên Chúa Cha. Ngài sống hòa hợp với mọi loài dã thú, mọi loài thọ tạo và với các thiên thần. Nơi sa mạc, Chúa Giêsu đã tỏ cho nhân loại, cho chúng ta biết thời kỳ đã mãn và Thiện Chúa đã tới gần. Nên, Ngài mời gọi tất cả chúng ta hãy vứt bỏ những gì là cồng kềnh, những gì là quá khổ để bước vào con đường hẹp. Những cồng kềng, quá khổ là những điều tiêu cực, ham mê tiền tài, danh vọng, địa vị, thú vui xác thịt. Ngài nói rằng đó là những cạm bẫy, những cám dỗ và là tội lỗi làm ngăn cản con người đến với Chúa. Ngài tỉnh thức con người hãy hồi tâm, thay đổi lối sống, đổi mới tư duy, lối nhìn và hành động tốt, hãy làm nhưng việc tỏa sáng. Ngài truyền cho chúng ta tin, chứ đừng cứng lòng vì Nước Thiên Chúa đã tới gần.

Vâng, ngày nay văn minh đã vượt bực, con người đang gặp phải những cạm bẫy nghiêm trọng, những cám dỗ ghê gớm. Một thế giới văn minh nhưng vì quá văn minh, nên con người sống xa Thiên Chúa. Một thế giới có nhiều những tiện nghi vật chất, con người tìm kiếm hưởng thụ, sống ích kỷ và ham hố lợi danh. Chủ nghĩa cá nhân thống trị. Con người tìm kiếm lạc thú trong những tiêu khiển vô vọng. Con người đòi hỏi xác thịt với những cám dỗ thân xác mời mọc, những khêu gợi, kích thích giác quan vv…Tội lỗi càng chồng chất, Chúa mời gọi chúng ta, mời gọi con người luôn phải cảnh giác trước những cạm bẫy giăng mắc tràn đầy.

Đức Giêsu theo Tin Mừng hôm nay trình bầy đã phải đối phó liên tục với những cám dỗ ma quỷ giăng ra trong suốt bốn mươi đêm ngày :” Người ở trong sa mạc bốn mươi đêm ngày chịu ma quỷ cám dỗ “ ( Mc 1, 13 ). Việc ma quỷ, satan cám dỗ không phải chỉ một lần là chấm dứt, là xong, nhưng ma quỷ giăng bẫy, cám dỗ liên tục con người, cám dỗ triền miên cả một kiếp người, cả một đời người.

Ngày hôm nay, tiếng Chúa vẫn vang lên và lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả:” Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng “ luôn có giá trị. Tin vào Thiên Chúa dù cuộc đời có là cạm bẫy, thử thách, chông giai. Tin vào Chúa, nương tựa vào Chúa là đủ như lời thánh Phaolô nói:” Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi”. Hoặc như lời Chúa phán :” Ơn của Ta là đủ cho ngươi rồi”. Xung quanh chúng ta, xung quanh con người có biết bao thử thách, cám dỗ của ma quỷ, nếu con người và tất cả chúng ta không đủ can đảm, tỉnh thức và tin tưởng mãnh liệt vào Chúa, chúng ta sẽ dễ rơi vào sa ngã…Con người phải dám hồi tâm, quay về như Phêrô đã chối Chúa ba lần, nhưng thánh nhân đã khiêm tốn, can đảm quay về vì tin Thiên Chúa sẽ tha thứ cho Ngài…Như Phaolô cũng đã hồi tâm, quay về và can đảm hỏi :” Ngài là ai ?”. Có khiêm tốn và dám can đảm quay về với Chúa, chắc chắn, Ngài sẽ tha thứ và đưa tay ôm như người con hoang đàng quay về…Hãy tin tưởng vào Lòng Thương Xót và thứ tha của Thiên Chúa. Can đảm đứng dậy chứ đừng ngồi lì trong tội lỗi, trong tật xấu vv…

Chúng ta hãy nhớ dù sống trong xa hoa, giầu sang phú quý nhưng xa vắng Thiên Chúa, tất cả đều vô ích vì chỉ duy nhất Thiên Chúa mới cứu độ, mới giải thoát và ban hạnh phúc cho con người…

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con ơn biết hối cải để chúng con luôn biết quay về với Chúa vì chỉ có Chúa mới ban ơn cứu rỗi cho chúng con.Amen.

Gợi ý để chia sẻ :

1. Tại sao Chúa lại bị satan cám dỗ ?
2. Ma quỷ chỉ cám dỗ một lần là buông tha con người phải không?
3. Ơn sám hối là gì ?
4. Chúng ta có cần hồi tâm, sám hối không ?
5. Ơn cứu độ là gì ?

Về mục lục

.

THÁCH THỨC

Anna Cỏ may

Chúng ta hãy ngẫm nghĩ những biến cố trong cuộc đời. Những ơn huệ chúng ta được lãnh nhận qua mỗi biến cố. Nó có thể mang lại cho ta hạnh phúc, đau thương hoặc chính nó lại là hành trang để ta bước tiến trong cuộc sống. Song, đó là điều tự nhiên mà khi sống trên trần gian ít nhiều mỗi người chúng ta đều sẽ có những kinh nghiệm.

Một người Con Thiên Chúa, Một Đấng đầy uy quyền và có tất cả mọi sự mà cũng phải mang lấy những gì của một kiếp người.  Khi xuống trần gian mang thân phận con người, Ngài hằng ý thức mình làm gì. Ngài bắt đầu đi vào cuộc sống trần gian. Ngài đã đến chịu phép rửa tại sông Giođan theo tục lệ Do thái. Trước khi khởi hành rao giảng, Ngài đã ở trong hoang địa những bốn mươi ngày và không ăn, không uống, lại chịu xatan cám dỗ. Vậy Xatan là ai? Theo niềm tin của người Kitô hữu, Xatan chính là những Thiên Thần phản nghịch Thiên Chúa, nên bị luận phạt. Chúng luôn tìm cách chống lại Thiên Chúa và muốn thắng Ngài. Chúng dùng mọi cách, mọi thủ đoạn và phương thế để đạt được mụch đích. Chúng thường dùng chiêu ám hại, chiếm hữu, phá phách và cám dỗ trực tiếp hay gián tiếp. Với Chúa Giêsu, chúng lợi dụng hoàn cảnh để cám dỗ Ngài. Chúng dùng những lời nói ngọt ngào cùng cho Ngài xem những vinh hoa phú quý thế gian để lôi cuốn Ngài. Thật sự, khi đang rơi vào một hoàn cảnh khốn cùng, chúng ta dễ đi lầm vào những con  đường tội lỗi hay có quyết định sai lầm, không ai trách được. Có lẽ, Chúa Giêsu cũng đã có giây phút lưỡng lự vô cùng, nhưng vì tinh thần vâng phục của Ngài với Chúa Cha, cùng với các sứ thần kề bên nên Ngài đã vượt thắng mọi sự. Bởi đó, chúng đã hoàn toàn thất bại trước ánh sáng của Chúa. Ngay khi Chúa Giêsu thắng được sự cám dỗ của Xatan, bóng tối tan dần, ánh sáng xuất hiện, các thiên thần liền tiến lại hầu hạ Ngài. Và Ngài bắt đầu sứ mạng rao giảng Nước Trời trong ân sủng của thần khí.

Hình ảnh của Chúa Giêsu chẳng khác như ngày sống của chúng ta. Chúng ta dễ bị lôi cuốn về danh vọng, sắc đẹp… Chúng ta luôn tìm mọi cách để quy tất cả mối lợi về cho mình. Còn Xatan thì tìm mọi thuận tiện nhẹ nhàng nhất để cám dỗ chúng ta. Bởi đó, chúng ta dễ bị rơi vào lưới của Xatan. Chúa Giêsu bị cám dỗ là một hình ảnh đánh thức mọi người, chúng ta hãy tỉnh thức trước mọi cám dỗ của cuộc sống. Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy sẵn sàng đi vào cuộc khổ nạn với Ngài. Và hãy nhớ rằng, mọi người chúng ta luôn có các Thiên Thần gìn giữ bảo vệ khi chúng ta gặp khó khăn.

Lạy Chúa  Giêsu, xung quanh chúng con có rất nhiều thần dữ muốn chiếm hữu chúng con. Có khi chúng đang len lõi sống giữa chúng con mà không hay. Cậy nhờ ơn của Chúa, nguyện xin Chúa hãy ban ơn can đảm để chúng con dứt bỏ và dứt khoát trước mọi cám dỗ và luôn tin tưởng vào sức mạnh Tình yêu của Chúa.

Về mục lục

.

CẦU NGUYỆN VỚI THẦY

Bông hồng nhỏ 

Thầy Giêsu tiến vào hoang địa với sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Thầy đã có một cuộc gặp gỡ rất tuyệt vời với Chúa Cha. Theo chân Thầy, ta hãy tiến vào cuộc gặp gỡ ấy.

Thầy đã đi vào kinh nghiệm đói và khát trong nhiều ngày. Giữa cái nắng như thiêu đốt của ban ngày và cái lạnh thấu xương của ban đêm, Thầy đã kiên nhẫn trải qua suốt bốn mươi ngày trong âm thầm cầu nguyện. Bốn mươi ngày, đó là khoảng thời gian quý báu mà Thầy dành riêng để ở với Chúa Cha.  Ta cũng hãy dành cho Chúa những phút giây của cuộc đời mình. Để nhờ đó, ta được tâm sự với Thiên Chúa là Cha giàu lòng yêu thương. Thầ̀y Giêsu đã dạy ta cách thức để đến cùng Chúa Cha. Điều quan trọng là ta có chấp nhận đi vào kinh nghiệm ấy với Thầy không? Thầy đã đến thế gian để trao ban một tình yêu đến cùng. Thầy chia sớt những gian nan của kiếp người yếu đuối. Tình yêu dẫn con người đi theo một con đường rất độc đáo. Ở đó, con người dám đánh đổi tất cả, dám lao mình về phía trước và kiên nhẫn lắng nghe lời của trái tim. Ngay lúc này đây, tâm hồn Thầy tràn đầy Thánh Thần. Thầy đã vượt qua những cám dỗ và đã chiến thắng chúng.

Khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Thầy đã kêu gọi con người sám hối và tin vàoTin Mừng. Có bao giờ ta ý thức được tầm quan trọng của cầu nguyện không? Phải chăng ngay lúc này đây, ta phải dành cho mình một khoảng lặng bình yên, để ở đó ta khám phá ra đâu là điều ta đang cần. Chính khi ta chủ động bước vào sa mạc của tâm hồn, ta sẽ đọc được ý Chúa, sẽ nghe được tiếng nói của tâm hồn. Ta có để cho Chúa Thánh Thần tự do dẫn ta vào sa mạc của lòng mình?

Lạy Chúa! Chúa biết con thường thích bước đi cách tự do tự tại. Xin Chúa Thánh Thần dẫn con bước vào hành trình của cầu nguyện để từng ngày con sẽ biết bỏ mình mà chọn theo thánh ý Chúa. Amen

Về mục lục

.

CHIẾN THẮNG CÁM DỖ NHỜ CHÚA GIÊSU

Lm. Inhaxio Trần Ngà

Sói chết vì khát máu

Người Eskimo ở bắc cực nghĩ ra một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy bộ da chúng làm y phục.

Người ta dùng một con dao cực bén và nhúng lưỡi dao ấy vào máu súc vật, rồi đem dang ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại chung quanh. Họ lặp lại động tác đó nhiều lần cho đến khi con dao được bọc quanh bằng khối máu đông, lớn như quả xoài.

Đợi đến khi trời tối, thợ săn đem con dao bọc máu đó ra cắm giữa đồng hoang. Với tài đánh hơi bén nhạy, loài sói khát máu sẽ nhanh chóng phát hiện mùi máu tươi và sẽ chạy đến đua nhau liếm tới tấp vào cục máu đông đó cho đến khi lưỡi dao lộ ra cứa đứt lưỡi chúng. Một khi lưỡi của bầy sói bị cứa đứt nhiều đường, máu từ lưỡi ứa ra và chúng tiếp tục liếm cách điên cuồng hơn chính dòng máu của chính mình chảy ra mà không hay biết. Càng liếm hăng, lưỡi chúng càng bị cứa sâu hơn và nhiều hơn khiến máu chảy thành dòng… kết thúc cuộc đời lũ sói tham ăn.

Người chết vì cám dỗ

Có thể nói con người phải đương đầu với nhiều cơn cám dỗ nhất so với tất cả các loài thú khác. Cám dỗ của miếng ăn, cám dỗ của thức uống (rượu, bia), của thuốc lá, ma tuý, cần sa, cám dỗ của thú vui nhục dục, của tiền bạc, của địa vị, công danh và vô vàn hình thức cám dỗ khác.

Người ta bị lôi cuốn vào các cơn cám dỗ như con sói tham lam lao vào liếm cục máu bọc lưỡi dao, như những con thiêu thân lao vào lửa và hậu quả là con người trở nên bạc nhược, bị lôi cuốn vào dòng thác dục vọng như cánh bèo nhỏ bé bị cuốn phăng phăng giữa dòng nước lũ hung tàn.

Không rõ con chó sói, một khi biết có lưỡi dao bén ẩn dấu trong cục máu đông, có còn dám tiếp tục liếm cục máu đó nữa không, nhưng đối với nhiều người thì dù biết chắc chắn rằng đằng sau những lạc thú đồi truỵ có ẩn dấu lưỡi dao thần chết thì họ vẫn cứ tiếp tục hưởng thụ những thứ đó đến cùng. Họ mượn lời thơ Xuân Diệu để tự biện minh rằng:

“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối,

còn hơn buồn le lói suốt trăm năm” (Xuân Diệu).

Chúa Giê-su cũng bị cám dỗ như chúng ta.

“Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa… nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân (Philip 2, 6-7).

Vì trở nên người phàm như chúng ta, “Chúa Giê-su đã từng chịu thử thách về mọi phương diện như chúng ta” (Do-thái 4,15).

Qua đoạn Tin mừng được trích đọc trong thánh lễ hôm nay, thánh sử Mác-cô cho biết Chúa Giê-su đã vào hoang địa bốn mươi ngày và Ngài đã thực sự bị Xa-tan cám dỗ. (Mác-cô 1, 12-13)

Điều đặc biệt là dù phải bị cám dỗ trăm bề về mọi phương diện như chúng ta, Chúa Giê-su không bao giờ thua cuộc, không bao giờ sa chước cám dỗ. Ngài đã chiến thắng vẻ vang trước mọi cơn cám dỗ và luôn trung thành đi theo đường lối của Thiên Chúa Cha cho đến cùng.

Canh phòng tử huyệt

Trâu bò tuy to khoẻ nhưng dễ dàng bị chế ngự bởi một đứa bé cỏn con khi người ta xỏ mũi được chúng. Con người dù có hùng mạnh đến đâu, nhưng một khi bị “xỏ mũi” bởi các đam mê tội lỗi, thì cũng phải ngoan ngoãn lội xuống bùn, bị lôi xuống vực vì sức kéo của những đam mê và dục vọng đê hèn.

Mỗi người có một tử huyệt, một chỗ hiểm riêng. Nơi người nầy, tử huyệt có thể là lòng tham lam bạc tiền danh lợi, nơi người khác là khoé nhìn háo sắc, nơi người khác nữa có thể là lòng ích kỷ, kiêu căng…

Người đi câu luôn biết lựa mồi hợp sở thích của cá; cũng vậy, ma quỷ có thừa khôn ngoan để chọn những mồi bả phù hợp “khẩu vị” của từng người và nhắm tấn công vào đúng tử huyệt của chúng ta.

Trong mùa chay, Chúa Giê-su và Giáo Hội kêu mời chúng ta đi vào cõi thinh lặng của tâm hồn để nhìn lại lòng mình, rà soát tâm tư mình, xét xem những đam mê nào, những xu hướng tội lỗi nào đang chi phối đời ta mạnh nhất (đó là những tử huyệt cần canh phòng che chắn). Chính những đam mê và xu hướng đó là động cơ xô đẩy con sói tham ăn lao vào chỗ chết; và cũng chính những động cơ đó đã huỷ hoại cuộc đời ta, làm mất thanh danh phẩm giá cũng như giá trị cao đẹp của đời ta.

Lạy Chúa Giê-su,

Mỗi khi lâm trận, xin cho chúng con nhớ đến Chúa đang hiện diện trong mỗi người chúng con và xin Chúa cùng chiến đấu với chúng con chống lại những cơn cám dỗ xảy đến trong đời.

Xin ban ơn giúp sức để chúng con không bao giờ lùi bước trước bất kỳ cơn cám dỗ nào, nhưng kiên cường chiến đấu để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và những đam mê xấu xa, đồng thời lập được nhiều chiến công vẻ vang như Chúa.

Về mục lục

.

CÁC THIÊN SỨ HẦU HẠ NGƯỜI

Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu

Sách Sáng Thế kể cho chúng ta một câu chuyện đẹp tràn đầy sự sống. Đó là việc ông Nô-ê sống chung với muôn dã thú trong một con tàu, lênh đênh trên mặt nước 40 đêm ngày và sau đó, Thiên Chúa lập giao ước với ông (x St 9,8-15).

Tin mừng thánh Marcô, chỉ mấy dòng vắn vỏi cũng đã ghi lại cho chúng ta những cảnh rất đẹp và rất ấn tượng về Đức Giê-su: 

– Đức Giê-su được Thần Khí đẩy vào hoang địa.

– Đức Giê-su ở trong hoang địa 40 đêm ngày.

– Trong hoang địa, Đức Giê-su chịu Satan cám dỗ.

– Trong hoang địa, Đức Giê-su sống giữa loài dã thú.

– Trong hoang địa, Đức Giê-su được các thiên sứ hầu hạ.

Chiêm ngắm những cảnh tượng đó của Đức Giê-su, ta không thể không thốt lên: Thật đẹp biết bao! Người được Thần Khí thúc đẩy, hướng dẫn! Thật mạnh mẽ biết bao! Người sống trong hoang địa nơi khô cằn, thiếu thốn!

Thật anh hùng biết bao! Người dám đương đầu chống đối với Satan, thế lực sự dữ!

Thật can đảm biết bao! Người dám sống giữa muôn loài dã thú! Thật hạnh phúc biết bao! Người được các thiên thần túc trực hầu hạ!

Tuy nhiên, khi chiêm ngắm những cảnh ấn tượng đẹp đẽ của Đức Giê-su trong sa mạc hôm nay, làm cho ta liên tưởng và nhớ lại những cảnh buồn bã nhục nhã của nguyên tổ Adam- Evà trong vườn địa đàng hôm xưa.

Thiên Chúa cũng đưa Adam- Evà vào sống trong vườn địa đàng xinh tươi đẹp đẽ, tràn đầy sức sống, chứ không khô cằn, chết chóc như sa mạc.

Trong vườn địa đàng, Adam-Evà cũng bị Satan cám dỗ.

Trong vườn địa đàng, Adam- Evà cũng sống giữa muôn loài dã thú.

Nhưng Adam- Evà đã gục ngã trước tên cám dỗ, bị các thiên thần đuổi ra khỏi vườn địa đàng. Còn Đức Giê-su đã chiến thắng tên cám dỗ, các thiên thần hầu hạ Ngài.

Đời có những khi tưởng là sướng, nhưng thực ra không sướng; có những lúc tưởng khổ, nhưng chưa chắc đã khổ.

Tưởng rằng ăn trái cây biết lành dữ, con người sẽ trở nên thần thánh, không phải đau khổ và phải chết. Nhưng thần thánh đâu không thấy, chỉ thấy đau khổ và sự chết. Thân cát bụi sẽ trở về cát bụi. Đó là thân phận của Nguyên tổ và của những ai nghe theo lời dụ dỗ của con rắn xưa.

Tưởng rằng trong sa mạc thiếu thốn mọi đàng, con người sẽ phải gục ngã, và suy vong… Thế nhưng con người đã chiến thắng các nghịch cảnh và được các thiên thần hầu hạ. Đó là Đức Giê-su Ki-tô, một Con Người (viết hoa, chứ không phải viết thường) luôn hoàn hảo và đẹp lòng Thiên Chúa mọi đàng, làm khuôn mẫu cho mọi người trần gian.

Mùa Chay là mùa các Ki-tô hữu được mời gọi theo sát Đức Giê-su bằng cách thực hành các việc làm đạo đức (ăn chay, cầu nguyện và sống bác ái) trong sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, để làm tươi mới cuộc đời, hầu xứng đáng với ơn gọi làm người và làm con cái Chúa ở đời này và đời sau.

Ước mong rằng mùa Chay năm nay các Ki-tô hữu luôn sống được như vậy. Amen.

Về mục lục

.

SAU CƠN HỒNG THỦY

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi            

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (St 9:8-15;  1 Pr 3:18-22;  Mc 1:12-15)

Những cơn lụt lội, tuy tàn phá và gây thiệt hại đáng kể cho dân chúng, nhưng để lại một miền đất màu mỡ cho mùa màng những năm kế tiếp.  Nước lũ cướp đi rất nhiều thứ quý giá của chúng ta, nhưng cũng đem lại cho đất đai một khả năng canh tác mới.  Đề tài Phụng vụ Lời Chúa hôm nay xoay quanh tác động thanh tẩy của nước, từ nước của trận lụt hồng thủy đến nước sông Gio-đan của phép rửa Gio-an Tẩy giả và sau cùng là nước của bí tích Thánh tẩy.  Trong nghi thức làm phép nước Rửa tội, Giáo Hội đã không quên nhắc đến vai trò của nước lụt hồng thủy và phép rửa của Gio-an như là những hình ảnh báo trước bí tích Thánh tẩy, nhờ đó chúng ta được làm con Thiên Chúa và được Thánh Thần dẫn dắt để sống cuộc đời mới với căn tính mới.

Tại sao có trận lụt đại hồng thủy?  Sách Sáng Thế cho ta biết lý do:  “Đức Chúa thấy rằng sự gian ác của con người quả là nhiều trên mặt đất, và lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu suốt ngày.  Đức Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất, và Người buồn rầu trong lòng. Đức Chúa phán: ‘Ta sẽ xoá bỏ khỏi mặt đất con người mà Ta đã sáng tạo, từ con người cho đến gia súc, giống vật bò dưới đất và chim trời, vì Ta hối hận đã làm ra chúng’” (6:5-7).  Thế là mưa ròng rã bốn mươi đêm ngày và nước dâng cao suốt một trăm năm mươi ngày khiến không còn người hay vật nào sống sót, trừ gia đình ông Nô-ê và các loài vật ở trong tàu với ông.  Tuy nhiên quan trọng hơn cả là những gì xảy ra sau cơn lụt hồng thủy.  Ngoài việc sống sót của gia đình ông Nô-ê và các loài vật, sự kiện quan trọng là Thiên Chúa đã lập giao ước với loài người.  Thiên Chúa cam kết sẽ không bao giờ dùng nước để hủy diệt nhân loại nữa.  Cầu vồng là dấu hiệu của giao ước nói lên cam kết ấy và “nước sẽ không còn trở thành hồng thủy để tiêu diệt mọi xác phàm nữa”.  Thiên Chúa đã dùng nước hồng thủy hủy diệt những kẻ xấu và Người hy vọng ông Nô-ê và con cháu ông sẽ là một nhân loại mới như Người mong ước.  Nhưng mong ước của Chúa có thành hay không thì chúng ta đã biết rồi!  Cũng không sao, vì Người sẽ có một kế hoạch khác:  tuyển chọn Áp-ra-ham để thiết lập một “dân riêng”, để từ đó Đấng Cứu Độ xuất hiện.

Bước sang một giai đoạn mới của lịch sử cứu độ, chúng ta thấy dường như Thiên Chúa vẫn “thất bại”!  Dân riêng của Người vẫn chứng nào tật nấy, không muốn khép mình sống theo các giới răn của Người, mặc dù Người “không ngừng sai tất cả các tôi tớ của Ta là các ngôn sứ đến với chúng;  nhưng chúng đã không nghe, cũng chẳng để tai, lại ra cứng đầu cứng cổ” (Giê-rê-mi-a 7:25, 26).  Cuối cùng, vị ngôn sứ chuyển tiếp từ Cựu Ước sang Tân Ước là ông Gio-an Tẩy Giả, đã làm phép rửa tại sông Gio-đan để kêu gọi người ta sám hối và chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Độ là Chúa Giê-su.  Nước sông Gio-đan mời gọi dân chúng bước vào hành trình sám hối, đồng thời nước ấy cũng đem đến cho nhân loại Đấng Cứu Độ:  “Khi Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người” (Mát-thêu 3:16).

Tiếp đến, thánh Phê-rô giúp ta hiểu ý nghĩa của nước Rửa tội (bài đọc 2).  Ngài viết về nước lụt hồng thủy:  “Nước đó là hình bóng phép rửa nay cứu thoát anh em”.  Rồi ngài nói thêm về ý nghĩa bí tích Thánh tẩy:  “Lãnh nhận phép rửa, không phải là được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô”.  Chúng ta thắc mắc:  tại sao nước lụt hồng thủy và nước sông Gio-đan chỉ là hình bóng bí tích Thánh tẩy?  Là vì những cách thanh tẩy nói trên chỉ là bằng nước, còn phép rửa của Chúa Giê-su qua cái chết và sự phục sinh của Người mới là phép rửa bằng Thánh Thần, để nhờ Thánh Thần, chúng ta được kêu lên: “Áp-ba!  Cha ơi!” (Ga-lát 4:6).  Nghĩa là ta được trở nên con Chúa!

Sống sứ điệp Lời Chúa

Chúa Giê-su sau khi chịu phép rửa và đặt mình trong sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, đã ra đi rao giảng ơn sám hối và Tin Mừng cứu độ.  Đó chẳng phải là gương mẫu cho tất cả chúng ta, những người đã lãnh nhận bí tích Thánh tẩy sao?  Như thánh Phê-rô dạy, được rửa tội là “cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng”, chúng ta cần đặt câu hỏi:  Mùa Chay này có giúp tôi nhìn lại cam kết giữa tôi với Chúa không?   

Về mục lục

.

ĂN NĂN

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Chúa vào hoang địa một mình,
Đêm ngày cầu nguyện, hãm mình ăn chay.
Quỷ ma cám dỗ hằng ngày,
Nhu cầu thân xác, mê say tâm hồn.
Là Con Thiên Chúa chí tôn,
Khiến cho hòn đá, khéo khôn hưởng dùng.
Người ta sống bởi thiên cung,
Mọi lời Thiên Chúa, phán cùng thế nhân.
Đền thờ đỉnh tháp bước gần,
Gieo mình nhảy xuống, thiên thần đỡ nâng.
Ngươi đừng thử thách chí nhân,
Quyền năng cao cả, xác thân bởi trời.
Thế gian mọi nước trên đời,
Sấp mình thờ lạy, cơ ngơi phần Ngài.
Chúa rằng cút xéo đùa dai,
Tôn thờ Một Chúa, thiên sai vĩnh hằng.

Trước khi Chúa Giêsu ra công khai rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, Chúa đã vào nơi hoang địa để ăn chay và cầu nguyện. Bốn mươi ngày chay, Chúa đã đối diện thực sự với bản tính của con người. Sau cùng, Chúa cảm thấy đói và các dục vọng của thân xác bắt đầu thách thức tinh thần của chay tịnh. Ma qủi đã lần mò đến để cám dỗ Chúa qua những đòi hỏi rất ư là hấp dẫn nhẹ nhàng. Ma quỉ đã cám dỗ Chúa về những nhu cầu tự nhiên của thân xác, những tham vọng của tinh thần và những khát vọng của linh hồn. Chúa đã thắng vượt tất cả các cơn cám dỗ trên qua chay tịnh và cầu nguyện.

Cuộc sống con người cũng không thoát khỏi những cám dỗ đầy hấp dẫn này. Chúng ta thường rơi vào những mưu mô của cơn cám dỗ loại này. Những nhu cầu ước muốn đòi hỏi như cơm bữa. Những dục vọng khát khao của thân xác, những ước vọng của tinh thần cứ luôn réo gọi và mời mọc. Chúng ta tìm thỏa mãn các dục vọng qua ngũ quan: Mắt muốn nhìn, nhìn mãi cũng không chán. Mũi muốn ngửi, muốn hít, ngửi hít hoài không thôi. Tai muốn nghe, nghe đủ mọi truyện. Miệng lưỡi muốn nói, nói điều phải điều trái và cả điều gian dối. Tay chân hành động đánh đập, cướp bóc và quờ quạng khắp mọi nơi. Rồi trí tưởng tượng và những ước muốn thèm khát cứ khơi dậy qua mọi ngõ ngách của cuộc sống. Chúng ta chưa muốn dừng và rất khó mà dừng. Và cứ thế chúng ta đã dần dần rơi vào cạm bẫy của ma quỉ.

Đầu Mùa Chay, Chúa mời gọi chúng ta: “Thời giờ đã mãn, hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Hãy sám hối, chúng ta đã nghe đi nghe lại biết bao nhiêu lần, nhưng chúng ta thực sự sám hối được gì? Muốn sám hối trước tiên chúng ta phải nhận biết mình. Biết mình đang ở đâu và tâm hồn mình đang trong tình trạng nào? Biết mình rồi, chúng ta có muốn sửa mình hay không. Sửa mình là phải bỏ mình. Bỏ mình thì không dễ. Bỏ thì rất đau và luyến tiếc. Tiếc những thói hư đã nhiễm. Tiếc những tội làm chúng ta đã nghiện. Tiếc những giây phút ân ái nhẹ nhàng khoan khoái.

Sám hối là sửa mình và đổi mới con người. Sống theo lời mời gọi của Tin mừng. Muốn có một khởi đầu tốt, tiên vàn chúng ta phải tìm nơi thanh tịnh, xét mình và cầu nguyện. Có ơn Chúa phù trì, chúng ta có thể từng bước đổi thay cách sống và cuộc sống của chúng ta thành con người mới trong Chúa Kitô. Lạy Chúa, xin giúp con.

Về mục lục

.

CÁM DỖ ĐỜI NGƯỜI

Lm. GB. Trần Văn Hào

Cơn cám dỗ đời người

Một triết gia đã nói: “Sống là tranh đấu”. Trong kiếp sống làm người, chúng ta phải đấu tranh liên lỉ để chọn lựa giữa sự thiện và sự ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa hạnh phúc và đau khổ, đặc biệt lựa chọn giữa sự sống và sự chết. Đây là quy luật muôn đời của cuộc sống nhân sinh.

Bước vào mùa chay, chúng ta cũng được mời gọi nhìn vào nguyên mẫu nơi Chúa Giêsu. Khi mang thân phận con người, Ngài cũng phải chiến đấu, vượt qua những thử thách và cám dỗ để thực hiện sự lựa chọn căn bản. Đó là lựa chọn con đường Thập giá hầu thực thi sứ mạng cứu thế mà Chúa Cha đã trao phó.

Ý nghĩa của thử thách và những cơn cám dỗ

Ngạn ngữ pháp có câu: “Người ta dùng lửa để thử vàng, dùng vàng để thử đàn bà, dùng đàn bà để thử đàn ông”. Tình, tiền, tài luôn là những miếng mồi nhử hấp dẫn, và sự cám dỗ về những tham sân si vẫn luôn xảy đến trong kiếp người. Một nhà tu đức đã nói: “Tiền bạc có thể giúp ta xây được một căn nhà sang trọng nhưng chưa chắc đã là mái ấm gia đình. Tiền bạc có thể khiến ta có được những cô gái xinh xắn nhưng chưa chắc đã là một người vợ hiền thục. Tiền bạc giúp ta quen biết được nhiều người, nhưng chưa chắc họ là những bạn bè tốt”. Bởi vì, tiền bạc chỉ là phương tiện giúp ta kiến tạo hạnh phúc, nhưng lúc nào nó cũng giống như  con dao hai lưỡi. Khi ma quỷ tấn công Chúa Giêsu, nó cũng dùng bả sang giàu phú quý như một miếng mồi nhử. Nơi chúng ta cũng vậy, tiền bạc vẫn là tên cám dỗ khủng khiếp nhất luôn tấn công để gặm nhấm nhân cách con người. Nó lúc nào cũng trở nên như một ‘con bò vàng’ của thời đại hôm nay khiến chúng ta dễ cúi đầu bái lạy giống dân Do Thái trong sa mạc năm xưa.

Tương tự như thế, những nhu cầu của thân xác như việc ăn uống nghỉ ngơi là những nhu cầu chính đáng để con người duy trì sự sống. Nhưng từ nhu cầu để sinh tồn chuyển sang lối sống hưởng thụ chỉ cách một bước. Sống tiện nghi an nhàn để thụ hưởng là một hình thái duy vật mà Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã từng cảnh báo. Kiểu sống như thế sẽ dần gậm nhấm đức tin, làm xói mòn tình yêu của chúng ta đặt để nơi Thiên Chúa.

Những vinh quang trần thế mà ma quỷ đưa ra nhằm chiêu dụ Đức Giêsu cũng là một cái bẫy rất nguy hiểm đối với chúng ta, vì thói ưa thích thượng tôn cái tôi ích kỷ nơi mỗi người. Thánh Tôma Aquinô đã từng nói hơi cường điệu rằng khi chúng ta chết đi, 15 phút sau cái tôi của chúng ta mới chết hẳn. Cái tôi đó vẫn đeo bám dai dẳng, và đi sâu vào phận người.

Đây là những cám dỗ căn bản vẫn luôn xảy ra trong cuộc sống. Chúa Giêsu cũng từng trải qua những cơn cám dỗ như thế trong hoang mạc năm xưa. Ngài đói, ma quỷ đến xúi Ngài biến đá thành bánh để ăn. Ngài nhìn thấy những sang giàu trần thế khi đứng trên núi cao, ma quỷ chỉ vào những của cải đó như một miếng mồi nhử. Ngài là con Thiên Chúa đầy vinh quang và quyền năng, ma quỷ xúi bẩy Ngài gieo mình xuống đất. Đó là những mưu chước rất thâm độc. Nhưng cuối cùng, Chúa Giêsu đã chiến thắng và không bao giờ đầu hàng trước mưu chước của quỷ dữ.

Trong cơn đói cồn cào, Chúa Giêsu đã không chọn bánh để ăn nhưng luôn tìm thánh ý Chúa Cha làm lương thực nuôi sống mình. Đứng trước sự giàu sang phú quý, Đức Giêsu đã chọn cho mình một lối sống khó nghèo tận căn để hiến trao tất cả, ngay đến cả mạng sống. Đặc biệt đứng trước mồi nhử vinh quang, Đức Giêsu đã không nghe lời ma quỷ gieo mình xuống đất, nhưng đã chọn treo mình lên cao, lên đỉnh cao của Thập giá để khai mở chân trời cứu độ cho con người.

Vì thế, những thử thách đến trong cuộc đời mỗi người hôm nay luôn hàm ngậm ý nghĩa sâu xa. Đó là quà tặng Thiên Chúa gửi trao để tôi luyện đức tin chúng ta. Vàng thử lửa, gian nan thử anh hùng. Mẫu gương Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay là bài học chúng ta phải học mãi, học cho đến suốt đời.

Thử thách để tôi luyện đức tin

Có lẽ nhiều người trong chúng ta đã từng đọc cuốn sách ‘Thép đã tôi thế đấy’. Tác giả nêu ra mẫu gương của anh chàng Paven, một con người đầy nghị lực đã vượt qua bao thử thách để luôn trung thành với lý tưởng cách mạng. Nhưng đây chỉ là một câu chuyện hư cấu mang tính phóng đại và huyền thoại. Còn đối với các Kitô hữu, chúng ta có một mẫu gương có thật và rất sống động là chính Đức Giêsu. ‘Thép’ trong trái tim Ngài đã được ‘tôi’ rất kỹ, và cao điểm của quá trình tôi luyện là Ngài đã bị phân thây trên Thánh giá cách nhục nhã như một tên cướp. Ngài là hình mẫu, là lý tưởng và là đối tượng duy nhất của niềm tin chúng ta. Thánh Phaolô đã viết: “Trong khi người Hy Lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, người Do Thái tìm kiếm những dấu lạ, chúng tôi lại rao giảng một Đức Kitô chịu đóng đinh vào Thập giá”. Cũng vậy trong bài đọc hai của phụng vụ hôm nay, Thánh Phaolô nhắc lại niềm tin này và mời gọi chúng ta nhìn vào Thập giá Đức Kitô để kiện cường đức tin mỗi ngày. Thánh Tông đồ viết: “Lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin. Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ” (Rm 10, 8-9). Niềm tin vào Đức Kitô phải được tôi luyện qua những gian nan và thử thách. Có như thế chúng ta mới đạt đến đức tin kiên định và luôn bám chặt vào Thập giá Đức Kitô. Nhà văn Nikos Kazanzakis viết một câu chuyện giả tưởng với tựa đề “The last temptation of Christ” (Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa). Cho dù đó chỉ là một câu chuyện hư cấu, nhưng nhà văn cũng muốn nói lên rằng những thử thách và cám dỗ trong cuộc đời con người chúng ta luôn có liên hệ mật thiết với Thập giá Chúa Giêsu.

Kết luận

Có một giai thoại trong cuộc đời thánh Antôn tu rừng ngày xưa. Một bữa nọ trong khi Thánh nhân cầu nguyện, ma quỷ hiện lên và nói với Ngài : “ Tại sao các ông chiến đấu và tấn công tôi dữ dằn như vậy?”. Thánh nhân hỏi ngược lại: “Tại sao ma quỷ chúng mày cứ hay cám dỗ chúng tao?”. Ma quỷ trả lời: “Chúng tôi đâu có cám dỗ các ông. Sự ác đã bén rễ nơi tâm hồn mỗi người giống như một cục than hồng đặt sẵn ở đó. Bổn phận của chúng tôi chỉ là đứng bên ngoài để quạt cho cục than cháy đỏ lên mà thôi”.

Chúng ta đã bắt đầu bước vào mùa chay, mùa chiến đấu và tập luyện thiêng liêng. Xin Chúa Thánh Thần ở bên chúng ta mọi ngày. Ngày xưa Thần Khí đã đưa Chúa Giêsu vào sa mạc để chịu ma quỷ tấn công. Xin Chúa Thánh Thần cũng ở cận kề chúng ta trong cuộc sống sa mạc trần gian hôm nay giữa bao thử thách.

Về mục lục

.

LÒNG THƯƠNG CẢM SÂU XA

Peter Feldmier Văn Hào chuyển ngữ

Người đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm (1 P3, 19)

Sự thương hại mang dáng dấp giống như lòng thương xót, nhưng thật sự hoàn toàn khác nhau. Nhiều phật tử còn coi sự thương hại như là kẻ thù của lòng xót thương chân thật. Sự thương hại nhìn từ bên ngoài, dễ khiến chúng ta ngộ nhận, dễ bị đồng hòa với những rung cảm sâu tận từ con tim. Sự thương hại xảy ra khi nhìn thấy một người bị đau khổ, nhưng chúng ta chỉ đứng ngoài cuộc để bàng quan nhìn vào những khổ đau đó như một người hoàn toàn xa lạ. Nhiều khi chúng ta còn thốt lên “ Cám ơn Chúa, rất may là tôi không gặp những bất hạnh giống như thế’’.

Nhưng sự thương xót chân thật thì trái ngược lại. Nó đặt nền tảng trên tình yêu chân thành. Nó lôi kéo chúng ta đến với những người đau khổ, đồng hành với họ, cảm thương họ, và chia sẻ với họ về những thống khổ họ đang gánh chịu. Tín hữu phật giáo diễn tả sự thương xót đó bằng thuật ngữ Karuna, có nghĩa là “ Mang chở nơi mình một con tim biết rung động”. Trong Tân ước, chúng ta cũng gặp hạn từ Splanknizomai, nghĩa là “ Cảm thấu đến tận ruột gan” trước nỗi khổ đau của kẻ khác. Sự thương xót mời gọi chúng ta đi vào chiều sâu, biết cảm thông và biết sẻ chia một cách sâu xa trong chính trạng huống thực sự của cuộc sống con người.

Sự đồng cảm đó là một sợi dây vô hình gắn kết con người lại với nhau. Ví dụ khi chúng ta đang gặp đau khổ, tâm hồn bị bầm dập và tan nát, có một ai đó đã quảng đại, sẻ chia và thông sự vào chính đời sống chúng ta một cách cụ thể. Hoặc ngược lại, có bao giờ chúng ta đã trải nghiệm việc  đồng cảm và chia sẻ thực sự với những đớn đau của người khác? Làm sao chúng ta có thể xem nỗi khổ của người khác như là nỗi đau của chính mình để thực sự biết thương cảm một cách sâu xa.

Tin mừng hôm nay kể lại biến cố Đức Giêsu lui vào hoang địa và ở đó 40 ngày, trước khi khởi sự sứ vụ rao giảng công khai. Marcô diễn tả sự kiện này chỉ với 2 câu giản đơn “ Thần khí đẩy Ngài vào hoang địa. Người ở đó 40 ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Ngài.” Nhìn nơi Đức Giêsu,  Đấng được Thần khí đưa vào sa mạc, chịu sự tấn công của Satan, và sống giữa loài dã thú, giữa những con vật khủng khiếp nhất, đáng sợ nhất, chúng ta cảm nhận ra đó là một thân phận rất bi thương trong kiếp người. Cuộc sống của Ngài 40 ngày trong sa mạc đã không còn là cuộc sống của chính Ngài nữa.

Bài đọc hai hôm nay trích trong thơ thứ nhất của Thánh Phêrô tông đồ gửi đến các Kitô hữu mới được lãnh nhận phép rửa. Trong đoạn văn này, thánh nhân diễn tả cái chết của Đức Kitô như là phương cách chuộc tội cho con người, và cơn đại hồng thủy năm xưa là một hình ảnh tiên báo ( bài đọc 1). Trận lụt phác vẽ trước hình ảnh của bí tích rửa tội, và chính qua giếng rửa tội chúng ta được cứu chuộc. Thánh Phêrô còn nói thẳng thừng một điều xem ra rất khó hiểu : Ngài đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm (1P 3,14), tức là những con người trước đây đã phạm tội vì bất tuân phục. Tôi không có ý cắt nghĩa bản văn theo nghĩa đen của từng câu từng chữ, giống như chúng ta vẫn thường tuyên tín trong kinh Tin Kính, “sau khi chết, Người xuống ngục tổ tông đem các thánh lên thiên đàng”, hoặc cũng phản ánh một điều mà Đức Giêsu đã nói trong bài giảng trên núi. Tôi muốn mời gọi chúng ta hãy nhìn lên Con người Chịu- Đóng-Đinh, Đấng đã đem sự hiện diện cứu độ của Ngài đến những vùng tối tăm nhất của phận kiếp con người. Sheol hay cõi “lâm bô” như được nói đến trong cựu ước, được trình bày như là một thế giới mênh mông ngập trong nước, nơi không còn hy vọng, nơi không có sự sống và không có cả Thiên Chúa. Đức Giêsu đã sẻ chia kinh nghiệm của chính Ngài. Với tình yêu giải thoát, Ngài đã đi vào thế giới con người, xuống tận vực thẳm ngập sâu trong tối tăm của kiếp sống làm người.

Vào Chúa nhật thứ nhất mùa chay, chúng ta được mời gọi để cử hành suốt thời gian này để đi vào sự thương cảm với anh chị em đồng loại. Tức là chúng ta phải tiến sâu vào thân phận con người để nhìn ra những khổ đau, những bầm dập và cay đắng, hầu biết diễn bày lòng thương xót sâu xa, và để con tim chúng ta luôn biết rung động. Ba hình thái theo truyền thống của mùa chay là cầu nguyện, chay tịnh và bố thí sẽ giúp chúng ta bắt đầu mùa chay thật ý nghĩa. Chúng ta cầu nguyện để thông hiệp sâu xa hơn với Đấng đã đem chúng ta vào hiện hữu, và lôi kéo chúng ta đến với tình yêu vô tận của Ngài. Chúng ta thực hành việc chay tịnh để cảm thông với 2 triệu người trên thế giới đang đói, đang khát vì chẳng có cái gì để ăn. Chúng ta giang rộng đôi tay bố thí để giải thoát chúng ta khỏi sự keo kiệt ích kỷ, hầu chúng ta được liên đới chặt chẽ hơn với những người đang cần đến chúng ta.

Mùa chay là thời gian đặc biệt để giúp chúng ta ý thức, đồng thời khơi dậy nơi chúng ta lòng thương cảm sâu xa. Đây là thời kỳ mà Giáo hội gọi mời chúng ta phải tiến sâu hơn, đi vào sự chia sẻ đồng phận trong kiếp người, với những ai đang gặp khổ đau, để với một tình yêu chân thành, chúng ta biết sống chan hòa, và con tim  chúng ta biết rung động trước những khổ đau của anh chị em mình.

Về mục lục

.

NGƯƠI CHỚ THỬ THÁCH ĐỨC CHÚA

Fx. Đỗ Công Minh

           Lạy Chúa,            

Mùa Chay tịnh lại trở về với đời sống đạo của con. Mở đầu cho Mùa Chay là ngày lễTro, lễ sám hối, ngày Giáo hội dành cho con suy nghĩ về thân phận mình. Chúa nhật thứ nhất mùa Chay, Giáo hội muốn con nhận ra hình ảnh Đức KiTô, đấng đã vào hoang địa ăn chay 40 đêm ngày và chịu ma qủi cám dỗ.  Satan đã sử dụng nghệ thuật tâm lý hòng lừa phỉnh Chúa:”Nếu ông là Con Thiên Chúa”,đưa Chúa vào thói tự cao, tự đại của con người: thích được người khác xưng tụng, dễ sa ngã trước những cuốn hút của của cải trần thế, của bản năng. Thèm thuồng trước lợi lộc, trước của cải vật chất, cái ăn cái uống :” hãy truyền cho đá này thành bánh đi “. Đối lại, Đức Giêsu đã dùng lời Thiên Chúa để phản bác:”Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh”.           

Satan còn dùng vinh hoa quyền lực trần gian hầu cám dỗ Chúa chối bỏ quyền năng củaThiên Chúa Cha tòan năng để qui phục ác thần. Đức Giêsu đã mạnh mẽ khẳng định cũng bằng LỜI của Thiên Chúa:”Ngươi phải thờ lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và chỉ một mình Ngài “. 

 Cuối cùng, không làm gì được, Satan đã  đưa Người lên nóc đền thờ, sử dụng những  LỜI trong kinh thánh để cám dỗ Đức Giêsu gieo mình xuống vì có các Thiên Thần nâng đỡ. Một sự thách thức quyền năng của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã chiến thắng Satan khi người lớn tiếng :”Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi “.

“Chúa mà còn bị cám dỗ nữa là . . .”, đó là những lời mà con từng nghĩ hay thốt lên để biện minh cho những hành động xấu của mình. Chúa bị cám dỗ, điều đó là sự thật. Theo một tác phẩm hư cấu “Cơn cám dỗ cuối cùng“ của một văn hào, Chúa bị cám dỗ cho đến tận lúc bị treo trên thập giá. Nhưng Chúa đã chiến đấu và đã chiến thắng. Ngài đã để lại cho con bài học: Phải chiến đấu và chiến thắng trong cuộc chiến giữa thiện và ác, giữa Đức Kitô và sa tan. Cuối cùng Chúa đã chiến thắng: “ ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ lạy một mình Người mà thôi “ ( Mt 4,10)     

Ngày hôm nay, ma qủi không hiện hình để cám dỗ con người, nhưng bằng những vinh hoa, quyền lực, của cải, sắc dục. Bằng những khơi gợi, thèm muốn . . .Trong cõi thâm sâu của mỗi người, vẫn có bóng dáng của gian tà, của xấu xa, ích kỷ. . .tiềm ẩn, chỉ chờ cơ hội trỗi dậy lôi kéo con người vào thế giới của tội lỗi, của nền văn minh sự chết 

Xin cho con luôn biết dùng Lời Chúa để chống lại những cơn cám dỗ đến trong đời sống mỗi ngày. Bằng việc cầu nguyện, hy sinh, chay tịnh, biết chạy đến cùng Chúa khi gặp phải sự lôi kéo của sự dữ, của những điều xấu, của những ý nghĩ thấp hèn. Chính nhờ những phương thế ấy sẽ giúp con chiến đấu và chiến thắng những cơn cám dỗ nơi trần gian này, để cuối cùng con cũng được đón nhận ơn cứu độ ngay từ trần gian này và sẽ được phục sinh với Người trên nước Trời .

Xin cho con nhân mùa Chay Thánh này biết sám hối và tin vào Tin Mừng,biết ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của con, mạnh dạn trỗi dậy trở về với Cha để đón nhận tình thương tha thứ của Ngài. AMEN .

Về mục lục

.

HÀNH ĐỘNG VÀ TUYÊN BỐ ĐẦU TIÊN CỦA ĐỨC GIÊSU

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

 “Thời kỳ đã mãn,

và Triều đại Thiên Chúa đã đến gần.

Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”  

 

I.  LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (1,12-15):

(12) Sau khi Đức Giê-su chịu phép rửa, Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. (13) Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ, sống giữa loài dã thú và có các thiên sứ hầu hạ Người.

(14) Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. (15) Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”  

 

II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (1,12-15):  

2.1 Ngày nay các phương tiện truyền thông đặc biệt quan tâm đến những hành động và tuyên bố đầu tiên của các ứng cử viên trúng cử (tổng thống, thủ tướng, chủ tịch đảng, đại biểu quốc hội v…), vì những việc làm và lời nói đầu tiên ấy chứa đựng rất nhiều ý nghĩa. Bài Phúc âm Chúa Nhật I Mùa Chay năm B cho chúng ta xem những việc làm và nghe tuyên bố đầu tiên của Đức Giê-su Na-da-rét khi Người xuất hiện công khai.  

2.2 Hành động đầu tiên của Đức Giê-su là chịu phép rửa của Gio-an bên dòng sông Gióc-đan và sau đó là chịu ma quỷ cám dỗ trong hoang địa.

Đức Giê-su chịu phép rửa không phải để tỏ lòng sám hối (vì Người không có tội gì nên không cần sám hối) mà là để thể hiện sự liên đới của Đấng Mê-si-a với những người Do-thái đang mong đợi Nước Thiên Chúa.

Đức Giê-su chịu ma quỷ cám dỗ để khẳng định sự chọn lựa của Người là thực hiện kế họach và ý muốn của Thiên Chua Cha trong công cuộc cứu chuộc nhân loại.  

2.3 Tuyên bố đầu tiên của Đức Giê-su là: ”Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” Thời kỳ đã mãn là thời kỳ chờ đợi đã hết. Triều đại Thiên Chua đã đến gần vì Đấng Mê-si-a đã xuất hiện và bắt đầu rao giảng Tin Mừng. Hành động mà Đức Giê-su đòi hỏi hay mời gọi người Do-thái thời của Ngài và chúng ta ngày nay là sám hối và tin vào Tin Mừng.

 

III. THỰC THI  LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (1,12-15):

3.1 Hãy sám hối: Người Do-thái được Đức Giê-su kêu mời sám hối vì họ đã bất hiều bất trung với Thiên Chúa là Đấng đã chọn họ làm dân riêng, đã ban đất Ca-na-an cho họ và đã che chở họ suốt dòng lịch sử.

Còn chúng ta được Đức Giê-su kêu mời sám hối vì chúng ta cũng đã vô ơn vô nghĩa và xúc phạm đến Chúa bắng những tội chúng ta phạm và bằng những thiếu sót chúng ta không thực hiện. Những tội chúng ta phạm có thể dã nhiều không kể hết, nhưng những thiếu sót mà chúng ta vướng phải cũng nhiều không kém. Bao nhiêu điều phải, điều lành, điều tốt chúng ta biết mà không thực hiện hay không dám thực hiện. Chỉ nguyên nói đến việc thực thi bác ái và chống tiêu cực trong xã hội là chúng ta đủ thấy tội chúng ta ngập đầu rồi.

3.2 Và tin vào Tin Mừng: Tin vào Tin Mừng là tin vào chính Đức Giê-su, Thiên  Chúa làm người, là tin vào lời rao giảng và mạc khải của Người. Tin vào Tin Mừng là sống theo Đức Giê-su, là thực thi những điều Người dậy. Tin vào Tin Mừng còn là loan báo Tin Mừng cho người khác.  

 

IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG MÁC-CÔ (1,12-15):

Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Tin Mừng của Thiên Chúa, là Đấng đã rao giảang Tin Mừng cứu độ cho chúng con. Chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa!

Chúng con đã đón nhận Tin Mừng bao nhiêu năm rồi nhưng đời chúng con vẫn ngập đầy tội lỗi và thiếu sót. Chúng con sám hối ăn năn về những tội lỗi và thiếu sót của mình.

Xin Chúa mở lòng và dang rộng cánh tay tha thứ cho chúng con. Chúng con cầu xin Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn ngàn đời. Amen.

Về mục lục

.

MẦU NHIỆM SỰ DỮ

Có một trường hợp vượt ngục rất đặc biệt. Một tù nhân kia bị nhốt trên ngọn tháp cao. Trong phòng không có một phương tiện nào để có thể leo xuống. Vậy ông ta đã làm gì để thoát ra khỏi nơi ấy? Thưa, để vượt ngục, mỗi ngày ông ta chỉ nhổ vài sợi tóc, rồi xe chúng lại với nhau. Sau một thời gian, ông ta đã làm được một sợi dây bằng tóc khá dài. Ông ta thả sợi dây tóc ấy xuống qua cửa sổ nhà tù. Ở phía dưới, một người bạn thân đã chờ sẵn. Người bạn này liền buộc một sợi chỉ dài vào đầu sợi dây tóc. Rồi cuối sợi chỉ, người ấy lại buộc thêm một sợi dây vải dài. Cuối sợi dây vải, người ấy buộc một sợi thừng nhỏ; và cuối sợi dây thừng nhỏ, người ấy buộc một dây thừng to. Sau đó, tù nhân ở trên ngọn tháp cao bắt đầu kéo sợi dây ấy lên. Hết sợi dây tóc, thì nắm lấy sợi dây chỉ. Hết sợi dây chỉ, thì nắm lấy sợi dây vải. Hết sợi dây vải, thì nắm lấy sợi dây thừng nhỏ. Hết sợi dây thừng nhỏ, thì nắm lấy sợi dây thừng lớn. Cuối cùng ông ta đã dùng dây thừng lớn này để vượt ngục cách an toàn trong một đêm trời tối. 

Kể lại câu chuyện này, tôi thấy đó cũng chính là đường lối ma quỉ vốn thường dùng để cám dỗ con người. Thực vậy, rất ít khi ma quỉ cám dỗ ta phạm tội trọng ngay từ lúc đầu. Vì nếu làm như thế, ma quỉ sẽ khiến ta sợ hãi. Nhưng nó cứ từ từ mà tiến. Lúc đầu nó chỉ cám dỗ ta phạm một lỗi nhỏ, rồi sau đó một lỗi lớn hơn. Cuối cùng nó mới dẫn ta đến tội trọng. 

Chẳng hạn, một anh chàng ghiền xì ke. Đâu có phải chỉ trong một sớm một chiều mà anh đã ghiền như dân chuyên nghiệp. Lúc đầu, nó cám dỗ anh ta lân la với những bạn bè xấu. Họ rủ rê anh làm thử một điếu cho biết mùi đời. Sau một điếu, hai điếu, rồi ba điếu… cuối cùng anh ta trở thành dân ghiền từ lúc nào cũng không hay biết. Đến lúc chợt tỉnh thì đã quá muộn. Tay đã nhúng chàm. Dại rồi còn biết khôn làm sao đây! 

Ma quỉ cũng thế. Nó cứ từ từ mà tiến. Nó không bao giờ cám dỗ ta làm nhiều điều xấu cùng một lúc. Trái lại, sau khi cám dỗ ta làm điều này, nó vẫn còn đủ thời giờ để cám dỗ ta làm điều kia. Từ cám dỗ này, nó đưa ta đến cám dỗ khác. Cứ thế, nó tiếp tục cho đến khi ta phạm tội trọng. 

Suy nghĩ về trường hợp của Chúa Giêsu, ta thấy ma quỉ cũng áp dụng một chiến thuật y như thế. Nó không cám dỗ Ngài quì xuống thờ lạy Satan ngay từ lúc đầu. Trái lại, trong cám dỗ thứ nhất, nó bảo Ngài làm phép lạ khiến những hòn đá nhỏ trở nên bánh, để khơi dậy những ước muốn của Ngài về của cải vật chất. Rồi đến cám dỗ thứ hai, nó bảo Ngài gieo mình xuống khỏi nóc đền thờ, để khơi dậy nơi Ngài những ước muốn về quyền bính. Sau cùng, nó mới bảo Ngài quì xuống thờ lạy nó, để khơi dậy nơi Ngài sự chối bỏ Thiên Chúa. 

Đối với ta cũng vậy. Nó không cám dỗ ta ăn cắp một món tiền lớn, khi nó chưa đưa ta vào thói quen ăn cắp vặt, như tục ngữ đã bảo: “Bé không vin, cả gẫy cành”, hoặc: “Trẻ ăn cắp gà. Già ăn cắp trâu”. Bởi đó, ta đừng khinh thường những sai lỗi nho nhỏ. Rất có thể vì những sai lỗi nhỏ mọn hôm nay, mà ngay mai ta sẽ quay lưng phản bội Chúa.

Lạy Chúa! Xin cho con biết hoán cải đời sống và tin vào Phúc Âm, để Mùa Chay thánh năm nay ghi một dấu ấn đạo đức trong tâm hồn con. 

Ave Maria

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT I MÙA CHAY_B

Lm. Anthony Trung Thành

Hằng năm, vào Chúa Nhật I Mùa Chay, chúng ta được nghe Tin mừng kể lại câu chuyện Đức Giêsu bị Ma quỷ cám dỗ. Năm A, Giáo hội cho chúng ta nghe Tin mừng theo Thánh Mathêu. Năm C, Giáo hội cho chúng ta nghe Tin mừng theo Thánh Luca. Cả hai tác giả tường thuật câu chuyện Đức Giêsu bị Ma quỷ cám dỗ khá dài và đầy đủ các chi tiết về ba phương diện: danh, lợi, thú. Còn năm B, Giáo hội cho chúng ta nghe Tin mừng theo Thánh Marcô, tác giả tường thuật câu chuyện này chỉ vỏn vẹn có hai câu như chúng ta vừa nghe: “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Sa-tan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.” (Mc 1,12-13).

Như vậy, cả ba Tin mừng đều tường thuật câu chuyện Đức Giêsu bị Ma quỷ cám dỗ và Ngài đã chiến thắng. Nhưng nhiều người thắc mắc tại sao Đức Giêsu cũng bị cám dỗ? Thưa, vì Ngài có hai bản tính: Bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Với bản tính loài người, Ngài cũng mang trong mình thân phận con người, vẫn phải chấp nhận những gì thuộc về con người ngoại trừ tội lỗi. Nên Ngài vẫn bị cám dỗ. Ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu từ bỏ sứ mạng Chúa Cha trao phó để theo đường lối của thế gian. Nhưng đứng trước cơn cám dỗ của Ma quỷ, Ngài đã cương quyết chống lại và Ngài đã chiến thắng. Không những Ngài chiến thắng cơn cám dỗ của Ma quỷ mà Ngài còn có quyền trên Ma quỷ nên đã nhiều lần Ngài đã xua trừ Ma quỷ ra khỏi con người.

Với bản tính loài người, mỗi chúng ta cũng bị Ma quỷ cám dỗ. Nhưng cơn cám dỗ của Ma quỷ sẽ không làm hại được chúng ta khi chúng ta không ưng thuận, hay nói cách khác Ma quỷ không thể làm hại chúng ta khi chúng ta không chiều theo cơn cám dỗ của chúng. Thông thường, cơn cám dỗ xảy đến bằng ba giai đoạn: Thứ nhất, Ma quỷ gợi lên nơi tâm trí chúng ta một tư tưởng xấu như: hình ảnh đồi trụy, lòng tham của cải, tiền bạc, vi phạm những điều luật cấm…; Thứ hai, Ma quỷ xúi giục chúng ta thích thú hoặc hướng chiều về những điều vừa kể trên; Thứ ba, nếu chúng ta ưng thuận là sa chước cám dỗ của chúng, còn nếu chúng ta chống trả thì chúng ta thắng được chước cám dỗ của Ma quỷ. Ngày xưa, Ma quỷ cám dỗ Evà ăn trái cấm. Evà đã ưng thuận nên hái trái cấm mà ăn. Evà đã phạm tội. Ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu bỏ ý định của Chúa Cha. Đức Giêsu đã cương quyết chống lại. Đức Giêsu chiến thắng. Cứ như thế, Ma quỷ vẫn tiếp tục cám dỗ con người, có những người thắng được chước cám dỗ như Đức Giêsu, nhưng cũng có vô số những người thua chước cám dỗ của Ma quỷ như Evà.

Ngày hôm nay, Ma quỷ vẫn cám dỗ chúng ta dưới nhiều hình thức khác nhau về các phương diện danh, lợi, thú. Thông thường ma quỷ không cám dỗ chúng ta phạm tội trọng ngay nhưng chúng cám dỗ chúng ta phạm tội cách tiệm tiến từ tội nhẹ đến tội nặng. Có một câu chuyện vui dân gian kể rằng: Có một người nọ bị quỷ hiện lên chận đường. Quỷ bắt anh ta phải làm một trong ba điều sau đây: một là uống rượu thật say; hai là đốt nhà của mình; ba là giết chết vợ mình. Quá hoảng sợ, người đàn ông đành chọn uống rượu thật say vì anh ta cho đó là việc làm đỡ nguy hại nhất. Nào ngờ, khi say rượu, anh ta mất hết lý trí, nổi lửa đốt nhà mình. Bà vợ ra can ngăn, anh ta điên tiết giết luôn vợ mình. Rốt cuộc là anh ta đã làm cả ba việc mà tên quỷ đã đề ra. (Sưu tầm)

Trong cuộc sống thường ngày, Ma quỷ cũng dùng những chiêu thức trên đây để cám dỗ con người và có rất nhiều người đã sa ngã phạm tội. Chẳng hạn, về tội lỗi đức công bằng: Mới bắt đầu, Ma quỷ cám dỗ con người phạm các tội nhẹ như ăn cắp vặt, dần dần chúng cám dỗ con người ăn trộm những thứ giá trị hơn, rồi tham ô tham nhũng, trở thành kẻ cướp lúc nào không hay. Về tội dâm ô: Lúc đầu, Ma quỷ cám dỗ con người bằng những tư tưởng xấu, xem hình ảnh xấu, rồi đến xem phim đen, quan hệ bất chính, cuối cùng là phá thai, giết người.

Chính vì thế, phải luôn đề phòng với chước cám dỗ của Ma quỷ. Thánh Phêrô đã lưu ý chúng ta rằng: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì Ma qủi, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự”(1 Pr 5,8-9a). Hãy sống tiết độ trong lời nói. Hãy sống tiết độ trong việc làm. Hãy sống tiết độ trong ăn uống. Tiết độ bằng cách ăn chay hãm mình. Ăn chay theo luật Giáo hội. Ăn chay luân lý là nhịn ăn, nhịn nói, nhịn những thú vui chơi không lành mạnh, nhịn đi tới những nơi, gặp gỡ những người có thể làm cho chúng ta sa ngã phạm tội.

Hãy tỉnh thức trước những mưu chước cám dỗ mà Ma quỷ bày đặt ra. Ma quỷ không hiện hình một cách công khai để cám dỗ con người, nhưng chúng bày ra những chước cám dỗ như những cái bẫy giăng sẵn mà chúng ta khó nhận ra để làm hại chúng ta.

Vì vậy, Thánh Phêrô bảo chúng ta hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự. Đứng vững trong đức tin mà chống cự bằng cách siêng năng cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích nhất là bí tích Giao hòa và Thánh Thể. Đức Giêsu đã từng mời gọi các Tông đồ rằng: “Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ.”(Mc 14,38). Chính Ngài đã dạy các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, trong đó có câu: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.” (Mt 6,13).

Xin cho tất cả mọi người chúng ta biết noi gương Đức Giêsu luôn cương quyết chiến đấu và chiến thắng các chước cám dỗ của Ma quỷ. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT I MÙA CHAY_B.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Biến cố của Đức Giêsu vào sa mạc ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày được Tin mừng Nhất Lãm thuật lại. Thánh sử Matthew và Luca thuật lại nhiều chi tiết về việc Chúa Giêsu bị cám dỗ về danh-lợi-thú và Đức Giêsu đã chiến thắng satan. Thánh sử Marco ghi lại thật vắn tắt nhưng rất sống động: “Người ở trong hoang địa 40 ngày, bị satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú và có các Thiên Sứ hầu hạ Người!

Tường thuật Tin mừng của thánh Marco trong Chúa nhật I Mùa Chay có 2 nội dung chính:

– Chúa Giêsu chịu cám dỗ để nói lên lòng trung tín của Người đối với sứ mệnh Chúa Cha trao phó.

– Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng Tin mưng Nước Thiên Chúa để nói lên sứ mạng cứu thế của Người ở trần gian.

Chia sẻ thân phận làm người, Đức Giêsu chấp nhận mọi cám dỗ như chúng ta. Việc Chúa Giêsu vào sa mạc cầu nguyện ăn chay và bị satan cám dỗ là do ý Thiên Chúa “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào trong hoang địa và chịu cám dỗ”. Điều này cũng nói lên việc Chúa đã chiến đấu với satan bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần để nêu gương cho tất cả mọi người chúng ta.

Biến cố Chúa chịu ma quỷ cám dỗ gợi lại chuyện ở vườn địa đàng năm xưa: Ađam và Evà đã quỵ ngã trước sự cám dỗ của ma quỷ. Dân Do Thái trong sa mạc cũng bị cám dỗ “thờ bò vàng”. Họ cũng đã thua cuộc và chiều theo cám dỗ của ma quỷ. Trước khi phạm tội chống lại Thiên Chúa, Adam Evà sống trong tương quan thân mật, hài hòa với Thiên Chúa. Hai ông bà sống an bình hạnh phúc với Thiên Chúa.

Sau khi chiến thắng satan, thánh Marco ghi nhận “Đức Giêsu sống chung với dã thú và các thiên thần hầu hạ Ngài”. Điều này nói lên tình trạng thư thái an bình trong một thế giới mới mà Chúa Giêsu sẽ thiết lập, nơi đó con người được giao hòa với Thiên Chúa và toàn thể vũ trụ vạn vật. Thế giới này được các tiên tri loan báo. “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm chung với dê… Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục” (Is 11, 6-7). Đó là thế giới của thời đại Đấng Thiên Sai.

Kết thúc 40 đêm ngày ăn chay cầu nguyện nơi hoang địa. Đức Giêsu bắt đầu sống cuộc đời công khai loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa. Ngài kêu gọi mọi người ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng. Đó là điều kiện cần thiết để được hội nhập vương quốc của Chúa, trở thành công dân trong Nước Trời.

“Sámhối” là quay trở về với Thiên Chúa, từ bỏ cuộc sống tội lỗi để biến đổi thành con người mới, sống cuộc sống mới trong tương quan hài hòa với Thiên Chúa và anh em. “Hãy sám hối” mang ý nghĩa mời gọi và chất vấn, đòi hỏi người nghe phải có sự chọn lựa dứt khoát để quyết định số phận của mình.

– “Tin vào Tin mừng”. Tin mừng là tin vui giải thoát từ trời đem xuống cho con người nhận ra Thánh ý Thiên Chúa. Tin mừng đó chính là Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Tin vào Tin mừng là tin vào Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa đã đến trần gian cứu độ nhân loại.

Khởi đầu mùa chay, Giáo hội muốn dùng bài Tin mừng này để nhắc nhở chúng ta:

+ Muốn tham dự vào Nước Trời, cần phải ăn năn sám hối và phải xác tín mạnh mẽ vào Chúa Giêsu và quyết tâm thực hành những điều mà Người dạy. Bởi vì tất cả đều là tội nhân, để được Chúa thứ tha cần phải ăn năn sám hối. Như thế chúng ta phải bắt đầu lại mỗi ngày để đổi mới cuộc sống mỗi ngày, sống Lời Chúa, suy niệm Lời Chúa, sống đức tin vững mạnh vào Chúa.

+ Chúa Giêsu đã mang tất cả những điều kiện nhân sinh của con người, Ngài chịu ma quỷ cám dỗ… Ai cũng bị ma quỷ cám dỗ. Cám dỗ theo sát cuộc sống con người dưới nhiều hình thức khác nhau, thiên hình vạn trạng. Bao lâu còn sống ở đời, chúng ta còn phải thử thách, đau khổ và cám dỗ. Ông Giob có lý khi nói rằng: “Đời sống con người trên mặt đất chỉ là một cám dỗ liên lỉ”. Cuộc đời là cuộc chiến đấu không ngừng với ba thù: ma quỷ, thế gian và xác thịt. Cám dỗ chưa phải là tội, nhưng chỉ khi nào chúng ta ưng thuận làm theo cám dỗ mới có tội. Cám dỗ là những cơ hội thử thách để tôi luyện lòng trung thành của ta đối với Chúa. Khi chiến thắng cơn cám dỗ là lúc chúng ta lập công phúc và khiêm tốn hơn để cậy dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa.

Sống trong xã hội với nền kinh tế thị trường, nhiều tiện nghi, phong phú về vật chất, nhiều phương tiện giải trí… thì càng nhiều cám dỗ. Người, vật, nơi chốn đều có thể trở nên cơn cám dỗ cho chúng ta: quán cà phê, bia ôm, những tụ điểm vui chơi không lành mạnh, quán đèn mờ, trang web thiếu lành mạnh, những cuộc gặp gỡ nam nữ bất chính, phim ảnh xấu… Tất cả đều là những cám dỗ cho ta. Nếu ta không khôn ngoan, thì khó có thể thoát khỏi cơn cám dỗ của satan.

Để chiến thắng ma quỷ và những cơn cám dỗ, chúng ta noi gương Đức Giêsu luôn chiến đấu nhờ sức mạnh của thần khí, nhờ lời Chúa, nhờ quyền năng của Thiên Chúa.

Về mục lục

.

ĐỂ CHIẾN THẮNG MA QUỶ CÁM DỖ

Lm. Đan Vinh

I.  HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mc 1,12-15.

(12) Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. (13) Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người. (14) Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. (16) Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.

  1. Ý CHÍNH:

Sau khi được tấn phong làm Đấng Thiên Sai (Mê-si-a), Đức Giê-su đã được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ thử thách cám dỗ và Người đã dùng vú khí Lời Chúa để chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ. Đến khi Gio-an Tẩy Giả bị bắt, thì Đức Giê-su mới bắt đầu thi hành sứ mạng Thiên Sai, bằng việc Người đi khắp miền Ga-li-lê để kêu gọi người ta ăn năn sám hối tội lỗi và tin vào Tin Mừng Nước Thiên Chúa do Người sắp thiết lập.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 12-13: + Thần Khí liền đẩy Người: Khi chịu phép Rửa của Gio-an Tẩy Giả, Đức Giê-su đã được Thánh Thần lấy hình chim câu đậu xuống trên mình, để xức dầu thiêng liêng tấn phong làm Đấng Thiên Sai. Từ đây Người luôn theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để hành động mà việc đầu tiên là vào trong sa mạc ăn chay cầu nguyện và chiến thắng ma quỷ cám dỗ. + Vào hoang địa (sa mạc): Khi giải thoát con cháu Gia-cóp khỏi ách nô lệ cho người Ai Cập, Đức Chúa đã đưa họ “vào sa mạc” 40 năm, để ký một giao ước công nhận họ là dân riêng của Người, thanh luyện họ khỏi tội tôn thờ tà thần. Đây cũng là thời gian thử thách lòng trung tín của họ đối với Người. Đến thời các ngôn sứ, Hô-sê đã diễn tả đúng ý nghĩa của sa mạc khi ông trình bày Đức Chúa yêu thương dân Ít-ra-en giống như một người chồng yêu vợ, đã dẫn đưa dân này vào sa mạc để sống thân mật với Người (x. Hs 2,16). + Đức Giê-su “vào sa mạc”: Sau khi được công nhận là Con Yêu Dấu luôn làm đẹp lòng Chúa Cha và được đầy Thần Khí, Đức Giê-su đã được Thần Khí thúc đẩy vào sa mạc, để sống thân tình với Chúa Cha bằng việc cầu nguyện và ăn chay suốt 40 ngày. Đây cũng là thời gian Người chịu ma quỉ thử thách. Nhờ luôn chọn làm theo lời Chúa Cha, Đức Giê-su đã chiến thắng Xa-tan cám dỗ, và chứng minh lòng trung thành với sứ mạng Thiên Sai được Cha trao phó. + Bốn mươi ngày: Con số 40 tượng trưng cho một thời gian dài. Chẳng hạn: Trong Đại Hồng Thủy, ông No-e đã mở cửa sổ tàu sau khi nước rút được 40 ngày (x. St 8,6); Trong cuộc Xuất Hành, Mô-sê đã lên núi tiếp xúc với Đức Chúa suốt 40 ngày đêm (x. Xh 34,28); Dân Ít-ra-en phải lưu lạc trong sa mạc suốt 40 năm trường (x. Ds 14,34); Vua Đa-vít đã cai trị trong thời gian 40 năm (x 2 Sm 5,4); Ngôn sứ Ê-li-a đã chạy trốn lên núi Khô-rếp mất 40 ngày đêm (x. 1V 19,8); Đức Giê-su đã vào sa mạc ăn chay cầu nguyện 40 ngày (x. Mc 1,13). + Xa-tan: Xa-tan nghĩa là “kẻ thù”, “kẻ chống đối”, hay còn được gọi là “ma quỉ” hay Di-a-bo-los nghĩa là “kẻ kiện cáo”, “kẻ vu khống”. Đây là nhân vật vô hình có hai hoạt động là: nhập vào một người để bắt họ nói hay làm theo ý của nó và cám dỗ, xúi giục họ phạm tội chống lại Thiên Chúa. + Cám dỗ: Cơn cám dỗ của ma quỉ gồm 3 giai đoạn như sau: Một là gợi lên trong đầu người ta một hình ảnh hợp với nhu cầu của họ. Hai là làm cho người ta vui thích với hình ảnh ấy hoặc ước muốn làm điều xấu xa. Ba là người bị cám dỗ sẽ quyết định chiều theo hay không theo sự xúi giục của ma quỉ. Quyết định làm theo ma quỉ là đã phạm tội. Đối với Đức Giê-su, Xa-tan chỉ có thể cám dỗ ở giai đoạn thứ nhất, nghĩa là gợi lên trong tâm trí Người một tư tưởng hay một hình ảnh phù hợp với nhu cầu. + Sống giữa loài dã thú và có các thiên sứ hầu hạ Người: Đức Giê-su đã chiến thắng cơn thử thách cám dỗ của Xa-tan. Dấu chỉ cụ thể của cuộc chiến thắng ấy là Người đã được Thiên Chúa che chở để sống hòa hợp với dã thú và còn được các thiên thần đến hầu hạ phục vụ (x. Tv 91,11-13). Đây là quang cảnh của thời Thiên Sai: một thời kỳ thái bình và đầy tình yêu thương huynh đệ, trong đó mọi loài vật sẽ sống hòa hợp với nhau và sẽ không có chỗ cho sự ganh ghét hận thù nhau (x. Is 11,6-9 ; 65,25).

– C 14-15: + Sau khi Gio-an bị nộp: Việc Gio-an bị bắt nói lên sứ mạng của ông là tiền sứ hay tiền hô của Đấng Thiên Sai đã chấm dứt, để chuyển sang thời kỳ Đức Giê-su thực hiện ơn cứu độ. + Ga-li-lê: Ga-li-lê là miền Bắc nước Do Thái, nơi đây có nhiều dân ngoại sống lẫn lộn với dân Do Thái. Đức Giê-su đã bỏ miền Giu-đê đến Ga-li-lê để bắt đầu rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. + Lời rao giảng của Đức Giê-su: được tóm kết trong 3 tư tưởng sau: Một là: Thời kỳ đã mãn: Các ngôn sứ chia thời gian làm hai thời kỳ là thời hiện tại và thời cánh chung. Giờ đây Đức Giê-su loan báo thời kỳ hiện tại đã kết thúc để bắt đầu một thời kỳ mới cánh chung, trong đó Thiên Chúa thực hiện lời hứa cứu độ. Hai là: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần: Cựu Ước nói đến Vương Quyền của Thiên Chúa đối với Ít-ra-en là dân riêng của Người (x. Is 43,15 ; Tv 47,3). Từ đó, dân Ít-ra-en luôn trông chờ Thiên Chúa sẽ sớm thiết lập Vương Quyền của Người. Giờ đây, Đức Giê-su đã khẳng định rằng: Nơi Người, Triều Đại của Thiên Chúa đã đến gần. Ba là: Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Sám hối hay Mê-ta-noi-a, một từ Hy lạp có nghĩa là nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng, hối tiếc, hối hận. Ở đây, Sám Hối chính là thay đổi hướng đi, triệt để từ bỏ tội lỗi để quay về với Giao Ước, và bước vào một đời sống mới. Ngoài ta còn phải tin vào Tin Mừng Đức Giê-su rao giảng nữa.

  1. CÂU HỎI: 1) Trong cuộc sống công khai rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã hành động theo sự thôi thúc hướng dẫn của ai? 2) Thời kỳ Xuất Hành. Đức Chúa đã hạ lệnh cho Mô-sê đưa dân Do thái vượt qua biển Đỏ vào trong sa mạc suốt thời gian 40 năm để làm chi? Còn Đức Giê-su được Thần Khí thúc đẩy vào sa mạc làm gì? 3) Đức Giê-su đã dùng phương thế thiêng liêng nào để chiến thắng các cám dỗ của ma quỷ? 4) Hãy kể một số sự kiện trong Thánh Kinh có liên quan đến con số 40? 5) Xa-tan là ai? 6) Ma quỷ thường cám dỗ người ta qua mấy giai đoạn? 7) Sau khi chiến thắng ma quỷ, Đức Giê-su đã làm gì để mặc khải các đặc điểm về thời Thiên Sai mà Người muốn thiết lập? 8) Đức Giê-su bắt đầu rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa từ lúc nào? 9) Ga-li-lê là miền đất có đặc điểm thế nào? 10) Nội dung những lời rao giảng của Đức Giê-su được tóm gọn trong ba điều chính yếu nào? 11) Sám hối nghĩa là gì?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”(Mc 1,15).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) SỐNG LÀ CHIẾN ĐẤU KHÔNG NGỪNG:

Vào một buổi tối, cha bề trên đã hỏi một tu sĩ trong dòng như sau:

– Hôm nay từ sáng đến giờ thầy làm gì?

Tu sĩ trả lời rằng:

– Hôm nay cũng như mọi ngày, con bận bịu với công việc mà nguyên sức con sẽ không thể làm nổi, nếu không được Chúa trợ giúp. Mỗi ngày con đều phải trông chừng hai con chim ưng, kềm giữ hai con nai, kiểm soát hai con diều hâu, điều khiển một con cá sấu, trừng trị một con gấu và chăm sóc một bệnh nhân.

Cha bề trên cười hỏi lại :

– Con nói gì lạ thế? Những con vật mà con vừa nói trong tu viện của chúng ta làm gì có?

– Thưa cha bề trên, thật đúng như vậy: Hai con chim ưng chính là hai con mắt của con, con phải giữ chúng luôn trong sáng, không để chúng tự do thu nhận những hình ảnh xấu vào đầu. Hai con nai tức là đôi chân của con, con phải luôn trông chừng chúng trong từng bước đi, để chúng luôn đi trong nẻo chính đường ngay. Hai con diều hâu là hai bàn tay con, con phải luôn bắt chúng làm việc hữu ích. Còn cá sấu là cái lưỡi trong miệng con, con phải kiềm chế để nó khỏi thốt ra những lời lẽ thâm độc hại người. Con gấu chính là trái tim con, con phải coi chừng để nó khỏi mắc thói ích kỷ và thích phô trương công đức để tìm tiếng khen. Còn bệnh nhân chính là thân xác con, con phải canh phòng để cho xác thịt khỏi trỗi dậy và luôn khỏe mạnh.

Cuộc sống của chúng ta luôn phải chiến đấu với ba kẻ thù nguy hiểm là ma quỷ, thế gian và xác thịt. Trong ba kẻ thù đó thì nguy hiểm nhất lại chính là xác thịt mình, vì nó ở ngay trong lòng mình. Mùa chay là thời kỳ chúng ta hãm mình đền tội và tập sống tinh thần nghèo khó của Chúa Giê-su. Trong thời gian này luật dạy chúng ta ăn chay hai ngày đầu và cuối Mùa Chay là Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sau Tuần Thánh. Khi ăn chay, chúng ta giảm ăn và tránh ăn những món ngon, để cộng tác với ơn Chúa làm chủ bản thân, tập sống tiết độ như kinh Cải Tội Bảy Mối đã dạy: « Kiêng bớt chớ mê ăn uống ». Ăn chay là hãm mình đền tội và để có điều kiện chia sẻ cơm áo cho những kẻ nghèo đói và tích cực góp phần phục vụ các việc công ích với Hội Thánh. 

2) BỊ CÁM DỖ HAY KHÔNG LÀ TÙY SỰ CẦU NGUYỆN, ĂN CHAY VÀ LÀM VIỆC NHIỀU ÍT:

Một hôm Thánh Ephrem nằm mơ thấy một thành phố kia rất đông người qua lại, nhưng ở  cổng thành, ngài chỉ thấy có một tên quỉ đang ngồi ngáp ngủ. Rồi ngài lại thấy mình có mặt tại một khu rừng vắng chỉ có một vị ẩn sĩ đang sống, nhưng chung quanh vị này lại có cả một bầy quỉ rất đông đang tìm đủ cách tấn công vị tu sĩ. Bấy giờ thánh nhân liền la mắng lũ quỷ như sau: “Lũ quỷ các ngươi thật không biết xấu hổ khi kéo cả bầy đến tấn công một người. Còn trong thành phố kia có rất đông người thì các ngươi lại chỉ bố trí có một tên đứng không và còn ngáp đứng ngáp ngồi nghĩa là làm sao?”

Tên quỷ đầu đàn liền trả lời như sau: “Thành phố tuy đông người nhưng chẳng cần lũ quỷ chúng ta phải ra tay cám dỗ mà chúng vẫn phạm hết tội này đến tội khác, nên chỉ cần một tên đứng canh là đủ. Còn tại khu rừng vắng này dù chỉ có một tên tu sĩ, nhưng hắn ta lại rất kiên cường chiến đấu. Đến nay sau nhiều ngày tấn công cám dỗ mà chúng ta vẫn chưa cám dỗ được hắn ta phạm tội, vì hắn luôn ăn chay cầu nguyện, năng đọc Kinh Thánh và chăm chỉ làm việc”.

Thánh Phêrô dạy các tín hữu như sau: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự” (1 Pr 5,8-9).

3) MỘT MẪU GƯƠNG THỰC LÒNG SÁM HỐI:

PI-RI TÔ-MÁT (Piri Thomas), từ một tên tội phạm đang thi hành án trong nhà tù, một con nghiện ma túy đã từng nhúng tay vào tội ác giết người… cuối cùng đã sám hối trở thành một tín hữu đạo đức thánh thiện đầy lòng nhân ái như sau: Một đêm nọ, Pi-ri đang nằm trong một phòng giam đặc biệt, cùng chung giường với một tên tội phạm biệt hiệu là “Thằng Ròm”, đột nhiên anh suy nghĩ về tình trạng tội lỗi của mình. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt phải trỗi dậy cầu nguyện với Chúa. Nhưng lúc đó anh lại đang nằm chung giường với một bạn tù là “Thằng Ròm”. Do đó, chờ cho “Thằng Ròm” ngủ say, anh mới từ từ bò ra khỏi giường, quì gối xuống nền nhà bằng bê-tông lạnh ngắt. Rồi anh say sưa nói với Chúa như đứa con thưa chuyện với cha mình.

Về sau anh đã thuật lại tiến trình trở lại của anh như sau: “Khi ấy tôi bày tỏ với Chúa những gì chất chứa trong lòng tôi. Tôi thưa với Ngài bằng những lời đơn sơ mộc mạc. Tôi nói với Ngài những điều tôi muốn, những lầm lỗi thiếu sót của tôi, những hy vọng và thất vọng. Lúc đó tôi cảm thấy xúc động đến nỗi suýt bật khóc, một sự xúc động mà trước đây chưa bao giờ tôi cảm thấy. Khi kết thúc lời cầu nguyện, bỗng tôi nghe thấy có tiếng đáp: “Amen”. Thì ra đó là tiếng của “Thằng Ròm”. Lúc đó hắn đang nằm sấp trên giường, trán tựa trên hai cánh tay khép lại. Sau một lúc lâu im lặng, rồi “Thằng Ròm” nói nhỏ với tôi: “Này Pi-ri, tớ cũng tin Chúa!” Rồi tôi leo lên giường và hai đứa chúng tôi tiếp tục nói chuyện về niềm tin từ hồi còn thơ ấu của mình. Trước khi ngủ tiếp, tôi đã nói với “Thằng Ròm”: “Chúc Chi-co ngủ ngon nhé! Tớ nghĩ rằng: Thiên Chúa vẫn luôn ở với chúng ta. Chỉ có chúng ta là không muốn ở với Ngài mà thôi!”

4) BÉ ĂN CẮP MỘT QUẢ TRỨNG, LỚN ĂN CẮP CẢ CON BÒ :

Một tên cướp nhà băng kia đã dùng súng giết chết một viên cảnh sát và sau đó hắn bị bắt và bị tòa kết án tử hình. Bây giờ hắn đang bị cột vào chiếc ghế điện trong nhà tù Sing Sing chờ tới giờ thi hành án. Trên đầu hắn có đeo một chiếc vòng bằng kim loại cột nhiều thanh sắt. Khi cho dòng điện mạnh chạy qua là hắn sẽ lập tức bị chết ngay. Người thi hành án hỏi tử tội xem có muốn nhắn gửi điều gì trước khi chết không? Bấy giờ hắn mới tâm sự với giọng điệu đầy hối hận muộn màng như sau: ”Tất cả tội lỗi lớn lao của tôi hôm nay chỉ bắt đầu từ việc ăn cắp một đồng năm xu trong túi áo của mẹ tôi hồi còn nhỏ. Rồi khi đi học tôi tiếp tục ăn cắp các vật dụng của chúng bạn như bút vở, nhặt được đồ đánh rơi không trả cho người bị mất, đi xe buýt hay xe lửa trốn không mua vé. Rồi khi lớn khôn tôi bắt đầu sa vào các thói hư chơi bời hút xách bài bạc. Do thua cá độ một món tiền lớn, tôi và hai thằng bạn thân rủ nhau đi cướp giật túi xách người đi đường, rồi lên kế hoạch cướp nhà băng. Một ngày kia khi thực hiện việc cướp này và bị cảnh sát truy đuổi, tôi đã dùng súng bắn chết một viên cảnh sát và bị tòa kết án tử hình. Như vậy, tội cướp của giết người dẫn đến cái chết của tôi hôm nay chỉ bắt đầu từ việc ăn cắp một đồng bạc năm xu” (A. Tonne).

Tin Mừng hôm nay cho thấy khi cám dỗ Đức Giê-su, ma quỉ cũng áp dụng một chiến thuật tương tự. Nó không xúi Người tôn thờ nó ngay, mà yêu cầu Người hãy biến những viên đá cuội trở thành bánh mì mà ăn, nhằm thỏa mãn nhu cầu cơm áo vật chất thường ngày. Rồi tiếp đến nó xúi Người nhảy từ nóc đền thờ xuống để được khen, thỏa mãn các ước muốn về danh vọng chức quyền trần gian. Cuối cùng nó xúi Người sấp mình thờ lạy nó, để được nó ban cho của cải giàu sang. Đối với loài người chúng ta cũng thế: “Bé ăn cắp một quả trứng, lớn ăn cắp cả con bò”. Do đó, chúng ta đừng coi thường những lỗi nhỏ, vì từ một lỗi nhỏ hôm nay sẽ biến thành tội ác chối bỏ Thiên Chúa và làm hại tha nhân sau này.

5) LÒNG THAM LAM TIỀN BẠC LÀM MỜ MẮT LINH HỒN:

Ngày xưa, có người ở nước Tề có lòng say mê vàng bạc. Một hôm đi chợ, khi tới gần cửa hàng bán vàng bạc, anh nhìn thấy một thỏi vàng để trong quầy, liền chạy tới đập bể tủ kính chộp lấy thỏi vàng mang đi. Khi bị nhân viên cửa hàng đuổi theo bắt lại và bị hạch hỏi: “Tại sao ở giữa chốn đông người ban ngày ban mặt mà anh lại dám công khai cướp vàng là làm sao?”

Anh ta liền thú nhận: “Khi nhìn thấy thỏi vàng, thì tôi không còn thấy bất cứ người nào khác, mà chỉ thấy thỏi vàng trong quầy cần lấy bằng được với bất cứ giá nào!”

Đồng tiền liền khúc ruột nên nhiều người sẵn sàng lao vào lửa, bất chấp mọi khó khăn, không từ bất cứ thủ đoạn nào, miễn sao chiếm đoạt được nó mới thôi.

  1. THẢO LUẬN: 1) Qua câu chuyện trên, bạn thấy vị tu sĩ đã chiến thắng ma quỷ cám dỗ nhờ dùng các phương thế nào? 2) Bạn sẽ làm gì cụ thể để tu sửa thói hư tật xấu quan trọng nhất của bạn trong mùa chay này?
  2. SUY NIỆM:

Tin Mừng hôm nay đã ghi lại lời Đức Giê-su rao giảng: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.  Ăn năn sám hối (Mê-ta-noi-a) nghĩa là “cải thiện đời sống”, “cải tà qui chánh”. Là nhìn nhận những điều xấu xa tội lỗi trong đời sống của mình và quyết tâm trừ khử. Nói cách khác: Sám hối là nhận ra thân phận tội nhân của mình và thực lòng hoán cải, bằng cách làm những việc tốt trái ngược với các thói hư như kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức” đã dạy.

1) MỌI NGƯỜI ĐỀU PHẢI CHỊU MA QUỶ CÁM DỖ:

Đức Giê-su là Đấng Thánh vô tội, nhưng mang thân phận loài người giống như chúng ta, nên Người muốn chịu ma quỷ cám dỗ để nêu gương chống trả cho chúng ta. Qua việc bị ma quỷ cám dỗ, Chúa muốn dạy chúng ta rằng: Mọi người ai cũng đều phải trải qua các cơn cám dỗ của ma quỷ, và càng thánh thiện người ta lại càng bị cám dỗ nặng hơn để chứng tỏ lòng mến Chúa nhiều hơn. Thánh Grê-gô-ri-ô khi đã bước sang tuổi 90 đã chia sẻ kinh nghiệm như sau: “Ở tuổi này mà tôi vẫn thường xuyên bị ma quỷ cám dỗ giống như lúc tôi đang còn trong tuổi đôi mươi ! “

Đức Cha Ti-a-mer Toth cũng nói: “Ma quỉ đã dám đụng đến cả thủ lãnh Giê-su… thì chắc chắn chúng cũng sẽ không buông tha cho các đồ đệ của Người là chúng ta”.

2) PHƯƠNG DIỆN TÍCH CỰC CỦA CƠN CÁM DỖ:

a) “Lửa thử vàng – Gian nan thử đức”:

Sống trên đời, chúng ta không thể tránh được các cơn cám dỗ của ma quỷ. Tuy nhiên cám dỗ cũng có mặt tích cực của nó là giúp củng cố đức tin của chúng ta hầu mang lại lợi ích cho tâm hồn. Cám dỗ giống như phương thế tập luyện giúp chúng ta nên người lính thiện chiến, một lực sĩ mạnh mẽ của Thiên Chúa, có khả năng chiến đấu và chiến thắng ma quỷ cám dỗ.

Ta có thể ví cám dỗ giống như một mũi chích ngừa bệnh để bạch huyết cầu của chúng ta có dịp chiến thắng những vi trùng yếu, tiết ra kháng thể giúp chúng ta miễn dịch và sẽ dễ dàng chiến thắng các vi trùng mạnh hơn về sau.

b) “Ơn Thầy đủ cho con”:

Cần ý thức rằng: Chúa luôn ban đủ ơn để giúp ta chiến thắng ma quỷ cám dỗ, miễn là luôn có Chúa ở trong lòng ta. Thánh nữ Ca-ta-ri-na một hôm bị một cơn cám dỗ rất nặng. Sau đó được Chúa Giê-su hiện ra an ủi. Vừa gặp Chúa, thánh nữ liền hỏi: “Lạy Chúa. Khi con bị cám dỗ thì Chúa ở đâu?”. Người trả lời: “Ta ở ngay trong lòng con đó”. Về phần thánh Phao-lô Tông đồ có lần đã xin Chúa cất khỏi cơn cám dỗ của ma quỷ luôn quấy rầy, giống như một cái dằm đâm vào cơ thể làm cho đau đớn. Ngài còn bị một thủ hạ của Xa-tan đến vả mặt rất khó chịu và nhiều lần ngài xin Chúa giúp thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Chúa đã an ủi Phao-lô như sau: “Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối”. Về sau Phao-lô còn viết như sau: “Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,9).

c) Về các loại cám dỗ của ma quỷ: Có nhiều loại cám dỗ nhưng quan trọng nhất là cám dỗ của ma quỷ về lòng tham tiền bạc. Thực vậy, tình cảm gia đình cũng có thể bị đảo lộn vì bị đồng tiền chi phối: Cha mẹ có thể từ bỏ con cái, con cái có thể bỏ rơi cha mẹ; Vợ có thể tố cáo chồng, chồng có thể ruồng rẫy vợ; Anh em bạn bè có thể chém giết nhau vì tranh chấp của cải như một căn nhà, mảnh vườn hay thùng quà người thân gửi về… Thật đúng như người ta thường nói về giá trị của đồng tiền: “Còn tiền còn bạc còn đệ tử – Hết tiền hết gạo hết ông tôi” hoặc như câu tục ngữ : “Ông Tiền, ông Phật, ông Tiên – Ba ông đứng lại, ông tiền cao hơn”.

3) VÀO MÙA CHAY LÀ BƯỚC VÀO SA MẠC LÒNG MÌNH:

Dù đang sống cuộc sống đời thường hằng ngày nhưng chúng ta vẫn có thể sống tinh thần Mùa Chay bằng cách :

a) Kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ của ma quỷ, luôn vững tin vào Chúa dù gặp bao thử thách gian nan.

b) Bỏ ý riêng để luôn tìm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực thi theo ý Chúa Cha, dù phải chịu đau khổ, bị thiệt thòi, như Đức Giê-su đã cầu nguyện với Chúa Cha: ”Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha.” (Lc 22,42 b).

c) Sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thiếu thốn gặp phải trong cuộc sống: Dù bị đói nghèo nhưng tâm hồn vẫn tự do, không chịu khuất phục làm nô lệ cho của cải vật chất.

d) Giữ tâm hồn luôn bình an nhờ năng cầu nguyện với Chúa Cha: Nhờ đó chúng ta sẽ trở nên “Con yêu dấu” luôn làm vui lòng Cha như Đức Giê-su.

Nếu trong Mùa Chay chúng ta quyết tâm vào sa mạc để thanh luyện bản thân, thì tâm hồn chúng ta sẽ nên vững mạnh; Sẽ có khả năng chống trả các cơn cám dỗ của ma quỷ; Sẽ quyết tâm dấn thân phục vụ Chúa và tha nhân không quản ngại bất cứ khó khăn gian khổ nào; Sẽ tập thành thói quen bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa hầu nên con thảo của Chúa Cha noi gương Đức Giê-su. 

4) CÁC PHƯƠNG THẾ GIÚP CHÚNG TA CHIẾN THẮNG MA QUỶ CÁM DỖ:

a) Năng ăn chay và cầu nguyện: Nhờ ăn chay cầu nguyện suốt bốn mươi đêm ngày, Đức Giê-su đã được tăng sức mạnh để đương đầu và chiến thắng ma quỷ cám dỗ. Hội Thánh dạy chúng ta hãy cầu nguyện và ăn chay để hãm mình đền tội trong Mùa Chay như phương thế hữu hiệu gia tăng nội lực thiêng liêng hầu giúp ta đủ sức chống trả và chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ.

b) Năng học sống Lời Chúa: Lời Chúa như thanh gươm hai bên đều là lưỡi sắc bén để giúp chúng ta chống lại ma quỷ. Noi gương Đức Giê-su khi bị ma quỷ cám dỗ, đã sử dụng Lời Chúa làm phương thế chống trả và đã chiến thắng ma quỷ. Ba câu Lời Chúa ấy như sau: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4); “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của Ngươi” (Mt 4,7); “Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi” (Mt 4,10).

c) Tham dự các buổi tĩnh tâm năng lãnh nhận các phép bí tích: Dự tĩnh tâm để được nghe biết cách chống trả các cơn cám dỗ của ma quỷ. Xét mình xưng tội và dọn mình rước lễ sốt sắng, để luôn có Chúa ở cùng. Cầu xin Chúa giúp trừ khử các thói hư bằng việc quyết tâm tập các nhân đức đối lập theo kinh Cải Tội Bảy Mối đã dạy. Nhờ ơn Chúa giúp và nhờ nỗ lực phấn đấu của bản thân, chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng ma quỷ cám dỗ và sẽ ngày một nên hoàn thiện hơn.

5. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin giúp chúng con ý thức rằng: Xưa Chúa đã vào sa mạc để gặp gỡ và sống thân tình với Chúa Cha. Mùa Chay chính là thời kỳ thuận tiện để chúng con vào sa mạc với Chúa. Xin cho chúng con mỗi ngày dành ra ít phút thinh lặng để tâm sự với Chúa Cha, cho chúng con biết lắng nghe lời Chúa dạy trong giờ kinh tối gia đình, và các buổi Tĩnh Tâm Mùa Chay tại nhà thờ. Nhờ Thần Khí Chúa thôi thúc, chúng con quyết tâm thực thi ăn chay hãm mình đền tội trong Mùa Chay này. Xin cho chúng con biết chu toàn các việc bổn phận hằng ngày đối với Chúa và tha nhân, biết chủ động đi bước trước làm hòa với những ai đang bất bình với con… để mỗi ngày con được Thần Khí thanh luyện và được biến đổi nên người mới trong Mùa Phục Sinh sắp tới.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

NHỮNG CON DÃ THÚ

Lm. Nguyễn Thái

Một ngày nọ, lạc đà con nói chuyện với lạc đà mẹ như sau, “Mom! Tại sao bàn chân của mẹ con mình lại có 3 ngón chân to tổ chảng vậy?” Lạc đà mẹ trả lời, “Để chúng mình băng qua sa mạc cát mềm mà không bị lún chứ làm sao!” “Và tại sao chúng mình có bộ lông mi dài lượt thượt và nặng nề quá vậy?” “Để cát khỏi rơi vào mắt trên những hành trình dài trong sa mạc đó con!” “Và Mom, tại sao chúng mình lại phải mang những cái bướu quá bự trên lưng vậy?” Bây giờ thì lạc đà mẹ không còn kiên nhẫn nổi để trả lời những câu hỏi vớ vẩn của thằng con nữa, nhưng cũng cố trả lời, “Nó giúp chúng mình dự trữ những chất béo cho những cuộc du hành dài, nhờ đó mà mẹ con mình không cần nước trong một thời gian rất lâu ở sa mạc!” “À! Con biết rồi!” lạc đà con nói, “Chúng mình có ngón chân bự để không bị lún dưới cát sa mạc, lông mi dài để tránh cát bụi khỏi rơi vào mắt, và những cái bướu trên lưng để chứa nước. Vậy thì, Mom! Tại sao chúng ta lại ở đây, trong cái sở thú của Toronto này?”

Đời sống văn minh hiện đại làm cho chúng ta có cảm giác giống như con lạc đà trong sở thú. Chúa ban cho ta khối óc để suy nghĩ, nhưng bây giờ đã có máy computer nghĩ hộ chúng ta rồi! Chúa ban cho ta con tim để yêu thương tha nhân, nhưng đã có những cơ quan từ thiện làm việc bác ái rồi! Đôi khi chúng ta cần đi vào trong “sa mạc” để khám phá lại chúng ta thực sự là ai? Mùa Chay mời gọi chúng ta đi vào trong cái cảm nghiệm của “sa mạc” này.

Sa mạc hay hoang địa là nơi sinh trưởng của dân Thiên Chúa. Dân Do Thái, là những bộ lạc tản mác tha phương đã trốn thoát khỏi đất Ai Cập (Ex 12:37-38) trở về miền Đất Hứa như một quốc gia dưới quyền lực của Thiên Chúa. Chính ở trong sa mạc mà họ đã trở thành dân Thiên Chúa với lời giao ước. Trong dòng lịch sử, khi nào tình yêu và lòng trung thành của họ đối với Thiên Chúa trở nên lạnh nhạt, thì các tiên tri đề nghị họ trở về sa mạc để khám phá lại cái căn tính của mình là ai, giúp họ ý thức về ơn gọi và sứ mệnh của mình, làm thức tỉnh đức tin và củng cố sự liên hệ đã giao ước giữa họ với Thiên Chúa. Những đại tiên tri như Elijah và Gioan Tẩy Giả là những vị tiên tri của sa mạc: họ sống trong sa mạc, ăn thức ăn sa mạc, và chấp nhận một lối sống đơn sơ và khắc nghiệt trong sa mạc. Sa mạc là trường đại học nơi Thiên Chúa dạy dỗ dân Ngài.

Lời Chúa hôm nay trích từ Phúc Âm của Thánh Mác-cô 1:12-15. Sau khi Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, “Thánh Thần thúc đẩy Ngài vào hoang địa, và Ngài ở đó suốt 40 đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú; và các Thiên Thần hầu hạ Ngài.” Phúc Âm của Matthêu và Luca diễn tả quỷ dữ cám dỗ và thách thức Chúa Giêsu dùng quyền lực phục vụ cho nhu cầu riêng tư của Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đã từ khước và nói, “Ngươi phải bái lạy Thiên Chúa là Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi” (Mt 4:39; Lc 4:8). Còn Phúc Âm của Mác-cô, thay vì diễn tả những chi tiết của sự cám dỗ, chỉ nói vắn tắt trong câu: “sống chung với dã thú.” Dã thú là những con thú nào? (Ep 6:12).

Theo các nhà tu đức thì những con dã thú đó không phải là những con thú ở bên ngoài chúng ta, nhưng ở trong lòng ta. Chúng là những con dã thú của bẩy mối tội đầu như kiêu ngạo, hà tiện, ghen tuông, giận dữ, dâm ô, mê ăn uống, và lười biếng hay nguội lạnh. Những quyền lực này đè nặng trên chúng ta khi chúng ta quyết định làm bất cứ việc gì. Đời người giống như cuộc sống giữa sa mạc với đầy những “dã thú.” Chúng ta bị vây hãm xung quanh bởi một bên là những hoàn cảnh khó khăn, còn một bên là những cám dỗ mời gọi. Chúng ta cần sức mạnh để chống lại những thù nghịch, những gì đang tạo ra cho chúng ta một cảm giác an bình giả tạo. Hôm nay chúng ta thử đối diện với “những con dã thú” mà chúng ta thường xuyên phải chiến đấu trong đời sống tâm linh.

Trước tiên chúng ta phải chiến đấu sự ngã lòng (Mt 27:3). Nếu ví cuộc đời giống như sa mạc, nơi hoang địa với nhiều dã thú, khó khăn và chông gai, thì chúng ta cảm thấy phải chiến đấu thường xuyên và liên tục. Cuộc đời chất đầy những gánh nặng và đòi hỏi. Không bao giờ giải quyết hết các chuyện rắc rối. Lúc nào cũng có vấn đề. Nhưng chúng ta phải lưu ý rằng trong khi Chúa Giêsu sống với các dã thú thì Thánh Kinh nói rằng “các thiên thần hầu hạ Ngài.” Nói cách khác, Chúa Giêsu không cô đơn, một mình (Jn 16:32). Ngài đã chiến đấu với dã thú bằng sự hiện diện và sức mạnh của Thiên Chúa. Ngài có sức mạnh, tràn đầy sức mạnh. Sức mạnh của Thiên Chúa hướng dẫn: “Thánh Thần thúc đẩy Ngài vào hoang địa.” Chính Chúa Thánh Thần và các lực lượng thiên thần cũng sẽ hướng dẫn và gia tăng sức mạnh cho chúng ta chiến đấu kiên trì với những khó khăn và cám dỗ trong cuộc đời.

Selma Lagerloeff trong huyền thoại “The Flame”, đã kể câu chuyện về chàng hiệp sĩ, sau cuộc thánh chiến thành công vào Thánh Địa, anh đã làm một lời thề hứa. Anh thắp lên một cây nến lấy từ ngọn lửa thánh tại ngôi mộ của Chúa Giêsu, và mang nó trở về quê quán của anh ở tỉnh Florence, nước Ý Đại Lợi mà vẫn còn cháy sáng. Quyết định này đã biến đổi anh trở thành một con người mới. Nó biến đổi anh từ một người lính hiếu chiến thích đánh nhau trở thành một con người yêu chuộng hòa bình. Trên đường trở về nhà chàng hiệp sĩ đã bị bọn cướp bóc lột, anh đã không rút gươm ra chống cự. Anh đã hứa cho chúng bất cứ những gì anh có miễn là chúng không dập tắt ngọn nến cháy của anh. Bọn cướp đã tước đoạt áo giáp, thanh gươm, con ngựa yêu quý và tiền bạc của anh. Chúng chỉ để lại cho anh một con ngựa già. Sau khi đã trải qua tất cả các kinh nghiệm của sự nguy khốn, anh đã cưỡi con ngựa già về đến Florence. Để bảo vệ ngọn lửa không bị tắt bởi những cơn gió trong sa mạc, anh đã phải ngồi quay lưng lại với con ngựa, và dùng thân mình để che chở cho ngọn lửa. Khi những người không đàng hoàng trong thị xã trông thấy anh cưỡi ngựa ngược như vậy, chúng nghĩ anh là một tên điên khùng, và ra sức đùa nghịch để dập tắt ngọn lửa. Nhưng anh đã làm tất cả sức mình để có thể giữ ngọn lửa cháy sáng. Và sau cùng, anh đã mang nó về đến nhà thờ chính tòa, và dùng nó để thắp lên tất cả những cây nến trên bàn thờ của nhà thờ chính tòa Florence. Khi người đốt đèn ở nhà thờ hỏi anh đã phải làm gì để giữ ngọn lửa khỏi tắt, anh trả lời, “Ngọn lửa nhỏ bé này sẽ đòi hỏi tất cả sự chú tâm của anh; nó sẽ không cho phép anh nghĩ về bất cứ điều gì khác. Và anh sẽ không có thể cảm thấy an toàn một giây phút nào cả. Anh phải luôn luôn chiến đấu. Bất kể là ngọn lửa có thể đã bảo vệ anh tránh khỏi biết bao nhiêu nguy hiểm, anh phải luôn tỉnh thức để ngăn ngừa ngọn lửa không bị đánh cắp mất khỏi anh” (William Hoffsuemmer. 1000 Stories, Volume 1, trang 73).

Chúng ta phải chiến đấu với sự sợ hãi (Mc 4:38; Ga 20:19). Nỗi sợ hãi lớn nhất cho người bộ hành trong sa mạc là mất phương hướng, không biết đường đi. Cái nhìn của họ trở nên mờ ảo. Họ nhìn ánh nắng chói chan trước mắt như là những ao hồ mông mênh ngập nước. Ảo giác làm cho con người trở nên nghi ngờ, mất niềm tin, và sau cùng dẫn đến hoang mang sợ hãi. Chỉ có đức tin và lòng trông cậy phó thác mới chiến thắng được sợ hãi. Tin rằng Thiên Chúa luôn yêu thương ta và muốn điều tốt đẹp nhất cho ta. Tin vào một Thiên Chúa luôn ở bên ta, đi với ta cho dù bao gian nguy. Tin rằng quỷ dữ không có quyền lực gì trên ta; nó chỉ có quyền vì ta ban cho nó mà thôi. Nó không thể bắt chúng ta làm điều gì được, ngoài sự cám dỗ cho chính chúng ta phạm tội. Chúng ta có tự do để từ chối, có sức mạnh để chống trả.

“Đừng sợ!” là sứ điệp được nhắc đến trên 300 lần trong Phúc Âm. Khi Chúa Giêsu bước đi trên mặt nước đến với các môn đệ, các ông hoảng sợ (Mc 6:49), Ngài nói: “Chính Thầy đây, đừng sợ!” (Ga 6: 20). Thiên Thần Gáp-ri-en đã nói với Đức Maria: “Hỡi Maria, xin đừng sợ!” (Lc 1: 30) Thiên thần cũng đã nói với Giuse: “Đừng sợ đón Maria vợ ông về” (Mt 1: 20). Vào Ngày Sống Lại, Chúa Giêsu cũng đã hiện ra với các Tông đồ và nói: “Sao anh em lại hoảng sợ… Chính Thầy đây mà!” (Lc 24: 37).

Chúng ta phải chiến đấu với sự tiêu cực (Mt 12:30; Dt 12:15). Đây chính là thái độ khiến chúng ta không thể thành công khi làm bất cứ việc gì, hay bất cứ việc gì chúng ta đang làm cũng sẽ đi sai lệch. Điều ngăn cản chúng ta hy vọng và sống tích cực là chính thái độ của chúng ta. Thái độ tiêu cực có tính cách truyền nhiễm giống như cơn bệnh nhiễm trùng. Chúng ta càng tiêu cực bao nhiêu thì tình huống càng trở nên thống khổ và hỗn loạn bấy nhiêu. Thái độ tích cực lúc khởi sự của một ngày, hay của bất cứ công việc gì sẽ định hình cho tất cả phần còn lại của trọn cả một ngày hay sự thành công của công việc sẽ kéo dài về sau.

Frederick Ebright đã chia sẻ kinh nghiệm đối với thái độ tâm lý của mình như sau: “Khi tôi cảm thấy thật buồn, tôi viết một lá thư cho người bạn nói với người ấy tất cả những chuyện rắc rối của tôi. Tôi không gửi lá thư đó đi. Nhưng tôi bắt đầu viết lá thư thứ hai gửi cho cùng một người, trong đó tôi cẩn thận bỏ đi bất cứ điều nào đã đề cập đến những điều không may, và thay vào mỗi rủi ro đó một chút tin vui. Vào lúc lá thư này được viết ra, một phép lạ đã xảy ra: tôi thực sự cảm thấy tốt hơn. Và vì một lá thư vui tươi luôn luôn phát sinh ra một sự đáp trả phấn khởi, tôi đã hoàn tất một mục đích lưỡng tiện.”

Mùa Chay là thời gian để cảm nghiệm về sa mạc hay hoang địa. Chúng ta không cần phải có lạc đà đi vào sa mạc, nhưng chúng ta có thể tạo ra một khoảng không gian hoang địa cho chúng ta ngay giữa những xô bồ ồn ào của cuộc sống. Hằng ngày chúng ta có thể tìm ra một chỗ, dành ra một chút thời gian một mình với Thiên Chúa (Mt 6:6). Nơi yên tĩnh chúng ta sẽ biết mình là ai, biết những điểm mạnh và điểm yếu, biết “thiên thần” chung quanh cùng “những con dã thú”, lắng nghe tiếng Chúa gọi và lời cám dỗ của Satan, khám phá lại chúng ta là ai trước mặt Thiên Chúa.

Về mục lục

.

MÙA THANH TẨY TÂM HỒN

Lm. Đinh Lập Liễm

Chiến Thắng Cám Dỗ Của Ma Quỉ.

Sau khi đã chịu phép rửa của ông Gioan và được tuyên dương là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu được đẩy vào sa mạc để sống gần gũi với Thiên Chúa, sống trong tình thân mật của Ngài. Chính tình yêu đó đẩy bước chân Ngài vào sa mạc để sống thân mật với Thiên Chúa, để sống trọn vẹn 40 năm trời Dân Chúa xưa đã sống trong sa mạc, nhưng không được tốt lành hoàn toàn.

Vào trong hoang địa để sống với Cha Ngài. Nói Ngài ăn chay 40 đêm ngày là có ý nói Ngài ăn chay một thời gian đáng kể chứ không hiểu theo nghĩa đen như chúng ta hiểu ngày nay. Chúng ta cũng thấy trong Cựu Ước hay dùng con số 40: Maisen được cho biết đã lên đỉnh núi với Chúa 40 ngày (Xh 24:18); sau khi được bữa ăn của thiên sứ, Elia đã đủ sức đi trong 40 ngày lên núi Horeb (1 V 19:8).

Trong thời gian ăn chay đó, Đức Giêsu bị Satan cám dỗ. Từ ngữ Satan trong Hi văn chỉ có nghĩa đơn giản là kẻ chống đối, kẻ thù, và sau cùng là thế lực chống lại Thiên Chúa. Thánh Marcô không nói rõ diễn tiến cơn cám dỗ như Thánh Matthêu, nhưng cơn cám dỗ đều qui về một điểm là chúng muốn làm cho Ngài bỏ ý tưởng cứu chuộc để đi vào quan điểm của người Do Thái, vật chất và trần tục. Đức Giêsu đã cương quyết chống lại cơn cám dỗ ấy và Satan đã thất bại nặng nề trong cơn cám dỗ.

Một nông dân kia giầu có nhất huyện nhưng lại rất keo kiệt. Một biến cố xẩy đến trong đời ông khiến ông kịp thời hối cải. Ông ý thức rằng mình chỉ là người quản lý: quản lý đất đai và tiền bạc.

Không lâu sau đó, một người láng giềng nghèo bị cháy hết nhà cửa. Người này đến cửa nhà ông xin ăn. Người nông dân giầu, có ý định cho người nông dân nghèo kia nguyên cả cái đùi heo trong bếp nhà ông. Ông nghe quỉ thì thầm bên tai: ”Cho hắn cái đùi heo nhỏ nhất ấy.” Ông nhà giầu cố gắng chiến đấu với tính keo kiệt cố hữu của mình. Sau nhiều nỗ lực, cuối cùng lòng quảng đại đã thắng tính keo kiệt ấy. Ông lựa lấy cái đùi heo lớn nhất để biếu người nông dân nghèo. Ngay tức khắc, ma quỉ liền cười nhạo ông: ”Mày khùng quá!” Nhưng người nông dân đã biết cách bịt miệng tên quỉ. Ông bảo nó: ”Nếu mày không im, tao sẽ cho hết mọi cái đùi heo tao có bây giờ.”

Cám dỗ không thể làm hại được người ta khi người ta không theo cám dỗ ấy, và điều đó lại càng hiệu nghiệm hơn khi có sự trợ lực từ nhiều phía, nhất là của Thiên Chúa.

Cám dỗ chỉ có nghĩa là xúi giục người ta bỏ điều lành mà làm điều xấu. Chính Satan đã cám dỗ Đức Giêsu bỏ ý hướng tốt lành của Cha Ngài để theo đường lối của thế gian. Nhưng cần phải phân biệt 3 giai đoạn của cám dỗ: – Gợi lên một hình ảnh. – Làm cho thích thú hoặc hướng chiều về sự ác. – Sau cùng là ưng thuận.

Satan chỉ có thể làm được nơi Đức Giêsu ở giai đoạn thứ nhất: gợi hình ảnh hoặc một sự vật ở giác quan hoặc ở trí tưởng tượng.

Một phạm nhân vượt ngục một cách rất khác thường. Người này bị nhốt trong một tháp cao, cao đến nỗi không ai có thể trèo xuống được. Để vượt ngục, người này nhổ hai sợi tóc mỗi ngày và xe lại với nhau. Sau một thời gian, người ấy đã có thể làm được một sợi dây bằng tóc. Người ấy thả sợi dây tóc đó xuống dưới cửa sổ của nhà tù và một người bạn đợi sẵn ở dưới buộc một sợi lụa vào đầu sợi dây tóc và ở cuối sợi chỉ lụa lại buộc một sợi dây dài và cuối sợi dây dài đó lại buộc một sợi dây thừng nhỏ, đầu sợi dây thừng nhỏ lại buộc một sợi dây thừng lớn. Người tù đã dùng sợi dây thừng lớn này để vượt ngục.

Đó chính là đường lối ma quỉ cám dỗ bản tính yếu hèn của ta. Chúng ta giam tù các dục vọng của ta, nhưng ma quỉ giúp chúng vượt ngục dần dần. Rất ít khi ma quỉ cám dỗ ta phạm tội trọng ngay từ đầu, vì thế sẽ khiến ta sợ. Nhưng chúng cám dỗ ta phạm một lỗi nhỏ để rồi dẫn chúng ta đến chỗ phạm tội trọng. Không bao giờ chúng cám dỗ ta làm hai điều một trật, dù còn đủ thời giờ để cám dỗ chúng ta phạm tội kia. Nhưng chúng cám dỗ ta thế nào để cơn cám dỗ này đưa đến một cám dỗ khác, rồi một cơn cám dỗ khác nữa và cứ thế tiếp tục cho đến khi chúng ta phạm tội trọng (W.J. Diamond, Đồng cỏ non, 1968, tr 51).

Trong cuộc sống, không ai tránh được cuộc tấn công của cám dỗ, nhưng điều chắc chắn là những cuộc cám dỗ không nhằm mục đích khiến chúng ta phải sa ngã, nhưng làm cho linh hồn chúng ta được trưởng thành, được trung kiên thi hành ý Chúa. Cơn cám dỗ có lợi cho ta vì chúng ta: – Lập công phúc khi chiến thắng cám dỗ. – Sống khiêm nhường và nhận ra sự bất lực của mình để trông cậy vào Chúa. – Thúc đẩy cầu nguyện, vì Chúa phán: ”Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa cám dỗ” (Lc 22:46) – Sau cơn cám dỗ ta được vui mừng an ủi vì “Gieo trong đau thương, gặt trong vui mừng” (Ps 126:5).

Sống giữa trần gian này là phải chiến đấu và lấy quyết định. Đức Giêsu tuy là Con Thiên Chúa, Ngài đã làm người và Ngài đã không đi ra ngoài qui luật ấy. Ngài cũng đã chịu thử thách như Adong trong vườn địa đàng và như dân Do Thái suốt 40 năm trong hoang địa. Nhưng khác với Adong và dân Do Thái suốt 40 năm trong hoang địa: Ngài đã chiến thắng Satan, và sự chiến thắng này là nhờ vào sức mạnh của Thiên Chúa.

Ngày nay nhiều người cho rằng cám dỗ của ma quỉ liên quan đến ba đối tượng là danh, lợi, thú. Ham danh, ham lợi, ham phú quí là bản tính của con người. Ai cũng muốn địa vị cao sang, ai cũng muốn giầu có, ai cũng ham thích thú vui. Hoặc như quan niệm của Tây phương thì cám dỗ xoay quanh Avoir (cái có), Savoir (cái biết) và Pouvoir (quyền lực). Đây là những cám dỗ triền miên mà con người ở mọi thời đại luôn gặp phải. Điều quan trọng là phải tỉnh thức, ”phải sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15b) thì mới có thể vượt qua được cơn cám dỗ ấy.

Đức Giêsu bị cám dỗ trước cái thế giằng co giữa lời kêu gọi của Thiên Chúa Cha và lời kêu gọi của Satan: Thiên Chúa nói với Đức Giêsu “Hãy thiết lập vương quyền bằng tình thương”, còn Satan lại bảo Đức Giêsu: ”Hãy thiết lập một chế độ độc tài bằng bạo lực.” Hôm đó, Đức Giêsu đã phải chọn giữa phương pháp của Thiên Chúa và đường lối của kẻ thù địch với Thiên Chúa.

Trong con người chúng ta có hai khuynh hướng trái ngược nhau: Một khuynh hướng kéo con người đi lên, khuynh hướng kia kéo con người đi xuống. Đời người đúng là một đấu trường giữa thiện và ác. Thánh Phaolô đã có kinh nghiệm về vấn đề này khi Ngài nói: ”Tôi không hiểu nổi việc tôi làm: điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm” (Rm 7:15). Vì thế, muốn đi lên, con người phải cố gắng, phải dùng chính sức mạnh của mình, phải hao tổn năng lực của mình.

“Cải thiện” hay “cải tà qui chính” là nhìn nhận những gì xấu, không tốt đẹp trong đời sống chúng ta, và từ đó là từ bỏ chúng, quay lưng lại với chúng. Nói khác đi là thẳng thắn đối diện với tội lỗi trong đời sống của ta, rồi cương quyết không bao giờ tái phạm nữa. “Cải thiện” là đối diện với những khuynh hướng xấu trong đời sống chúng ta và làm một cái gì để sửa đổi những khuynh hướng đó.

Léon Tolstoi đã nói không sai: ”Mọi người đều nghĩ đến chuyện thay đổi nhân loại, nhưng không ai nghĩ đến chuyện thay đổi chính mình.”

Mùa Chay là thời gian hồi tâm, trở về với Chúa để định hướng cho tương lai. Mùa Chay cũng là lúc dừng lại để nhận ra những cám dỗ, những cạm bẫy đang bủa vây. Nguyên tắc bất di bất dịch là: cẩn thận đề phòng thì không sợ sa ngã, khỏi phải buồn phiền. Trong thư gửi cho tín hữu Corintô, Thánh Phaolô đã nhắc đến nguyên tắc này khi Ngài nói: ”Ai tưởng đứng vững, coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10:12).

Người Eskimô bắc cực có một cái bẫy chó sói rất độc đáo, để lấy bộ lông làm áo da thú. Thợ săn mài một con dao thật sắc, lưỡi dao mỏng và bén đến độ chỉ cần vuốt nhẹ là cắt da lòi thấu xương. Họ nhúng con dao ấy vào trong máu súc vật, rồi đem ra ngoài trời tuyết lạnh cho mau đông lại. Họ làm như thế nhiều lần cho đến khi con dao bọc toàn máu.

Khi trời nhá nhem tối, họ đem ra cắm ngoài cánh đồng tuyết. Với cái mũi rất thính của loài sói bắc cực, nó đánh hơi được mùi máu tươi đông lạnh. Vội vàng chạy tới liếm lấy liếm để, liếm tới tấp, liếm điên cuồng cho đến khi lưỡi mình đã bị dao cắt đứt mà vẫn sung sướng liếm dòng máu tươi, không biết mình đang liếm máu của chính mình. Càng say máu, sói càng liếm cuồng điên, cho tới khi kiệt sức rồi lăn ra mà chết (Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, năm B, tr 143).

Trong kinh Lạy Cha chúng ta đọc: ”Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” (Mt 6:13), có nghĩa là Chúa dạy chúng ta phải cầu nguyện xin Chúa ban ơn trợ lực để chúng ta khỏi thua chước cám dỗ. Ma quỉ luôn rình rập làm hại chúng ta, chúng ta phải nhớ lời Thánh Phêrô nhắc nhở: ”Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự” (1 Pr 5:8-9a). Chúng ta cũng phải nhớ đến thân phận yếu hèn của mình mà tin cậy vào ơn Chúa vì chính Chúa đã nói: ”Không có Thầy, các con không làm được gì” (Ga 15:5).

Những gương chiến đấu tốt đẹp chống lại ma quỉ còn để lại cho chúng ta nơi các thánh. Một vị thánh kia có lần được thấy ma quỉ khi đi qua một tu viện và thấy nhiều quỉ ngồi ở mỗi góc, cả ở nhà nguyện nữa. Vị thánh đó đi ra phố và thấy rằng chỉ có một thằng quỉ đi cám dỗ mà thôi. Vị thánh đó hỏi tại sao thì quỉ trả lời: ”Chỉ một thằng quỉ cũng đủ cám dỗ các linh hồn ở ngoài phố, vì họ không cố gắng chống lại, chứ còn để bắt được một linh hồn lành thánh thì cần cả một đạo binh quỉ kia.”

Nếu chúng ta bị cám dỗ thì có nghĩa là linh hồn chúng ta đang lớn mạnh đó. Nếu Chúa để cho chúng ta bị cám dỗ, thì Ngài cũng ban cho chúng ta đủ sức mạnh để nói, như Chúa chúng ta đã phán: ”Hỡi Satan, hãy xéo đi” (Mt 16:23). Và chúng ta sẽ thấy dễ chịu khi nghe câu cuối cùng của bài Tin Mừng: ”Bấy giờ ma quỉ bỏ Ngài và có các thiên thần đến hầu cận Ngài” (Mt 4:11).

Về mục lục

.

NOI GƯƠNG CHÚA ĐỂ CHIẾN THẮNG CÁM DỖ

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội bước vào Chúa Nhật đầu tiên của Mùa Chay. Trong Chúa Nhật này, Giáo Hội mời gọi con cái mình hãy noi gương Đức Giêsu khi đối diện với thử thách, đồng thời cũng đưa ra cho chúng ta những phương thế hữu hiệu mà chính Đức Giêsu đã dùng để chống trả trước cám dỗ. Mặt khác, hãy đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu: “Sám hối và tin vào Tin Mừng để được cứu độ”.

Vì thế, với chúng ta, đây là thời thuận tiện, là: “thời Chúa thi ân, là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2 Cr 6,2).

  1. Âm mưu cám dỗ

Khi nói đến cám dỗ, chắc chắn chúng ta đều hiểu rằng đó là một sự mưu mô, mánh khóe của kẻ chủ mưu. Nói cách khác, những trò độc hại sẽ được tung ra để đầu độc người mà tên cám dỗ muốn thuyết phục.

Vậy đâu là mục đích của các cơn cám dỗ mà ma quỷ gây ra với Đức Giêsu.

Thưa, đó là: ma quỷ tìm mọi cách để đưa Đức Giêsu đi vào vết xe của Nguyên Tổ khi xưa.

Nếu trước kia Nguyên Tổ bị ma quỷ cám dỗ về danh vọng khi hứa sẽ được sáng mắt ra và bằng Thiên Chúa, thì hôm nay, chúng cũng cám dỗ Đức Giêsu hóa đá thành bánh để ăn. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã thắng khi nói: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4).

Nếu trước kia ma quỷ cám dỗ Tổ Tông chúng ta tự tin vào sức mình, và Nguyên Tổ đã mắc phải, thì hôm nay, nó cũng cám dỗ Đức Giêsu như vậy. Nhưng lần này Ngài cũng vượt qua khi nói: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Mt 4,7).

Nếu xưa kia Nguyên Tổ loài người đã tham lam, không chịu chấp nhận những gì mình có. Đây là lòng tham vô đáy của con người. Hôm nay, ma quỷ cũng cám dỗ Đức Giêsu về sự tham lam này khi chúng cho Ngài xem thấy các nước thiên hạ và bắt Ngài phải thờ lạy chúng. Nhưng như hai lần trước, lần này, Đức Giêsu cũng chiến thắng và Ngài tuyên bố: “Satan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4, 10).

Như vậy, trải qua ba cơn cám dỗ, ma quỷ làm toát lên mục đích của chúng là cám dỗ Đức Giêsu đi sai đường lối của Thiên Chúa, nhưng Ngài đã chiến đấu dũng mạnh và chiến thắng vinh quang để đi đúng đường lối của Thiên Chúa là dấn thân vào công cuộc cứu chuộc nhân loại.

Gợi lại vài điểm mấu chốt trong cuộc cám dỗ của ma quỷ với Đức Giêsu và cũng là của chúng ta để thấy được đâu là mấu chốt của cuộc cám dỗ và đâu là chìa khóa để chúng ta vượt ra khỏi cơn cám dỗ đó.

  1. Chìa khóa để chiến thắng cám dỗ

Chìa khóa thứ nhất đó là cầu nguyện. Đức Giêsu đã cầu nguyện, sống thân tình với Thiên Chúa suốt 40 đêm ngày. Thời gian này, Ngài luôn trung thành và làm theo thánh ý Thiên Chúa.

Chìa khóa thứ hai, đó là ăn chay, hy sinh và hãm mình. Khi chúng ta giữ chay tịnh, thì đương nhiên phải hy sinh, hãm mình. Khi làm những việc đó, nó sẽ giúp chúng ta biết hướng lòng mình về với Thiên Chúa, để đón đợi Ngài đến với ta trong ngày cánh chung.

Bên cạnh đó, nó còn giúp chúng ta được trở nên con người tự do, không bị ràng buộc vào những nhu cầu của thân xác, danh vọng và tình dục….

Khi thoát ra khỏi những nhu cầu bản năng đó, chúng ta được thanh thoát trong đời sống đức tin của mình và dễ dàng tiến xa hơn trên con đường tình yêu và sự liên đới với anh chị em khác trong việc thực thi đức bác ái.

Chìa khóa thứ ba, đó là: luôn luôn sống dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần. Chính Người sẽ giúp chúng ta biết phải sống làm sao và sống như thế nào cho đẹp lòng Chúa. Điều này cũng đã được Đức Giêsu loan báo: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều” (Ga 14,26).

Chía khóa thứ tư, đó là thực hành Lời Chúa. Lời Chúa sẽ là sức mạnh, là đường dẫn ta đi, là lý tưởng cho ta vươn tới và là sự sống đời đời cho những ai tin. Chính Lời Chúa sẽ giúp cho chúng ta tỉnh thức để chiến thắng được cạm bẫy của Satan.

  1. Sứ điệp Lời Chúa

Trong suốt Mùa Chay, Giáo Hội không ngừng lặp lại lời mời gọi của Đức Giêsu: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.

Vậy, muốn sám hối thực tâm và đón nhận Tin Mừng thật lòng để được sự sống đời đời, chắc chắn chúng ta phải vượt ra khỏi những ồn ào, huyên náo của thế gian để bắt đầu vào một cuộc chiến đấu thiêng liêng nơi sa mạc nội tâm của mình.

Khi đối diện với sa mạc nội tâm, chúng ta sẵn sàng đón nhận những thiếu thốn về vật chất, tiện nghi mà không kêu than oán hận. Sẵn sàng chiến đấu với thế lực đen tối là ma quỷ bằng niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa. Thể hiện lòng yêu mến Thiên Chúa tha thiết qua việc sẵn sàng sống dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần. Luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa cách trung thành, tuyệt đối.

Ngược lại, nếu chúng ta không đi vào sa mạc nội tâm để: “Sám hối và tin vào Tin Mừng”, thì chúng ta khó lòng nhận ra thân phận mỏng manh của kiếp người, vốn dễ dàng bị ngã gục trước cám dỗ. Từ đó, sự ích kỷ, hẹp hòi, lộng ngôn, kiêu ngạo, gian dối… luôn bá chủ tâm hồn mình để làm lu mờ lương tâm và dẫn ta đi sai đường trật lối của Thiên Chúa và mất ơn cứu độ!

Vì thế, đây đó, chúng ta vẫn thấy có những người chỉ vì chút quyền lợi trước mắt mà đã sẵn sàng chối Chúa, bỏ đạo để đi theo một lý tưởng mông lung vô định nào đó!!! Hay như những người chỉ biết nghĩ đến cái bụng, đến đồng tiền mà sẵn sàng dùng hóa chất độc hại để làm lợi cho bản thân mà không hề nghĩ đến sức khỏe của người tiêu dùng. Họ cũng chẳng cần nghĩ đến lương tâm, nên sẵn sàng làm hàng giả, hàng nhái; buôn gian bán lận; làm chứng gian…. Hoặc cũng có biết bao nhiêu người đã sa vào những vũng lầy êm ái của các quán bar, bia ôm và café trá hình hay các động mại dâm…, để thỏa mãn nhu cầu thân xác của bản năng….

Khi ta vướng vào những chuyện đó, ấy là chúng ta đã tự nguyện mở một con đường thênh thang, thoáng mát và đẹp đẽ cho ma quỷ tiến vào làm chủ tâm hồn chúng ta và dẫn ta đến nơi: “Khóc lóc và nghiến răng”.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: mỗi khi bị cám dỗ, hãy biết cậy dựa vào ơn Chúa và sống Lời Chúa dạy dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Khi biết bám vào Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ nhận được những: “Ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn nhận thức, ơn chỉ bảo, ơn dũng mạnh, ơn thánh thiện và ơn kính sợ Thiên Chúa”. Và như một lẽ tất yếu, kết quả của những ơn đó chính là: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (x. Gl 5,22-23)

Xin Chúa giúp chúng ta khiêm tốn trong thời gian thuận tiện này để sám hối, chay tịnh, cầu nguyện và hy sinh. Luôn biết quy hướng mọi chiều kích của cuộc sống mình nơi Lời Chúa dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần để sống xứng đáng là con Chúa và là anh chị em của nhau. Amen.

Về mục lục

.

TỪ BỎ TỘI LỖI VÀ TRUNG TÍN VỚI TÌNH YÊU THIÊN CHÚA

Lm. Nguyễn Văn Phan

Không còn gì nghi ngờ nữa. Hôm nay Mùa Chay đã ‘nói trúng tim đen của chúng ta’ rồi đấy, và làm rung động tận chốn thâm cung tâm hồn chúng ta. Mùa Chay kêu gọi chúng ta từ bỏ tội lỗi và trung tín với tình yêu Thiên Chúa.

Chay tịnh, cầu nguyện, bố thí xưa nay là những việc làm chính yếu của Mùa Chay. Đó là những khí cụ chúng ta được khuyên dùng để dễ dàng tiến lại gần bên Thiên Chúa hơn, trong khi vẫn phải hành trình tiếp tục suốt đời. Đối với một số người, thì Mùa Chay đồng nghĩa với bỏ rượu, bỏ thuốc lá, trong khi những người khác lại thấy Mùa Chay là thời gian đi nhà thờ hằng ngày… Cho dù chúng ta thực hiện kiểu chay tịnh cách nào, thì động cơ thúc đẩy chúng ta mới là quan trọng. Nếu chúng ta ăn chay hay ăn kiêng chỉ vì muốn có thân hình thon thả, hay chúng ta làm phúc bố thí chỉ vì muốn được nể vì trong cộng đồng, thì những nỗ lực của chúng ta cũng hơi uổng công vì chúng ta đã nhận được phần thưởng rồi và vẫn chưa đến gần Chúa hơn là bao.

Khi khởi đầu sứ vụ công khai, Đức Chúa Giêsu đã đi vào hoang địa suốt 40 ngày đêm – cũng vì thế mà ngày nay chúng ta tổ chức hẳn một Mùa Chay Thánh. Giáo Hội muốn mọi người hãy sống lại kinh nghiệm của Chúa Giêsu là thiết lập mối tương quan sâu đậm và tình nghĩa thân thiết hơn giữa Thiên Chúa với chúng ta. Hành trình của chúng ta là một hành trình vào sa mạc nội tâm nơi đó mình ta đối diện với Thiên Chúa trong tinh thần chân thực. Hoang mạc tâm hồn sẽ giúp chúng ta nhìn lại bản thân xem chúng ta thực sự là ai, chúng ta làm gì với những nén bạc Chúa trao, đồng thời sẽ giúp chúng ta ý thức hơn về tình trạng tội lỗi của chính mình. Nhờ đó dần dần chúng ta sẽ đau lòng mà nhận ra mình cần thay đổi và canh tân cách tranh đấu với sự dữ bằng cách cầu nguyện chay tỉnh và đền tội. Việc chúng ta đền bù tội lỗi sẽ giúp chúng ta nhận thức được rằng những mặt thiêng liêng của cuộc sống còn quan trọng hơn những khía cạnh vật chất của nó. Một khi chúng ta ý thức được những lỗi lầm của bản thân, chúng ta mới nhận ra nhu cầu cần thay đổi điều này điều khác.

Nếu chẳng may chúng ta nằm trong số những người chuyên chụp mũ cái xấu lên đầu mọi người. Thì nay đi vào hoang mạc chính là cơ hội để chúng ta nhìn kỹ lại cố tật ngồi lê đôi mách, nói hành nói tỏi, đổ vạ cáo gian của chúng ta. Chỉ cần hứa từ nay sẽ giữ mồm kín miệng là đã có một phương thuốc hữu ích rồi.

Chúng ta có thể dốc lòng làm vui lòng những người mà chúng ta thường hay xung khắc hay ít ra là chúng ta không có cảm tình. Bỏ rượu chè cờ bạc có làm cho chúng ta mất mát gì đâu nếu như những thứ đó chỉ tổ là những nguyên nhân gây xào xáo làm cho gia đình mất hạnh phúc…? Cầu nguyện hằng ngày rất quan trọng cho tất cả chúng ta vì đó là mối giây liên lạc sinh tử giữa chúng ta với Thiên Chúa. Ngay như mối liên hệ giữa chúng ta với Đức Kitô cũng không thể thành tựu nếu không thực hành cầu nguyện. Chúng ta phải dành ưu tiên số một cho việc cầu nguyện, một phương thế cũng cố đức tin đức cậy và đức mến, nghĩa là cầu nguyện sẽ giúp chúng ta tăng cường niềm tin tưởng cậy trông và đem chúng ta đến gần gũi Thiên Chúa hơn.

Mùa Chay là thời gian dành cho chúng ta tìm đến tâm linh, kêu mời chúng ta nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa trong mọi phương diện của cuộc sống và từng bước thực hành đương đầu với những xấu xa của tội lỗi và ích kỷ bên trong chúng ta.

Mùa Chay là mùa kêu gọi chúng ta thay đổi hành vi thái cử vì những thói hư tật xấu cố hữu trong chúng ta lâu nay làm thui chột sức tăng trưởng của chúng ta trong tình yêu của Thiên Chúa. Đây là thời gian chúng ta cần trân trọng đón nhận ân sủng, nếu chúng ta có ý muốn Mùa Chay trở nên một kinh nghiệm thanh luyện đời sống thiêng liêng. Cần nói “không ” với bản thân và nói “có ” với Thiên Chúa là tất cả những gì phải làm trong cuộc phấn đấu nơi hoang mạc Mùa Chay này.

Về mục lục

.

NHỮNG SA MẠC CUỘC ĐỜI

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

Thứ tư là lễ tro bắt đầu Mùa Chay. Chúa nhật này là Chúa Nhật I Mùa Chay, mùa ăn năn thống hối.. Có mấy ai thực sự nghĩ đến Mùa Chay không? Mùa chay thúc dục chúng ta làm gì? Hành trình mùa chay thử thách chúng ta thế nào? Hãy suy niệm những bài đọc Kinh Thánh trong mùa Chay để chúng ta cùng nhau sống lại lịch sử ơn cứu độ .  

SA MẠC VÀ MA QUỈ

Hãy cùng Chúa Giesu đi vào hoang địa như Tin Mừng Marco hôm nay (Mc1:12-15). Mặt trời nóng như thiêu đốt và những cơn đói khát cào ruột phối hợp với ma quỉ cám dỗ đè năng lên Chúa Giesu. Marco tả cảnh chúa Giesu vật lộn với quyền lực của Satan trong cô đơn và quạnh hưu của sa mạc hoang tàn. Marco không nói chi tiết việc chúa Giesu bị ba cơn cám dỗ, cũng không thấy nói Chúa ăn chay như trong Mathieu và Luca (Mt 4:1-17; Lc 4:1-13). Mục đích của Marco là trình bày cơn cám dổ mà Chúa Giesu phải chịu như những vật lộn giữa Thiện và Ác, giữa Thiên Chúa và ma quỉ.

Chúa Giesu đi vào sa mạc để chịu ma quỉ cám dỗ đã đặt ra cho chúng ta nhiều vấn nại quan trọng. Kinh nghiệm “sa mạc” nào mà chúng ta có trong đời? Chúng ta hiện đang có những cảm nghiệm gì về cuộc đời sa mạc ấy ? Khi nào và làm sao chúng ta khám phá ra được những giây phút chiêm nghiệm ngay giữa những bận rộn của cuộc sống? Làm sao chúng ta có thể sống giữa một sa mạc của chính chúng ta? Chúng ta có can đảm và bền vững đủ để chống trả lại ma quỉ không? Làm sao chúng ta có thể biến đổi những sa mạc khô cằn gai góc của chúng ta thành những môi trường phong phú cho cuộc sống?  

THIÊN CHÚA KHUẤT PHỤC MA QUỈ

Trong Mathieu và Luca (Mt 4:1-17; Lc 4:1-13), chúng ta thấy Chúa Giesu đối đáp với ma quỉ. Ma quỉ đã dùng mọi mưu mô quỉ quyệt hầu lung lạc Chúa để Người mất niềm tin, không còn tính vẹn toàn trong khi thi hành sứ mệnh thiên sai của mình. Dân Israel thì đã thất bại, vì không chịu nổi đói khát trong sa mạc đã than trách Chúa (St 16:2-8), nhưng Chúa Giesu thì không. Sự liên kết của chúa Giesu với Thiên Chúa Cha rất bền chặt quỉ hỏa ngục không tài nào phá vở được dù chúng cố công thế nào đi nữa.

Với cám dỗ đầu tiên, Chúa Giesu đã đáp trả tên quỉ rất đanh thép. Chúa không từ chối sự phụ thuộc của con người vào cơm áo, nhưng cuộc sống và hành trình của con người phải có chủ đích cao cả hơn nhiều. Ăn để sống, không phải sống để ăn. Theo chúa Giesu thì không thể dựa vào thế tục. Khi con người phụ thuộc vào vật chất mà bỏ Chúa thì sẽ sa cơn cám dỗ ma quỉ và tội lỗi.

Trong cám dỗ thứ hai, ma quỉ mê hoặc dụ dỗ Chúa Giesu bỏ Thiên Chúa đi theo nó. Lại một lần nữa Chúa Giesu cho tên quỉ biết Thiên Chúa toàn quyền điều khiển và làm chủ mình. Đây là điều quan trọng chúng ta phải biết và tin, nhất là khi cơn cám dỗ xem ra có vẻ lấn lướt, mọi sự quanh ta cho thấy chúng ta thất bại, bóng tối ma quỉ tràn lan.  Nhưng Thiên Chúa điều khiển số phận chúng ta và cuối cùng Người sẽ toàn thắng.

Trong cám dỗ thứ ba, tên quỉ thách thức Thiên Chúa tỏ lộ tình yêu đối với Chúa Giesu. Chúa Giesu trả lời tên quỉ là Người không cần phải chứng tỏ cho bất cứ ai là Thiên Chúa yêu thương Người.

LỜI KẾT: ĐỪNG NGHE LỜI MA QUỈ CÁM DỖ – HÃY ĐI GẶP CHÚA GIESU

Cám dỗ là tất cả những gì làm cho chúng ta trở nên nhỏ bé, xấu xa và ác độc. Cám dỗ dùng những mánh khóe xảo quyệt nhất mà ma quỉ có thể nghĩ đến. Ma quỉ càng điều khiển chúng ta thì chúng ta lại càng ít muốn hoặc không nhận ra là nó đang tranh đấu để chiếm đoạt trái đất này bằng mọi cách dù lớn hay nhỏ. Chúa Giesu không để cho nó chiếm đoạt như vậy. Ngay từ lúc khởi đầu thi hành sứ vụ thiên sai cho trần gian và cho mỗi người chúng ta, Chúa Giesu đã công khai đối đầu với ma quỉ. Người chiến đấu bằng sức mạnh của Kinh Thánh trong đêm buồn phiền đầy nghi hoặc và cám dỗ. Chúng ta đừng bao giờ quên những gương sáng của Chúa Giesu để khỏi sa ngã vào những cám dỗ của ma quỉ và tội lỗi.

Chúng ta hãy đến gặp Thiên Chúa ngay giữa sa mạc tội lỗi, ích kỷ, ghen tương, hận thù, tự mãn, gian trá, thất vọng của chúng ta. Ở đó chúng ta sẽ nghe được những điều Chúa nói nếu chúng ta biết mở lòng chúng ta cho Chúa để Chúa làm cho sa mạc của chúng ta nảy lá trổ bông. Một khi những sa mạc cuộc đời của chúng ta đã chìm sâu trong tim Chúa Giesu, thì chúng ta có thể là môn đệ Chúa. Và nó cũng giống như vậy đối với những ai muốn bước theo Chúa.

Về mục lục

.

TÁI SINH

Lm Vũdình Tường

Tái sinh trong Đức Kitô là mục đích cuối cùng của mùa chay. Hàng năm Giáo Hội mời gọi Kitô hữu tái sinh trong Đức Kitô, học biết về tình yêu Chúa nhiều hơn, trở nên giống Đức Kitô hơn trong lối sống, cách cư xử, cách yêu thương, cách tha thứ và nhất là xin cho được con tim biết nhạy cảm trước đau khổ của đồng loại. Hiểu biết về Đức Kitô nhiều hơn chính là hiểu biết về đời sống của chính mình, hiểu rõ hơn mục đích của cuộc sống nơi dương thế. Hiểu biết í nghĩa cuộc sống nơi dương thế chính là hiểu rõ hơn mầu nhiệm tình yêu Chúa tiềm ẩn trong tâm hồn ta. Để khám phá ra tình yêu Chúa trong ta cần dùng đến chìa khoá được đề nghị thực hiện trong mùa chay. Chìa khoá đó bao gồm cầu nguyện, ăn chay và bác ái. Giáo Hội ước mong trong hy vọng Kitô hữu thực thi ba điều trên suốt mùa chay thánh sẽ trở thành thói quen tốt lành, tập quán đạo đức được thực hiện thường xuyên trong cuộc sống. Đây không phải là điều mới lạ mà chính là những gì ta tuyên hứa khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, sống yêu Chúa, mến tha nhân, từ bỏ ma quỷ và những quyến rũ bất chính của chúng.

Cầu nguyện đẩy xa cám dỗ, dẫn ta đến gần Chúa, chặt đứt liên hệ với sa đoạ, liên kết mật thiết hơn với Chúa và giúp hiểu rõ hơn về con người mình. Cầu nguyện hàng ngày giúp tâm hồn trong sáng, con tim thanh thản nên có thể nhìn rõ hơn đời sống nội tâm; ăn chay giúp kiềm chế tính mê, tật xấu nghiện ngập để thay đổi trở nên tốt hơn, công chính hơn trong cả lời nói lẫn hành động; bác ái giúp nhận ra giá trị, nhu cầu cuộc sống của mình và của anh chị em. Giúp ta yêu thương họ nhiều hơn bởi chính mình cũng là thành phần trong cộng đồng nhân loại được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh của Ngài. Kết hợp cả ba điều trên: cầu nguyện, chay tịnh và bác ái giúp ta nhận biết tình yêu Đức Kitô. Tình yêu chân thật đến từ Đức Kitô, điều mà trí tuệ không đủ khả năng phán đoán, xác định hay chối bỏ bởi tình yêu đó vượt trên những gì con người có thể dùng để so sánh, cân nhắc. Nhận biết tình yêu Chúa chỉ có một đường lối duy nhất đó là niềm tin, ngoài niềm tin ra, rất khó có thể nhận ra tình yêu Chúa bởi niềm tin vào Đức Kitô khởi đầu bằng yêu mến Ngài và tình yêu đó phát sinh niềm tin nhờ tác động của Thánh Thần.

Phúc Âm cho biết Đức Kitô được Thánh Thần dẫn vào sa mạc. Điều này cho biết Đức Kitô chay tịnh 40 đêm ngày không phải chỉ mình Ngài mà có Thánh Thần Chúa cùng đồng hành với Ngài. Vì thế chúng ta tin chắc là khi chúng ta thực hiện cuộc sống chay tịnh Thánh Thần Chúa cũng hiện diện với chúng ta. Nói cách khác chay tịnh là lời mời gọi Thánh Thần Chúa vào trong tâm hồn ta. Chúng ta mở tấm lòng ra đón nhận Thánh Thần Chúa để đón nhận chỉ bảo, hướng dẫn, soi sáng giúp ta làm điều lành, điều ngay thẳng, điều công chính bởi Thánh Thần là nguồn tình yêu và kho tàng khôn ngoan không cạn của Thiên Chúa. Thánh Mathew thuật lại chính ma quỷ cũng nhận ra sự hiện diện của Thánh Thần khi chúng nói Thánh Thần Chúa luôn nâng đỡ để Ngài khỏi vấp ngã Mat 4,6.

Nơi đâu có Đức Kitô hiện diện nơi đó có Thánh Thần Chúa hiện diện. Đôi khi Phúc Âm ghi lại rõ ràng sự kiện này, khi khác Phúc Âm không ghi rõ nhưng giúp ta nhận biết có sự hiện diện của Thánh Thần Chúa tiềm ẩn đâu đó vì Thánh Thần luôn cùng đồng hành với Đức Kitô.

Mùa chay mời gọi chúng ta đi vào vùng sa mạc đức tin. Mùa chay mời gọi chúng ta đi qua kinh nghiệm chính Đức Kitô đã trải qua. Mùa chay mời gọi chúng ta học cùng Đức Kitô khi gặp cơn cám dỗ đừng cậy vào sức riêng mình nhưng tin tưởng vào sức mạnh Lời Chúa trong Phúc Âm. Mùa chay mời gọi chúng ta xét mình từ bỏ lối sống bê tha, đổi mới, bắt đầu cuộc sống mới, cuộc sống tin yêu phó thác đời mình cho Chúa để nhận rõ hình ảnh Chúa trong ta. Đổi mới là làm cho cái tôi trong tôi nhỏ lại; làm cho tha nhân lớn lên trong tôi.

Về mục lục

.

LIÊN ĐỚI YÊU THƯƠNG

Lm. Jos. DĐH.

Các bậc cha mẹ đưa dẫn con cháu tới trường lớp như một bổn phận và trách nhiệm, song con cháu luôn xem đó là ngày kỷ niệm, dù cảm xúc của đứa trẻ khác nhau. Cha mẹ nuôi con khôn lớn, gọi là tình nghĩa, vượt qua 18 năm tuổi đời vất vả, gọi là được giáo dục, được huấn luyện, hầu trở nên hữu ích cho gia đình xã hội. Chỉ cần một chút lạc quan, người ta dám nói rằng: trời sinh, trời dưỡng. Thực tế đâu phải ai cũng đủ tin tưởng vào phận số, cha ông chúng ta còn cho thấy một kinh nghiệm: tay làm, hàm nhai, tay quai miệng trễ. Khuynh hướng tự nhiên, lúc còn trẻ, chúng ta sống lệ thuộc vào cha mẹ thì dễ lắm, rồi lớn lên, trưởng thành hơn, người ta muốn được tự do, muốn được thể hiện lập trường của mình.

Cuộc sống vẫn cho thấy, các bậc làm cha mẹ dễ nghi ngờ con cháu, liệu chúng có tự đi trên đôi chân của chúng được không ? Phận làm con, thắc mắc nghi ngờ cha mẹ là hoàn toàn có cở sở, khi chúng nghĩ rằng, có đúng cha mẹ sẽ đưa con cái của họ đến đỉnh điểm của hạnh phúc không ? Quan điểm của mỗi người mỗi khác, nhìn chung thì điều căn bản nơi các bậc làm cha mẹ lúc nào cũng mong con cháu mình được hạnh phúc. Kẻ làm con, ai chẳng mơ ước biết sống đức hiếu thảo, góp phần đưa cha mẹ tới bến bờ bình an hạnh phúc. Trong bầu khí hiệp thông yêu thương rất siêu nhiên, chúng ta sẽ không thắc mắc, vì sao Thánh Thần lại dẫn đưa Đức Giêsu vào hoang địa ?

Tại sao cứ tới hoang địa mới cầu nguyện sốt sáng, và có phải muốn gặp gỡ thánh ý Chúa Cha, Đức Giêsu cần tuân thủ ơn tác động của Thánh Thần ? Tất cả những hoạt động nơi Đức Giêsu tại trần thế, không thể theo một tiến trình khác, chúng ta hôm nay chỉ đọc, hoặc hiểu, trong cùng một liên đới yêu thương. Đức Giêsu không thể tự nhiên vào hoang địa, Thánh Thần cũng chẳng tác động trên Đức Giêsu như chuyện vô tình. Nhờ có liên đới hiệp thông, thánh ý Chúa Cha rõ ràng hơn trong sứ mạng cứu độ nơi Đức Giêsu: “Thánh thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa, và Người ở đó suốt 40 đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú và các thiên thần hầu hạ Người”.

Tình liên đới hiệp thông, một dấu chỉ rõ ràng cho ơn gọi cầu nguyện, sống tín thác nhiều hơn vào tình yêu của Thiên Chúa. Nhờ tác động của tình yêu, Đức Giêsu mở ra một sự thật: Nước Trời thuộc về những ai ý thức sám hối, và tin vào Tin Mừng. Đức Giêsu ở hoang địa chắc không phải là một thủ tục trước khi đi rao giảng Tin Mừng cứu độ. Trong tin yêu, trong tác động của Thánh Thần, Lời Chúa Giêsu trở nên thật cương quyết: “thời kỳ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã tới gần….”. Bậc làm cha mẹ hôm nay, bao lâu các ngài còn khoẻ mạnh, các ngài còn theo sát con cháu trong “việc đời”, trong “việc đạo”. Dù con tài giỏi, hoặc con không thích sự “bám sát” của cha mẹ, các ngài vẫn muốn minh chứng tình liên đới yêu thương.

Người kitô hữu chúng ta hôm nay, từng ngày từng giờ, nhờ tình liên đới yêu thương, có thể niềm tin còn rất giới hạn, chúng ta vẫn đang được Thánh Thần hướng dẫn cầu nguyện, vào hoang địa, đặc biệt hơn là có Chúa Giêsu hiện diện. Cùng Chúa vào hoang địa mỗi giây phút trong đời, trước là Chúa giúp chúng ta đang chiến thắng chính mình, sau là chúng ta biết sống thánh ý Chúa cách trọn vẹn hơn. Đối diện với cám dỗ thì xưa hay nay cũng vậy, ơn gọi linh mục tu sĩ, bậc sống gia đình, già trẻ, nếu thiếu tình liên đới yêu thương, không ai có thể sống bình an hạnh phúc được. Sau khi hoàn tất việc cầu nguyện lâu dài ở hoang địa, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ loan báo niềm vui ơn cứu độ, với truyền thống đức tin: “hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.

Nếu như ở đời, chúng ta được nhắc nhớ sự đoàn kết yêu thương: một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao, trong đời sống thiêng liêng, liên đới, hiệp thông cầu nguyện, luôn là nét đẹp của kitô giáo. Ở đời ai cũng phải học để hiểu, để sống, Chúa Giêsu năm xưa vào hoang địa không phải để học, để tìm kiếm thêm kiến thức. 40 đêm này tại sa mạc, là tiến trình Chúa cổ võ tinh thần cầu nguyện, hiệp thông yêu thương, qua đó, người ta sẽ cảm nhận về tình yêu của Thánh Thần, thánh ý của Chúa Cha cách trọn vẹn hơn. Chỉ vì thiếu tình yêu thương, chưa đủ quảng đại sống tha thứ, con người đang phải đối diện với nhiều đau khổ, tạm gọi là thử thách đức tin. Chúa Giêsu nơi hoang địa Ngài muốn nói với chúng ta, sau đau khổ thập giá, sẽ tới vinh quang. Sau cơn mưa trời lại sáng, với điều cần thiết là chúng ta đừng để tiếng nói chung, lời hiệp nhất cầu nguyện bị ngăn trở, nghĩa là hãy để tác động Thánh Thần liên kết mỗi chúng ta nên một trong tình yêu Ba Ngôi. Amen.

Về mục lục

.

CÁM DỖ TỐT HAY XẤU?

JM. Lam Thy

Bài Tin Mừng hôm nay (CN I/MC-B – Mc 1, 12-15) Thánh sử Mác-cô trình thuật sự kiện Đức Giê-su Ki-tô vào hoang địa 40 ngày hãm mình ép xác, đối diện với nghịch cảnh (“Thần Khí đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.” – Mc 1, 12-13). Cùng một nội dung, thánh Mat-thêu (Mt 4, 1-11 – năm A) và thánh Lu-ca (Lc 4, 1-13 – năm C) trình thuật chi tiết hơn (kể rõ 3 chước cám dỗ của ma quỷ và cả 3 lần, Chúa Ki-tô đều chiến thắng). Thánh Mac-cô trình thuật rất vắn tắt, không kể rõ những hình thức cám dỗ của Xa-tan và Chúa Giê-su đã chiến thắng như thế nào. Tuy vậy, nhưng thánh Mac-cô lại cho thấy 2 điều rất đáng suy gẫm: 

1- Đến cả Đức Giê-su Thiên Chúa còn phải chịu để Xa-tan cám dỗ, thì loài người không thể tránh được (bằng chứng là Nguyên tổ loài người đã bị và đã thua cuộc).

2- Với bản tính Thiên Chúa, Chúa Giê-su rất dễ dàng chiến thắng Xa-tan, nhưng loài người thì không thể, và vì thế phải biết cậy dựa vào Thiên Chúa toàn năng.

Đã có người coi cám dỗ không phải là xấu, không phải là tội, thậm chí còn cho rằng cám dỗ có công giúp con người nên thánh, gặt hái được triều thiên vinh quang. Một câu hỏi được đặt ra: Cái triều thiên vinh quang ấy có được là do sự cám dỗ mang lại hay do sự chiến thắng được cám dỗ? Đáp án thật hiển nhiên: Triều thiên vinh quang ấy có được là do bản thân kẻ bị cám dỗ chiến đấu quyết liệt cho đến khi chiến thắng được nó. Và như thế thì cám dỗ tốt hay xấu, tội hay không tội? Nếu nó không xấu, không phải là tội, thì có cần phải chiến đấu chống lại nó không? Và không chiến đấu thì đào đâu ra triều thiên vinh quang? Xét đến cùng, thì vì sao ma quỷ, kẻ xấu phải cám dỗ con người? Nếu là một tư tưởng, một hành động, một việc làm tốt, quang minh chính đại, thì tự bản chất bộc lộ ra, chẳng cần phải dùng cảm tính mà dụ dỗ (cám dỗ) một ai. Chỉ có những ham muốn không tốt, những dục vọng thấp hèn mới cần phải che đậy và dùng chiêu thức cám dỗ để lừa phỉnh, gạt gẫm người ta vướng vào.

Theo từ nguyên thì “Cám dỗ là khêu gợi lòng ham muốn đến mức làm cho sa ngã”. Nếu cám dỗ là tốt thì có làm cho người ta “sa ngã” không? Cũng vì thế nên Thánh Gia-cô-bê Tông đồ mới dạy: “Khi bị cám dỗ, đừng ai nói: “Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ”, vì Thiên Chúa không thể bị cám dỗ làm điều xấu, và chính Người cũng không cám dỗ ai.” (Gc 1, 13). Chính Đức Giê-su Thiên Chúa, với bản tính loài người, cũng chịu để bị cám dỗ, chớ Người không hề cám dỗ một ai. Những Lời dạy của Người luôn luôn là ngay thẳng, rõ ràng, phân mính, không hề có sự dối trá, lừa phỉnh. Người không hề nói “Ai muốn theo Thầy thì sẽ được vinh hoa phú quý, quyền lực danh vọng”, mà Người luôn luôn dạy: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24).

Nói về cám dỗ thì không biết thế nào là cùng. Con người sống trên đời luôn phải đối diện với trăm mưu ngàn chước của ba thù. Ba kẻ thù đó là: 1/- Dục vọng của bản thân;  2/- Hấp lực của thế gian;  3/-  Cạm bẫy của Xa-tan; chúng toàn dùng những mưu ma chước quỷ, những chước độc mưu thâm để cám dỗ con người. Vì thế, nếu biết rằng mình bị cám dỗ, thì vẫn có hy vọng chống lại được. Cái nguy hiểm của cám dỗ là ở chỗ người bị cám dỗ không hề biết mình đang bị kẻ xấu, kẻ thù dùng cảm tính dụ dỗ mình làm việc xấu. Một ông vua nếu biết mình đang bị rơi vào kế mỹ nhân, chắc chắn sẽ không mất nước vì gái đẹp. Một ông quan không bị mờ mắt vì hấp lực của tiền bạc danh vọng, chắc chắn sẽ không đến nỗi thân bại danh liệt, thân tàn ma dại vì hối lộ, hối mại quyền thế. Quả thật, không thiếu những người lúc nào cũng luôn miệng lu loa: “Đừng hòng đem danh vọng, quyền lực ra mà cám dỗ được ta; rượu ngon, gái đẹp cũng đừng hòng lay chuyển được ta.” Nhưng để có được một người sống đúng như lời nói, thì chắc chắn là công việc “mò kim đáy biển”.

Trở lại với bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Mac-cô trình thuật Đức Ki-tô vào hoang địa 40 ngày, chịu để Xa-tan cám dỗ (Mc 1, 12-13). Trước đó, thánh Gio-an Tiền Hô cũng ở trong hoang địa 40 năm ăn châu chấu và mật ong rừng, rồi mới ra mắt dân It-ra-en để rao giảng Tin Mừng (Lc 1, 1-80). Xa hơn nữa, tổ phụ A-bra-ham, ngôn sứ Mô-sê, tiên tri Ê-li-a… cũng đều vào hoang địa để chịu thử thách và vượt qua hoang địa, vượt qua được cám dỗ. Như vậy, hoang địa chính là những khó khăn thách đố bắt ta phải chiến đấu, phải đương đầu. Ở nơi hoang địa, cùng lúc đương đầu với thử thách, với nghịch cảnh, với cám dỗ của ba thù, ta còn được gặp gỡ Thiên Chúa, gặp gỡ Đức Ki-tô. Ông Mô-sê, sau 40 đêm ngày ở trên núi Si-nai, đã gặp và trở nên bạn của Chúa, mặt ông trở nên sáng láng lạ lùng (Xh 34, 28). Tiên tri Ê-li-a, sau 40 đêm ngày, đã đi tới núi của Chúa và gặp được Người (1V 19, 8). Thánh Gio-an Tẩy Giả – người cùng thời với Đức Giê-su – sau 40 năm trong hoang địa, đã được “người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông” (Mt 3, 5) để nghe thánh nhân rao giảng về Thiên Chúa, về chính Đức Giê-su; không những thế, ông còn được gặp gỡ Đức Giê-su Thiên Chúa và làm phép rửa cho Người.

Những cuộc vào hoang địa của tổ phụ, của các thánh nhân, các ngôn sứ và kể cả của Đức Giê-su Ki-tô thường trải qua thời gian 40 ngày. Giáo hội cũng dùng Mùa Chay với thời gian 40 ngày để tưởng niệm cuộc thương khó của Đức Giê-su, và mời gọi người tín hữu hãy vào hoang địa với Người để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường. Mà muốn rèn luyện tâm trí, cách tốt nhất là đối diện với nghịch cảnh, ở đây là đối diện với hoang địa – nơi hoang vu không nhà cửa, không cây cối, không người thân, tức là không có một tiện nghi tối thiểu nào, không có một nguồn trợ lực nào. Hoang địa là nơi chỉ có cát đá, thú dữ, ma quỉ, tức là chỉ có những khó khăn thách đố bắt con người phải chiến đấu, phải đương đầu.

Trong dân gian vẫn thường hay nói đến “sa mạc đời, hoang mạc đời” để ám chỉ cõi lòng (tâm hồn) hoang dại, trống vắng đến khủng khiếp trước cuộc đời đầy phong ba bão táp, đầy thử thách gian nan. Cái sa mạc ấy, cái hoang mạc ấy – cái cõi lòng hoang vắng ấy – phải chăng cũng chính là hoang địa? Tuy không có điều kiện để vào nơi hoang địa thiên nhiên, nhưng vẫn có thể vào hoang địa cuộc đời. Khi vào hoang địa thiên nhiên, trực diện với những khó khăn thử thách: từ bên ngoài (khách thể) như thời tiết (ngày nóng khủng khiếp, đêm lạnh cóng da), thú dữ, bão cát, mưa đá vô tri; từ bên trong (chủ thể) như sự cô đơn lạnh lẽo, thiếu lương thực, không trợ lực. Tất nhiên những thứ đó không phải là những cám dỗ của ba thù, mà đó chính là những thử thách để con người trui rèn ý chí, tôi luyện quyết tâm đối kháng.

Nhờ thế, khi vào trong hoang địa cuộc đời, đối diện với những cám dỗ của ba thù, con người mới có thể chống lại và hy vọng chiến thắng. Nói cách cụ thể, vào hoang địa cuộc đời chính là đối diện với chính mình, sẵn sàng ăn năn sám hối về những sai phạm, lỗi lầm đã vướng mắc do những cám dỗ mê hoặc. Hiểu được vấn đề, hãy mạnh dạn đi vào hoang địa cuộc đời của chính mình để thẳng thắn “nhìn lại mình”, sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thử thách, sẵn sàng khai thông hoang địa, sẵn sàng dọn đường mở lối để được gặp gỡ Thiên Chúa – và nhất là biết sẵn sàng từ bỏ ý riêng để luôn tìm thánh ý Thiên Chúa, hầu biết được đâu là lời mời gọi của Thiên Chúa, đâu là sự cám dỗ của ba thù.

Điều đáng lo lắng, sợ hãi chính là điều rõ ràng đang ở trong hoang địa cuộc đời, mà lại vẫn tưởng mình đang ở trong Thiên đường, ở trong Đất Hứa, để rồi tự ru mình trong những mời gọi ngọt ngào, những cám dỗ lôi cuốn. Đến ngay như đã thực sự ở trong Đất Hứa cũng vẫn có thể bị kẻ thù cám dỗ (“Đề phòng các cám dỗ khi vào đất hứa” – Đnl 8, 1), huống hồ là tưởng tượng, là ảo tưởng đang ở trong Đất Hứa! Và cũng đừng bao giờ nghĩ rằng mình có đủ nghị lực đứng vững trước mưu ma chước quỷ của ba thù, bởi vì: “Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10, 12). Như vậy, phải chăng chính những ham muốn (dục vọng) của con người đã tạo nên những ảo tưởng để rồi lại quay ngược mũi giáo cám dỗ chính mình?

Mùa chay là thời gian quay trở về, là thời gian hồi tâm để nhìn lại mình. Nhìn lại mình để thấy mình còn quá khiếm khuyết phải cố gắng vươn lên. Mùa chay cũng là lúc dừng lại để nhận ra những cạm bẫy, những thử thách, những cám dỗ đang bủa vây xung quanh mình. Tỉnh thức để dễ dàng tránh những cạm bẫy. Cầu nguyện để không sa bẫy của ma quỷ. Chính vì thế nên trong Mùa Chay, Giáo hội mời gọi mọi Ki-tô hữu ý thức về tình trạng yếu kém, tội lỗi, đầy khiếm khuyết trong con người hiện tại hay “con người cũ” vốn “bị tội lỗi thống trị” (Rm 6, 6). Có nhận chân được vấn đề, mới có hy vọng quyết tâm “cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa” (Ep 4, 22; Cl 3, 9) để “mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa hầu thật sự sống công chính và thánh thiện.” (Ep 4, 24).

Hãy biến những Mùa Chay hàng năm thành Mùa-Chay-Cuộc-Đời và coi đó như một cuộc trường kỳ thanh tấy bằng Bí tích Thánh Tẩy. Cũng bởi vì “Lãnh nhận phép rửa, không phải là được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền.” (1Pr 3, 21-22). Và “Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.” (Ep 4, 22-24).

Năm nay ngày mồng Ba Tết lại trùng vào Chúa nhật I Mùa Chay. Có một vấn đề đáng lưu ý là ngoài bài đọc 1 (St 9, 8-15) nhắc tới Giao ước của Thiên Chúa với Nô-ê sau vụ lụt hồng thủy; tới bài đọc 2 trích Thư 1 của thánh Phê-rô (1Pr 3, 18-22) trong đó Thánh nhân có nhắc đến vụ lụt hồng thủy “tức là những người xưa đã không vâng phục Thiên Chúa, trong thời Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi, nghĩa là thời ông Nô-ê đóng tàu.” (1Pr 3, 20). Từ sự kiện có tám người được cứu thoát “nhờ nước” trong vụ lụt, để rồi từ đó thánh Phê-rô nhắc đến phép Rửa (“Nước đó là hình bóng phép rửa nay cứu thoát anh em. Lãnh nhận phép rửa, không phải là được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô.” – 1Pr 3, 21).

Liên hệ tới ngày Tết “Thánh hóa công ăn việc làm” thật có ý nghĩa: Người tín hữu phải sống cách thanh sạch trong công ăn việc làm (lấy sức của bản thân cùng với cầu nguyện để làm việc nuôi sống bản thân và gia đình, hoàn toàn không được ăn gian nói dối, tham nhũng, lạm quyền…). Thánh hóa công ăn việc làm không phải là tẩy sạch vết nhơ trong công việc, “mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô.” (1Pr 3, 21).

Thêm một điểm cần lưu ý là: Công ăn việc làm của loài người được chính Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng, trao phó như một sứ mạng (“ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai.” – St 2, 15). Tìm kiếm và đảm nhận công ăn việc làm như là “của thánh”, nghĩa là tìm kiếm và đảm nhận “công ăn việc làm” để có thể nuôi sống mình và giúp đỡ người khác. Xin Chúa thánh hóa “công ăn việc làm”; và xin Chúa ban ân sủng và tình yêu của Người, để mỗi ngày và suốt cả năm mới, có thể sống chiều kích thánh thiêng của “công ăn việc làm”. Ấy cũng bởi vì: *1- “công ăn việc làm” là sứ mạng Chúa trao; *2- “công ăn việc làm” là để sinh hoa kết quả “nén bạc Chúa trao” (Mt 25, 14-30) trong cả cuộc đời người tín hữu; *3- “công ăn việc làm” là để có thể phục vụ, chia sẻ và giúp đỡ anh em.

Tóm lại, Lời Chúa dạy trong Chúa nhật I Mùa Chay là nhắc nhở người tín hữu cần phải lưu tâm trước những cám dỗ của ba thù. Ba kẻ thù có trăm mưu ngàn chước để cám dỗ, đến như Chúa Giê-su mà nó cũng cám dỗ huống chi là con người bình thường. Con người sở dĩ bị cám dỗ là do dục vọng của mình lôi cuốn (“Nhưng mỗi người có bị cám dỗ, là do dục vọng của mình lôi cuốn và dùng mồi mà bắt. Rồi một khi dục vọng đã cưu mang thì đẻ ra tội; còn tội khi đã phạm rồi, thì sinh ra cái chết.” – Gc 1, 14-15). Vào những ngày Tết thì lại càng có nhiều những thứ vô cùng hấp dẫn, lôi cuốn con người sa vòng tội lỗi. Đó chính là điều người tín hữu phải hết sức cảnh tỉnh. Tất nhiên ngày Tết là ngày vui chơi, lễ hội, không ai cấm cản; nhưng với Ki-tô hữu thì phải biết làm chủ bản thân, tuyệt đối đừng để dục vọng làm chủ, lôi cuốn.

Lạy Chúa Giê-su, cúi xin Chúa ban Thánh Thần soi sáng cho con để con thông hiểu và sống đúng như lời dạy của Thánh Phao-lô: “Anh em đừng nói dối nhau, vì anh em đã cởi bỏ con người cũ với những hành vi của nó rồi, và anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hoá, để được ơn thông hiểu. Vậy không còn phải phân biệt Hy-lạp hay Do-thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ, nô lệ, tự do, nhưng chỉ có Đức Ki-tô là tất cả và ở trong mọi người.” (Cl 3, 9-11).

Ôi! Lạy Chúa! Xin Chúa dùng Thần Khí thêm sức cho con; đồng thời đẩy con vào hoang-địa-trần-thế, vào hoang-mạc-cuộc-đời, để con sẵn sàng đối diện với dã thú tâm linh của ba thù, sống với những thử thách nghiệt ngã, trực diện với những viên-đạn-bọc-đường của ma quỷ; ngõ hầu con có đủ sức làm chủ được bản thân và chống lại được mưu chước cám dỗ của ba thù.

Ôi! Lạy Chúa! “Con nay trở về, trở về cùng Chúa, Chúa ơi! Con nay trở về, lòng sầu thống hối khôn nguôi. Muốn khóc cho một niềm tin đã trót bao phen ngã nghiêng. Bước chân hoang đàng, đây bến yêu thương tình đáp tình. ĐK: Ngài là Thiên Chúa rất nhân hậu và hay tha thứ. Ngài dựng nên con, không khi nào mặc con thoái hư. Vì là bụi đất, con phải vương tục lụy yếu đuối. Dẫn con trên đường lành, thủy chung ơn nghĩa muôn đời.” (Hùng Lân – “Con nay trở về” – TCCĐ). Amen.

Về mục lục

.