Các bài suy niệm Chúa Nhật 4 Phục sinh Năm B (Lễ Chúa Chiên Lành)

992

CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH

Lời Chúa: Cv 4,8-12; 1Ga 3,1-2; Ga 10,11-18

——- 

Mục lục

  1. Trật đường rầy  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  2. Chúng Sẽ Nghe Tiếng Ta(Lm Jos DĐH, Gp. Xuân Lộc)
  3. Mục Tử Nhân Lành: Hy Sinh Tính Mạng Cho Đoàn Chiên(Lm Ngọc Dũng, SDB)
  4. Chung Hưởng Hạnh Phúc Vô Biên(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)
  5. Mục tử nhân lành.  (Lm. Thái Nguyên)
  6. Dấu hiệu mục tử giả (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
  7. Tình yêu Thiên Chúa như đại dương  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
  8. Ước mơ, Phục vụ và Trung thành  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
  9. Cánh cửa  (Lm. Vũ Đình Tường)
  10. Nghe tiếng Chúa  (Bông Hồng Nhỏ,  MTG.Thủ Đức)
  11. Mục tử đẹp  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
  12. Thí mạng  (Trầm Thiên Thu)
  13. Trở nên mục tử, lời mời gọi tất cả mọi người (Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương)
  14. Nên mục tử nhân lành noi gương Đức Giêsu (Lm. Đan Vinh)
  15. Có tâm có tài  (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  16. Mục tử. (Thiên San,  MTG.Thủ Đức)

 

Mục lục (2018)

1. Mục tử nhân lành  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

2. Ta là mục tử tốt lành (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

3. Rao giảng Đức Giêsu đã phục sinh  (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

4. Chúa là mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên (Lm. Antôn Nguyễn văn Độ)

5. Để Chúa dẫn đưa  (Bông Hồng Nhỏ,  MTG.Thủ Đức)

6. Con chiên của Ta  (Anna Cỏ May,  MTG.Thủ Đức)

7. Mục tử  (Lm. Trần Việt Hùng)

8. Mùi Chúa – Mùi Chiên (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

9. Tâm tình sâu rộng của Mục tử Nhân lành (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

10. Chân dung vị mục tử nhân lành  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

11. Chúa Giêsu – Mục tử Nhân lành (Lm. Barnaba Lê An Phong, SDB)

12. Suy niệm Chúa Nhật 4 Phục sinh_B  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

13. Suy niệm Chúa Nhật 4 Phục sinh_B. (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

14. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đoàn chiên (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)

15. Mùi chiên  (Trầm Thiên Thu)

16. Làm sao nghe được tiếng Chúa  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

17. Có một tình yêu thật lạ lùng  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

18. Mục tử Oscar Rômêrô (Lm. Nguyễn Thái)

19. Vị Mục tử Nhân lành (Lm. Đinh Lập Liễm)

 

TRẬT ĐƯỜNG RẦY

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Những thông tin gần đây về những đoàn tàu trật bánh gây tổn thất về nhân mạng làm cho nhiều người sợ hãi. Ngày 2/4/2021, tại Đài Loan, một đoàn tàu trật đường rầy, va vào vách núi, làm 48 người chết và 86 người bị thương nặng. Ngày 18/4/2021, tại Ai Cập, một đoàn xe lửa chở khách đã trật bánh, làm 11 người chết và 98 người bị thương. Nếu làm một bản thống kê chi tiết, thì số vụ việc tương tự sẽ còn rất nhiều. Tai nạn xảy ra do bất cẩn. Tai nạn cũng xảy ra do người lái tàu lệch hướng và gây ra sự cố “trật đường rầy”. Trong đời sống của chúng ta cũng thế, có những người bị “trật đường rầy” khi sống bất cần, không tôn trọng tiếng nói của lương tâm và không tuân theo những quy định chung nhằm bảo vệ gia đình, công ích và trật tự xã hội.

Phụng vụ Chúa nhật thứ bốn mùa Phục sinh giới thiệu với chúng ta một vị hướng dẫn chỉ đường, đó là Chúa Giêsu với danh xưng “Mục tử nhân lành”. Người hướng dẫn chúng ta đi trên con đường ngay nẻo chính. Người săn sóc chúng ta và luôn đem lại cho chúng ta những điều tốt lành. Trong Phúc Âm, nhiều lần Chúa hứa với chúng ta: những ai tin tưởng vào Chúa, sẽ tìm được bình an và ơn cứu rỗi. Người quả quyết: ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. Tin vào Chúa Giêsu là tin vào sự dẫn dắt đầy quyền năng và chan chứa yêu thương của Người. Tin cũng là chấp nhận đi theo con đường của Chúa Giêsu, mặc dù phải trải qua gian nan thử thách, nhưng luôn xác tín Chúa đang đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường đời.

Cuộc sống của chúng ta hôm nay rất cần đến sự dẫn dắt của Chúa, vì có nhiều người “trật đường rầy” trong quan niệm về Đức tin. Đối với họ, Đức tin chỉ là một khái niệm mờ nhạt và không là động lực chi phối suy nghĩ cũng như hành động. Tôn giáo hay Đức tin chỉ giống như một nếp thói quen tốt, cũng có giá trị đấy, nhưng không ăn sâu nơi tiềm thức và cuộc sống của họ. Chính vì vậy mà niềm tin của họ là một mớ tạp nham hỗn hợp. Hãy đến với Vị Mục tử nhân lành để xin Người soi sáng, giống như lời van xin của người cha có con bị quỷ ám: Xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi! (x. Md 9,14-29).

Cuộc sống có những khó khăn về sức khoẻ, tài chính, học vấn, vợ chồng con cái, nhiều khi chúng ta không biết phải làm thế nào để thoát khỏi vòng luẩn quẩn. Có những người đã chọn hình thức quyên sinh để kết liễu cuộc đời. Những người khác lại buông xuôi chán chường mọi sự. Nhiều người tìm đến rượu chè, cờ bạc đỏ đen hầu mong đổi phận. Những người khác lại dùng bạo lực hay ly tán mà nghĩ sẽ giải thoát khỏi những khó khăn. Là người có Đức tin, chúng ta hãy đến với vị Mục tử Nhân lành để xin Người dẫn dắt. Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương trước nỗi đau chồng chất của con người. Nơi Người chúng ta tìm được sức mạnh. Sức mạnh ấy đến từ lòng bao dung tha thứ. Sức mạnh ấy cũng đến tự sự khiêm nhường nhận ra mình cũng có lỗi. Đến với Chúa Giêsu, chúng ta sẽ tìm được hướng đi cho đời mình, và nhờ đó tìm lại bình an và hy vọng.

Cuộc sống là sự hoà quyện những mối tương quan đa chiều. Đối nhân xử thế luôn là những bài học khó. Khôn ngoan hài hoà làm nên những tình cảm tốt đẹp bền lâu. Ích kỷ nhỏ nhoi sớm muộn cũng bị cô lập. Chúa dạy chúng ta hãy sống thân thiện bao dung. Hãy noi gương Chúa Giêsu trong bài học rửa chân các môn đệ. Hãy nhớ rằng cuộc đời này ngắn lắm và người ta chỉ sống một lần trên đời. Vì vậy, phải làm sao để trở thành một phiên bản hạnh phúc. Cũng cần cảm nhận những niềm hạnh phúc nho nhỏ mà chúng ta vẫn có trong hiện tại, nơi gia đình, bên lối xóm, nơi cơ quan, khu phố chợ. Khi cảm nhận được những niềm hạnh phúc đơn sơ ấy, lòng ta sẽ thanh thản, cuộc sống lạc quan hơn. Mỗi khi khởi đầu một ngày mới, hãy tạ ơn Chúa vì mình còn may mắn hơn rất nhiều người đang bệnh tật và có những người mắc bệnh nan y, đang tận dụng từng giờ từng phút trong cuộc sống ngắn ngủi. Xin vị Mục tử nhân lành dẫn dắt chúng ta. Lời Thánh vịnh 22 diễn tả: Chúa dẫn ta đến đồng cỏ xanh tươi, đến suối mát trong lành. Người dọn ra cho ta mâm cỗ. Tất cả những điều ấy đều nhằm diễn tả sự chăm sóc yêu thươngcủa Chúa đối với những ai tin tưởng cậy trông Người.

Cuộc sống này có khởi đầu và có kết thúc. Chẳng có ai sống mãi trên đời. Người tin Chúa xác tín rằng, sau khi họ trút hơi thở cuối cùng, họ sẽ được Chúa dẫn dắt về Quê Trời. Chúa Giêsu là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Chính Người sẽ dẫn chúng ta về với Chúa Cha. Người Mục tử nhân lành đã hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Chúa đã chết và đã sống lại. Từ sự phục sinh của Người, Chúa khẳng định với chúng ta: những ai chấp nhận chết với Chúa, sẽ được phục sinh vinh quang như Người.

Cuộc sống trần gian giống như một đoàn tàu, luôn băng băng tiến về phía trước. Đích điểm của đoàn tàu, hay là sân ga cuối cùng, chính là Thiên Chúa. Xin Đức Giêsu Mục tử dẫn dắt chúng ta, để chúng ta không bị lệch hướng, nhưng luôn thẳng tiến về Quê Trời.

Về mục lục

CHÚNG SẼ NGHE TIẾNG TA

Lm Jos DĐH, Gp. Xuân Lộc

Khi bước vào yêu, mấy ai quan tâm thế nào là mạo hiểm: đi đâu cho thiếp theo cùng, đói no thiếp chịu lành lùng thiếp cam. Hạnh phúc gia đình đâu phải giầu sang, tri thức, mà tuỳ thuộc các thành viên gia đình hiểu và sống trung thực với nhau: thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn. Trên đường đời: người ta thường nhận ra hạnh phúc từ gương chiếu hậu. Có chăng, kiến thức, chức quyền, nhiều tiền lắm của, vẫn đang phản ánh một điều gì bất ổn ? Đúng hay sai, hạnh phúc là khi mọi người biết cư xử với nhau có tình có nghĩa. Cuộc sống là tấm gương, mà mọi hành động của ta sẽ phản chiếu ngay tức khắc: bạn mỉm cười, bạn cho đi yêu thương, quan tâm đến ông bà cha mẹ, tình làng nghĩa xóm, bạn sẽ thấy điều kỳ diệu. Lời nói ngọt ngào thì dễ nghe, niềm vui hạnh phúc luôn hấp dẫn, tình yêu khi nào cũng sống động.

Chúa nhật 4 phục sinh mời gọi chúng ta hãy nghe mục tử Giêsu nói với đoàn chiên: làm gì để có sự sống đời đời, làm gì để được sống mãi trong tình yêu ở hiện tại và tương lai ? Có ai mà không hạnh phúc khi được nghe: con cái là tài sản của bố mẹ; những nỗ lực của bố mẹ cũng là vì yêu con: con hơn cha nhà có phúc ! Vì yêu, Con Thiên Chúa đến thế gian, làm người, minh chứng cho nhân loại biết thế nào là mục tử tốt lành, mục tử không ngại thí mạng sống mình vì đoàn chiên. Trong tương quan xã hội, bạn thành công, bạn sẽ trở thành nguồn cảm hứng cho người khác, nhưng sẽ ý nghĩa hơn khi bạn cổ vũ, và giúp nhau cùng đạt tới hạnh phúc thật. Mục tử tốt lành là mục tử biết chu toàn trọng trách với chủ: yêu chiên, bảo vệ chiên, mục tử tốt lành nói ít làm nhiều. “Ta là Mục tử tốt lành, Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta”.

Chúng sẽ nghe tiếng Ta, lời khẳng định đó, mục tử Giêsu sẽ minh chứng, sẽ cho thấy tính hợp lý: tình yêu và niềm tin, không phải là những lời nói suông, mà là hành động từng giây phút trong đời. “Cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha, và Ta thí mạng sống vì đoàn chiên”. Chúng sẽ nghe tiếng Ta: vì tình yêu thương không “bất nhất”, vì hành động luôn có lý, có tình, vì hạnh phúc luôn công bằng, có mất có được. Mục tử Giêsu biết ta, nhưng bạn có yêu, có muốn nghe, để hiểu, để được biến đổi và trở nên một đoàn chiên duy nhất ? Khi nói tới mục tử tốt lành, Đức Giêsu cho thấy ở đời: có thật có giả, có tốt có xấu, có chiên ốm đau bệnh tật, chiên bướng bỉnh, tách đàn đi hoang, do đó rất cần các vị mục tử tốt lành. Mục tử thật: yêu chiên, bảo vệ chiên, dẫn dắt chiên, để mục tử ở đâu chiên cũng ở đó, và sói dữ không thể hãm hại chiên.

Chúng sẽ nghe tiếng Ta, ví như: trăm lối đi chỉ có một lối về, vạn người cần chỉ muốn một người mong. Xung quanh ta có nhiều con đường dẫn đến hạnh phúc, có nhiều vị thầy sẵn sàng dẫn ta tới thành công, có nhiều lời hay ý đẹp trợ giúp ta, ấy vậy, hạnh phúc thật chỉ đến khi ta nghe, hiểu, và sống hết tình hết mình. Mục tử Giêsu đã lý giải và minh chứng Thiên Chúa là tình yêu, các môn đệ Đức Giêsu đã từng nghe, hiểu và các ông theo Thầy đến cùng để diễn tả thế nào là yêu và được yêu. Cuộc đời đầy lý lẽ: không nói, không rao giảng đạo lý, ai có thể nghe, hiểu ? Không có đau khổ, lấy gì so sánh là có hạnh phúc, không có đen, làm sao ta biết là có trắng ? Không có xấu, làm sao biết có tốt, không có ngắn, lấy gì để đo bao nhiêu mới là dài ? Không có yêu thương tha thứ, mấy ai biết được thế nào là hận thù ghen ghét; không có đau khổ thập giá và sống lại hiển vinh, liệu có ai biết đến khái niệm của tình yêu bất tử !

Ta là mục tử tốt lành: “Ta còn những chiên không thuộc đàn này, cả những chiên đó, Ta cũng phải phải mang về đàn, chúng sẽ nghe tiếng Ta”. Đức Giêsu gián tiếp nói đến sứ mạng người mục tử tốt lành là quy tụ tất cả những con chiên ngỗ nghịch, lười biếng, đi hoang, chiên chỉ tâm phục khi chúng nhận ra chúng được yêu thương. Tình yêu của mục tử tốt là yêu đến cùng, khả năng yêu thương, hiểu biết, không dựa trên lý lẽ mà còn xuất phát bởi trái tim nhân hậu. Khi yêu, trái tim luôn nhạy cảm đến độ họ nghe, hiểu được âm thanh rạo rực của tâm hồn. Mục tử Giêsu nói: “cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha”, biết và thực hành là bảo vệ đoàn chiên, dẫn dắt đoàn chiên, thí mạng sống vì đoàn chiên, chết và sống lại là minh chứng Thiên Chúa yêu thương.

Ngày xưa có một sư phụ mang theo hai học trò xuống núi, khi tới một con sông thầy trò gặp một đạo sĩ đang ngồi ngắm sông nước. Vị sư phụ cất tiếng chào thăm: chẳng hay thánh tăng tu luyện nơi đây bao lâu rồi, xin chỉ giáo cho bần tăng học hỏi ? Đạo sĩ trả lời: không dám giấu gì sư huynh, tôi tu luyện ở đây 40 năm, tập luyện phép khinh thông, tức qua sông không cần ghe thuyền. Nói xong vị đạo sĩ bay nhảy qua sông nhẹ nhàng trước sự ngỡ ngàng của hai đệ tử. Vị sư phụ an ủi các đệ tử, tu 40 năm mới luyện được khinh thông như thế, thầy trò ta chỉ mất 3 đồng, có thể nhờ ghe thuyền qua sông dễ dàng. Đức Giêsu là mục tử tốt lành, Ngài quả quyết: “chúng sẽ nghe tiếng Ta”. Xin hãy sống tình liên đới hiệp thông, vì chỉ có một đoàn chiên và một chủ chiên là Mục tử Giêsu.

Về mục lục

MỤC TỬ NHÂN LÀNH: HY SINH TÍNH MẠNG CHO ĐOÀN CHIÊN

Lm Ngọc Dũng, SDB

Sự can đảm của Thánh Phêrô để làm chứng cho Chúa Giêsu lại được chứng tỏ ngày hôm nay trước những người mà trước kia thánh nhân rất sợ hãi. Điều này cho thấy sự kiện phục sinh đã thật sự mang lại một sự biến đổi tận căn nơi Thánh Phêrô. Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy hai phản ứng khác nhau trước phép lạ và lời giảng dạy của Thánh Phêrô và Gioan. Đây là điều chúng ta thấy thường xảy ra cho Chúa Giêsu. Thật vậy, bài giảng của Phêrô và Gioan làm cho các tư tế, viên lãnh binh đền thờ và các người thuộc nhóm phản ứng cách giận dữ và chống đối; trong khi đó “trong đám người nghe lời giảng, có nhiều kẻ đã tin theo, chỉ riêng số đàn ông đã lên đến chừng năm ngàn” (Cv 4:4). Chi tiết quan trọng thứ hai xảy ra cho Chúa Giêsu được lặp lại trong cuộc đời của Thánh Phêrô và Gioan mà được trình bày trong bài đọc 1 là “bị luận tội trước công hội”: “Hôm sau, các thủ lãnh Do thái, các kỳ mục và kinh sư họp nhau tại Giêrusalem. Có cả thượng tế Khanan, các ông Caipha, Gioan, Alêxanđê và mọi người trong dòng họ thượng tế” (Cv 4:5-6). Tuy nhiên, giống với thầy của mình, các môn đệ can đảm làm chứng cho sự thật và trong lời làm chứng của mình, Thánh Phêrô đã khẳng định một chân lý quan trọng trong tín điều của Kitô Giáo, đó là “Ngoài Người [Đức Kitô] ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4:10-12). Điều này khẳng định vị trí quan trọng của Chúa Giêsu trong cuộc đời của mỗi người chúng ta, không chỉ cho sự sống đời này mà còn cho sự sống vĩnh cửu. Nếu Chúa Giêsu quan trọng như thế, liệu Ngài có chiếm được chỗ trung tâm trong ngày sống của chúng ta không?

Nếu đọc lời Chúa với lòng tin, chúng ta nhận ra lời Chúa trong bài đọc 2 hôm nay thật an ủi và ấm áp. Thánh Gioan nói về tình yêu Thiên Chúa có thể làm cho chúng ta trở thành ‘người mà chúng ta không phải là’ và ‘sở hữu những thứ không thuộc về chúng ta’: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người (1 Ga 3:1). Thật tuyệt vời! Nhưng có phải là thế gian không biết chúng ta là con cái Chúa vì họ không biết Người không? Hay thế gian không biết Chúa vì chúng ta không sống đúng ơn gọi là con cái của Ngài? Chúng ta phải thú nhận rằng: Chúng ta không làm cho người khác nhận ra Chúa vì chúng ta không sống đúng với ơn gọi làm con, làm môn đệ của Chúa Giêsu: “Cứ dấu này mà người khác nhận biết anh [chị] em là môn đệ của Thầy là anh [chị] em yêu thương nhau” (Ga 13:35). Đã nhiều lần chúng ta để cho sự ghen ghét, hận thù chiến thắng và bóp chết con tim chúng ta để rồi chúng ta sống trong sự cay đắng và bất an trong thời gian dài hoặc đến lúc nhắm mắt xuôi tay. Hãy tha thứ, hãy để tình yêu của Thiên Chúa chiếu sáng trong chúng ta! Hãy là những người con ngoan của Thiên Chúa tình yêu.

Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đã khẳng định mình là Mục Tử nhân lành: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên” (Ga 10:11-13). Khi sử dụng từ “nhân lành” [“tốt lành”] (Gk. kalos, có nghĩa là “tốt” theo nghĩa “quý phái” hoặc “mẫu mực,” tốt trong chính bản chất chứ không phải là một đặc tính được thêm vào. Nó không có nghĩa là “tốt về” một cái gì đó). Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành tự bản chất, nên Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đàn chiên, dù chiên có như thế nào cũng không làm cho sự tốt lành của Ngài thay đổi. Theo các học giả Kinh Thánh, hình ảnh Chúa Giêsu chết cho chiên của mình thuộc về truyền thống cuộc thương khó của các Kitô hữu tiên khởi. Khác với những mục tử xấu, những người làm thuê. Họ bỏ chiên mà chạy khi thấy sói đến để giết hại và phân tán đàn chiên. Họ chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân của mình chứ không màng gì đến sự sống còn của đàn chiên.

Sau khi khẳng định mình là Mục Tử Nhân Lành và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đàn chiên, Chúa Giêsu tiếp tục khẳng định thêm: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10:14-15). Ngài thêm một đặc điểm khác của Người Mục Tử Nhân Lành là ngài ‘biết’ chiên của Ngài. Câu khẳng định trên là đặc trưng của Thánh Gioan vì nó nói về mối tương quan giữa người mục tử và chiên như là hình ảnh loại suy về mối tương quan giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha. Chính mối tương quan mật thiết với Chúa Cha là nền tảng cho hy tế của Chúa Giêsu vì đàn chiên. Hình ảnh này được sử dụng trong chương 15 (câu 12-17) để diễn tả cái chết của Chúa Giêsu trong bối cảnh của mối tương quan đó. Chính trong mối tương quan với Chúa Cha, Chúa Giêsu biết cái chết của mình cho đàn chiên là để tụ họp chúng lại trong một ràn chiên: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10:16). Câu nói này làm chúng ta suy tư về mối tương quan giữa mục tử và chiên mà được ám chỉ đến ‘những chiên khác,’ là những người cũng nghe tiếng Chúa Giêsu. Một vài nơi khác trong Tin Mừng, điều này nói về thế hệ của những người tin trong tương lai (x. Ga 17:20; 20-29). Một khả thể khác là chúng ta có thể xem những lời trên ám chỉ những người dân ngoại, ‘những người Hy Lạp’ mà được nhắc đến hai lần trong Tin Mừng (x. Ga 7:35; 12:20-22). Vào thời gian Tin Mừng được hoàn thành, cộng đoàn của Thánh Gioan ý thức được sự hiện hữu của những cộng đoàn Kitô hữu khác, đặc biệt là những cộng đoàn bắt nguồn từ Thánh Phêrô (x. Ga 21:15-19), là người được Chúa Giêsu đặt cho danh xưng ‘mục tử.’

Chi tiết cuối cùng chúng ta có thể suy gẫm là việc Chúa Giêsu tự do hy sinh mạng sống của mình cho đàn chiên: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10:17-18). Những lời này chỉ ra chìa khoá của tình yêu Chúa Cha dành cho Chúa Giêsu, đó chính là sự trao ban chính mình cho đàn chiên. Đây chính là tình yêu Chúa Cha đã dành cho Chúa Giêsu: đã trao ban mọi sự cho Chúa Giêsu. Một sự trao ban đầy tự do và yêu thương. Trong cuộc sống, chúng ta cũng trao ban cho người khác những thứ mình có và mình là: có người trao ban cho người khác những thứ ‘dư thừa’ của mình, có người trao ban cho người khác một tí gì đó của mình, nhưng cũng có người trao ban trọn vẹn chính mình cho người khác. Tình yêu cao đẹp nhất là tình yêu không chỉ trao ban mọi sự mình có, nhưng cả những gì mình là cho người khác với thái độ vui tươi và tự do.

Về mục lục

CHUNG HƯỞNG HẠNH PHÚC VÔ BIÊN

 Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần 4 Phục Sinh, năm B này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Đức Kitô, Vị Mục Tử oai hùng của chúng ta, đã khải hoàn tiến vào Thiên Quốc, xin Chúa cho chúng ta là đoàn chiên hèn mọn, cũng được theo gót Người vào chung hưởng hạnh phúc vô biên.

Chung hưởng hạnh phúc vô biên là chung phần chiến thắng của Đức Kitô, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Khải Huyền tường thuật lại cuộc chiến giữa các thiên thần và Con Mãng Xà, đây cũng là cuộc chiến của các tín hữu, nhưng, đừng lo, bởi vì, họ đã thắng nhờ máu Con Chiên và nhờ lời họ làm chứng về Đức Kitô: họ coi thường tính mạng, sẵn sàng chịu chết. Sau khi chịu cực hình trong giây lát vì trung thành với giao ước của Thiên Chúa, thì giờ đây các tín hữu Chúa đang hưởng sự sống đời đời.

Chung hưởng hạnh phúc vô biên nhờ Đức Kitô, vị mục tử nhân lành đã hy sinh tính mạng vì đoàn chiên, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Ghêgôriô Cả đã nói: Như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Dường như Đức Giêsu muốn nói rõ rằng: Điều minh chứng, tôi biết Chúa Cha và được Chúa Cha biết, ấy là, tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên, nghĩa là, nhờ tình thương, khiến tôi chịu chết cho đoàn chiên, tôi tỏ cho thấy là tôi yêu mến Chúa Cha tới mức nào.

Chung hưởng hạnh phúc vô biên là nhờ Đức Kitô, Đấng Cứu Độ Duy Nhất, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật lại việc thánh Phêrô mạnh dạn tuyên bố: Ngoài Đức Kitô ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.

 Chung hưởng hạnh phúc vô biên là được chung phần với Đức Giêsu, như trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Gioan đã nói: Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.

Chung hưởng hạnh phúc vô biên nhờ biết giữ vững niềm trông cậy vào Chúa, như trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 117, vịnh gia đã cho thấy: Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời, thì hơn tin cậy ở người trần gian. Cậy vào thần thế vua quan, chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói rằng: Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. “Biết” chính là “yêu”, Đức Giêsu đã yêu đoàn chiên đến hy sinh cả mạng sống mình. Để có thể chung hưởng hạnh phúc vô biên với Đức Kitô, vị mục tử nhân lành, chúng ta phải để cho Người “biết”: có biết, mới được yêu thương, được thấu hiểu, được cảm thương; được chữa lành, được giải cứu, được sống và sống dồi dào. Ước gì chúng ta biết ngoan ngùy vâng theo sự chăn dắt của Chúa, để chúng ta luôn được nuôi dưỡng trong đồng cỏ xanh tươi, mà Chúa đã dùng chính Máu mình để mua lấy cho chúng ta. Ước gì được như thế!

Về mục lục

MỤC TỬ NHÂN LÀNH.

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Trong Cựu Ước, Thiên Chúa được gọi là Mục Tử của dân Người, vì dân được chọn là dân du mục trên hành trình về Đất Hứa. Từ đó, hình ảnh người mục tử được áp dụng cho những kẻ Thiên Chúa ủy nhiệm, để thi hành vai trò lãnh đạo dân Ngài, như Môsê, Đavít, các vua, các tư tế cũng như các thủ lãnh. Tuy nhiên, sau này, kinh nghiệm của Israel về các nhà lãnh đạo là một kinh nghiệm đáng buồn. Các ngôn sứ đã khiển trách họ bằng lời lẽ nặng nề, vì họ đã không nuôi dưỡng mà chỉ biết bóc lột đoàn chiên,“thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc.” (Ed 34,2-5). Trước tình cảnh đó, Thiên Chúa hứa gửi đến cho dân Người một mục tử chân chính, để điều khiển họ trong sự công chính và bình an (x. Ed 34; Gr 23,1-6).

Khi Đức Giêsu tự giới thiệu: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên”, thì lời Thiên Chúa hứa đã được hiện thực, vượt quá mọi chờ đợi của con người. Những lời Đức Giêsu nói về người mục tử tốt lành được triển khai tiệm tiến, đưa chúng ta đến một cái nhìn rộng lớn về công trình cứu chuộc, là sự hy sinh chính bản thân Ngài trong mầu nhiệm Vượt Qua.

Hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành là một trong những hình ảnh lâu đời nhất của Kitô giáo. Hình ảnh này được tìm thấy trong các hang toại đạo, người ta khắc vẽ Chúa Giêsu với vẻ dịu dàng và trìu mến của người chăn chiên, vác chiên trên vai, tìm kiếm chiên lạc, đưa chiên về đàn. Một thái độ hoàn toàn khác với người chăn thuê, là người sống dửng dưng và xa cách với đoàn chiên, chỉ canh giữ theo thủ tục tối thiếu rồi chờ lương bổng lợi lộc, chứ không quý mến gì từng con chiên, và bỏ mặc đoàn chiên khi gặp tình trạng nguy biến.

Thực tế ngay giữa lòng Hội thánh, không thiếu những linh mục và tu sĩ sống ích kỷ và tị hiềm nhỏ mọn; không thiếu những tranh chấp quyền hành và địa vị; không thiếu những người sống ù lì, hưởng thụ, mà còn chạy theo tiền bạc, đam mê, danh vọng… góp phần cho việc tục hóa… Tại sao lại như thế? Nói theo ngôn ngữ của cha Teilhard de Chardin, thì lửa tình yêu trong trái tim các ngài quá yếu, không đủ nóng và đủ mạnh để sưởi ấm cho đời. Ngày nay có nhiều người trẻ không muốn đi tu, có thể vì họ thấy nơi một số các linh mục và tu sĩ có một kiểu sống khô khan vị kỷ, không quảng đại và vui tươi hồn nhiên, không sống tình bạn hữu thân thương trong đời thường. Chỉ khi họ gặp được linh mục hay tu sĩ nào phản chiếu được sự rạng rỡ của tình yêu, tức khắc chạm đến trái tim họ, để lại một ấn tượng khó phai mờ, và nhờ đó gây nên một chuyển biến trong đời sống của họ.

Việc cầu nguyện cho ơn thiên triệu mời gọi tất cả mọi thành phần của Giáo hội nhìn lại đời sống mình, để khám phá ra những bóng tối đang che mờ ánh sáng, những chai lì khô cứng đang làm nguội dần ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong mình, cả những ươn lười và ham hố bên ngoài như những tảng băng làm tắt dần sức nóng… Cứ phải tạo lại cho mình nỗi khát khao sự sống mới; cứ phải nhóm lại ngọn lửa yêu thương trong lòng mình bằng đời sống kết hiệp với Chúa mỗi ngày. Nhờ vậy, sự hiện diện của ta trở nên một dấu chỉ tốt lành để hướng mọi người đến việc phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân.

Riêng với các bạn trẻ, nhân ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi, có lần Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi các bạn như sau: “Đừng sợ ra khỏi chính mình và đặt mình vào một cuộc hành trình! Tin Mừng là lời giải phóng, biến đổi và làm cho cuộc sống của chúng ta thêm đẹp. Thật tuyệt vời biết bao khi ta biết để mình được lời mời gọi của Thiên Chúa làm cho ngạc nhiên, đón nhận Lời Ngài, bước đi theo dấu chân của Đức Giêsu, trong việc phụng sự Thiên Chúa và quảng đại hiến thân cho người khác! Đời sống của chúng ta sẽ mỗi ngày trở nên phong phú hơn và chan chứa niềm vui hơn!”.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Ngài là Mục Tử nhân lành,
đã hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên,
không như kẻ chăn thuê lo yên bề gia thế,
không kể gì sự sống chết của đàn chiên.

Là Mục Tử nhân lành,
Chúa dẫn chúng con đến đồng xanh suối mát,
đem lại bình an và sự sống cho tâm hồn,
chẳng bao giờ chúng con sợ thiếu thốn,
vì Chúa chính là nơi chốn để tựa nương,
cho cả những ai phải sa cơ lỡ bước,
để họ vượt qua tăm tối của đêm trường,
đón nhận được tình thương và ân sủng.

Xin cho chúng con trong mọi lúc,
biết nhận ra ân phúc của đời mình,
để luôn sống trong ân tình của Chúa,
biết nghe theo tiếng Chúa ở mọi nơi,
biết bước theo chân Chúa ở mọi thời,
đừng để con xa rời đường nẻo Chúa,
kẻo đời con phải héo úa sa chìm.

Xin cho các bạn trẻ biết lắng nghe tiếng Chúa,
qua những người đang đói khát hôm nay,
không chỉ đói bánh ăn và cơm áo gạo tiền,
mà còn đói chính tình thương và lẽ sống,
đói công bình vì đầy dẫy những bất công,
đói cảm thông vì chẳng ai chia sẻ.

Xin cho các bạn trẻ biết chạnh lòng,
trước bao mảnh đời bất hạnh vẫn chờ mong,
có ai đó đem đến cho họ niềm hy vọng,
giữa cuộc đời đầy trống rỗng hư không,
để các bạn mở lòng dấn thân vào đồng lúa,
trở thành thợ gặt lành nghề cho Nước Chúa,
cho niềm vui ơn cứu độ tỏa lan,
cho bình an và hạnh phúc mãi tuôn tràn. Amen.

Về mục lục

DẤU HIỆU MỤC TỬ GIẢ

 Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Có người nói rằng điều sợ nhất hôm nay là ra đường gặp phải người giả và đồ giả. Giả giống như thật. Giả để lừa. Quyền thế càng nhiều thì giả càng quy mô. Sự đời giả dối ấy ta bắt gặp ở mọi nơi và mọi tầng lớp trong xã hội.

Thi Sỹ Bùi Giáng cũng viết rằng

“Đừng tưởng cứ trọc là sư

Cứ vâng là chịu, cứ ừ là ngoan”

“Đừng tưởng cứ dưới là ngu

Cứ cao là sáng cứ tu là hiền”.

Và có người còn chế thêm rằng:

“Trọc đầu đừng tưởng là sư

Có khi là kẻ giống như bụi đời,

Điển hình là Võ Hoàng Yên được giới truyền thông ca tụng là thầy y để cứu nhân độ thế có thể chỉ vài động tác là người câm nói được. Và rồi Võ Hoàng Yên xuất hiện giữa truyền thông như một cư sỹ chay tịnh cứu đời. Miệng luôn nói lời đạo đức dạy người. Thế nhưng, sự thật hôm nay được phơi bày là dàn dựng, lừa dối thật đau lòng!

Người giả – đồ giả thật đáng sợ nhưng truyền thông giả còn đáng sợ hơn gấp trăm ngàn lần. Truyền thông có thể đưa kẻ tội lỗi thành thần thánh. Truyền thông có thể hãm hại kẻ vô tội thành có tội. Ai nắm được truyền thông người ấy nắm được chiến thắng. Điều đáng tiếc, là nhiều người lại dùng truyền thông để nói sai sự thật và đánh bóng tên tuổi của mình hay của ai đó để trục lợi cho phe nhóm của mình.

Quả đúng như người ta nói:

Ngày nay đầy dẫy “fake news”,

Tràn ngập tin giả “hỏa mù” khắp nơi.

Biến bao sự thật sáng ngời,

Trở thành hoen ố tả tơi khó nhìn.

Chính vì truyền thông dối trá đã làm hại biết bao người và làm cho kẻ gian lại được vinh thăng:

Từng gọi dối trá đáng yêu,
Tô màu hư hoại thành điều đáng tôn.
Tội lớn biến nhỏ cỏn con,
Vinh thăng kẻ ác còn hơn anh hùng.

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta cái nhìn tương phản về mục tử thật và mục tử giả. Mục tử thật luôn hết mình vì đàn chiên. Mục tử giả chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử thật thì hy sinh cho đàn chiên. Mục tử giả chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử thật luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Mục tử giả chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình. Họ sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên.

Ở đây Chúa muốn nói về trách nhiệm của mục tử là phải chăm sóc và bảo vệ đàn chiên. Người mục tử được giao nhiệm vụ coi sóc anh em mình tùy theo chức vụ và khả năng. Đức Thánh Cha có trách nhiệm gìn giữ sự hiệp nhất con cái trên thế giới và gìn giữ con cái Chúa khỏi sự băng hoại của thế gian. Đức Giám mục Giáo phận có trách nhiệm dạy dỗ uốn nắn con cái đi theo giáo huấn của Chúa và Hội Thánh. Cha xứ có trách nhiệm với mỗi linh hồn trong xứ đạo, đặc  biệt là những người khô khan và bỏ đạo. Cha mẹ có trách nhiệm lo cho con cái lớn khôn , khỏe mạnh từ thể xác đến linh hồn.

Trách nhiệm ấy đòi hỏi mỗi người phải có tinh thần của người mục tử luôn theo sát đàn chiên, luôn đi trước để dẫn đàn chiên tới đồng cỏ và phải canh chừng chúng khỏi sự dữ bủa vây . . .

Nếu người mục tử thờ ơ, thiếu quan tâm, thiếu dạy dỗ uốn nắn người dưới tức là mục tử giả. Họ chỉ lo cho bản thân, hay chỉ để xen lông chiên tức là kẻ trộm chỉ làm đàn chiên tan nát.

Chúa Giê-su đưa ra khuôn mẫu mục tử nhân lành là chính Chúa. Cả cuộc đời không tìm an nhàn cho bản thân. Ngài dong duổi gió bụi để tìm từng con chiên lạc đưa về ràn. Vì sự sống của đàn chiên, Ngài sẵn sàng đối phó với sự dữ để bảo vệ đàn chiên. Ngài đã chấp nhận cái chết để đàn chiên được sống.

Đó cũng là mẫu gương cho mỗi người chúng ta. Mỗi người chúng ta đều là mục tử của Chúa khi chúng ta có nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ anh em mình. Mỗi người chúng ta đều phải có trách nhiệm trước sự an nguy của đồng loại. Mỗi người chúng ta đều có bổn phận đẩy lùi sự dữ để bảo vệ đàn chiên cho dù phải hy sinh tính mạng.

Đây cũng là điều kiện để có được sự sống trường sinh. Vì “ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sống muôn đời”

Nguyện xin Chúa Giê-su mục tử luôn phù hộ nâng đỡ và giúp chúng ta biết sống hiến thân mạng sống vì anh em. Amen

Về mục lục

TÌNH YÊU THIÊN CHÚA NHƯ ĐẠI DƯƠNG

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Steve Jobs là một thiên tài về tin học và là nhà sáng chế nổi bật người Mỹ trong thời đại chúng ta. Ông đạt được nhiều thành công vang dội trong lãnh vực công nghệ thông tin. Ông là nhà sáng lập, là chủ tịch và tổng giám đốc điều hành của hãng Apple, là cha đẻ của điện thoại Iphone và Ipad.

Tiếc thay, ông bị mắc chứng ung thư tuyến tụy và dù hết sức chạy chữa để dành lại sức khỏe và sự sống, ông đã phải qua đời ngày 5 tháng 10 năm 2011, khi được 56 tuổi.

Trong thời gian nằm bệnh viện để điều trị chứng bệnh quái ác, ông tâm sự rằng:

“Nếu có tiền, bạn có thể mướn tài xế lái xe cho bạn, nhưng không thể dùng tiền để thuê người mang bệnh cho bạn.”

Đúng vậy, Jobs có thể thuê nhiều người lái xe thay mình để đưa ông đi khắp nơi, có thể thuê hàng chục ngàn nhân công để phục dịch cho mình; nhưng dù có cả núi tiền, Jobs cũng không thể thuê người mang bệnh ung thư giùm cho ông hay chết thay cho ông!

Sở dĩ không thuê được là vì không có ai trên đời chấp nhận chết thay cho người khác được sống, với bất cứ giá nào.

Thế mà Chúa Giê-su, là Thiên Chúa cao cả và đầy quyền năng, đã tự nguyện mang lấy tội lỗi chúng ta, mang án phạt của chúng ta để ta khỏi chịu khổ hình do tội mình gây nên và tự nguyện chết thay để chúng ta được sống đời đời… Đây là hồng ân vô cùng tuyệt vời và cao quý Ngài ban tặng cho chúng ta.

Qua bài Tin mừng trích đọc hôm nay (Ga 10, 11-18), Chúa Giê-su tự giới thiệu Ngài là người chăn chiên tốt lành và sứ mạng cao cả của Ngài là hy sinh chịu chết để bảo vệ chiên, để cứu chiên khỏi chết. Ngài nói:

“Tôi là Mục tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.”

Chưa từng có mục tử nào trên đời yêu mến chiên và hy sinh cho đoàn chiên đến thế!

Và Chúa Giê-su lặp lại câu này lần thêm hai lần nữa: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên…” và “Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình…”

Cụm từ “hy sinh mạng sống” được Chúa Giê-su nhắc lại ba lần trong một bài giảng ngắn, để nhấn mạnh vai trò và sứ mạng của Ngài là chịu chết cho muôn người được sống.

Tôi tớ thấp hèn tự nguyện chết thay cho ông chủ cao sang quyền quý, hay người dân đen cùng khốn tự nguyện chết thay cho đức vua cao trọng, hoặc con cái trong gia đình chết thay cho cha mẹ tốt lành… là điều hiếm thấy trong lịch sử nhân loại.

Phải có một tình yêu vô cùng lớn lao thúc đẩy thì người ta mới có thể tự nguyện chết thay cho người khác.

Ai yêu thương đến độ chết thay cho người khác là đã đạt tới tột đỉnh của tình yêu.

Thế mà Chúa Giê-su, là Chúa Tể trời đất, là Đấng rất cao cả và đầy quyền năng, chấp nhận chết thay cho loài người thấp hèn, tội lỗi, để cho ta được sống muôn đời với Chúa, là điều vượt quá trí hiểu của con người.

Điều này chứng tỏ tình thương Ngài dành cho chúng ta lớn lao như đại dương không bờ, không đáy.

Lạy Chúa Giê-su,

Nếu chúng con bị tuyên án tử hình mà có người nhận tội thay và chịu chết thay cho chúng con thì tuyệt vời biết bao, hạnh phúc biết dường nào! Chúng con sẽ yêu mến người đó hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự suốt cả đời mình.

Thế mà Chúa là Chúa tể trời đất, đã mà hạ mình xuống thế ở với chúng con, chăm sóc chúng con ân cần chu đáo như người chăn chiên tốt chăm lo cho đoàn chiên, đã ấp ủ chúng con như mẹ hiền ôm ẵm con thơ và thậm chí còn hiến thân chịu chết cho chúng con được sống muôn đời… thì chúng con lại thờ ơ hững hờ, vô cảm vô tâm trước tình yêu cao vời của Chúa.

Xin Chúa tha thứ cho chúng con về tội vô tâm này và giúp chúng con từ nay luôn yêu mến Chúa hết lòng chúng con. Amen.

Về mục lục

ƯỚC MƠ, PHỤC VỤ VÀ TRUNG THÀNH

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

Hàng năm vào Chúa Nhật Thứ Tư Phục Sinh, còn được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, chúng ta cử hành Ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu.

Trong Sứ điệp nhân ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu năm nay 2021 với chủ đề : “Thánh Giuse, Ước mơ của Ơn gọi” Đức Thánh Cha Phanxicô đã diễn giải 3 đặc tính của ơn gọi nơi mỗi cá nhân là ước mơ, phục vụ và lòng trung thành.

Ước mơ là dấu chỉ của ơn gọi. Ai muốn tận hiến cho Chúa, người ấy trước tiên phải ước ao, phải muốn đi Tu đã. Không phải chỉ là một ước muốn mơ hồ, mà là một ý muốn cương quyết mạnh mẽ và lâu bền đầy ý thức ngay lành. Ðành rằng có thể có những hối tiếc, những cám dỗ, nhưng đương sự vẫn cố gắng và cương quyết vượt qua. Ði theo Chúa không phải vì vụ lợi, danh vọng mà vì muốn nên trọn lành. Chúa phán cùng người thanh niên : “ Nếu con muốn nên trọn lành hãy về bán hết tài sản… rồi đến theo Ta”. Ðó là dấu căn bản thứ nhất. Đức Thánh Cha đề cập đến đặc tính thứ hai là phục vụ.

Phục vụ

Có bao giờ ta tự đặt câu hỏi: Chúa sinh tôi ra trên trần thế này, để cho tôi lưu lạc nhiều năm tháng, cứu tôi, biến tôi thành con dân Ngài, để hưởng sự sống đời đời nơi Thiên đàng. Như thế khi chưa về nước Chúa, Chúa muốn ta làm gì không?
Hiển nhiên, Chúa muốn chúng ta thành con người phục vụ trong thành công và đắc thắng cho Ngài.

Mỗi tín hữu là một người phục vụ. Chúng ta được tạo dựng để phục vụ (x. Eph 2,10). Ađam và Eva được Thiên Chúa tạo dựng để phục vụ Chúa, quản trị muôn loài. Phải khẳng định rằng, chúng ta được cứu để phục vụ (x. 2 Tim 1,9), được kêu gọi để phục vụ và đụợc ban ơn để phục vụ, như Phêrô mô tả : “Moi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Thiên Chúa” (1 Pr 4, 10).

Người được ban cho quyền hành cũng là để phục vụ : “Anh em hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ, nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28, 18-20).

Tóm lại, Thiên Chúa không tình cờ tạo ra chúng ta, Ngài cũng không rủi may cứu chúng ta, càng không tùy hứng kêu gọi và ban ơn cho chúng ta. Chúa có chương trình, kế hoạch, mục đích tạo dựng, cứu rỗi, kêu gọi, ban ơn để chúng ta phục vụ Chúa và nhận phần thưởng quí báu đời đời của Ngài. Hay cảm tạ Chúa. Hãy nói với Chúa: Chúa ơi, xin dùng con phục vụ Ngài.

Chúa Giêsu đã phán: “Thầy ở giữa các con như một người hầu hạ” (Lc 22,27). Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi phục vụ lẫn nhau. Người sống đời tu trì thì càng phải phục vụ. Phục vụ là giúp đỡ những người khác cần sự trợ giúp. Sự phục vụ giống như Chúa Giêsu phát sinh từ tình yêu mến chân thật đối với Đấng Cứu Thế và lòng yêu thương cũng như mối quan tâm đối với những người mà Chúa ban cho chúng ta các cơ hội để phục vụ. Tình yêu thương không phải chỉ là một cảm giác suông; nhưng là yêu và muốn giúp đỡ họ.

Là Kitô hữu, chúng ta phải sẵn lòng phục vụ, bất luận mức thu nhập, tuổi tác, hay địa vị xã hội của chúng ta ra sao. Một số người tin rằng chỉ những người nghèo khó và thấp hèn mới phải phục vụ. Một số người khác lại nghĩ rằng chỉ những người giàu có mới phải phục vụ. Nhưng Chúa Giêsu đã dạy ngược lại : “Trong các ngươi, kẻ nào muốn làm lớn, thì sẽ làm đầy tớ các ngươi; còn kẻ nào muốn làm đầu, thì sẽ làm tôi mọi các ngươi” (Mt 20, 26–27). Vì thế, người sống đời tu trì được gọi riêng để phục vụ tha nhân.

Có nhiều cách để phục vụ. Chúng ta có thể giúp những người khác về phương diện kinh tế, xã hội, vật chất và tinh thần. Cho người đói ăn, giúp người ốm yếu, ai ủi kẻ sầu muộn, cô đơn… Hãy nghĩ đến những người đang lâm cảnh khốn khổ về phương diện kinh tế, xã hội, vật chất cũng như tinh thần. Đức Thánh Cha Phanxicô đề cập đến đặc tính thứ ba là trung thành.

Trung thành

Trung thành trong ơn gọi không chỉ đơn giản là ơn gọi trong đời sống tu trì hay gia đình, nhưng là tất cả mọi hoạt động và ý định của Thiên Chúa muốn con người cộng tác vào.
Thiên Chúa luôn là Đấng chủ động mời gọi con người đến để hiệp thông, cộng tác với Ngài, nhờ đó con người được lớn lên trong tình yêu thương chăm sóc và bảo vệ, cũng như được thừa hưởng phúc lộc sẽ ban cho khi luôn gắn bó, trung thành với Ngài. Vì thế, cách khôn ngoan của con người là mau mắn đáp lại tiếng Chúa và trung thành với phận vụ cao quý mà Thiên Chúa đang giao phó nơi mỗi người, trong từng việc, từng hoàn cảnh và thời gian khác nhau.

Trung thành trong ơn gọi tận hiến không đơn giản chỉ là có tên, có mặt trong nhà dòng, qua những lần khấn hứa để trở thành tu sĩ, hay thành linh mục đoàn Giáo phận mà thôi. Mà phải làm cho ơn gọi dâng hiến trở nên sống động, là biểu tượng của hạnh phúc thật, là nguồn sức sống sung mãn cho con người và thành niềm say mê cho ai khát khao và kiếm tìm.

Chính nhờ trung thành gắn bó với ơn gọi, mà con người được Thiên Chúa chúc phúc. Đời họ trở nên dấu chỉ của tình thương và an bình.

Vì thế, người tu trì phải làm cho đời mình trở nên hạnh phúc thực sự, thành dấu chỉ của niềm vui giữa thế gian, nhờ đó mà người đời nhận biết sự tốt lành và cao cả của Thiên Chúa ban cho con người, qua ơn gọi dâng hiến.

Nhân Ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu năm 2021, Đức Thánh Cha Phanxicô cầu chúc như sau : “Tôi cầu chúc cho các bạn, những người đã quảng đại biến Thiên Chúa thành ước mơ của cuộc đời các bạn, phục vụ Người trong những người anh chị em của các bạn qua lòng trung thành…” (x. Sứ điệp Ơn gọi 2021).

Đức Phanxicô đã từng nhắc nhở : “Vào ngày được dành riêng để cầu nguyện cho ơn gọi này, tôi kêu gọi tất cả anh chị em Kitô Hữu hãy ý thức trách nhiệm của mình đối với việc chăm sóc và biện phân các ơn gọi”. Đức Thánh Cha cầu nguyện cho các bạn trẻ ở khắp Châu Á ngày càng chú tâm lắng nghe lời Chúa kêu gọi và đáp lại ơn gọi của mình với đức tin và lòng dũng cảm.

Về mục lục

CÁNH CỬA

Lm Vũđình Tường

Mấy tuần qua chúng ta nghe đến ba loại cửa. Tất cả các cửa này đều có điểm chung, đó là nói lên sự sống. Cánh cửa đầu tiên là cửa mộ, thứ đến là cửa cài then, nơi môn đệ Đức Kitô trốn, do sợ hãi, thứ ba là cửa chuồng chiên.

Đối với toàn thể nhân loại, cửa mộ là cửa tử bởi nơi đó cầm giữ, chôn cất thân xác người thân. Đối với Kitô hữu cửa mồ là biểu tượng của sự sống mới, sống trong Chúa. Đức Kitô Phục Sinh bước ra khỏi mộ để lại sau lưng ngôi mộ trống. Nơi Ngài nguồn sống mới phát sinh. Ngay tại cửa mộ Đức Kitô gặp các bạn phái nữ, Ngài nói với các bà đi báo tin cho các môn đệ là Ngài sẽ đi gặp họ. Đức Kitô hiện đến với họ, tất cả đều bàng hoàng, ngỡ ngàng. Gặp lại Đức Kitô Phục Sinh, sự sống bừng lên nơi các ông, bởi Đức Kitô ban cho các ông sự sống mới, kèm theo là sứ mạng rao giảng Tin Vui Phục Sinh. Những ai tin theo sẽ trở thành môn đệ Đức Kitô. Ai yêu mến và lắng nghe lời các môn đệ, Đức Kitô ban cho họ sự sống mới, sự sống trường sinh.

Trước cuộc tử nạn, Đức Kitô nói về cửa chuồng chiên. Cửa này không phải là vật dụng, gỗ, đá mà chính con người. Con người đó là Đức Kitô. Ngài tự ví mình như là cửa chuồng chiên, bởi tình yêu Ngài dành cho đàn chiên. Ngài là cửa, ngày và đêm Ngài bảo vệ chiên khỏi bị sói rừng sát hại, canh giữ không để cho trộm rình bắt. Chiên sẽ không bị kẻ cướp cướp đi.

Đức Kitô đưa ra hai hình ảnh, người chăn chiên nhân lành, và người chăn chiên thuê mướn. Chủ chiên nhân lành, ngày đêm, luôn chăm sóc, bảo vệ đàn chiên. Chủ dẫn chúng đến giòng nước trong lành, đồng cỏ tươi mát. Chủ sẵn sàng bảo vệ đàn chiên khỏi bị thú dữ sát hại. Chủ sẵn sàng hy sinh, dấn thân vào chốn nguy hiểm, mục đích bảo vệ đàn chiên. Chủ chiên lành biết rõ chiên của mình, chiên nghe, vâng lời tiếng chủ, và chủ biết từng con, nghe biết tiếng chúng. Những giá trị này Đức Kitô ngụ í nói về chính mình. Hai lần Ngài xác nhận ‘Ta là chủ chiên lành’ c.11,14. Qua cuộc tử nạn, thập giá và phục sinh của Đức Kitô. Nhân loại thấy rõ tâm tình yêu mến, Đức Kitô thí mạng sống mình vì đàn chiên. Đức Kitô thực hiện điều Ngài nói về chủ chiên lành bởi đó chính là í của Ngài và í này cũng trùng hợp, cũng là í của Chúa Cha.

Là cửa chuồng chiên, Đức Kitô để cho nhân loại quyền tự do lựa chọn. Những ai yêu mến, chọn tin theo Đức Kitô sẽ nhận được tình yêu thí mạng sống mình vì chiên. Những ai chọn theo í riêng, không theo Đức Kitô sẽ chẳng bao giờ nhận biết tình yêu hy sinh của Đức Kitô. Những ai chọn yêu mến và tin theo sẽ không mất gì, nhưng nhận được nhiều ơn Đức Kitô ban tặng. Cuộc sống họ trở nên phong phú, tinh thần thảnh thơi, tâm tư thoải mái, và suốt đời họ sống trong hy vọng, ngay cả khi gặp thử thách, gian nan, hy vọng vào Đức Kitô vẫn vươn cao. Khi mất đi họ sẽ để lại ngôi mộ trống như chính Đức Kitô đã bước ra khỏi mộ, để lại ngôi mộ trống.

Đức Kitô Phục Sinh ban cho nhân loại quyền tự do chọn lựa: tin theo Đức Kitô hoặc không tin. Chuồng chiên dành cho những kẻ yêu mến, tín trung. Vì lòng nhân lành, Đức Kitô sẵn sàng tha thứ, mở cửa chuồng chiên đón nhận bất cứ ai hồi tâm, thống hối quay trở về cùng đàn chiên. Đức Kitô không phải chỉ là người gác cửa mà chính Ngài còn đi tìm những chiên lạc, khi tìm được vác trên vai mang về (Dụ Ngôn Chiên Lạc Luca 15:5). Như thế chỉ có một chuồng chiên, nhưng trong chuồng chiên có nhiều đàn chiên. Đàn vào trước, đàn vào sau, chung chuồng, chung chủ.

Trộm cắp dùng nhiều hình thức phủ dụ để bắt chiên; trong khi sói dữ rình rập cắn xé chiên. Người chăn chiên mướn là người làm thuê, chủ chiên trả công. Nếu người đó không hoàn thành nhiệm vụ được trao phó; người đó hành động khác chi kẻ trộm hay sói rừng, trá hình, đội lốt, chăn chiên để cầu lợi, để ngầm cấu xé, cắn phá chiên.
Chúng ta dâng lời tạ ơn Đức Kitô, Đấng chăn chiên nhân lành.

Về mục lục

NGHE TIẾNG CHÚA

Bông hồng nhỏ

Chúa Giêsu đã nói với người Do thái rằng: “Tôi chính là mục tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10, 11). Đó cũng là lời mà Chúa Giêsu đang nói với ta. Lắng nghe tâm tư của Người, lòng ta vang lên một lời mời gọi: hãy lắng nghe và thi hành lời Chúa.

Làm sao để lắng nghe tiếng Chúa? Thiên Chúa nói trong thinh lặng và lòng ta cũng phải lặng thinh để có thể nghe được Lời Người. Ta là con chiên của Chúa, là người được Chúa yêu. Ngắm nhìn Thập giá Chúa Giêsu, ta cảm nếm được tình yêu bao la vô bờ bến của Người. Người là vị Mục tử nhân lành đã hy sinh tính mạng cho chính bản thân ta. Ta là ai? Một con chiên lạc bơ vơ đã được Người đưa về săn sóc. Ta nghe thấy trái tim Người thổn thức: “Ta khát!” (x. Ga 19,28). Kìa, Mục Tử nhân lành đang khát. Người khát khô cả cổ họng vì mất máu và mất nước sau nhiều giờ chịu cực hình hay Người đang khát nỗi khát khao được yêu cho đến cùng. Đấng đã dẫn ta vào đồng cỏ xanh và cho ta uống dòng suối mát lành nay đang khát khao được yêu thương ta cho đến cùng. Tình yêu của Người dành cho ta luôn vẹn nguyên và chan chứa nhưng lòng ta sao lắm lúc hững hờ và thờ ơ? Hãy ngắm nhìn Chúa Giêsu trên thập giá, ở lại với Người thật sâu trong bí tích Thánh Thể và lắng nghe lời mời gọi yêu thương của Người dành cho ta: Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 34-35). Chúa Giêsu đã yêu thương ta và Người mời gọi ta hãy yêu thương tha nhân như Người đã yêu thương ta. Người không chấp tội ta, chẳng hề nhắc đến lỗi lầm ta phạm nhưng chỉ một bề tha thứ và yêu thương. Mỗi ngày và suốt cuộc đời ta, Người vẫn nói với ta chỉ hai chữ: Yêu thương.

Thiên Chúa vẫn luôn nói với ta và Người ban cho ta có khả năng nghe được tiếng Người vang lên trong đáy lòng ta. Người cho ta được tự do thực thi ý muốn của Người. Để sống Lời Chúa đòi buộc ta phải biết bỏ mình. Vì sao ta khó lòng yêu thương người khác? Vì ta chỉ quy hướng mọi sự về mình, chỉ nghĩ đến mình. Mỗi lần ta muốn từ bỏ ý riêng, ta phải biết nhìn về Thiên Chúa trong tâm tình cầu nguyện. Người sẽ giúp ta biết đứng vào chỗ của người khác để hiểu và cảm thông với họ. Rời khỏi chỗ của mình là một việc làm rất khó khăn, nó đòi ta phải biết phó thác mọi sự cho Thiên Chúa. Người là Mục Tử nhân lành luôn đi trước đoàn chiên, chỉ lối cho từng con. Hãy để Thiên Chúa dẫn ta bước đi. Chẳng phải chính Người đã rời bỏ trời cao để sống với con người trong thân phận con người, đã chịu mọi đau khổ để học được thế nào là vâng phục. Người vâng phục thánh ý Chúa Cha và được Chúa Cha yêu mến. Thiên Chúa đã yêu con người, cho họ được trở nên con Thiên Chúa (x. Dt 5,8. 1Ga 3,1. Ga 10, 17). Mỗi người đều là con chiên được Mục Tử Giêsu yêu thương hết tình. Ta hãy sẵn sàng đón nhận “con chiên lạc” trở về, sẵn sàng nâng đỡ và yêu thương họ như ta đã được Thiên Chúa yêu thương và nâng đỡ. Tình yêu ta dành cho người khác cũng sẽ là phản ánh vẻ đẹp của tình yêu mà Chúa đã dành cho ta. Nếu ta sống thiết thân với Thiên Chúa, được ở trong kinh nghiệm được Người yêu thương, ta sẽ có sức mạnh nội tâm để yêu thương bằng chính tình yêu của Chúa trong ta. Tình yêu của ta thường ích kỷ và hẹp hòi, tình yêu ấy sẽ làm cho người ta yêu phải ngột ngạt, bị trói buộc và thiếu sức sống. Nhưng khi yêu bằng tình yêu của Chúa, Người sẽ làm cho ta và cả người ta yêu thật sự được tự do, trái tim sẽ được triển nở và mở rộng thêm mãi.

Lạy Chúa Giêsu là Mục Tử nhân lành! Xin giúp con biết sống yêu thương người khác như Chúa đã yêu thương con. Con luôn tin Chúa dẫn đường con đi và Người hằng ở trong con, yêu thương trong con. Xin Chúa dùng con như Chúa muốn, xin dẫn con đi trên nẻo đường yêu thương của Chúa. Amen.

Về mục lục

MỤC TỬ ĐẸP

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 “Mục Tử Đẹp” là chữ của Cha Giuse Nguyễn Công Đoan. Ngài giải thích như sau:

Người ta thường dịch là “Mục Tử nhân lành/tốt lành”. Nhưng bản văn Hy lạp dùng “ĐẸP”, gợi lại hình ảnh vua Đavit (x.1S 16,12), phù hợp với những lời hứa về Giao Ước Mới, trong đó Thiên Chúa hứa ban một Mục Tử từ nhà Đavit, một Đavit mới: “Ta sẽ làm nảy sinh cho nhà Đavit một chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ, vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. Thời bầy giờ, Giuđa sẽ được cứu thoát, Itraen sẽ được sống yên hàn. Danh hiệu người ta tặng cho vua ấy sẽ là: Đức Chúa, sự công chính của chúng ta” (Gr 23,5-6). “Ta sẽ cho xuất hiện một mục tử để chăn dắt chúng; nó sẽ chăn dắt chúng; chính nó sẽ là mục tử của chúng, và Đavit, tôi tớ của Ta, sẽ là ông hoàng ở giữa chúng. Chính Ta, Đức Chúa, Ta đã phán” (Ed 34, 23-24).

Chúa Giêsu là Mục Tử xuất thân từ nhà Đavit, mục tử đẹp như Đavit. Khi Chúa Giêsu cưỡi lừa con đi vào Giêrusalem, Gioan sẽ trích dẫn lời sách Dacaria: “hỡi thiếu nữ Sion đừng sợ, này Đức Vua của ngươi ngự đến, ngồi trên lưng lừa con” (Dc 9,9).

Chúa Giêsu là Mục Tử Đẹp như Đavit, là Đavit mới. Khi Đavit tình nguyện ra đương đầu với Gôliat, Đavit kể chuyện mình đi chăn chiên: “Khi sư tử hay gấu tha đi một con chiên trong bầy, thì con ra đuổi theo nó, đánh nó và giật con chiên khỏi mõm nó. Nó mà chồm lên con, thì con nắm lấy râu của nó, đánh cho nó chết luôn” (1S 17,34-35). Đavit liều mạng để cứu chiên. Chúa Giêsu là Đavit mới, sẽ hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên được sống, trái với kẻ trộm, kẻ cướp. Chúa Giêsu hy sinh mạng sống vì đoàn chiên thể theo thánh ý của Chúa Cha: “Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10,18). Chúa sẽ quy tụ tất cả đoàn chiên, để “chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” như Thiên Chúa đã hứa trong sách Êdêkien (34,11-16). (x.Tĩnh tâm với Tin mừng Gioan, Lm Giuse Nguyễn Công Đoan, SJ).

Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những “Mục Tử Đẹp” như Chúa Giêsu. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước.

“Mục tử đẹp” luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu là có một sự hiểu biết sâu xa về Ngài do đã gặp gỡ và sống với Ngài thực sự. Khi thánh Phêrô tìm người thay thế Giuđa Iscariốt, ngài đã nói với cộng đoàn: “Trong số những anh em đã cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được Ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có người trở thành chứng nhân cùng với chúng ta làm chứng Người đã phục sinh” (Cv 1,21-22). Với những lời trên đây, thánh Phêrô, khi chọn người mục tử thay thế Giuđa, đã chỉ đưa ra một tiêu chuẩn là: người đó đã phải cùng sống với Chúa Giêsu và đã tham dự cuộc đời cứu thế của Ngài, một đời mặc lấy thân phận đoàn chiên, yêu thương đoàn chiên, cứu độ đoàn chiên và còn hơn nữa, như lời Ngài nói: “Ta còn có những chiên không thuộc đoàn này. Ta cũng phải đưa chúng về” (Ga 10,16). Ngài cũng khẳng định: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (10,11). Muốn được như vậy, người mục tử phải có những tâm tình của Chúa Giêsu. Nhất là sự khiêm nhường. Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ hãy học với Ngài, đặc biệt là về đức tính“hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chính Ngài đã cứu chuộc loài người bằng sự hiền từ khiêm tốn, vâng phục thánh ý Chúa Cha. Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, là sự sống, là sức mạnh của đời mục tử. Cầu nguyện là lẽ sống và có một tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống mục tử. Lời cầu nguyện chỉ thực sự có giá trị và sức mạnh khi phát xuất từ một đức tin có chất lượng và sống động. Mục tử cầu nguyện, hãm mình, đền tội cho giáo dân theo gương cha thánh Gioan Vianney.

Trong Sứ điệp ngày thế giới cầu nguyện cho các ơn gọi năm 2012, ĐTC Bênêđictô xác định: Lời Chúa, cầu nguyện và Thánh Thể là kho tàng quý giá giúp cho các ơn gọi hiểu vẻ đẹp của một cuộc sống hoàn toàn dâng hiến cho Nước Thiên Chúa.Ngài mời gọi mời gọi các mục tử : Khi kín múc ở nguồn mạch tình yêu Thiên Chúa trong đời sống cầu nguyện, cùng với việc năng lui tới với Lời Chúa và các Bí tích, cách riêng Bí tích Thánh Thể, mà ta có thể sống tình yêu đối với tha nhân trong đó ta học biết khám phá khuôn mặt của Chúa Kitô (x. Mt 25, 31-46).

Mục tử tốt lành là phải luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, vị mục tử tốt lành biết rõ đàn chiên,yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Từ đó, vị mục tử tốt lành biết nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao đặc biệt là cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.

Ơn gọi Linh mục Tu sĩ chính yếu là để “sống với Chúa, và để Ngài sai đi”(Mc 3, 14). Sống với Chúa, là lắng nghe tiếng Ngài trong từng giây phút sống, để nên một với Chúa trong gian nan và hạnh phúc. Để Ngài sai đi, là sẵn sàng đi theo con đường Ngài đã đi, thực thi sứ mạng Ngài trao bất chấp những gì xảy ra.

Giáo dân cần Linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ, như học sinh cần thầy cô giáo, như một người bạn sẵn sàng cảm thông chia sẻ vui buồn trong đời sống và như người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.

Hãy cầu nguyện cho các Linh mục được trở nên những mục tử như Chúa Giêsu, vị Mục Tử Tốt Lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đàn chiên. Trong bài giảng Lễ Dầu năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khuyên các linh mục : “Cha mời gọi các con điều này, các con hãy là những người chăn chiên có mùi của chiên. Người chăn chiên thì có mùi chiên, làm cho cái mùi ấy thành cái mùi thực, giống các người chăn chiên ở giữa đoàn chiên của các con. Mùi của chiên chỉ có được bằng cách sống các thực tại đời sống hàng ngày của họ, các bối rối khó khăn của họ, các niềm vui của họ, các gánh nặng và các hy vọng của họ”.

Hãy cầu nguyện cho các Linh mục có những đức tính tốt của những  Mục Tử Đẹp  mà Thánh Kinh đã mô tả :

– Yêu thương, trìu mến chiên với tất cả tâm hồn: “Chúa tập trung cả đàn chiên dưới cánh tay: lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40, 11).

– Yêu quý từng con chiên, một con cũng như cả trăm con: “Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao ? Và nếu may mà tìm được, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc” (Mt 18, 12-13).

– Lo cho chiên, tạo những điều kiện tốt đẹp cho chiên: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong những đồng cỏ mầu mỡ” (Ed 34, 14).

– Làm cho chiên được sống no ấm, hạnh phúc: “Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” (Tv 23,1); làm chiên luôn vững dạ vì được bảo vệ: “Dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (23, 4).

– Tinh thần trách nhiệm đối với đàn chiên rất cao: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng” (Ed 34,16).

– Cứu thoát, giải phóng đàn chiên: “Thiên Chúa sẽ cứu thoát dân Người, như mục tử cứu thoát đàn chiên” (Dc 9,16).

Linh mục là Mục tử, người chăm sóc phần hồn các tín hữu. Một sứ mạng rất cao quý. Linh mục noi gương Chúa Giêsu – Mục Tử Đẹp, tận tình phục vụ tha nhân qua công việc mục vụ với đức ái mục tử. Đây là linh đạo của linh mục giáo phận.

Sứ điệp Ngày Quốc tế Ơn gọi 2021 với chủ đề: Thánh Giuse – Giấc mơ ơn gọi. Đức Thánh Cha Phanxicô suy niệm: Thánh Giuse gợi ý cho chúng ta ba từ khóa cho ơn gọi của mỗi cá nhân. Đó là ước mơ, sự phục vụ và lòng trung thành.

Trong Kinh Thánh, thánh Giuse được gọi là người công chính. Thánh Giuse được Giáo Hội tôn vinh với nhiều tước hiệu cao quý. Một trong những tước hiệu đó là: Thánh Giuse,Đấng bảo trợ Giáo Hội và những tâm hồn dâng hiến”. Giáo Hội coi Thánh Giuse là “Đấng giữ gìn các kẻ đồng trinh”. Ngài đã giữ gìn Đức Maria. Ngài cũng sẵn sàng giữ gìn những người tận hiến đời mình cho Chúa.

“Xin Thánh Cả Giuse, Đấng bảo vệ các ơn gọi, đồng hành với anh chị em bằng trái tim hiền phụ của ngài!” (Sứ điệp Ơn gọi 2021).

Lạy Thánh Cả Giuse là Đấng bảo vệ Giáo Hội và những tâm hồn dâng hiến, xin bảo vệ và phù trợ các mục tử để các ngài luôn cố gắng mỗi ngày nên “Mục Tử Đẹp” như Chúa Giêsu. Amen.

Về mục lục

THÍ MẠNG

Trầm Thiên Thu

Mục Tử Thật Hy Sinh Mạng Sống

Người Làm Thuê Bỏ Mặc Đàn Chiên

Quyền tự do được Thiên Chúa ban cho mọi người như nhau, và mỗi người có thể tùy ý chọn lựa những gì mình muốn, thậm chí là tự hủy hoại sinh mạng mình, nhưng đó là trọng tội vì cướp quyền của Thiên Chúa.

Có tự do nhưng vẫn có giới hạn, nghĩa là người ta không được tự tử. Tuy nhiên, người ta có thể thí mạng mình để cứu người khác. Đó là tình yêu thương vĩ đại nhất mà Chúa Giêsu đã đề cao. (Ga 15:13) Một linh mục thánh thiện đã làm điều vĩ đại đó: Thánh Maximilian Maria Kolbe (1894-1941), chết thay người bạn tù.

Về phương diện tự do bình thường, Frank Tyger định nghĩa: “Làm điều bạn thích là tự do. Thích điều bạn làm là hạnh phúc.” Henry David Thoreau nói: “Luật lệ không bao giờ khiến con người tự do, chính con người phải làm cho luật lệ tự do.”

Khi mặc xác phàm, Chúa Giêsu cũng có quyền tự do chọn lựa, nhưng Ngài quyết tâm theo ý Chúa Cha mà chấp nhận chịu chết. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất, là Chúa Chiên Lành, là Cửa cho chiên ra vào, (Ga 10:7) ai qua cửa đó thì được cứu và gặp được đồng cỏ xanh rì, (Ga 10:7) và Ngài xác nhận: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14:6) Ngài là Chủ Chiên, là Mục Tử Nhân Lành, nên Ngài có quyền đối với đoàn chiên, nhưng quyền của Ngài là “quyền hy sinh” và “quyền yêu thương” – đặc biệt là “yêu thương đến cùng” (Ga 13:1) là thí mạng vì những người được trao cho Ngài.

Quyền và chức liên quan với nhau. Xã hội loài người có nhiều loại quyền, cơ bản nhất là nhân quyền – quyền của con người. Mọi người đều bình đẳng, vì ai sinh ra cũng có nhân phẩm và nhân vị. Nhà có gia phong, nước có quốc pháp, nhóm có nội quy. Mỗi quốc gia có ba quyền cơ bản: Quyền lập pháp, quyền tư pháp, và quyền hành pháp. Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10-12-1948 tại Palais de Chaillot (Paris, Pháp). Bản Tuyên ngôn đã được dịch ra ít nhất 375 ngôn ngữ trên thế giới.

Bác học Albert Einstein (1879-1955) nhận định: “Quyền lực luôn luôn thu hút những kẻ kém đạo đức – Force always attracts men of low morality.” Một cách nhận xét nhẹ nhàng mà nhức buốt. Có mọi quyền hành trên trời và dưới đất, nhưng Chúa Giêsu không muốn dùng quyền để hành hạ người khác, Ngài chỉ muốn phục vụ, yêu thương và tha thứ. Ngài xác định: “Tôi là mục tử tốt lành, Tôi biết các chiên của Tôi, và các chiên của Tôi biết Tôi.” (Ga 10:14) Chủ chiên thật thì phải yêu thương chiên, nếu không thì chỉ là “thợ chiên,” là “kẻ chăn thuê” mà thôi. Thật vậy, những kẻ có chức quyền mà tránh né trách nhiệm, chỉ muốn dùng quyền mà hành người khác, đã bị Chúa Giêsu nguyền rủa là “đồ khốn” (Mt 23:13-30; Mc 12:40; Lc 11:39-48; Lc 20:47) và “đồ mãng xà.” (Mt 23:33-36; Lc 11:49-51) Sự thẳng thắn là điều khiến người ta tránh né vì sợ.

Biết rõ Thầy Giêsu đã phục sinh, ông Phêrô được đầy Thánh Thần nên ông nói mà không sợ hãi: “Thưa quý vị thủ lãnh trong dân và quý vị kỳ mục, hôm nay chúng tôi bị thẩm vấn về việc lành chúng tôi đã làm cho một người tàn tật, về cách thức người ấy đã được cứu chữa. Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Israel biết cho rằng: nhân danh chính Đức Giêsu Kitô, người Nadarét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị.” (Cv 4:8-10) Phêrô bây giờ khác hẳn lúc trước, hết chết khiếp, mạnh dạn bảo vệ sự thật và công lý. Đã có lần ĐGH Phanxicô đã mạnh mẽ nói rằng Giáo Hội phải “nói thẳng, nói thật” chứ không được che giấu lẫn nhau.

Theo ý Thánh Vịnh 118:22, ông Phêrô cho biết: “Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ. Vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” (Cv 4:11-12)

Sinh – tử là hai đầu mối. Sinh ra để chết, và chết đi để sống lại. Chúa Giêsu đã trải qua “hành trình kỳ diệu” đó. Là tội nhân nhưng chúng ta lại được hưởng ơn tha thứ và được quyền sống – không chỉ sống đời tạm bợ này mà còn được trường sinh bất tử. Đặc quyền quá lớn, ngỡ như trong mơ, nhưng đó là sự thật minh nhiên, không mơ hồ hoặc là chiếc bánh vẽ. Vì thế, Thánh Vịnh gia tha thiết nhắn nhủ: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (Tv 118:1 và 29) Chắc chắn phải như vậy!

Chắc hẳn là điều minh nhiên và thực sự khôn ngoan nếu biết tạ ơn Chúa, như Thánh Vịnh gia xác định: “Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời thì hơn tin cậy ở người trần gian. Cậy vào thần thế vua quan, chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời.” (Tv 118:8-9) Mỗi lần ngủ là chúng ta “chết lâm sàng,” giống như “chết giả” để có thể trải nghiệm sự chết vậy. Do đó, mỗi khi thức dậy, chúng ta lại trải nghiệm sự sống lại. Thật là kỳ diệu, vì thế hãy hân hoan dâng lời cảm tạ Thiên Chúa: “Lạy Chúa, chính Ngài là Thiên Chúa của con, xin dâng Ngài muôn câu cảm tạ; lạy Thiên Chúa con thờ, xin dâng Ngài vạn tiếng tôn vinh.” (Tv 118:28)

Thánh Gioan là người si tình nên thích nói về tình yêu và nhìn theo lăng kính tình yêu: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người.” (1 Ga 3:1) Giả sử có người bất ngờ hỏi chúng ta là ai, liệu chúng ta có thể mạnh dạn xác nhận mình là con của Thiên Chúa hay không? Có vẻ đơn giản và dễ dàng, nhưng thật ra không phải như vậy, nếu nói bằng cả con người của mình.

Có lẽ chẳng oan khi nói rằng chúng ta cũng có “máu” đa nghi như Tào Tháo hoặc “cứng cỏi” như Tôma, không nhiều thì ít. Thế đấy, nói tin mà vẫn “hình như…” vì chưa thực sự tin thật. Thánh Gioan nói thêm: “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.” (1 Ga 3:2) Vô cùng kỳ diệu. Hiện nay chúng ta không thể nào tưởng tượng theo trí tuệ loài người. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, nhiều người được thấy Ngài mà vẫn không thể nhận ra Ngài, mặc dù Ngài vẫn là chính Ngài như khi chưa chịu chết. Rất quen mà rất lạ, rất lạ mà rất quen. Phàm ngôn không thể diễn tả đủ ý được!

Trình thuật Ga 10:11-18 rất ngắn gọn, lời chính Chúa Giêsu nói chứ không có lời dẫn, nhưng đầy đủ chi tiết cần thiết. Ngài xác nhận và phân tích: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.”

Tầm quan trọng của việc quên mình để dấn thân phục vụ được và quên mình được nhấn mạnh qua hai lần Chúa Giêsu xác nhận Ngài là Mục Tử nhân lành và hai lần đề cập việc hy sinh mạng sống. Việt Nam chúng ta có một tấm gương sáng mục tử là Lm P.X. Trương Bửu Diệp (1897-1946), qua việc thí mạng vì đàn chiên. Theo mức bình thường, quên mình để dấn thân phục vụ cũng là một dạng “thí mạng” – nhưng là dạng “nhẹ” mà thôi.

Như muốn “mở rộng” hơn về vấn đề chức quyền và trách nhiệm truyền giáo, Chúa Giêsu nói: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.” (Ga 10:16-18)

Chúa Giêsu nhắc lại hai quyền của Ngài, khác hẳn cách chúng ta muốn. Ngài nói đến QUYỀN nhưng Ngài không đề cập LỢI, hoàn toàn khác hẳn với “sở thích” của phàm nhân. Nếu thực sự nghiêm túc xét mình thì thấy thật đáng xấu hổ, bởi vì chúng ta chỉ nói hay mà làm chẳng ra gì, chưa muốn làm đã chờ thưởng, đòi chức to quyền cao nhưng chẳng muốn “thí” thứ gì ráo trọi!

Lạy Thiên Chúa, xin thay dạ đổi lòng và thay máu cho chúng con, để chúng con dám nói và dám làm – làm tới cùng chứ không lẻo mép, thực sự “phục vụ chứ không hưởng thụ,” (Mt 20:28; Mc 10:45) đồng thời cũng dám tự trào – chê trách chính mình, để được biến đổi nhờ lòng thương xót của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

TRỞ NÊN MỤC TỬ, LỜI MỜI GỌI TẤT CẢ MỌI NGƯỜI

Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương

Hồi ấy, vua Đường Thái Tông, là hoàng đế đang thống lĩnh một vương quốc cường thịnh với nhiều nước chư hầu. Ông có một công chúa tài sắc vẹn toàn, đang đến tuổi cập kê. Do đó, nhiều vua chư hầu cứ ngấp nghé, muốn đến cầu hôn. Hoàng đế không biết chọn ai, mới nghĩ ra một cuộc thi tài. Trong cuộc thi này, hoàng đế đặt ra nhiều thách đố.

Một trong những thách đố đó là hoàng đế đem nhốt chung cùng một chuồng 100 con chiên mẹ và 100 con chiên con. Các người dự thi làm cách nào mau chóng phân biệt được chiên con nào thuộc về mẹ nào. Có một vị vua thông minh đã nghĩ ra một cách thật đơn giản ông bắt từng con chiên con ra giữa sân khi nó kêu, mẹ nó nghe tiếng sẽ tìm cách thoát ra đến với con, mẹ con gặp nhau vui sướng. Vị vua này đã thắng cuộc.

Chúng ta chắc chắn đã biết rõ tại sao chiên con lại tìm được chiên mẹ. Chiên mẹ biết tiếng của chiên con, chiên con biết hơi chiên mẹ, sữa chiên mẹ khiến chiên con nhận ra mẹ của mình. Trong ngày Chúa nhật IV Phục Sinh, Giáo hội mừng lễ Chúa Chiên Lành nhằm giới thiệu về Mục Tử Giê-su nhân lành như muốn mời gọi chúng ta noi gương bắt chước hình ảnh người Mục tử Giê-su cũng như cầu nguyện để có thêm nhiều mục tử nhân lành cho một thế giới đây đó đang tồn tại văn hoá sự chết và lối sống gian ác.

1/ Đức Giê-su, Mục tử nhân lành mẫu gương cho chúng ta.

Đọc Tin mừng Chúa nhật IV Phục Sinh hôm nay, chúng ta được Đức Giê-su tự giới thiệu: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10,11). Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Nhập Thể đã nhận mình là người Mục tử đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. Trước khi trở thành Mục tử để chăm sóc đoàn chiên, là các ki-tô hữu, Đức Giê-su phải hiện diện với đoàn chiên qua việc nhập thể và nhập thế. Sự hiện diện như là cách thức đầu tiên để tiếp cận và gặp gỡ đoàn chiên. Người mục tử sẽ khó lòng để chăm sóc và dẫn dắt đoàn chiên nếu thiếu đi sự hiện diện bằng thể lý. Vì có hiện diện, có gặp gỡ mới dễ nhận biết nhau và nghe được tiếng của nhau. Chính vì thế, Chúa Giê-su mới nói: “Tôi chính là Mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi”. (c.14). Làm sao biết được chiên nếu không hiện diện và gặp gỡ chiên một cách trực tiếp. Khi biết chiên và chiên biết mình, người mục tử dễ dàng dẫn dắt và chăm sóc. Khi mục tử và chiên thuộc về nhau thì dễ dàng nhận ra nhau và sống chết cho nhau chứ không như người làm thuê. Không biết chiên và chiên không biết mình thì chỉ là kẻ trộm hoặc là kẻ chăn thuê: “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên.” (c.12-13). Quả thật, hiểu biết nhau là cách thức cần thiết trong tương quan giữa người với người. Hiểu biết nhau là sẵn sàng cộng tác với nhau. Hiểu biết nhau là sẵn sàng trao ban cho nhau. Hiểu biết nhau là chấp nhận hy sinh cho nhau. Mục tử hiểu biết chiên của mình dễ dàng chăm sóc từng con một là vậy.

Mục tử Giê-su nhân lành không dừng lại ở việc hiện diện và hiểu biết đoàn chiên, Ngài còn để lại mẫu gương về đời sống quan tâm, chăm sóc và gần gũi với đoàn chiên. Giê-su luôn chủ động đi bước trước để đến với các con chiên tội lỗi và thu thuế. Nơi hình ảnh Gia-kêu, một người thu thuế và bị xem là kẻ tội lỗi, chính Mục tử Giê-su đã đích thân ngỏ lời trước để vào nhà Gia-kêu. “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (Lc 19, 5). Một cử chỉ hết sức gần gũi và đầy lòng nhân ái của người Mục Tử Giê-su. Nhẹ nhàng và thân thiện là nét cần thiết cho người mục tử đối với những người tội lỗi. Bên cạnh đó, Mục tử Giê-su luôn luôn chạnh lòng thương đối với dân chúng. “…Đức Chúa Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Đức Chúa Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ Người nói với các môn đệ rằng: ”Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy các con hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Mt 9,35-38). Hình ảnh Giê-su, Người Mục Tử nhân lành đã thể hiện rất rõ nơi lời giảng dạy và cung cách sống của Ngài.

Hơn nữa, Giê-su Ki-tô còn là Mục tử nhân lành dám hy sinh mạng sống của mình cho đoàn chiên. Điều này chính Ngài đã khẳng định: “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên…Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.”(c.11.14-15). Không chỉ hiện diện, hiểu biết chiên của mình, người Mục Tử Giê-su đã chấp nhận hy sinh mạng sống qua cái chết đau đớn trên Thánh Giá vì yêu thương nhân loại. Quả thật, yêu ai không chỉ hiện diện, hiểu biết, gặp gỡ nhưng chúng ta phải trao ban, ngay cả mạng sống mình cho người mình yêu.

Ngoài ra, Giê-su Mục tử nhân lành không chỉ dừng lại ở việc chăm sóc đoàn chiên của mình, nhưng Ngài còn hướng đến những con chiên lạc, những con chiên ngoài chuồng, tức là những người ngoại. “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử.”(c.16). Đức Giê-su đến trần gian không chỉ dành riêng cho dân riêng, cho những ai đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội nhưng Ngài đến để cứu độ toàn thể nhân loại. Ơn cứu độ của Chúa là ơn cứu độ phổ quát là vậy. Mọi người có thể được đón nhận ơn cứu độ nếu tin vào Đức Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ duy nhất.

2/ Trở nên mục tử, lời mời gọi tất cả mọi người

Là những người đã được đón nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta được mời gọi trở nên những ‘mục tử’ truyền giáo nơi môi trường sống hằng ngày. Như Mục Tử Giê-su nhân lành, chúng ta được mời gọi bước vào cuộc sống với biết bao nhiêu cuộc gặp gỡ và đối thoại với đủ hạng người ở khắp mọi nơi. Để cuộc gặp gỡ và đối thoại trở nên hiệu quả và sinh ích, mỗi chúng ta đòi buộc gắn chặt với Giê-su hằng ngày trong từng giây phút để kín múc được sức mạnh và nguồn sống từ Ngài. Bài đọc I đã minh định rằng ơn cứu độ chỉ đến và xuất phát từ Đức Giê-su nhân lành:“…Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.” (Cv 4,11-12). Nơi bài đọc II, Thánh Gioan Tông Đồ cũng nhắc nhở chúng ta như sau: “Anh em thân mến, anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa.” (1 Ga 3,1). Thật vậy, khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và trở thành thụ tạo mới. Chúng ta được lãnh nhận 3 sứ vụ phổ quát là ngôn sứ, tư tế và vương đế, nên chúng ta có trách nhiệm trở nên ‘mục tử’ phổ quát cho anh chị em chung quanh. Như Mục tử Giê-su, chúng ta hãy ý thức sự hiện diện đầy yêu thương và dễ mến trong môi trường sống của chúng ta. Mục tử là người hiện diện với tha nhân. Hiện diện để trao ban. Hiện diện để đối thoại và gặp gỡ. Hiện diện để chúc bình an và niềm vui. Hiện diện để chữa lành và trấn an. Như thế, nơi linh mục, mục tử hiện diện đối với đoàn chiên nơi các cộng đoàn giáo xứ, giáo họ; nơi Bố mẹ, là mục tử hiện diện với con cái trong gia đình; nơi thầy cô giáo là mục tử hiện diện với học sinh nơi trường lớp; nơi giám đốc hay quản lý là mục tử hiện diện với nhân viên nơi công xướng; nơi Giám mục, mục tử hiện diện với giáo phận; nơi Giáo hoàng, mục tử hiện diện với Giáo hội,…

Mặt khác, giữa môi trường đầy dẫy những sự vô cảm, vô tâm, ki-tô hữu được mời gọi hãy trở nên những mục tử hiểu biết, gần gũi, quan tâm và chăm sóc ‘chiên’, là tha nhân. Nhờ đó, những ‘con chiên’, nhất là chiên lạc, chiên đau khổ, chiên bệnh tật, chiên tội lỗi, chiên khô khan, được đón nhận, gặp gỡ và ủi an. Như Mục Tử Giê-su nhân lành, vì yêu thương, chúng ta, những mục tử cũng chấp nhận hy sinh bản thân mình để phục vụ và trao ban cho ‘chiên’ trong gia đình, nơi trường học, nơi chợ búa, nơi bệnh viện, nơi đồng áng, nơi công ty,…Đặc biệt, như Đức Giê-su, Mục tử nhân lành đã đi tìm những con chiên chưa thuộc đàn, thì chúng ta, những mục tử của Ngài, cũng cố gắng ra đi dấn thân đến với những anh chị em chưa nhận biết Chúa để gặp gỡ, tiếp cận và loan báo Tin mừng.

Tóm lại, trong ngày lễ Chúa Chiên Lành, chúng ta không chỉ dừng lại ở việc cầu nguyện cho ơn gọi thiên triệu, ơn gọi linh mục trên toàn thế giới, mà còn được mời gọi học nơi gương bắt chước Giê-su, Mục Tử nhân lành để trở nên những ‘mục tử’ truyền giáo trong bổn phận mọi nơi mọi lúc cho mọi người. Xin Chúa Phục Sinh đồng hành và ban ơn bình an để mỗi chúng ta sống xứng đáng là con cái của Chúa hầu trở nên những chứng tá Tin mừng cho mọi anh chị em chung quanh. Amen.

Về mục lục

NÊN MỤC TỬ NHÂN LÀNH NOI GƯƠNG ĐỨC GIÊSU

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Ga 10,11-18

(11) Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. (12) Người làm thuê vì không phải là Mục Tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn. (13) Vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên. (14) Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi. (15) Như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. (16) Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. (17) Sỡ dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. (18) Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh chính mình. Tôi có quyền hy sinh và lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh Cha tôi mà tôi đã nhận được.

  1. Ý CHÍNH: Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã tự ví mình như vị Mục Tử nhân lành. Sự nhân lành của người Mục Tử được biểu lộ qua 3 hành động sau: Một là biết rõ từng con chiên và cũng được chiên nhận biết và đi theo. Hai là quan tâm đến cả đoàn chiên, nhất là những con chiên bị đau ốm, thương tích hay đi lạc đàn. Ba là sẵn sàng thí mạng mình đương đầu với sói rừng để bảo vệ đoàn chiên.
  2. CHÚ THÍCH:

C 11-13: + Tôi chính là: Đây là kiểu nói của Thiên Chúa khi mặc khải danh xưng: “Ta là Đấng Hiện Hữu” (Xh 3,14). Đức Giê-su cũng nhiều lần dùng kiểu nói này: “Tôi Hằng Hữu”(Ga 8,24.28); “Chính tôi là Bánh trường sinh” (Ga 6,35), “Tôi là Bánh từ trời xuống” (Ga 6,41) ; “Tôi là ánh sáng thế gian” (Ga 8,12 ; 9,5); “Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7.9) ; “Tôi chính là Mục tử nhân lành” (Ga 10,11.14) ; “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25) ; “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6) ; “Thầy là cây nho thật… Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15,1.5). + Mục Tử nhân lành: Mục Tử là người chăn chiên. Mục tử là hình ảnh diễn tả tình thương bao la của Thiên Chúa đối với dân Ít-ra-en như lời tuyên sấm của ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm. Con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về. Con nào bị thương, Ta sẽ băng bó ;.Con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh. Con nào béo mập, con nào khỏe mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed 34,15-16). Thiên Chúa cũng dùng một số mục tử để chăn dắt dân Ít-ra-en như Mô-sê (x. Is 63,11), Đa-vít (x. Tv 78,70-71). Có hai loại mục tử là mục tử tốt và mục tử xấu (x. Gr 10,21). Thiên Chúa hứa ban một mục tử dòng dõi Đa-vít, luôn làm đẹp lòng Người sẽ đến (x. Gr 23,4-6) là Đức Giê-su (x Ga 10,11). + Hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên: Đây là khác biệt quan trọng giữa mục tử chân chính với kẻ chăn thuê. Hy sinh mạng sống cho người mình yêu là dấu hiệu của một tình yêu tột đỉnh (x. Ga 15,13). + Người làm thuê không phải là mục tử: Người chăn thuê ám chỉ các đầu mục Do thái như các kinh sư, Pha-ri-sêu giả hình (x. Mt 23,2), các ngôn sứ giả (x. Mt 24,11). Họ thường có thái độ hèn nhát và vô trách nhiệm (x. Ga,12-13), chỉ lo tìm tư lợi, dẫn đường sai lạc, nói mà không làm và đạo đức giả (x. Mt 23,14.16.25.28).

C 14-16: + Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi: Từ ngữ “biết” trong Kinh Thánh không những là sự hiểu biết về mặt kiến thức, mà còn nói lên mối quan hệ mật thiết: Biết điều gì nghĩa là có kinh nghiệm cụ thể về điều đó. Biết người nào là có quan hệ mật thiết với người đó (x. Lc 1,34). Đức Giê-su biết các tín hữu là chiên của Người, và họ cũng biết Người là Mục Tử của họ và họ luôn vâng nghe lời Người. + Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này: Sự quan tâm của Mục Tử nhân lành còn phổ biến đến hết mọi dân tộc qua các môn đệ của Người. Sứ mạng loan Tin Mừng và làm chứng cho Người được trao cho các môn đệ là đại diện của Giáo Hội và cũng là sứ mạng của mỗi tín hữu (x. Mt 28,19; Cv 1,8). + Sẽ chỉ có một đoàn chiên và một Mục Tử: Nhờ sự chết của Đức Giê-su trên cây thập giá, biên giới ngăn cách giữa Do Thái và dân ngoại đã bị phá hủy (x. Gl 3,28). Từ nay mọi người thuộc mọi dân tộc đều có thể gia nhập vào đoàn chiên của Chúa Giê-su, vì Người đã đổ máu ra để cứu chuộc toàn thể nhân loại (x. 1 Tm 2,4).

C 17-18: + Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi: Khi hiển dung trên quả núi cao, Đức Giê-su đã được Chúa Cha công nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17;17,5).. + Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình: Việc Đức Giê-su chịu chết không phải do ý muốn của các đầu mục Do Thái, do ý của tổng trấn Phi-la-tô, Giu-đa, quân lính và dân chúng… Nhưng là do Người tự ý chấp nhận vâng phục thánh ý Chúa Cha (x. Mt 26,39) vào “GIỜ” Con Người được tôn vinh (x. Ga 12,23). + Để rồi lấy lại: Đức Giê-su đã báo cho các môn đệ biết trước: Người sẽ đi lên Giê-ru-sa-lem, chịu đau khổ, sẽ bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại (x. Mt 16,21), nhờ quyền năng của Thiên Chúa (x. Cv 2,32-33).

  1. CÂU HỎI: 1) Mục tử là gì? 2) Ba đặc điểm của người mục tử tốt lành là gì? 3) Đức Giê-su nhiều lần tự khẳng định về mình qua những câu nào trong Tin Mừng? 4) Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm Thiên Chúa chính là Mục Tử nhân lành của dân Ít-ra-en trong câu nào? 5) Trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã đặt những vị nào làm mục tử để thay Ngài chăn dắt dân Ít-ra-en? 6) Khác biệt quan trọng nhất giữa mục tử tốt với kẻ chăn thuê là gì? 7) Đức Giê-su quở trách các đầu mục dân Do thái vốn là những kẻ chăn thuê vì những tội nào? 8) Ý nghĩa sâu xa của từ “biết” trong Thánh Kinh là gì? 9) Tin mừng ghi lại hai lần Đức Giê-su được Chúa Cha xác nhận là Con yêu dấu như thế nào? 10) Đức Giê-su đã tình nguyện chọn thi hành sứ mệnh cứu thế bằng con đường chịu khổ nạn theo thánh ý Chúa Cha trong câu nói nào?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚa: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) QUO VADIS ? – THẦY ĐI ĐÂU ?

Thời hoàng đế NÊ-RÔNG ra tay bách hại đạo công giáo. Thủ đô Rô-ma ngập tràn máu lửa: biết bao tín hữu đã bị giết chết dưới bàn tay của bạo chúa tàn bạo điên loạn.

Giáo hội non trẻ do Đức Giê-su thiết lập như sắp bị tan tác tiêu diệt. Phê-rô là trụ cột của Giáo hội. Các tín hữu đã tha thiết xin ông trốn khỏi Rô-ma, để có thể tiếp tục lãnh đạo đoàn chiên. Đề nghị này khiến tông đồ Phê-rô phân vânm vì đoàn chiên chắc sẽ bị nao núng nếu mất đi chủ chiên? Thầy Giê-su đã chẳng khuyên các môn đệ: khi người ta bắt chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác đó sao? Thế là Phê-rô đã mang theo bị gậy và hóa trang để trốn ra khỏi thành. Nhưng rồi ông lại gặp Chúa Giê-su Phục Sinh đang đi vào thành nên ông hỏi:

– Quo vadis, Domine ? Lạy Chúa, Chúa đi đâu vậy ?

Chúa Giê-su Phục Sinh trả lời :

– Ta đi vào trong thành để chịu đóng đinh thêm một lần nữa. Nói xong Chúa biến mất.

Hiểu ý Thầy, nên Phê-rô đã quay trở vào thành Rô-ma để động viên an ủi đoàn chiên đang bị bách hại. Sau cùng ông đã bị bắt và bị đóng đanh ngược đầu để nêu gương chết vì lòng mến Chúa cho đoàn chiên.

2) MẸ TÌNH NGUYỆN CHẾT THAY CHO CON

Trên một tạp chí y học ở Ac-hen-ti-na, bác sĩ GIĂNG COÓC-TÊ (Jean Cortez) đã kể lại một trường hợp đặc biệt mà chính ông chứng kiến. Ông đang điều trị cho một bé gái tên là Ăng-gien (Angel). Em bị ung thư bao tử, một bệnh rất hiếm gặp nơi trẻ em. Sau khi giải phẫu và điều trị đủ cách, ông đành phải báo tin buồn cho bà mẹ của bé về sự bất lực của mình trước căn bệnh hiểm nghèo này, và tuyên bố bé Ăng-gien đã chết! Bà Ma-ri-a mẹ em bé gần như hóa điên khi nghe tin dữ ấy. Bà nhất quyết không cho ai đụng vào thi thể của con, và bà quỳ cầu nguyện nhiều giờ bên giường của con. Bác sĩ Coóc-tê rất xúc động khi nghe bà cầu xin được chết thay cho con. Ông cùng mọi người im lặng ra ngoài để bà một mình với đứa con đã chết.

Nửa tiếng đồng hồ sau, mọi người lại vào phòng và rất ngạc nhiên khi thấy bé Ăng-gien bây giờ đã khỏe lại. Gương mặt em rạng rỡ vui vẻ như không bị bệnh tật gì. Em đang ngồi trên giường, còn mẹ em thì nằm gục bên cạnh giường và sắp chết. Bà thều thào nói với bác sĩ rằng: “Thưa bác sĩ, tôi rất mừng được Chúa thương nhậm lời cầu của tôi là cho tôi được chịu bệnh thay cho con tôi!”. Bấy giờ bác sĩ Coóc-tê lập tức cho tái xét nghiệm và kết quả là bé Ăng-gien đã hoàn toàn bình phục, còn bà Ma-ri-a thì lại bị mắc chứng bệnh bao tử của em mà trước đó bà chưa hề mắc phải. Thân nhân xúm lại xung quanh bà Ma-ri-a để động viên an ủi bà và hứa sẽ nhận bé Ăng-gien làm con và sẽ chăm sóc nuôi dạy bé nên người tốt sau này. Vài giờ sau bà Ma-ri-a đã ra đi trong bình an. Bà được mọi người kính phục vì tình mẫu tử cao quý bà dành cho con.

Bác sĩ Coóc-tê kết luận: “Tôi không thể giải thích tại sao lại có thể xảy ra như thế được! Vì rõ ràng trước đó cô bé Ăng-gien đã chết. Có thể có một thần lực siêu phàm nào đó đã tác động và hoán chuyển căn bệnh quái ác từ đứa con sang bà mẹ!”.

3) MUC TỬ NHÂN LÀNH HY SINH CHỊU CHẾT VÌ ĐOÀN CHIÊN

Đức cha RÔ-MÊ-RÔ, Tổng Giám Mục San Salvador ở Trung Mỹ đã cương quyết phản đối chính phủ đã vi phạm nhân quyền, khi ủng hộ giới địa chủ và đại tư sản để áp bức bóc lột nông dân, mà tuyệt đại đa số là người Công Giáo (98%). Đức cha đã can đảm đứng về phía nông dân để bênh vực quyền lợi cho họ, dù biết rằng hành động như thế có thể đưa ngài đến chỗ bị cầm tù và bị giết chết nữa. Nhưng, giống như Chúa Giê-su, vị Mục Tử nhân lành, Đức cha Rô-mê-rô đã sẵn sàng chịu chết, hiến mạng sống mình để “đoàn chiên được sống và sống dồi dào”.

Ngày 24/3/1980, một tay súng chuyên bắn thuê đã hạ sát Đức cha Rô-mê-rô trong lúc ngài đang cử hành thánh lễ trong nhà thờ với đoàn chiên, khiến ngài đã tắt thở ngay tại chỗ. Chỉ trước đó vài phút, ngài đã giảng một bài thật hùng hồn về niềm hy vọng tràn đầy vào hạnh phúc vĩnh cửu của con cái Chúa; trong đó, ngài tha thiết khuyên giáo dân hãy hy sinh phục vụ tha nhân theo mẫu gương hy sinh của Chúa Ki-tô.

Từ ngày Đức Tổng Giám Mục Ro-me-no tranh đấu đòi nhân quyền cho giáo dân bị áp bức, ngài đã ý thức rằng tính mạng của ngài đang bị đe dọa. Một lần kia ngài đã quả quyết với các phóng viên rằng: “Mặc dầu kẻ thù có giết chết tôi, tôi cũng sẽ “trỗi dậy” giữa dân của tôi”. Bởi vì Đức Tổng Giám Mục rất thương mến giáo dân của Ngài tại San Salvador, và chính vì thế, ngài đã sẵn sàng chịu chết để bênh vực quyền lợi cho họ. Ngài đã sống lời Chúa phán trong Tin Mừng hôm nay: “Ta là Mục Tử nhân lành, Mục Tử nhân lành đã hiến mạng sống mình vì đoàn chiên… Ta biết chiên của Ta và Ta hiến mạng sống vì chiên của Ta”.

4) MỤC TỬ NHÂN LÀNH HY SINH PHỤC VỤ ĐOÀN CHIÊN:

Vào năm 1870 theo lệnh của chính quyền Ha-wai, những người mắc bệnh phong cùi phải cách ly với mọi người để đến sống trên cù lao Mo-lo-kai. Tàu của nhà nước mỗi tuần chỉ tiếp tế cho những người ở đây một lần. Những người phong hủi sống ở đó thiếu thuốc thang, thiếu sự chăm sóc, nhất là thiếu an ủi và nâng đỡ đặc biệt là về phương diện tôn giáo. Khi vừa nghe thấy tin này, được lòng mến Chúa thúc đẩy, cha Damien dòng Thánh Tâm người nước Bỉ, đã tình nguyện xin Đức Giám mục Giáo phận cho phép ngài được ra sống chung với những người xấu số đó. Thấy Đức Giám mục có vẻ lưỡng lự, cha Damien đã quỳ xuống đất thưa rằng:

– Thưa Đức cha, mặc dầu con còn trẻ, nhưng khi khoác lên mình chiếc áo dòng đen nhà tu, con đã trở nên những người của Chúa, con đã sẵn sàng chết cho các linh hồn theo gương Chúa Giêsu.

Sau khi được phép đức Giám mục Giáo phận, cha Damien lên đường ra đi, đến cù lao Molokai để sống chung với anh em phong hủi. Cha đã sống với họ 16 năm: ra vào thăm nom, tập cho họ nghề nghiệp, dạy họ đọc và chữ viết, rửa tội, giải tội, xức dầu thánh. Sau một thời gian vì quá gần gũi với những người cùi, cha đã lây bệnh. Bác sĩ Woons viết rằng: cha Damien đã khác hẳn mười năm trước đây. Mặt mũi giờ đây bị rộp và sưng lên. Hai tai dày cộm và xệ xuống, các ngón tay đang lần lượt co quắp lại… cha đã trở nên giống các con chiên của cha: da trán sưng lên; hai tai phồng ra to; mũi, má, cổ tay đều bị hủi ăn.

Sau 16 năm sống trong hy sinh và bệnh nạn, cha Damien bị những vi trùng cùi đêm ngày tấn công, và sau hết phải ngã gục và chết giữa con chiên.

Chúa Giêsu đã từ trời xuống thế để ở với loài người. Chúa còn chết cho loài người.

Cha Damien đã chết giữa những con chiên mắc bệnh phong hủi của cha, để một phần nào nói lên được điều Chúa đã nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Mục tử tốt lành liều mạng sống vì con chiên”.

NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA CÁC MỤC TỬ THỜI ĐẠI MỚI:

Linh mục là người mục tử được Chúa trao sứ vụ chăn dắt đoàn chiên về phần linh hồn.

– “LINH MỤC, NGƯỜI LÀ AI?”: Văn hào Giu-ăng A-ri-a (Juan Arias) viết: “Lạy Chúa, Linh mục là ai? Đối với nhiều người: Ông ta là một người cô độc ích kỷ. Đối với nhiều người khác: Ông ta là thứ trai già vô tích sự, một nhân viên bàn giấy của tôn giáo”. Người nghèo tỏ vẻ bực bội khi thấy Linh mục hay tiếp xúc với người giàu có và rủa Linh mục là “đồ tư bản chết tiệt!”. Nếu linh mục hiến thân chuyên lo phục vụ người nghèo ít học, người bệnh tật, cô đơn… thì người ta lại ganh ghét và gọi Linh mục là “Đồ tả khuynh bần tiện!”.

Làm Linh mục thời đại ngày nay thật không đơn giản chút nào!

– “MỘT NGƯỜI LUÔN LUÔN SAI LẦM” (He is always wrong): Đây là tựa đề của một bài báo nhỏ nói lên sự cảm thông đối với các Linh mục là chủ chăn thời nay như sau:

* Giảng ngắn dưới 10 phút: “Ông Linh mục này lười không chịu dọn kỹ bài giảng!”.

* Giảng quá 20 phút:  “Ông ta là ưa nói dai và nói dài!”

* Nếu giảng với giọng bình thường: “Ông ta có biệt tài dỗ ngủ cho người bị khó ngủ!”

* Nếu giảng hùng hồn: “Ông ta la lối om sòm thật bất kính với Chúa đang ngự trong nhà chầu!”

* Nếu năng đến thăm các gia đình trong giáo xứ: “Ông ta chẳng có việc gì để làm, suốt ngày la cà hết nhà này sang nhà nọ để kiếm chác! chẳng mấy khi thấy ông ta có mặt ở nhà để tiếp xúc với các người cần gặp hay để đi thăm kẻ liệt!”.

* Nếu ít đi thăm: “Ông ta chẳng quan tâm để biết con chiên của mình sống chết ra sao!”.

* Nếu linh mục còn trẻ: “Ông ta mới ra trường nên tay nghề còn non và chưa có kinh nghiệm mục vụ!”.

* Nếu đã cao niên: “Một lão già lẩm cẩm hủ lậu! Ông ta nên sớm về hưu đi là vừa!”

Thật đúng như người đời thường nói: “Ở sao cho vừa lòng người: Ở rộng người cười ở hẹp người chê”. Làm Linh mục thật không dễ chút nào phải không các bạn ?”.

  1. THẢO LUẬN: Bạn sẽ làm gì để trở nên chiên ngoan trong đoàn chiên do các mục tử được Chúa sai đến chăm sóc?
  2. SUY NIỆM:

1) Về hai loại mục tử trong Hội Thánh:

Mục tử là người lãnh đạo và chăn dắt đoàn chiên. Trong Tin mừng hôm nay Đức Giê-su đã phân biệt hai loại mục tử là: mục tử chân chính và mục tử giả hiệu như sau:

Mục tử chân chính là chủ chiên thực sự của đoàn chiên noi gương Đức Giê-su như Người khẳng định: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (10,14). Đức Giê-su đã hy sinh quên mình cho đoàn chiên: Người đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời (x Mt 13,1-9), làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế, sẵn sàng chịu chết trên cây thập tự để đền tội thay cho đoàn chiên như Người đã nói: «Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên» (Ga 10,11). Điều Đức Giê-su luôn quan tâm là lo cho «chiên được sống và sống dồi dào» (Ga 10,10). Sống dồi dào về thể xác bằng cách chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền cho dân (x. Mt 8,16-17), xua trừ ma quỷ (x. Mt 9,32-34), nhân bánh ra nhiều để nuôi đám đông đang đói (x. Mt 14,15-21). Dồi dào về tinh thần như nhiệt thành trong sứ vụ rao giảng Tin mừng Nước Trời, thiết lập bảy phép bí tích, bao dung tha thứ tội lỗi, rửa chân phục vụ môn đệ, đổ Thần Khí trên các tông đồ… noi gương Mục Tử nhân lành Giê-su.

Mục tử chăn thuê, ám chỉ các đầu mục dân Do Thái đương thời gồm các kinh sư, người Pha-ri-sêu và các tư tế phục vụ Đền thờ. Những người này không phải là chủ chiên thực sự nên «không thiết gì đến chiên» (10,13). Họ tỏ thái độ vô trách nhiệm trước sự an nguy của đoàn chiên: «Khi thấy sói đến, họ bỏ chiên mà chạy», để «sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn» (10,12). Đối với hạng mục tử này, đoàn chiên chỉ có giá trị lợi dụng để phục vụ cho họ, như ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm lời Đức Chúa cáo trách các mục tử chăn thuê của Ít-ra-en như sau: «Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Sữa chiên thì các ngươi uống, len thì các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, nhưng đoàn chiên thì lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc» (Ed 34,2-4).

2) Mục tử lý tưởng cho Hội Thánh hôm nay:

Đức Thánh Cha Phan-xi-cô quan niệm mục tử lý tưởng cho Hội Thánh hôm nay phải là người có “mùi chiên”, gần gũi với con chiên; Là người cha, người anh em với sự hiền dịu, kiên nhẫn và đầy lòng thương xót; Là người có lối sống khó nghèo, sự khó nghèo nội tâm cũng như khó nghèo bề ngoài như sống đơn giản khắc khổ trong cuộc sống; Là những người không có “tâm lý của các ông hoàng”; Là những người không có tham vọng làm phu quân của Giáo Hội; Là những người có khả năng thức tỉnh đoàn chiên được giao phó, và quan tâm duy trì sự hiệp nhất, canh giữ đoàn chiên, chú ý tới các hiểm nguy có thể đe dọa đoàn chiên, làm cho niềm hy vọng được lớn lên.

Ước gì các Mục Tử luôn có mặt trời và ánh sáng trong trái tim mình. Là những người có khả năng hỗ trợ Thiên Chúa nơi dân Người, với tình yêu thương và lòng kiên nhẫn.

Cuối cùng để chu toàn sứ vụ chăn dắt, vị mục tử có ba vị trí trong đoàn chiên như sau: Một là đi phía trước để dẫn đường; Hai là đi giữa để duy trì sự hiệp nhất và giữ vững tinh thần của đoàn chiên; Ba là đi phía sau để tránh cho chiên khỏi bị tụt hậu, và tạo điều kiện cho chiên đánh hơi hầu tìm ra hướng đi mới cho đoàn.

3) Ngày Thế giới Cầu Nguyện Cho Ơn Thiên Triệu:

Hiện nay trên thế giới nhất là tại các nước Âu Mỹ đang thiếu ơn gọi linh mục và tu sĩ cách trầm trọng. Nhiều nhà thờ không có linh mục coi sóc, nhiều tu viện to lớn bị bỏ hoang vì không còn tu sĩ trẻ tiếp nối, nên Giáo Hội đã chọn ngày Chúa Nhật 4 Phục Sinh làm ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Ơn Thiên Triệu.

Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng thiếu ơn gọi này như sau:

– Một là vì những gương mù gương xấu từ hàng giáo sĩ và tu sĩ: thái độ sống thiếu khiêm tốn, thiếu đạo đức, thiếu khôn ngoan, thiếu lịch sự, thiếu nhân bản và thiếu cả bác ái của một số linh mục và tu sĩ, nên ít được mến phục và đi theo con đường này.

– Hai là thiếu sự cảm thông và cộng tác với các vị chủ chăn nơi các tín hữu.

– Ba là thiếu cầu nguyện cho ơn thiên triệu như lời Chúa Giê-su: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy anh em hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người” (Lc 10:2).

4) Cụ thể chúng ta nên làm gì?

a) Đối với các linh mục tu sĩ:

– Hãy luôn khiêm tốn yêu thương thể hiện qua thái độ lịch sự, vui vẻ và luôn mỉm cười mỗi khi có dịp tiếp xúc với tha nhân.

– Tránh than vãn về các nỗi khổ gặp phải trong đời tu khi nói chuyện với các bạn trẻ.

– Nhắc nhở cộng đoàn năng cầu nguyện cho ơn thiên triệu.

– Nếu biết bạn trẻ nào có ý muốn dâng mình cho Chúa, hãy đến thăm, trò chuyện và giải thích cho họ hiểu biết thêm về ý nghĩa và giá trị của đời tu…

b) Đối với những người đang sống đời hôn nhân gia đình:

– Hãy năng cầu xin Chúa giúp con cháu mình nhận ra ơn Chúa kêu gọi và mau mắn đáp lại.

– Tránh phê bình, chỉ trích, nói hành nói xấu các chủ chăn như Giám Mục, linh mục, và tu sĩ.

– Tham gia vào hội Bảo Trợ ơn gọi linh mục tu sĩ bằng lời cầu nguyện và quảng đại đóng góp tài chánh hằng năm để ủng hộ cho ơn thiên triệu.

5. CẦU NGUYỆN:

LẠY CHÚA GIÊ-SU.

Xin ban cho chúng con những linh mục quảng đại, hy sinh phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân.

Xin ban cho chúng con những linh mục có trái tim biết yêu thương bằng tình yêu của Chúa, một trái tim mở rộng đón nhận mọi người, nhất là những người đau khổ bất hạnh.

Xin ban cho chúng con những linh mục có đức tin vững mạnh, luôn sống kết hiệp mật thiết với Chúa, để giúp chúng con gặp được Chúa.

Xin ban cho chúng con những linh mục biết nhiệt tình rao giảng Lời Chúa, có sức làm bùng cháy ngọn lửa yêu thương trong lòng chúng con, giúp chúng con thêm đức tin để nhìn thấy Chúa hiện thân trong mọi người nhất là những người nghèo khổ và sẵn sàng phục vụ họ.

Cuối cùng xin Chúa ban cho chúng con những linh mục là những chủ chăn tốt lành luôn biết noi gương Chúa: “Đến để cho chiên được sống và sống dồi dào”.- AMEN.

Về mục lục

CÓ TÂM CÓ TÀI

Lm. Jos DĐH.

Trải qua nhiều thăng trầm cuộc sống, xã hội hết sức nhạy bén trước lời hay ý đẹp: không gì quý hơn độc lập tự do. Cha ông ta sẽ sống mãi bởi truyền thống của sức mạnh “huynh đệ”: anh em như bát nước đầy, đói no đùm bọc vạn lần an tâm. Nhân loại mọi thời vẫn chú ý đến người có tâm, có tầm, dù lý thuyết, hình thức, có thể làm nặng nề các tương quan. Tính hợp lý, nội dung phù hợp, vẻ đẹp thực tế, bao giờ cũng là sự chọn lựa của người khôn ngoan đang sống tư tưởng: chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. (Nguyễn Du). Triết lý sống sẽ vô cùng phong phú, khi người ta biết nhìn nhận: chữ tài đi với chữ tai “một vần”, chữ tâm đi với chữ tầm cũng “một điệu”. Xã hội phát triển ổn thỏa từ kinh nghiệm: thất bại là mẹ thành công, gia đình hạnh phúc an vui, nhờ các thành viên ý thức việc sống có lý có tình.

Trong khi Chúa Giêsu nói: “Ta là mục tử tốt lành”, ngoài xã hội lại chủ trương thận trọng: ăn cây nào rào cây nấy, vì mấy ai đủ quảng đại, dám sống theo tinh thần người quân tử: nói ít làm nhiều ? Tại trần thế năm xưa, Đức Giêsu huấn luyện các học trò, đã sống thiên chức người mục tử “thí mạng sống vì chiên”. Câu hỏi nhiều thành phần xã hội hằng ưu tư: có phải tất cả những ai nghèo đều vì “dốt và lười biếng” ? Có phải những người giỏi, người tài, đều do họ thông minh và chăm chỉ ? Theo Đức Giêsu làm môn đệ, chúng ta hiểu thế nào, người “mục tử tốt lành, có chăng, đều phải thí mạng vì chiên” ? Ở đời, kẻ giầu sang phú quý, người tài sắc vẹn toàn, chúng ta vẫn gặp, nhưng đối tượng được chú ý hơn cả là người tốt, có việc làm tốt. Tất nhiên, sống có trách nhiệm, biết thực thi thánh ý Chúa, hay đã hết tình, hết mình, với giới luật yêu thương, hẳn ta sẽ không phải hổ thẹn trước lương tâm, trước hậu thế.

Có tâm, có tài, có là người tốt, là người có ích cho gia đình, xã hội, chẳng bao giờ vinh dự ấy, hạnh phúc ấy, ở trong ta, đến với ta, như phép lạ: cầu được ước thấy. Chẳng cá nhân nào, không gia đình nào: thành đạt, hạnh phúc, mà họ chưa qua giai đoạn đầu tư, tập luyện, chưa một lần té ngã sai phạm, kiên nhẫn sửa chữa, hầu đi đến thành công. Có tâm, tất có thành tựu, có đức, phúc tự đến. Trải qua kinh nghiệm của bản thân, tiền nhân chúng ta để lại không ít lời hay ý đẹp: tất cả các bậc sinh thành đều yêu con, song chỉ người có tâm, có đức, mới biết yêu cha yêu mẹ. Người có tâm, kẻ có đức, không phải là người trong mơ, người có tâm hồn quảng đại, kẻ luôn sống đức độ, cũng không phải là thần là thánh, nhưng hệ tại đủ ý thức: lòng người trung hậu, phúc tự tìm về.

Có tâm hồn đẹp, có tài cao trí rộng, đó là chuẩn mực người đời hằng mơ ước. Có tin Mục-tử Giêsu, có theo sát Mục-tử Giêsu, ta sẽ hiểu thế nào là Mục-tử tốt lành, dám sống chết vì đoàn chiên, và niềm tin sẽ dẫn ta đi tới cùng, không phải dẫn ta sống trong mơ, mà sống thật trong Đấng là Thầy, là Thiên Chúa cứu độ. “Tôi biết chiên Tôi, và chiên Tôi biết Tôi”, lời khẳng định ấy, nhắc tới sự gắn bó giữa Chủ chiên và đoàn chiên trong tình liên đới hiệp thông nên một với Chúa Cha Chúa Con và Thánh Thần. Ước muốn được gọi là người có tâm có tài, có tâm có tầm, chưa đủ, mà thiết nghĩ ta phải sống hết bổn phận, chu toàn hết trọng trách mình đang có. Vâng, có tâm, có tài, sẽ mãi mãi là sự phong phú đáng trân trọng: người ăn không hết, kẻ lần không ra ! Làm người ai cũng như ai, tài giỏi, khờ dại, thành đạt, hoặc bất hạnh, vẫn có chung một điểm dừng: sinh lão bệnh tử.

Cụ Nguyễn Du nhắc hậu thế: có tài mà cậy chi tài, tài tình chi lắm cho trời đất ghen. Vị Mục-tử Giêsu thì nói: “cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha, và Ta thí mạng sống vì đoàn chiên”. Đúng, mỗi người ở đời đều có khổ đau khác nhau, dù là linh mục tu sĩ, là cha là mẹ, là con cháu, đều có chung một ơn gọi, một sứ vụ nên thánh theo Đức Kitô, hầu được biến đổi, được nên chiên ngoan hiền, đến bến bờ hạnh phúc. Chữ tâm chữ tài sẽ đẹp mãi, sẽ không bao giờ là lý thuyết trừu tượng, nếu mỗi người nghiêm túc lắng nghe, hiểu và sống nén bạc mình đang có. Mục-tử Giêsu còn là Mục-tử tốt lành, sống động trong từng gia đình, từng tâm hồn, Ngài sẽ che chở, dẫn dắt chiên đến đồng cỏ Nước-trời. Không ai sống mãi trăm năm, thì xin hãy nhớ chữ tâm ở đời. Không ai sống mãi muôn đời, chữ tình, chữ nghĩa, muôn đời còn lưu. (Danh ngôn cuộc sống). Mỗi người đều có cơ hội, mỗi ơn gọi đều có khổ đau thập giá khác nhau, mỗi người theo Mục-tử Giêsu đều có đủ thời gian và đủ tình yêu, hầu đi đến tận cùng của hạnh phúc. Amen.

Về mục lục

MỤC TỬ.

Thiên San

Sách Sáng Thế kể lại, khi được lệnh vào chầu vua Pharaô, anh em ông Giuse đã thưa với nhà vua rằng: “Các tôi tớ ngài làm nghề chăn chiên, chúng tôi cũng như cha ông chúng tôi” (St 47, 3). Truyền thống ấy gắn liền với người dân Do-thái từ bao đời. Hôm nay, Đức Giêsu đã dùng chính truyền thông ấy để mạc khải cho nhân loại biết về chính Ngài khi nói: “Tôi chính là mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 10, 11).

Đức Giêsu chính là Mục tử nhân lành. Đoàn chiên mà Chúa Cha đã trao phó cho Ngài là Hội Thánh. Qua giá máu trên thập giá, Đức Giêsu đã hiến thân mình để cứu chuộc muôn người. Người hoàn toàn vâng theo thánh ý Cha. Vị Mục tử ấy luôn hướng về đoàn chiên, coi sóc, hướng dẫn, chỉ bảo cho đoàn chiên. Người còn cho đoàn chiên được sống dồi dào nhờ chính Mình và Máu Thánh Ngài. Quả thực, nếu là người làm thuê, khi sói đến, họ sẽ bỏ chiên mà chạy, khiến đàn chiên tán loạn. Đức Giêsu thật sự là mục tử và Người chẳng hề bỏ rơi đoàn chiên: “Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh” (Ga 17, 12). Cách ứng xử của Người không gì khác hơn là sự hiền lành, khiêm nhường, Người sẵn sàng để chín mươi chín con chiên lại để đi tìm cho được con chiên lạc, tìm được rồi Người vác nó lên vai. Đó chẳng phải là tình yêu và sự tha thứ?

“Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về” (Ga10,16). Có thể nói, It-ra-en là dân riêng của Chúa, còn Hội Thánh là dân Mới của Chúa trong Đức Giêsu. Đoàn chiên của Người bao gồm những kẻ tin vào Người, nghe tiếng của Người. Hội Thánh là đoàn chiên được Thiên Chúa quy tụ dưới sự chăn dắt của mục tử Giêsu. Công việc ấy được tiếp tục trong Hội Thánh khi Đức Giêsu truyền cho Hội Thánh phải đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ sinh (x. Mc 16,15). Đoàn chiên ấy càng lớn mạnh, phát triển, không còn bị bó gọn trong “ràn It-ra-en”, nhưng lan rộng khắp nơi trên thế giới. Đức tin là sợi dây tuyệt hảo liên kết mọi con chiên thành một đoàn duy nhất dưới sự chăn dắt của một mục tử là Đức Giêsu. Những ai thuộc về đoàn chiên ấy không còn bị giới hạn bởi không gian, thời gian, không bị cản trở, phân biệt bởi ngôn ngữ, màu da, văn hóa nhưng nên một  nhờ Thánh Thần duy nhất, một phép rửa duy nhất.

Để duy trì sự nên một ấy, đoàn chiên phải biết nghe tiếng “Chủ”. Thiên Chúa đã trao phó mọi sự trong tay Người Con là Đức Giêsu. Hễ Người Con nói gì, dạy gì thì đoàn chiên cứ nghe, cứ làm. Bởi nhờ Người Con mà chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, được sống trong tình yêu và ân sủng của Người. Người Con nói với chúng ta qua Giáo huấn của Hội Thánh, qua chính Lời của Người. Trước khi lên trời, Đức Giêsu đã trao phó đoàn chiên của Người cho Phêrô, Tông đồ trưởng:  “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy” (Ga 21,15). Theo phẩm trật trong Hội Thánh, truyền thống gọi Đức Giáo Hoàng, các vị Giám mục, Linh mục là mục tử. Bởi đó, khi kế nhiệm các Tông đồ xưa, các ngài cũng có nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên của Chúa.

Còn chúng ta, những con chiên của Chúa, chúng ta có bổn phận tin yêu, nghe và thực thi mọi điều Chúa dạy qua giáo huấn của Hội Thánh, nhất là qua chính Lời của Người. Đức tin sẽ là sợi dây liên kết chúng ta trong tình yêu của Thiên Chúa Ba ngôi. Đồng thời, chúng ta cũng hãy năng cầu nguyện cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh được ơn trung thành theo sát giáo huấn của Thầy Giêsu, chăm sóc đoàn, khi sói đến, các ngài vẫn một lòng bảo vệ, yêu thương đoàn chiên, trung thành với Chúa. Chúng ta cũng không quên cầu nguyện cho ơn thiên triệu, linh mục và tu sĩ, để Hội Thánh tiếp tục có thêm nhiều tâm hồn quảng đại, xả thân cho việc chăm sóc, dưỡng nuôi đoàn chiên Chúa.

Về mục lục

 

MỤC TỬ NHÂN LÀNH

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Dân Do Thái là dân du mục. Cuộc đời họ gắn liền với đoàn vật và những đồng cỏ. Nên khi Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, người Do Thái hiểu ngay tức khắc. Đức Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc ấy để nói lên mối liên hệ của ta với Người và của Người với ta. Người là Mục tử nhân lành. Ta là đoàn chiên của Người. Người lãnh đạo đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha thiết. Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí, do học hỏi, nhưng phát xuất từ trái tim, do tình yêu. Khi yêu, trái tim trở nên vô cùng nhậy bén đến độ hiểu được hết những âm thanh của tâm hồn và tai người thường không nghe thấy, nhìn thấy hết những gì ẩn kín trong tâm hồn mà mắt thường không nhìn thấy, cảm nhận được hết những chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn mà không một nhà tâm lý học nào có thể cảm được. Khi Đức Giêsu nói: “Ta biết chiên Ta” có nghĩa là Người hiểu biết từng người trong chúng ta. Người không chỉ hiểu rõ hoàn cảnh sinh sống của chúng ta, mà còn thấu rõ tâm tư tình cảm của ta. Người biết những gánh nặng mà ta đang phải gánh. Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu. Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta. Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta. Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc. Sự quan tâm chăm sóc cũng phát xuất từ tình yêu. Có yêu mới quan tâm. Có quan tâm mới hiểu biết nhu cầu. Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc. Đức Giêsu yêu thương ta nên Người quan tâm đến ta. Người biết rõ những nhu cầu của ta. Người chăm sóc ta. Có những tình yêu muốn chiếm hữu. Đó là thứ tình yêu ích kỷ. Có những chăm sóc khiến ta trở nên ấu trĩ, yếu ớt, không lớn lên được. Đó là thứ chăm sóc độc đoán ràng buộc. Đức Giêsu chăm sóc không phải để ràng buộc ta nhưng để giúp ta sống trong tự do. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhưng là để giúp ta trưởng thành. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên yếu ớt nhút nhát, nhưng là để giúp ta mạnh mẽ, tự tin. Vì thế, Nguơì cung cấp cho ta những lương thực lành mạnh. Người đưa ta đến những đồng cỏ non, đến những giòng suối trong. Lương thực Người mang đến, đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là Thánh ý Chúa Cha. Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hy sinh. Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu. Càng yêu mến nhiều càng sẵn sàng hy sinh nhiều. Yêu đến sẵn sàng hy sinh mạng sống là một tình yêu cao cả không có gì sánh được. Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã thực hiện điều ấy. Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên. Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.

Hạnh phúc cho ta được là đoàn chiên của Người. Ta được an ủi vì Người hiểu ta. Ta an tâm vì Người hằng quan tâm chăm sóc ta. Ta sung sướng vì Người yêu thương đến nỗi chết vì ta.

Người muốn ta chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người. Người muốn ta lớn mạnh để đến lượt ta, chính ta trở thành mục tử nhân lành theo gương Người. Cha mẹ là mục tử của con cái. Thày cô giáo là mục tử của học sinh. Giám đốc là mục tử của công nhân. Y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân. Anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ.

Nhưng đặc biệt hơn hết, Người muốn có những người tiếp tục công việc của Người, chăm sóc đời sống tâm linh nhân loại. Chính vì thế, Giáo Hội dành ngày hôm nay để cầu nguyện cho ơn kêu gọi làm linh mục. Nhìn tình hình chung trên toàn thế giới, và riêng trong Giáo phận, ta thấy còn thiếu rất nhiều linh mục. Giáo dân cần linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ. Giáo dân cần linh mục như học sinh cần thầy cô giáo. Giáo dân cần linh mục như một người bạn sẵn sàng cảm thông, chia sẻ vui buồn trong đời sống và như một người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.

Hãy cầu nguyện cho có nhiều thanh niên sẵn sàng hiến thân làm linh mục. Hãy khuyến khích con cháu dâng mình cho Chúa, làm linh mục để phục vụ anh em. Nhất là hãy cầu nguyện cho các linh mục được trở nên những mục tử như Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đoàn chiên.

Lạy Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Xin biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong khu phố, trong xã hội. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Đức Giêsu hướng dẫn đoàn chiên bằng cách nào? Bằng quyền lực hay bằng tình yêu thương?

2- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Đức Kitô.

3- Bạn có cảm thấy trách nhiệm là mục tử của mình không? Bạn đã đối xử với đoàn chiên của mình thế nào?

4- Bạn nghĩ gì về đời sống tu trì? Bạn có cầu nguyện cho cha Xứ của bạn không?

Về mục lục

.

TA LÀ MỤC TỬ TỐT LÀNH

Lm. Giuse Nguyn Hưng Li  

Chúa nhật Chúa Chiên Lành là Chúa nhật dành riêng cầu nguyện cho ơn gọi. Chúa nhật này gợi cho chúng ta hình ảnh của Vị Mục Tử Nhân Lành tự hiến mạng sống mình, để chia sẻ với nhân loại, với mọi người, với chúng ta sự sống Phục Sinh của Ngài. Vị Mục Tử Nhân Hậu, Hiền Lành đã bỏ chín mươi chín con chiên trong đàn mà đi tìm một con chiên lạc. Tìm được con chiên lạc, Vị Mục Tử Nhân Lành vác con chiên lạc trên vai mình…

Vâng, ngày xưa, đề tài này là nguồn cảm hứng của nhiều văn nhân, thi sĩ trong Thánh Kinh, khiến họ mô tả Thiên Chúa như một Vị Mục Tử. Thiên Chúa đã xả thân, hy sinh, hiến mạng sống cho dân Israen không khác gì Vị Mục Tử, vì thế tác giả Thánh Vịnh 23 đã hát lên :” Chúa là mục tử chăn dắt tôi…Tôi không còn thiếu thốn gì…Dù phải đi qua thung lũng tối đen hiểm nguy.Tôi cũng không hề lo sợ “ ( Tv 23, 1-4 ). Và từ đó, các Vị Lãnh Đạo Tôn Giáo Israen ở trần gian cũng được coi như Vị Mục Tử. Tuy nhiên, theo thời gian, vai trò lãnh đạo tôn giáo của Israen đã bị thoái hóa, biến chất. Ngôn sứ Êzéchiel đã nhân danh Chúa nói :” Hỡi các mục tử Israen, các ngươi đã bị băng hoại, biến chất rồi ! Các ngươi chỉ biết lo cho bản thân mình, chứ không hề nghĩ đến bầy chiên…Các ngươi chẳng chăm sóc  những con yếu đuối, bệnh hoạn, tật nguyền…Vậy hỡi những chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, Vị Chủ Tể tối cao, Ta tuyên bố rằng…Ta sẽ tách bầy chiên ra khỏi các ngươi…Ta sẽ giao chúng cho một Vị Vua giống như Đa Vít tôi tớ của Ta, để làm mục tử của chúng và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc chúng “ ( Ez 34, 2-4,9-10,23 ).

Chính vì thế, chúng ta phải đọc đoạn Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay trong bối cảnh này. Đức Giêsu nói :” Ta là Mục Tử Tốt Lành, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đàn chiên…Chúng sẽ nghe tiếng Ta và chúng sẽ trở nên một đàn chiên duy nhất dưới quyền một chủ chiên “. Hình ảnh người chăn chiên rất quen thuộc đối với người Do Thái vì chính cha ông của họ và chính họ cũng là những người sống về nghề chăn chiên nuôi cừu. Đức Giêsu được ví như người Chăn chiên nhân lành vì Ngài là nhân vật mà ngôn sứ Ézéchiel đã tiên báo. Giống như Vua Đa Vít, Đức Giêsu, người mục tử nhân lành, chăm sóc những con chiên yếu đuối, gầy còm, bơ vơ, chữa lảnh những con chiên tật nguyền, bệnh hoạn, băng bó vết thương cho những con chiên bị nạn, đi tìm con chiên lạc đường, mất lối. Đức Giêsu còn nhân hậu hơn thế, Ngài xả thân , tự hiến mạng sống cho đàn chiên của Ngài…Ngài còn đi tới tận cùng là đã sống lại từ cõi chết và chia sẻ đời sống linh thánh, Phục Sinh của Ngài cho nhân loại, cho chúng ta. Ngài cho chúng ta được tham dự vào quyền năng Phục Sinh của riêng Ngài như thánh Phêrô cho chúng ta hay chính nhờ tin vào quyền năng của Chúa mà người tàn tật được chữa lành. Chúa Phục Sinh cũng mời gọi mọi người chúng ta tin vào Ngài để được chữa lành phần hồn cũng như phần xác. Thánh Gioan trong bài đọc hai cũng nhắc nhở mọi người chúng ta:” Nhờ Chúa Giêsu, Thiên Chúa Cha đã cho chúng ta trở nên con cái riêng của Ngài”. Mỗi người chúng ta khi được trở nên con cái Chúa, chúng ta cũng được kêu gọi sống gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành và với sứ mạng được trao chúng ta được mời gọi loan báo Chúa đã Phục Sinh, và giới thiệu Chúa Chiên Nhân Lành cho mọi người để nhiều người nhận ra ơn cứu độ Chúa sống lại mang đến cho họ.

Mừng lễ Chúa Chiên Lành, chúng ta cầu người cho có nhiều thanh niên, nam nữ quảng đại, dấn thân cho Chúa, cho Hội Thánh trong các Chủng Viện, Tu Viện, Đan Tu  vv…Xin cho các Linh Mục trở nên giống các Mục Tử Nhân Lành như lòng Chúa mong ước.

Lạy Chúa, xin cho chúng con mỗi người biết sống địa vị của mình theo gương Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Lành đã hiến mạng sống vì đàn chiên.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Mục Tử Tốt lành ngĩa là gì ?

2.Tại sao Chúa Giêsu lại được ví như Mục Tử tốt lành ?

3.Tại sao lại gọi là Mục Tử xấu ?

4.Cac Linh mục được mời gọi sống giống ai ?

5.Tại sao chúng ta lại phải cầu nguyện cho ơn thiên triệu ?

Về mục lục

.

RAO GIẢNG ĐỨC GIÊSU ĐÃ PHỤC SINH

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Các tông đồ là những người đã được thấy và đụng chạm vào Đức Giêsu Phục Sinh. Vì thế, sứ mạng của các tông đồ là làm chứng điều mắt các ngài đã thấy và tai các ngài đã nghe: Đức Giêsu đã phục sinh. Chỉ nhờ Đức Giêsu phục sinh mà tất cả con người được cứu độ.

I. Thiên Chúa đã phục sinh Đức Giêsu từ cõi chết

Hôm nay, qua dịp chữa lành người tàn tật và rồi bị tra hỏi, Phêrô có dịp rao giảng tin mừng Đức Giêsu phục sinh trước mặt những người lãnh đạo dân Do Thái. Phêrô nói: “Xin tất cả quý vị và toàn dân Israel biết cho rằng: nhân danh Đức Giêsu Kitô, người Nazaret, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị” (Cv.4, 10). Phêrô không chủ ý kết tội những người đóng đinh Đức Giêsu, nhưng ngài xác định rõ Đức Giêsu là Đấng chính các vị lãnh đạo dân đã đóng đinh Ngài.

Phêrô còn rao giảng: “ngoài Ngài ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để nhờ danh đó mà tất cả chúng ta được cứu độ” (Cv.4, 12). Theo lời rao giảng của Phêrô, Đức Giêsu là người của Thiên Chúa; và Thiên Chúa đã dùng Ngài là phương tiện duy nhất cứu độ con người. Từ ngữ “phương tiện cứu độ duy nhất” ở đây có thể được hiểu theo nghĩa, nếu có một phương tiện cứu độ nào đó, thì vẫn nhờ và qua Đức Giêsu Kitô.

Đức Giêsu là Đấng cứu độ duy nhất, phải chăng chỉ vì Thiên Chúa muốn vậy? Phải chăng Đức Giêsu cũng chỉ là một người như bao người khác, như bao trung gian khác, hay nơi Đức Giêsu còn có điều gì khác? Thiên Chúa muốn Đức Giêsu là trung gian cứu độ duy nhất, vì Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa.

II. Đức Giêsu là mục tử tốt lành

Đức Giêsu yêu thương con người. Ngài dùng hình ảnh quen thuộc đối với người Do Thái để diễn tả tình yêu và sự quan tâm của Ngài đối với con người. Ngài như một mục tử chăn chiên, Ngài muốn con người sống an lành và triển nở, như một mục tử tốt lành bảo vệ chiên khỏi nguy hiểm và chăn dắt để chiên được no đủ. Đức Giêsu đã dùng nhiều hình ảnh và nhiều cách để diễn tả tình yêu của Ngài đối với con người. Hình ảnh cây nho cành nho cũng là một hình ảnh rất thân thương được dùng để diễn tả tương quan giữa Đức Giêsu và con người.

Người chăn chiên tốt, là người dám hy sinh mạng sống vì đoàn chiên (Ga.10, 11); Đức Giêsu là người đã hiến mạng sống vì bạn hữu (Ga.15, 13). Bí tích Thánh Thể diễn tả cách thật đặc biệt tình yêu của Đức Giêsu đối với con người. Đức Giêsu yêu con người đến độ dám chết cho con người, dám hy sinh tất cả để con người được sống. Đức Giêsu là biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa cho con người.

Thiên Chúa yêu thương con người một cách đặc biệt qua Đức Giêsu. Ngày nay Thiên Chúa vẫn dùng nhiều người như dấu chỉ Ngài hiện diện và yêu thương con người hiện tại. Trong Chúa Nhật thứ tư Phục Sinh, Giáo Hội cho tín hữu nghe bài phúc âm về Chúa Chiên Lành; và Giáo Hội cầu nguyện đặc biệt cho ơn thiên triệu tu sĩ và linh mục. Xin Chúa tiếp tục khơi dậy và đánh động, để ngày nay có nhiều người quảng đại dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa qua việc phục vụ anh em mình.

III. Chúng ta là con Thiên Chúa

Mỗi người đều được Thiên Chúa tạo dựng và sinh ra qua cha mẹ mình. Một khi người cha người mẹ sinh ra con, cho dù người con đó chấp nhận hay phủ nhận, kính trọng hay khinh thường, thì cha mẹ người đó vẫn là cha mẹ người đó; vì thế, Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người, cho dù người đó có biết hay không, có chấp nhận hay không, Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người, của Kitô hữu và của cả những người đang theo bất kỳ một tôn giáo nào.

Nếu vậy, Đức Giêsu Phục Sinh thêm gì cho hiểu biết và tương quan giữa con người và Thiên Chúa? Một khi người ta nhận ra chân tướng của Đức Giêsu, người ta sẽ nhận ra tương quan rất đặc biệt của Thiên Chúa đối với con người. Nếu Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa, hẳn Thiên Chúa phải yêu thương con người vô cùng nên Ngài mới cho Con Ngài nhập thể làm người. Con người không phải là tạo vật tầm thường, nhưng con người là một giá trị tuyệt vời đối với Thiên Chúa, chính vì thế Lời Thiên Chúa mới nhập thể làm người. Cái chết ô nhục của Đức Giêsu trên thập giá, làm người ta còn hiểu hơn tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Con người là gì, mà Thiên Chúa đã cam chịu để con người hành hạ Con của Ngài như vậy!

Chính Đức Giêsu, theo tin mừng Yoan, cũng khẳng định Thiên Chúa yêu thương con người như yêu chính Ngài (Ga.17, 23.20). Và chính Đức Giêsu cũng khẳng định Ngài yêu thương con người như Thiên Chúa yêu thương Ngài (Ga.15, 9). Một người có thể là con nhưng không được yêu thương, chẳng hạn có những người cha người mẹ bỏ con mình. Qua và nhờ Đức Giêsu, con người nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Thiên Chúa yêu thương con người như yêu thương Đức Giêsu, Con Một Yêu Dấu của Ngài. Đức Giêsu là Đấng mặc khải Thiên Chúa.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Tại sao các tông đồ lại rao giảng Đức Giêsu đã phục sinh?
  2. Đức Giêsu phục sinh, điều này có đủ để chứng minh Ngài là Thiên Chúa không? Tại sao?
  3. Thiên Chúa tạo dựng con người, điều này đủ để chứng tỏ con người là con Thiên Chúa. Vậy Đức Giêsu mang gì thêm cho khẳng định “chúng ta là con Thiên Chúa”?

Về mục lục

.

CHÚA LÀ MỤC TỬ TỐT LÀNH THÍ MẠNG SỐNG VÌ CHIÊN

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Lễ “Chúa Chiên lành” là lễ của Chúa Giêsu, Đấng đã tự xưng “Ta là mục tử tốt lành” (Ga 10, 11). “Mục tử” là một hình ảnh rất quen thuộc của nền văn minh nông nghiệp còn trong trạng thái thô sơ của thời du mục vùng Trung Đông. “Người chăn chiên” được Chúa Giêsu dùng để diễn tả tương quan vừa mật thiết, vừa rất “dễ thương” giữa Người và chúng ta.

Chúa là mục tử

Thông thường, trong Cựu Ước, người ta gọi Thiên Chúa là mục tử của dân Ngài (St 49, 24 – 31 ; Gr 31, 10 ; Mk 7,14 v.v …) Sự so sánh này có nguồn từ đầu lịch sử thánh, vì dân được chọn là dân du mục trên hành trình về Đất Hứa, trước hết là Abraham từ Ur đến Canđê, thứ đến là Môisen, kẻ chăn cừu nhận được mạc khải từ bụi gai đang cháy trong sa mạc, cho tới Đavít cậu bé chăn cừu ở Belem.

Hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành là một trong những hình ảnh lâu đời nhất của Kitô giáo. Hình ảnh này được tìm thấy trong các hang toại đạo, người ta khắc vẽ Chúa Giêsu với vẻ dịu dàng và trìu mến của người chăn chiên, vác chiên trên vai, tìm kiếm con chiên lạc, đưa chiên về với đàn của chúng để cùng chia sẻ một đồng cỏ xanh tươi. Khi lấy lại hình ảnh người mục tử và tự ví mình như thế, Chúa Giêsu đưa chúng ta về với hình ảnh cổ xưa trong Kinh Thánh, chứng tỏ Thiên Chúa không chỉ là Đấng dẫn dắt dân, hơn thế nữa còn là Đấng trao ban sự sống cho dân, sự sống ấy bắt nguồn từ tình yêu hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con, vì trong Người, mệnh lệnh và tự do đồng nhất với nhau : “Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại. Đó là mệnh lệnh Ta đã nhận nơi Cha Ta “(Ga 10, 18).

Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên

Chúa Giêsu yêu thương con người bằng một tình yêu thí mạng khi tự ví mình là “mục tử tốt lành“sẵn sàng thí mạng vì đoàn chiên. Người nói thẳng : “Ta là mục tử tốt lành” (Ga 10, 11). Đối với Chúa Giêsu, tất cả là hiện tại, không có gì là quá khứ hay tương lai hết. Điều này đã được nói trong sách Khải Huyền : “Ta là Alpha và Ômêga chính là Ta, Chúa, Thiên Chúa phán, Ðấng đang có, đã có, và sẽ đến, Ðấng toàn năng!” (Kh 1,8). Và trong sách Xuất Hành : “Ngươi sẽ nói với con cái Israel thế này: “Ta có” đã sai tôi đến với các người! » (Xh 3,14).

Ta là mục tử tốt lành“. Từ “mục tử” có nguồn gốc từ động từ “chăn nuôi“. Chúa Giêsu Kitô nuôi dưỡng chúng ta bằng chính thịt máu mình hằng ngày trong bí tích Mình Thánh. Khi Samuen hỏi Giêsê, cha của Đavít : “Các cậu này tất cả là con trai của ôngsao?” Ông đáp: “Còn đứa nhỏ nhất nữa; này nó đang phải chăn cừu!” (1S 16,11). Đavít, một con người bé nhỏ và khiêm nhu, đã chăn sóc đoàn chiên mình như một người mục tử.

Chúng ta cũng đọc thấy trong sách Isaia : “Như mục tử, Người chăn đàn chiên của Người, cánh tay Người thâu họp chúng lại; Người bồng chiên con và dìu đi cừu mẹ nuôi con” (Is 40,11)… Quả thật, mục tử tốt lành dẫn chiễn tới đồng cỏ xanh tươi, tập hợp những con chiên yếu kém không thể đi được ; vác chúng trên vai, ôm chúng vào lòng ; như người mẹ bồng ẵm con thơ. Chúa Giêsu cũng làm như thế : hàng ngày, Người nuôi dưỡng chúng ta bằng những Lời Hằng Sống và các bí tích của Hội Thánh. Người giang cánh ta trên thập giá để thâu họp “con cái Thiên Chúa tản mác về lại làm một” (Ga 11,52). Người đón nhận chúng ta vào lòng nhân ái của Người, như mẹ hiền ấp ủ con thơ.

Thật là hình ảnh cụ thể tuyệt đẹp và đầy cảm động về một Vì Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã làm đối với chúng ta là những tạo vật, những con chiên của Ngài. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, được Chúa Cha phái đến, cũng tuyên bố : “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta” (Ga 10, 14 ).

Hôm nay, mỗi người chúng ta tự hỏi : tôi có phải là chiên của Chúa không? Nếu phải thì tôi có biết Chúa không và nếu biết thì biết thế nào ? “Biết” ở đây, không có nghĩa là “biết” nhờ đức tin, nhưng là “biết” nhờ đức mến. “Biết” không có nghĩa là “biết” được diễn tả qua thái độ tin, nhưng là “biết” được diễn tả qua việc làm. Chính thánh Gioan Tông Đồ đã viết điều này và làm chứng ở nơi khác : “Ai nói mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối (1 Ga 2, 4).

Vậy, ai chân thành đi theo Chúa Giêsu thì được nuôi dưỡng nơi đồng cỏ xanh tươi muôn đời. Đồng cỏ của đoàn chiên đây là gì nếu không phải là cảnh thiên đàng luôn xanh ngắt, khiến tâm hồn ngập tràn niềm vui, nơi có Thiên Chúa luôn hiện diện, nơi đây chiên theo Chúa và làm theo ý Chúa sẽ được hân hoan mừng lễ cùng với bao công dân Nước Trời.

Trên đây là những lý do với nhiều lý do khác mà Giáo hội gọi Chúa nhật thứ IV Phục Sinh là Chúa nhật Chúa Chiên lành, đồng thời mời gọi con cái mình suy nghĩ đặc biệt về hình ảnh của Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô, Vị Mục Tử Tối Cao đã hy sinh Mạng Sống Mình vì đoàn chiên.

Cầu cho các mục tử

Đối mặt với hiểm nguy, Chúa Giêsu không chạy trốn như lính đánh thuê, Người sẽ chết, nhưng cái chết của Người sẽ chiến thắng và sống mãi, Người sẽ thâu họp những con chiên tán mát khắc nơi về. Chúa Giêsu muốn không chỉ có các mục tử tiếp bước theo mình, Người còn muốn những người nam nữ dâng mình cho Chúa trong đời thánh hiến, đến lượt mình, cũng xả thân bảo vệ đàn chiên, đưa các con chiên lạc trở về. Người mong ước các mục tử với ơn Người trợ giúp sẽ hoàn thành trách nhiệm dẫn dắt đoàn chiên đến đồng cỏ Nước Trời.

Với chủ đề của Sứ Điệp Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi: “Xuất hành, kinh nghiệm nền tảng của ơn gọiĐức Thánh Cha Phanxicô mời gọi “những người trẻ bước đi theo dấu chân của Ðức Giêsu, trong việc phụng thờ mầu nhiệm Thiên Chúa và quảng đại hiến thân cho người khác! đừng sợ ra khỏi chính mình và đặt mình vào một cuộc hành trình! ” Chúng ta hãy khẩn cầu xin Ðức Trinh Nữ Maria, mẫu gương của mọi ơn gọi, đã không sợ hãi khi thưa tiếng “xin vâng” trước lời mời gọi của Thiên Chúa, đồng hành với chúng ta và dẫn dắt chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

ĐỂ CHÚA DẪN ĐƯA

Bông hồng nhỏ

Mặt trời từ từ nấp mình sau ngọn núi phía Tây cũng là lúc bọn trẻ lùa đàn trâu về. Những con trâu mình đem bóng, bụng căng bóng no tròn đủng đinh bước đi. Mấy con nghé con chạy nhảy bên mẹ, chốc chốc lại húc vào bầu vú mẹ vừa đi vừa bú. Trên lưng mấy con trâu khác là những cậu bé ngồi vắt vẻo, chân tay còn lấm đầy bùn, mái tóc bạc thếch, áo vắt trên vai, cười nói rộn cả góc làng.

Con trâu gắn bó với người dân Việt. Mảnh ruộng được cày sâu cũng là nhờ một phần của con trâu chăm chỉ. Mấy đứa trẻ thích đi chăn trâu và xem trâu như bạn. Chúng cưỡi trên lưng trâu, nhảy ùm xuống ao tắm cho trâu.

Hôm nay, Thầy Giêsu tự ví mình là người mục tử. Thầy không phải là một người chăn chiên thuê nhưng là vị mục tử nhân lành. Thầy biết rõ từng con chiên và hiểu rõ chúng cần gì.

Thầy Giêsu khẳng định “Tôi là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Thầy đã thí mạng mình cho đoàn chiên bởi Thầy yêu mến từng con chiên một và Thầy không muốn mất một ai. Ta tự hỏi, làm sao để nghe được tiếng Người mục tử nhân lành. Muốn nghe được tiếng Người nói, trước hết ta phải có thái độ lắng nghe. Thầy Giêsu là mục tử nhân lành đã luôn lắng nghe và thi hành thánh ý Chúa Cha trong nguyện cầu, trong sự khiêm hạ và vâng phục đến cùng. Là con chiên của Thầy, ta cũng hãy chuyên cần cầu nguyện, đến với Thầy trong Thánh lễ, gặp gỡ và chuyện trò với Thầy mọi lúc mọi nơi để cho Lời của Thầy thấm nhuần trong tâm hồn ta, trở thành nội lực thúc đẩy ta hành động, sống chứng nhân Tin Mừng. Con chiên luôn mong có được đồng cỏ xanh tươi và suối mát trong lành. Còn ta, ta khao khát điều gì khi là con chiên của Chúa? Mỗi ngày, ta hãy suy ngẫm lời ca của Thánh vịnh này “Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong, hồn con cũng trông mong được gần Ngài, Lạy Chúa.” (Tv 42, 2).

Lạy Chúa! Con tạ ơn Chúa đã luôn chăn dắt con trong tình yêu bao la của Ngài. Mỗi ngày, xin cho con biết đến với Chúa là đồng cỏ tươi và là dòng suối mát lành cho hồn con được nghỉ ngơi. Mỗi lần đến với Chúa, xin cho con nhớ rằng, ngoài kia vẫn còn biết bao con chiên chưa thuộc ràn mà Chúa đang muốn đưa chúng về. Xin cho con sống tình liên đới với tha nhân cách cụ thể qua từng việc nhỏ mỗi ngày. Amen.

Về mục lục

.

CON CHIÊN CỦA TA

Anna Cỏ may

Bé Thảo vừa bước vào sân:

– Thảo yêu dấu của mẹ, hôm nay cha Bảo nói gì con? Nói cho mẹ hay với.

– A, cha nói con là con chiên nhỏ dễ thương của bố mẹ. Chúa Giêsu là người chăm sóc con. Thế mẹ ơi, nhà bạn Đăng có được Chúa chăm sóc không?

– Có chứ, Chúa vẫn chăm sóc nhà bạn ấy nữa. Thế cha Bảo còn nói gì nữa không?

– Dạ, con chỉ nhớ vậy thôi ạ!

– Thảo ngoan quá, lần sau con nghe xem cha Bảo còn nói gì nữa không nha.                           

– Dạ

          Cô bé đã được nghe và biết mình là một con chiên nhỏ và mọi người xung quanh nó cũng là chiên được chăm sóc dưới bàn tay của Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu đã nói “Tôi là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Ngài không như kẻ làm thuê là đi tìm lợi ích cho mình cũng không để cho thú dữ ăn thịt đàn chiên. Ngài vừa là người chăn chiên vừa là một chủ chiên luôn nâng đỡ những con chiên bị thương và tìm kiếm các con chiên bị lạc. Ngài biết rõ từng con chiên, luôn để mắt đến từng con và dõi bước theo. Ngài luôn nuôi dưỡng và dẫn chúng đến những đồng cỏ xanh suối mát. Hình ảnh Mục Tử ấy được tô đậm khi Ngài bị bắt “Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy cho người này đi”(Ga 18,8). Ngài lên tiếng trước khi quân dữ lùng bắt. Ngài bảo vệ các môn đệ bằng một lòng an ủi và cả tính mạng. Chính những sự tận tụy, không lùi bước trước mệt nhọc hay hiểm nguy của Ngài đã làm nên sự khác biệt giữa người chăn chiên đích thực với người làm thuê và chủ chăn đích thực với chủ chăn thế gian. Ngoài ra, Chúa Giêsu cũng không bỏ mặc những con chiên không thuộc ràng. Ngài nói “Tôi còn có những con chiên khác không thuộc ràn nay. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một Mục Tử”(Ga 10,11-18). Vậy các con chiên ngoài ràn là ai? Trong Tin Mừng, Ngài mời gọi dân ngoại đến dự tiệc cùng các tổ phụ Apraham, Ixaac và Gia cóp trong Nước Trời (x. Mt 8,11-12). Ngày hôm nay những con chiên ấy chính là những người chưa nhận biết Chúa đang ở khắp mọi nơi. Ngài sẽ đi tìm và quy tụ các con chiên lại thành một đoàn và hiệp nhất yêu thương nhau. Và Hội Thánh là hiền thê được mời gọi cộng tác với Ngài. Còn chúng ta là một Kitô hữu, là người con của Hội Thánh, chúng ta cũng đang được mời gọi sống là những con chiên dễ thương và đoàn kết nâng niu những con chiên xung quanh chúng ta. Như Chúa Giêsu đã nói “Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai để đưa về chuồng”(Lc 15, 3-7).

          Lạy Chúa, xung quanh chúng con còn rất nhiều người chưa nhận biết Chúa, cũng như những con chiên đang đi lạc. Chúa đã và đang để ý đến từng người chúng con và ấp ủ chúng con bằng những sự săn sóc riêng biệt. Xin cho mỗi người chúng con luôn lắng nghe tiếng người chăn và chủ chăn là Chúa và không sợ mà một lòng tin vào tình yêu thương của Chúa, vị Mục Tử Nhân Lành.

Về mục lục

.

MỤC TỬ

Lm. Trần Việt Hùng

Ta là mục tử tốt lành,

Hy sinh thí mạng, nhân danh Vua Trời.

Chủ chiên chăn giữ không rời,

Đàn chiên chăm sóc, tìm nơi suối vàng.

Thỏa thuê ăn uống dẫn đàng,

Con nào yếu bệnh, nhẹ nhàng chăm nom.

Chăn thuê trốn tránh không dòm,

Ốm đau bệnh hoạn, gầy còm mặc bay.

Bỏ chiên mà chạy có ngày,

Khi mà sói đến, chẳng hay muộn phiền.

Không màng tha thiết đàn chiên,

Chăn nuôi lười biếng, vì tiền lợi danh.

Chúa Chiên thí mạng thực hành,

Chăm lo bảo vệ, dỗ dành thương yêu.

Xả thân phục vụ cao siêu,

Mọi đàn qui tụ, thiên triều gia ân.  

Mục tử tốt lành đã thí mạng sống vì đoàn chiên. Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, Ngài đã hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Chúa Giêsu đã đến giữa đàn chiên để chăn dắt, nuôi dưỡng và làm cho đàn chiên được sống dồi dào. Ngài đã hy sinh để bảo vệ đàn chiên. Người mục tử tốt lành là người biết dẫn dắt đàn chiên tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi và bồi dưỡng thỏa thuê.  

Hình ảnh Chúa Giêsu là Chúa Chiên Lành. Ngài yêu thương vác chiên trên vai. Ngài đi trước dẫn chiên theo sau và chăm sóc chu đáo mọi bề. Chúa Chiên kêu gọi từng con chiên và biết chúng. Những con chiên lạc hay đau yếu Ngài tìm kiếm, chữa trị và chăm sóc.  Chúa Giêsu lập Giáo Hội, Ngài trao phó cho các Tông đồ tiếp tục chăn dắt đoàn chiên. Chúa yêu thương đã ban Lời hằng sống và Bánh trường sinh để tiếp tục dưỡng nuôi xác hồn.  

Mẹ Têrêxa Calcutta có dịp gặp gỡ và chia xẻ với nhiều người. Một hôm, có một bà nói với mẹ rằng: Mẹ đã làm nhiều việc biến đổi thế giới này nên tốt hơn. Còn chúng tôi, chúng tôi có thể làm được gì? Mẹ Têrêxa cười và nói: Hãy yêu thương con cái của các bà. Nhưng bà lại hy vọng làm một cái gì sâu xa và ý nghĩa hơn thế. Mẹ nói tiếp: Hãy yêu thương con cái. Yêu thương chúng. Yêu bao nhiêu có thể qua đó con cái nhận biết rằng cha mẹ đang yêu chúng. Đó là điều tốt nhất.  

Dùng tình yêu làm việc tông đồ. Lời của thánh Augustinô: Cứ yêu đi, rồi làm. Thánh Gioan Bosco là mẫu gương của tình yêu thương đặc biệt các bạn trẻ. Cả đời ngài đã cống hiến hy sinh phục vụ các bạn trẻ, nhất là những bạn trẻ bụi đời, phạm pháp và ngỗ nghịch. Ngài đã dùng tình yêu để khuyên dụ và dẫn dắt. Ngài đã đem trở về cho Chúa rất nhiều tâm hồn tươi trẻ.  

Với tình yêu chúng ta có thể làm được tất cả. Cha mẹ vì yêu thương con cái, đã không quản ngại mưa nắng, làm lụng nhọc nhằn vất vả để lo cho con cái có của ăn của mặc. Với tình yêu, các thầy cô giáo đã hy sinh thời giờ và khả năng để chăm nom dậy dỗ và giáo dục các con em nên người. Có những người vì yêu đã hy sinh cuộc sống tiện nghi nhung lụa để đến những vùng xa xôi hẻo lánh mang tin mừng cứu độ cho nhiều người.

Dõi theo gương của Chúa Chiên Lành, mỗi người chúng ta trong bổn phận, hãy chu toàn với tâm tình từ bi và nhân hậu. Đàn chiên lớn hay nhỏ không quan trọng, quan trọng nhất là chăm sóc các chiên con với tình yêu thương của Chúa Kitô, Ngài chính là Mục Tử tốt lành.

Về mục lục

.

MÙI CHÚA – MÙI CHIÊN

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 “ĐTC Phanxicô khuyến khích các GM mang lại cho Giáo Hội tại Việt Nam niềm vui loan báo Tin Mừng.

Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo, GM Giáo phận Xuân Lộc, cho biết như trên trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican trưa thứ hai, 5-3-2018 sau cuộc gặp gỡ dài hơn 2 tiếng đồng hồ giữa ĐTC và 33 GM thuộc HĐGM Việt Nam. Đức Cha cũng là người thông dịch trong cuộc gặp gỡ này.

Đức cha kể lại: Chúng tôi đã thảo luận về nhiều vấn đề, nhưng lời cuối cùng ĐTC để lại cho chúng tôi là: Hãy mang lại cho Giáo Hội tại Việt Nam niềm vui loan báo Tin Mừng”. Trước đó, ngài đã nói về hình ảnh vị GM như người chăn chiên có mùi chiên, mùi của Thiên Chúa, đồng thời ĐTC mời gọi các GM gia tăng cầu nguyện, chiêm niệm. Lời mà ĐTC lập lại nhiều lần là sự gần gũi, gần gũi Thiên Chúa, gần dân, và đặc biệt là gần các LM”. (x.vi.radiovaticana.va).

“Mục tử có mùi chiên và mùi của Thiên Chúa”. Huấn từ của ĐTC Phanxicô dành cho các vị Giám mục và qua đó nhắn gởi đến các Linh mục.

Căn tính Linh mục có hai chiều kích, một hướng lên Thiên Chúa, và một hướng về nhân loại. Hướng lên Thiên Chúa, căn tính Linh mục hệ tại sự thánh thiện với “mùi Thiên Chúa”. Hướng về con người, căn tính ấy hệ tại dấn thân phục vụ với đức ái mục tửcó “mùi chiên”.

Phần xướng đáp phụng vụ Kinh Chiều lễ các thánh Mục tử, chúng ta đọc : “Đây là người đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”. Câu nói ngắn nhưng bao hàm đầy đủ nội dung của sứ vụ Mục Tử. Tình yêu mục tử nối kết cả ba khía cạnh đó. Có yêu thì mới sống hết tình, tận tụy phục vụ. Có yêu thì mới nhớ đến và cầu nguyện cho. Và có yêu thì mới dám hy sinh mạng sống, đây là tình yêu đạt đến đỉnh điểm. Chúa Giêsu – Mục Tử Nhân Lành đãnêu gương về cả ba khía cạnh này cho mọi mục tử trong Giáo hội. Khi sống sứ vụ theo gương Chúa Giêsu, các mục tử sẽ luôn có mùi chiên và mùi Chúa.

  1. Sống hết tình với anh em

Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Ngài rao giảng miệt mài từ sáng đến khuya, quên cả ăn ngủ, mệt lử đến nỗi ngủ say như chết, sóng gió tơi bời mà không hay; dân chúng “tấp nập kẻ lui người tới, đến nỗi thầy trò không có giờ nghỉ ngơi” (Mc 6,31), chữa mọi thứ bệnh tật cho dân, thậm chí cả vào ngày sabbat khiến bị chỉ trích; hóa bánh ra nhiều để nuôi dân đi theo nghe giảng; hóa nước thành rượu để giữ thể diện cho đôi tân hôn. Ngài làm nhiều phép lạ chữa quỷ ám, mù lòa, điếc câm, cả chết rồi cho cũng sống lại. Ngài gần gũi người nghèo, bà góa, trẻ em, bênh vực họ… Biết bao việc làm chứng rằng Chúa Giêsu đã sống hết tình với anh em. Cầu nguyện cho dân chúng : cho mọi người, cho các môn đệ, cho kẻ ghét mình, cầu nguyện thâu đêm, lúc sắp chết mà còn cầu xin ơn tha thứ cho kẻ giết mình, lại bào chữa rằng vì họ lầm không biết việc họ làm. Tấm lòng của Chúa thật là tuyệt vời. Hy sinh tính mạng vì anh em, đó là điều Chúa Giêsu đã làm, và là bằng chứng hùng hồn nhất về tình yêu của Chúa : “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu mình” (Ga 15,12). Ngài có thể thoát khỏi cái chết, nhưng ngài không làm : “Không ai có thể cướp mạng sống tôi, nhưng tự tôi hiến mạng” (Ga 10,18).

Đức Thánh Cha Phanxicô cũng là mẫu gương về đức ái mục tử. Ở tuổi 76 khi được bầu làm giáo hoàng, sức khỏe của ngài không tốt, vì đã bị mất một lá phổi. Ở tuổi này người ta nghỉ hưu, nhưng đức Phanxicô đã can đảm chấp nhận. Những năm qua, ngài làm việc thật nhiều, vì ngài biết không còn nhiều thời gian trước mắt. Ngài đã khơi bùng lên niềm vui và hy vọng cho Giáo Hội. Ngài làm say mê hàng trăm triệu con tim, nhiều người bỏ đạo quay về với Giáo Hội, nhiều kẻ lâu nay hờ hững với Mẹ Hội Thánh nay lao vào vòng tay yêu thương vẫn giang rộng chờ đón của ngài. Số người thiện cảm gia tăng. Ngài đang “hồi sinh” Giáo Hội !

Với chủ trương “Giáo hội nghèo cho người nghèo”, ngài yêu thương người nghèo và chọn nếp sống giản dị. Ngài ban hành tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng để mở một trang mới cho công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa, và khích lệ Giáo Hội đứng dậy, mở cửa, ra đi đến tận vùng ngoại vi để loan Tin Mừng. Ngài mở Năm Thánh Lòng Thương Xót để toàn thể Giáo Hội cảm nếm tình yêu tha thứ vô biên của Chúa. Ngài ban hành tông huấn Laudato Si’ kêu gọi bảo vệ môi trường, gìn giữ vũ trụ thiên nhiên xinh đẹp là ngôi nhà chung mà Chúa đã tạo dựng. Ngài triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới để tìm phương cách giải quyết những thách đố về hôn nhân và gia đình. Ngài đã thực hiện nhiều chuyến tông du mục vụ, chủ lễ bế mạc Đại hội Gia đình Thế giới. Ngài cũng vừa ban tông huấn Niềm Vui Yêu Thương về tình yêu thương trong gia đình.Ngài đã làm được quá nhiều việc trong một thời gian vắn vỏi ! Ngài thật là Mục Tử nhân lành, là hiện thân của Chúa Giêsu. Gương sáng, lời rao giảng và chứng tá của ĐTC Phanxicô đã khiến nhiều giám mục và linh mục quyết định sống theo “phong cách” của ngài, họ tự nhận là thuộc “thế hệ Phanxicô”, từ chối sống trong những tòa nhà sang trọng, tự lái xe, tự đi chợ nấu ăn, sống gần gũi người nghèo, giản dị như một người bình dân, đề cao và bảo vệ quyền lợi của những người thấp kém và trẻ em.

Người thời nay tin vào những chứng nhân hơn thầy dạy, nếu họ tin thầy dạy, chính là vì thầy dạy ấy cũng đồng thời là chứng nhân” (Đức Phaolô VI). Một trăm bài giảng hay ho không giá trị bằng một việc làm nhỏ bé nhưng đong đầy yêu thương. Công cuộc Tân Phúc-Âm-hóa sẽ chỉ hiệu quả nếu người ta vừa nhận ra niềm tin nơi lời rao giảng, vừa nhận thấy tình yêu thương nơi hành động và phong cách sống của người ấy.

Mọi người kỳ vọng các linh mục sẽ giống Chúa Giêsu Mục Tử theo phong cách của Đức Phanxicô, sẽ là hiện thân của Đấng đến “không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Linh mục được đánh giá theo như cung cách phục vụ của ngài : tận tụy, cần mẫn, trung tín, nhưng không (vô vụ lợi), sẵn sàng, nhanh nhẹn, quên mình.

Người giáo dân hôm nay không muốn thấy, không muốn có những mục tử 3 L (làm sang, làm phách, làm biếng), 3 T (tình, tiền, tửu), 3 Đ (độc tôn, độc tài, độc đoán), lè phè, hưởng thụ, lười biếng, chẳng quan tâm đến người khốn khổ, chất trên vai họ những gánh nặng, vô cảm trước những khổ đau của họ, sống xa cách người nghèo, không bênh vực người bị áp bức bất công, không đứng dậy đi ra khỏi nhà xứ để viếng thăm kẻ bệnh tật, người già nua, trẻ cơ nhỡ, để đem về đàn những con chiên lạc bầy đang lang thang trong hoang địa.

Vì linh mục là người của sự linh thánh, nên việc huấn luyện thiêng liêng là quan trọng nhất (ĐTC Phanxicô đã phát biểu rằng, ngài muốn chủng sinh được đào tạo ưu tiên về mặt thiêng liêng), các mặt khác cũng quan trọng : nhân bản, vì linh mục cũng là một con người như mọi người; trí thức, vì linh mục sẽ phải giảng dạy hướng dẫn người khác;mục vụ, vì đó là “nghề” của linh mục. Có thể nói, sau bao nhiêu năm tháng được huấn luyện như thế, linh mục là người hoàn hảo, hay theo cái nhìn chung của mọi người, là một người có tài có đức, giỏi giang. Linh mục phải là người có những nhân đức đối thần (Tin-Cậy-Mến), những nhân đức đối nhân (Bác ái-Khôn ngoan-Công bằng-Can đảm-Tiết độ), những nhân đức tôn giáo (Các lời khuyên Phúc Âm, tha thứ, hiền lành, đạo đức, trung thành...), những nhân đức nhân loại hay còn gọi là đức tính của con người theo quan điểm Á Đông (Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí-Tín (với tha nhân), Cần-Kiệm-Liêm-Chính-Dũng (với chính mình). 

Được đào tạo kỹ lưỡng như thế, linh mục hẳn phải đạt một mức độ cao trên “đàng nhân đức” mới phải lẽ. Cho nên khi thấy các linh mục không sống đúng với những đòi hỏi của chức vụ và đời sống thì chẳng trách giáo dân bất mãn, và dễ đi đến chỗ bài bác.

Linh mục không tuyên khấn như các tu sĩ, nhưng cũng phải giữ đức thanh bần, khiết tịnh và vâng phục, không thụ động, miễn cưỡng, nhưng như lời ĐTC Phanxicô : “Những lời khấn khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục là “chứng từ vui tươi về tình yêu của Thiên Chúa”, khi chúng được cắm rễ trong lòng Chúa thương xót”. (x. “Đức ái mục tử”. Bài giảng tĩnh tâm linh mục GP Phan Thiết 2016, Đức cha Anphongsô Nguyễn Hữu Long).

  1. Cầu nguyện nhiều cho dân chúng.

Các sách Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu luôn cầu nguyện vào những giây phút quan trọng nhất trong cuộc đời của Người. Khi chịu Phép Rửa và nhận lãnh sứ mạng Chúa Cha giao phó (Lc 3,21); đêm trước khi chọn các môn đệ (Lc 6,12); trước khi biến hình (Lc 9,28); trước khi chữa bệnh cho nhiều người (Lc 5,16); trước khi đặt ra cho các môn đệ câu hỏi quan trọng: người ta bảo Thầy là ai?; khi dạy các môn đệ cầu nguyện (Lc 11,1-2); khi các môn đệ đi truyền giáo lần đầu tiên trở về; trước khi chịu thương khó (Lc 22,34-46); trong bữa Tiệc Ly; đêm thương khó; trên Thánh giá (Lc 23,34.46)… Lời cầu nguyện đã nuôi sống tất cả sứ mạng của Người.Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Thầy cầu nguyện. Có lẽ khi Thầy cầu nguyện có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn tỏa ra từ nơi con người Thầy.

Vào một buổi sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Chúa Giêsu đã ra khỏi nhà ông Phêrô để tìm một nơi thanh vắng mà cầu nguyện (Mc 1,35). Chúa Giêsu phấn khởi trong Thánh Thần, Ngài ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Con ngợi khen Cha là Chúa trời đất, vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn những điều mà Cha giấu không cho những bậc khôn ngoan và trí thức biết” (Lc 10,21). Chúa Giêsu ngước mắt lên trời tâm sự với Chúa Cha rằng: “Con cảm tạ Cha vì Cha đã nghe lời con cầu xin. Vâng, con biết rằng lúc nào Cha cũng vẫn nghe lời con xin. Sở dĩ con nói thế là để những người đang đứng bên con đây tin rằng Cha đã sai con” (Ga 11,41-41). Đặc biệt là trong phòng Tiệc Ly, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời để cầu nguyện với Chúa Cha. Tâm sự ngỏ với Cha rất nhiều lời tha thiết (Ga 17).

Trong vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu quỳ gối và cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu đựoc thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng xin đừng theo ý con, xin chỉ thực hiện ý của Cha” (Lc 22,42). Lúc hấp hối trên Thánh giá, Chúa Giêsu cầu nguyện gởi lên Cha ba lời tâm sự tha thiết: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm; Lạy Cha, sao Cha bỏ con?; Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Chúa Giêsu dạy phải cầu nguyện như Người hằng cầu nguyện (Lc 6,12); cầu nguyện cho các địch thù (Lc 6,28 ; Mt 5,34); kiên trì và tin tưởng cầu nguyện (Lc 11,5-8.9-13 ; Mt 7,7-11); cầu nguyện với lòng khiêm tốn để nhận ơn tha thứ (Lc 18,9-14); vững tâm cầu nguyện đón chờ ngày Chúa đến (Lc 21,36); cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc 22,40.46)… Khi các môn đệ xin Người dạy cách cầu nguyện, Người dạy họ cầu nguyện với kinh Lạy Cha (Lc 11,2-4 ; Mt 6,9-13). Chúa Giêsu mang theo cả nhân loại trong lời cầu nguyện của mình. Người nói chuyện với Chúa Cha, bàn bạc với Chúa Cha về những việc Người làm cho công cuộc cứu độ nhân loại.

Chúa Giêsu phán: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được”(Ga 15,5).

Mục tử luôn kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu là có một sự hiểu biết sâu xa về Ngài do đã gặp gỡ và sống với Ngài thực sự. Khi thánh Phêrô tìm người thay thế Giuđa Iscariốt, ngài đã nói với cộng đoàn: “Trong số những anh em đã cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được Ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có người trở thành chứng nhân cùng với chúng ta làm chứng Người đã phục sinh” (Cv 1,21-22). Với những lời trên đây, thánh Phêrô, khi chọn người mục tử thay thế Giuđa, đã chỉ đưa ra một tiêu chuẩn là: người đó đã phải cùng sống với Chúa Giêsu và đã tham dự cuộc đời cứu thế của Ngài, một đời mặc lấy thân phận đoàn chiên, yêu thương đoàn chiên, cứu độ đoàn chiên và còn hơn nữa, như lời Ngài nói: “Ta còn có những chiên không thuộc đoàn này. Ta cũng phải đưa chúng về” (Ga 10,16). Ngài cũng khẳng định: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (10,11). Muốn được như vậy, người mục tử phải có những tâm tình của Chúa Giêsu. Nhất là sự khiêm nhường. Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ hãy học với Ngài, đặc biệt là về đức tính“hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chính Ngài đã cứu chuộc loài người bằng sự hiền từ khiêm tốn, vâng phục thánh ý Chúa Cha.

Cầu nguyện là hơi thở của linh hồn, là sự sống, là sức mạnh của đời mục tử. Cầu nguyện là lẽ sống và có một tầm quan trọng đặc biệt trong cuộc sống mục tử. Lời cầu nguyện chỉ thực sự có giá trị và sức mạnh khi phát xuất từ một đức tin có chất lượng và sống động. Mục tử cầu nguyện, hãm mình, đền tội cho giáo dân theo gương cha thánh GioanVianney.

  1. Hy sinh tính mạng vì anh em mình.

Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Mục Tử Tốt Lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên”. Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống cho đàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng Mục Tử của Ngài. Chúa Giêsu so sánh mục tử và người làm thuê. Mục tử tốt lành luôn hết mình vì đàn chiên. Người làm thuê chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử hy sinh cho đàn chiên. Người làm thuê chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Người làm thuê chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình, sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên.

 “Trong bài giảng Lễ Dầu năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khuyên các linh mục : “Cha mời gọi các con điều này, các con hãy là những người chăn chiên có mùi của chiên. Người chăn chiên thì có mùi chiên, làm cho cái mùi ấy thành cái mùi thực, giống các người chăn chiên ở giữa đoàn chiên của các con. Mùi của chiên chỉ có được bằng cách sống các thực tại đời sống hàng ngày của họ, các bối rối khó khăn của họ, các niềm vui của họ, các gánh nặng và các hy vọng của họ”. ĐTC nhấn mạnh thêm rằng mùi ấy cũng có thể phát sinh từ các yêu cầu bất tiện, đôi lúc hoàn toàn vật chất hay hoàn toàn tầm phào. Người chăn chiên phải nhận thức và đồng cảm với ý muốn của đoàn chiên, như Chúa Giêsu đã nhận thức và đồng cảm cái đau ra huyết trắng của người đàn bà khốn khổ trong Tin Mừng. Muốn có cái mùi ấy, các mục tử phải ra khỏi con người mình, phóng mình tới những vùng ngoại biên nơi có đau khổ, đổ máu, mù lòa, giam cầm đủ loại. Mục tử phải cảm nhận được các gánh nặng và bộ mặt của quần chúng giáo dân, trên vai và trong trái tim mình” (Vũ văn An : Đức Phanxicô và mùi chiên, Vietcatholic.net, 4/1/2013). Linh mục cũng được đánh giá theo như ngài có hay không lòng thương yêu, hy sinh cho đoàn chiên của ngài.

Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước. Mục tử tốt lành luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, vị mục tử tốt lành biết rõ đàn chiên, yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Từ đó, vị mục tử tốt lành biết nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao đặc biệt là cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.

Linh mục là Mục tử, người chăm sóc phần hồn các tín hữu. Một sứ mạng rất cao quý. Linh mục noi gương Chúa Giêsu Mục Tử Tối Cao, tận tình phục vụ tha nhân qua công việc mục vụ với đức ái mục tử. Đây là linh đạo của linh mục giáo phận.

Cha sở Gioan Vianney “là mục tử đã sống hết tình với anh em, cầu nguyện nhiều cho dân chúng, đã hy sinh tính mạng vì anh em mình”ngài là bổn mạng các Linh mục. Hôm nay ngày cầu nguyện cho các mục tử, xin ngài giúp anh em linh mục chúng con luôn biết sống theo gương sáng mục tử của ngài. Amen.

Về mục lục

.

TÂM TÌNH SÂU RỘNG CỦA MỤC TỬ NHÂN LÀNH

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó, nhưng họ không kiểu những điều Người nói với họ… Vậy đức Giê-su lại nói…’ Tôi có cảm tưởng khi tự đồng hóa mình với hình ảnh người mục tử tốt lành, Đức Giê-su đã không chỉ muốn khảng định một khái niệm, một so sánh; đúng hơn Người đang muốn diễn đạt một tâm tình. Chính cái tâm tình ấy, chứ không phải là khái niệm hay ý tưởng (đã từng được diễn đạt trong Cựu Ước), là điều mà nhóm Pha-ri-sêu thủ lãnh thẳng thừng chối bỏ. Tâm tình mục tử độc đáo được Đức Giê-su áp dụng cho mình gồm hai yếu tố không thể tìm thấy nơi bất cứ một nhân vật nào khác, đó là:

– Yếu tố chiều sâu: “Anh gọi tên từng con… biết chiên của mình… và hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên”.

–  Yếu tố chiều rộng: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi phải đưa chúng về”.

Chiều sâu của tâm tình: Chiên nhận biết và nghe tiếng của mục tử… đó là điều xảy ra hết sức tự nhiên, như phản ứng tất yếu trước tâm tình của Người Mục Tử chân chính được biểu lộ bằng hành động. “Anh gọi tên từng con…” (câu 3) Người Do Thái thừa hiểu ‘gọi tên’ có nghĩa là gì (xem St 2:20; Lc 1:59-63). Khi khảng định người mục tử ‘gọi tên từng con’, Đức Giê-su chắc hẳn muốn khảng định sự trân trọng của Mục Tử đối với từng con chiên, bất luận chúng thế nào. ‘Gọi tên’ trong cách nói của người Do Thái hàm ý, giữa mục tử và chiên có một mối liên hệ nhân vị hết sức mật thiết, vừa mang nội dung thuộc về nhau, vừa nói lên trách nhiệm chăm sóc phát huy, lại vừa trân trọng giá trị riêng của mỗi con chiên trong hiện hữu cũng như trong sứ mệnh của chúng. Và còn hơn thế nữa, “Tôi biết chiên của tôi!” Cũng như ‘gọi tên’, người Do Thái hiểu rõ ý nghĩa sâu sắc của từ ‘biết’ hơn hẳn chúng ta ngày nay (xem St 4:1; Lc 1:34). ‘Biết’ chính là kết hiệp bền chặt, là thấm nhập vào nhau, là truyền cho nhau sức sống trong yêu thương và quí chuộng. Nếu Mục Tử nhân lành quả là như thế, thì đúng là mối liên hệ giữa Người với chiên không còn gì là bình thường nữa, đúng hơn đã trở thành điên khùng rồi. “Ông ấy bị quỷ ám và điên khùng rồi, nghe ông ấy làm gì!” (câu 20) Nhưng đối với bất kỳ con chiên Ki-tô hữu nào, thì đi sâu vào tâm tình đó mới quả thật là cả một khám phá, là ‘nghe và thấu hiểu được’ tiếng yêu thương – nhân ái khôn lường của Mục Tử Giê-su.

Chiều rộng của tâm tình:Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi phải đưa chúng về!” Có lẽ không mục tử nào lại có tâm tình khùng điên và phi lý đến thế: đã không thuộc ràn mình thì tại sao lại cất công đưa về, họa chăng là kẻ tham lam muốn chiếm đoạt? Phải, Vị Mục Tử Nhân Lành này quả thực là một mục tử vô cùng tham lam, chỉ vì cõi lòng của Người không chút hạn hẹp. Tình yêu dâng hiến đối với từng con chiên không ngăn cản Người tiếp nhận hết mọi con, không loại trừ bất cứ con nào, kể cả lúc chúng không thuộc về ràn của mình. Và không chỉ các chiên tốt lành khỏe mạnh, mà cả những con ốm đau ghẻ lở; không chỉ các chiên ngoan trong ràn, mà cả (đúng hơn, nhất là) những con tinh nghịch trốn chạy khỏi ràn; thậm chí cả các chiên thuộc các ràn tranh giành, đối kháng hoặc thù nghịch với Người. Con tim của Mục Tử này – và duy nhất chỉ có vị này trên trần gian – muốn ôm lấy tất cả, để… “hy sinh mạng sống” cho tất cả! Và rồi các chiên, một khi đã thuộc về ràn của Người, chắc hẳn sẽ không thể giữ cái thái độ hẹp hòi, khư khư bảo vệ quyền lợi riêng tư của mình. Tâm tình trải rộng của vị Mục Tử phải trở thành tâm tình của từng con chiên trong ràn, để có thể “vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chin mươi chin người công chính không cần sám hối ăn năn”; đồng thời chấp nhận cả những thiệt thòi, nếu đôi khi có cảm thấy vị Mục Tử của mình nhẫn tâm ‘để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất” (Lc 15: 4-7).

Trong tư cách linh mục tôi thiết nghĩ, nếu chỉ trong tư cách chiên mà tôi đã phải thấm nhập được vào cái tâm tình sâu rộng như trên, huống hồ chi là người, mà đôi khi vẫn thường được nhắc nhở trở nên ‘mục tử như lòng Chúa mong ước’. Nếu không liên tục chiêm ngắm vị Mục Tử Giê-su tự hiến trên thập giá, nếu không liên tục kết hiệp với Người, hỏi liệu tới khi nào tôi mới đáng mang danh là linh mục nhân lành của Chúa? Chính vì vậy mà sốt sáng cử hành Thánh Lễ mỗi ngày, đối với bất cứ linh mục chân chính nào, cũng có tầm quan trọng sống còn. Cầu nguyện cho có được các linh mục thông minh tài đức không phải điều khó, cái khó là có được nhiều mục tử hội nhập được tâm tình rộng sâu của Mục Tử Nhân Lành Giê-su!

Ôi Mục Tử Nhân Lành, xin cho mọi linh mục của Chúa hiểu được tâm tình Chúa có đối với từng con chiên trong chính bản thân của chúng. Trong tư cách là chiên được Chúa chăn nuôi, chính con phải là người đầu tiên hiểu ra rằng Chúa đã đích danh ‘gọi tên’ con, và ‘biết’ con, bất chấp những yếu đuối của con. Xin Chúa gợi cho con nhớ rằng, mỗi khi được một ai đó gọi mình là linh mục, con cũng biết tiến sâu thêm một bước nữa vào tâm tình rộng sâu của vị Mục Tử Nhân Lành duy nhất. A-men.

Về mục lục

.

CHÂN DUNG VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH

Lm. GB. Trần Văn Hào

Trong Giáo Hội có rất nhiều vị mục tử thánh thiện và gương mẫu, đáng để chúng ta noi theo. Nhưng, mẫu gương tuyệt hảo nhất chính là Đức Giêsu, vị Mục tử nhân lành khả kính, Đấng mà Giáo hội hôm nay mời gọi chúng ta quy hướng về. Giáo hội dành riêng ngày Chúa nhật tuần 4 mùa Phục sinh với các bài đọc Lời Chúa để chúng ta học hỏi nơi Đức Giêsu, nguyên mẫu mục tử cho tất cả mọi người.

Tình yêu mục tử nơi Chúa Giêsu được hiển thị rõ nét qua ba chiều kích : Vị mục tử biết chiên của mình, vị mục tử lặn lội đi kiếm tìm con chiên lạc, và vị mục tử nhân lành đã hy sinh mạng sống cho đoàn chiên.

Mục tử nhân lành ‘biết’ các chiên của mình

Trong Tin mừng Gioan chương 10, Chúa Giêsu đã nói về đặc nét căn bản này. Trước hết, vị Mục tử nhân lành biết rõ từng con chiên trong đàn :“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,27). Đây không phải là cái biết của tri thức, nhưng đó là thái độ biết chiên được biểu tỏ bằng sự hiệp thông sâu xa. Trong Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần nói về việc Ngài biết Chúa Cha và thi hành những công việc được Chúa Cha trao phó (Ga7,29; Ga 8,19; Ga 9,55,…). Tương tự như thế, Ngài mời gọi các học trò của mình bắt chước Ngài, ‘biết’ các con chiên, giống như Ngài đã biết. Chúa là vị Mục tử nhân lành luôn luôn biết các con chiên thuộc đàn của mình.

Để diễn bày thái độ ‘biết’ chiên, Đức Giêsu đã đi vào trần gian, chia thân sẻ phận với chúng ta. Ngài vui với người vui, khóc với người khóc. Ngài đi dự tiệc cưới tại Cana để chung chia niềm vui với đôi uyên ương trẻ. Ngài thổn thức trước cái chết của đứa con trai bà góa thành Naim. Chúa cũng rơi lệ khi đứng trước ngôi mộ của Lazarô, người bạn nghĩa thiết. Đức Giêsu là Thiên Chúa rất Thiên Chúa, đồng thời Ngài cũng là một con người rất con người, gần gũi với cuộc sống đời thường, sống giống hệt như chúng ta ngoại trừ tội lỗi.

Trong một bài giảng mùa chay, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng khuyến mời các vị mục tử đừng bao giờ ‘mỏi mệt’ để biết các con chiên của mình và người Mục tử phải có ‘mùi chiên’. Cụ thể, Đức Thánh Cha vẫn hay đến thăm các nhà tù, đã từng cúi xuống rửa chân cho các thiếu niên phạm pháp, đã ngồi ăn uống chung với những người vô gia cư… Điều Đức Thánh Cha thực hiện, không phải là một học thuyết mới lạ mang tính cách mạng, nhưng Ngài chỉ muốn sao chép lại cách sống của Chúa Giêsu, vị Mục tử nhân lành luôn biết các con chiên của mình, và mang nơi mình ‘mùi’ của từng con chiên.

Mục tử nhân lành đi kiếm tìm con chiên bị lạc

Chúa Giêsu không phải là một lý thuyết gia. Ba dụ ngôn mà Thánh Luca viết lại trong chương 15 diễn bày chân dung cứu thế và lòng thương xót của một vị mục tử đích thực. Đó là dụ ngôn kể về người đàn bà đi tiềm kiếm đồng bạc bị mất, dụ ngôn người chăn chiên lặn lội tìm kiếm con chiên đi lạc, và nhất là dụ ngôn đứa con hoang đàng trở về trong sự vui mừng tột độ của người Cha. Chúa đã chọn cái chết bi thương trên Thập giá để diễn bày lòng thương xót và sự tha thứ vô điều kiện đối với các tội nhân. Phán quyết của Đức Giêsu, một vị quan tòa đầy lòng thương xót khi Ngài nói với người phụ nữ phạm tội ngoại tình, cũng là phán quyết Chúa ngỏ trao tới từng người chúng ta, là những tội nhân đáng phải chết : “Tôi không kết án chị đâu. Hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Trong một bài giảng tại Missouri bên Hoa kỳ, Đức Hồng Y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã dí dỏm nói rằng Đức Giêsu là một học sinh rất dốt toán. Ngài coi con số 1 lớn hơn con số 10. Ngài cũng là một kinh tế gia khá tồi, vì dám liều bỏ lại 99 con chiên khỏe mạnh để lặn lội đi tìm kiếm một con què quặt đang đi lạc. Ngài cũng là một kẻ đãng trí và hay quên. Ngài không nhớ cô gái đang ngồi khóc bên chân Ngài là một cô gái điếm khét tiếng, cũng quên mất tên tử tù bị đóng đinh bên cạnh Ngài là một tay gian phi nguy hiểm với một quá khứ đặc kín tội ác… Bởi vì, Chúa Giêsu luôn mãi là một Mục tử nhân lành, và Ngài mắc phải một căn bệnh kinh niên, đó là bệnh dễ quên. Căn bệnh lú lẫn và hay quên của Chúa thật đáng trân quý biết bao.

Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên

Chúa Giêsu đã nói: “Tôi đến để chúng được sống và sống dồi dào.” Thánh giáo phụ Irênê cũng đã viết : “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống”. Để chúng ta được sống và sống dồi dào, Đức Giêsu đã chấp nhận cái chết khủng khiếp giống hệt một tên tử tội đốn mạt. Ngài đã nói: “Cha tôi đã làm việc, và tôi cũng luôn làm việc”. Công việc của Ngài là hy sinh tính mạng để đem lại sự sống cho con người, phục hồi cho ta phẩm giá cao quý được làm con Thiên Chúa. Thánh Phanxicô Salê đã nói: “Điều linh thánh nhất trong tất cả mọi điều linh thánh là làm việc cho thiện ích các linh hồn (Divinissimum divinorum est opere ad lucrum animorum)”. Điều linh thánh ấy, Đức Giêsu đã thực hiện trong 3 năm rao giảng và cao điểm cuối cùng là Ngài chấp nhận cái chết oan ức trên Thập giá để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Ngài trở nên nguyên mẫu cho tất cả chúng ta, vì Ngài là Mục tử toàn hảo, đã hy sinh ngay cả mạng sống cho đoàn chiên.

Kết luận

Một linh mục trẻ đã chia sẻ tâm sự của mình trên blog như sau: “Tôi có một người bạn và cũng là một người anh rất thân thương. Ngài là một linh mục, lớn tuổi hơn tôi, và hình ảnh của vị linh mục đó luôn in đậm dấu ấn trong cuộc đời tôi. Ngài được bề trên sai về coi sóc một giáo xứ mới thành lập, và Ngài cũng là Cha xứ đầu tiên của giáo xứ đó. Giáo dân rất quý mến Ngài, vì Ngài hiền lành, luôn sống yêu thương chan hòa với mọi người. Ngài đặc biệt quan tâm tới những người nghèo, những bệnh nhân, những cụ già đơn chiếc và đặc biệt Ngài quý mến các trẻ em. Nhưng có một số vị trong ban hành giáo lại không thích Ngài. Lúc đầu họ ngấm ngầm chống đối, rồi dần dần ra mặt phản kháng công khai. Có điều kỳ lạ, là giáo dân trong giáo xứ cho dầu kính phục Cha xứ của họ, nhưng đã bị ban trùm lôi kéo và dần dần quay lại chống đối Ngài. Một kết cục rất đau buồn đã xảy ra, là đến một ngày đã sắp xếp, cả xứ kéo vào nhà xứ và dã tâm đập chết vị Linh mục mà trước đây họ rất nể phục. Người ta báo cho chính quyền, chính quyền cũng làm ngơ và ra vẻ như đồng thuận. Bà cố của Cha khi nghe tin, đã rất đau khổ, tâm hồn tan nát như chết lặng. Tuy nhiên, bà cố không bao giờ than trách, chẳng tỏ dấu buồn bực hay trách cứ một ai. Dần dần, danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến. Từ khắp nơi, người ta kéo đến giáo xứ để tưởng nhớ đến Ngài và cầu nguyện trước di ảnh của Ngài như một đấng Thánh.

Người ta mới thắc mắc và hỏi: “Thế, Cha xứ đó tên là gì, và ở đâu ? Chúng tôi cũng muốn đến kính viếng và học hỏi nơi cuộc sống của Ngài”. Vị linh mục trẻ kia trả lời: “Ngài ở rất gần đây và cũng chẳng lạ lẫm gì. Tên Ngài quen thuộc lắm. Vị Cha xứ đáng kính đó tên là Giêsu”.

Giêsu chính là vị Mục tử khả ái, người Mục tử nhân lành. Ngài đã trở nên khuôn mẫu tuyệt hảo nhất cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay, nhất là cho các anh em linh mục.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU – MỤC TỬ NHÂN LÀNH

Lm. Barnaba Lê An Phong

Từ Phúc Âm của Thánh Gioan, chúng ta nghe lại lời của Chúa Giêsu về Mục Tử Nhân Lành trong cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó, đặc biệt là nhóm Pharisêu. Sau khi xác nhận những khác biệt cơ bản giữa các mục tử thật và mục tửgiả hiệu (Ga 10, 1-18), Chúa Giêsu đã tuyên bố những yếu tố quan trọng mối quan hệ giữa người tin vào Người và bản thân Người, giữa người chăn chiên tốt lành với đàn chiên của mình. Chúng ta suy niệm với nhau hai điểm sau đây.

Về người chăn chiên

– “Chiên của tôi nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” Biết là động từ diễn đạt cho chúng ta hay vềhoạt động của lý trí, của việc nắm bắt một thực tại. Mục Tử Nhân Lành biết đàn chiên của mình. Người không chỉ biết số lượng (100 con), biết tính toán (99 con tốt và 01 con lạc đàn). Ngài còn nhận biết chiên của mình, cả con tốt lành, ngoan hiền lẫncon làm loạn, hư đốn;biết những conđau yếu vàcả những con mạnh khỏe.

Là một mục tử tốt lành, Chúa Giêsu còn biết nhiều hơn cùng với việc “lắng nghe” và “dõi theo” đàn chiên;nhưngviệc nhận thức ấy không là“kiến thức thực tế”theo kiểu của một giám sát viên đang theo dõi một hoạt động xây dựng, của một công an đang theongười phạm luât giao thông, của một thẩm phán đang xét xử. Chúa Giêsu – Mục tử nhân lành biết đến chiên của mình như một người có sự dịu dàng của một người mẹ khi bà dành cho cậu con trai nhỏ của mình sự nâng đỡ hướng dẫn, chăm sóc; và giống như của một người cha đã nhìn thấy trước và chuẩn bị tương lai cho những đứa con của mình,khi ông biết sức lực và tài năng, biết cả những cố gắng, những thành công và những thất bại của chúng… Đây là “kiến thức của cõi lòng” (sapientia cordis) của người chăn chiên tốt biếtđàn chiên và từng con chiên của mình.

– “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, chúng sẽ không bị hư mất mãi mãi và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”.Mục tử nhân lành đã khẳng định một sự thật tuyệt đối: Người sẽ sử dụng tất cả sức mạnh của mình để giữ an toàn cho con chiên của mình.

Nhưng với sức mạnh nào mà Chúa Giê su Mục tử nhân lành giữ lấy chiên của mình? Vị Mục tử Nhân lành yêu thương và đối xử tốt lành với từng con. Sợi dây làm hàng rào nơi ràn chiên và giữ chúng lại trong đàn là tình yêu thương và sự quan tâm, là việc hy sinh bản thân mình cho cuộc sống của đàn chiên bằng cách chết trên thập tự giá. Và đây chính là sức mạnh của Mục tử nhân lành, cũng là sức mạnh của Thiên Chúa Cha, bởi vì “Tôi và Chúa Cha là một”.Và Người làm điều hy sinh lớn lao đó không chỉ cho bản thân mình, nhưng làm như vậy vì Thiên Chúa, nhân danh Chúa Cha và với tất cả thẩm quyền của Chúa Cha.

– “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời và sẽ không bị hư mất mãi mãi”.  Đây là công việc và tất cả kết quả trong tay của Mục tử nhân lành. Việc bảo vệ và hướng dẫn đàn chiên là hành động nhằm mang lại lợi ích cao nhất cho đàn chiên.Đó là một cái gì đặc biệt, nhiều hơn, cao hơn, sâu hơn sovới những gì thuộc thế giới này mà vị mục tử nhân lành muốn làm cho đàn chiên – sự sống đời đời. Đó phảiđích đến cho một thế giới khác, là sự sống nơi Thiên Chúa và Vương quốc tình yêu của Ngài.

Về đàn chiên

– “Chiên của tôi nghe tiếng tôi”.Lời Chúa như muốn chúng ta tự vấn: Mỗi người Kitô hữu luôn luôn là người biết lắng nghe? Đâu là lời mà họ muốn nghe từ chủ chăn của mình?

Lắng nghephải là một thái độ đón nhận vàchuyển hoá lời đó qua hành động. Đối với chúng ta, Chúa Chiên Lành được coi là Thầy dạy căn bản và đầu tiên. Người là Ngôi Lời của Thiên Chúa, và Lời của Người đồng thời cũng là điều cần thiết cho cuộc sống chúng ta. Trong Ngài, đàn chiên còn được nghe lời yêu thươngvà từ ái của một Thiên Chúa – Đấng giàu lòng xót thương.

– “Tôi biết chúng và chúng biết tôi”: Như đàn chiên thuộc về Đức Kitô, chúng ta biết gì về Mục tử của mình? Bước theo Mục Tử Nhân Lành, chúng ta phải đi theo một cuộc hành trình: Thông qua Bí tích rửa tội, mỗi con chiên có thể bước đi bằng đức tin của mình với Chúa Giêsu;nhưng đích đến của cuộc hành trình vẫn còn xa. Sống trong đàn chiên là Giáo Hội và từng bước, từng bước trong đời sống hằng ngày, người kitô hữu phải tiến về phía trước theo lời mời gọi của Mục tử -Đấng yêu thương họ: Đó là sống theo Tin mừng, tập luyện đời sống nhân đức và luôn bước đi trên con đườngngay chính, hướng về sự thiện hảo là chính Thiên Chúa, không tách mình ra khỏi đàn chiên, không rẻ ngang bước tắt trên đường đi vì những đam mê và tính toán và lợi ích của riêng mình…

Trong ngày lễ Chúa Chiên lành, chúng ta cùng cầu nguyện cho các mục tử và cầu nguyện cho ơn gọi.

Những lời nói của Chúa Giêsu đã từng gây sốc cho người Pharisêu, bởi vì đôi tai và trái tim mục tử của họ đã khô cứng theo mô hình trong Cựu Ước.Khi mà vị trí của họ được coi là thầy dạyquan trọng và nắm trong tay quyền lực mạnh mẽ thì họ đã không muốn thay đổi, không muốn yêu thương, cũng như không muốn nhìn thấy sựhiện diện đầy yêu thương của vị Mục tử là chính Đấng Cứu thế. Lời cảnh cáo của Đức Giêsu Mục tử tiếp tục gây sốc cho nhiều mục tử của Giáo Hội ngày nay, trong công việc mà thường được gọi là “mục vụ”. Chúng ta hãy cầu nguyện cho điều này: Cầu cho các mục tử ai ai cũng biết sứ vụ quan trọng của mình, nhận biết đàn chiên và từng con chiên, biết sử dụng sức mạnh của tình yêu thương và sự hy sinh để canh giữ đàn chiên, và biết quan tâm hơn cho sự sống đời đời của đàn chiên.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH_B

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Hôm nay Chúa nhật Chúa Chiên Lành, ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ trong toàn thể giáo hội. Phụng vụ Lời Chúa trình bày Đức Giêsu là mục tử nhân lành rất yêu thương chúng ta là những con chiên của Ngài. Ngài chăm sóc chúng ta và dẫn đưa chúng ta đến cuộc sống hạnh phúc muôn đời. Hình ảnh người chăn chiên và đàn chiên rất quen thân đối với người Do thái, họ làm nghề chăn chiên. Cuộc sống của người Do thái gắn bó với con chiên.

Thời cựu ước, Thiên Chúa là vị Mục tử nhân lành và dân Do Thái là đàn chiên được Thiên Chúa yêu thương và chăm sóc tận tình. Mối tương quan gắn bó giữa chủ chăn và con chiên là hình ảnh sống động, cụ thể của mối tương quan giữa Thiên Chúavà con người. saunày, chính Chúa Giêsu xác nhận Ngài là Mục tử nhân lành và tất cả mọi người đều là những con chiên của Ngài. Chính Chúa Giêsu đã phán: “Tôi là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống mình vì đàn chiên”.

Sau đây chúng ta chiêm ngắm Đức Giêsu, vị mục tử nhân lành. Những đặc tính của người mục tử nhân lành:

– “Hy sinh mạng sống vì đoàn chiên” Đức Giêsu ví mình như mục tử nhân lành khác với người chăn chiên, vì người đã dám hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên. Cái chết tự hiến trên thập giá của Ngài nói lên tột đỉnh của tình yêu: chết cho mọi người để tất cả được cứu độ, được sống dồi dào. Ngài muốn nói đến sứ mạng cứu thế của Ngài hiến mạng sống mình để cứu chuộc muôn dân. “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15, 13).

– Người mục tử nhân lành biết các con chiên và được các con chiên biết “Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta”. Điều này nói lên sự hiệp thông trong tình yêu giữa Chúa Giêsu và các con chiên. Vì thế, biết ở đây không chỉ  là biết có tính cách tri thức, mà còn biết trong tương quan tình yêu. Đó là sự hiểu biết nhau sâu xa, gắn bó thân mật giữa mục tử và đoàn chiên, như sự hiệp thông giữa Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu: Đức Giêsu yêu thương mỗi người với một tình yêu hy sinh, yêu vô điều kiện, yêu với sự bao dung tha thứ. Biết trọng tình yêu là hiểu biết nhu cầu, tâm tư nguyện vọng của đoàn chiên để đáp ứng thật tốt làm cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào về mọi phương diện.

– Người mục tử nhân lành muốn quy tụ những con chiên khác ở ngoài đàn chiên mình để rồi chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên: “Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này, cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn. Chúng sẽ nghe tiếng Ta, và chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên”. “Đàn này” là dân tộc Irael, ám chỉ Giáo Hội của Chúa Giêsu: Ngài muốn tất cả mọi người đều được cứu độ. “Chiên khác” ám chỉ tất cả dân ngoại sẽ tin vào Đức Giêsu, sẽ là chiên của Ngài. Sau cùng chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên duy nhất. Đó là Giáo Hội của Chúa Giêsu gồm những người tin nhận Tin Mừng và Thiên Chúa là Mục tử duy nhất!

Ngày nay, Đức Giêsu vẫn cần những Mục tử tốt lành lo cho đoàn chiên trên thế giới. Thời nào Giáo hội cũng vẫn thiếu Linh mục, Tu sĩ… Nói cách khác thiếu Mục tử để phục vụ đoàn chiên của Chúa. Vì thế, hôm nay là Chúa nhật cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ. Giáo hội kêu gọi mọi người Kitô hữu cầu xin Thiên Chúa ban cho giáo hội nhiều mục tử tốt lành, có nhiều bạn trẻ biết hy sinh hiến thân cho Chúa, cho giáo hội, cho mọi người trong lý tưởng sống đời tu trì. Lý do Giáo hội lấy ngày Chúa nhật Chúa Chiên Lành làm ngày cầu nguyện cho ơn gọi các linh mục, tu sĩ:

– Các Linh mục, Tu sĩ vẫn luôn là lực lượng quan trọng nhất, nòng cốt trong việc loan báo Tin mừng. Ngày nay, trên thế giới, ơn gọi Linh mục, Tu sĩ giảm sút trầm trọng. Tại Việt Nam, hiện nay dân số là 85 triệu dân, chỉ có 7 triệu Công giáo, 3.250 linh mục. Mỗi một Linh mục phải phụ trách 2.500 giáo dân. Về công tác loan báo Tin mừng, thì một linh mục phục vụ 32.500 lương dân.

– Việc thanh niên nam nữ muốn đi tu, vào chủng viện, vào nhà dòng còn gặp nhiều cản trở từ những quy định của nhà nước về chính sách tôn giáo.

– Việc phong chức linh mục, gởi các linh mục, tu sĩ đến các vùng sâu vàng xa phục vụ rất khó khăn, bị hạn chế.

– Ơn gọi tu sĩ giảm sút trầm trọng ở tỉnh thành, ơn gọi tu sĩ đa số là ở thôn quê. Hiện tình trạng dân số đã ảnh hưởng đến đời sống tu trì. Ngày nay một gia đình chỉ có 2 người con, nên cha mẹ không muốn cho con đi tu.

– Ảnh hưởng phong trào tục hóa, hưởng thụ, nền kinh tế thị trường đến đời sống đức tin, đời sống tu trì. Người ta chủ trương sống hiện sinh, thụ hưởng, không tin vào cuộc sống mai sau: Thiên đàng trần gian. Như thế đi tu là lỗi thời!

Qua lời Chúa hôm nay, Giáo hội hướng chúng ta về Đức Giêsu Kitô, vị mục tử nhân lành hy sinh mạng sống, yêu thương chúng ta là những con chiên của Người. Vậy chúng ta có phải là những con chiên ngoan hiền của Chúa không?

Thời nào cũng cần có nhiều mục tử tốt lành để phục vụ nhân loại. chúng ta cầu xin Chúa cho Giáo hội Việt Nam có nhiều mục tử như lòng Chúa mong ước để đáp ứng nhu cầu của Giáo hội. Muốn được điều này, gia đình phải là vườn ươm trồng ơn gọi, cha mẹ động viên con em mình dâng mình cho Chúa. Cha mẹ nêu gương đạo đức cho con cái trong gia đình… hướng dẫn đời sống đức tin cho con em mình, lo cho con cái học hành tốt, sống đạo đức.

Yêu mến Thiên Chúa, yêu mến Giáo hội và yêu mến các linh hồn là động lực thúc đẩy người trẻ hôm nay sống đời thánh hiến, sống đời tu trì.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH_B.

Lm.Đinh Tất Quý

Kính thưa anh chị em. 

Như anh chị em đã được loan báo từ tuần trước: Hôm nay là ngày toàn thể Giáo Hội cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Nói cụ thể hơn đó là ngày Giáo Hội cầu nguyện cho ơn gọi Linh Mục và tu sĩ. 

Trong một ít phút suy niệm này tôi xin có một vài tâm tình chia sẻ với anh chị em

Trước hết chúng ta hãy cầu nguyện 

Xin Chúa ban cho Giáo Hội có nhiều thanh niên nam nữ tận hiến cuộc đời của mình để phục vụ Chúa và anh em đồng loại trong Giáo Hội của Chúa. 

Như anh chị em đã thấy: Ngay khi Chúa Giêsu vừa mới bắt đầu khởi sự việc rao giảng Tin Mừng thì Ngài đã để ý ngay đến việc chọn lựa một số người rồi Ngài để tâm giáo dục họ một cách đặc biệt để sau này khi Chúa về trời thì những người này sẽ nhiệt tình tiếp tục công việc của Chúa cho đến ngày tận thế. Chẳng cần phải nói nhiều, anh chị em cũng biết được đó chính là các Tông Đồ, những con người đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời của mình cho việc phục vụ Chúa và anh em đồng loại của mình. 

Như vậy thì vấn đề ơn gọi Linh mục và tu sĩ trong Giáo Hội hôm nay cũng có chung một mục đích như thế. 

Bộ Giáo luật mới đã khẳng định thật rõ ràng: “Đời sống Linh mục và Tu sĩ là sự sống còn của Giáo Hội”. Lý do cũng rất dễ hiểu: Vì Giáo Hội là một thực tại vừa có tính cách siêu nhiên vừa có tính cách trần thế. 

Về phương diện siêu nhiên: Giáo Hội là của Chúa, do Chúa thiết lập. Điều đó đã quá rõ ràng không cần phải nói nhiều. 

Nhưng còn về phương diện trần thế thì có hơi khác. Giáo Hội tại thế là một tổ chức. Chính vì thế mà Giáo Hội cần phải có những người dám hy sinh cuộc đời của mình để phục vụ Chúa và anh em đồng loại trong tổ chức này một cách đặc biệt hơn.

Từ nhiều thế kỷ qua những người hiến thân phục vụ Chúa và anh em đồng loại trong đời sống Linh mục và Tu sĩ đã đem lại rất nhiều kết quả tốt đẹp cho Giáo Hội. Đó là một thực tế mà ai cũng phải nhìn nhận. 

Thế nhưng như Chúa nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”. Nhu cầu thì thật nhiều nhưng sự đáp ứng lại thì quả thực chưa bao giờ đủ, đặc biệt là vào khoảng ba bốn chục năm nay. Phải thành thực mà nhận rằng Giáo Hội đã và đang gặp một cuộc khủng hoảng rất trầm trọng về ơn gọi linh mục và tu sĩ, nhất từ lúc trước và sau Công dồng Vaticanô II. Hậu quả của cuộc khủng hoảng này vẫn còn kéo dài cho mãi đến hôm nay – đặc biệt là tại các nước đang phát triển và văn minh. 

Đã có lúc người ta tưởng như thất vọng. Nhưng rất may là ngày nay trong Giáo Hội Chúa lại đang làm bừng lên một cao trào mới. Có thể nói đây là một nét đặc trưng trong sinh họat của Giáo Hội hôm nay. Đó là những anh chị em dâng hiến cuộc sống mình để phục vụ cho Chúa và anh em đồng lọai trong đời sống của một người tu sĩ nhưng lại sống ở giữa đời. Giáo luật mới gọi những anh chị em này là những “tu sĩ đời”. Thực ra thì dưới danh nghĩa hay hình thức nào cũng được “Miễn là Chúa được vinh danh”. Thánh Phao-lô xưa đã chủ trương như thế. 

Vậy thì hôm nay Giáo Hội muốn cho chúng ta ý thức nhiều hơn đến vấn đề này để rồi không phải chỉ là ngày hôm nay mà là mỗi ngày chúng ta phải cầu nguyện cho mục đích rất cao quí này. 

Tâm tình thứ hai:

Xin anh chị em cầu nguyện cho tôi cũng như những người anh em của tôi trong chức vụ linh mục để chúng tôi được sống xứng đáng với ơn gọi của mình. Tôi tưởng đây cũng là mục đích của ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu hôm nay nhắm tới. Hôm nay không phải chỉ là ngày cầu nguyện để cho Giáo Hội có thêm những anh chị em dám hiến thân cho Chúa trong đời sống linh mục và tu sĩ mà còn phải cầu nguyện cho những người đã làm linh mục và tu sĩ được sống xứng đáng với ơn Chúa gọi mình. 

Các linh mục và tu sĩ rất cần đến sự trợ lực bằng những lời cầu nguyện và sự nâng đỡ của anh chị em. Trong cuốn Giáo lý mới, Giáo Hội coi đó là bổn phận của mọi tín hữu.  Dù Chúa đã gọi và chọn chúng tôi lên chức vụ cao quí nhưng chúng tôi cũng vẫn là một con người – một con người với tất cả những yếu đuối cũng như những tầm thường của nó. 

Để sống một cuộc sống của một người mục tử cho đúng nghĩa không phải dễ dàng. Rất khó khăn kính thưa anh chị em. Nó đòi hỏi rất nhiều đức tính đặc biệt và đôi khi đòi hỏi cả sự liều lĩnh nữa. 

Ngày 6 tháng 9 năm 1943, năm người lính thuộc đội quân của Đức quốc Xã bị phục kích và bị sát hại trên đường hành quân gần một thành phố Italia. Để trả thù, viên đại tá chỉ huy quân đội Đức cho bắt năm mươi người có thế giá nhất trong thành phố rồi đợi ngày đem đi xử bắn. 

Được tin, Đức Tổng Giám Mục sở tại và Đức Cha phó nhất định tìm cách cứu sống những thường dân vô tội này. Khi đến ngày bị xứ bắn, năm mươi người dân vô tội đó bị bịt mắt, bị trói chặt hai tay về phía sau lưng rồi đứng thành hàng dài trước công trường của thành phố. Dân làng và thân nhân của họ chỉ được chứng kiến tấn thảm kịch khủng khiếp này từ xa. Phía sau lưng những người  bị xử bắn là một hàng lính thuộc quân đội Đức quốc xã đang sẵn sàng chờ lệnh để bóp cò nhả đạn để kết thúc cuộc đời của những người vô tội. 

Một lần nữa Đức Tổng Giám Mục lại tìm cách thuyết phục viên đại tá để xin ông xét lại và tha chết cho những người dân vô tội này. Thế nhưng ông ta vẫn cứng lòng. Ý chí cương quyết trả thù còn hiện rõ hơn lên trên nét mặt đã vốn lạnh lùng của ông. 

Giờ đã điểm, một hồi còi hú lên báo hiệu giờ phải đến đã đến. 

Đức Tổng Giám Mục lại một lần nữa nài nỉ xin cho được một đặc ân cuối cùng: Ngài xin cho ngài và Đức Giám Mục phó được ôm hôn từng người sắp bị xử bắn, xức dầu tha tội và ban cho họ những lời khích lệ cuối cùng. 

Thật là may mắn! Lời thỉnh cầu của Ngài được chấp thuận. Sau khi ban phép lành tha tội cho người thứ 50, Đức tổng Giám Mục và Đức Cha Phó tự nguyện đứng tiếp nối vào hàng ngũ của những người bị xứ bắn. Với tất cả tấm lòng chân thành, vị mục tử của đoàn chiên đang phải sống những giờ phút hãi hùng đến cực độ, bình thản nói với viên đại tá: “Bây giờ không phải chỉ có 50 người mà là 52 người. Chúng tôi xin ngài cứ hạ lệnh bắn. Xin Thiên Chúa nhân từ tha thứ các tội ác của Ngài” 

Đức Tổng Giám Mục vừa dứt lời, thì bỗng dưng từ trong bầu khí chìm ngập sự  chết chóc vang lên những tiếng vỗ tay reo hò.Tất cả 50 khẩu súng đang nhắm vào 50 người vô tội cùng một lúc dần dần hạ xuống và thế là cả chủ chăn và đàn chiên đều được thoát chết.

Lạy Chúa Giêsu 

Chúng con cầu xin cho các linh mục của Chúa thấy Chúa thật lớn lao, 

để đối với các ngài, mọi sự khác trở thành bé nhỏ 

Xin cho các linh mục của Chúa thấy Chúa thật bao la 

để cả mặt đất này cũng chưa đủ cho các ngài sống 

Xin cho các linh mục của Chúa thấy Chúa thật thẳm sâu 

để các ngài biết đón nhận mọi nỗi khổ đau sâu thẳm nhất 

Lạy Chúa Giêsu 

xin làm cho các linh mục của Chúa thật mạnh mẽ 

để không một nỗi thất vọng nào có thể chạm vào được các ngài 

Xin làm cho các linh mục của Chúa được thật đầy ắp, 

để ngay cả một chút ước muốn tầm thường nhỏ nhoi cũng không còn có chỗ trong lòng các ngài. 

Xin Chúa làm cho các linh mục của Chúa thật lặng lẽ, 

để các ngài chỉ còn biết một điều là loan báo Chúa mà thôi. 

Và cuối cùng chúng con xin Chúa ngự trong các linh mục của Chúa thật sống động, để không phải là các ngài mà là chính Chúa đang sống. Amen.

Về mục lục

.

MỤC TỬ NHÂN LÀNH HY SINH MẠNG SỐNG CHO ĐOÀN CHIÊN

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

Tôi chính là Mục Tử nhân lành.

Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên  

I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (10,11-18):

(11) Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. (12) Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, (13) vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. (14) Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, (15) như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.

(16) Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. (17) Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. (18) Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.”  

II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (10,11-18):    

2.1 Mấy ngày qua nhiều người thích thú chuyển cho nhau tin về một vị tân giám mục Pháp đi bộ từ Paris đến thành phố Chartres để nhận chức Giám mục của giáo phận này. Đó là Đức Cha Philippe Christory, 60 tuổi. Quảng đường giữa hai thành phố là 100 km, mỗi ngày vị tân Giám mục đi 20 km và dừng chân tại một giáo xứ nào đó. Cách làm khác thường trên cũng là một cách thể hiện tinh thần mục tử nhân lành mà chính Chúa Giê-su đã công bố và thực hiện.  

2.2 Về ”Đức Giê-su là mục tử nhân lành, hiến mạng sống cho đoàn chiên” thỉ không ai trong chúng ta còn ngờ vực vì chúng ta đã thấy rõ Chúa Giê-su Ki-tô thể hiện sự nhân lành như thế nào: Từ trời cao Người đã nhập thể làm người để sống với mọi người và phục vụ mọi người. Từ Na-da-rét Người đã đi khắp các thành thị làng mạc xứ Pa-lét-tin để giảng dậy, chữa lành, trừ quỷ và tha tội. Từ là Đấng vô tội Người đã chịu chết cách oan nghiệt trên thập giá để cứu chuộc mọi tội nhân. Quả đúng Người là Chiên Vượt Qua! Quả đúng Người là Mục Tử nhân lành, sống và chết tất cả vì yêu thương đoàn chiên.  

2.3 Điều mà người giáo dân và nhất là người lương dân cần nhất lúc này là thấy có nhiểu mục tử nhân lành xuất hiện giữa cộng đồng xã hội. Không hẳn phải là các Giám mục, linh mục mà còn là các giáo dân hoặc lương dân, những con người tuy nhỏ bé tầm thường nhưng lại dám hy sinh mạng sống cho người khác.

Đó có thể là các nông dân lên tiếng tố cáo nạn ô nhiễm rộng đồng, sông suối. Đó có thể là các ngư dân lên tiếng đòi quyền lợi cho những người bị thiệt hại vì nhà máy Formosa gây ô nhiễm biển Miền Trung. Đó có thể là các luật sư, các nhà báo lên tiếng đầu tranh cho quyền con người, nhất là quyền tự do tôn giáo và tự do có tiếng nói về công bằng xã hội và tham nhũng. Đó còn có thể là các ông bố, bà mẹ, các thầy cô giáo, các huynh trưởng hết lòng tận tụy vì con em, học sinh của mình.  

III. THỰC THI  LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (10,11-18):   

3.1 Trách nhiệm và vinh dự làm mục tử thì ai cũng có vì bất cứ một người hèn mọn nào cũng có người để chăm lo, săn sóc, phục vụ. Khác nhau là ở chổ người này thí ý thức và chu toàn công việc, người khác thì lơ là chểnh mảng, kẻ khác thì lạm dụng cho túi riêng.  

3.2 Ngoài những người thân trong gia đình, từ lâu tôi vẫn xem các học viên các Khóa Thánh Kinh hay Công Đồng mà tôi đảm trách là như đoàn chiên Chúa giao cho tôi chăm sóc, phục vụ. Tôi cũng xem những người hàng tuần nhận các bài Sống Lời Chúa hôm nay và Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật mà tôi gửi vào nhóm lờichúa là những người tôi có bổn phận phục vụ, bồi dưỡng. Tôi thực hiện việc soạn bài, giảng bài một cách say sưa thích thú, và đó là niềm vui của tôi.  

IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN (10,11-18):

Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Mục Tử Nhân Lành, chúng con chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa vì Chúa đã hy sinh mạng sống vì chúng con.

Chúa đã còn nêu gương cho chúng con để chúng con biết yêu thương chăm sóc những người mà Chúa giao cho chúng con trong gia đình và ngoài xã hội.

Chúng con xin Chúa ban sức mạnh và lòng dũng cảm cho chúng con, để chúng con chu toàn vai trò mục tử hiến mạng sống mình cho đoàn chiên.

Chúng con cầu xin Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn muôn đời. Amen.

Về mục lục

.

MÙI CHIÊN

Trầm Thiên Thu

Một hôm, bất chợt cậu lễ sinh tròn mắt nhìn linh mục xứ và nói:

– Ôi, cha có mùi gì lạ thế?

– Mùi gì là mùi gì?

– Con không xác định được, nhưng hình như là mùi… heo!

Linh mục cười và xoa đầu cậu bé:

– À, tưởng gì. Cái thằng này thính mũi thế. Này, cha mới tắm cho mấy con heo bên nhà hàng xóm, mùi heo là tất nhiên rồi!

– Sao cha lại làm việc ấy?

– Không có việc xấu, chỉ có người xấu. Ông ấy đã già, không thân nhân, nuôi heo để sinh sống. Mấy hôm nay ông ấy bị mệt, cha phải giúp ông ấy thôi.

– Dạ, con hiểu rồi.

Hôm sau, cậu lễ sinh cười:

– Ôi, hôm nay cha lại có mùi gì kỳ lắm. Mùi này tanh lắm!

– À, hồi nãy cha đi thăm mấy bệnh nhân nằm liệt, không ai giúp đỡ, cha phải giúp họ vệ sinh cá nhân.

– Dạ, con hiểu rồi.

Tuần sau, cậu lễ sinh ngạc nhiên nói:

– Mùi lúc này khác lạ lắm, cha ơi!

– Thế con thấy mùi gì?

– Mùi này không hôi, không tanh, không khó chịu, mà thơm tho lắm, dễ chịu lắm.

– Cái thằng này, mũi thính thế!

Cậu bé gãi đầu, ngập ngừng:

– Nhưng…

– Nhưng gì nào?

– Nhưng… con thích… ngửi mùi hôi… hơn mùi… thơm.

Linh mục tròn mắt:

– Sao vậy? Thơm không thích mà thích hôi à?

– Mùi hôi tanh là mùi thật. Mùi thơm là mùi giả. Cha hôi thì con còn muốn đến gần, cha thơm thì con không dám đến gần, vì cha sang trọng quá! Chúa Giêsu cần chiên đen hơn chiên trắng, luôn gần gũi người nghèo khổ chứ đâu có thân thích với người giàu có.

– Cha xin lỗi và cảm ơn con. Từ nay cha sẽ cố gắng giống Ngài hơn!

Câu chuyện nhỏ, cụ thể với loại “mùi lạ” cần thiết đối với một mục tử đích thực. Chắc hẳn lời này quá quen: “Chúa là Mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” (Tv 23:1). Câu này mô tả sự an tâm, và chúng ta có an tâm?

Ai cũng là tội nhân. Mặc dù chúng ta chỉ là những con chiên lạc, chiên ghẻ, chiên quậy phá, chiên bướng bỉnh,… (x. Lc 15:4-7), nhưng Thiên Chúa quá đỗi yêu thương chúng ta và muốn chúng ta đồng hưởng vĩnh phúc với Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Ngài sai Con Một đến thế gian không để luận phạt mà để giải thoát chúng ta: “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ” (Ga 3:17). Ngài “không lên án” cũng đủ hạnh phúc đối với chúng ta rồi, thế mà Ngài còn muốn chúng ta “được cứu độ”. Đó là điều tích cực nơi Thiên Chúa, và hạnh phúc của chúng ta tăng theo cấp số nhân.

Kinh Thánh cho biết chi tiết: Bấy giờ, ông Phêrô được đầy Thánh Thần, liền nói với họ: “Thưa quý vị thủ lãnh trong dân và quý vị kỳ mục, hôm nay chúng tôi bị thẩm vấn về việc lành chúng tôi đã làm cho một người tàn tật, về cách thức người ấy đã được cứu chữa. Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Ít-ra-en biết cho rằng: nhân danh chính Đức Giêsu Kitô, người Nadarét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị” (Cv 4:8-10). Các tông đồ đã nhân danh Đức Kitô chữa lành bệnh tật cho người khác, điển hình là một người tàn tật được chữa lành và đang đứng trước mặt mọi người.

Lúc trước, dù rất thân quen nhưng có lúc các tông đồ đã tưởng Thầy Giêsu là “bóng ma”, bởi vì bao nỗi lo sợ còn vây quanh họ. Nhưng Ngài củng cố niềm tin cho họ bằng nhiều cách, và rồi họ đã trở thành “con người mới” hoàn toàn. Thật vậy, ông Phêrô khẳng khái nói: “Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường” (Cv 4:11; Tv 118:22). Chính “viên đá bị loại bỏ” lại hóa thành “viên đá nền tảng”, mà người loại bỏ viên đá đó chẳng ai xa lạ – chính mỗi chúng ta. Thế mà Đức Kitô vẫn yêu thương và tìm kiếm chúng ta về hưởng hạnh phúc với Ngài. Thật quá kỳ diệu!

Chúng ta đã được biết Đức Kitô là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, là Đấng-Gánh-Tội-Trần-Gian và là Đấng-Xóa-Tội-Trần-Gian. Kinh Thánh xác định: “Ngoài Ngài ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4:12).

Và vì thế, chắc chắn chúng ta phải hết lòng “tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1 & 29). Thật vậy, Thánh Vịnh gia đã xác định rạch ròi:

Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời

Thì hơn tin cậy ở người trần gian

Cậy vào thần thế vua quan

Chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời

Con xin cảm tạ Ơn Ngài

Vì đã đáp lời và cứu độ con

(Tv 118:8-9 và 21)

Thật kỳ diệu khi Thiên Chúa đã chuyển bại thành thắng, biến yếu thành mạnh, làm đồ bỏ thành đồ quý. Đối với loài người thì phải chịu “bó tay”, nhưng đối với Thiên Chúa lại hoàn toàn khả thi (x. Mt 19:26). Đó là công trình kỳ diệu của Ngài trước mắt loài người! Ôi, chúng ta có một Vị Chúa quyền năng như vậy thì sao lại không hạnh phúc và hãnh diện chứ? Chắc chắn đó là sự tôn thờ chính đáng của chúng ta, không hề mơ hồ hoặc mù quáng.

Xin tạ ơn Chúa về một tấm gương sáng, một sự thật bất ngờ và thú vị: Giáo dân xứ Chúa Ba Ngôi bất ngờ, và cả thủ đô Paris (Pháp) cũng ngạc nhiên, khi biết quyết định của Đức Cha tân cử Philippe Christory (60 tuổi): Đi bộ suốt 100 km khi đến nhận nhiệm sở là GP Chartres – lễ tấn phong ngày 15-4-2018. Hành trình đi bộ của ngài kéo dài 5 ngày, mỗi ngày đi khoảng 20 km. Thật tuyệt vời, phù hợp với khẩu hiệu Giám mục của ngài: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10b) – trùng hợp với Tin Mừng hôm nay.

Mùi chiên cũng có nhiều loại. Chiên béo mập có mùi thơm, chiên gầy ốm có mùi hôi tanh. Mục tử nào có mùi loại chiên nào thì chúng ta biết đó là loại mục tử thật hay giả, chủ chiên hay thợ chiên. Rất rạch ròi, hoàn toàn đúng với hệ lụy tất yếu, KHÔNG THỂ BIỆN HỘ chi cả. Người ta NHÌN chứ KHÔNG NGHE.

Một thực tế buồn tại Việt Nam: Có một số linh mục uống rượu quá mức, uống hơn cả người đời, rồi chỉ thân quen với “chiên béo” và thích “lễ béo” mà thôi, ngôn – hành đối lập! Hay ho gì và hãnh diện gì khi muốn chứng tỏ mình là “hũ chìm” chứ? Đó là một dạng mê vật chất, mê ăn uống – tức là tham lam, mà “tham lam cũng là thờ ngẫu tượng” (x. Ep 5:5; Cl 3:5), thế thì chỉ là thợ chiên hoặc kẻ chăn chiên thuê, không thể là chủ chiên đích thực.

Cung và cầu có liên quan với nhau, hầu như không thể tách rời. Thánh sử Gioan nhắc chúng ta: “Anh chị em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Ngài yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con của Thiên Chúa” (1 Ga 3:1a). Chúng ta là những tội nhân khốn nạn, đáng trừng phạt muôn kiếp vẫn chưa đủ, vậy mà Thiên Chúa bắt Con của Ngài chết thay chúng ta, và tiếp tục nhận những tử-tội-chúng-ta làm “thiên tử”, thực sự là con-của-Trời chứ đâu phải các vua chúa hay quan quyền mới được làm thiên tử. Hơn cả tuyệt vời, vượt mức kỳ diệu, làm sao chúng ta có thể tưởng tượng nổi. Ơn phải đền, nghĩa phải trả – tâm tình thành thật thực tế!

Nguyên nhân và kết quả (hoặc hậu quả) cũng có hệ lụy với nhau. Thánh Gioan giải thích: “Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Ngài” (1 Ga 3:1b). Thế gian không nhận ra Chúa Giêsu là ai, không công nhận Ngài là Chúa, thế nên họ cũng không thể nhìn nhận chúng ta là con cái của Thiên Chúa, nói cho “oai” theo Hán-Việt là thiên tử. Thật vậy, Thánh Gioan nói: “Hiện giờ chúng ta là con của Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng, khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Ngài, vì Ngài thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1 Ga 3:2). Câu này xác định niềm hy vọng đối với mỗi chúng ta. Là con của người cha thì “con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh” và được ở trong nhà của người cha, là con của Thiên Chúa thì chắc chắn cũng được ở trong Nhà của Thiên Chúa – tức là Nước Trời, và cũng được nên giống Thiên Chúa trong vinh quang Thiên Quốc vĩnh hằng.

Chính Chúa Giêsu minh định: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10:11). Đó là chân dung một vị mục tử đích thực. Nếu không thật thì sao? Ngài giải thích: “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy” (Ga 10:12a), do đó “sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên” (Ga 10:12b-13). Trong mọi lĩnh vực của cuộc sống đời thường cũng cho chúng ta thấy rõ tình trạng ai thật và ai giả.

Xã hội hay tôn giáo cũng có thật – giả, và vì thế, có lần Chúa Giêsu đã thẳng thắn cảnh báo: “Anh chị em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh chị em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào thì biết họ là ai” (Mt 7:15-16). Xem trái biết cây, đơn giản mà thâm thúy, như người Việt Nam cũng có ý tương tự: “Rau nào sâu nấy”. Kinh Thánh tường thuật cuộc xử kiện của vua Sa-lô-môn một cách khôn ngoan để xác định được ai là người mẹ thật của đứa bé (1 V 3:16-38), chứng tỏ ông là người được Thiên Chúa ban cho ơn khôn ngoan kỳ lạ.

Không chỉ xác định chính mình là Mục Tử nhân hậu, Chúa Giêsu còn xác định Ngài là “Cửa của chuồng chiên” (Ga 10:7 & 9). Và Ngài nói: “Ai qua Tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ”. Đồng thời Ngài cũng nhận định để “lưu ý” các ngôn-sứ-giả: “Kẻ trộm chỉ đến để ĂN TRỘM, GIẾT HẠI và PHÁ HUỶ” (Ga 10:10a), và nói về chính Ngài: “Phần Tôi, Tôi đến để cho chiên ĐƯỢC SỐNG và SỐNG DỒI DÀO” (Ga 10:10b).

Chúa Giêsu 2 lần xác định trong Phúc Âm hôm nay: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành” (Ga 10:11 & 14a). Tại sao? Chúa Giêsu giải thích một đặc điểm khác của vị mục-tử-đích-thực: “Tôi BIẾT chiên của Tôi, và chiên của Tôi BIẾT Tôi” (Ga 10:14b). Chủ chiên luôn biết rõ từng con chiên, người chăn chiên thuê thì chiên nào ra sao cũng mặc kệ! Ngài so sánh rất thực tế và dễ hiểu: “Như Chúa Cha biết Tôi, và Tôi biết Chúa Cha, và Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10:15). Thậm chí Ngài còn nói: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng Tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10:16). Lòng Thương Xót của Ngài quá bao la, khôn dò và khôn ví!

Nếu chú ý đọc từng câu, từng chữ trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể cảm thấy như uống từng giọt-mật-ngọt-ngào, và rồi có thể vừa thú vị vừa thấm thía nhiều điều – cả mặc nhiên và minh nhiên, cả nghĩa đen và nghĩa bóng.

Như một cách kết luận, Chúa Giêsu quả quyết: “Mạng sống của Tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính Tôi tự ý hy sinh mạng sống mình” (Ga 10:18a). Tại sao vậy? Chính Ngài cho biết lý do: “Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha Tôi mà Tôi đã nhận được” (Ga 10:18b). Tuyệt vời, bởi vì Thiên Chúa là “Đấng cầm quyền sinh tử” (1 Sm 2:6-7; Đnl 32:39). Ôi, Chúa của chúng ta như vậy nên hạnh phúc của chúng ta phải tính theo cấp số nhân!

Người thật thì tâm thật, người giả thì tâm giả. Vào thế kỷ XIX, vua Tự Đức và triều thần đã bỏ qua những lời “điều trần” của chí sĩ Nguyễn Trường Tộ (1839–1871, học giả Công giáo) về sự đổi mới. Không chỉ vậy, vua quan thời đó còn nghi ngờ, bài xích, khiến ông đành ôm hận mà qua đời và để lại hai câu thơ nổi tiếng: “Nhất thất túc thành thiên cổ hận – Tái hồi đầu thị bách niên cơ” (Một bước sa chân, nghìn đời mang hận – Quay đầu nhìn lại, cơ đồ đã hóa trăm năm). Đó cũng là lời nhắc nhở đối với mỗi chúng ta vậy!

Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin muôn vàn tạ ơn Ngài đã tha thứ và tái nhận chúng con làm con cái của Ngài, đồng thời được trở nên tiểu đệ và tiểu muội của Đại Huynh Giêsu. Xin Ngài luôn ban cho Giáo Hội có những tâm hồn biết quảng đại dấn thân trở thành linh mục, tu sĩ, làm tông đồ đích thực tiếp nối sứ vụ của Đức Giêsu Kitô, hôm nay và cho đến tận thế. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

LÀM SAO NGHE ĐƯỢC TIẾNG CHÚA

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Cuộc sống luôn náo nhiệt. Ồn ào trong mọi nơi mọi lúc. Con người như lạc lõng giữa muôn vàn âm thanh trong thế giới ồn ào. Có đôi khi chúng ta không còn nghe được tiếng gọi của sự thật hay tiếng nói của lương tâm.

Anh A đã từng nhiều lần vào tù vì tội tham lam trộm cắp nhưng anh nói giữa cuộc đời bon chen anh không bao giờ nghe được tiếng nói của lương tâm mà chỉ nghe những thét gào của tranh giành, lừa đảo và bon chen. . . Anh bảo rằng mình không biết phải sống thế nào cho đúng với lương tâm, vì lương tâm đồng nghĩa thua thiệt và mất mát.

Chị B cũng từng ngụp lặn trong biển tình say đắm. Với chị có sắc đẹp là có tiền, có tình. Chị chỉ nghe thấy tiếng gọi của đồng tiền và thú vui xác thịt. Chị được người đời đeo đuổi réo gọi vì chị có nhan sắc trời cho. Cuộc đời chị cần tiền để bồi dưỡng thân xác và được cưng phụng. Thế giới của chị luôn phải chạy theo tiếng gọi của đồng tiền và sắc đẹp.

Cậu C bảo rằng giữa một thế giới chạy theo tiếng gọi của danh lợi thú làm sao nghe được tiếng Chúa. Tiếng gọi của tình, tiền, và quyền luôn hấp dẫn, lôi cuốn khiến con người luôn bị lạc lối một trong ba tiếng gọi ấy!

Điều đáng buồn là con người dường như mất định hướng trong thế giới náo nhiệt hôm nay. Con người dường như không bao giờ hạnh phúc trong danh lợi thú khi họ vất vả tìm kiếm, và càng không có bình yên trong thế giới đầy bon chen giành giựt để sống. Vậy làm sao con người có thể thoát ra được thế giới náo nhiệt này?

Người ta kể rằng một lần đội vệ binh đang đứng làm thành hàng chào một vị quan lớn tới thăm. Đúng lúc vị quan lớn gần tới thì một đàn cừu ở đâu hiên ngang đi ra. Con đường độc đạo giờ đây bị đàn cừu chiếm lĩnh. Người chỉ huy ra lệnh cho thuộc cấp:

– Bằng mọi giá anh em hãy lùa đàn cừu rời khỏi mặt đường.

Đội vệ binh dùng đủ mọi cách, kể cả việc dùng súng bắn chỉ thiên để lùa đàn cừu rời khỏi mặt đường nhưng vô vọng!

Một người lính liền nói: xin mọi người yên lặng. Và từ xa tiếng sáo du dương trầm bổng đang réo gọi. Không cần đuổi, chẳng nhọc công, đàn cừu hướng tầm nhìn và ùa chạy về phía tiếng sáo. Hân hoan và vui mừng, chúng quây quần bên người mục đồng nhỏ bé đang đứng trên gò đất cao.

Giữa muôn vàn tiếng ồn ào của đám đông, chỉ cần thinh lặng, một chút lặng yên thôi, cũng đủ để đàn chiên nghe được tiếng gọi của người chăn dắt. Thế giới chúng ta đang sống cũng có quá nhiều tiếng động xô bồ và âm thanh hỗn tạp, quá nhiều đến độ chúng ta không còn có thể nghe được tiếng nói của lương tâm của sự thiện, và càng không thể lắng lòng để nghe được tiếng gọi Đức Giêsu, vị Mục Tử Nhân Lành.

Phải chi chúng ta cũng có được những khoảnh khắc trầm lắng quý giá như thế, để rồi nghe được thứ thanh âm của sự tĩnh lặng, nghe được lời gọi của Thiên Chúa và nhận ra Người ? Phải chi chúng ta cũng biết trao tặng cho chính mình mỗi ngày một vài phút cô tịch để đọc Lời Chúa, để nghe và nhận ra tiếng thì thầm của Thiên Chúa đang ngỏ lời với chúng ta:“Tôi chính là Mục Tử Nhân Lành. Tôi biết chiên của Tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Chúng sẽ nghe tiếng Tôi, và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một Mục Tử”.

Hôm nay lễ Chúa chiên lành, là dịp để chúng ta tạ ơn vì Ngài luôn yêu thương chăm sóc, chở che và gìn giữ cuộc đời chúng ta bằng muôn nghìn cách. Dù cuộc đời có biết bao cám dỗ mời mọc chúng ta vào con đường tội lỗi. Có biết bao đam mê khiến chúng ta lầm đường lạc lối. Có biết bao con đường dẫn chúng ta xa lìa sự sống đời đời. Nhưng Chúa luôn ở bên và kêu gọi chúng ta ra khỏi bến mê tội lỗi. Xin cho chúng ta biết nhận ra tiếng Chúa và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Vì ở nơi Ngài mới có hạnh phúc bền vững còn những danh lợi thú chỉ là phù vân mau qua và chẳng bao giờ đem lại niềm vui trường cửu cho ta. Amen

Về mục lục

.

CÓ MỘT TÌNH YÊU THẬT LẠ LÙNG

Lm. I-nha-xi-ô Trần Ngà

Để biết Thiên Chúa cao cả và quyền năng như thế nào, chúng ta hãy thoáng nhìn qua vũ trụ vô biên do Ngài tạo dựng.

-Có bao nhiêu ngôi sao trên vòm trời?

Không tài nào đếm được, vì sao trời nhiều như cát biển.

-Ngôi sao xa nhất cách chúng ta bao nhiêu (tính vào thời điểm hiện nay)?

Với kính thiên văn tốt nhất hiện nay ( kính thiên văn Hubble), người ta có thể nhìn thấy ngôi sao xa nhất cách chúng ta 32 tỷ năm ánh sáng! Nói cụ thể thế này, một tia chớp cực mạnh (có vận tốc 300.000 km/giây) phát xuất từ trái đất, muốn lên tới Mặt trời thì chỉ cần 8 phút, nhưng phải mất một thời gian là 32 tỷ năm thì mới tới được ngôi sao xa nhất.

-Vũ trụ này rộng tới đâu (tính vào thời điểm này)?

Các nhà thiên văn cho biết rằng mảng vũ trụ mà kính thiên văn tốt nhất hiện nay có thể quan sát được có vô vàn vô số ngôi sao trong đó, mảng vũ trụ này có bề rộng 92 tỷ năm ánh sáng.

Nói cách đơn sơ, nếu có một tia chớp cực mạnh (có vận tốc 300.000 km/giây) loé sáng từ rìa bên này sang rìa bên kia của mảng vũ trụ này thì phải mất 92 tỷ năm mới tới nơi! Thật khó hình dung được!

Thoáng nhìn qua như thế để biết vũ trụ càn khôn bao la và kỳ diệu không thể tưởng được. Vậy thì Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên vũ trụ này cao cả, quyền năng, vĩ đại… biết chừng nào!

So với vũ trụ vô biên, thì con người chỉ là tro bụi li ti không đáng kể và chẳng có nghĩa lý gì!

Trước mặt Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ càn khôn vô cùng quyền năng và cao cả,  thì con người chỉ là hạt bụi vô cùng nhỏ bé dưới đáy vực sâu, chẳng đáng cho Chúa quan tâm, như lời được ghi trong thánh vịnh :

“Ngắm tầng trời tay Ngài tác tạo

Muôn trăng sao Chúa đã an bài,

Thì con người  là chi mà Chúa cần nhớ đến

Phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm” (Tv 8, 4-6).  

Thế mà Ngôi Hai Thiên Chúa vô cùng quyền năng và cao cả, Đấng đã dựng nên vũ trụ càn khôn vô tận vô biên… lại đoái thương thân phận cát bụi thấp hèn của con người, không muốn để cho họ phải đắm chìm trong tội và trầm luân trong hoả ngục đời đời, nên đã hạ mình xuống làm người, trở nên một người phàm như bao nhiêu người phàm khác; mang kiếp sống lầm than như loài người… hóa nên như một hạt bụi li ti trong vũ trụ do chính Ngài dựng nên. Thật là điều không thể tưởng được.  

Thế rồi, Ngài trở thành người Anh đáng yêu và Người Bạn tốt của con người, biết rõ từng người không bỏ sót ai, quan tâm chăm sóc họ như mục tử giữa đoàn chiên, cận kề dìu dắt nuôi dưỡng họ đêm ngày như người chăn chiên tốt chăm lo cho từng con chiên một, như lời Ngài nói: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi,  như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha” (Gioan 10, 14-15).

Và không như kẻ chăn thuê hễ thấy sói đến là bỏ chiên mà trốn, Ngôi Hai Thiên Chúa sẵn sàng bảo vệ đoàn chiên với bất cứ giá nào; Ngài sẵn sàng hiến mạng sống, mạng sống của Thiên Chúa tối cao; sẵn sàng đổ máu, máu của Đấng tạo dựng đất trời… để đền tội thay, để chết thay cho những con người yếu hèn, tội lỗi… như lời Ngài nói: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. Tôi chính là Mục Tử nhân lành… tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Gioan 10, 11- 15).  

Lạy Chúa Giê-su,

Từ địa vị Thiên Chúa tối cao, là đấng dựng nên vũ trụ vô biên vô tận, Chúa lại hóa thân làm người, mang thân phận con người mỏng giòn yếu đuối như mọi người chúng con… để rồi hy sinh chịu chết cho chúng con, vốn chỉ là những hạt bụi trong vũ trụ bao la do chính Ngài tạo dựng… Đây là điều nhiệm mầu chúng con không thể nào hiểu được, mà chỉ biết rằng đó là tột đỉnh của tình yêu.

Xin cho chúng con biết nhận ra tình yêu Chúa dành cho chúng con mênh mông như biển trời để sống sao cho đẹp, cho thánh thiện… hầu khỏi phụ lòng Chúa đã hy sinh tất cả vì yêu thương chúng con.

Về mục lục

.

MỤC TỬ OSCAR RÔMÊRÔ

Lm. Nguyễn Thái

Chúa Nhật 4 Phục Sinh là ngày cầu cho các mục tử. Hôm nay chúng ta nghe bài Phúc Âm, Chúa Giêsu tự xưng: “Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì đoàn chiên.” (Gioan 10: 11-18). Hình ảnh anh dũng của Đức Tổng Giám Mục Rômêrô là một gương mẫu sáng ngời của một vị “mục tử tốt lành thí mạng sống vì đoàn chiên”.

Chúng ta đã nghe nói về Đức Tổng Giám Mục Oscar Rômêrô chịu tử đạo tại El Salvador, Trung Mỹ. Ngài đã bị tên Roberto Aubuisson, một viên chức cao cấp của chính quyền El Salvador đương thời, bắn vào ngực đang khi dâng Thánh Lễ ngày 24-3-1980. El Salvador là một nước cộng hòa nhỏ bé ở Trung Mỹ. Từ thế kỷ 19 quốc gia đã bị khống chế bởi các chủ đồn điền cà phê. Đầu tiên là những người Tây Ban Nha, tiếp theo đó là những người Âu Châu khác. Họ chèn ép những người bản xứ phải nhường đất cho họ. Rốt cuộc người dân bản xứ không có đất, không có nhà, không có việc gì để làm ngoài việc phải làm mướn cho các điền chủ. Từ đó đến nay, quốc gia này bị cai trị bởi những lực lượng quân sự. Trong khi đó, quyền lực thực sự vẫn nằm trong tay của 14 gia đình địa chủ. Chính quyền là công cụ cai trị của địa chủ để đàn áp dân chúng với một tổ chức chính phủ tham nhũng, bất công, dùng bạo lực để cai trị, và giết nhiều người vô tội. Họ đã biến El Salvador thành vùng đất bị “rửa bằng máu của các vị tử đạo.” Rất nhiều vị tử đạo đã bị giết chết, trong đó có 4 nữ tu người Mỹ, 6 tu sĩ dòng Tên và nhiều người giúp việc cho các ngài.

Đức Tổng Giám Mục Oscar Rômêrô sinh ngày 15 tháng 8 năm 1917 tại Ciudad Barrios, một thành phố mà mọi người có thể đến với nhau bằng đi bộ hay bằng xe ngựa. Khi còn nhỏ ngài đã thích sống âm thầm và nề nếp. Trở thành một linh mục đạo đức tuân giữ truyền thống cố hữu, ngài lại dễ hòa đồng. Vì thế chẳng bao lâu ngài đã chiếm được uy tín lớn trong Giáo Hội. Với bản tính ôn hòa, ngài không phải là mối đe dọa cho người giầu có và kẻ quyền hành.

Năm 1967 ngài làm thư ký cho Hội Đồng Giám Mục Salvador. Năm 1970 ngài được phong làm Giám Mục Phụ Tá của địa phận San Salvador; năm 1974, phụ trách địa phận Santiago de Maria; và ngày 22 tháng 2 năm 1977, làm Tổng Giám Mục của tổng giáo phận San Salvador.

Đối với các linh mục cấp tiến dòng Tên đang hoạt động bênh vực cho người nghèo, đấu tranh cho công bằng xã hội thì họ cảm thấy thất vọng khi ngài được chỉ định làm Tổng Giám Mục. Họ coi ngài như là người của chính phủ và giai cấp địa chủ.

Đối với chính quyền thì ngài vẫn luôn khẳng định một vị trí độc lập. Ngài thẳng thắn nói với họ rằng “không nên coi các linh mục đấu tranh cho sự công bằng xã hội có ẩn ý đảo chính để lật đổ chính quyền, nhưng vì công ích mà các vị linh mục đó phải hoàn thành sứ mệnh của mình.” Lúc đầu ngài cố gắng giữ ở một vị thế trung dung.

Đức Tổng Giám Mục Oscar Rômêrô chống lại bạo lực. Ngài lên án tất cả bạo lực, dù là từ quân đội hay cách mạng. Nhưng ngài cũng khẳng định rằng nguyên nhân của bạo lực chính là đại đa số dân chúng còn bị chà đạp nhân quyền, bị bóc lột bởi một thiểu số người có đặc quyền. Chính vì điểm này mà cả chính quyền lẫn các giám mục bảo thủ là những người không muốn có bất cứ một sự thay đổi xã hội nào xảy ra đã chống đối ngài. Các ngài đã yêu cầu Đức Giáo Hoàng đổi ngài ra khỏi địa phận. Những viên chức của các tòa đại sứ Hoa Kỳ, Salvador, và Vatican đã thỏa thuận với nhau về điều này.

Bạo lực từ phía chính quyền càng ngày càng gia tăng, bắt đầu từ cái chết thảm khốc của cha Rutilio Grande, dòng Tên, một người bạn rất thân của ngài và là một linh mục tích cực hoạt động cho nông dân nghèo. Đứng trước tử thi của bạn, ngài đã cầu nguyện hàng giờ, và cảm thấy rằng không thể có lập trường trung dung: hoặc là đi với người nghèo, hoặc là chống lại họ. Từ đó ngài đã hành động quyết liệt.

Chính quyền gia tăng bạo lực bằng việc khủng bố và bắt bớ các linh mục tu sĩ, đốt cháy, phá hủy và xúc phạm các nhà thờ. Mỗi ngày đều có xác chết rải rác ngoài đường phố. Dân chúng kinh hãi phải làm ngơ vì sợ liên lụy. Quân đội đi tuần tiễu trên đường phố hô to khẩu hiệu: “Là một người ái quốc thì hãy giết một linh mục.”

Ngài đã yêu cầu chính quyền giải thích về những vụ bạo lực chống lại nhân quyền này. Ngài đã tổ chức hội họp, đã sang Rôma hội ý với Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục. Tháng 11, năm 1978, ngài đã được đề cử lãnh giải Nobel Hòa Bình bởi những thành viên của Quốc Hội Anh, nhưng phần thưởng đó đã được trao ban cho Mẹ Têrêsa thành Calcuta.

Tháng 2 năm 1980, ngài sang Bỉ nhận bằng tiến sĩ danh dự của trường đại học Louvain, rồi sang Rôma gặp Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị. Khi trở về El Salvador, ngài đã viết thư cho Tổng Thống Jimmy Carter của Hoa Kỳ yêu cầu ngưng cung cấp vũ khí cho quân đội chính phủ El Salvador.

Đức Tổng Giám Mục Rômêrô bị Giáo Quyền hiểu lầm. Giống như Chúa Giêsu ngày xưa, bị chính giáo quyền Do Thái hiểu lầm. Đức Gioan Phaolô II rất bén nhậy với bất cứ giáo sĩ nào tham gia vào chính trị, vì khi còn trẻ ngài đã phải chiến đấu với chủ nghĩa Cộng Sản tại Ba Lan. Giáo hội là đối thủ số một của Cộng Sản, nhưng Giáo Hội đã không bao giờ dính líu tới chính trị. Tuy nhiên, ở Trung Mỹ, các thành phần của Giáo Hội đã cố gắng giúp cho người nghèo bằng cách hoạt động chính trị. Đó là lý do Đức Gioan Phaolô II cảnh cáo nghiêm khắc các giáo sĩ không được chống lại chính phủ.

Nhiều người nghĩ rằng Giáo Hội ở Trung Mỹ đã quá tích cực trong chiều hướng thần học giải phóng. Quả thật đây là một cái nhìn có vẻ bất công đối với những công việc đang làm của Đức Tổng Giám Mục Oscar Rômêrô. Những kẻ thù của ngài là các địa chủ giầu có ở El Salvador đã lợi dụng điều này để chống lại ngài. Chúa Giêsu cũng đã bị nhiều người nói xấu. Thời đó những lãnh đạo tôn giáo đã tố cáo Ngài trước chính quyền Rôma là muốn lật đổ chính phủ, đã lên án Ngài chữa bệnh vào ngày Sabát.

Đức Tổng Giám Mục Rômêrô Bảo vệ người nghèo khó. Ngài đã lên tiếng đả kích cái nguyên nhân gây nên tình trạng nghèo khổ. Ngài đã bảo vệ người nghèo bằng chính mạng sống của ngài như Chúa Giêsu đã nói và làm: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15, 13). Vào Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay năm 1980, ngài đã giảng về gương mẫu của Chúa Giêsu: “Thay vì sống một đời sống quyền quý, Chúa Giêsu đã chọn lựa một cuộc sống đơn giản và bình dân… Quê hương của chúng ta sẽ đẹp biết bao nếu tất cả mọi người chúng ta sống theo ý định của Thiên Chúa. Mỗi người hãy lo kiếm ăn sinh sống. Đừng thống trị, đàn áp nhau.”

Ngài cũng cảm thấy giờ ngài sắp mãn, và cái chết đến gần. Chúa Nhật ngày 23 tháng 3, ngài nói với cộng đoàn của ngài tại nhà thờ chính tòa: “Nếu tôi bị giết chết. Tôi sẽ sống lại trong nhân dân El Salvador. Như một mục tử, tôi bị bó buộc bởi thiên lệnh phải hy sinh mạng sống của tôi cho những ai tôi yêu mến, ngay cả cho những người sắp giết tôi. Nếu Thiên Chúa chấp nhận sự hy sinh mạng sống của tôi, xin hãy để máu của tôi là một hạt giống của tự do; xin hãy để cái chết của tôi cho sự giải phóng nhân dân như một chứng nhân của hy vọng trong tương lai.”

Tối hôm sau, 24/3/1980 ngài bị bắn vào ngực lúc đang dâng Thánh Lễ. Hơn 250,000 người đã đến tham dự đám tang của Đức Tổng Giám Mục Rômêrô. Khắp nước dân chúng kéo về bằng đủ mọi phương tiện. Một thần học gia Tin Lành, Tiến sĩ Jorge Lara Braud đã nói về ngài như sau: “Cùng chung với hàng ngàn người dân Salvador, tôi đã nhìn thấy Chúa Giêsu. Lần này tên của ngài là Oscar Arnulfo Romero. Thân xác tan rữa của ngài đã vỡ ra với thân xác của Chúa Giêsu; máu của ngài đã đổ ra chảy chung với máu của Chúa Giêsu. Và như cùng với Chúa Giêsu, ngài đã chết cho chúng ta để chúng ta được sống trong tự do, trong tình yêu, và trong công lý lẫn cho nhau. Sự sống lại của ngài không phải là một biến cố sẽ xảy ra. Đó là một thực tại đang hiện diện.”

Vào ngày 13 tháng 5 năm 1993, các vị lãnh đạo Giáo Hội ở El Salvador đã chính thức yêu cầu phong thánh cho Đức Tổng Giám Mục Oscar Rômêrô. Nhưng đối với những người nghèo ở El Salvador, họ không cần chờ một sự chấp thuận chính thức. Họ biết ngài là một vị thánh.

Chúng ta tha thiết cầu cho các Mục Tử, nhất là các Mục Tử Việt Nam, theo chân Chúa Giêsu hy sinh cho đoàn chiên.

Về mục lục

.

VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH

Lm. Đinh Lập Liễm

Ngày xưa, đề tài người mục tử xả thân cho đàn chiên là nguồn hứng khởi cho các văn sĩ Thánh Kinh, khiến họ mô tả Thiên Chúa như một Đấng Mục tử. Thiên Chúa đã xả thân cho Israel không khác gì người mục tử, vì thế tác giả Thánh Vịnh đã hát lên: “Đức Chúa là mục tử tôi, tôi không còn thiếu gì. Dù phải đi qua thung lũng tối đen, tôi cũng không hề lo sợ” (Tv 23,1-4).

Đức Chúa là Chúa chăn dắt Israel. Đây là một hình ảnh được thành hình do kinh nghiệm đời sống du mục từ thời tổ phụ của Israel. Hình ảnh người chăn chiên đưa ra hai liên lạc giữa Chúa và Israel: Ngài vừa là Thủ lãnh của Israel, nhưng đồng thời lại là Bạn. Ngài có đủ uy quyền với Israel, và đủ quyền lực để bảo vệ Israel, nhưng đồng thời Ngài đối xử với Israel một cách hết sức nhân từ và tế nhị. Chính Ngài lo liệu việc chăm sóc đó (x. Tv 23).

Từ đó những nhà lãnh đạo tôn giáo của Israel thay mặt Chúa ở trần gian, cũng được ví như các vị mục tử. Nhưng tiếc thay, có một số thủ lãnh thay vì lo cho đàn chiên, lại tác hại chúng, lợi dụng chúng cho mục đích riêng tư, làm cho chúng tan tác đáng thương hại. Khi điều này xẩy ra, tiên tri Ézéchiel đã nhân danh Chúa nói lên: “Hỡi các mục tử của Israel, các ngươi đã bị băng hoại rồi! Các ngươi chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến bầy chiên… Các ngươi chẳng chăm sóc những con yếu đuối, chữa lành những con bệnh hoạn, băng bó những con bị thương tích, dẫn về những con lệch đường, hoặc tìm kiếm những con bị lạc mất. Vậy hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, vị Chủ Tể tối cao, Ta tuyên bố rằng… Ta sẽ tách bầy chiên ra khỏi các ngươi… Ta sẽ giao chúng cho một vị vua giống như Đavít tôi tớ Ta để làm mục tử của chúng và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc chúng” (Ez 34:2-4,9-10,23).

Đứng trước bối cảnh này, Đức Giêsu đã thổ lộ tâm tình khi Ngài nói: ”Ta thương dân này, vì chúng như đàn chiên không người chăn dắt” (Mt 9,36; Mc 6,34). Vậy chúng ta phải đọc bài Tin Mừng hôm nay trong bối cảnh này để hiểu lời tuyên bố của Đức Giêsu: ”Ta là Mục tử nhân lành, sẵn sàng liều mạng vì đàn chiên… Chúng sẽ nghe tiếng Ta và chúng sẽ trở nên một đàn chiên dưới quyền một chủ chiên” (Jn 10:14-16).

Nói cách khác, Đức Giêsu chính là nhân vật mà tiên tri Ezéchiel tiên báo. Giống như Đavít, người mục tử nhân lành, Ngài chăm sóc những con yếu đuối bơ vơ, chữa lành con nào bệnh hoạn, và đi tìm những con chiên lầm đường lạc lối. Nhưng Đavít chỉ là hình ảnh một người chăn chiên khác hoàn hảo hơn. Đó là Đavít mới (Gr 3,15; Ez 34,23t). Người chăn chiên hoàn hảo Thiên Chúa sai đến là Đức Giêsu Kitô.

Người Do Thái thời Đức Giêsu thường có thái độ nghi ngờ về thân thế, việc làm, uy quyền và sứ mạng của Đức Giêsu. Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu dùng dụ ngôn về người chăn chiên nhân lành để họ thấy rõ uy quyền đích thực của Ngài. Ngài khẳng định: ”Ta là Mục tử nhân lành” (Jn 10:14).

Ta thấy có sự khác biệt giữa người chủ chăn và người chăn chiên thuê: Người chăn chiên thuê không phải là chủ đàn chiên nên không mấy tha thiết với đàn chiên; họ không dám hy sinh bảo vệ đàn chiên khi gặp nguy hiểm. Vì không có tình yêu tha thiết với đàn chiên nên họ cũng không sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, vất vả; họ trốn tránh trách nhiệm một cách dễ dàng. Đức Giêsu gọi những nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái là những kẻ chăn thuê; họ chỉ lo lắng đến các tư lợi do chức vụ đem đến, chứ không tha thiết gì đến đàn chiên, vì vậy khi gặp nguy hiểm là họ chạy trốn để đàn chiên tản mát (Jn 10:12-13).

Trái lại, người chủ chăn thương yêu đàn chiên, tha thiết với đàn chiên, không nghĩ đến ích lợi cho mình, sẵn sàng hy sinh cho đàn chiên bất chấp nguy hiểm (Jn 10:11). Người chủ chăn có ba đặc điểm sau đây: Người chủ chiên biết các chiên, biết từng con một, và ngược lại chiên biết chủ (Jn 10:14). Đây là hành động hỗ tương. Biết một cách riêng biệt, từng con chiên một với các hoàn cảnh, nhu cầu, khát vọng của con chiên. Con chiên biết nhận ra tiếng của chủ chăn. Thật là những người bạn tri âm. Như thế sự biết hỗ tương này sẽ đưa đến một cuộc sống thân mật giữa hai bên. Đúng thế, chữ “Biết” của Gioan, không những bao hàm nghĩa trí tuệ, nhưng còn là sự hiệp thông cuộc sống dựa trên tình yêu và lý trí. Sự thông hiệp này đã có nơi Chúa Cha và Chúa Con (Jn 10:15). Đức Giêsu cũng sánh ví sự hiệp thông như thế giữa Ngài và các con chiên.

Như người Mục tử nhân lành, Chúa cũng đã chăm chú theo dõi, và nhìn chúng ta như thể chỉ có mỗi người chúng ta là đáng được chú ý. Thiên Chúa chăm sóc chúng ta như chăm sóc một đàn chiên trong đó mỗi con vật chỉ là một con số. Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu biệt loại. Người gọi tên từng người trong chúng ta. Ngài đối xử với chúng ta như thể chỉ có ta là người duy nhất hiện hữu trên trần gian này (Cử hành Phụng vụ CN và Lễ trọng, tr 136).

Người chủ chăn mở đường tìm lối cho những con chiên lạc trở về một đàn vì có những con chiên lầm đường lạc lối. Ngoài ra, còn muốn thu thập các con chiên khác qui tụ lại trong đàn chiên này là dân Israel, ám chỉ Giáo Hội sau này, nói lên tính cách phổ quát của Giáo hội. Biểu tượng người chăn chiên nhân lành là một dịp để Chúa quảng diễn vai trò của Ngài hướng dẫn cả thế giới: ”Ta còn những con chiên khác không thuộc về đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn… và sẽ có một đàn chiên và một chủ chiên” (Jn 10:16). Tất cả mọi người là con chiên của Chúa, chỉ có một Thiên Chúa độc nhất và một Giáo Hội duy nhất.

Pho tượng gây xúc cảm nhất cho khách hành hương Rôma là pho tượng Chúa Chiên Lành vác con chiên thất lạc trên vai đem trở về. Dưới pho tượng, có ghi câu của Abercies vào cuối thế kỷ II rằng: ”Ta là môn đệ của một Mục Tử thánh thiện đã dẫn đàn chiên ra đồng cỏ xanh tươi bên sườn núi và dưới đồng bằng, vị Mục Tử có đôi mắt lớn nhìn đến khắp mọi nơi.”

Chúa Kitô chính là người Mục Tử nhìn xa thấy rộng ấy. Nhờ sự chết và phục sinh, Chúa đã đạp đổ mọi ngăn cách để mở rộng đàn chiên, bao trùm cả thế giới… Đàn chiên ấy, ngày nay chúng ta chỉ được nhìn thấy một phần nhỏ và hạn hẹp, sau này trên chốn vinh quang mới được chứng kiến tầm vóc vĩ đại của đại gia đình Thiên Chúa (Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa, năm B, tr 70-71).

Trong quyển The land and the Book, Thomas Thompson có ghi lại câu chuyện bi đát như sau: Một ngày nọ có chàng mục đồng trẻ tuổi dẫn đàn súc vật đi về vùng lân cận ngọn núi Thabor. Bỗng có ba tên cướp đường người Ả Rập xuất hiện. Chàng thanh niên biết rõ chàng sẽ gánh chịu những hậu quả khôn lường, thế nhưng chàng đã không bỏ trốn. Chàng kiên cường chiến đấu để giữ cho bầy súc vật của chàng khỏi rơi vào tay lũ thổ phỉ. Đoạn cuối được kết thúc bằng cái chết liều mạng của chàng thanh niên cho đàn cừu của chàng.

Đức Giêsu đã trao phó trách nhiệm coi sóc đàn chiên của Chúa khi Chúa nói với ông Phêrô tới ba lần: ”Hãy chăm sóc chiên của Thầy” (Ga 21,15-17). Và sau khi Chúa về trời, Thánh Phêrô trở nên vị lãnh tụ tối cao trong Giáo Hội, vị Giáo Hoàng đầu tiên đặt ngai tòa tại Rôma; các tông đồ và mọi tín hữu phải qui phục quyền hướng dẫn của Ngài. Giáo Hoàng là vị đại diện Thiên Chúa ở trần gian.

Dưới thời bạo chúa Néron bắt đạo, Rôma ngập tràn máu lửa, biết bao nhiêu tín hữu đã chết dưới tay ông bạo chúa điên loạn, bạo tàn.

Giáo Hội non trẻ do Đức Giêsu thiết lập như sắp rã rời tan tác. Phêrô là con chim đầu đàn, là trụ cột của Giáo Hội. Các tín hữu tha thiết xin Phêrô trốn khỏi Rôma, để tiếp tục hướng dẫn đoàn chiên. Người anh cả một thoáng phân vân, chần chừ. Quả thật đoàn chiên đang nao núng vì sợ thiếu vắng đầu đàn, sao có thể giữ vững niềm tin? Thầy đã chẳng khuyên khi người ta bắt bớ chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác sao? Phêrô xách bị gậy đi trốn. Gặp Thầy ở cổng thành, Phêrô hỏi: “Quo vadis, Domine? Thưa Thầy, Thầy đi đâu?”   Chúa Giêsu trả lời: “Nếu con bỏ các Kitô hữu của Thầy thì Thầy sẽ quay lại để chịu đóng đinh cho họ một lần nữa.” Phêrô hiểu ngay lời Thầy, quay trở lại Rôma để an ủi khích lệ đoàn chiên.

Theo kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa, một số ít người trong dân Chúa được gọi, được chọn để đóng vai người mục tử của cộng đoàn. Đó là các giám mục, linh mục tức các thừa tác viên có chức thánh. Công việc được giao cho các vị, chính là việc chăn dắt, chăm lo cho đoàn chiên của Thiên Chúa. Tác vụ của các vị là làm sao cho đoàn chiên chẳng những được an toàn mà còn được ăn uống no nê, béo tốt. Trách nhiệm ấy thật cao cả nhưng cũng thật khó khăn và nặng nề. Cao cả vì các vị phải hiện-tại-hoá tấm lòng và cách sống yêu thương và hy sinh xả kỷ của Chúa Giêsu và của Thiên Chúa đối với cộng đồng anh chị em được giao phó cho các vị. Khó khăn và nặng nề vì các vị vẫn là những con người phàm trần với nhiều yếu đuối và đam mê như mọi người khác.

Nhìn vào thực tế, một thực tế không thể chối cãi được và cũng rất bình thường, chúng ta thấy các vị chủ chăn có một vai trò quan trọng trong đời sống thiêng liêng của một cộng đoàn. Nhìn vào thực tế chúng ta cũng thấy rõ là không phải tất cả các vị chủ chăn đều có được tấm lòng yêu thương và cách sống hy sinh quên mình vì đoàn chiên. Vẫn còn đó, những ích kỷ, những vụ lợi, những hưởng thụ không chính đáng! Vẫn còn đó, những lạm dụng danh nghĩa, những tự tôn tự đại! Vẫn còn đó những ngại hy sinh, những cách phục vụ nửa chừng nơi các vị chủ chăn của chúng ta.

Giáo Hội luôn có những vị mục tử hy sinh vì đàn chiên, những gương lành sáng chói còn ghi trong sử sách. Một Gioan Vianney đã tô điểm sáng chói cho khuôn mặt vị Mục Tử nhân lành tối cao! Chính vì thế mà Giáo Hội mới tha thiết mời gọi tất cả mọi Kitô hữu cầu nguyện cách đặc biệt cho các vị, để các vị trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Đấng chăn chiên nhân lành. Không có ơn đặc biệt của Thiên Chúa, không ai làm được những chuyện “ngược đời” mà Phúc Âm đòi hỏi.

Mọi người đã được chịu phép Thánh Tẩy đều được tham gia vào ba chức năng của Chúa Kitô, đó là: chức năng tư tế, chức năng tiên tri và chức năng cai trị. Nhưng theo tư tưởng của Đức Kitô thì “Cai trị là phục vụ” (Mt 20:26-27). Ai mà không có quyền phục vụ? Ai có thể nói là mình không thể phục vụ được trong bất cứ một lãnh vực nào hay một hoàn cảnh nào?

Nhìn sâu hơn nữa vào tinh thần Phúc Âm, chúng ta phải quả quyết rằng: không chỉ có các thừa tác viên có chức thánh mới có sứ vụ mục tử, mà mọi Kitô hữu lớn nhỏ, nam nữ đều được tham gia vào sứ vụ chăm sóc của Đức Giêsu Kitô. Thật vậy, bí tích Thánh Tẩy đã khiến chúng ta thành chi thể của Thân Mình Mầu nhiệm mà Chúa Kitô là Đầu. Là chi thể, chúng ta mang trong mình tư cách, tính chất, sứ vụ của Đầu. Nếu Đức Giêsu là Mục tử thì mọi Kitô cũng đều là người chăm lo cho anh em là chi thể của Thân mình.

Chúa Kitô đã trao cho Thánh Phêrô nhiệm vụ coi sóc Hội Thánh toàn cầu, thì Ngài cũng trao cho các Giám mục, rồi đến Linh mục nhiệm vụ chăm sóc Hội Thánh tại địa phương là Giáo phận, giáo xứ. Chúa cũng trao cho cha mẹ nhiệm vụ chăm sóc gia đình – một Hội Thánh tại gia – để cha mẹ thi hành sứ vụ mục tử đối với con cái cũng như con cái có sứ vụ chăm lo cho cha mẹ (ITm 5:4,8); vợ có sứ vụ mục tử đối với chồng và chồng có sứ vụ mục tử đối với vợ; anh em chị em có sứ vụ mục tử đối với nhau và cứ thế mà rộng ra toàn xã hội và thế giới: mọi người có sứ vụ chăm lo cho nhau, vì mọi người là con cái của Thiên Chúa, đều là anh chị em của nhau, đều thuộc về một đàn chiên duy nhất của Chúa Giêsu Kitô.

Đức Giêsu muốn qui tụ tất cả các chiên vào trong một đàn chiên, dưới sự hướng dẫn của một Chúa Chiên. Hàng năm Giáo Hội tổ chức tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất từ ngày 18-25 tháng Giêng. Tuần lễ hiệp nhất này là sáng kiến của một mục sư Anh Giáo ở New York, ông Wattson và người bạn của ông là ông Spencer Jones ở Luân Đôn. Kết quả đầu tiên của tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất này là sự trở lại Công Giáo của chính mục sư Wattson, sau là Linh Mục Paul Francis, đồng thời cả cộng đoàn (Association de Réparation) của ông lập cũng trở lại Công Giáo. Đức Piô X đã chấp thuận tuần lễ hiệp nhất này trong Giáo Hội.

Chúng ta cùng nhau tuyên xưng: “Đức Chúa là mục tử tôi, tôi không còn thiếu gì. Dù phải đi qua thung lũng tối đen tôi cũng không hề lo sợ” (Tv 23,1-4).

Về mục lục

.