Các bài suy niệm Chúa Nhật 3 Mùa Chay Năm B

1042

CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY_B

Lời Chúa:  Xh 20,1-17;  1Cr 1,22-25;  Ga 2,13-25

——-

Mục lục

  1. Canh tân cách thực hành đức tin  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

  2. Đừng Nhát Sợ (Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc)

  3. Chính Chúa Giêsu Là Dấu Lạ (Lm. Ngọc Dũng, SDB)

  4. Yếu Hèn Lầm Lỗi, Xin Chúa Đỡ Nâng( Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)

  5. Sự quan tâm cần thiết (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

  6.  Hãy chống lại cái xấu (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

  7. Đức Giêsu: Đền Thờ mới của Thiên Chúa  (Jorathe Nắng Tím)

  8. Thanh tẩy Đền Thờ (Lm. Thái Nguyên)

  9. Để Chúa thanh tẩy  (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)

  10. Tẩy uế Đền Thờ  (Thiên San, MTG.Thủ Đức)

  11. Cứ phá hủy Đền Thờ này đi (Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa)

  12. Danh tính Đức Kitô (Lm. Vũ Đình Tường)

  13. Lạm dụng  (Trầm Thiên Thu)

 

Mục lục (2018)

1. Việc thờ phượng đích thực  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Thanh tẩy Đền thờ  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Đền thờ  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

4. Thế giới tục hóa  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5. Hãy thanh tẩy Đền thờ Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

6. Nhà cầu nguyện  (Bông Hồng Nhỏ,  MTG.Thủ Đức)

7. Đừng buôn bán  (Anna Cỏ May,  MTG.Thủ Đức)

8. Thanh tẩy Đền thờ. (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

9. Thanh tẩy  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

10. Đức Giêsu, Đền thờ mới của Tân ước  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

11. Nơi chốn và phương thức cầu nguyện đích thực (Lm.Gioan Nguyễn Văn Ty,SDB)

12. Đền thờ của Chúa  (Micae Bùi Phúc Hòa, SDB)

13. Mầu nhiệm tâm hồn 

14. Suy niệm Chúa Nhật 3 mùa Chay_B  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

15. Suy niệm Chúa Nhật 3 mùa Chay_B. (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

16. Hãy xem lại lối sống đạo của chúng ta  (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)

17. Xây dựng Đền thờ tâm hồn (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

18. Luật vĩnh hằng  (Trầm Thiên Thu)

19. Thanh sạch tâm hồn  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

20. Nhiệt thành với nhà Chúa  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)

21. Tôi là Đền thờ (Lm. Trịnh Ngọc Danh)

22. Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên)

23. Suy niệm chú giải Lời Chúa Chúa Nhật 3 Mùa Chay (Lm. Inhaxiô Hồ Thông)

24. Cơn thịnh nộ bất thường (JM. Lam Thy, ĐVD)

25. Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi  (Fx. Đỗ Công Minh)

26. Thanh tẩy bản thân mình  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

27. Vì sự ác lan tràn (Lm. Giuse Nguyễn)

28. Mùa Chay: xét lương tâm về mến Chúa yêu người (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)

29. Nhà Ta là nhà cầu nguyện (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD)

30. Đền thờ.  (Lm. Nguyễn Thái)

31. Thanh tẩy Đền thờ-  (Lm. Đinh Lập Liễm)

32. Làm chủ (Lm. Vũ Đình Tường)

33. Thanh tẩy “Nhà Thờ”  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

34. Làm ô uế Đền thờ hữu hình của Thiên Chúa (P.Trần Đình Phan Tiến)

35. Thanh tẩy tâm hồn trở nên Đền thờ của Thiên Chúa  (Lm. Đan Vinh)

36. Suy niệm Chúa Nhật 3 mùa Chay. Năm B (Lm. Antôn)

 

CANH TÂN CÁCH THỰC HÀNH ĐỨC TIN

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Cứ mỗi độ xuân về, người dân Việt chúng ta, sau khi đón xuân mới, là khởi đầu chiến dịch đi lễ hội đầu năm. Từ một hai thập kỷ trở lại đây, nhờ đời sống kinh tế được cải thiện, những lễ hội truyền thống sau một giấc ngủ dài trong thời bao cấp, được khôi phục khắp nơi, đua nhau nở rộ như nấm mọc sau mưa. Nhìn chung, những lễ hội này diễn tả truyền thống văn hoá phong phú của người Việt, và đều góp phần tích cực giúp con người hướng thiện. Tuy vậy, khá nhiều lễ hội bị nhuốm màu thương mại và mê tín dị đoan, mang theo những hệ lụy không đẹp do cách hành xử thiếu văn hóa, như cướp giật, đánh nhau đến đổ máu. Lễ hội đang bị lạm dụng nghiêm trọng và làm mất đi ý nghĩa linh thiêng.

Vào thời Chúa Giêsu, Đền thờ Giêrusalem là nơi thiêng thánh cũng bị lạm dụng. Người ta buôn bán chiên bò, chim câu và đổi tiền. Tất cả những dịch vụ này cũng núp dưới danh nghĩa phục vụ khách hành hương, nhất là vào dịp lễ trọng của người Do Thái là lễ Vượt qua. Chúa Giêsu đã chứng kiến cảnh này. Người đã nghiêm khắc xua đuổi họ ra khỏi Đền Thờ. Cả bốn thánh sử đều ghi lại sự kiện này, nhưng Thánh Gioan là người diễn tả hành động của Chúa Giêsu một cách mạnh mẽ quyết liệt nhất: “Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò, ra khỏi Đền Thờ”. Tuy vậy, nếu ba tác giả của Tin Mừng nhất lãm đều nói đến việc Đức Giêsu “đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ”, thì thánh Gioan lại cho biết, Chúa chỉ yêu cầu mang các loại hàng hóa trần tục xâm nhập Đền Thờ và làm cho nơi thánh trở thành chốn thương mại. Phải chăng Thánh Gioan muốn nói với chúng ta: Chúa Giêsu không xua đuổi con người tội nhân, nhưng xua đuổi những hành động tội lỗi, và như thế, Người mời gọi chúng ta hãy canh tân cách thực hành Đức Tin.

Từ đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã mời gọi chúng ta canh tân đổi mới cuộc đời. Canh tân để làm cho trái tim, tâm hồn và cuộc đời của chúng ta được đổi mới. Chúa nhật thứ Ba của Mùa Chay, Phụng vụ dạy chúng ta hãy xem xét lại cách tôn thờ Chúa của mình. Nói cách khác, mỗi chúng ta là người tin vào Chúa. Đức tin ấy phải được thể hiện qua tâm tình thờ phượng Chúa. Có nhiều người tin Chúa mà không thực hành các bổn phận của đức thờ phượng. Thờ phượng Chúa là nhận ra quyền năng vô biên và tình yêu của Ngài đối với chúng ta, đồng thời dâng lời tạ ơn, ca tụng và cầu nguyện với Ngài. Đối với một số tín hữu, đức tin của họ mang tính vụ lợi, tức là chỉ chạy đến nài van Chúa khi gặp hoạn nạn gian nan, còn những lúc khác thì không cần biết Chúa là ai. Nhiều người khác coi Chúa như Bà Chúa Kho, đến để xin lộc và vay tiền lúc đầu năm với hy vọng năm mới phát tài.

Hành động của Chúa Giêsu khi xua đuổi chiên bò ra khỏi Đền thờ được gọi là “thanh tẩy Đền thờ”. Quả thật, Chúa muốn khôi phục tinh thần thờ phượng đích thực, không nhuốm màu thương mại và cạnh tranh vật chất. Mùa Chay cũng giúp ta thanh tẩy đời sống đức tin và tâm tình thờ phượng Chúa. Những thực hành đạo đức của cộng đoàn cũng như cá nhân phải dẫn đưa người tín hữu đến gặp gỡ Đức Giêsu, Đấng đang sống và đang hiện diện giữa chúng ta. Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết trong Tông huấn Đức Kitô đang sống như sau: “Chúng ta có nguy cơ coi Chúa Giêsu Kitô chỉ như một mẫu gương trong quá khứ, như một kỷ niệm, như một Đấng đã cứu chúng ta cách nay hai ngàn năm. Điều này không ích gì cho chúng ta, vì nó sẽ để chúng ta cũ kỹ y như trước, nó sẽ không giải thoát chúng ta. Đấng đổ đầy ân sủng của Người trên chúng ta, Đấng giải thoát chúng ta, Đấng biến đổi chúng ta, Đấng chữa lành và an ủi chúng ta đang sống. Người là Đức Kitô phục sinh, tràn đầy sức sống siêu nhiên, mặc lấy ánh sáng vô hạn” (số 124). Những lời trên đây của Đức Thánh Cha giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc sống hiện tại. Nhiều người tín hữu chỉ coi Người như một vĩ nhân đã lùi vào dĩ vãng. Không phải như vậy. Người đang sống và hiện diện giữa chúng ta. Nếu ý thức được điều ấy, lời nói, cử chỉ và cách sống của chúng ta sẽ thận trọng hơn. Lời cầu nguyện và việc thờ phượng Chúa sẽ thấm đượm tâm tình mến yêu hơn. Xác tín điều đó, người tín hữu cảm thấy như được chạm tới Chúa, được Người hướng dẫn và soi sáng đường đi nước bước trong cuộc đời.

Gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng đang sống, sẽ giúp chúng ta sống tốt hơn trong cuộc sống hằng ngày. Bài sách thánh trích sách Xuất hành ghi lại luật Giao ước Thiên Chúa ban cho dân Israel qua ông Môisen mà chúng ta vẫn gọi là Mười điều răn. Có thể nói Mười điều răn trong sách Xuất hành là bộ luật đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Vì dân tộc Do Thái là một dân được tuyển chọn, nên phải có một bộ luật làm tiêu chuẩn và để duy trì trật tự trong việc điều hành cai quản, làm chuẩn mực chung cho mọi nền văn hoá và mọi dân tộc. Rất tiếc, nhiều Kitô hữu, nhất là những bạn trẻ, không thuộc kinh Mười Điều Răn, vì vậy, họ không định hướng được cuộc đời của mình. Họ nói tin vào Chúa mà không biết Chúa là ai và phải làm gì để thực hành Đức Tin.

Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem. Người cũng dùng máu Người đổ ra trên thập giá để thanh tẩy tội lỗi của nhân loại. Hai ngàn năm nay, Giáo Hội không ngừng rao giảng mầu nhiệm thập giá, “điều mà người Do Thái coi là ô nhục và dân ngoại cho là điên rồ” (Bài đọc II). Trái lại với sự xét đoán của thế gian, Đức Giêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Có những lúc, người tin vào Chúa bị coi như những người điên rồ hoặc những người đi ngược dòng. Tuy vậy, cũng như sự điên rồ của thập giá đã cứu vớt nhân loại, những ai theo Chúa Giêsu, dù có thể bị coi là ngu dại, chắc chắn sẽ tìm được sự thanh thản trong tâm hồn và niềm vui của Đấng phục sinh. Mùa Chay cũng là mùa suy niệm cuộc thương khó của Đức Giêsu. Thập giá là một huyền nhiệm của tình thương Thiên Chúa. Thập giá không phải là câu chuyện của quá khứ, nhưng là câu chuyện của hiện tại. Thập giá đang đi ngang qua những mâu thuẫn gia đình, những khó khăn về tài chính tiền bạc, những xung khắc trong mối tương quan với người xung quanh, những thất bại trong học vấn, những bế tắc trong nghề nghiệp. Đó là những thập giá mà chúng ta đang phải vác đi. Vác thập giá không phải là cam chịu, nhưng là đón nhận và hoá giải những thất bại và khúc mắc thành kinh nghiệm, để rồi nhờ ơn Chúa, chúng ta sẽ vượt lên những khó khăn, biến gian khổ thành niềm vui và biến nước mắt thành nụ cười. Quả vậy, khi có lòng bao dung, sự kiên nhẫn và nhất là tình yêu quảng đại, chúng ta sẽ có thể hoá giải mọi thương đau trong cuộc đời.

Đức tin của người Công giáo không phụ thuộc vào mùa lễ hội và những cạnh tranh. Lòng yêu mến Chúa và tâm tình thờ lạy tôn vinh Ngài như hơi thở, như cơm ăn nước uống đối với người tín hữu. Con người cần có Chúa để hiện hữu, để hoạt động và để nên trọn lành. Ý thức được sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời, dâng lên Chúa tâm tình yêu mến và cầu xin Ngài trợ lực để vượt lên mọi khó khăn thử thách, những điều này làm cho đức tin của chúng ta nên vững mạnh.

Mùa Chay là mùa canh tân đổi mới. Canh tân cách thực hành Đức Tin là điều kiện thiết yếu để chúng ta đổi mới cuộc đời. Bởi lẽ, nhờ Đức Tin tinh tuyền, chúng ta mới có thể sống Đạo chân thành trước mặt Chúa và trước mặt mọi người.

Về mục lục

ĐỪNG NHÁT SỢ

Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc

Câu thành ngữ quen thuộc: nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm, hẳn chúng ta đã nghe. Sạch đẹp, mang lại cảm giác dễ chịu. Tốt lành, hiền hoà, có tạo nên sự gần gũi thân thiện hơn không ? Thích người tài giỏi đức độ, nể phục những ai chăm chỉ làm việc, nhẫn nại trước khó khăn cuộc sống. Thắc mắc, điều kỳ diệu, đang truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ: người dám bênh vực cho lẽ phải, có phải họ giầu tiền của, quyền lực, kiến thức phong phú ? Xã hội cho rằng, người không sợ bị công kích, ghét bỏ, đáng được gọi là anh hùng: người quân tử vui vì đạo lý, kẻ tiểu nhân vui vì tham vọng. Người được gọi là có văn hoá, đâu phải do bằng cấp địa vị, nhưng là không mâu thuẫn giữa lời nói việc làm. Được gọi là văn minh, không ai nghĩ do sáng chế được nhiều sản phẩm mới lạ, thực ra họ luôn biết cử xử đúng, đẹp với mọi người.

Chứng kiến cảnh lộn xộn, dơ bẩn, hôi hám, ồn ào hỗn loạn, hết sức đau lòng, Đền-thờ biến thành nơi buôn bán, người ta im lặng vì nhát sợ, nhắm mắt làm ngơ vì sợ liên luỵ hay lợi nhuận ? Từ vấn đề sạch đẹp và thánh thiêng: tiền bạc hoàn toàn có thể mua chuộc được kẻ tiểu nhân, nhưng không hề mua được chân lý. Thánh sử Gioan cho biết Đức Giêsu “lấy dây thừng chắp thành roi đánh đuổi tất cả bọn, cùng chiên bò ra khỏi đền thờ”. Đức Giêsu phối hợp sự hiểu biết, được thôi thúc tận đáy lòng hình ảnh vị ngôn sứ, để bênh vực “Đền-thờ”: nơi cầu nguyện, nơi gặp Thiên Chúa. Đừng nhát sợ, Đức Giêsu đã tỏ rõ sự dứt khoát trước sứ vụ được giao: nhu cầu vật chất và tâm linh phải được phân minh, công bằng.

Con người dễ nhìn sự việc bằng sức mạnh của giầu sang, quyền lực, Đức Giêsu gián tiếp nói “đừng nhát sợ”, hãy nhìn vấn đề theo cái nhìn yêu thương, theo tinh thần trách nhiệm, bổn phận, bằng con tim, khối óc. Người trẻ đánh lừa cảm giác bằng chủ trương: điếc không sợ súng, cùi không sợ lở, trong tương quan người ta “nhát sợ” trước lập trường: nhất lý, nhì lỳ. Đức Giêsu xua đuổi những kẻ buôn bán súc vật, những kẻ đổi bạc tiền, ra khỏi đền thờ, không phải vì tính “gan dạ anh hùng”, đúng hơn là thức tỉnh trách nhiệm với ĐỀN THỜ, nơi cầu nguyện, nơi gặp gỡ Đấng ta tin yêu – cậy trông. Tự do làm việc, quan niệm và triết lý sống, mỗi người mỗi thời, mỗi khác; hôi thối, dơ bẩn, xấu xa, ai chẳng né tránh, trật tự nề nếp, sạch đẹp, hiền hoà, ai chẳng mê. Đừng nhát sợ khi bênh vực lẽ phải, Đức Giêsu còn hướng mỗi người hãy chỉnh trang Đền-thờ tâm hồn: “các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”.

Đừng nhát sợ, ngoài lý trí, ý chí rất riêng tư, ta còn có sức mạnh của tình hiệp thông liên đới: giầu đẹp, tài năng, cần thiết cho cuộc sống, niềm tin và tình yêu chính là điều kiện làm nên hạnh phúc. Dơ bẩn thể xác, xấu xí tâm hồn, hoàn toàn khác nhau, vừa dơ bẩn, vừa tội lỗi bất xứng, mấy ai đủ tự tin huyênh hoang trước đám đông, huống chi trước thánh nhan Chúa ?  Thích sạch đẹp, mơ ước để lại danh thơm tiếng tốt cho hậu thế, hoàn toàn hợp lý, hãy có quyết tâm hành động, nhưng đừng để “trái tim thỏ đế” điều khiển. Đừng nhát sợ: “hãy đem những thứ này đi khỏi đây, đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”. Đức Giêsu cương quyết xua đuổi sự xấu, kẻ làm gương mù gương xấu, trong tư cách “Mục tử nhân lành”: nói phải củ cải cũng nghe. Đừng nhát sợ, đừng im lặng trước sự xấu, mỗi người hãy xây dựng Đền-thờ, hãy bảo vệ, gìn giữ tâm hồn sạch đẹp.

“Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì, ông lấy quyền gì mà làm như vậy” ? Đừng nhát sợ: người tài đức làm rồi mới nói, họ nói theo những gì đã làm. (Khổng Tử). Đức Giêsu nhất quyết thanh tẩy Đền-thờ, phải trả lại ý nghĩa thánh thiêng: nhà cầu nguyện, nơi gặp gỡ thánh ý Chúa, cho dù phải đối diện với khó khăn, chống đối ! Đừng nhát sợ, con người dựa vào sự thông thái, giầu có, để tỏ uy quyền, thống trị nhau; con người có thể nghèo vì lười biếng, có thể bệnh, vì sĩ diện, tự mãn, có thể chết vì từ chối tình yêu thương của gia đình, của giáo hội, của Chúa. Con người thời đại luôn nhạy bén với việc “làm đẹp”, chỉnh sửa sắc đẹp, khi dồi dào tiền của, vật chất, Đức Giêsu thao thức mỗi người đừng sợ chỉnh sửa, làm đẹp, làm mới tâm hồn, khi ta tín thác vào tình yêu Chúa.

Đừng nhát sợ, nếu bạn cần ý kiến hay, một lời chuẩn mực, hãy hỏi chuyên gia, nếu bạn cần hành động, hãy dò hỏi người phụ nữ. Đừng nhát sợ, chỉnh sửa tâm hồn, làm mới tâm hồn, hãy gặp Thầy Giêsu, các bạn sẽ thấy điều kỳ diệu, dù là cảm nhận bằng niềm tin và tình yêu. Sống ơn gọi làm người tốt, quả là phức tạp, sống ơn gọi nên thánh, ai cũng phải tập luyện, thanh tẩy, theo tinh thần người môn đệ Đức Kitô. Có hai người đăng ký chuyến hành hương “Đất Thánh”. Một người ao ước gặp Đức Giêsu ở di tích lịch sử từ Belem tới Giêrusalem. Người kia mơ ước khi sang tới nơi, bằng đôi mắt mình, gặp được người Do-thái bằng xương bằng thịt, thế là đủ mãn nguyện. Ai cũng cần sức khoẻ tốt để làm một hành trình đời người. Để thi “hoa hậu”, ai cũng phải đủ điều kiện: chiều cao, xinh đẹp, thông thái. Để hoàn tất ơn gọi nên thánh, đừng nhát sợ, hãy gặp Thầy Giêsu, Thầy sẽ tẩy rửa tâm hồn xứng hợp với tình yêu Chúa.

Về mục lục

CHÍNH CHÚA GIÊSU LÀ DẤU LẠ

Lm. Ngọc Dũng, SDB

Trong hành trình đức tin, chúng ta thường tìm kiếm những dấu lạ ngoại thường để củng cố đức tin của mình. Nhiều người còn thách đố hoặc ra điều kiện với Chúa: Nếu Chúa ban cho con điều này, nếu Chúa lắng nghe con điều kia, con sẽ không bao giờ bỏ Chúa. Đức tin của chúng ta dường như bị điều kiện hoá và đặt nền tảng trên những gì chúng ta “kiếm lợi” được từ Thiên Chúa. Lời Chúa trong Chúa Nhật III Mùa Chay đưa chúng ta về nền tảng của đức tin, đó chính là Đức Giêsu, Lời của Thiên Chúa. Ngài chính là dấu chỉ vì Ngài đã mặc lấy xác phàm. Cụ thể hơn, qua mầu nhiệm nhập thể, Chúa Giêsu đã đưa luật yêu Chúa và luật yêu người lại với nhau. Điều này chúng tay thấy rõ trong bài đọc 1 hôm nay. Tác giả sách Xuất Hành thuật lại cho chúng ta sự kiện Đức Chúa ban cho dân Israel Mười Điều Răn. Chúng ta phải đọc trình thuật hôm nay trong bối cảnh giao ước giữa Đức Chúa và dân Israel. Mười điều răn nói lên “bổn phận” của Israel đối với Đức Chúa khi họ nhận Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. Mười Điều Răn được chia ra trên hai “tấm bia”: Ba điều răn đầu tiên khắc trên tấm bia thứ nhất nói về tương quan của dân Israel với Thiên Chúa [yêu mến Thiên Chúa] và bảy điều răn còn lại khắc trên tấm bia thứ hai nói về tương quan giữa dân Israel với nhau [yêu mến tha nhân]. Ba điều răn thứ nhất gồm có tôn thờ một mình Thiên Chúa bằng cách ghi khắc ngài trong tim và dành thời gian để tôn thờ Ngài. Bảy điều răn còn lại nói về tương quan với tha nhân và có thể được chia ra làm hai loại: Tương quan trong gia đình nhất là với tổ tiên ông bà cha mẹ [phải thờ cha kính mẹ], tương quan với người ngoài gia đình [tôn trọng người khác và những gì họ có]. Nền tảng của tương quan với con người được đặt trên nền tảng tương quan với Thiên Chúa. Chi tiết này nhắc nhở chúng ta về bản chất của tình yêu: Tình yêu không phải là một cảm xúc đến rồi đi, nhưng là một quyết định, một chọn lựa, một sự dấn thân vô điều kiện và vô vị lợi vì người khác. Chúng ta có đang sống loại tình yêu này không hay chúng ta đang sống với một tình yêu nữa vời và tìm lợi cho chính mình?

Thánh Phaolô trong bài đọc 2 trình bày cho các tín hữu Côrintô biết đâu là nội dung chính của lời rao giảng hay đúng hơn là sứ điệp Tin Mừng của người Kitô hữu, đó là Đức Kitô bị đóng đinh: “Thưa anh em, trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1 Cr 1:22-23). Trong những lời này, Thánh Phaolô chỉ ra Đức Kitô bị đóng đinh là “điềm thiêng dấu lạ, là lẽ khôn ngoan.” Thánh Phaolô cũng chỉ cho biết rằng điềm thiêng dấu là và sự khôn ngoan của Thiên Chúa không được tìm thấy những nơi con người muốn hoặc theo cách thức con người đưa ra mà chỉ được tìm thấy nơi Đức Kitô chịu đóng đinh. Bên cạnh đó, Thánh Phaolô cũng chỉ ra chính Đức Kitô chịu đóng đinh là sức mạnh và sự khôn ngoan của người tín hữu: “Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:24-25). Những lời này nhắc nhở chúng ta về việc sống khiêm nhường. Nhiều lần chúng ta nghĩ mình thông thái, khôn ngoan vì chúng ta cho người này lời khuyên, người kia lời dạy. Hoặc nhiều khi chúng ta cho mình là mạnh mẽ hơn người khác đến nỗi nhạo cười anh chị em mình khi họ vấp ngã. Sức mạnh của con người luôn có giới hạn, sự khôn ngoan của con người có thước đo. Chỉ có sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa mới vô tận. Vì vậy, hãy khiêm nhường khi thành công, không thất vọng khi thất bại.

Bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu với việc giới thiệu lễ Vượt Qua là bối cảnh của những gì sẽ xảy ra. Điều đầu tiên Chúa Giêsu làm khi lên Giêrusalem để chuẩn bị cho lễ Vượt Qua là Ngài vào Đền Thờ và bắt đầu thanh tẩy Đền Thờ: “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem. Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò, ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: ‘Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán’” (Ga 2:13-16). Nhiều người cắt nghĩa hành động của Chúa Giêsu như là một sự giận dữ. Thật ra, theo truyền thống Kinh Thánh, đây là một hành động mang tính biểu tượng, đó là Chúa Giêsu mang những thực hành và việc tôn thờ trong Đền Thờ đến thời kết thúc để bắt đầu một hình thức tôn thờ mới [trong Thần Khí và Sự Thật]. Điều này được diễn tả qua hành động đuổi tất cả những người bán thú vật [cần cho việc dâng lễ tế] và những người đổi tiền [không tạc vẽ tượng ảnh và mang tượng ảnh – in trên các đồng tiền – vào trong đền thờ. Chi tiết này biểu trưng cho việc chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa]. Chúng ta cũng là đền thờ của Thiên Chúa. Tuy nhiên, chúng ta cũng để quá nhiều thứ không xứng đáng chiếm nhiều chỗ trong đền thờ này [nhất là con tim chúng ta]. Chúng ta xin Chúa Giêsu giúp chúng ta quét dọn những gì không cần thiết và làm cho đền thờ của chúng ta bị nhơ bẩn, hầu trở nên một nơi xứng đáng cho Chúa Giêsu ngự.

Một điểm khác chúng ta có thể suy gẫm về hành động của Chúa Giêsu là động lực thúc đẩy Ngài thực hiện hành động tẩy sạch Đền Thờ: “Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Ga 2:17). Chúa Giêsu làm mọi sự vì nhiệt tâm nhà Chúa. Hay nói đúng hơn, Ngài làm mọi sự vì lòng yêu mến Chúa Cha. Trong đời sống thường ngày, động lực thúc đẩy chúng ta làm việc hay phục vụ là gì: Vì lòng yêu mến Chúa hoặc đi tìm tư lợi cho chính mình?

Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người Do Thái (Ga 2:18-20) đưa chúng ta vào nội dung chính của bài Tin Mừng hôm nay:

Người Do Thái: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?”

Đức Giêsu: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.”

Người Do Thái: “Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?”

Nội dung chính của trình thuật Tin Mừng là chứng minh Chúa Giêsu qua sự nhập thể của Ngài đã biến nhân tính (thân xác) con người trở nên Đền Thờ của Thiên Chúa: “Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói” (Ga 2:21-22). Những lời này cho thấy chỉ trong ánh sáng phục sinh mà các môn đệ và chúng ta mới hiểu được cách đúng đắn giá trị của thân xác [nhân tính] của mình. Điểm đáng để chúng ta lưu ý ở đây là thời gian để xây dựng đền thờ. Đối với đền thờ bằng đá bằng cát phải mất nhiều thời gian xây dựng, nhưng sẽ bị phá huỷ trong chốt lát. Nhưng đối với đền thờ xây bằng xương bằng thịt chỉ mất 3 ngày để xây dựng và sẽ tồn tại đến muôn đời. Chúng ta có thể rút ra được điều gì từ chi tiết này? Chúng ta chỉ hiểu được giá trị thân xác của mình chỉ trong mầu nhiệm phục sinh, trong ánh sáng của niềm tin vào sự phục sinh của thân xác. Nói cách cụ thể, thân xác không phải là cái gì đó “nhơ bẩn” hoặc ngăn cản đời sống thiêng liêng của chúng ta, nhưng là một cái gì đó được chia sẻ trong vinh quang phục sinh. Hãy chăm sóc và gìn giữ thân xác chúng ta tinh tuyền.

Bài Tin Mừng bắt đầu với “gần lễ Vượt Qua” với sự kiện Chúa Giêsu thanh tẩy Đền Thờ và kết với “dịp lễ Vượt Qua” với việc nhiều người tin vào danh Người: “Trong lúc Đức Giêsu ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người bởi đã chứng kiến các dấu lạ Người làm” (Ga 2:23). Tuy nhiên, điều đáng làm chúng ta ngạc nhiên là chính Chúa Giêsu không tin vào những người đã tin vào danh Ngài: “Nhưng chính Đức Giêsu không tin họ, vì Người biết họ hết thảy, và không cần ai làm chứng về con người. Quả thật, chính Người biết có gì trong lòng con người” (Ga 2:24-25). Những chi tiết trên chỉ cho chúng ta thấy nhiều người tin vào Chúa Giêsu vì họ đã chứng kiến các dấu lạ. Còn Chúa Giêsu không tin họ vì Ngài nhìn thấy những gì trong lòng họ. Điều này nhắc nhở chúng ta về đời sống đức tin dựa trên cảm tính, cảm xúc của mình chứ không dựa trên sự dấn thân chọn lựa trọn vẹn. Chúng ta phải giữ vững đức tin để dù có chứng kiến dấu lạ hay không chúng ta vẫn phó thác trọn vẹn đường đời của mình cho Chúa.

Về mục lục

YẾU HÈN LẦM LỖI, XIN CHÚA ĐỠ NÂNG

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần 3 Mùa Chay, năm B này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa là Đấng rất từ bi nhân hậu, Chúa đã từng chỉ dạy chúng ta cách chữa lành những vết thương tội lỗi: là ăn chay hãm mình, siêng năng cầu nguyệnchia cơm sẻ áo cho kẻ khó nghèo. Chúng ta nhận biết mình yếu hèn lầm lỗi, và hết lòng sám hối ăn năn, xin Chúa thương đoái nhìn đến chúng ta và đưa tay nâng đỡ.

Mặc dù, con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, thân xác con người là đền thờ Chúa Thánh Thần, nhưng, do thân phận yếu hèn lầm lỗi, con người thường lãng quên Giao Ước của Thiên Chúa, và lạc xa đường lối của Người. Trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Xuất Hành đã cho thấy: Qua các điều khoản của Giao Ước, Thiên Chúa muốn làm cho Dân của Người thành một cộng đoàn huynh đệ, sống tình bác ái chân thật. Tuy nhiên, lịch sử cho thấy rằng: Ítraen đã không luôn sống theo luật đó.

Trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh đã cho thấy: Đền Thờ đích thực chính là Đức Kitô: Đức Kitô đã đón nhận một thân xác thuộc dòng dõi Ađam. Người Dothái đã phá hủy Đền Thờ thuộc dòng dõi Ađam này, tức là thân xác của Đức Kitô, nhưng, Thiên Chúa đã tái thiết Đền Thờ này vào ngày thứ ba.

Trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Xuất Hành cho thấy: Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê. Mười Điều Răn được tóm lại trong một điều duy nhất: Mến Chúa và yêu người. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 18B, vịnh gia đã cho thấy: Chúa mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn.

Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô đã nói: Trong khi người Dothái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hylạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Dothái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Tin vào Đấng bị đóng đinh, sẽ được cứu độ, đây là điều được nói đến trong câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì được sống muôn đời.

Trong bài Tin Mừng, khi những người Dothái hỏi Đức Giêsu: Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế? Đức Giêsu đã trả lời cho họ: Cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại. Chúng ta nhớ lại một lần khác, người ta đòi dấu lạ, nhưng, Đức Giêsu nói: không có dấu lạ nào khác, ngoài dấu lạ ngôn sứ Giôna ở trong bụng cá ba ngày. Đức Giêsu sau ba ngày, Người đã trỗi dậy. Đây là một dấu lạ, mà Người muốn chúng ta tin để được cứu độ. Đức Giêsu là Đền Thờ đích thực, Đền Thờ vĩnh cửu, không ai có thể hủy hoại được. Chúng ta là chi thể của Đức Kitô, chúng ta cũng được thông dự vào sự vĩnh cửu đó, nếu chúng ta đừng để cho đền thờ của mình ra ô uế, thành nơi buôn bán, thành sào huyệt của quân trộm cướp. Để giữ cho đền thờ của mình luôn được trong sạch, chúng ta phải tuân giữ Giao Ước của Chúa, làm theo những gì Luật Chúa dạy, nhất là, ba việc đạo đức mà Hội Thánh mời gọi chúng ta thực hiện trong Mùa Chay là: ăn chay, cầu nguyện và bố thí. Qua Phép Rửa Tội, chúng ta đã được cùng sống lại với Đức Kitô, nhưng, khuynh hướng chiều theo dục vọng vẫn còn. Muốn Thiên Chúa được tôn vinh nơi đền thờ của chúng ta, thì chúng ta phải để cho Người chiếm hữu thân xác của chúng ta, chứ đừng để cho nó chiều theo những dục vọng thấp hèn. Nhờ đó, sự sáng của Đức Kitô trong chúng ta, sẽ chiếu giãi trước mặt người ta, để họ thấy những việc lành chúng ta làm, mà tôn vinh Cha trên trời. Ước gì được như thế!

Về mục lục

SỰ QUAN TÂM CẦN THIẾT

Lm. Jos DĐH.

Có phải vì muốn sự an lành mà cha ông chúng ta nói: đèn nhà ai người ấy rạng, việc của ai người ấy lo, vớ vẩn giẫm chân nhau, bể đầu sứt trán thì đáng tiếc ! Cứ theo lẽ tự nhiên, tội ai nấy mang, lỗi ai nấy chịu, có hay không tình yêu thương của bậc làm cha mẹ luôn sẵn lòng: quýt làm cam chịu ? Chúng ta đang quan tâm đến điều gì, trong khi người Do-thái đến hội đường hàng tuần, người kitô hữu đạo đức đến nhà thờ hàng ngày, đều phát xuất bởi ước muốn được thánh thiện. Thực ra thì lười biếng hoặc chăm chỉ, yêu hay ghét, kết quả ra sao, tùy sự tự do ta ứng xử nơi cuộc sống hiện tại của mình. Có phải vì sự thật mất lòng, vì công bằng ở đời: tai ai ngứa, tự lo vệ sinh, hay vì lý do tế nhị mà người ta làm ngơ trước sự ô uế đang ở xung quanh mình ?

Quan niệm chung chung ở đời: biết mà không lên tiếng, có khác gì kẻ bị câm, nhìn mà không thấy, khác nào bị “khiếm thị”, nghe mùi ô uế mà không bịt mũi, chắc là tai mũi họng, trục trặc lớn ! Phải chăng, chỉ một mình Đức Giêsu thấy sự lộn xộn, bất hợp lý, Ngài đã nói gì, làm gì tại Đền thờ hôm đó ? Có phải Đức Giêsu mất kiên nhẫn, hay đã phản ứng trên mức cần thiết, chỉ vì xã hội có quá nhiều kẻ thấp cổ bé miệng ? Vâng, bài học mà các môn đệ và nhiều người xưa nay phải nghiệm ra: dù đền thờ vật chất hay đền thờ tâm hồn đều có Chúa hiện diện, vì vậy, điều cần thiết là “đền thờ” không được dơ bẩn, ô uế. Tất cả vì yêu, ai cũng có bổn phận phải quan tâm đến sự sạch đẹp nơi đền thờ cộng đồng, và đền thờ tâm hồn của mình, nếu im lặng, người ta đều phải chịu trách nhiệm.

Tiền nhân chúng ta có câu: tìm nơi đâu có được tình yêu vĩ đại như tình yêu của mẹ cha, nơi nào là nơi huấn luyện, đào tạo, nên người quân tử đầy chí khí anh hùng ? Chúng ta tìm đâu ra một ngôn sứ nhiệt tâm nhiệt tình: “Người thấy trong đền thờ có những kẻ bán bò, chiên, chim câu, và những người đổi tiền bạc, Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn, cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ”. Tục ngữ có câu: thờ thì dễ, giữ lễ thì khó. Khi đụng đến quyền lợi, người ta phản ứng tức thời: “Ông hãy tỏ ra ông lấy quyền nào mà làm như vậy”? Chính sự quan tâm cần thiết, lòng nhiệt thành đúng chỗ: từ lời nói và hành động của Đức Giêsu tại đền thờ, muôn dân thiên hạ hôm đó, ít nhiều họ đã phát hiện ra sức mạnh và tình yêu Thiên Chúa ở trong Đức Giêsu.

Trả lại sự trang trọng, sạch đẹp, cho đền thờ là điều cần thiết, trả lại sự linh thánh đầy ý nghĩa là trách nhiệm chung: nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện. Đức Giêsu gián tiếp cho thấy sự quyết tâm nơi người môn đệ, là phải dấn thân, không được im lặng trước sự xấu, không được rao giảng lời Chúa bằng hành động suông. Trước một tinh thần sắt thép, Đức Giêsu dẫn người Do-thái tới vấn đề cụ thể hơn: “các người cứ phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại”. Nếu niềm tin không được trưởng thành, không được lớn lên, trái tim và khối óc của chúng ta sẽ mãi nhỏ hẹp, khi đó người ta chỉ có thể sống và hành hành bằng một tình yêu vụ lợi, ích kỷ nghèo hèn mà thôi.

Chúng ta sẽ nghĩ gì, khi người trẻ hôm nay cho rằng: vạn lời nói yêu, không không bằng một câu nói cần, ngàn câu nói cần, cũng chẳng bằng một lần quan tâm ? Ngôn ngữ của trái tim, hành động của khối óc, luôn đủ chất lay động lòng người, trong khi đó, học trò Đức Giêsu thì nhớ lại câu kinh thánh: “sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thôi thúc tôi”. Triết lý ở đời hết sức thuyết phục: nếu bạn thắng, bạn thành công, bạn không cần giải thích, nếu bạn thua, hoặc thất bại, chẳng ai muốn nghe bạn giải thích. Đức Giêsu sẽ không sử dụng uy quyền để chiến thắng thế gian, không dùng lời nói việc làm để “phân bua” phải trái, đúng sai, nhưng bằng tình yêu thương: đau khổ thập giá và vinh quang phục sinh, mà trả lời cho nhân loại.

Sự quan tâm của mỗi người không thể giống nhau, tiền bạc có thể mua được bằng cấp địa vị, nhưng không thể mua được tình yêu. Sự khôn ngoan thế gian có thể là chìa khóa mở ra nhiều cánh cửa hạnh phúc ở đời này. Sự quan tâm thiết thực của người tín hữu là gì, chắc chắn phải là có Chúa, vì đền thờ tâm hồn sạch đẹp, mới xứng hợp với Thiên Chúa cứu độ. Xã hội và con người văn minh hôm nay, đền thờ, nhà thờ, có thể không có cảnh buôn bán hôi tanh, đổi tiền đổi bạc như năm xưa, nhưng Chúa Giêsu vẫn còn nhiều bận tâm đến hồn xác sạch đẹp của chúng ta. Người tín hữu chính là hiện thân của Thiên Chúa cứu độ, vì thế ta phải thường xuyên để Chúa thanh tẩy cho tâm hồn sạch đẹp. Nhờ sự quan tâm cần thiết của Chúa, người có Chúa sẽ hiểu: lời nói bất cẩn có thể gây bất hòa, lời nói cay độc có thể giết chết anh chị em mình. Nhưng lời nói đúng lúc, đúng chỗ, sẽ làm giảm căng thẳng, lời nói đủ chất yêu thương của Chúa, mới đem lại hạnh phúc đời đời. Amen.

Về mục lục

HÃY CHỐNG LẠI CÁI XẤU

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Có người nhắn tin hỏi tôi: có nên bắt tại trận bố con ngoại tình không cha?

Tôi hỏi lại: bắt tại trận mình sẽ được gì ? mất gì?

Sự xấu buộc phải lên án nhưng làm cho nhau mất mặt, tổn thương sẽ chẳng bao giờ chữa lành được. Theo cha, con hãy viết một lá thư kể về những lầm lỗi của người cha ấy, và mong ông ấy hồi tỉnh mà quay trở về. Đó là việc sửa đổi của tình bác ái ky-tô giáo, và tạo cho họ con đường quay trở về.

Nhưng dường như trong xã hội hôm nay nhiều người chọn giải pháp im lặng để tội ai làm người đó chịu, và xã hội dường như cũng quan niệm người tốt là người không bon chen, không tranh giành, không làm việc xấu và xen vào việc làm của người khác.

Họ đâu biết rằng im lặng, thờ ơ trước cái xấu chính là tiếp tay cho tội ác, tạo cơ hội để cái xấu hoành hành, phát triển, . . . có thể coi là đồng lõa với cái ác. Vô cảm là ngọn nguồn để tội ác phát sinh”

Gần đây, các phương tiện thông tin đại chúng phản ánh rất nhiều những vụ án thương tâm gây xôn xao dư luận, không khỏi khiến chúng ta bàng hoàng.  Sự nhẫn tâm của kẻ thủ ác, có lẽ không còn cần bàn cãi. Nhưng còn những người xung quanh? Những nữ sinh có thể thản nhiên xem bạn đánh nhau, và quay clip. . . Những người hàng xóm đã làm ngơ để một em nhỏ bị ngược đãi trong suốt 10 năm…

Ngay trong Giáo hội vẫn còn đầy cái sai của cha này, xứ nọ nhưng không ai dám nói lên cái sai, và ở đâu đó có vài con én dám nói lên sự thật liền bị chụp mũ chia rẽ Giáo hội và đưa lời Chúa ra để răn đe rằng: “không ai có quyền lên án và chỉ có Thiên Chúa mới có quyền lên án ” vân, vân và vân vân . ..

Một điều đáng suy ngẫm là cách chọn sự im lặng hay mặc kệ người ta vẫn diễn ra trong cuộc sống quanh ta. Ở đâu đó, quyền lực tha hóa, người có chức quyền dùng bằng giả để dành ghế ngồi, và dùng quyền để vun quén cho bản thân, nhưng dân đen không được lên tiếng, vì lên tiếng là nói xấu cán bộ , là nói xấu bề trên! Ở đâu đó sự dữ lộng hành vẫn lẩn khuất trong môitrường sống từ trường học đến công sở đâu đâu cũng có người xấu và những hành vi xấu. Điều đáng buồn là nhiều người chọn im lặng để an phận hầu tránh khỏi những thị phi.

Năm xưa Chúa Giê-su đã không dửng dưng trước cái xấu. Ngài đã hành động trong giận dữ mà người ta nói là “cơn giận thánh”. Ngài không thể chấp nhận sự dữ tồn tại. Ngài không thể khoanh tay nhìn cái xấu hoành hành. Phúc âm kể rằng: khi Chúa Giê-su vào trong đền thờ và Ngài thấy người ta buôn bán, cãi nhau, lừa đảo làm ô uế đền thờ. Chúa đã tức giận. Chúa đã xua đuổi con buôn khỏi đền thờ. Chúa không chấp nhận biến nhà Chúa thành nơi buôn bán, lừa lọc. Cho dù việc làm của Chúa đụng đến cái ăn của nhiều người. Từ các thượng tế đến dân buôn. Họ sẽ mất mối lợi từ đền thờ. Họ sẽ cùng nhau chống lại Chúa. Nhưng Chúa không lùi bước khi phải đương đầu với sự dữ. Ngài đã làm tất cả để bảo vệ đền thờ.

Cuộc sống này sẽ bớt đi cái xấu nếu chúng ta dám nói không với tội lỗi. Và càng đẹp hơn nếu chúng ta cùng liên kết với nhau xua đuổi sự dữ. Xin đừng lãnh cảm với đồng loại. Hãy dám nói sự thật để bảo vệ công lý. Hãy can đảm ngăn chặn những việc xấu của anh em, của bè bạn và thậm chí của những bề trên. Có thể chúng ta sẽ bị thiệt thòi. Nhưng chân lý sẽ thắng. Sự dữ sẽ bị đẩy lui nếu ai ai cũng đồng lòng tiêu diệt sự xấu để trả lại nền văn minh tình thương cho cuộc sống. Nhất là cho công lý và hòa bình được thực hiện trên quê hương và Giáo hội chúng ta. Amen

Về mục lục

ĐỨC GIÊSU: ĐỀN THỜ MỚI CỦA THIÊN CHÚA

Jorathe Nắng Tím 

Với người Do Thái, Đền Thờ Giêrusalem là trung tâm tôn giáo, nơi tất cả các chi tộc Ítraen tụ tập về, nơi mỗi người tín hữu đến gặp Đức Chúa, bởi Đền Thờ là dấu chỉ của Giao Ước Giavê Thiên Chúa đã ký kết với dân Ngài (x. Xh 20,1-17), là nhà của  Đức Chúa giữa dân riêng, và là đền thánh của Lề Luật. Chẳng thế mà khi nhắc đến Giêrusalem, tâm hồn người Do Thái nào cũng phấn khởi, vui mừng như lời thánh vịnh : “Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi : Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa. Và giờ đây Giêrusalem hỡi, cửa nội thành, ta đã dừng chân. Giêrusalem khác nào đô thị, được xây nên một khối vẹn toàn. Từng chi tộc, chi tộc của Chúa, trẩy hội lên đền ở nơi đây, để danh Chúa, họ cùng xưng tụng, như lệnh đã truyền cho Ítraen. Cũng nơi đó, đặt ngai xét xử, ngai vàng của vương triều Đavít… Nghĩ tới đền thánh Chúa, Thiên Chúa chúng ta thờ, tôi ước mong thành được hạnh phúc, hỡi thành đô” (Tv 121,1-5.9).

Như mọi con trẻ Do Thái khác, Đức Giêsu ngay từ buổi đầu đời đã được cha mẹ đem lên đền thờ để dâng tiến cho Thiên Chúa (x. Lc 2,22-24), và hằng năm Ngài đều theo cha mẹ “trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua” (Lc 2,41), cũng như khi bước vào hành trình công khai loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Ngài thường xuyên lên Đền Thờ, vì đền thờ là “nhà của Cha Ngài”, và Ngài có bổn phận, như Ngài đã trả lời cha mẹ, khi hai ông bà tìm thấy Ngài sau ba ngày lac mất : “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49).

Cũng như mọi năm, “gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem” (Ga 2,13), nhưng lần này thì một biến cố lớn xẩy ra, khi “Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ” (Ga 2,14-15).

Thật khủng khiếp cơn lôi đình của Đức Giêsu, nhưng còn dữ dội, táo bạo hơn khi Ngài lớn tiếng thách thức : “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi ; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Và tất nhiên, Đức Giêsu đã gây sốc, khi chạm đến niềm tự hào vô cùng vĩ đại của người Do Thái, bởi “Đền Thờ đã phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong” (Ga 2,20), và được xây hai lần : lần thứ nhất từ thời vua Salômôn thế kỷ X trước công nguyên, và bị quân Babylon phá hủy năm -586 trước công nguyên, ; được xây lại lần thứ hai 70 năm sau, nhưng đến năm 70 sau công nguyên lại bị quân Rôma tàn phá bình địa một lần nữa.

Chính trong cơn lôi đình và gây sốc này, Đức Giêsu đã báo trước Đền Thờ mới sắp được xây lại là “chính thân thể Người” (Ga 2,21).

Cũng như Đền Thờ Giêrusalem là dấu chỉ của Giao Ước Thiên Chúa đã ký kết với dân riêng của Ngài là Ítraen, Đền Thờ mới là Thân Thể Đức Giêsu, dấu chỉ của Giao Ước mới được ký kết với Thiên Chúa bằng chính máu Ngài, qua hy lễ  Thánh Giá. Giao Ước mới  đã không chỉ được ký kết với một dân tộc, một mầu da, một tiếng nói, nhưng với toàn thể nhân loại, vì Đức Giêsu đã tự hiến mình để cứu chuộc tất cả mọi người, bất phân mầu da, ngôn ngữ, văn hoá, chính kiến, giai tầng, hoàn cảnh… như chính Ngài đã nói với các môn đệ trước khi lên đường đi chịu chết: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người” (Mc 14,24).

Vì thế, loan báo Tin Mừng ở người Kitô hữu chính là “rao giảng một Đức Kitô chịu đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1 Cr 1,23), bởi chỉ ở nơi Đức Giêsu chịu đóng đinh, tội lỗi của  mọi người mới được tẩy xóa ; chỉ trong máu của Đức Giêsu, loài người mới được thánh hoá, cứu chuộc, trở nên công chính và được hiện hữu trong Thiên Chúa (x .1 Cr 1,30) ; chỉ trên khuôn mặt của Đức Giêsu, tội nhân mới nhận ra và nhận được sức mạnh cứu rỗi toàn năng của Thiên Chúa được biểu hiện và thể hiện nơi Tình Yêu được trọn vẹn dâng hiến.

Thực vậy, Đức Giêsu từ nay là Giao Ước mới giữa loài người tội lụy cần được thương xót và Thiên Chúa nhân hậu, giàu lòng xót thương, đồng thời, thân thể của Đức Giêsu trở nên  Đền Thờ của Thiên Chúa giữa loài người, như dấu chỉ của Giao Ước mới, điều Đức Giêsu đã muốn nói, khi lớn tiếng thách thức : “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi ; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”, mà các môn đệ của Ngài chỉ hiểu được sau khi “Người từ cõi chết sống lại sau ba ngày chôn trong mồ” (x . Mc 8,31 ; 9, 31 ; 10,34).

Vâng, Đền Thờ mới, dấu chỉ của Giao Ước mới  là Thân Thể của Đức Giêsu, mà Thân Thể ấy chính là Giáo Hội, như thánh Phaolô đã khẳng định : “Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do Thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể… Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận” (1 Cr 13,12-13.27).

Vì Thân Thể Đức Giêsu là Đền Thờ, và mỗi người chúng ta là chi thể của Thân Thể ấy, nên cũng là những hòn đá sống động xây dựng Đền Thờ của Thiên Chúa giữa loài người…

Vì Thân Thể Đức Giêsu là Hội Thánh, và mỗi Kitô  hữu là chi thể của Thân Thể mầu nhiệm có Đức Giêsu là Đầu, nên cũng là những viên gạch xây dựng Giáo Hội, là Nhà Thiên Chúa giữa nhân loại.

Vì là chi thể của Thân Thể  mầu nhiệm, nên mỗi người chúng ta khi lãnh nhận “Bánh được bẻ ra” sẽ được trở nên Thân Thể của Đức Giêsu, và Đền Thờ của Chúa Thánh Thần, như thánh Phaolô qủa quyết : “Nào anh em đã chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” (1Cr 3,16 -17).

Ước gì trong Mùa Chay thánh, chúng ta tâm niệm và xác tín : “Không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô” (1 Cr 3,11), và trên nền móng này, Giao Ước giữa Thiên Chúa với con người được thiết lập và Đền Thờ Thiên Chúa được xây dựng bền vững trên đất người, và trong tâm hồn mọi người.

Về mục lục

THANH TẨY ĐỀN THỜ-

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Nhìn quang cảnh chợ búa bát nháo, hỗn độn ở sân đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu không thể chịu nổi tình trạng buôn thần bán thánh của các tư tế. Họ đã lợi dụng đền thờ làm nơi kinh doanh thu nhập bổ béo cho mình. Thái độ mạnh bạo của Chúa Giêsu hôm nay là trường hợp duy nhất cho thấy Ngài muốn trong sạch hóa đền thờ, muốn hoàn thành ước vọng của Cha theo lời ngôn sứ Dacaria: “Ngày ấy sẽ không còn lái buôn trong Nhà Đức Chúa” (14, 21).

Thực tế, tinh thần đạo giáo của Israel lúc đó đã suy thoái và bị tục hóa nặng nề. Việc buôn bán ở đền thờ đã bóc lột những người nghèo. Họ phải đổi thành tiền của đền thờ chỉ còn giá trị phân nửa, rồi phải mua lễ vật ở đó để dâng tiến Thiên Chúa với giá cao gấp mười lần. Lòng yêu mến công lý bốc cháy trong tim Đức Giêsu, khiến Ngài phải gây một cú sốc để mọi người thấy được tính chất quan trọng. Chúa Giêsu biết rõ sự nguy hiểm khi Ngài làm như thế, và đã ứng nghiệm câu Thánh vịnh:“Vì nhiệt tâm lo nhà Chúa mà con phải thiệt thân” (Tv 69, 10).

Người ta lấy làm lạ về thái độ của Chúa Giêsu, nhưng Ngài không làm như vậy mới lạ. Nếu Ngài chỉ nói nhỏ nhẹ thôi thì rõ ràng Ngài tỏ ra nhát đảm, vì sợ đụng chạm đến quyền lợi của thượng tế Khanania và nhóm tư tế trong đền thờ. Nguy hiểm hơn nữa đó là sự khoan nhượng như dấu hiệu thỏa hiệp với sự dữ. Thái độ Chúa Giêsu ở đây là muốn khai trừ sự dữ hơn là giận dữ. Ngài không hành động theo cảm tính, mà theo lẽ chân thật, và khẳng định rõ: “Nhà Ta là nhà cầu nguyện…”.

Trước sự chất vấn của người Do Thái, Chúa Giêsu mạnh mẽ khẳng định một lần nữa:“Các ông cứ phá hủy Ðền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”. Chúa Giêsu ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Ngài. Thân thể được phục sinh của Ngài sẽ là Ðền Thờ mới, nơi nhân loại thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực.

Biến cố thanh tẩy đền thờ xảy ra gần ngày lễ Vượt qua của người Do Thái, nên đây cũng là hành động biểu trưng của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy: Ngài thay thế chỗ các tư tế Do thái, và xóa bỏ hình thức tế tự cũ để thay vào bằng một hiến lễ tinh tuyền là chính Ngài, mà Thiên Chúa đã loan báo qua ngôn sứ Malakia (1, 10-11). Nếu đền thờ là nơi Thiên Chúa và con người gặp gỡ nhau, thì từ đây sự gặp gỡ này được thực hiện trong Đức Giêsu Kitô: Đấng cứu độ duy nhất.

Thái độ của Chúa Giêsu hôm nay là thái độ quyết liệt, không nhượng bộ: “Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây”. Ngài đòi ta phải triệt hạ cho bằng được mọi ngổn ngang và bừa bãi trong tâm hồn mình, đòi phải trong sạch hóa mọi tình trạng loang lỗ và tiêu cực nơi bản thân ta. Không thể là con cái Thiên Chúa khi chúng ta vẫn còn muốn nô lệ cho thế gian, hoặc trở thành kẻ hai lòng: vừa muốn dâng hiến cho Chúa lại vừa muốn sở hữu những vui thú lợi lộc ở đời này.

Bài Phúc Âm hôm nay còn nhắc nhớ tâm hồn của mỗi người chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa, là nhà cầu nguyện, là cung thánh, nơi thâm sâu nhất để sống kết hiệp với Chúa. Thiếu kết hiệp với Chúa trong đời sống hằng ngày, lòng ta dễ trở thành sào huyệt của bọn cướp, là tính vị kỷ, kiêu căng, ghen ghét, thống trị, chiếm hữu… Thân xác ta cũng là đền thờ của Thánh Thần. Có những đền thờ thánh thiêng đã trở nên phàm tục. Những đam mê vô độ của thân xác đã vô hiệu hóa quyền năng của Thánh Thần, Đấng luôn đem lại sức sống mới cho đời ta.

Mùa Chay là mùa tu sửa lại đền thờ tâm hồn mình. Ước chi chúng ta dám can đảm hành động theo sự đòi hỏi đầy yêu thương của Chúa.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Đấng hiền lành và khiêm nhượng,
luôn hành động với tất cả tình thương,
nhưng rồi có lần Chúa đã nổi giận,
khi thấy đền thờ đầy gian lận bán buôn,
người ta đã biến Nhà Cha thành cái chợ,
không còn là nơi thanh tịnh để tôn thờ.

Chúa thấy phải thanh tẩy đền thờ,
cho khỏi những ô uế và bợn nhơ,
khỏi tham lam và tráo trở của lòng người,
đã biến nơi thánh thiêng thành phàm tục,
để đầu cơ trục lợi thay vì đem ân phúc.

Hành động của Chúa cho con hiểu,
đã đến lúc đền thờ được thay thế,
bằng chính thân thể Chúa phục sinh,
để đem lại cho tất cả những ai tin,
dám dấn thân trên con đường ngay chính,
đạt tới an bình và cuộc sống phúc vinh.

Qua Lời Chúa con cảm thấy chột dạ,
vì nhận ra tình trạng tâm hồn mình,
cũng có những thứ ô nhơ và bất kính,
có bao nhiêu thói xấu đã thành hình,
có những mưu mô và tính toan bất chính,
không xứng đáng là đền thờ nơi Chúa ngự.

Xin Chúa thanh tẩy con khỏi những gì ô uế,
cho con biết sống với tinh thần khổ chế,
để tâm con luôn thanh sạch và sáng trong,
mà thờ phượng Chúa với tất cả tấm lòng.

Nhờ đó mà con tỏ lộ Chúa qua mọi việc,
biểu hiện Chúa ở mọi nơi,
nêu cao Chúa trong mọi lúc,
là niềm vui và hạnh phúc của đời con. Amen.

Về mục lục

ĐỂ CHÚA THANH TẨY

Bông hồng nhỏ

Cứ mỗi dịp Tết đến, mấy đứa trẻ dưới quê lại tíu tít khoe: “Hôm qua, mẹ tớ kéo tớ ra giếng để tắm. Mẹ bảo năm mới đến rồi, phải tắm cho sạch thì mới mau lớn”. Thật ra, mấy đứa trẻ ấy hằng ngày vẫn tự tắm nhưng chỉ tắm vội vàng, phần vì trời lạnh nên lười tắm, phần vì mải chơi với đám bạn nên đứa nào cũng ngại tắm. Những đứa trẻ ấy vui thích khi được tắm rửa sạch sẽ và hơn thế, chúng mong đợi sẽ thấy mình mau lớn hơn. Việc thanh tẩy thân xác là điều quan trọng nhưng có một điều quan trọng và rất cần thiết đó là việc thanh tẩy tâm hồn. Ta có để cho mình được Chúa Giêsu thanh tẩy tâm hồn mình không?

Hôm nay, Chúa Giêsu vào Đền Thờ, Người thanh tẩy Đền Thờ và gặp phải thái độ chống đối của những người Do thái. Người đánh đuổi những kẻ buôn bán và đổi tiền ra khỏi đền thờ cách mạnh mẽ: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Chúa Giêsu xua đuổi những kẻ đổi tiền và buôn bán ra khỏi Đền Thờ là một lời nhắc nhở cho chính ta về việc nhìn lại tâm hồn mình. Thánh Phaolô cũng đã nhắc nhở ta: “Anh em không biết rằng thân xác anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần sao?” (1Cr 6,19). Thân xác của ta là Đền thờ của Chúa Thánh Thần, ta phải luôn ý thức sự hiện diện thánh thiêng của Thiên Chúa nơi tâm hồn mình; hãy tôn vinh Thiên Chúa bằng cách ăn ở sao cho xứng với phẩm giá làm con Chúa. Những người Do thái đã chứng kiến các phép lạ của Chúa Giêsu, họ tin vào Người. Nhưng chính Người lại không tin họ, vì Người biết họ hết thảy. Niềm tin của họ chóng phai tàn vì họ không thật sự yêu mến Người. Ta vẫn tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa, niềm tin ấy được biểu hiện như thế nào?

Cuộc đời đầy dẫy những bon chen, lọc lừa, dối trá… Khi chiều theo những cám dỗ, ta sẽ làm cho mình ra ô uế, làm ta xa lìa Thiên Chúa. Sống trong một xã hội có nhiều những cám dỗ, ta phải thật tỉnh thức để không chiều theo những cám dỗ. Hãy lắng nghe tiếng lương tâm của mình để phân định và chọn lựa. Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, ta hãy tìm cách diễn tả đức tin của mình, hãy nối dài những Thánh lễ trong đời sống thường ngày của ta. Ta hãy sống yêu thương như Chúa mời gọi, vì cuộc sống đầy yêu thương cũng là một bàn tiệc Thánh Thể mà Chúa vẫn mời gọi ta hãy đến và đón lấy yêu thương. Việc năng học hỏi Lời Chúa và giáo huấn của Giáo Hội, năng bàn hỏi với những người khôn ngoan sẽ giúp ta mài giũa cho lý trí được sáng suốt. Bằng đời sống cầu nguyện, thường xuyên kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, ta sẽ được sống dưới tác động của Chúa Thánh Thần, biết nhạy bén với tiếng Chúa. Hãy năng lãnh nhận bí tích Hòa giải để được Chúa Giêsu thanh tẩy tâm hồn mình. Mỗi ngày, ta hãy đặt mình thường xuyên trước sự hiện diện của Chúa Giêsu và sống trong tình yêu của Người. Hãy từng bước cảm nếm tình yêu bao la của Thiên Chúa, Người vẫn luôn chăm sóc, dõi theo ta trong từng phút giây. Hễ mỗi lần ta đi lạc, Người tìm cách dẫn ta trở về, Người đứng trước cửa lòng ta và gõ cửa, kiên nhẫn chờ đợi ta mở lòng ra. Tội lỗi là những rào cản khiến cho lối vào tâm hồn ta đầy những ngổn ngang, bừa bộn, bẩn thỉu và tối tăm, lầy lội. Từng ngày, bằng việc tham dự các giờ thờ phượng thật sốt sắng, ta hãy để cho trái tim mình được đầy ắp tình yêu của Chúa, hãy đưa đôi mắt tâm hồn chiêm ngắm vẻ đẹp của Giêsu Thánh Thể, để khi đón nhận chính Mình Thánh Người, ta sẽ có được sức mạnh để yêu thương anh em mình. Ta sẽ tìm được cách thế để sửa sang lại căn nhà của tâm hồn mình.

Lạy Chúa Giêsu! Chúa vẫn thấu biết lòng con. Chúa vẫn kiên nhẫn mời gọi con sửa sang lại tâm hồn mình. Như một đứa trẻ lười tắm, con ngại ngần vì bao tội lỗi làm con xấu hổ, bao cám dỗ đầy đam mê làm con khó rút chân ra khỏi vũng lầy êm ái, bao tật xấu ngổn ngang trong đời sống con. Trong Mùa Chay Thánh này, xin Chúa giúp con can đảm canh tân con người mình, chừa bỏ được một tật xấu cố hữu và trồng được một bông hoa nhân đức để dâng lên Chúa. Con nguyện làm một đứa trẻ để được Chúa thanh tẩy và vui mừng chờ đợi mình sẽ lớn thêm một chút. Amen.

Về mục lục

TẨY UẾ ĐỀN THỜ

Thiên San

Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem. Người thấy trong Đền thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền. Người lấy dây làm roi mà xua đuổi họ ra khỏi đền thờ cùng chiên bò, bồ câu, lật nhào bàn ghế của những kẻ đổi tiền. Người Do Thái rất ngạc nhiên về thái độ của Đức Giêsu (x. Ga 2, 13-25).

Lòng nhiệt thành với nhà của Cha đã khiến Đức Giêsu “nổi nóng”. Thực ra, những gì Đức Giêsu nhìn thấy là những hoạt động rất quen thuộc người ta có thể gặp thấy mỗi khi lên Đền thờ Giêrusalem. Vào các dịp lễ lớn, các hoạt động đó lại trở nên nhộn nhịp hơn. Để dâng của lễ cho Thiên Chúa, những người Do thái chọn trong số đàn vật của mình những con chiên, con dê béo tốt nhất, không thương tật. Đối với những ai không tìm được, không có con vật nào hoặc vì nhà quá xa, không thể mang theo của lễ, họ có thể chọn mua một vài con vật họ muốn để làm của lễ dâng kính Chúa. Bởi đó rất dễ hiểu về hoạt động buôn bán tại đây. Người Do Thái mỗi khi lên Đền thờ, họ phải đổi tiền mới có thể mua được những gì họ cần, bởi lúc bấy giờ, họ đang bị đế quốc Rôma cai trị.

Vậy tại sao Đức Giêsu phải “nổi nóng”. Phải chăng hoạt động buôn bán tại đền thờ được những kẻ buôn bán lợi dụng, lấn át cả việc thờ phượng, đến nỗi tràn vào cả trong đền thờ nơi chỉ dành cho việc thờ phượng? Đền thờ là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa nhưng nay biến thành “sào huyệt của bọn cướp”, bị tục hóa. Trước cảnh tượng ấy, dường như Đức Giêsu đã phải gào lên: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” (Ga 2,16). Đức Giêsu “nổi nóng” là chuyện rất dễ hiểu.

“Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta biết rằng đền thờ Ngài muốn nói đến ở đây chính là thân thể Người. Thiên Chúa hiện diện với nhân loại nơi Đức Giêsu: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.” (Ga 14,9). Chính Ngài cũng nhiều lần mạc khải cho chúng ta biết về điều ấy. Qua bí tích Rửa tội, nhờ liên đới với Đức Giêsu, chúng ta được phần phúc trở nên con cái của Ngài. Đức Giêsu chính là đầu còn tất cả chúng ta là chi thể. Nhờ sự hợp nhất ấy, chúng ta được trở nên Đền thờ của Người. Thánh Phaolô từng nói: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền thờ của Thánh Thần sao?” (1Cr 6,19). Đền thờ ấy càng trở nên sống động hơn khi ta rước Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng.

Mỗi người chúng ta thật sự là Đền thờ của Thiên Chúa. Vậy Đền thờ ấy hiện đang trong tình trạng nào? Chắc hẳn, chúng ta phải thừa nhận trằng đền thờ ấy không luôn luôn được sạch. Nó cần được thanh tẩy. Phải chăng nó cũng đang bị tục hóa bởi những hoạt động “buôn bán” đang diễn ra ngày một nhiều hơn, lấn át và tràn lan hơn. Tự sức mình, chúng ta khó ra khỏi tình trạng hỗn độn, buôn bán đó. Chúng ta hãy xin Chúa Giêsu, Đấng ngự trong tâm hồn ta giúp ta thực hiện những cuộc tẩy uế. Chính Ngài sẽ giúp chúng ta can đảm, dứt khoát đuổi ra khỏi đền thờ những gì là ô uế để nhường chỗ cho Thiên Chúa. Xin Chúa cho chúng ta có được lòng nhiệt thành với “nhà Cha” nơi chính tâm hồn mình. Cùng giúp chúng ta biết yêu thương, tôn trọng tha nhân vì họ cũng là Đền thờ của Thiên Chúa theo cách nào đó.

Về mục lục

CỨ PHÁ HỦY ĐỀN THỜ NÀY ĐI

Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa

Trong những năm gần đây, việc xây dựng các ngôi thánh đường mới, hay các trung tâm mục vụ diễn ra khá ồ ạt. Có những nơi, Thánh đường xuống cấp hay không có nơi học giáo lý cho các em thì việc xây dựng quả là cần thiết. Tuy nhiên, cũng có những nơi muốn hoành tráng, muốn giáo xứ của mình hơn giáo xứ bạn nên những ngôi nhà thờ cổ hay nhà xứ cổ bị phá hủy đi để thay thế bằng những công trình đồ sộ thì quả là lãng phí. Đằng sau những công trình đó là biết bao nhiêu câu chuyện khó diễn tả thành lời.

Trong bữa cơm trưa nay, tôi trao đổi với vài người trong bàn ăn về đề tài xây dựng này. Có một bạn trẻ nói với tôi rằng nơi bạn sinh sống và học tập, bạn thấy các thánh lễ cứ dâng của lễ liên tục. Bạn cảm thấy thánh lễ mất đi vẻ thiêng thánh. Bạn cũng chia sẻ thêm là có những người nói với bạn đó rằng đi lễ thấy người ta lên dâng của lễ mà mình không lên thì ngại. Vì thế mà họ bắt buộc phải lên. Bản thân tôi cũng được nghe những chia sẻ từ những giáo dân tôi quen biết. Có người nói rằng con không dám đi dự thánh lễ đó bởi biết chắc sẽ có dâng của lễ mà con thì không có tiền. Một người khác thì nói: nhà con có ba khẩu. Mỗi khẩu đóng góp 200 ngàn đồng. Trong nhà con chỉ còn có 500 ngàn, nhưng người đi thu tiền nhất định không nhận, phải đủ 600 mới được. Thế là con lại phải đi vay thêm 100 ngàn để đóng cho đủ số.

Tin Mừng Chúa Nhật III Mùa Chay năm B kể lại câu chuyện Chúa vào Đền Thờ và đánh đuổi tất cả bọn buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Chúa nói đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán. Có lẽ chưa bao giờ tôi thấy Chúa tỏ thái độ dứt khoát và mạnh mẽ như hôm nay. Một Đức Giê-su hiền lành và khiêm nhường lại có thể có những hành động thực sự quyết liệt. Người Do Thái chất vấn Chúa rằng ông lấy quyền gì mà làm như vậy. Chúa đáp cứ phá hủy Đền Thờ này đi nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại. Người Do Thái kinh ngạc vì phải mất 46 năm họ mới xây dựng được Đền Thờ này. Thế mà Chúa bảo chỉ xây dựng lại trong ba ngày. Nhưng họ không biết rằng Chúa ám chỉ Đền Thờ là chính Thân Thể của Chúa. Qua câu chuyện này, Chúa muốn dạy tôi một bài học thật rõ ràng. Đền Thờ vật chất dù có nguy nga tráng lệ tới đâu thì cũng không bao giờ quan trọng bằng Đền Thờ là chính tâm hồn mỗi con người. Con người mới thực sự quan trọng. Con người dù bé nhỏ nghèo hèn tới đâu cũng đều là thánh thiêng. Chúa không chấp nhận sự thỏa hiệp. Tâm hồn con người không thể bị đồng tiền chi phối, điều khiển. Vì thế, cần có một thái độ dứt khoát với tiền bạc như chính Chúa đã dạy: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”. (Lc 16,13)

Người ta thường nói Đình sang thì Làng siêu. Việc xây dựng những Đền Thờ vật chất chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó được làm nên bởi những tâm hồn thiện lành. Khi con người cảm nghiệm sâu xa mọi sự mình có đều do Chúa tặng bạn, họ sẽ đóng góp xây dựng không phải là sự bắt buộc mà là sự tự nguyện dâng hiến. Những công trình vật chất dù hoành tráng tới đâu, nếu được làm nên từ sự ép buộc thì cũng chẳng có giá trị gì. Nếu vì xây dựng Đền Thờ vật chất mà phá hủy đi Đền Thờ thiêng liêng là tâm hồn các tín hữu thì quả là đáng buồn. Thú thật, tham dự các thánh lễ tạ ơn khánh thành các ngôi thánh đường mới những năm gần đây, tôi cứ thấy không ổn lắm. Bước vào nhà thờ, tôi không cảm nghiệm được vẻ thiêng thánh. Tôi cảm thấy rất khó cầu nguyện. Có vẻ như những ngôi nhà thờ mới chỉ đáp ứng được một việc là rộng lớn hơn chứ không thể tạo ra một cái gì đó huyền bí so với các ngôi nhà thờ trước đây. Khuôn viên Nhà thờ cũng thiếu đi cây xanh, thiếu đi một cái gì đó là thiên nhiên. Nhiều giáo xứ xây dựng bừa bãi không quy hoạch đã làm mất đi cái hồn thiêng mà bao đời cha ông và các vị tiền bối đã dày công xây dựng. Tôi băn khoăn và tự hỏi rồi chúng ta sẽ đi về đâu?

Lạy Chúa, xin biến đổi con thành Đền Thờ đích thực của Chúa. Xin Chúa giúp xua đuổi khỏi con những gì nhơ bẩn. Xin tẩy rửa con trong sạch để con luôn mãi thuộc về Chúa. Amen.

Về mục lục

DANH TÍNH ĐỨC KITÔ

Lm Vũđình Tường

Để tỏ lòng kính mến Thiên Chúa và dâng lời tạ ơn, Đức Kitô thường tham dự Đền Thờ Jerusalem vào các ngày lễ trọng trong năm. Cùng tâm tình đó tín hữu khắp nơi, hành hương từ miền xa xăm về Đền Thờ trong những dịp lễ lớn. Bởi xa xôi, cách trở, nhiều người không tiện mang theo lễ vật dâng tiến Thiên Chúa. Việc bán chiên, cừu bò, bồ câu và đổi tiền nơi Đền Thờ là một cử chỉ bác ái. Chính những trao đổi trên biến Đền Thờ trở nên sầm uất, phồn thịnh, và đồng thời giúp tài chánh trong việc sửa sang, bảo trì thánh điện, và chi phí cho nhóm lãnh đạo trung ương bảo vệ, coi sóc Đền Thờ. Mục đích tốt lành ban đầu kia, từ năm này đến năm kia, bị thay đổi, thoái hoá, biến dạng, trở thành nguồn thu lớn cho con buôn. Lãnh đạo trung ương Đền Thờ cũng không tránh khỏi thoái hoá, trái lại họ còn chấp thuận, ủng hộ cho những thay đổi trên. Việc thờ phượng, tế lễ Thiên Chúa bị thế tục hoá. Tín hữu hành hương trở thành nạn nhân của những thoái hoá này. Nhiều người bất bình nhưng không ai dám lên tiếng. Nuốt hận để được yên thân, nếu không sẽ gặp rắc rối to, không phải với chân tay, mà chính là đụng đầu với nhóm lãnh đạo trung ương Đền Thờ. Súc vật buôn bán không phải là nguyên nhân gây nên tệ nạn, mà chính là chủ của chúng. Đằng sau những người chủ này có nhóm lãnh đạo trung ương Đền Thờ chống lưng. Vì thế chúng ra oai, tác quai, tác quái với lữ khách hành hương. Đức Kitô kịch liệt phản đối tổ chức lạm dụng Đền Thờ, và ngược đãi lữ khách hành hương. Ngài biết rõ lãnh đạo trung ương Đền Thờ sẽ hành động, quyết tâm triệt tiêu những ai cả gan, dám chống lại họ. Biết rõ nguy hiểm sẽ đến. Đụng đến nhóm lãnh đạo trung ương cầm chắc trong tay mất mạng. Biết thế nhưng Đức Kitô không thể làm ngơ hơn được nữa. Ngài lớn tiếng phản đối; kèm theo lời nói là hành động,

‘Đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán’ c.16.

Đức Kitô coi Đền Thờ là nhà Cha của Ngài. Chính câu nói trên bộc lộ Danh Tính Đức Kitô. Ngài không phải là một khách hành hương bình thường. Những lần trước đây, Ngài đến Đền Thờ như một khách hành hương bình thường, nhưng lần này khác hẳn, Ngài đến Đền Thờ với tư cách; thứ nhất là Con Thiên Chúa, và thứ hai là trọng trách của người Con. Ngài bộc lộ điều đó bởi ‘Giờ’ của Ngài sắp đến. Là Con Thiên Chúa, Đức Kitô không thể để cho nhà Cha Mình ra dơ bẩn, nhuốc nha. Thánh Điện từng là nơi thánh, nơi thờ phượng, nơi hết mực tôn kính Thiên Chúa, với tất cả tâm tình, lòng mến. Thánh Điện từng là nơi thờ phượng chung cho mọi người. Bây giờ nhóm lãnh đạo trung ương không những ngăn cấm người khác vào Thánh Điện, mà còn chiều con buôn để họ biến Thánh Điện thành nơi phàm tục, gian tham, lừa gạt khách hành hương. Nhóm lãnh đạo trung ương coi quyền lực, lợi nhuận là chính; thờ phượng trở thành mờ nhạt, thứ yếu. Gian tham, lừa đảo, bất công luôn chứa mầm mống chia rẽ, phe nhóm. Phe nhóm, chia rẽ sớm muộn gì cũng phá sập Đền Thờ. Vì sao? Vì khách hành hương không còn cảm thấy Đền Thờ là của họ. Đền Thờ trở thành tài sản riêng của nhóm lãnh đạo trung ương, và tay chân họ. Bởi cảm thấy Đền Thờ không thuộc về mọi người nên người ta thờ ơ, lạnh nhạt, không quan tâm.

Đức Kitô lên tiếng, Ngài trở thành tiếng nói chung cho lữ khách hành hương. Ngài không để cho nhóm lãnh đạo trung ương tiếp tục thao túng, làm ô uế Đền Thờ. Con buôn không lên tiếng phản đối Đức Kitô, nhưng nhóm lãnh đạo trung ương Đền Thờ chắc chắn sẽ lên tiếng, bởi đụng chạm đến nguồn thu của họ. Họ đặt vấn đề với Đức Kitô. Ai cho phép ông làm điều đó. Hãy chứng minh cho chúng tôi biết ông có quyền đó. Đức Kitô đáp,

‘Phá huỷ Đền Thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại’. c.19.

Nghe câu trên họ cười khẩy, chế nhạo Đức Kitô. Cha ông họ mất bốn mươi sáu năm mới xây dựng được Đền Thờ, một mình Đức Kitô làm sao có thể xây dựng lại trong ba ngày? Về mặt thể lí Đức Kitô cảnh báo, với cách điều hành gian tham, tồi bại, bất công, phe phái của nhóm trung ương Đền Thờ; sớm muộn gì Đền Thờ cũng bị phá hủy. Điều cảnh báo trên xảy ra bốn mươi năm sau đó. Đền Thờ bị ngoại bang tàn phá tan tành. Về mặt tâm linh, Đức Kitô nói chính thân thể Ngài là Đền Thờ sống động. Lãnh đạo trung ương Đền Thờ hiểu lầm điều Đức Kitô nói với họ. Thay vì nghe lời cảnh tỉnh dẫn đến thống hối, ăn năn, trở về cùng Thiên Chúa; nhóm lãnh đạo trung ương bị cái tôi kiêu căng che mắt, không nhìn ra sự thật. Hò càng lún sâu vào cái kiêu căng, tự phụ của họ. Tác giả Kinh thánh giải thích,
‘Đền Thờ Đức Kitô muốn nói đây là chính thân thể Người’ c.22.
Chính Đức Kitô xác nhận trong lúc đàm thoại với người phụ nữ thành Samarita,
‘Những người thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế’ Gn 4,23.
Người phụ nữ thưa cùng Đức Kitô, ‘Tôi biết Đấng Mesiah gọi là Đức Kitô, sẽ đến, Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự. Đức Kitô đáp, ‘Đấng ấy chính là tôi, người đang nói chuyện với chị đây’. Gn 4,26
Thờ phượng trong thần khí và sự thật là cách thờ phượng duy nhất Đức Kitô mặc khải cho người phụ nữ. Là Con Thiên Chúa, Đức Kitô là Đền Thờ sống động cho những ai tin vào Thiên Chúa. Điều này thật sáng tỏ sau cuộc tử nạn. Sau ba ngày Đức Kitô phục sinh, sống lại vinh quang. Ứng nghiệm lời Đức Kitô loan báo, sau ba ngày Ngài sẽ xây dựng Đền Thờ mới, hoàn hảo.

Về mục lục

LẠM DỤNG

Trầm Thiên Thu

Lạm dụng là sử dụng quá giới hạn được phép: lạm dụng lòng tốt của người khác, lạm dụng rượu bia, lạm dụng chức quyền, lạm dụng từ ngữ,… Lĩnh vực nào cũng có tác hại.

Về cơn giận, Francis Quarles nói: “Hãy cẩn thận người ít nổi giận; bởi nỗi giận càng chậm chạp kéo đến, càng trở nên mạnh mẽ và càng khó dứt. Sự kiên nhẫn bị lạm dụng sẽ hóa thành cơn thịnh nộ.” Về quyền hạn, La Fontaine nói: “Bất cứ ai được trao quyền lực sẽ lạm dụng nó nếu không có động lực là tình yêu sự thật và đức hạnh, cho dù kẻ đó là hoàng tử hay dân thường.” Về ngôn ngữ, John Adams nói: “Sự lạm dụng ngôn từ là công cụ lớn nhất của lối mánh khóe và ngụy biện, của các đảng phái, bè lũ và phe cánh trong xã hội.”

Có lẽ đáng sợ nhất là lạm dụng tự do. Thật vậy, ngay từ thuở khai thiên lập địa, Thiên Chúa đã trao quyền tự do cho con người nhưng Ngài cũng lập luật: “Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác thì ngươi KHÔNG được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết.” (St 2:16-17) Cây này gọi là “cây cấm” và ở giữa Vườn Địa Đàng. (St 3:3) Tự do liên quan lề luật.

Cái gì cũng có giới hạn nhất định, tự do cũng vậy. Ai cũng có quyền tự do ăn uống, nhưng phải có giới hạn. Ăn để sống – nói chung, nhưng có thứ ăn vào thì sống, có thứ ăn vào thì chết. Cuộc sống đời thường cũng vậy, không phải ẩm thực nào cũng tốt. Có thứ ăn vào thì tốt, có thứ ăn vào thì hại, có thứ ăn vào thì khỏe, có thứ ăn vào thì bệnh. Đó là quy luật về ẩm thực, về dinh dưỡng. Cẩn tắc vô ưu, vì cái miệng có thể hại cái thân. Tất nhiên là “lỗi tại tôi” mà thôi.

Để ngăn chặn lạm dụng thì phải có luật, giúp cuộc sống bình yên. Có nhiều loại luật – luật tự nhiên, luật môi trường, luật hôn nhân và gia đình, luật giao thông, luật dân sự, luật quân sự,… Nhà có gia phong, nước có quốc pháp, tổ chức dù lớn hay nhỏ đều có quy luật. Đời và đạo cũng có luật riêng. Như chiếc hàm thiếc hoặc chiếc dây cương để điều khiển con ngựa, luật giúp con người sống đàng hoàng hoặc chấn chỉnh cách sống. Lề luật cần thiết nhưng không quan trọng bằng con người. Người Pharisêu thấy các môn đệ bứt lúa ăn trong ngày sa-bát, họ liền chê trách và cho đó là phạm luật, nhưng Chúa Giêsu thẳng thắn nói với họ: “Ngày sa-bát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sa-bát.” (Mc 2:27) Luật vị nhân sinh. Luật vì con người, con người khôn nên quá câu nệ vào luật.

Bất cứ luật nào cũng có những điều khoản khác nhau. Vi phạm luật là phạm pháp, là có tội, nhưng mức độ phạm tội cũng khác nhau. Người áp dụng luật để xét xử phải dựa trên tình yêu thương mà xét xử, để tránh hàm oan.

Có đủ thứ luật trong cuộc sống, từ hội đoàn tới làng xã, từ quốc gia tới quốc tế, nhưng các luật đó vẫn chỉ là nhân luật – luật của con người, quan trọng nhất vẫn là Thiên Luật, và mọi lề luật đều phải dựa vào Luật Trời, Luật của Thiên Chúa – Thánh Luật. Luật Tân Ước tóm gọn còn 2 điều là Mến Chúa và Yêu Người. Còn Luật Cựu Ước có hơn 600 điều. Đạo Công giáo có Mười Điều Răn (Thập Giới) do chính Thiên Chúa thiết lập và bất biến, Giáo Hội có Giáo Luật và có thể thay đổi – trước có SÁU Điều Răn Năm, nay là NĂM Điều Răn. Buồn thay, một số nơi vẫn dùng Sáu Điều Răn. Như vậy thiếu tính duy nhất của Giáo Hội.

Văn sĩ, sử gia và triết gia Will Durant (1885-1981, Hoa Kỳ) có triết lý sống rất lạ: “Con người trở nên tự do khi nhận ra mình bị luật lệ ràng buộc.” Lề luật như sợi dây “trói buộc” người ta, nhưng chính sợi dây đó lại làm cho người ta được tự do. Thật là kỳ diệu vô cùng!

Qua trình thuật Xh 20:1-17, chúng ta thấy Thiên Chúa đã truyền ban các khoản luật để con người theo đó mà sống. Trước tiên, Ngài nói: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai Cập, khỏi cảnh nô lệ. Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời.”

Thiên Chúa tạo dựng mọi sự. Luật tự nhiên chính là luật do Ngài thiết lập, không có gì trái ngược. Ngài cho biết thêm: “Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng. Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày sa-bát và coi đó là ngày thánh.” Phần này, nghe có vẻ dài dòng, nhưng là những điều có trong Năm Điều Răn Hội Thánh. Không xa lạ, vì rất các nhà thờ thường đọc kinh Mười Điều Răn và Năm Điều Răn Hội Thánh vào các ngày Chúa Nhật. Nhưng có thể vì chúng ta thuộc lòng, đọc quen quá rồi, thế nên có thể chỉ đọc mà quên suy xét.

Mệnh lệnh được Thiên Chúa ban ra tiếp theo: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi. Ngươi không được giết người. Ngươi không được ngoại tình. Ngươi không được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng gian hại người. Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta.” Chúng ta thần này có trong Mười Điều Răn, cũng là những điều quen thuộc trong cuộc sống đời thường, bắt đầu từ gia đình.

Luật Cựu Ước sử dụng cách nói tiêu cực: Cấm, đừng, chớ, không được,… Luật Tân Ước sử dụng cách nói tích cực: Phúc cho ai… Cách nói thay đổi theo sự phát triển của xã hội, của con người, cách nghĩ cũng thay đổi theo cho phù hợp. Thích nghi là chuyện thường tình nhưng cần thiết. Như chúng ta biết, tất cả mọi sự đều thay đổi theo thời gian, kể cả luật pháp, cũng chỉ vì muốn con người sống tốt, hy vọng con người càng ngày càng hoàn thiện hơn. Mình sống tốt thì không chỉ lợi cho mình mà còn lợi cho tha nhân, ích cho xã hội và Giáo Hội, tất nhiên điều đó cũng đẹp lòng Thiên Chúa. Điều gì hợp Ý Chúa thì tốt lành, tạo công phúc cho chính mình.

Tại sao cần giữ luật? Vì chúng ta vốn là người xấu. (Mt 7:11) Luật có thể giúp con người hoàn thiện. Với kinh nghiệm giữ Luật Chúa, tác giả Thánh Vịnh đã vui mừng thốt lên: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn. Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng. Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời.” (Tv 19:8-9) Rõ ràng lợi ích nhiều.

Trong sinh hoạt đời thường, con người thường ưa dùng lối tỷ giảo (so sánh) để diễn tả, có lẽ vì con người thích những gì cụ thể để dễ hiểu: Sắc như dao cau, đen như mực, trắng như bông, đẹp như tiên, xấu như ma, ác như quỷ,… Với những gì siêu phàm thì càng khó hiểu hơn, thậm chí là không thể hiểu. Tuy nhiên, Thánh Vịnh gia vẫn khéo léo giúp chúng ta dễ hiểu với lối so sánh thực tế: “Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh, thật quý báu hơn vàng, hơn vàng y muôn lượng, ngọt ngào hơn mật ong, hơn mật ong nguyên chất.” (Tv 19:10-11)

Hằng ngày, chúng ta vẫn chứng kiến những điều trái ngược nhau: Người thích điều thiện, kẻ ưa điều ác. Quả thật, mỗi con người là một thế giới bí ẩn – chẳng ai giống nhau, người thế này, kẻ thế khác, từ thể lý đến tinh thần. Thật vậy, có những người thích làm điều ác, sẵn sàng sát hại nhau chỉ vì điều xích mích nhỏ hoặc món đồ không đáng giá. Có những người (cả trẻ và lớn) luôn có sẵn dao, gặp “sự cố” thì rút ra ngay, rõ ràng họ đã mưu tính trước. Nếu không thích điều ác thì tại sao lại như vậy?

Đề cập các sở thích khác nhau, Thánh Phaolô nói: “Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ.” (1 Cr 1:22-23) Sở thích của Thánh Phaolô cũng là sở thích của những người muốn nên giống Đức Kitô, muốn hoàn thiện để nên thánh theo ý của Thầy Chí Thánh Giêsu.

Tại sao vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.” (1 Cr 1:24-25) Điên rồ mà lại khôn ngoan, yếu đuối mà vẫn mạnh mẽ. Đối với phàm nhân, điều đó hoàn toàn nghịch lý và không thể hiểu; nhưng đối với tín nhân, điều đó lại là thuận lý và có thể hiểu. Thập giá là đường dẫn tới cái chết ê chề, nhục nhã, nhưng lại hóa thành chìa khóa mở cửa Vương Quốc Trường Sinh. Vô cùng kỳ diệu, chắc chắn không thể hiểu nếu không có đức tin.

Chúa Giêsu thẳng thắn và cương quyết đề cập cách áp dụng luật qua trình thuật Ga 2:13-25. Thánh Gioan cho biết: Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem. Ngài thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Ngài liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Cả đám đông thế mà không ai dám cự nự gì, trong khi chỉ có một mình Chúa Giêsu. Chắc hẳn họ biết mình sai, biết Ngài làm đúng, thế nên họ mới sợ và tháo chạy. Người ta luôn sợ sự thật, kẻ xấu biết mình sai nên chỉ hành động lén lút, bị phát hiện thì bỏ chạy. Sợ sự thật xấu xa bị phơi bày nên mới chạy như thế.

Ngày xưa, người ta đã lạm dụng Nhà Chúa, thế nên Chúa Giêsu nói thẳng với những kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” Ngày nay, không ai dám buôn bán trong nhà thờ, nhưng người ta có nhiều cách buôn bán tinh vi hơn – cả tinh thần lẫn vật chất. Thế nhưng người ta cũng có nhiều cách tinh vi để chống chế, để biện hộ, với nhiều chiêu thức “kỳ lạ” lắm. Người ta vụng chèo nhưng lại khéo chống lắm. Lạm dụng cũng liên quan máu Biệt Phái: giả hình và ưa hình thức.

Thời đó, những con buôn hành nghề trong Đền Thờ là dân thường. Thời nay, chắc chắn dân thường chẳng “có cửa” để làm như vậy, mà phải là người có chức, có quyền. Vậy những con buôn ngày nay là ai? Liệu chúng ta có dám nhìn thẳng vào sự thật? Ai dám nói ra, ai dám phanh phui, và ai dám phản đối? Nói theo ngôn ngữ ngày nay, ai dám thẳng thắn làm như vậy thì… “chết chắc.” Nghĩa là họ sẽ bị cô lập, bị mọi người xa lánh, bị ghét bỏ, ghét hơn ghét tội. Tiền bạc có ma lực khó cưỡng lại, vì đó là “sức mạnh của ma quỷ” mà. Thật đáng sợ!

Hôm đó, bọn con buôn tức lắm nhưng chưa thể làm gì, chắc chắn họ rất ghét Ngài, và tìm mọi cách cấu kết với nhau để triệt hạ Ngài. Hẳn là ánh mắt của họ lúc đó như những tia lửa, những cặp mắt mang hình trái lựu đạn, lòng họ hậm hực, miệng họ nguyền rủa,… Vì thế, các môn đệ của Ngài nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.” (Tv 69:10)

Cáy cú và ấm ức lắm, thế nên người Do Thái hỏi vặn Đức Giêsu: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” Ngài vẫn thản nhiên: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.” Họ không thể hiểu nổi nên mới ngây ngô nói: “Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?” Giả sử chúng ta là người Do Thái lúc đó, chắc hẳn chúng ta cũng gãi đầu, bứt tóc mà cũng chẳng hiểu ất giáp gì hết. May thay, Thánh Gioan bật mí cho chúng ta biết: “Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Ngài.” Ôi, thế thì phàm nhân chẳng bao giờ nghĩ ra được.

Không chỉ người Do Thái hỏi ngớ ngẩn như vậy, mà ngay cả các môn đệ cũng ngớ ra, không thể hiểu Thầy nói gì. Mãi đến khi Chúa Giêsu từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Ngài đã nói điều đó, họ mới thực sự tin vào Kinh Thánh và lời Thầy đã nói. Lời nói thì khó hiểu, thậm chí có vẻ mâu thuẫn, nhưng rồi những gì xảy ra đã chứng minh tất cả. Sự thật minh nhiên.

Cuộc sống phức tạp. Cuộc đời nhiêu khê. Kẻ thế này, người thế nọ; kẻ cố chấp, người phục thiện; kẻ xấu, người tốt. Trong số những người bị đánh đuổi ra khỏi Đền Thờ, không phải ai cũng khó chịu, ghen ghét, mà có những người đã nhận thức và tâm phục khẩu phục: “Trong lúc Đức Giêsu ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ TIN vào danh Ngài bởi đã CHỨNG KIẾN các dấu lạ Ngài làm.” Nhưng Thánh Gioan cũng cho biết thêm: “Chính Đức Giêsu KHÔNG tin họ, vì Ngài biết họ hết thảy, và không cần ai làm chứng về con người. Quả thật, chính Ngài biết có gì trong lòng con người.” Có những người tỏ ra hiền từ nhưng lòng đầy mưu mô: “Sông sâu còn có thể dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng.”

Mùa Chay đến rồi qua đi theo dòng thời gian. Không ai biết chắc mình còn được sống Mùa Chay năm tới nữa hay không. Thật vậy, ngày 21-02-2021, Chúa Nhật I Mùa Chay, tại nhà thờ xứ Thánh Tâm thuộc TP Mexico, ông Juan (khoảng 60 tuổi) đã cầu nguyện khoảng 45 phút trước bàn thờ rồi bất ngờ ngã ra chết. Không ai biết Chúa gọi lúc nào. Vì thế, Mùa Chay là dịp thuận tiện để sám hối, Lời Chúa sẽ soi sáng cho chúng ta biết phải làm gì: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” (Tv 119:105)

Lạy Thiên Chúa, “chúng con đã phạm tội, xin Ngài cứ xử với chúng con sao cho đẹp mắt Ngài; nhưng hôm nay xin cứu chúng con.” (Tl 10:15) Xin giúp chúng con biết hoán cải đúng theo cách Ngài muốn, xin giúp chúng con can đảm sống thật, nghiêm túc, không lạm dụng bất cứ điều gì. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

 

VIỆC THỜ PHƯỢNG ĐÍCH THỰC

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Mỗi độ xuân về, những hoạt động tín ngưỡng pha lẫn với mê tín dị đoan lại nở rộ khắp nơi, như nấm mọc sau mưa. Con người tưởng tượng các thần linh cũng giống như mình, cũng tham lam hối lộ và mánh mung, nên họ tìm cách “đút lót” các vị ấy bằng cách dâng nhiều lễ vật. Cái mà họ gọi là “tín ngưỡng” thực ra là một hình thức mua thần bán thánh. Nhiều cuộc hội hè thường đi liền với bạo lực, cướp bóc gian dối lừa đảo. Có những người lợi dụng tín ngưỡng để kinh doanh thương mại. Cách làm tiền này được mang một tên rất đẹp: du lịch tâm linh. Một số người công giáo bị ảnh hưởng bởi quan niệm tín ngưỡng hỗn tạp này. Vì thế, họ vừa tin Chúa, vừa có những thực hành ngược lại với đức tin. Họ viện cớ “có thờ có thiêng, có kiêng có lành” để biện minh cho những hành động mê tín.
 
Thánh Gioan hôm nay kể lại việc Chúa Giê-su vào Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Khi chứng kiến cảnh chợ búa ồn ào, Người đã xua đuổi những người buôn bán và chiên bò ra khởi Đền thờ. Người hất tung những bàn đổi tiền và tuyên bố: “Đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”. Hành động của Chúa gây sửng sốt cho những người có mặt. Tác giả Gioan đã gọi đó là một hành động xuất phát từ lòng nhiệt thành với Nhà Chúa. Chúa Giê-su không chấp nhận một hình thức thờ phượng nhuốm màu thương mại kinh doanh hay chỉ hào nhoáng bên ngoài. Người muốn canh tân và đưa con người trở về với một nền phụng vụ đích thực, đó là thờ phượng trong tinh thần và chân lý. Việc thờ phượng Chúa không bị lệ thuộc vào không gian, thời gian, hay với một số bộ lạc dân tộc nào đó, nhưng dành cho những ai thành tâm yêu mến Chúa với trái tim chân thành.
 
Khởi đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã mượn lời ngôn sứ Giô-en để kêu gọi chúng ta: Hãy trở về. Trở về vì chúng ta đi lạc đường, không tuân giữ giáo huấn Ngài đã truyền dạy. Trở về là những cố gắng nỗ lực để bước đi những bước mới, trong hân hoan, tín thác vào tình thương của Chúa. Các bài đọc Lời Chúa hôm nay, nhắc đến một sự trở về trong tâm tình thờ phượng. Bởi lẽ, việc thờ phượng Chúa phản ánh chính đời sống hằng ngày của chúng ta. Chúng ta đang thờ phượng Chúa với phong cách nào?
 
Bài đọc I là nội dung của Luật giao ước, chúng ta vẫn quen gọi là “Mười điều răn”  hay “Thập điều”. Sau khi đã ra khỏi Ai Cập và đã chứng kiến những phép lạ Chúa làm, Ông Môi-sen, vị thủ lãnh của dân, mời gọi mỗi người hãy nhớ lại Luật của Chúa. Ông nhắc lại Luật giao ước Chúa đã ban cho Ông, để rồi Ông truyền lại cho dân Israen. Đây chính là cốt lõi căn bản của lề luật, giúp người Do Thái trung thành với Chúa là Đấng tạo dựng và là Đấng giải phóng. Trước khi vào Đất Hứa, Ông Môi-sen cảnh báo trước việc dân Do Thái sẽ bị cám dỗ theo các thần ngoại để thờ ngẫu tượng: “Ngươi không được thờ thần nào khác trước mặt Ta, đừng chạm trổ tượng gỗ, hay vẽ hình các vật trên trời, dưới đất, trong nước, dưới lòng đất. Đừng thờ lạy và phụng sự các hình tượng ấy, vì Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi, Chúa hùng mạnh, Chúa ganh tị, trừng phạt con vì tội lỗi cha, cho đến ba bốn đời, những kẻ ghét Ta”. “Thập điều” không chỉ là luật dành riêng cho người Do Thái, mà là luật Thiên Chúa khắc ghi nơi tâm khảm của con người, thuộc mọi thời đại và mọi nền văn hóa. Nói dối, trộm cắp, tham lam, ngoại tình, giết người, bất hiếu… đối với thời đại và nền văn hóa nào cũng là xấu. Trong lời giáo huấn của ông Môi-sen, việc tuân giữ ngày Sabat được nhấn mạnh và kèm theo là những hướng dẫn chi tiết: “Ngươi làm lụng và làm tất cả mọi việc trong sáu ngày, còn ngày thứ bảy là ngày Sabbat, thì thuộc về Chúa, Thiên Chúa ngươi”. Ki-tô giáo đã áp dụng giáo huấn này bằng việc thánh hóa ngày Chúa nhật, tức là nghỉ ngơi công việc, tham dự thánh lễ và làm việc bác ái.
 
Tại sao phải thờ phượng Chúa? Vì Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ và con người. Thờ phượng Chúa giống như vâng lời cha mẹ, vì lòng hiếu thảo và biết ơn sinh thành. Thờ phượng Chúa cũng là dấu chứng tỏ con người yêu mến và phụ thuộc vào Chúa, đồng thời trông mong Người ban cho những ơn cần thiết để sống tốt ở đời này. Đối với những người vô thần hoặc những người không cùng niềm tin với chúng ta, việc thờ phượng Chúa và tuân giữ luật của Ngài bị coi như lạc hậu, viển vông. Thánh Phao-lô đã so sánh giữa sự khôn ngoan của Thiên Chúa với sự khôn ngoan của loài người (Bài đọc II). Thập giá Đức Ki-tô là sự điên dại đối với loài người, nhưng lại là sự khôn ngoan vô biên của Thiên Chúa. Đó chính là trường học về sự hy sinh, khiêm nhường, yêu thương và sống vì hạnh phúc của tha nhân.
 
Mùa Chay là mùa canh tân đổi mới. Cùng với canh tân đời sống, chúng ta cần nhìn lại và đổi mới cách thức thờ phượng Chúa, để thực sự gặp gỡ Ngài trong đời. Nhờ cuộc gặp gỡ này, chúng ta sẽ tràn đầy niềm vui và hạnh phúc, vì có Chúa ở cùng chúng ta.

Về mục lục

.

THANH TẨY ĐỀN THỜ

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Một trong những vấn đề lớn của thế giới hiện nay là nạn ô nhiễm môi sinh. Các giòng sông đang bị ô nhiễm vì biết bao chất thải dơ bẩn, độc hại. Không khí ta hít thở đang bị đe dọa vì bụi bặm, vì khói xe, khói nhà máy. Nước biển bị ô nhiễm vì nạn dầu nhớt rò rỉ, vì chất thải của những lò phản ứng nguyên tử. Tầng khí quyển bị những chất khí độc chọc thủng đang làm thay đổi khí hậu và gây ra những căn bệnh nguy hiểm. Để con người có thể sống và phát triển được, thế giới cần phải được thanh tẩy khỏi các nguồn ô nhiễm.

Sự ô nhiễm không chỉ trong môi trường vật lý. Nhiều môi trường khác như môi trường văn hóa, môi trường đạo đức cũng đang bị ô nhiễm trầm trọng. Tôn giáo không tránh khỏi nạn ô nhiễm. Muốn cho bầu khí đạo đức được trong sạch, muốn cho đời sống tâm linh tồn tại và phát triển, tôn giáo cũng cần được thanh tẩy. Hôm nay Đức Giêsu vào Đền thờ và đã thanh tẩy Đền thờ. Người đã làm 3 cuộc thanh tẩy

1) Người đã thanh tẩy Đền thờ khỏi ô nhiễm vì súc vật. Trong nghi lễ của đạo Do Thái, cần có súc vật để dâng cho Thiên Chúa. Khi dâng lễ hy sinh, người ta mổ một con thú, đặt trên bàn thờ rồi đốt lửa thiêu con vật. Mùi mỡ cháy quyện khói xông lên nghi ngút. Người giầu thì dâng một con bò hay một con chiên. Người nghèo có thể dâng một cặp chim bồ câu hoặc một đôi chim gáy. Để đáp ứng nhu cầu của tín đồ,dịch vụ cung cấp lễ vật mau chóng thành hình ngay trong khuôn viên Đền thờ. Ta hãy tưởng tượng một chợ trâu bò ngay trong Đền thờ. Thật là dơ bẩn, ồn ào và chướng tai gai mắt. Nhưng nhu cầu đã biện minh cho sự ô nhiễm. Và dân Do Thái mặc nhiên chấp nhận để cho súc vật nghễu nghện ngự trị ngay trong khuôn viên Đền thờ rất nguy nga, rất lộng lẫy, rất cao sang mà họ từng ca tụng là “đền vàng”, là “nơi thánh”. Thấy nhà Chúa bị xúc phạm, Đức Giêsu không kiềm chế được cơn giận, đã lấy roi xua đuổi hết súc vật và cả đám con buôn ra khỏi Đền thờ.

2) Khi xua đuổi các con buôn ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu đã thanh tẩy thói tôn thờ ngẫu tượng. Theo Đức Giêsu, ngẫu tượng nguy hiểm nhất là tiền bạc, tức là thần “Mammon”. Đã có lần Người lên tiếng cảnh báo: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của”, và “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào nước Thiên đàng”. Những con buôn đưa súc vật vào Đền thờ không do lòng yêu mến Thiên Chúa, nhưng vì lợi nhuận. Đưa súc vật vào nơi tôn nghiêm, họ đã coi trọng tiền bạc hơn Chúa. Để cho súc vật làm ô uế Đền thờ cao trọng, họ đã dùng Đền thờ làm phương tiện phục vụ túi tiền của họ. Các tư tế coi sóc Đền thờ có lẽ cũng được chia phần nên đã cho phép con buôn được tự do họp chợ trong Đền thờ. Họ cũng như con buôn, coi tiền bạc trọng hơn Thiên Chúa. Họ đã rơi vào thói tôn thờ ngẫu tượng: thờ tiền bạc, dùng Chúa và Đền thờ để phục vụ tư lợi.

3) Khi đuổi súc vật ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu muốn thanh tẩy cung cách thờ phượng của ta. Trước kia người ta dâng súc vật làm của lễ. Lòng đạo đức được đo lường bằng sức nặng của con vật. Dâng con vật to sẽ được nhiều ơn phúc. Nay, Đức Giêsu cho thấy Chúa đã chán thịt bò, mỡ dê. Chúa đã ghê sợ mùi khói mùi khét lẹt, mùi máu tanh tưởi (cf. Is 1,11). Thánh vương Đavít đã hiểu: “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận” (Tv 50,16). Chúa muốn ta đến với Người bằng chính bản thân ta. Lễ dâng đẹp lòng Chúa là thái độ khiêm nhường thống hối như lời Thánh vịnh: “Lễ dâng Chúa là tâm hồn thống hối. Một tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Lễ dâng đẹp lòng Chúa là phó thác trót cả tâm hồn thân xác trong tay Chúa như Đức Giêsu đã làm trên Thánh giá: “Lạy Cha, con dâng phó hồn con trong tay Cha”. Lễ dâng được Chúa vui lòng chấp nhận là sát tế chính bản thân mình để làm theo ý Chúa: “Máu chiên bò Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu Chúa không nhận. Thì này con đến để làm theo ý Chúa (Tv). Ta sát tế chính bản thân mỗi khi ta từ bỏ ý riêng, chiến đấu chống lại những cơn cám dỗ của dục vọng, tiền bạc, thói gian tham, tính tự ái kiêu căng, sự chia rẽ bất hòa.

Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ. Người muốn ta hãy tiếp tục công việc của Người. Giữ gìn cho nhà thờ luôn sạch đẹp, có bầu khí tôn nghiêm là điều cần thiết. Nhưng cần hơn vẫn là giữ gìn ngôi Đền thờ thiêng liêng là chính bản thân ta. Tâm hồn chính là cung thánh nơi Chúa ngự. Ta phải luôn luôn thanh tẩy tâm hồn để xứng đáng với Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi thói tôn thờ tiền bạc, coi trọng tiền bạc hơn Chúa. hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi những dục vọng đam mê làm ô uế cung thánh của Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi thói gian tham, bất công. Hãy thanh tẩy tâm hồn ta khỏi những kiêu căng đố kỵ. Thân xác ta là Đền thờ của Chúa. Hãy kính trọng thân xác của mình và của người khác. Hãy tu bổ những Đền thờ thân xác đã xuống cấp, suy tàn, bị xúc phạm, bị bán rẻ. Hãy sửa chữa những Đền thờ thân xác đang bị bào mòn vì bệnh tật, vì đói khát, vì thương tích. Hãy kính trọng thân xác của người khác vì đó là Đền thờ của Chúa.

Trong mùa Chay này, ta hãy cố gắng thanh tẩy bản thân, để tâm hồn và thân xác ta trở thành một Đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Khi tham dự thánh lễ, bạn có giữ cho nhà thờ có bầu khí trang nghiêm, lắng đọng không?

2) Đền thờ tâm hồn và thân xác bạn có những gì cần phải thanh tẩy không?

3) Mùa Chay này, bạn sẽ làm gì để trở nên một Đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự?

Về mục lục

.

ĐỀN THỜ

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi 

Đền thờ là nơi thờ phượng, cầu nguyện và là nơi mọi người gặp gỡ nhau trong tình yêu thương của người con Chúa Chúa Giêsu luôn yêu mến, hiếu thảo và vâng lời Chúa Cha. Yêu mến Chúa Cha, Chúa Giêsu cũng yêu mến Đền Thờ là nơi mọi người thờ phượng, tôn kính Chúa Cha. Do đó, trong những năm đi rao giảng Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu thường lui tới các Đền Thờ để loan báo Tin Mừng. Hôm nay, Ngài lên Đền Thờ Giêrusalem, nơi đó nhiều khách hành hương tới để cầu nguyện, tôn thờ Chúa, nhưng cũng chính nơi Đền Thờ này, Chúa Giêsu đã thấy nhiều người lợi dụng buôn bán, làm ồn ào, náo động, làm mất đi vẻ tôn nghiêm, thánh thiêng của Đền Thờ, nên Ngài đã dùng giây roi xua đuổi bọn buôn bán bò, những người đổi tiền, Ngài nói :” Đưa tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán “.

Đền thờ hay Nhà thờ luôn là nơi có Chúa ngự trị, chính vì thế, Chúa Giêsu và các môn đệ thường lui tới các Đền Thờ Do Thái để cầu nguyện, rao giảng và tôn vinh Thiên Chúa Cha. Kinh Thánh thuật lại, Chúa Giêsu về quê hương Nagiarét, Ngài vào Đền Thờ, người ta đưa cho Ngài cuốn Thánh Kinh, lật ra Ngài gặp ngay đoạn Kinh Thánh của ngôn sứ Isaia nói :” Thần Khí ngự trên tôi, Ngài đã xức dầu, tấn phong và sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó..”. Chúa Giêsu luôn ý thức Đền Thờ là nơi Chúa và con người gặp gỡ thân mật với nhau. Nhà thờ là nhà của Thiên Chúa, là cửa Thiên đàng. Nên, Chúa Giêsu thường rao giảng trong các Hội đường, nơi Đền thờ, đặc biệt là Đền Thờ Giêrusalem. Vì thế, hôm nay khi đến Đền Thờ Giêrusalem để tôn thờ Chúa Cha, cầu nguyện và rao giảng. Cảnh tượng ồn ào, náo động của những con buôn, lợi dụng chỗ thờ phượng để kinh doanh, buôn bán, đổi tiền, đổi bạc…Những người này ăn gian, nói dối, lừa bịp đã làm mất đi sự thánh thiêng của Đền Thờ. Chúa Giêsu đã nổi cơn thịnh nộ thánh, Ngài liền lấy giây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên, bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Chúa giận dữ vì thái độ, hành động xấu của những người buôn bán muốn biến Đền Thờ thành chợ, thành nơi buôn bán vv…

Ngày nay, sự giận dữ của Chúa Giêsu và hành động xua đuổi bọn con buôn, người đổi tiền ra khỏi Đền Thờ vẫn nhắc nhớ chúng ta rằng:” Nhà thờ là nơi thờ phượng, là nơi tôn nghiêm, mọi người phải luôn giữ sự thánh thiêng cho Nhà thờ “. Hành động của Chúa Giêsu và lời nói của Chúa Giêsu chính là lời thức tỉnh chúng ta về những cử chỉ, thái độ, cách ứng xử, trang phục của chúng ta đối với việc thờ phượng Chúa nơi các Nhà thờ, Đền thờ vv…Đối với Nhà thờ chúng ta phải có thái độ cung kính, mến yêu và giữ gìn sự trang nghiêm, thánh thiêng cho Nhà thờ vì nơi đây là nơi Thiên Chúa ngự trị. Kinh Thánh có thuật lại một câu chuyện thật đáng ghi nhớ :” Khi ông Giacóp đi về quê mẹ để trốn anh đang tìm giết mình, gặp trời tối. Giacóp phải ngủ lại ở dọc đường, nằm gối đầu trên một hòn đá.Ban đêm ông nằm mơ thấy một cái thang bắc từ đất lên trời, đầu thang có Thiên Chúa ngự xuống, trên các bậc thang có các thiên thần lên xuống tấp nập. Sáng ngày thức dậy, ông Giacóp nói ‘ Thực có Thiên Chúa ngự nơi đây mà tôi không biết.Nơi đây thật đáng kính sợ biết bao.Vì đây là nhà của Thiên Chúa, là cửa dẫn vào Thiên đàng ‘.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người Kitô hữu và tất cả chúng con luôn biết mến yêu, bảo vệ, gìn giữ và trân trọng Nhà thờ vì chính nơi đây Thiên Chúa ngự trị để gặp gỡ con người, gặp gỡ chúng con.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1. Tại sao Chúa lại nổi cơn thịnh nộ khi lên Đền Thờ Giêrusalem?

2. Ngài dùng gì để xua đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ ?

3. Đối với những người đổi tiền, Chúa Giêsu đã có thái độ nào ?

4. Chúng ta phải có thái độ nào đối với Nhà Thờ ?

Về mục lục

.

THẾ GIỚI TỤC HÓA

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Ngày nay người ta nói nhiều đến tục hóa. Thế giới tục hóa, con người tục hóa, nhà thờ, nhà chùa cũng tục hóa! Vậy tục hóa là gì?

Người xưa hay dùng chữ “hoàn tục” để nói về người bỏ tu để về với thế gian. Thực ra, tục hóa không chỉ là hoàn tục của người đi tu mà còn nói về một trào lưu loại bỏ sự hiện diện của thần linh để đưa tinh thần thế tục vào chính  sự linh thánh.

Cụ thể ta vẫn thấy ở Việt Nam rất nhiều ngôi Chùa hoàn toàn để tham quan du lịch, người ta còn cổ vũ cả một tour du lịch tâm linh tại Bái Đính. Các nước phương tây đã sử dụng các ngôi nhà thờ cổ kính để làm nơi tham quan du lịch và tìm lợi nhuận như nhà thờ Đức Bà Pari . . . Sự tục hóa len lỏi trong cả những việc bác ái từ thiện. Trước đây việc bác ái hoàn toàn dựa vào sự hảo tâm của bá tánh, ngày nay nhiều nhà thờ, nhiều hội dòng cũng biết kiếm tiền bằng cách kinh doanh buôn bán nhân danh gây quỹ từ thiện. Ở thời đại này ta rất dễ thấy bóng dáng các nữ tu, các đệ tử, các thầy dòng đứng bán tranh ảnh, băng dĩa, đồ dùng ở những nơi hành hương hay những ngày lễ hội lớn nơi các giáo xứ. . .

Nhiều nhà thờ nhân danh người nghèo để biến sân nhà thờ thành nơi thuê mướn mặt bằng để đám tiệc linh đình, ca hát, nhảy nhót trên cả lễ đài vẫn để dùng làm lễ Chúa nhật! Điều tệ hại là khuôn viên nhà thờ thì không có khu vệ sinh để đáp ứng nhu cầu tối thiểu nên ta vẫn vô tình nhìn thấy những cách thiếu tôn kính nơi tường rào chung quanh hay một góc khuất nào đó quanh nhà thờ của những người say sỉn, thiếu ý thức. . . Đây là điều mà Đức Cha Giuse giáo phận Xuân Lộc đã thấy nhà thờ bị tục hóa nên đang đề nghị các giáo xứ chấm dứt dùng sân nhà thờ để cho thuê đám cưới.

Phúc âm kể rằng ngày hôm ấy Chuá Giêsu vào trong Đền Thờ, Ngài thấy người Do Thái đã biến đền thờ thành nơi trao đổi buôn bán. Họ lợi dụng Đền thờ để kiếm lời. Kẻ buôn bán súc vật và đổi tiền. Ngay cả các tư tế cũng chủ trương kiếm lợi nhuận hoa hồng từ những việc trao đổi buôn bán trên. Họ đã đánh mất sự linh thánh cần thiết của Đền thờ.

Chính vì Đền thờ bị lạm dụng., Chuá đã hành động thẳng thắn để thanh tẩy Đền thờ. Chuá đã đòi hỏi họ phải trả lại ý nghiã đích thực của Đền thờ. Chúa bảo rằng “đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”. Ngài đã tẩy chay một lối thờ phượng lệch lạc, không phải là thờ Thiên Chuá, mà là thờ quyền lợi của mình.

Thế giới tục hóa vẫn là lời mời gọi chúng ta đem đạo vào đời. Đem ánh sáng lời Chúa thánh hóa thế gian đang hư đốn bởi tham sân si. Hãy dùng lời Chúa để canh tân xã hội. Người ky-tô phải làm sao dậy men tin mừng trong đời sống của mình. Đừng vì lợi nhuận mà bán rẻ lương tâm, mà tục hóa những nơi linh thánh, nhất là trong chính thân xác con người là đền thờ của Chúa. Xin đừng tục hóa đến độ xem thường thân xác để chỉ tìm thú vui bất chính, để thỏa mãn tính xác thịt mà tìm lợi nhuận trên thân xác.

Muà Chay là muà mời gọi chúng ta sám hối và canh tân đời sống. Có thể nói mùa chay là mùa giúp chúng ta nhìn lại đến thờ tâm hồn của mình để xin ơn Chúa thanh tẩy tâm hồn khỏi những đam mê tội lỗi, những thói hư tật xấu, ngõ hầu xứng đáng là Đền thờ cho Chuá ngự trị.

Lạy Chúa, tâm hồn con là đền thờ của Chúa, thế mà con đã để tâm hồn mình hoen ố bởi biết bao thói hư tật xấu, biết bao đam mê thấp hèn. Xin Chuá hãy thanh tẩy tâm hồn con khỏi những bợn nhơ tội lỗi, hầu xứng đáng là đền thờ cho Ba Ngôi Thiên Chuá ngự trị. Amen.

Về mục lục

.

HÃY THANH TẨY ĐỀN THỜ CHÚA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Lễ Vượt qua của người Do thái thường diễn ra tại Đền thờ. Vào dịp này, Chúa Giêsu lên dự lễ, Người thấy ở trong Ðền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc, Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi Đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: “Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Chứng kiến cảnh tượng Chúa làm, các môn đệ khám phá ra lòng nhiệt thành với nhà Cha nơi tâm hôn Chúa Giêsu, họ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: “Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi” (Tv 69,10).

Thật là tệ! Đền thờ, nhà của Thiên Chúa đã bị biến thành nơi chợ búa. Mục đồng thì mang cừu đến bán, kẻ bán chim câu mong kiếm được vài đồng, kẻ giữ Đền thờ cũng vậy…

Đền thờ Giêrusalem

Luật Do thái cấm mua bán nơi Ðền thờ. Tuy nhiên hàng tư tế quản trị Ðền thờ lại dung túng cho dịch vụ này để nhằm chuộc lợi. Kẻ đổi tiền ăn bớt phần trăm, người bán coi đó như là cách thế làm tiền, khiến người mua thì phải mua đồ lễ một cách bất đắc dĩ cho việc dâng hiến, với giá cắt cổ thay vì mua ở ngoài theo giá thị trường. Các tư tế cho đấu thầu hai dịch vụ này cũng có món tiền bỏ túi riêng. Thay vì nhắm đến việc giúp những người từ xa đến khó có thể mang theo lễ vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong khu vực Ðền thờ là tiện lợi. Tiện lợi chứ không hẳn là cần thiết, vì việc mua bán vẫn có thể thực hiện bên ngoài Ðền thờ. Nếu tiện lợi, sao Ðức Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật và đổi tiền quanh Ðền thờ? Chúa đuổi họ, vì họ cũng như con buôn, coi tiền bạc trọng hơn Thiên Chúa. Chúa lên tiếng cảnh giác họ : “Ðừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Ðó là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng lõa trong việc thương mại hoá và phàm tục hoá Ðền thờ.

Chúa Giêsu là Đền Thờ

Thật ra, cơn giận của Chúa Giêsu không nhằm chống lại những người buôn bán cho bằng chống lại chính việc thờ phượng bị thương mại hóa theo kiểu ấy. Khi lật nhào các quày buôn bán, Ngài lật đổ chính tôn giáo và phá hủy đền thờ. Hành động đó gây phẩn nộ cho tất cả mọi người, nhất là khi biết rằng đền thờ Giêrusalem có một vị trí trong tâm hồn mọi người Do thái. Họ hỏi Ðức Giêsu: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?”  (Mc 2,18) Và Ngài đáp: “Các ông cứ phá hủy Ðền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Mc 2,19).

Thánh Gioan tường thuật chi tiết chính xác quan trọng ấy. Đền thờ Chúa Giêsu nói đây chính là Thân thể Người, hiện thân của Chúa Cha. Khi sánh ví Người là Đền Thờ, Chúa Giêsu khẳng định chính mình là Đền Thờ Thiên Chúa Cha ngự trị. Chúa Giêsu chính là sự tôn vinh Thiên Chúa. Theo thánh sử Gioan, chúng ta được tiên báo về cái chết và sự sống lại của Ðức Kitô : thân thể của Người, vốn bị bạo lực của tội lỗi hủy hoại trên thập giá, Thiên Chúa gặp gỡ con người qua sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Vì thế, nhân tính của Người chính là Ðền Thờ đích thực, là nơi Thiên Chúa mặc khải chính mình, để phán bảo và gặp gỡ con người; và những ai thờ phượng Thiên Chúa đích thực không phải là những kẻ giữ cửa của Ðền thờ vật chất, cũng chẳng phải những người nắm giữ quyền lực hay có kiến thức về tôn giáo, nhưng là những ai thờ phượng Thiên Chúa trong “Thần Khí và sự thật” (Ga 4, 23).

Chúng ta là Đền thờ

Thánh Phaolô nói : “Anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa sao?.. Đền thờ của Thiên Chúa là thánh thiêng, anh chị em cũng vậy” (1 Cr 3,16-17). Như thế, chân lý và phẩm giá Thiên Chúa được liên kết với sự thật và phẩm giá con người. Thánh Phaolô cảnh cáo : “Anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và ai xúc phạm Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt kẻ ấy” (1Cr 3, 17).

Người ta xúc phạm đến Đền Thờ của Thiên Chúa bằng nhiều cách. Nếu người Do thái xưa kia đã biến Đền Thờ thành nơi buôn bán. Và Chúa Giêsu đã nổi giận đến nỗi thắt dây thừng thành roi để đánh đuổi họ và lật đổ bàn ghế của họ. Ngày nay, có nhiều nơi dùng Thánh Đường để buôn thần bán thánh, nhưng cách xúc phạm thông thường nhất là phạm đến Đền thờ trong tâm hồn và thân xác của mỗi người và của tha nhân. 

Phá thai là một hình thức xúc phạm nặng nề đến Đền thờ Thiên Chúa. Không những xúc phạm, mà còn phá hủy những Đền thờ nhỏ bé của Thiên Chúa, tước quyền Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên các thai nhi ấy theo hình ảnh của Ngài.

Linh hồn cũng là Đền thờ Thiên Chúa. Chúng ta xúc phạm đến Đền thờ này bằng cách xúi dục người khác phạm tội, làm dịp cho người khác phạm tội, làm gương mù cho người khác, nhất là trẻ em (x. Mc 9:42), hay làm lơ không nhắc nhở khi mình có trách nhiệm. Có nhiều người nghĩ rằng mình không làm hại ai là đủ rồi. Thật ra những người có trách nhiệm giáo dục và hướng dẫn người khác, mà lơ là bổn phận của mình, cũng là xúc phạm đến Đền Thờ của Thiên Chúa vì mình không chu toàn bổn phận bảo trì và xây dựng những ngôi Đền Thờ mà Thiên Chúa đã trao cho.

Khi đuổi súc vật ra khỏi đền thờ, Chúa Giêsu muốn ta hãy tiếp tục công việc của Người là gìn giữ đền thờ bản thân chúng ta. Tâm hồn chúng ta là cung thánh Chúa ngự. Chúa biết rõ những khao khát nồng nhiệt nhất của chúng ta: đó là được Ngài cư ngụ trong cõi lòng mình, chỉ một mình Chúa thôi. Chúng ta hãy để cho Ngài bước vào cuộc đời, gia đình, và cả cõi lòng của chúng ta nữa. Để được như thế Ta phải luôn luôn thanh tẩy tâm hồn hầu xứng đáng với Chúa.

Lạy Mẹ Maria, nơi cư trú đặc biệt của Con Thiên Chúa, xin đồng hành với chúng con và xin nâng đỡ chúng con trong hành trình Mùa Chay này, để chúng con có thể tái khám phá ra vẻ đẹp của cuộc gặp gỡ với Ðức Kitô, Ðấng sẽ giải thoát và cứu độ chúng con.

Về mục lục

.

NHÀ CẦU NGUYỆN

Bông hồng nhỏ

Bước vào một nhà sách Công Giáo, ta chọn cho mình một tấm ảnh Chúa Giêsu đang nở nụ cười rất tuyệt vời. Tấm ảnh có đề dòng chữ: “Chúa cười cho con an tâm”, lòng ta tự hỏi, có bao giờ Chúa buồn bực không?

Nhìn ngắm nụ cười ấy, ta thấy lòng mình bình an đến lạ. Đọc đoạn Tin Mừng theo thánh sử Gioan, ta để cho hồn mình được chất vấn. Tôi có đang làm cho Thầy Giêsu vui lòng hay phải buồn bực? Hôm nay, khi vào đền thờ  “Người thấy trong đền thờ có những kẻ bán chiên bò bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền” (Ga 2, 14 ). Ta hãy quan sát thái độ của Thầy Giêsu. “Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, lật nhào bàn ghế của họ” (Ga 2,15). Tình trạng Đền Thờ trong tâm hồn ta đang như thế nào? Ta có cần Thầy Giêsu thanh tẩy tâm hồn mình? Dành cho mình một khoảng lặng, ta chợt nhận ra bấy lâu nay, ta đã quá thờ ơ với Thầy. Có lẽ, chính thái độ thờ ơ của ta đã làm tắt nụ cười của Thầy. Ta phải để Thầy bước vào cuộc đời mình và để Thầy dẫn vào một trật tự mới. Nơi ấy, ta dám sống thật với chính mình, dám sống cho những đòi hỏi của Tin Mừng. Có một đền thờ rất kiên cố mà bấy lâu nay ta dành công gầy dựng, đó là đền thờ của những tham vọng, của những tính toán nhỏ nhen, của những lọc lừa dối trá. “Các ngươi cứ phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại.” Ta hãy can đảm phá hủy đền thờ mà chính mình xây dựng, tin tưởng vào quyền năng và tình thương của Thầy, chính Thầy sẽ xây dựng cho ta một tâm hồn mới. Một tâm hồn luôn thành tín yêu thương là một tâm hồn có Chúa. Để mỗi khi sống và làm bất cứ việc gì ta điều cần đến tình thương của Chúa. Chúa sẽ hướng dẫn ta và ban cho ta một trái tim tràn đầy tình yêu. Tâm hồn ta sẽ vui mừng hớn hở. Hãy đến với Chúa Giêsu bằng một tâm hồn tươi vui như thế. Mọi tính toán lọc lừa, mọi tham vọng của ta, hãy để Thầy phá bỏ.

Lạy Chúa Giêsu! Mỗi lần con xa Chúa, mỗi lần con sai lỗi, xin hãy sửa dạy con bằng tình yêu nồng ấm của Chúa. Xin dạy con biết làm một người con ngoan dễ dàng đón nhận sự sửa dạy của Chúa. Chúa biết rõ tình trạng của con, xin cho con biết phụng thờ Chúa và luôn ý thức lời Chúa đã phán “Nhà Cha ta là nhà cầu nguyện” (Lc 19,46).  Amen.

Về mục lục

.

ĐỪNG BUÔN BÁN

Anna Cỏ May

“Ồn ào như cái chợ”. Vâng, cái chợ là nơi quy tụ và thu hút đông đảo mọi người thuộc mọi tầng lớp đến để mua bán, trao đổi các mặt hàng. Dọc bên đường phố cũng có các quán ăn nhỏ hay những tạp hóa… Tất cả những hoạt động ấy nhằm đem lại lợi ích và nhu cầu cho người bán và người mua. Nơi đó rất ồn ào từ tiếng người và tiếng máy móc cùng tiếng xe máy. Ngược với sự ồn ào là thinh lặng, những bảng hiệu “xin giữ thinh lặng” được treo ở các nhà chùa và nhà thờ nói lên sự trang nghiêm linh thiêng mà mọi người phải giữ. Nơi đây không có sự buôn bán trao đổi hàng hóa, mà là một nơi để khẩn nguyện, xin ơn, một nơi để trao tình bác ái và yêu thương cho nhau. Bởi đó, khi đến những nơi như vậy, chúng ta phải có một thái độ tôn trọng.

Trong Tin Mừng Gioan có thể cho chúng ta thấy rõ về thái độ tôn trọng. Thuở xưa, người Do thái đem các con vật vào đền thờ để bán, có kẻ ngồi đổi tiền. Trước cảnh tượng ấy, Chúa Giêsu liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả ra khỏi đền thờ (x. Ga 2, 15). Họ không chấp nhận hành động ấy của Người, nên đã xin Người một dấu lạ chứng tỏ quyền ấy. Chúa Giêsu liền nói: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2, 18-19). Thật là trớ trêu, họ tin vào Thiên Chúa, ngày càng ca ngợi Chúa; mặt khác, họ lại không đủ ý thức trước thái độ tôn kính Thiên Chúa như thế nào. Bởi đó, đền thờ trở nên nơi buôn bán cho họ.

Với cụm động từ “buôn” và “bán” cùng phép ẩn dụ, Chúa Giêsu có những hành động, lời nói nhằm báo trước về những hành động chính họ sẽ làm cho Con Người. Chính họ sẽ bán Con Một Thiên Chúa và Người Con sẽ bị đánh đòn, phải chết nhưng sẽ sống lại. Vâng, có lẽ Chúa rất đau khổ trước những việc làm của họ. Vì họ thật không hiểu biết gì mặc dù đã biết đã thấy những phép lạ Người làm. Do đó, Ngài hiểu rõ lòng người có gì. Phần chúng ta, khi nghe Lời Chúa, chúng ta có thể nhớ lại hình bóng của những kẻ đã bán Chúa. Đồng thời, có khi chúng ta cũng thấy thấp thoáng hình bóng chính mình nơi họ. Ngày nay, có rất nhiều kẻ buôn bán: bán sản phẩm, bán lời nói hay làm chứng gian, bán ý tưởng,.. Chúng ta sẽ dễ vướng vào việc bán Chúa. Đến với Chúa, Chúng ta có thái độ nào? Bạn đang làm công việc nào và nơi nào bạn thường lui tới? Thật sự thì không ai không mắc khỏi sai lầm hay phạm tội. Nhưng điều quan trọng là chúng ta hãy cố gắng hết sức mình để sửa đổi, phần còn lại Thiên Chúa sẽ lo cho chúng  ta.

Có ba điều trong cuộc sống không bao giờ bền vững. Đó là ước mơ, tài sản và thành công của thế gian. Bởi đó, chúng ta hãy đi tìm những gì bền vững nhất và mang lại hạnh phúc thật cho cuộc sống của chúng ta.

Lạy Chúa, đôi khi chúng con không biết rằng những lời nói và việc làm sai trái là lúc chúng con cũng đang dần bán Chúa và bán chính mình con cho sự dữ. Cậy vì lòng nhân từ của Chúa, xin Chúa giúp chúng con ý thức hơn về những điều chúng con nói và những việc chúng con làm, để mỗi ngày con sống đẹp lòng Chúa hơn. Amen.

Về mục lục

.

THANH TẨY ĐỀN THỜ.

Lm. Giuse Hoàng Kim Toan

Thánh Phaolô đồng hóa đến thờ thân xác và Đền thờ Thiên Chúa cư ngụ, để nói đến việc thanh tẩy đền thờ thân xác là điều quan trọng để nên Đền thờ Chúa ngự.

Con người của thực tại.

Không thể chối cãi với con người thực tại giống như những người buôn bán trước đền thờ, nhiều những ngổn ngang dự tính, mua bán, đổi chác…

Để dẹp bỏ, đôi khi vừa cầu nguyện Chúa giúp sức lại vừa sợ Chúa nhận lời. Trong tâm tình “Lời dâng” của thi hào R. Tagore cũng nhận ra: “Chướng ngại trong tối thường dai dẳng, nhưng khi rắp tâm đập tan tôi lại thấy lòng dạ nhói đau. Tôi chỉ thèm có tự do giải thoát, nhưng lại thấy hổ thẹn khi mong đợi ngóng chờ.” (Bài số 28, bản dịch Đỗ Khánh Hoan).

Quyền năng Thiên Chúa.

Giống như câu hỏi của Thánh Phaolô: “ Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta!” (Rm 7, 24 – 25). Trong con người khi muốn dẹp bỏ tội lỗi luôn có một cuộc tranh luận, với mình và đôi khi cả với Chúa: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế? ”  (Ga 2, 18). Dầu sao Chúa cũng biết con người của tội lỗi này, Chúa sẽ đón nhận bằng sự chết thay cho tội lỗi của nhân loại để nhân loại được cứu.

Sống theo Chúa để hiểu.

Có những lần các môn đệ theo Chúa không hiểu được những điều Chúa làm, Chúa dạy, Chúa cũng bảo các môn đệ trong bữa tiệc ly cuối cùng: “Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu” (Ga 13, 7). Để hiểu luôn cần ở lại với Chúa và để Người mở lòng mở trí.

Kiên trì theo Chúa, kiên trì sửa chữa lại chính mình, từng cố gắng, năm này qua năm khác, mùa chay, mùa vọng, liên tiếp nối tiếp nhau. Ăn chay, hãm mình, chiến đấu với tội lỗi, đương đầu với cám dỗ. Nỗ lực không ngừng như người chiến binh, có bị thương, có thể gục ngã, đứng dậy, được chữa lành sau nhiều năm, nhiều lần, mới hiểu được lòng Chúa yêu thương và giữ gìn, cùng ban thêm sức mạnh. Nhận ra nơi chính mình được Chúa thương và từ đó trở nên chứng nhân của lòng thương xót, như Thánh Phêrô “Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh.”   (Lc 22, 32)

Lạy Chúa! Xin tẩy sạch chúng con khỏi tội lỗi, vì trong tội chúng con chống lại tình yêu của Chúa và xa cách Người. Xin cứu chữa chúng con!

Về mục lục

.

THANH TẨY

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Chúa lên Giê-rú-sa-lem,
Trung tâm Thành Thánh, dõi xem đền thờ.
Nhiều người buôn bán rình chờ,
Đổi tiền đổi bạc, hững hờ dối gian.
Bò lừa súc vật tràn lan,
Kẻ qua người lại, lạm càn chốn đây.
Chắp thừng đánh đuổi bọn này,
Chúa truyền ra khỏi, buồn thay thế trần.
Nhiệt tình thiêu đốt tấm thân,
Nơi đền Nhà Chúa, canh tân tỏ bày.
Các ông phá hủy đền này,
Ta xây dựng lại, ba ngày sẽ xong.
Những người Do-thái động lòng,
Giê-su mạc khải, trong vòng thời gian.
Đền thờ thân thể biến tan,
Ba ngày sống lại, ngập tràn vinh quang.

Chúa Giêsu thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem. Hằng năm, Chúa vẫn lên đền thờ để kính viếng, cầu nguyện và giảng dậy. Hôm nay, lần sau cùng Chúa lên đền thờ trước khi chịu khổ nạn. Lời tiên báo của Chúa: “Hãy phá hủy đền thờ này đi, trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại”. Chúa Giêsu nhìn nhận đền thờ như là nhà Cha của Ngài. Đền thờ là nơi mọi người tụ họp để thờ phượng Thiên Chúa. Đền thờ là nơi tế lễ, cầu nguyện, hội họp và nghe giải thích Kinh Thánh.

Nhiều người đã đến đền thờ để dâng cúng của lễ với lòng thành tạ ơn và dâng của lễ đền tội. Lạm dụng lòng thành của các giáo hữu, các chức sắc trong đạo đã cho phép buôn bán súc vật và đổi chác tiền bạc trong phần tiền đình của đền thờ. Dần dần vì lòng tham lam, đã biến sân đền thờ thành nơi buôn bán xô bồ. Chúa Giêsu có thái độ rất rõ ràng. Ngài đã lên tiếng đả kích công việc trần tục này và đã thách thức giáo quyền về cách sống đạo.

Suy nghĩ về hành động của Chúa Giêsu về việc thanh tẩy đền thờ, chúng ta được nhắc nhở rằng đền thờ là nhà Thiên Chúa ngự giữa loài người. Nhà thờ cần được gìn giữ sạch sẽ, gọn gàng và nơi dành riêng để thờ phượng Thiên Chúa, tôn kính các thánh và là nơi tụ họp cộng đoàn để cử hành phụng vụ.

Đến nhà thờ là đến với Chúa cùng tha nhân. Chúng ta sẽ tìm thấy nguồn ủi an và niềm vui hoan lạc bên nhau khi chúng ta cùng hát kinh ca tụng Chúa. Chính Chúa Giêsu là Chủ và là trung tâm điểm của mọi sinh hoạt phụng vụ. Chúa đã hiến tế thân mình cho Chúa Cha trên thánh giá. Chúa còn hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể để an ủi và chờ đón chúng ta đến với Chúa.

Thân xác chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Mỗi khi tụ họp nơi nhà thờ là chúng ta được chia xẻ nguồn ân phúc mà chính Chúa tặng ban. Chúa nhủ rằng nơi nào có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Chúa, Chúa sẽ ở giữa họ. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết thanh tẩy thân xác và linh hồn của chúng con. Để chúng con xứng đáng lãnh nhận lòng yêu thương vô ngần trong trái tim Chúa và chia xẻ tình yêu thương tới mọi người anh em chung quanh.

Về mục lục

.

ĐỨC GIÊSU, ĐỀN THỜ MỚI CỦA TÂN ƯỚC

Lm. GB. Trần Văn Hào

Vào những năm cuối của thập niên 1980, một  bộ phim khá nổi tiếng thời bấy giờ do Liên Xô sản xuất đã được trình chiếu rộng rãi ở trong miền nam. Bộ phim có tựa đề ‘Sám hối’. Có lẽ, cảnh ấn tượng và ý nghĩa nhất của bộ phim chính là phần kết của tác phẩm. Tác giả cho diễn xuất cảnh một thanh niên tìm đến một đền thờ để cầu nguyện, sau khi đã cảnh tỉnh và thể hiện tâm thức sám hối,. Anh ta đứng trước ngã ba đường và hỏi một cụ già : “Thưa cụ, đây có phải là con đường dẫn đến đền thờ hay không?”. Cụ già nheo mắt với đầy vẻ tinh anh và đĩnh đạc trả lời : “Này anh bạn trẻ, con đường này nếu không dẫn đến Đền thờ thì nó được làm ra để làm cái gì”.

Cuộc sống của mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng là một con đường, và con đường đó phải hướng về đền thờ đích thực là chính Đức Giêsu. Ngài là ‘Đền thờ mới’ của Tân ước, là trung tâm của mọi sinh hoạt phượng tự và cũng là đối tượng của niềm tin mà chúng ta phải quy chiếu vào. Đây là sứ điệp nồng cốt mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay diễn bày.

Đức Giêsu thanh tẩy Đền thờ

Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa tiến vào đền thờ ở Giêrusalem, và dùng roi xua đuổi phường bán buôn ra khỏi nơi đó. Sự kiện này được thánh ký Gioan thuật lại với nhiều ý nghiã thần học rất sâu xa. Trong phần kết của Tin mừng thứ tư, Thánh ký đã viết: “Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, con Thiên Chúa và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Ngài (Ga 20,21). ‘Tin’ là chủ đề xuyên suốt trong toàn bộ Tin Mừng Gioan và đã được thánh ký nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần. Trình thuật hôm nay cũng lột tả đích nhắm này. Biến cố Chúa lên Giêrusalem trong dịp lễ vượt qua để thanh tẩy đền thờ nhằm tiên báo về cuộc vượt qua mới mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện bằng hành vi hiến tế của Ngài trên Thập giá. Vì vậy, không phải vô tình mà Thánh Gioan thuật lại câu nói của Chúa Giêsu : “Cứ phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Đền thờ Giêrusalem chỉ là hình bóng, còn Đền thờ mới và cũng là Đền thờ đích thật, chính là thân thể mầu nhiệm nơi Chúa Giêsu. Ngài trở nên căn nguyên ơn cứu độ, để ai tin vào Ngài sẽ có sự sống đời đời. Đền thờ Giêrusalem cũ rất kiên cố và được xây dựng ròng rã trong suốt 46 năm, đã bị sụp đổ tan tành vào năm 70 sau công nguyên. Song, Đền thờ tân ước là chính Đức Giêsu sẽ mãi mãi không thể bị phá hủy, mặc dầu Đức Giêsu đã bị phân thây trên Thập giá như một tên trộm cướp. Ánh sáng Phục sinh là chìa khóa giải đáp cho mọi vấn nạn nhân sinh, và vinh quang của ‘Đấng Sống lại’ sẽ luôn phủ ngập ngôi Đền thờ mới này.

Vì thế, trong trình thuật hôm nay, thánh Gioan cắt nghĩa : “Vậy, khi Người từ cõi chết sống lại, các môn đệ nhớ lại những điều Người đã nói. Họ tin vào Kinh thánh và tin vào lời của Đức Giêsu (Ga 20,22). Đồng thời, trong dịp lễ vượt qua năm ấy, nhiều người đã tin vào danh Đức Giêsu (c. 23). Đức tin là điểm nhấn mà thánh Gioan muốn nhắm đến.

Thập giá, con đường dẫn đến Đền thờ mới

Trong cựu ước, dân Do Thái dùng lễ vật chiên bò hay bồ câu để hiến dâng cho Thiên Chúa, biểu tỏ hành vi thờ phượng. Vì thế mới có chuyện buôn bán trong đền thờ như được thuật lại trong Tin mừng hôm nay. Trong tân ước, Đền thờ mới chính là Đức Giêsu. Ngài vừa là tế nhân vừa là tế vật. Ngài dâng lên Chúa Cha của lễ là chính thân thể được sát tế của Ngài, đồng thời Ngài cũng là vị Thượng tế đời đời một cách đúng nghĩa nhất. Chúng ta nhớ lại điều tương tự khi Chúa nói với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp : “Đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi này hay tại Giêrusalem.. Những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần khí và Chân lý (Ga 4, 21- 24). Chúa Giêsu muốn vén mở cho đám đông về chân dung cứu thế của Ngài, và dung mạo Messia nơi Ngài sẽ được hiển thị cách tròn đầy ngang qua Thập giá. Vì thế, Giáo hội chọn bài đọc hai trong phụng vụ hôm nay để trình bày về linh đạo của thánh Phaolô, đồng thời đó cũng phải là sự chọn lựa duy nhất mà mỗi người chúng ta cần thể hiện. Thánh tông đồ viết : “Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận và dân ngoại cho là điên rồ (1 Cor 1, 22 – 23). Sau đó thánh Phaolô giải thích cho giáo đoàn biết rằng, đây là một nghịch lý vĩ đại nhất mà Thiên Chúa đã thể hiện ngang qua cái chết của Đức Giêsu. Quả thật, đây là một nghịch lý đối với não trạng con người, bởi vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn sự khôn ngoan của loài người. Cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người. Nghịch lý còn được các thánh ký nói tới rất nhiều lần. Một Thiên Chúa cao cả lại trở nên thấp kém trong kiếp người hèn hạ, một Thiên Chúa vô cùng thánh thiện lại bị kết án và chết cách nhục nhã như một tên tội phạm. Nghịch lý này cũng được lập lại một lần nữa trong bài Tin mừng hôm nay, khi Chúa vén mở về sự phục sinh vinh thắng của Ngài. “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi. Nội ba ngày tôi sẽ xây lại”.

Thập giá, lề luật mới của tình yêu

Trong Tin mừng Gioan, thánh ký thuật lại cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu với Nicôđêmô. Ngài nói : “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban Con một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời (Ga 3, 16). Thập giá là cách thức thể hiện tình yêu của Thiên Chúa một cách tròn đầy nhất. Tình yêu ấy được hiện lộ cách rõ nét khi Con Người được giương cao giống như con rắn đồng trong sa mạc Sinai ngày xưa (c 14). Đức Giêsu đã thiết định một lề luật mới qua máu của Ngài đổ ra trên Thập giá, và lề luật đó chính là luật của tình yêu. Giao ước mới được ký kết bằng máu Thập giá đã thay cho giao ước cũ. Vì vậy, Chúa Giêsu nói đi nói lại về lề luật mới mà Ngài thiết định, đó là luật của tình yêu, là luật tối thượng và duy nhất mà Chúa đã để lại cho các môn sinh như một di chúc thiêng liêng. “Thầy để lại cho anh em một giới răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau. Không ai có tình yêu nào cao cả hơn mối tình của người hiến thân vì bạn hữu (Ga 14,34). Vì thế Giáo hội đã chọn bài đọc thứ nhất trong phụng vụ hôm nay để nhắc đến thập giới, là lề luật cũ của dân Do Thái khi xưa. Đức Giêsu đã đến trần gian không phải để phá hủy nhưng để hoàn thiện bộ luật cũ bằng chính hy lễ và cái chết của Ngài trên Thập giá. Thập giới cũ gồm 10 điều răn, tóm lại trong 2 chiều kích, ‘Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như chính mình’. Cũng vậy, lề luật mới được viết nơi Thập giá của Chúa Giêsu cũng gồm 2 thanh gỗ đan nối với nhau, thanh dọc (vertical) và thanh ngang (horizontal). Thanh dọc vút lên trời cao ám thị về tình yêu đối với Thiên Chúa và thanh ngang vươn hướng đến tha nhân ám thị về tình yêu đối với đồng loại.

Kết luận

Chúng ta trở về với câu nói của bà cụ trong bộ phim Sám hối vừa nói ở trên: “Nếu con đường này không dẫn đến đền thờ thì nó được làm ra để làm gì?”. Cũng vậy, cuộc đời chúng ta nếu không hướng về Đền thờ đích thực là Thập giá của Đức Giêsu thì chúng ta sống để làm cái gì?. ‘Thập giá là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta’ (Đức Cha Lambert de la Motte). Đó không phải là đối tượng để chúng ta chỉ cung chiêm hoặc suy ngắm, nhưng chúng ta cần phải sống và thực hành linh đạo Thập giá trong cuộc sống đức tin mỗi ngày.

Về mục lục

.

NƠI CHỐN VÀ PHƯƠNG THỨC CẦU NGUYỆN ĐÍCH THỰC

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Việc tẩy uế đền thờ tạo dịp để Đức Giê-su đề cập với giới lãnh đạo Do Thái về một đề tài rất nóng bỏng và thiết thân đối với họ: phải phụng thờ Thiên Chúa như thế nào cho phải lẽ? Thật vậy, đền thờ Giê-ru-sa-lem vốn là trái tim của cả dân tộc Do Thái, là nơi họ dâng lễ vật phụng thờ lên Đức Chúa Gia-vê, đồng thời thanh tẩy mình khỏi tội nhơ. Vì thế cho nên, khi Đức Giê-su thách thức: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại!” thì các tư tế lập tức có những phản ứng gay gắt; Nhưng ngược lại, các môn đệ qua đó lại dần nghiệm ra: đây mới chính là mạc khải mới mẻ nhất mà Đức Giê-su, không chỉ tuyên bố xuông, mà còn thực tế minh định bằng sự kiện Vượt Qua thập giá do chính Người thực hiện; ‘Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, và họ tin rằng… Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói đây là chính thân thể Người’.

‘Làm thế nào thờ phượng, hay đúng hơn, đi vào tương quan với Thiên Chúa cách chân thực nhất?’ hẳn đây là vấn nạn thầm kín của rất nhiều tâm hồn tín hữu qua mọi thời đại. Các tư tế Do Thái thì đinh ninh họ đã sở đắc được lời giải đáp quá rõ như ban ngày: cứ lên đền thánh Giê-ru-sa-lem dâng tiến lễ vật theo luật định! Sau này người phụ nữ Sa-ma-ri bình dân và tầm thường cũng sẽ nêu lên cùng một vấn nạn: “Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa”. Khi giải đáp vấn đề thiết thân này, Đức Giê-su đã rất thẳng thừng tuyên bố, một lời công bố mang tính cách mạng triệt để trong lãnh vực tôn giáo: “Giờ đã đến, và chính là lúc này đây, những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” (Ga 4:19-26)

Nối kết hai đoạn văn liên quan tới đền thờ này lại với nhau, ta sẽ khám phá ra một mạc khải có tầm quan trọng bậc nhất đối với hết thảy các tín hữu Ki-tô: nơi thờ phượng Thiên Chúa xứng hợp nhất chính là con người Đức Ki-tô, và phương thức thích hợp nhất để tôn thờ Chúa Cha đó là tôn thờ trong thần khí và sự thật. Nói cách khác, chỉ duy nhất trong Đức Giê-su Ki-tô ta mới tôn thờ được Chúa Cha cách chân thực, và chỉ nơi thâm sâu nhất của cõi lòng ta mới thực sự thờ phượng trong thần khí và sự thật. 

–    ‘Thần khí’, nếu trong suy nghĩ của người Do Thái và Sa-ma-ri thần khí là sức mạnh của Đức Chúa, thì Đức Giê-su chắc hẳn cũng đang đề cập tới một sức mạnh gì ghê gớm hơn hẳn. Đúng vậy, đó là sức mạnh mà Người sẽ thực hiện cũng chính tại Giê-ru-sa-lem, qua cái chết thập giá và sống lại của mình: sức mạnh của yêu thương cứu độ. Thờ phương Chúa Cha trong ‘thần khí – sức mạnh’ của tha thứ và xót thương thì chỉ có Ki-tô hữu mới làm được, nhờ đi vào cái chết thập giá của Đức Giê-su. 

–    ‘Sự thật’, đối với Ki-tô hữu sẽ không phải là thứ triết lý gì cao siêu, nhưng là một điều rất cụ thể và thực tế mà ai cũng phải giáp mặt và có thể nắm bắt. Tông đồ Gio-an đã từng khảng định: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta… Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (1Ga 1:8-10). Sự thật đơn giản là thế đó! Quả vậy, không thể phụng thờ một Chúa Cha đầy từ tâm và xót thương nếu không chân thành và khiêm tốn nhìn nhận sự thật mười mươi ‘tôi đã phạm tội!’ Đó cũng là cách thờ phương Thiên Chúa chân chính và độc đáo nhất mà chỉ các Ki-tô hữu mới có thể tích cực chu toàn.

Đức Giê-su không chỉ muốn ‘tẩy uế’ đền thờ Giê-ru-sa-lem, Người thậm chí còn công khai yêu cầu phá bỏ nó hoàn toàn để xây dựng lại một nơi thờ phượng mới, và phải thiết lập một phong cách thờ phương mới. Phải chăng điều này đồng nghĩa tới việc kẻ phụng thờ phải từ bỏ lề thói tôn thờ Thiên Chúa theo kiểu phụng tự với những nghi lễ rình rang mà mọi các tôn giáo cổ điển đều làm, để triển khai một lối phụng thờ mới tập trung vào một Thiên Chúa từ nhân và cứu độ, trong thái độ thẳng thắn và khiêm tốn nhìn nhận con người tội lỗi và yếu hèn của mình, đồng thời kín múc lấy nguồn nước hằng sống là ơn cứu độ của thập giá Đức Ki-tô? Công việc phá bỏ và xây dựng mới này đương nhiên không thể thực hiện trong một sớm một chiều, vì “đền thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà trong ba ngày ông xây lại được sao?” Phải, không thể nếu ta không dứt khoát, đặc biệt trong ba ngày thánh thiêng nhất của năm phụng vụ, thật lòng đi vào của cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Ki-tô Giê-su.

Nếu sự thật là như thế thì những ngày này của mùa chay sẽ quan trọng đối với các Ki-tô hữu chúng ta biết bao. Ta phải dứt khoát thôi, để chuẩn bị mình cho việc thờ phượng chân chính nhất được cử hành bên ngoài, nhưng nhất là bên trong cõi lòng ta… và được biểu hiện cách tuyệt vời trong Thánh Lễ Thập Giá trên bàn thờ!

 Lạy Thiên Chúa cứu độ, xin dạy cho con biết tôn thờ Chúa trong thần khí và sự thật. Trước hết xin giúp con can đảm phá hủy đền thờ Giê-ru-sa-lem (lề thói giữ đạo / đi nhà thờ) mà con đã mất bao công sức xây dựng nên. Từ nay con muốn dứt khoát xây dựng ngôi đền thờ mới là đi vào con đường thập giá: khiêm tốn nhìn nhận tội lỗi mình và mở rộng lòng đón lấy ơn cứu độ. Như Phao-lô, con không muốn tôn thờ một Thiên Chúa nào khác ngoài Đức Ki-tô thập giá. A-men

Về mục lục

.

ĐỀN THỜ CỦA CHÚA

Micae Bùi Phúc Hòa

Người Do Thái rất coi trọng đền thờ Giêrusalem, đó là nơi thánh thiêng, là linh địa và là niềm kiêu hãnh, niềm tự hào của họ. Ngôi đền thờ đầu tiên được xây dựng dười thời vua Salomon vào khoảng năm 976 BC nhưng sau đó bị dân Ba tư tàn phá. Sau cuộc lưu đày Babylon, người Do Thái lại bắt tay vào tái tạo ngôi đền thờ của họ vào khoảng năm 516 BC. Cho đến năm 169 BC, người Xyri do vua Antiocô dẫn đầu đánh chiếm Giêrusalem và lại một lần nữa ngôi đền rơi vào cảnh hoang tàn đổ nát. Vùng đất Palestin rơi vào tay quân Rôma vào khoảng năm 63 BC và dân Do Thái tiếp tục xây cất lại ngôi đền Thánh của mình.

 Theo luật Do Thái, những ai đến tuổi trưởng thành đều phải đi hành hương ở đền thờ Giêrusalem ít nhất một lần trong năm. Như vậy vào các dịp lễ lớn, có rất nhiều người kéo nhau về đền thờ Giêrusalem. Chúng ta có thể tưởng tượng khung cảnh náo nhiệt như một lễ hội. Nơi nào có nhiều người thì các dịch vụ cũng đua nhau xuất hiện vì lợi ích kinh tế, vì lo toan của cuộc sống: bán bò, chiên, chim câu cho khách hành hương mua làm lễ tế, các dịch vụ đổi tiền… Đó cũng là điều bình thường nếu như sự việc không diễn ra ngay trong sân của đền thờ. Một nơi vốn trang nghiêm lại trở thành nơi buôn bán, một nơi để cầu nguyện lại trở náo nhiệt bởi những lời mời mọc của người bán buôn. Đền thờ trở thành một khu chợ phiên.

 Người ta đến đền thờ để tìm giây phút thinh lặng cầu nguyện với Chúa, để tâm hồn mình được thư thái bình an. Thế nhưng đến đền thờ, người ta có cảm tưởng đang đi chợ với các lời mời mọc, chào đón. Đền thờ không còn là nhà của Chúa nữa. Lúc bấy giờ, các vị tư tế đang ở đâu, hay là họ cũng đồng thuận để biến sân đền thờ trở thành chợ phiên vì ham mê lợi lọc vật chất. những người buôn bán có lỗi gì ở đây. Họ chẳng phải đang giúp khách hành hương sao? Nhưng Đền thờ là nơi gặp gỡ Thiên Chúa, con người lại loại Thiên chúa ra một bên để lo cho nhu cầu vật chất của mình. Chính trong bối cảnh đó mà Chúa giêsu đã can thiệp. Cũng dễ hiểu khi Chúa Giêsu giận giữ vì nhà Cha Ngài không còn là nơi tôn nghiêm. Lần nay, Chúa Giêsu vào đền thờ với tư cách là Messia – Con Thiên Chúa, là người quản trị đền thờ. Ngài phải ra tay tái lập lại sự tôn nghiêm. Hành động của Chúa Giêsu  còn ngụ ý rằng chính ngài sẽ thay thế các lễ tế bằng con vật, và Ngài là lễ vật tinh tuyền nhất để dâng lên Chúa Cha.

 Mỗi người chúng ta cũng là đền thờ của Chúa Thánh Thần, là nơi Chúa cư ngụ. Khi Chúa đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ cũng chính là lúc Chúa xua đuổi những cái xấu xa ra khỏi tâm hồn chúng ta. Như vậy mỗi người có trách nhiệm chăm sóc cái đền thờ ấy chính là thân xác của mình, để khi người khác nhìn vào không phải là một cửa ngõ ham mê vật chất, đam mê tội lội mà là hình ảnh Đức Kitô đang hiện diện một cách sống động. Mùa chay giúp chúng ta tái khẳng định lại sự chọn lựa của chúng ta: một mớ vật chất hỗn độn hay là chọn Chúa. Xin chúa thanh lọc tâm hồn để mỗi người chúng ta xứng đáng hơn là đền thờ của Chúa.

Về mục lục

.

MẦU NHIỆM TÂM HỒN

Những năm gần đây, báo chí thường có bài phóng sự về cảnh tượng xô bồ nơi các đền chùa, trong những dịp lễ hội đầu năm: Nào là cảnh chen lấn xô đẩy để lĩnh ấn Đền Trần. Nào là cảnh buôn bán chặt chém khách hành hương Chùa Hương. Nào là tình trạng hỗn loạn xin lộc Đền bà Chúa Kho. Mục đích đi chùa là để cầu an, cầu tài, cầu lộc. Nhưng nhiều khi tài lộc đâu không thấy, mà lại thấy mất tiền vì bị kẻ gian móc túi, hay bị những người bán hàng chặt chém. An bình đâu không thấy, chỉ thấy bất an vì bị chen lấn, xô đẩy, bị văng tục khi không mua hàng của người mời, hay mua của người này mà không mua của người kia. Thế mới thấy rằng: Chính cái não trạng vụ lợi, muốn biến thần thánh thành công cụ phục vụ lòng ham muốn của mình, đã mở đường cho việc thương mại hoá những giá trị cao quý linh thiêng của văn hoá và tín ngưỡng.

Cũng với não trạng ấy, người Do Thái xưa kia đã biến sân Đền thờ Giêrusalem, một nơi thánh thiêng, thành một nơi bát nháo, để trao đổi buôn bán, nhằm trục lợi. Là Con Thiên Chúa và là Đấng Thánh, Chúa Giêsu không chấp nhận để Đền thờ, “nhà của Cha Ngài” bị tục hoá, bị ô uế. Nên Ngài đã hành động một cách quyết liệt, để trả lại ý nghĩa đích thực của Đền thờ. Đồng thời Ngài muốn mạc khải cho chúng ta một Đền thờ sống động hơn, đó chính là Thân thể của Ngài. 

Đọc lại lịch sử dân thánh, ta thấy Đền thờ Giêrusalem là địa chỉ của sự gặp gỡ nối kết giữa Thiên Chúa và con người. Thực vậy, Đền thờ là nơi Thiên Chúa hiện diện và gặp gỡ con người; đồng thời Đền thờ cũng là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ nhau. Gặp gỡ để thờ phượng, cảm tạ, chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa, đặc biệt vào các ngày Sabát và các ngày đại lễ. Thế nhưng, một số người đã biến Đền thờ thành nơi nhếch nhác của những kẻ tụ tập buôn bán và đổi chác. Chúa Giêsu đã xua đuổi những kẻ lạm dụng này ra khỏi Đền thờ, để trả lại chỗ đứng của Đền thờ, là “Nhà cầu nguyện”, nhà của sự gặp gỡ và nối kết giữa Thiên Chúa và con người. 

Qua Bí tích Rửa tội, ta cũng là đền thờ của Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy” (1 Cr 3,16). Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho ta. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn ta, hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm hay đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có nguy nga đồ sộ như Đền thờ Giêrusalem chăng nữa, thì cũng bị tiêu tan. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn ta mới là đền thờ bền vững thiên thu. Thế nhưng hằng ngày ta đã thực sự sống xứng đáng là đền thờ cho Thiên Chúa ngự chưa? Hay là ta đang làm cho đền thờ tâm hồn mình ra nhơ uế, bởi những toan tính ích kỷ, bởi lòng ghen tị, óc thành kiến hẹp hòi, và bao nhiêu thói hư tật xấu khác? Mùa Chay là thời gian thuận tiện, để ta làm mới lại tâm hồn mình. Xin Chúa Giêsu tiếp tục yêu thương thanh tẩy tâm hồn ta mỗi ngày. Xin Ngài tiếp tục xua đuổi và lật nhào những gì làm cho tâm hồn ta ra ô uế, để trả lại cho Chúa Thánh Thần một nơi xứng hợp để Ngài ngự trị.

Ước gì ta biết điểm tô đền thờ tâm hồn mình bằng những việc đạo đức và siêng năng lãnh nhận các Bí tích, để tâm hồn ta xứng đáng là nơi Chúa ngự.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY_B

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Việc Chúa thánh tẩy đền thờ Giêrusalem đã được 4 tác giả Tin mừng ghi lại: Chúa Giêsu vào đền thờ và dùng quyền năng đuổi nhưungx kẻ buôn bán ra khỏi đền thờ: “Đừng làm cho nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”.Những hoạt động của Chúa Giêsu trong thành thánh nói lên sứ mạngThiên Sai của Người đối với nhân loại.

Hành động mạnh mẽ, quyết liệt của Chúa Giêsu đã làm cho các thủ lĩnh Do Tháitức giận, con buôn ngỡ ngàng và họ hạch hỏi, đòi xin một dấu lạ minh chứng Chúa có quyền hành động như thế nơi đền thờ. Lợi dụng cơ hội đó, Chúa lập lại dấu chỉ mà Ngài đã nói trong Phúc âm Nhất Lãm. Đó là dấu chỉ tiên tri Gioana. Ngài nói: “Cứ phá đền thờ này đi, trong ba ngày Ta sẽ xây lại”. Người Do Thái hiểu nghĩa vật chất. Đền thờ Giêrusalem vua Hêrôđê trùng tu năm 19-20 trước công nguyên và hoàn tất năm 62-64. Còn Chúa Giêsu hiểu nghĩa tinh thần: Thân xác Ngài chính là đền thờ Thiên Chúa, những người Do Thái sẽ phá hủy và ngày thứ ba Người sẽ sống lại.

Thánh Gioan đã nhìn thấy biến cố Chúa thanh tẩy đền thờ có tương quan đến mầu nhiệm vượt qua của Chúa: Sự chết và sự phục sinh của Ngài. Biến cố này làm cho thủ lãnh Irael bất mãn, họ tìm cách giết Ngài. “Nhưng lúc người ta giết Ngài, Chúa thực sự tỏ ra thân xác Ngài là đền thờ đích thực, nhà của Thiên Chúa, cửa Thiên Đàng” (Ga 1, 51). Ngài chính là Đấng quyền năng trên sự sống và sự chết, trên vũ trụ và con người.

Lễ vượt qua của Do Thái sẽ được thay thế bằng Lễ vượt qua mới: máu chiên được thay thế bằng Chúa Kitô. Đền thờ vật chất Giêrusalem được thay thế bằng đền thờ mới là Giáo Hội và thân thể tín hữu (Ep 2,21. 4,12; 1Cr 3,16). Hy tế thập giá của Chúa Giêsu thay thế cho lễ tế chiên bò trong lễ vượt qua cuối cùng.

Theo Tin mừng Gioan, lần đầu tiên chúng ta chứng kiến cơn thịnh nộ của Chúa Giêsu. Bình thường Ngài rất hiền lành, độ lượng. Cơn giận của Chúa thể hiện qua hành động “Xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, còn tiền của những kẻ đổi bạc, Ngài đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ…”. Chúa bực tức nóng giận khi thấy đền thờ bị biến thành nơi buôn bán, kinh doanh, hang trộm cướp… Điều này cho thấy Chúa Giêsu rất coi trọng đền thờ, nơi mà Ngài gọi bằng danh từ rất tôn kính mến yêu, đó là “Nhà Cha Tôi” “Nhà cầu nguyện”. Đền thờ là nhà Cha của Ngài, nên Đức Giêsu có sứ mạng bảo vệ, phục hồi bầu khí thiêng liêng cho đền thờ, vì là nơi con người đến gặp gỡ Thiên Chúa và tôn thờ Thiên Chúa. Chúa hành động như thế là vì lòng nhiệt thành với Nhà Chúa: “Nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây phải thiệt thân”.

Ngày nay trong Giáo hội Việt Nam, nhà thờ mọc lên như nấm, nhiều nhà thờ mới được xây dựng với muôn hình vạn trạng khắp nơi. Người ta thi đua xây nhà thờ thật lộng lẫy, hoành tráng. Nhưng không để tâm xây dựng nhà thờ tâm hồn nơi mà Chúa Giêsu có thể ngự đến một cách sống động, đó là tâm hồn mỗi Kitô hữu chúng ta. Chính thánh Phaolô đã quả quyết: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao” (1Cr 3,16).

Xây dựng nhà thờ vật chất tương đối dễ, có tiền là xây nhà thờ được. Nhưng xây đền thờ tâm hồn quả là không dễ, có tiền cũng không xây được. Xây dựng đền thờ Thiên Chúa trong tâm hồn người Kitô hữu bằng những hành động sống đạo thiết thực: vun đắp tình yêu thương trong cộng đồng gia đình và xã hội, thực thi bác ái trong đời thường, sống lương thiện, công bằng… Nói cách khác, mến Chúa và yêu thương anh em là cách thế ta đang xây dựng và làm đẹp đền thờ Thiên Chúa nơi tâm hồn mỗi người tín hữu.

Nhà thờ là nơi tôn nghiêm quy tụ mọi tín hữu đến gặp gỡ Thiên Chúa, tôn thờ Thiên Chúa. Nếu hôm nay, Chúa Giêsu đến các nhà thờ trong giờ cử hành thánh lễ, chầu Mình Thánh Chúa hay đọc kinh… Có lẽ Chúa cũng không hài lòng vì người tín hữu chưa yêu mến, tôn kính “Nhà Chúa”, bầu khí chợ búa vẫn vương vẫn trong nhà thờ: đi tham dự lễ cho vui, hẹn hò gặp nhau trong giờ lễ, đi đến nhà thờ để trình diện áo quần, kiểu tóc, khoe khoang công đức, lo ra chia trí, nói chuyện trong nhà thờ… Có lẽ Chúa cũng mời chúng ta ra khỏi nhà thờ, Ngài không muốn “nhà thờ”, “Nhà Cha Ngài” bị xúc phạm.

Hơn nữa, có những tín hữu đi dự lễ không bao giờ vào nhà thờ: ở ngoài, ngồi trên xe dự lễ, ngồi gốc cây nói chuyện… bên trong nhà thờ vẫn còn nhiều ghế trống, đi dự lễ cho có mà chẳng có một chút lòng yêu mến đối với Thiên Chúa. Có lẽ Chúa Giêsu lại phải bực dọc mời họ vào trong nhà thờ để tham dự thánh lễ sốt sắng hơn, và khuyến cáo họ sống đạo chân thành, loại bỏ những lỗi sống đạo hình thức thiếu tâm tình yêu mến.

Thánh lễ là lễ hy sinh của Chúa Giêsu trên thập giá được hiện tại hóa trên bàn thờ để tiếp tục ban ơn cứu độ cho nhân loại, thì mỗi thánh lễ mang sức sống mới của Đức Giêsu Kitô phục sinh. Người chính là đền thờ mới, nơi nhân loại tôn thờ Thiên Chúa cách đích thực.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY_B.

Lm Giuse Đinh Tất Quý

“Ðem tất cả những thứ này ra khỏi đây,

đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). 

Câu chuyện Tin Mừng Gioan vừa thuật lại cho chúng ta xảy ra vào dịp lễ Vượt qua năm 28, vào cuối cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Cũng như những người Do thái ngoan đạo khác Chúa thường có mặt tại Jerusalem vào dịp lễ đặc biệt này. Đây là ngày lễ lớn của dân tộc.

A. Như đã có nhiều lần tôi nói với anh chị em.

Đời sống tôn giáo của người Do thái gắn chặt với đền thờ. 

Đền thờ là trung tâm của Đạo. 

Đền thờ là nơi có hòm bia thánh – nơi con người đến để gặp gỡ Thiên Chúa. 

Lễ Vượt Qua nhằm vào ngày thứ mười lăm tháng Nisan, tức khoảng tháng tư dương lịch và theo luật pháp, mọi người nam Do Thái sống cách Jerusalem trong vòng hai mươi lăm cây số, bắt buộc phải về dự lễ. Không phải chỉ có người Do thái ở trong xứ Palestine về dự lễ Vượt Qua mà thời bấy giờ dân Do Thái tản lạc khắp thế giới, họ chẳng bao giờ quên tôn giáo và đất nước của tổ tiên họ. Người Do Thái dầu sống ở xứ sở nào, họ vẫn mơ ước và hi vọng được dự lễ Vượt Qua tại Jerusalem ít nhất một lần. 

Riêng đối với Chúa Giêsu lần này, thì Chúa có mặt tại đây không phải chỉ với danh nghĩa một người Do Thái mà đây còn là dịp để Chúa chu toàn chức vụ của Ngài. Bởi vậy mà Ngài đã vào đền thờ như một Đấng có uy quyền. 

Chúa đã phải đối diện với một đền thờ như thế nào? 

Đó là một đền thờ đã bị tục hóa. Đền thờ đã không còn phải là nơi thánh nữa mà nó đã gần như trở thành một “hang trộm cướp”. Chúa không thể chấp nhận được tình trạng này mãi mãi.

Nhìn lại lịch sử ban đầu thì đền thờ là nơi rất thánh thiện. Theo như truyền thống còn ghi lại thì ngưởi Do Thái hết lòng quí mến tôn trọng đền thờ: thậm chí họ không dám đi ngang qua chỉ vì lý do tiện đường. 

Nhưng bây giờ thì sự tôn kính đối với đền thờ không còn nữa…nhất là vào dịp lễ Vượt qua. 

Lý do: 

+ Khách hành hương phải dâng một hy lễ theo luật (những người giầu thì một con bò hay một con chiên – còn những người nghèo thì một cặp bồ câu như Đức Mẹ và Thánh Giuse đã làm) 

+ Bên cạnh đó mỗi người còn phải nộp một đồng tiền thuế. Đây là loại thuế đặc biệt của đền thờ. 

Kết quả thế nào?

+ Hàng quán của các lái buôn chiên bò dựng la liệt ngay trước cả trụ lang đền thờ. 

+ Các bàn đổi tiền cũng thế. 

Vấn đề đặt ra tại đây là ai phải chịu trách nhiệm về tình trạng này. 

Theo luật thì giới tư tế được đặc cử để phụ trách và trông coi đền thờ, thế những những lợi lộc vật chất do chức vụ đem lại đã làm mờ mắt họ, khiến họ đã quên đi nhiệm vụ cao cả và thánh thiện của mình để rồi từ đó không biết bao nhiêu lạm dụng đã xẩy ra, xẩy ra ngay trong những nơi thánh thiện nhất. Người ta đã tìm thấy một câu thật đau lòng được ghi lại do một ký lục đạo dức trong sách Mishna trước khi Giêrusalem bị tàn phá như sau: “Họ là tư tế – Con cháu họ là thu ngân – Rể họ là thanh tra đền thờ – Và gia nhân của họ cầm dùi để rình đánh chúng ta”. 

Đứng trước tình trạng như thế Chúa không thể không có thái độ. 

Với tư cách là Con của Thiên Chúa Ngài phải hành động để trả lại cho “Nhà Cha Ta” cái địa vị cao cả của nó. 

B. Trước hành động của Chúa người ta đã phản ứng lại như thế nào?

Đối với các môn đệ và những người Do thái đạo đức thì chắc chắn đây là dịp để họ vui mừng. Thánh Gioan ghi lại một chi tiết rất nhỏ, nhưng nó cũng nói lên một phần nào niềm vui của những người thấy nhà của Chúa được bảo vệ: “Sự nhiệt thành vì nhà Chúa thiêu đốt tôi” (Tv 69,10) . Đây cũng là cơ hội để họ được chứng kiến những lời mà các tiên tri đã loan báo từ bao nhiêu năm qua được thể hiện. Vâng từ bao nhiêu năm qua, một số các ngôn sứ đã dự báo trước về sự việc này. 

Tin Tri Malakia đã loan báo: “Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Ðiện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến, – Ðức Chúa các đạo binh phán. Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện? (Ml 1,3) Hay như Dacaria cũng đã có lần nói: “Sẽ không còn phường lái buôn trong đền thờ của Giavê nữa.”(Dcr 14,21) 

Ngài đến để thực hiện một hy lễ “đẹp lòng Thiên Chúa hơn lễ tế bò tơ hay ngưu sinh đủ sừng đủ móng” (Tv 69,32) 

Còn đối với giai cấp lãnh đạo đền thờ thì chắc chắn đây là dịp để họ tăng thêm lòng ghen ghét đối với Chúa. 

Sự việc Chúa là một con người không thuộc giai cấp tư tế mà lại dám can thiệp vào công việc có tính cách nội bộ của đền thờ thì điều đó đối với họ không thể nào chấp nhận được. Tuy nhiên chúng ta thấy phản ứng của họ ở đây tương đối là có hạn chế. Nó chỉ dừng lại ở một chất vấn là Chúa lấy quyền nào mà dám làm như vậy. Ngoài ra chúng ta thấy họ đã không có một hành động nào khác. Điều đó chứng tỏ việc Chúa làm là việc hợp lẽ phải, hợp lòng người. Chính vì thế mà ngay cả các tư tế cũng không dám có một phản ứng mạnh nào đối với Chúa. 

C. Vấn đề còn lại là tại sao Giáo Hội lại chọn đoạn Tin Mừng này để đọc vào Chúa nhật thứ 3 mùa Chay hôm nay? Câu trả lời không khó lắm: Giáo Hội cũng muốn chúng ta làm một cuộc “thanh tẩy”, không phải đền thờ vật chất nhưng là đền thờ tâm hồn của mỗi người như lời thánh Phaolô: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1Cr 3,16)

Vua Trajano là hoàng đế cai trị nước Rôma từ năm 98 đến năm 117. Nhà vua đã cấm đạo, và đã bắt thánh Ignatio giám mục thành Antiochia. Tại tòa án, nhà vua đã chế nhạo đạo công giáo, rồi gọi thánh Ignatio là thằng quỉ xấu xa, thánh Ignatio giám mục thưa lại rằng: 

– Tâu đức vua, chẳng có ai gọi người mang Thiên Chúa trong mình là thằng quỉ dữ được. 

Nhà vua hỏi lại: 

– Vậy ông mang Thiên Chúa trong mình ư? 

Thánh Ignatio giám mục trả lời: 

– Tâu đức vua, phải – tôi mang Thiên Chúa trong mình, vì những người đã chịu phép rửa tội, sống đời sạch tội, đều là đền thờ của Thiên Chúa. Bởi vậy, không hạnh phúc nào lớn lao cho bằng người công giáo, bằng được trở nên đền thờ Thiên Chúa; và cũng chẳng có gì can hệ cho con người bằng phải luôn là đền thờ cho Thiên Chúa ngự. 

Nghe xong, hoàng đế Trajano đã lên án rằng: 

– Ignatio thành Antiochia là người đã cậy mình vì mang Thiên Chúa trong mình nên phải điệu đến Roma, để làm của ăn cho thú dữ. 

Đức Giêsu đã thanh tẩy đền thờ. Người cũng muốn chúng ta hãy tiếp tục công việc của Người là giữ gìn ngôi đền thờ thiêng liêng là chính bản thân ta. Tâm hồn chính là cung thánh nơi Chúa ngự. Ta phải luôn luôn thanh tẩy để tâm hồn được xứng đáng với Chúa. 

Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi thói tôn thờ tiền bạc, coi trọng tiền bạc hơn Chúa.

Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi những dục vọng đam mê làm ô uế cung thánh của Chúa.

Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi thói gian tham, bất công.

Hãy thanh tầy tâm hồn ta khỏi những kiêu căng đố kỵ.

Hãy kính trọng thân xác của mình và của người khác.

Hãy tu bổ những đền thờ thân xác đã xuống cấp, suy tàn, bị xúc phạm, bị bán rẻ.

Hãy sửa chữa những đền thờ thân xác đang bị bào mòn vì bệnh tật, vì đói khát, vì thương tích. 

Tôi xin được kết thúc bằng một lời cầu xin của một người ngoại đạo. Người ngoại đạo nhưng lời cầu nguyện của họ còn đẹp hơn rất nhiều người có đạo. Tôi muốn nói đến văn hào R. Tagore: 

Lạy Thiên Chúa, đây lời con cầu nguyện: Xin tận diệt, tận diệt trong tim con mọi biển lận tầm thường. Xin cho con sức mạnh thản nhiên để gánh chịu mọi buồn vui. Xin cho con sức mạnh hiên ngang để đem tình yêu gánh vác việc đời. Xin cho con sức mạnh ngoan cường để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó, hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy. Xin cho con sức mạnh dẻo dai để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày. Và cho con sức mạnh tràn trề để nâng mình theo ý Ngài luôn. (Đỗ Khánh Hoan dịch)

Về mục lục

.

HÃY XEM LẠI LỐI SỐNG ĐẠO CỦA CHÚNG TA

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Trước và sau tết Nguyên Đán, người dân Việt Nam nói chung, nhất là miền Bắc, không ai lại không biết đến ít nhiều lễ hội.

Theo thống kê 2009 trên vi.wikipedia, hiện cả nước có 7.966 lễ hội; trong đó có 7.039 lễ hội dân gian (chiếm 88,36%), 332 lễ hội lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ hội tôn giáo (chiếm 6,28%), 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), còn lại là lễ hội khác (chiếm 0,5%). Các địa phương có nhiều lễ hội là Hà NộiBắc NinhHà Nam, Nam Định, Hải Dương và Phú Thọ.

Qua những lễ hội này, chúng ta thấy được một phần nào truyền thống, văn hóa của dân tộc Việt Nam. Điều này rất bổ ích, nhất là cho thế hệ trẻ! Tuy nhiên, trong những năm gần đây, có khá nhiều nơi đã lạm dụng lễ hội để kinh doanh, buôn bán và mê tín dị đoan. Từ đó, kéo theo một loạt những hệ lụy không đẹp như trộm cắp, đánh đập, chửi bới và hành xử thiếu văn hóa ngay chốn linh thiêng…, làm cho lễ hội nhuốm màu trần tục!

Hôm nay, Tin Mừng cũng thuật lại việc những nhà lãnh đạo tôn giáo thời Đức Giêsu đã biến đền thờ là chốn linh thiêng, là nơi dành riêng để tôn thờ Thiên Chúa thành nơi buôn bán và trao đổi tiền bạc. Thấy vậy, Đức Giêsu đã thẳng tay đánh đuổi để trả lại cho đền thờ đúng với ý nghĩa của nó.

Qua đó, Ngài muốn dạy cho chúng ta rất nhiều bài học sau biến cố này.

1. Lý do khiến Đức Giêsu đánh đuổi con buôn

Đền thờ Giêrusalem là một đền thờ nguy nga, tráng lệ vào bậc nhất thời đó. Đền thờ này được dùng vào việc tôn thờ Thiên Chúa và là nơi quy tụ những người Dothái hằng năm vào dịp lễ Vượt Qua.

Câu chuyện căng thẳng giữa Đức Giêsu và dân chúng đã xảy ra đúng vào thời điểm này.

Khởi đi từ việc Đức Giêsu quan sát và thấy được người ta đổi tiền, mua bán súc vật ngay trong đền thờ, làm cho đền thờ trở nên ô uế!

Điều đáng nói là: theo quy định, những con vật được dùng vào việc tế lễ phải là con vật lành lặn không tỳ vết. Những người chính thức được các chức sắc chỉ định mới đủ thẩm quyền để tuyên bố con vật xứng đáng sau khi đã kiểm tra! Tuy nhiên, con vật đủ kiều kiện để dùng vào việc tế lễ phải là con vật được mua trong nơi quy định của các tư tế và nó sẽ đắt gấp 15 lần so với bên ngoài. Hơn nữa, người mua còn phải trả một loại phí không nhỏ cho những người kiểm tra!

Bên cạnh đó, nơi đây còn diễn ra chuyện đổi tiền. Theo luật thì buộc mỗi người Dothái phải nộp thuế cho đền thờ từ 19 tuổi trở lên. Tiền thuế phải nộp là nửa siếc-lơ, tương đương với hai ngày lương công nhật.

Vì là lễ Vượt Qua không chỉ dành riêng cho người Dothái tại chỗ, mà còn cho cả những người Dothái ở nhiều nơi khác hội tụ về, nên tiền họ mang theo cũng đủ loại…. Nhưng tiền nộp vào đền thờ lại chỉ được chấp nhận là thứ tiền của người Dothái, vì họ cho rằng chỉ có tiền này mới xứng đáng để nộp thuế đền thờ, các thứ tiền khác là ô uế!

Chính vì lý do đó nên việc đổi tiền đã diễn ra tại nơi đây với giá cắt cổ.

Chứng kiến cảnh tượng đó, cộng thêm: “Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa hun đúc tâm hồn”(Tv 68.10), nên Đức Giêsu đã bừng bừng nổi giận. Thánh Gioan cho biết là Ngài đã lấy dây bện thành một ngọn roi xua đuổi bọn họ và đạp đổ tung thùng tiền (x. Ga 2, 14-17).

Khi có hành vi ấy, Đức Giêsu cho thấy những hệ lụy đầy bất công của những kẻ lãnh đạo tinh thần thời bấy giờ, đó là: họ đã nhân danh tôn giáo để đè đầu cưỡi cổ và bóc lột dân, nên Ngài đã không thể chấp nhận tình trạng ấy diễn ra ngay tại nơi dành riêng để tôn thờ Thiên Chúa, vì thế, Đức Giêsu nói:  “Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Lời cảnh cáo này của Đức Giêsu cho thấy Ngài đã nhắc lại lời của Ngôn Sứ Isaia khi xưa: “Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp” (Is 56,7).

2. Thực trạng đời sống đạo của chúng ta

Khi xua đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, Đức Giêsu mặc khải và dạy cho chúng ta những bài học thật bổ ích, đó là:

Cần cẩn trọng và đừng nên mừng vội khi thấy mỗi Chúa Nhật và các dịp lễ trọng, người đi lễ nườm nượp và ngồi chật kín cả nhà thờ, nhất là tuần làm phúc (trước Tuần Thánh) và Tuần Thánh. Có lẽ về khía cạnh này, Giáo Hội Việt Nam đứng đầu bảng trên toàn thế giới. Đây là một tín hiệu rất đáng mừng và rất nên khuyến khích cũng như phát huy.

Tuy nhiên, điều đáng tự hào ấy lại cần phải xem xét lại, vì biết bao nhiêu người chỉ tập chung vào những chuyện bên ngoài như đi “xem lễ” chứ không “sống thánh lễ” trong đời sống của mình.

Lại có những người siêng năng tham dự thánh lễ và chăm chú nghe giảng rồi lên rước lễ rất sốt sắng như thiên thần. Nhưng khi ra khỏi nhà thờ, họ sẵn sàng chửi bới, nói hành nói xấu, buôn gian bán lận, ăn chơi trác táng… không khác gì dân chơi thứ thiệt hạng sang ngoài đời! Hơn nữa, việc đi lễ, thuộc kinh là một chuyện, còn chuyện coi bói, xem quẻ, thờ ông địa, bái gốc đa, khấn gốc gạo với viện cớ rằng: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành…” lại là chuyện thường tình xảy ra hằng ngày ngay tại các cộng đoàn tín hữu với những sinh hoạt tôn giáo sầm uất!

Và, vẫn còn đó những người rất năng nổ tham gia chuyện quyên góp để xây dựng những công trình tôn giáo, nhưng đền thờ tâm hồn lại không màng chi đến hoặc có quan tâm thì cũng chẳng khác gì cưỡi ngựa xem hoa! Vì thế, việc xây dựng đền thờ tâm hồn với những nét đẹp như: từ bi, nhân hậu, bao dung, tha thứ, xây dựng tình huynh đệ, tạo sự hiệp nhất, liên đới, cảm thông…, thì lại quá xa lạ đối với những người xem ra có vẻ đạo đức ấy!

Hơn nữa, điều đáng buồn nhất, đó là nhiều khi chúng ta lại đi lại chính vết xe của những nhà lãnh dạo tôn giáo khi xưa, đó là: nhân danh lề luật, tôn giáo và nhân danh Thiên Chúa để làm bình phong, nhằm ngụy trang cho những thói lưu manh, gian dối bẩn thỉu của mình!!!

Tắt một lời, tin Chúa như vậy là hình thức, là vỏ bọc, là đầu môi chóp lưỡi, còn thực chất bên trong là rỗng tuếch! Tin Chúa như vậy được ví như tin có mùa vụ. Tin lúc thuận tiện. Tin khi có lợi mà thôi….

3. Sứ điệp Lời Chúa

Bài học cho chúng ta hôm nay chính là: ngoài việc tôn kính nhà thờ, nhà nguyện là nơi dành riêng để thờ phượng Thiên Chúa, chúng ta còn có một đền thờ khác, đó là đền thờ thân xác của mỗi người. Thánh Phaolô nói: “Thân xác anh em là đền thờ Thiên Chúa” (1 Cor 3, 16).

Vì vậy, mỗi người chúng ta phải có bổn phận xây dựng cho mình một ngôi đền thờ xứng đáng để cho Thiên Chúa ngự. Ngôi đền thờ này phải được xây dựng bằng nền móng vững chắc là đức tin và lòng mến thật tâm. Cần phải được trang trí bằng những việc đạo đức, bác ái, khoan dung, quảng đại, thông cảm và tha thứ. 

Mặt khác, chúng ta đang sống trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy canh tân để đổi mới. Canh tân lối sống cũ không phù hợp với giá trị Tin Mừng. Đổi mới từ con người tội lỗi, hình thức, hào nhoáng bên ngoài thành con người có chiều sâu nội tâm bên trong qua việc ăn năm sám hối thật lòng….

Ước gì sứ điệp Lời Chúa hôm nay được chúng ta mở rộng tâm hồn để đón nhận và sống sao cho thật đẹp lòng Chúa, ngõ hầu xứng đáng là đền thờ cho Thiên Chúa Ba Ngôi ngự. Amen. 

Về mục lục

.

XÂY DỰNG ĐỀN THỜ TÂM HỒN

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Phụng vụ Lời Chúa qua hai Chúa Nhật Mùa Chay cho thấy Đức Giêsu vừa là con người phải chịu cám dỗ trong sa mạc, vừa là Con Thiên Chúa nơi biến cố Hiển Dung trên núi Tabor.

Phụng vụ Lời Chúa tuần 3 Mùa Chay trình bày Đức Giêsu là Đền Thờ của Thiên Chúa qua sự kiện thanh tẩy đền thờ Giêrusalem.

  1. Chúa Giêsu thánh tẩy đền thờ

Đối với Do thái giáo, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ tiến về Đất Hứa. Lễ Vượt qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là tháng 4 dương lịch.

Mọi người trong đất nước Palestin đều về Giêrusalem dự lễ.Cả những người tản mác khắp thế giới không bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng nhất này. Dầu sống ở xứ nào, người Do thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời.Trong dịp này Chúa Giêsu cùng đi dự lễ Vượt qua với các môn đệ.

Thuế Đền Thờ là một sắc thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng.Tiền thuế là ½ siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật.

Trong việc giao dịch thương mại, mọi loại tiền đều có giá trị tại Palestin. Nhưng tiền thuế Đền thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ. Khách hành hương đến Đền Thờ phải đổi tiền siếc-lơ. Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều người làm nghề đổi tiền.Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1đồng. Cứ 4 đồng siếc-lơ thì người đổi được lợi một ngày công. Do đó số tiền thuế Đền thờ và lợi tức đổi tiền thật là lớn.

Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với giá cắt cổ.Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh Tôn giáo để trục lợi.

Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ. Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết. Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật. Mỗi lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền thờ. Khốn nổi, mỗi con vật mua trong đền thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bốc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.

Chính vì những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.

Trong Phúc âm hiếm khi ta thấy Chúa Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa; lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm. Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta học lấy nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhường. Vậy mà ở đây, Chúa đã nỗi giận đùng đùng, lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả.

Khung cảnh đền thờ phải là nơi yên tĩnh, thánh thiêng. Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất. “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây,đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). “Nhà của Ta là nhà cầu nguyện,còn các ngươi làm thành hang trộm cướp” ( Mt 21,12-13).Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở ấy.”Nơi buôn bán”, “Hang trộm cướp”, Đền thờ nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng. Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do thái xưa đã nên ứng nghiệm ( x. Gr 7,11).

Thế là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến Đền thờ: “Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 69,10). Lòng nhiệt thành với Đền thờ sẽ dẫn Chúa Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x. Ga 15,5).

  1. Tại sao Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ?

– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm.

Trong sân đền thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính.Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc bất xứng. Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ. Trong sân Đền thờ người ta cãi vả về giá cả, tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là Đền thờ.

– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng nữa.

Các ngôn sứ đã loan báo: “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu,mỡ bê mập, Ta chán ngấy.Máu chiên dê Ta chẳng thèm.” (Is 1,11). “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận” ( Tv 50,16). Thái độ thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính.Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành.

– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện”

Đền thờ là nơi Thánh, là chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho họ sự sống và các ân huệ của Người.   

Các chức sắc Đền thờ, các con buôn người Do thái đã biến Đền thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khách hành hương không thể cầu nguyện được.

  1. Xây dựng đền thờ tâm hồn

Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem. Chúa muốn chúng ta thanh tẩy Đền thờ tâm hồn của mình.

Đền thờ tâm hồn không xây dựng bằng vật liệu cao cấp của các thứ kim loại, bằng những loại gỗ quý giá. Đền thờ tâm hồn được xây bằng các bí tích, các việc lành thánh thiện, những hy sinh, lòng yêu mến Thiên Chúa.

Trong Đức Kitô, chúng ta đã trở nên đền thờ sống động và đã được cung hiến ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô minh định: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy”. Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi tín hữu qua Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Latêranô đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan. Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm. Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ,nhưng Người lại nói rằng: sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Khi người Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy ? Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi,trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại. Chúa ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người. Đền thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy. Thân thể phục sinh của Chúa là đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh thần và trong chân lý. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền.

Đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa. Quả thế, Thánh Linh đã phục sinh thân thể Đức Giêsu. Chúa Cha đã đặt Người làm Trung gian duy nhất để chuyển cầu cho nhân loại (x. 2 Tm 2:5; Dt 9:15; 12:24). Tất cả mọi giá trị và ý nghĩa của mọi nhà thờ trên thế giới này đều phải bắt nguồn từ đền thờ này. Thật vậy, “không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.” (1Cr 3,11). Máu và nước từ cạnh sườn Đức Giêsu tuôn chảy như giòng sông. “Sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” (Ed 47,9). Người được phúc đón nhận sự sống đó là Kitô hữu. Vì họ là “thân thể Đức Kitô.” (2 Cr 12, 27). Bởi đó, họ cũng là “Đền Thờ của Thiên Chúa.” (1 Cr 3,16).

Lạy Chúa Giêsu Kitô,

Chúa đã đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ vì họ đã đem đền thờ biến thành nơi buôn bán, đổi chác;

Xin Chúa xua đuổi nhưng thói hư tật xấu ra khỏi tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng là đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị. Amen.

Về mục lục

.

LUẬT VĨNH HẰNG

Trầm Thiên Thu

Văn hào Victor Marie Hugo (1802-1885, Pháp) phân biệt: “Đối với nhân dân, quyền lực duy nhất là pháp luật; đối với cá nhân, quyền lực duy nhất là lương tâm”. Còn văn thi sĩ Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832, Đức) nói: “Có hai sức mạnh mang đến sự yên ổn: pháp luật và đạo đức”. Những ý tưởng thật hay! Kinh Thánh xác định: “Chính nhân cầm quyền, dân mừng rỡ. Ác nhân cai trị, dân oán than” (Cn 29:2). Và chắc chắn chỉ có luật Chúa là tuyệt đối, được đề cập trong Tv 119 (rất dài, với 176 câu). Thật vậy, “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8).

Trong xã hội loài người, bất cứ một quốc gia nào, một tổ chức nào, một gia đình nào, một nhóm nào, dù chỉ là một “nhóm” vài người,… cũng đều phải có luật lệ, nội quy, quy tắc, hoặc nguyên tắc để bảo đảm trật tự – ở phạm vi lớn gọi là an ninh, ở phạm vi thế giới gọi là hòa bình. Vì con người làm hư trật tự Thiên Chúa đã thiết lập nên cần phải có luật để tái lập trật tự.

Bởi vì luật có sau con người nên luật được lập ra cốt để phục vụ con người, giúp xã hội tốt hơn, gọi là “luật vị nhân sinh” – luật vì con người, chứ con người không câu nệ hoặc quá lệ thuộc vào luật. Tuy nhiên, lề luật của Thiên Chúa là Thập Giới, tức là Mười Điều Răn. Luật Chúa là Thánh luật, là Thánh chỉ, là luật giao ước, là Ý Chúa. Luật của Thiên Chúa là luật vĩnh hằng và bất biến. Còn luật của con người có thể thay đổi cho phù hợp, ngay cả luật của Giáo hội cũng thay đổi – trước đây là SÁU Điều Răn, nhưng nay là NĂM Điều Răn.

Xin “mở ngoặc” nho nhỏ: Vào các ngày Chúa nhật (và Lễ Trọng), nhiều nơi vẫn đọc “Hội thánh có SÁU điều răn…” thay vì Năm Điều Răn (*). Như vậy là không kịp cập nhật thông tin cần thiết về giáo huấn của Giáo hội. Trách nhiệm của ai đây? Có những nơi đã sử dụng kinh Năm Điều Răn Hội Thánh, nhưng kinh Nghĩa Đức Tin (Ngày Chúa Nhật hôm nay chúng con họp nhau kính lạy thờ phượng Chúa…) vẫn thấy đọc “…song phải giữ Mười Điều Răn Đức Chúa Trời cùng SÁU Luật Điều Hội Thánh…” chứ không sửa là “năm”. Chuyện nhỏ mà… không nhỏ. Lệch pha!

BIẾT LUẬT

Cựu Ước có đề cập Thập Giới (Xh 20:3-17; Đnl 5:7-21). Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng con người, đồng thời trao quyền tự do cho con người, bởi vì chính Ngài đã “đưa dân Chúa ra khỏi đất Ai Cập, để thoát khỏi cảnh nô lệ” (Xh 20:2). Thoát khỏi nô lệ là được tự do. Tự do rất cần, mà Thiên Chúa đã cho con người tự do, nhưng đồng thời Ngài cũng có luật đòi hỏi con người phải thực hành: “Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ” (Xh 20:3-4).

Các Phúc Âm nhất lãm lặp lại Giới Răn thứ nhất: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22:37; Mc 12:30; Lc 10:27), hoặc như tiên tri Samuel xác định: “Hãy phụng thờ Đức Chúa hết lòng” (1 S 12:20). Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất (Mt 22:39). Theo kinh Mười Điều Răn, chúng ta quen đọc là “thứ nhất, thờ phượng và kính mến Người trên hết mọi sự”.

Tiếp theo, Thiên Chúa nghiêm cấm: “Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi” (Xh 20:5a). Ngài không ngần ngại tự nhận Ngài là “một vị thần ghen tương” (Xh 20:5b), và Ngài nhấn mạnh: “Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông” (Xh 20:5c). Có phải vì Thiên Chúa đã “ấn định” như vậy nên ngày xưa người ta cũng “bắt chước” mà ra luật “tru di tam tộc” chăng?

Có lẽ chúng ta cảm thấy cách nói của Chúa có vẻ “gay gắt”, nhưng thật ra không phải như vậy. Ngài là Đấng giàu lòng thương xót thì chắc chắn không độc đoán, và vì yêu thương mà Ngài hứa chắc chắn: “Những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời” (Xh 20:6). Ôi, Ngài quả là rất tâm lý và công bằng, Ngài “bắt buộc” về lĩnh vực này thì Ngài lại “thưởng công” về lĩnh vực khác. Đó là công lý. Chính Thánh Vịnh gia đã xác định: “Chúa giữ gìn những ai thành tín, nhưng thẳng tay trừng trị người ăn ở kiêu căng” (Tv 31:24). Thiên Chúa còn giải thích rất rõ ràng: “Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng” (Xh 20:7). Và đó chính là Giới răn thứ hai: “Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ”.

Đối với các Giới răn từ thứ ba tới thứ mười, trình thuật Xh 20:9-17 “liệt kê” chi tiết: “Ngươi HÃY nhớ ngày Sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày Sa-bát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi KHÔNG được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày Sa-bát và coi đó là ngày thánh. Ngươi HÃY thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi. Ngươi KHÔNG được giết người. Ngươi KHÔNG được ngoại tình. Ngươi KHÔNG được trộm cắp. Ngươi KHÔNG được làm chứng gian hại người. Ngươi KHÔNG được ham muốn nhà người ta, ngươi KHÔNG được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta”. Trong tám Giới răn đó có hai cái HÃY và bảy cái KHÔNG. Rất rõ ràng, rất rạch ròi.

Là Kitô hữu, ai cũng biết luật của Thiên Chúa và luật của Giáo hội. Biết thì phải giữ. Không biết thì không có tội, biết mà không giữ thì có tội (x. Ga 9:40-41).

GIỮ LUẬT

Giữ luật không chỉ là duy trì và bảo vệ luật mà còn phải thi hành – nghiêm túc chứ không lơ là, gặp chăng hay chớ. Vô tri bất mộ – không biết nên không yêu thích. Ngược lại, càng hiểu biết thấu đáo điều gì thì người ta càng yêu quý. Hiểu biết sâu sắc về Luật Chúa, Thánh Vịnh gia đã vui mừng thốt lên: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh Ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Luật pháp khiến người ta “sáng mắt” để khả dĩ phân biệt đâu là đúng và đâu là sai. Còn Luật Chúa khiến “người dại hóa khôn”. Chính các “huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng” có thể “làm hoan hỷ cõi lòng” và “mệnh lệnh Chúa minh bạch” để làm cho “đôi mắt rạng ngời” (Tv 19:9).

Thánh Vịnh gia cũng chân nhận rằng “quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh” nên thực sự “quý báu hơn vàng ròng muôn lượng” và “ngọt ngào hơn mật ong nguyên chất” (Tv 19:10-11). Như vậy, luật làm cho người ta hạnh phúc hơn chứ không làm cho người ta bị gò bó, chịu lệ thuộc hoặc đau khổ. Luật phải hợp lòng dân, phải bắt nguồn từ yêu thương chứ không vì tư lợi, nếu không thì đó chỉ là ác luật để hành dân, là luật không hợp lý, và luật đó khiến người dân khổ sở. Tất nhiên luật đó trái với Ý Chúa. Và người ta thường nói: “Quan nhất thời, dân vạn đại”.

Trong cuộc sống đời thường, chúng ta thấy luôn có những điều trái ngược, như người ta thường nói rằng chín người mà có tới mười ý, và đôi khi có những tình huống rất khó xử. Không ai chịu nghe ai, nếu không có nghiêm luật thì xã hội sẽ rối loạn. Thánh  Phaolô nói: “Người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan” (1 Cr 1:22). Hai thái cực khác nhau. Còn những người tin yêu Chúa, như thánh Phaolô, thì “lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1 Cr 1:23). Người ta chỉ theo những người có uy tín – dù “uy tín” đó chỉ là vàng bạc, chức tước, địa vị, quyền hành,… chứ ai lại ủng hộ người “nghèo rớt mồng tơi”, không có cục đất chọi chim? Thậm chí người ta còn “chửi xéo” là kẻ “thừa nói thiếu ăn”! Những người “chịu” theo Chúa chắc chắn cũng bị người ta cho là “tâm thần”, là “ngu xuẩn”, là “dại dột”, hoặc chí ít cũng là “khờ khạo”. Tuy nhiên, “đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cr 1:24). Thật tuyệt vời!

Quả thật, Chúa Giêsu là “dị nhân” đúng nghĩa, bởi vì Ngài có những động thái “ngược đời”, hoàn toàn khác loài người. Trong xã hội cũng vậy (cả đạo lẫn đời), những người có tư tưởng “mới lạ” là những người “đi trước thời đại”, có khả năng “nhìn xa, hiểu rộng”, nhưng họ thường bị coi là cấp tiến, bị xa lánh, bị cô lập, bị ghét bỏ, thậm chí là bị hại. Thật phũ phàng! Thực tế cho thấy đã có những người chỉ được chấp nhận là vĩ nhân sau khi họ chết từ lâu rồi – đơn vị thời gian có thể tính bằng thế kỷ. Thật đáng buồn! Những người có tư tưởng mới mà “yếu bóng vía” sẽ ái ngại, và rồi có thể “bỏ của chạy lấy người”. Còn những người “dị ứng” với những tư tưởng mới thì chỉ là những người không theo kịp thời đại, thậm chí có thể là “tiểu nhân”, không muốn người khác hơn mình, hoặc cố chấp, không muốn thay đổi nếp nghĩ dù vẫn biết mình cổ hủ, lỗi thời. Ngày nay người ta gọi loại người đó là “đầu đất” hoặc “đầu tôm”. Tồi tệ thật!

Đối với “nhà thông thái” Saolê, sau lần ngã-ngựa-chí-tử, ngài chợt nhận ra cái “ngược-đời-xem-chừng-nghịch-lý” kia, và hóa thành Phaolô, và ông đã can đảm xác nhận: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:25). Thật vậy, có lần Thiên Chúa đã xác định: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55:8-9). Khoảng cách biệt quá lớn, và chẳng bao giờ phàm nhân có thể hiểu hết Thánh Ý của Ngài. Nhưng Ngài rất công minh chính trực, công bằng tuyệt đối, chắc chắn sẽ “bù lỗ” cho những người chịu thua thiệt ở đời này.

HƯỞNG LUẬT

Trình thuật theo Thánh sử Gioan cho biết rằng…

Gần dịp lễ Vượt Qua, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem, Ngài hết sức ngạc nhiên khi thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Ngài liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.

Bản tính thẳng thắn và nghiêm túc, Chúa Giêsu nói thẳng với những kẻ buôn bán: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2:16). Lúc đó, các môn đệ “giật mình” nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Ga 2:17; Tv 69:10). Thấy Chúa Giêsu “nổi nóng” và dám chê họ sai, người Do Thái ấm ức nên chất vấn Ngài: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (Ga 2:18). Nhưng Ngài vẫn thản nhiên: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2:19).

Ui da! Ngôi Đền Thờ Giêrusalem phải mất 46 năm mới xây xong, thế mà Chúa Giêsu nói có thể xây lại chỉ nội trong 3 ngày. Ai cũng lắc đầu và nói: “Bó tay luôn!”. Bó toàn thân luôn chứ bó tay là chuyện nhỏ. Đối với họ thì đúng là Chúa Giêsu sinh sống gần kho đạn, “nổ” hết mức, hoặc là “tâm thần” thật. Tuy nhiên, Ngài muốn nói về chính thân thể Ngài mà họ không thể nghĩ kịp tư tưởng của Ngài. Ngay cả các môn đệ, dù đã từng rong ruổi với Ngài khắp nơi, cùng chia ngọt sẻ bùi với Ngài, đúng ra là họ phải hiểu Ngài, thế mà các ông cũng đã “miệng chữ A, mắt chữ O” khi nghe Sư phụ mình nói như vậy. Và chúng ta cũng chẳng hơn gì!

Tất cả còn trong “bức màn bí ẩn”. Mãi đến khi Chúa Giêsu từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ mới “tá hỏa tam tinh” mà nhớ lại điều Ngài đã nói thì mới đủ tin vào Kinh Thánh và lời Ngài nói. Trong lúc Ngài ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều người tin Ngài vì đã chứng kiến các dấu lạ Ngài làm. Thế nhưng chính Đức Giêsu chưa đủ tin họ, vì Ngài biết rõ có gì trong lòng con người.

Chắc chắn chúng ta cũng chẳng hơn gì người Do Thái. Thật vậy, thấy cái gì lạ thì tin ngay, nhưng rồi “đâu lại vào đấy”, xin và được ơn thì tin lắm, xin không được thì “nhăn mặt” và muốn “đặt vấn đề” hoặc lung lay niềm tin. Thậm chí, đôi khi chúng ta cầu nguyện mà kỳ thực chúng ta đang “ngã giá”, “hối lộ” hoặc “mua chuộc” Chúa và các vị thánh mà chúng ta cho là “thiêng lắm”. Quả thật, đó là điều chúng ta phải suy tư nhiều, bởi vì ngày xưa chính Thiên Chúa cũng đã từng đặt vấn đề: “Cho đến bao giờ nữa quý vị từ chối, không tuân giữ các mệnh lệnh và luật lệ của Tôi?” (Xh 16:28). Coi bộ “căng” dữ nghen!

Lạy Thiên Chúa duy nhất mà con tôn thờ, con chẳng khác những kẻ bơ vơ, lạc hướng trong thế giới ngày nay, vì khó tìm được người thực sự đáng tin cậy, trong khi xung quanh con có nhiều loại thần ô uế, thần tài, thần nhục dục, thần danh vọng, thần địa vị, thần quyền lực,… nhất là thần hóa “cái tôi”. Đôi khi con còn mắc những chứng bệnh trầm kha trong cách nhìn, trong nếp nghĩ, và trong lối sống, thế nên con vẫn làm ngơ những người sống bên lề xã hội, mặc họ bị bóc lột, bị áp bức, bị khinh miệt, bị tước đoạt nhiều thứ… Con chân thành xin lỗi Chúa, cầu xin Ngài thương giúp con nhận diện chính mình để có thể nhìn rõ tha nhân mà chạnh lòng thương xót họ bằng chính trái tim của Đức Kitô, đồng thời cũng xin giúp con can đảm chấp nhận mọi thứ dù trong hoàn cảnh nào. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

————

(*) Hội Thánh có năm điều răn:

– Thứ nhất: Dự lễ và kiêng việc xác ngày Chúa Nhật cùng các ngày lễ buộc;

– Thứ hai: Xưng tội trong một năm ít là một lần;

– Thứ ba: Rước Mình Thánh Chúa trong mùa Phục Sinh;

– Thứ bốn: Giữ chay và kiêng thịt những ngày Hội Thánh buộc;

– Thứ năm: Góp công góp của xây dựng Hội Thánh, tùy theo khả năng của mình.

Về mục lục

.

THANH SẠCH TÂM HỒN

Lm. Jos. DĐH.

Có những người lầm đường vì vô ý trượt ngã, có những kẻ cố tình quên đi lời răn dạy của tiền nhân, chỉ vì thích mạo hiểm, muốn làm giầu tiền của vật chất, khi té ngã, khó có thế đứng dậy được. Có một số bậc làm cha mẹ, thấy con sai lầm, mà không dám sửa chữa, sợ con phật ý, dẫn đến nguy hiểm chết người. Chỉ vì cả nể, vì thành tích, để rồi có những sinh viên tốt nghiệp, ra trường, kiến thức rỗng, gây nhiều thiệt hại cho ra đình, xã hội. Khuynh hướng tự nhiên trong ứng xử là tốt khoe, xấu che, không ai dại dột tới độ “cầm pháo cho người ta đốt”, chẳng ai thích thú gì khi được người ta đặt cho danh hiệu “anh hùng rơm”. Tiếc xót mà xã hội hay nói tới đó là quyền lợi bị xâm phạm, cái mất lớn và đáng sợ hơn là mất uy tín, lương tâm bất ổn, Kitô giáo chúng ta xem điều đáng sợ nhất là tâm hồn dơ bẩn, cuộc sống không niềm tin.

Đền thờ, nhà thờ, là chốn linh thiêng, vậy mà người ta vô tâm đến buôn bán làm ô uế, làm ảnh hưởng xấu đến sự linh thánh của đền thờ. Đức Giêsu hôm xưa hết sức giận dữ, lấy dây thừng bện làm roi xua đuổi, Ngài đòi mọi người hãy trả lại đúng ý nghĩa ban đầu, đền thờ phải là nơi dành cho việc thờ phượng Thiên Chúa. Hành động gay gắt của Đức Giêsu cho thấy giữa “biết và sống” là một khoảng cách, giữa lợi lộc vật chất và đời sống tâm linh luôn là một cám dỗ to lớn đáng ngại. Xét theo lý lẽ ở đời, cha mẹ là người có quyền la mắng con cháu, cha mẹ phải có trách nhiệm nhắc nhớ con cháu về lời nói việc làm của chúng. Xét theo tình cảm tự nhiên: con khôn cũng là con mẹ, mẹ dại cũng là mẹ con. Dù ở mức độ lý hay tình, hẳn Đức Giêsu vẫn mơ ước con người hãy đặt tình yêu thương vào trong mọi tương quan với Chúa và tha nhân.

Người xưa có câu: sói vào nhà, không mất gà cũng mất vịt. Rõ ràng, một khi sự xấu xâm nhập vào gia đình, tâm hồn con người bị dơ bẩn, cho dù giầu sang phú quý, dù có xức dầu thơm hảo hạng, người ta sẽ không thể tránh khỏi bất hạnh, tâm trí, môi miệng làm sao lại không thốt lên lời hôi tanh ? Trong đời sống thiêng liêng, sự xấu hay tội lỗi, nếu cứ lì lợm ở mãi trong tâm hồn, không những đè bẹp ta chết, mất linh hồn, mà sẽ còn làm ảnh hưởng không ít đến con cháu, người thân. Có thể lúc ban đầu, những vị trông coi, quản lý đền thờ, họ nghĩ việc đổi tiền, bán của lễ cho khách hành hương là việc làm bác ái, không phải là không có lý. Rõ ràng về lâu về dài, “vật chất, lợi nhuận”, đã xâm nhập và làm xáo trộn khung cảnh linh thiêng của đền thờ, sự xấu lớn dần và biến nơi thờ phượng thành nơi buôn bán.

Trong mưu toan tính toán rất tự nhiên, bất cứ ở đâu dễ buôn bán làm giầu được, người ta gọi là cơ hội trời cho, do đó không thể chậm trễ, dù nơi đó là nhà thờ, hay đền thờ. Khi quyền lợi bị phá đổ, những người Do thái tỏ ra rất bực tức họ hỏi: “ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy ?”. Đức Giêsu đã trả lời thật chí lý: “các ngươi cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội rong ba ngày, Ta sẽ xây dựng lại”. Đúng, không có ai đủ can đảm đập phá đền thờ để xem Đức Giêsu sẽ thực hiện phép lạ thế nào, vì thế mà họ đã hiểu rất nên tôn trọng về đền thờ vật chất do cha ông họ xây dựng. Từ việc trả lại vẻ sạch đẹp linh thiêng cho đền thờ vật chất, mỗi người mới đủ khôn ngoan để bảo quản đền thờ, đủ uy tín chăm lo cho sự thanh sạch tâm hồn, vì đền thờ, vì tâm hồn đều là nơi Thiên Chúa ngự.

Lấy lại vẻ đẹp cho đền thờ Giê-ru-sa-lem, là trả lại bầu khí trang nghiêm thánh thiện cho việc thờ phượng Thiên Chúa, cũng còn nói lên ý nghĩa con cháu phải tôn trọng công sức của tiền nhân họ mất 46 năm vất vả xây dựng. Thanh sạch tâm hồn, là lấy lại được vẻ đẹp ban đầu Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài. Một khi con người đã làm đền thờ ô uế, con người đã làm cho tâm hồn dơ bẩn, rất cần phải có uy quyền và sự thẳng thắn: thương cho roi cho vọt. Đức Giêsu đã mạnh mẽ thanh tẩy đền thờ, Ngài còn có ý nói tới đền thờ tâm hồn chúng ta ; hãy kêu cầu, đặt tin tưởng vào tình yêu và quyền năng của Ngài. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn mong muốn chúng ta hãy xem lại bàn thờ gia đình, nhà thờ giáo xứ, đền thờ tâm hồn, dù hoàn cảnh, thời thế, có khác xưa, nhưng Thiên Chúa vẫn ưa thích hiện diện và ngự thật nơi tâm hồn thanh sạch mà thôi.

Người ta có kể câu truyện “dạy con” như sau: có một ông chồng phấn khởi mang về nhà một cuốn sách dầy cộm, ông ta nói với người vợ, “bà nó ơi”, tôi vừa kiếm được cuốn sách giáo dục con đây rồi, phen này thằng bé nhất định phải nên người hữu ích. Chị vợ, thôi đi ông ơi, cứ dạy con theo lối cũ đó là kinh nghiệm của tiền nhân: gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. “Gương bày lôi kéo” đã là cách giáo dục con cháu tuyệt vời rồi, từ xa xưa, Đức Giêsu đã có ý nhắc chúng ta phải thường xuyên lưu ý đến sự thanh sạch, đừng cậy dựa vào tài liệu sách vở, hãy cậy dựa vào tình yêu và ơn Chúa để tâm hồn luôn sạch đẹp. Suốt ba năm đi rao giảng, giáo huấn, chữa bệnh, trừ quỷ, làm nhiều phép lạ, và rồi Chúa Giêsu chỉ tập trung vào giới luật mến Chúa yêu người. Hiểu sai, hiểu nhầm, đều có nguy cơ sai đường lạc lối, thanh tẩy đền thờ vật chất là cần thiết, Chúa Giêsu còn muốn chúng ta hãy ý thức việc sám hối, kêu cầu sự hiện diện của tình yêu Chúa, hầu tâm trí môi miệng và cách cư xử của chúng ta mãi ngập tràn tình yêu thương. Amen.

Về mục lục

.

NHIỆT THÀNH VỚI NHÀ CHÚA

Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu

Tin mừng thánh Gioan hôm nay mời gọi chúng ta cùng hành hương tiến lên đền thờ dự lễ, như Đức Giê-su về Giêrusalem tham dự ngày lễ Vượt qua của Đạo Dothái.

Trong đoàn người hành hương Giê-ru-sa-lem, không ai nhận ra Đền thờ Giêrusalem đã bị tục hoá, không ai thấy cần phải thanh tẩy Đền thờ, không ai coi Đền thờ là nhà Cha mình, không ai còn nhiệt tâm với Nhà Chúa, ngoại trừ Đức Giê-su.

Vâng, tất cả đều mất ý thức về Đền thờ, chỉ còn mình Đức Giê-su. Đền thờ được xây dựng với mục đích thờ phượng và là nơi Thiên Chúa ngự trị. Thế mà con người ngang nhiên chuyển đổi mục đích, biến nơi thờ phượng thành chợ búa và tiền bạc thành đối tượng tìm kiếm của con người… Chuyển đổi mục đích của Đền thờ như thế, con người đã công khai xua đuổi Thiên Chúa ra khỏi Đền thờ và rước tiền bạc vào Đền thờ chiếm chỗ Thiên Chúa.

Vì nhiệt tâm với Nhà Chúa, Đức Giê-su đã nổi nóng, một cơn nóng của người con thấy Cha mình bị xúc phạm trầm trọng, cơn nóng của tình yêu khi chứng kiến những cảnh phản bội trắng trợn của con người, cơn nóng giận của vị Thiên Chúa làm người khi tận mắt chứng kiến con người thản nhiên biến nơi thờ phượng thành chợ búa, kiếm tiền… “Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò ra khỏi Đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”.

Hành động mạnh tay của Đức Giê-su làm cho người Do-thái phải chú ý. Họ vặn hỏi Người: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” Đức Giê-su trả lời: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi! Nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”.

Phải mất 46 năm mới xây xong Đền thờ Giê-ru-salem. Thế mà Đức Giê-su tuyên bố “phá Đền thờ, rồi tự mình xây lại trong ba ngày”, nghĩa là làm sao?  Đức Giê-su muốn nói rằng ngoài đền thờ vật chất là Giê-ru-sa-lem, còn có một Đền thờ thiêng liêng và sống động khác. Đó chính là Thân thể Người.

Giống như người Do-thái, hành động của Đức Giê-su trong Tin mừng cũng gây chú ý cho người Ki-tô hữu chúng ta ngày nay. Nhưng khác với người Do-thái, chúng ta không phẫn nộ và cũng không vặn hỏi Đức Giê-su, mà chúng ta tự hỏi mình và tự hỏi nhau rằng:

Trong cộng đoàn phụng vụ hôm nay, có bao nhiêu người ý thức được như Chúa Giêsu coi Đền thờ là nhà của Cha mình cần phải gìn giữ?

Có bao nhiêu người ngày hôm nay hiểu được lời Đức Giê-su đã nói trong Tin mừng, để luôn ý thức rằng ngoài đền thờ vật chất ra còn có một ngôi đền thờ thiêng liêng sống động. Đó chính là Hội Thánh, Thân Mình màu nhiệm  Đức Ki-tô, mà Người là Đầu, còn chúng ta là chi thể?

Có bao nhiêu người ngày hôm nay còn nhiệt thành với Nhà Chúa, với việc Đạo, mà không thờ ơ trễ nải, để gìn giữ và xây dựng những ngôi Đền thờ dâng kính Chúa, nhất là những ngôi Đền thờ thiêng liêng bằng việc thực thi “Mười Điều Răn Chúa” trong cuộc đời?

Có bao nhiêu người ngày hôm nay thấy Đền thờ vật chất cũng như thiêng liêng đã bị tục hóa và băng hoại, cần phải nhanh chóng và mạnh tay thanh tẩy, để trả lại sự trang nghiêm cho Đền thờ, xứng đáng là nơi Thiên Chúa ngự trị?

Câu trả lời xin nhường lại cho mỗi người chúng ta khi để lương tâm mình đối diện với Chúa.

Về mục lục

.

TÔI LÀ ĐỀN THỜ

Lm Trịnh Ngọc Danh

Tại một hội đường Do thái nọ, người ta không chuyền tay nhau chiếc giỏ quyên tiền như vẫn thường thấy ở các nhà thờ Kitô giáo. Cách quyên tiền của họ là bán vé vào cửa trong những dịp lễ lớn; vì vào những ngày ấy, rất đông tín đồ đến hội đường, và đó cũng là những dịp cho người ta tỏ ra hào phóng.

Đúng vào một dịp lễ lớn, một cậu bé chạy đến hội đường để tìm cha cậu; nhưng người gác cửa không cho vào, vì cậu bé không có vé. Cậu bé phân bua với người gác cửa: “ Thưa bác, cháu có một chuyện rất quan trọng.” Nhưng người gác cửa từ chối: “ Những người không mua vé như chú mày thì luôn luôn phịa ra những lý do quan trọng để vào hội đường.” Cậu bé cố năn nỉ: “ Xin bác làm ơn cho cháu vào. Cháu có chuyện khẩn cấp lắm, bác ạ. Cháu chỉ vào một phút rồi ra ngay thôi.” Người gác cửa có vẻ động lòng. Ông nói với cậu bé: “ Được, nếu vậy thì vào đi. Nhưng nếu tao thấy chú mày cầu nguyện trong đó thì đứng có trách!”

Việc cầu nguyện trở thành một phương tiện để người ta trục lợi! Tôn giáo trở thành một tổ chức độc quyền. Lại cũng có trường hợp người ta biến đền thờ, nơi cầu nguyện thành những nơi buôn thần bán thánh. Quyên góp tiền để trang trải các chi phí sinh hoạt là chuyện hợp lý, nhưng người ta thường biến thánh đường thành những địa điểm để quyên góp dưới nhiều hình thức nhân các dịp lễ lớn từ thức ăn cho đến những sinh hoạt vui chơi ca hát.

“Gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem. Người thấy trong Đền Thờ, có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.” ( Ga 2:13-15) Đây là lần duy nhất Đức Giêsu nổi giận: “ Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” Lý do Đức Giêsu nổi giận và có hành động quyết liệt, vì người ta đã biến Đền Thờ là nơi tôn kính, gặp gỡ Thiên Chúa, là nơi cầu nguyện thành một thứ chợ búa. Ngài thanh tẩy Đền Thờ.

Hành động thanh tẩy đền thờ của Đức Giêsu là một sự chống lại việc thương mại hóa tôn giáo và việc trần tục hóa khung cảnh thiêng liêng của đền thờ. Nhưng qua đó, Đức Giêsu còn muốn phê phán hệ thống thờ phượng của người Do Thái. Đối với Ngài, các lễ nghi và hiến tế súc vật trong đền thờ không còn phù hợp nữa. Ngài muốn thay thế lối thờ phượng với hiến tế lễ vật bằng lối thờ phượng trong tinh thần. Ngài cũng phản đối đường lối tôn giáo chật hẹp theo chủ nghĩa dân tộc cục bộ, độc quyền bằng đường lối mở rộng cho hết mọi dân tộc. Đền thờ không phải là nơi để bảo vệ ích kỷ hẹp hòi cho một dân tộc nào mà là một nơi thờ phượng và cầu nguyện cho mọi quốc gia, mọi dân tộc.

Từ việc thanh tẩy Đền Thờ về vật chất, Đức Giêsu hướng chúng ta đến việc thanh tẩy đền thờ tâm hồn của mỗi người. Khi thấy Đức Giêsu có hành động quyết liệt về việc biến đền thờ thành sao huyệt của bọn cướp, thành nơi buôn bán, những người Do thái đã hỏi Ngài: “ Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” Đức Giêsu đã trả lời: “ Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại.” Ngôi Đền Thờ mà Ngài hứa sẽ xây dựng lại trong ba ngày, đó chính là cái chết và sự phục sinh của Ngài. Đây cũng là lời ám chỉ đền thờ linh hồn nơi thân xác của chúng ta như thánh Phaolô đã viết cho tín hữu Côrintô: “ Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là một phần thân thể của Đức Kitô sao?” ( 1 Cr 6:15a) Ai phá hủy đền thờ của Thiên chúa nơi chính mình và nơi người khác thì hãy thức tỉnh với lời của thánh Phaolô: “ Ai phá hủy Đền thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. Vì Đền thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em.” ( 1 cr 3:17)

Tôi là đền thờ, nhưng phải là đền thờ như thế nào để Thiên Chúa không hủy diệt?

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU THANH TẨY ĐỀN THỜ

Lm Giuse Nguyễn Văn Tuyên

 Trong sách Tin Mừng, hiếm khi chúng ta thấy Đức Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa. Ngài lặng lẽ trước những    lời cáo gian buộc tội của phường gian ác. Chính Ngài đã mời gọi chúng ta hãy học nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhượng.

Tại sao lại phải thanh tẩy đền thờ ?

Vậy mà hôm nay, trong bài Tin Mừng, chúng ta lại thấy Đức Giêsu dùng roi để đuổi những người buôn bán bồ câu, chiên bò, Ngài còn lật nhào bàn ghế của những người đổi bạc! Vậy đâu là lý do khiến Chúa Giêsu phải nổi giận như vậy?

Thực ra, lúc ban đầu, những người quản lý đền thờ có thể đã tổ chức bán chiên bò, chim bồ câu, hay đổi tiền đổi bạc với tinh thần phục vụ, với ý hướng ngay lành là để giúp cho người lên đền thờ có sẵn lễ vật, khỏi phải mang theo từ xa. Cũng là một thứ dịch vụ. Thế nhưng có lẽ tất cả là do ma lực của đồng tiền. Tiền bạc là một cái dốc êm ả và người ta cũng có thể bị tuột trên cái dốc này một cách nhẹ nhàng mà không hay biết.

Có biết bao nhiêu việc khởi đầu là phục vụ, là cứu trợ, là bác ái, là từ thiện, là tôn vinh Chúa và mưu ích cho các linh hồn, cho xã hội. Nhưng rồi theo hơi men của đồng tiền đã biến thành chuyện kinh tài thuần tuý, chạy theo lợi nhuận, mưu cầu địa vị, thanh danh hay để phục vụ cho quyền lực riêng cho mình. Chính vì vậy mà lợi nhuận sẽ kéo theo gian dối, chèn ép, bất hoà và bất công.

Và như chúng ta đã thấy, đền thờ, mặc dù vẫn được coi là nơi thiêng liêng, nơi để con người hướng tâm hồn lên trên những cái trần tục, chóng qua, nơi giúp con người tìm gặp được sự thánh thiêng, cũng có thể biến thành chợ búa, thành hang trộm cướp, nơi người ta cãi cọ nhau, giành giật nhau.

Trước cảnh tượng như vậy, cùng với lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa, Ngài đã lấy dây thừng làm roi để xua đuổi phường buôn bán và quân đổi tiền ra khỏi đền thờ. Ngài đổ tung tiền của họ xuống đất và xô nhào bàn ghế của họ.

Khi thanh tẩy đền thờ Giêrusalem, Chúa cũng muốn thanh tẩy ngôi đền thờ tâm hồn mỗi người chúng ta.

Với chúng ta, kể từ khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, tâm hồn chúng ta đã trở nên như một đền thờ, một gian cung thánh sống động, một nơi cho Thiên Chúa ngự trị. Thế nhưng, cùng với thời gian, lòng đam mê tiền bạc, của cải vật chất đã xô đẩy chúng ta vấp phạm hết tội này đến tội khác. Bởi vì như người ta thường nói: “Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt, nhưng nó lại là một ông chủ hà khắc”. Thế nên, dần dà, theo dòng thời gian, tiền bạc bóp nghẹt những tình cảm cao đẹp nhất của chúng ta.

Quả vậy, vì đam mê chạy theo tiền bạc mà chúng ta sao lãng những bổn phận đối với Chúa. Vì đam mê chạy theo tiền bạc, chúng ta sẵn sàng gian tham, chèn ép và đối xử bất công với những người chung quanh. Vì đam mê chạy theo tiền bạc, chúng ta sẵn sàng trộm cắp, ăn gian nói dối, ăn hối lộ… Tất cả những tội lỗi phát sinh từ lòng đam mê chạy theo tiền bạc ấy, đã biến tâm hồn chúng ta trở nên như một cái chợ, một hang ổ trộm cướp, chứ không còn phải là một gian cung thánh, một ngôi đền thờ sống động cho Chúa nữa.

Vậy hôm nay, Khi thanh tẩy đền thờ Giêrusalem, Chúa cũng muốn thanh tẩy ngôi đền thờ tâm hồn mỗi người chúng ta.

Chúng ta phải làm gì để giữ cho đền thờ là tâm hồn luôn trong trắng, xứng đáng là nơi Thiên Chúa ngự trị?

Thánh Phaolô đã từng quả quyết: “Anh em không biết rằng thân xác anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần sao?” (1Cr 6,19). Thật buồn khi biết rằng có những người trước đây vốn là người đạo đức mà nay đã trở nên xấu xa. Có những người con ngoan hiền mà nay trở nên hư hỏng. Có những đền thờ thánh thiêng đã trở nên phàm tục. Bởi vì những đam mê vô độ của thân xác đã trục xuất Thánh Thần ra khỏi lòng mình.

“Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây!” Chúa Giêsu hôm nay cũng giận dữ như thế khi thấy con người của chúng ta bị vấy bẩn, đền thờ của Ba Ngôi bị nhơ nhớp.

Để thanh tẩy đền thờ tâm hồn, chúng ta cũng hãy biết đem ra khỏi thân xác tất cả những gì là bất xứng, những gì là không phù hợp với Thánh Thần, như: Tính ghen tương, đố kỵ; tính nóng nảy giận hờn; tính tham lam vô độ… Tất cả những thứ đó đã và đang làm vẩn đục tâm hồn chúng ta, làm cản trở ân sủng thiêng liêng của Thiên Chúa và chiếm chỗ của Thánh Thần trong tâm hồn ta.

Khi dạy chúng ta phải thanh tẩy đền thờ tâm hồn mình, Thiên Chúa cũng mời gọi chúng ta cũng hãy biết tôn trọng người khác, tức là những ngôi đền thờ xung quanh chúng ta.

Chúng ta đang sống trong một xã hội ngày càng trở nên văn minh hiện đại, đáng lý ra, phẩm giá của con người càng phải được coi trọng hơn mới đúng. Thế nhưng, dường như là ngược lại. Nhân phẩm của con người đang ngày càng bị coi rẻ, đặc biệt là ở những nước kém phát triển. Bằng chứng là người ta sẵn sàng đâm chém nhau chỉ vì những chuyện cỏn con; người ta sẵn sàng lợi dụng chức quyền, để ức hiếp dân lành (như vụ ở Tiên Lãng – Hải Phòng vừa qua chẳng hạn).

Khủng khiếp hơn nữa, nhiều chính phủ còn sẵn sàng cho phép hay ủng hộ cho việc phá thai. Ở các nước phát triển, người ta tự hào vì là quốc gia dẫn đầu vì có những phát kiến mới về khoa học; tự hào vì là nước đã đạt được những thành tựu vượt bậc về kinh tế; còn Việt Nam chúng ta, không biết chúng ta sẽ nghĩ gì khi biết rằng, chúng ta là quốc gia có tỉ lệ phá thai nhất nhì trên thế giới, trong đó người Công Giáo chúng ta không phải là không góp phần vào đó !!!

Nếu ai cũng biết nhìn người anh em như những ngôi đền thờ sống động của Thiên Chúa, thì chắc chắn chúng ta sẽ biết tôn trọng nhân vị và phẩm giá của họ hơn.

Trước những biến cố lớn hay vào những dịp lễ, chúng ta thường có thói quen dọn dẹp nhà cửa, trang hoàng bài trí căn phòng chúng ta ở cho khang trang, sạch đẹp. Cũng vậy, để đón mừng màu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, một biến cố vô cùng trọng đại, chúng ta không thể nào không dọn dẹp ngôi nhà tâm hồn mình cho xứng hợp. Vậy Mùa Chay chính là cơ hội thuận tiện để giúp chúng ta sửa chữa, tân trang ngôi nhà tâm hồn mình.

Ước mong rằng, hôm nay đây, khi Chúa trở lại viếng thăm chúng ta, thay vì giận dữ, Ngài sẽ vui mừng ngự vào ngôi nhà tâm hồn mỗi người chúng ta, bởi vì mọi thứ đều đã được chuẩn bị sẵn sàng. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Chúa Nhật III Mùa Chay Năm B này có thể được gọi là “Chúa Nhật về sự thánh thiện của Thiên Chúa”.

Xh 20: 1-17

Bài Đọc I trích từ sách Xuất Hành trình bày Thập Giới trong đó việc thờ phượng Thiên Chúa chân thật và tôn kính Danh Thánh của Ngài được định vị ngay ở hàng đầu tiên.

1Cr 1: 22-25

Bài Đọc II, trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô, dành một chỗ đặc biệt cho biến cố Tử Nạn: Đấng Mê-si-a bị đóng đinh là hình ảnh kỳ chướng đối với người Do thái và điên rồ đối với dân ngoại, nhưng đó lại là sự khôn ngoan khôn dò của Thiên Chúa.

Ga 2: 13-25

Tin Mừng Gioan tường thuật hoạt cảnh Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, vì họ làm ô uế nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài.

BÀI ĐỌC I (Xh 20: 1-17)

Sách Xuất hành là cuốn sách thứ hai trong Ngũ Thư. Sách tường thuật cuộc ra khỏi Ai-cập và giai đoạn đầu tiên của cuộc hành trình trong hoang địa. Biến cố này được định vị có lẽ vào thế kỷ thứ mười ba trước Công Nguyên (giữa 1250 và 1230).

Qua trung gian của ông Mô-sê, Thiên Chúa không chỉ giải thoát dân Ít-ra-en khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, nhưng Ngài còn quy tụ dân và ban cho họ Lề Luật. Thập Giới chỉ là một phần rất nhỏ của Luật Mô-sê, nhưng phải nói là căn bản của Luật Mô-sê. Trong các bộ luật được gặp thấy trong Ngũ Thư chỉ có Thập Giới được đặt vào bối cảnh của cuộc Thần Hiển, ở đó Thiên Chúa trực tiếp phán với dân Ngài (Xh 20: 18-19); còn các bộ luật khác Thiên Chúa ban gián tiếp cho dân Ngài qua trung gian của ông Mô-sê.

Trong Ngũ Thư, có hai bản văn Thập Giới: bản văn của sách Xuất Hành (Xh 20: 1-17) và bản văn của sách Đệ Nhị Luật (Đnl 5: 6-21) với vài tiểu dị. Hai bản văn nêu lên hai lý do khác nhau về việc tuân giữ ngày sa-bát. Trong Thập Giới của sách Xuất Hành, lệnh truyền tuân giữ ngày sa-bát quy chiếu đến cuộc Sáng Tạo (Xh 20: 11) để nêu bật tính chất tôn giáo của ngày sa-bát; còn trong Thập Giới của sách Đệ Nhị Luật, lệnh truyền tuân giữ ngày sa-bát quy chiếu đến cuộc giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập (Đnl 5: 15) để nhấn mạnh tính chất xã hội của ngày sa-bát. Cả hai bản văn này đều cho thấy chúng không là bản văn nguyên thủy nhưng được khai triển rồi. Vài chi tiết cho thấy chúng được gởi đến dân chúng không còn hành trình trong hoang địa nhưng đã định cư rồi.

  1. Tính chất cổ xưa của Thập Giới

Có nhiều dấu chỉ cho thấy tính chất cổ xưa của Thập Giới. Việc luật được ghi khắc trên hai bia đá là nét đặc trưng cho thấy tính chất cổ xưa của nó. Mặt khác, cách thức luật được trình bày nhắc nhớ vài hiệp ước được soạn thảo ở miền Cận Đông vào giữa những thế kỷ thứ mười lăm và mười ba trước Công Nguyên, nhất là những hiệp ước được ký kết giữa các vua Hít-ti và các vua Át-sua hay giữa vua Hít-ti và Pha-ra-ô Ai-cập. Vị bá vương đề xuất hiệp ước của mình với các chư hầu khi nhắc lại cho họ trước tiên những ân phúc mà vua đã ban cho họ. Cũng vậy, Đức Chúa nhắc lại cho dân Do thái rằng Ngài đã can thiệp để giải phóng họ khỏi miền đất nô lệ. Giờ đây, Ngài ngỏ lời với họ như với những con người tự do, những con người được luật pháp bảo vệ hẳn hoi; nhưng bù lại, Ngài đưa ra những yêu sách của mình.

Thập Giới được Thiên Chúa ban trong khung cảnh cuộc Thần Hiển trên núi thánh Xi-nai. Ở viện bảo tàng Louvre, có một tấm bia đá trên đó ghi khắc Bộ Luật Ba-by-lon của vua Hammourabi, vào thế kỷ thứ mười tám trước Công Nguyên. Ở đỉnh của tấm bia đá này như đỉnh của một ngọn núi, biểu thị thần Shamash và vua Hammourabi. Vua này nhận được tước hiệu: “Vua Công Chính mà thần Shamash đã ban luật cho vua”. Chúng ta cũng không thể không liên tưởng đến vua Hy-lạp là Minos. Vào cũng một thời kỳ này, vua leo lên ngọn núi thánh Crète để suy niệm và cầu nguyện suốt chín năm; sau đó vua ra sức làm cho sự công chính ngự trị trong vương quốc của mình. Thế giới của thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên có những truyền thống chung và sử dụng những hình ảnh tôn giáo tương tự nhau.

  1. Nội dung của Thập Giới

Thập Giới trình bày một tổng đề về những bổn phận tôn giáo và luân lý. Vả lại, con số “mười” đánh dấu sự viên mãn. Trong số mười giới luật, tám giới luật được phát biểu theo hình thức phủ định tức lệnh cấm: “Ngươi không được…”; còn hai giới luật được đặt vào giữa Thập Giới và được phát biểu theo hình thức khẳng định tức lệnh buộc: tuân giữ ngày sa-bát để kính Đức Chúa và giữ trọn đạo hiếu với cha mẹ (20: 8-12). Thập Giới được phân chia thành những giới luật để nhắc nhớ những bổn phận đối với Thiên Chúa và những bổn phận đối với tha nhân.

Hình thức phủ định nhắc nhớ hình thức mà chúng ta gặp thấy trong một cuốn sách của Ai-cập có nhan đề “Những người đã qua đời”, ở đó người qua đời tự bào chữa mình trước tòa án của thần Orisis, thần của những người chết:

      Tôi đã không ăn cắp…

      Tôi đã không giết người…

      Tôi đã không nói láo…

      Tôi đã không ngoại tình…

      Tôi đã không làm chứng gian…

      Tôi đã không khinh thường Thiên Chúa trong lòng…

      Luân lý của người Ai-cập gần với luân lý Kinh Thánh hơn luân lý của người Ca-na-an và của những dân tộc khác miền Cận Đông hay của dân Hy-lạp. Thập Giới được phân chia thành những giới luật, chúng nhắc nhớ những bổn phận đối với Thiên Chúa và những bổn phận đối với tha nhân.

2.1- Bổn phận đối với Thiên Chúa

Những bổn phận đối với Thiên Chúa cốt yếu là những lời cảnh báo mà Thiên Chúa nhắc nhở dân Do thái khi dân định cư ở giữa dân ngoại: không được tạc các tượng thần; không được thờ lạy các tượng thần đó, nhưng chỉ phụng thờ Thiên Chúa độc nhất. “Đức Chúa, Thiên Chúa ghen tuông” là cách diễn tả tính không nhân nhượng của Ngài. Đoạn văn này chứa đựng một ghi nhận hùng hồn bằng con số: những kẻ ghét Ngài, Ngài phạt con cháu đến “ba bốn đời”, nhưng những ai yêu mến Ngài, Ngài giữ trọn niềm nhân nghĩa đến “ngàn đời”. Lối nói song đối nghịch đảo nàydiễn tả lòng xót thương nhân hậu vô cùng tận của Thiên Chúa: Ngài trừng phạt có chừng có mực, nhưng Ngài yêu thương vô bờ bến. Đây là kinh nghiệm về mối quan hệ của dân Do thái với Thiên Chúa của mình trong lịch sử của dân tộc mình: Thiên Chúa nổi giận, giận trong giây lát, nhưng Ngài yêu thương, thương cho đến trọn một đời.

Tuy nhiên, trong Thập Giới chúng ta không gặp thấy lệnh buộc: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em”. Biểu thức này chịu ảnh hưởng của các ngôn sứ bút ký như ngôn sứ A-mốt và nhất là ngôn sứ Hô-sê.

Bổn phận của dân đối với Thiên Chúa liên quan đến định chế ngày sa-bát: “Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát…”. Lệnh buộc này nhấn mạnh nét đặc thù của dân Ít-ra-en: mọi ngày sống trong một tuần lễ phải hướng đến ngày sa-bát, ngày của Chúa, Đấng đem lại ý nghĩa cho cuộc sống.

2.2- Bổn phận đối với tha nhân

Với những bổn phận đối với tha nhân, Thập Giới trở về luân lý phổ quát, có giá trị thường hằng và khắp nơi. Điều cốt yếu ở nơi những bổn phận này là tôn trọng gia đình, con người và của cải. Tuy nhiên, những ý định ẩn kín ở trong lòng con người được gợi lên ở đây: “Ngươi không được ham muốn…”. Căn nguyên của mọi tội lỗi hệ tại ở trong lòng con người. Khẳng định nà ychuẩn bị giáo huấn của các ngôn sứ và của chính Đức Giê-su.

Cuối cùng, chúng ta ghi nhận rằng lệnh buộc “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” cũng không được gặp thấy ở Thập Giới. Huấn lệnh này được gặp thấy ở sách Lê-vi (19: 18).

  1. Nét độc đáo của Thập Giới

Tuy nhiên, Thập Giới bày tỏ nét độc đáo của riêng mình. Chắc chắn nó dựa trên luân lý tự nhiên, nhưng nguồn gốc của nó thì siêu việt: chính Thiên Chúa đích thân ban Thập Giới cho dân Ngài. Thập Giới chủ yếu lấy sự thánh thiện của Thiên Chúa làm khuôn vàng thước ngọc, vì thế Luân Lý của Thập Giới trổi vượt trên luân lý của dân ngoại chung quanh, nhất là ở nơi lời kêu gọi ăn ngay ở lành. Tính siêu việt này sẽ đảm bảo sự thăng tiến tinh thần của một dân tộc nhỏ bé có một vận mệnh đặc biệt.

Thập Giới được đặt ở dưới dấu chỉ lịch sử của cuộc giải phóng khỏi Ai-cập. Chúng ta hãy đọc lại lời mào đầu, ở đây Đức Chúa không phán như trước đây: “Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi: Thiên Chúa của Áp-ra-ham, của I-sa-ác và của Gia-cóp”, nhưng “Ta là Đức Chúa, Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ”. Đức Chúa tự giới thiệu mình như Đấng Giải Phóng. Chính ách nô lệ khác mà giờ đây Thiên Chúa muốn giải phóng dân Ngài, tức ách nô lệ của tội lỗi, nhằm làm cho họ thành một dân thánh.

BÀI ĐỌC II (1Cr 1: 22-25)

Đoạn văn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô được cấu trúc rất chặc chẽ. Một cách nào đó, đoạn trích này tự nó là trọn nghĩa; tuy nhiên, để hiểu chiều kích của đoạn trích này rõ hơn, chúng ta đặt nó vào trong bối cảnh của bức thư.

Xin được nhắc lại cách vắn tắt: các tín hữu Cô-rin-tô bất hòa với nhau về những nhà rao giảng của họ. Những bất hòa này đã dẫn đến những bè phái. Chống lại những chia rẽ này, thánh Phao-lô vạch cho họ thấy rằng óc bè phái không phù hợp với tinh thần Tin Mừng. Đối với những người thích“lý sự” tự cho mình là “khôn ngoan hiểu biết”, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng thánh nhân đã không rao giảng cho họ những lời lẽ khôn ngoan, nhưng sự điên rồ của thập giá. Thánh nhân đề cập đến việc người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ và người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan. Tuy là hai tinh thần rất khác nhau, nhưng hình ảnh thập giá trên đồi Can-vê không thể nào có chỗ đứng trong những viễn cảnh của họ. Trong hoạt động truyền giáo của mình, thánh nhân đã gặp phải cả hai chướng ngại này.

  1. Thập giá đối với người Do thái

Người Do thái mong chờ một Đấng Mê-si-a đầy quyền năng, Ngài sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ và đem lại sự toàn thắng cho dân tộc của mình. Vì thế, nhiều người Do thái đã không chịu nổi ý tưởng về Đấng Mê-si-a chịu khổ hình thập giá một cách nhục nhã đến như vậy. Vì thế, thánh nhân bị họ bách hại ở An-ti-ô-khi-a, ở Thê-xa-lô-ni-ca và ở những nơi khác.

  1. Thập giá đối với người Hy-lạp

Người Hy-lạp tìm kiếm sự khôn ngoan thì hình ảnh một con người bị đóng trên thập giá chẳng khôn ngoan một chút nào. Thánh nhân đã chạm trán với họ ở A-thê-na; ngài đã ra sức thuyết phục họ, nhưng vô ích. Họ chờ đợi một hệ thống triết lý cao vời trong khi thánh Phao-lô lại rao giảng “Một Con Người”. Đoạn trích thư nàytự nó cho thấy rằng việc rao giảng thập giá khó mà tránh khỏi sự thất bại. Đối với người Hy-lạp, phẩm tính đầu tiên của thần linh chính là vẻ đẹp; ấy vậy, Đấng chịu đóng đinh không ra hình tượng người không tương xứng với hình ảnh của vị thần linh.

  1. Rao giảng một Đức Ki tô chịu đóng đinh

Nhưng thập giá không là một bài thuyết giáo, cũng không là một sự chứng minh mà là một sự kiện, một sự kiện khác thường, ở nơi sự kiện đó ẩn dấu sự khôn ngoan khôn dò của Thiên Chúa, hoàn toàn khác với những viễn cảnh của con người.

Một trong những bài học vĩ đại của bức thư nàyđó là “rao giảng mầu nhiệm đau khổ như yếu tố cốt yếu của Tin Mừng”. Một cách khái quát, thần học của thánh Phao-lô không tách Tử Nạn ra khỏi Phục Sinh. Đây là một trường hợp ngoại lệ, thánh nhân có chủ ý chỉ giương cao “hình ảnh Đức Ki tô bị đóng đinh” đối diện với sự tự mãn của con người.

TIN MỪNG (Ga 2: 13-25)

Đoạn Tin Mừng hôm nay được trích từ Tin Mừng Gioan. Hoạt cảnh thật khác thường: cơn phẩn nộ của Đức Giê-su: “Ngài bèn lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ”. Đối với những kẻ bán bồ câu – của lễ của những người nghèo – Ngài không mở tung các lồng chim của họ, nhưng cho họ một lời giải thích: “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi chợ búa”. Vì thế, phải chăng Đức Giê-su đến để chấn chỉnh tôn giáo Ít-ra-en và thanh tẩy Đền Thờ mà chẳng bao lâu sau bị phá hủy? Không phải như thế, trái lại, Ngài loan báo rằng một thời đại mới đang khởi sự. Cách hành xử của Ngài cốt yếu mang tính ngôn sứ.

Để hiểu trọn vẹn ý nghĩa của hoạt cảnh quá đặc biệt này, phải định vị nó trước hết vào trong khung cảnh bên ngoài; đoạn vào trong khung cảnh tôn giáo: lễ Vượt Qua; và sau cùng, vào trong văn mạch của Tin Mừng thứ tư.

  1. Khung cảnh bên ngoài

Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được xây dựng trên một tiền sảnh bát ngát có những hàng hiên bao quanh. Khi băng qua hàng hiên, người ta ở trên tiền đình được gọi “Tiền Đình dân ngoại”, được gọi như thế vì lương dân nào muốn cầu nguyện với Thiên Chúa của dân Do thái đều được phép đi vào ở đây. Tiếp đó, là nơi thánh, chỉ dành riêng cho người Do thái, được phân chia thành nhiều khu vực khác nhau: khu vực nữ giới, khu vực nam giới, và sau cùng sân của các tư tế.

Chính ở nơi Tiền Đình dân ngoại này mà những kẻ bán súc vật được dùng làm hy lễ. Công việc buôn bán của họ rất thịnh đạt. Có nhiều lý do để nghĩ rằng các chức sắc tư tế đã kiếm nhiều lợi nhuận từ những thương vụ này.

Những người đổi bạc cũng ở nơi Tiền Đình nầy. Việc đổi bạc từ hiện kim sang “tiền đền thánh” là một nhu cầu cần thiết cho khách hành hương, vì người Do thái không được nộp thuế cho Đền Thờ bằng những đồng tiền “ô uế” được đúc hình của hoàng đế Rô-ma hay của vị thần linh ngoại giáo.

  1. Khung cảnh lễ Vượt Qua

Thánh ký nói với chúng ta “gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái”. Qua kiểu nói: “lễ Vượt Qua của người Do thái”, thánh ký hàm ý với độc giả rằng vào thời tác giả và từ nhiều năm rồi có một lễ Vượt Qua khác: “lễ Vượt Qua của người Ki-tô hữu”.

Niên biểu lễ Vượt Qua của người Do thái này được chính bản văn cung cấp: “Đền Thờ nàyphải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong”. Đền Thờ được vua Hê-rô-đê Cả khởi công tái thiết vào năm 19 trước Công Nguyên, vì thế, đây là lễ Vượt Qua vào năm 28 sau Công Nguyên.

Khung cảnh lễ Vượt Qua này đem lại ý nghĩa sâu xa cho hoạt cảnh. Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ, vì đây là nơi dành riêng để cầu nguyện. Nhưng Ngài cũng còn xua đuổi những súc vật dành riêng cho các hy lễ, vì chính Ngài sẽ là “con chiên sát tế”, con chiên Vượt Qua đích thật, hy lễ có giá trị duy nhất từ nay sẽ thay thế tất cả hy lễ vô giá trị khác (chúng ta quen lối đọc đa nghĩa này của Tin Mừng Gio-an). Thư gởi tín hữu Do thái cho chúng ta một bài suy niệm sâu xa về ý nghĩa này: “Khi vào trần gian, Đức Ki-tô đã nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến lễ, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xóa tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10: 5-6).

Đức Giê-su xua đuổi những người đổi bạc vì công việc làm ăn của họ bất lương không xứng hợp với khung cảnh thánh thiêng, nhưng cũng vì những tiền dâng cúng chẳng bao lâu nữa không còn lý do tồn tại nữa: sẽ không còn Đền Thờ, không còn tư tế…

Sau cùng, Đức Giê-su thanh tẩy Tiền Đình dân ngoại vì dân ngoại có quyền đòi hỏi phải tôn trọng những lời cầu nguyện của họ. Quả thật, sẽ đến một ngày không xa lắm, dân ngoại sẽ không còn phải bị loại ra ngoài, chính họ cũng sẽ là một phần không thể thiếu Dân Mới của Ngài và sẽ được mời gọi dự phần vào ơn cứu độ như dân Ít-ra-en.

  1. Văn mạch của Tin Mừng Gio-an

Tin Mừng Gioan đặt việc Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua vào lúc bắt đầu sứ vụ của Ngài, sau tiệc cưới Ca-na và sau vài ngày lưu lại ở Ca-phác-na-um. Ba Tin Mừng nhất lãm tường thuật việc Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem vào lúc Ngài sắp bước vào tuần Tử Nạn và xem biến cố này như đổ thêm dầu vào lửa khiến cho giáo quyền Do thái công phẩn đến cực độ. Đây là một trong những lý do họ ra lệnh truy nả Đức Giê-su.

Tin Mừng Gioan có một quan điểm thần học khác với các Tin Mừng nhất lãm. Thánh Gioan muốn dẫn chúng ta tiến bước vào trong mầu nhiệm của Đức Ki-tô (Đấng Mê-si-a). Đức Giê-su đã được Gioan Tẩy Giả giới thiệu là Đấng Mê-si-a. Ở Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su hành xử với tư cách “Con Thiên Chúa”. Ngài cho mọi người tiên cảm những mối liên hệ rất đặc biệt của Ngài với Thiên Chúa, Cha Ngài, qua việc Ngài ra tay hành động để buộc người ta phải tôn kính nơi thánh thiêng, nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài.

Ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su đã ban “rượu mới”, báo trước rượu sẽ trở thành máu Ngài (Ga 19: 31-37). Ở Giê-ru-sa-lem, Ngài loan báo “đền thờ mới” đền thờ này sẽ là thân thể Ngài. Như vậy, Ngài ám chỉ đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Các ông cứ phá hủy đền thánh nàyđi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (2: 19). Sau này, những kẻ xuyên tạc lời của Ngài khi tố cáo Ngài bằng cách thay chủ từ “các ông” trong câu nói của Ngài bằng chủ từ “tôi” trong câu lập lại của họ: “Tên này đã nói: tôi có thể phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa…” (Mt 26: 61). Điều mà thánh Gioan muốn chúng ta lưu ý ở đây chính là khi nói đến Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, thánh Gioan dùng từ “Đền Thờ” có nghĩa “không gian thánh” (2: 14, 15) nhưng khi nói về đền thờ sẽ là thân thể của Ngài, thánh ký sử dụng từ “Đền Thánh” là nơi cực thánh của Đền Thờ.

Mặt khác, toàn bộ Tin Mừng Gioan được trình bày như một phiên tòa ở đó những người xét xử Đức Giê-su mà thánh Gioan gọi là “người Do thái” với nét nghĩa tiêu cực (cốt yếu là các chức sắc tư tế và các kinh sư). Hoạt cảnh Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ cấu thành điểm nhấn của phiên tòa nầy. Ai đọc hoạt cảnh này chắc chắn nghĩ đến lời công bố của các ngôn sứ: “Việc Thanh tẩy Đền Thờ sẽ đánh dấu việc khai mạc thời đại Mê-si-a”.

Cuối cùng, thánh Gioan ghi nhận rằng có nhiều người đến với Ngài và tin vào Ngài vì họ đã chứng kiến các dấu lạ Ngài làm, nhưng Ngài không tin họ vì Ngài “biết có gì trong lòng con người”. Như vậy, Đức Giê-su tiên cảm họ sẽ quay lưng lại với Ngài trong tương lai.

Như vậy, trong Tin Mừng Gioan, hoạt cảnh này có giá trị mặc khải: bày tỏ con người Đức Giê-su với tư cách Con Thiên Chúa và loan báo những đảo lộn mà Ngài sẽ thực hiện cũng như sự vô tri mà Ngài sẽ là đối tượng. Khung cảnh của lễ Vượt Qua sắp đến phóng chiếu trên những dữ kiện này một sự soi sáng mang tính ngôn sứ.

Về mục lục

.

CƠN THỊNH NỘ BẤT THƯỜNG

JM. Lam Thy

Có thể nói chưa bao giờ thấy Đức Giê-su bộc lộ cơn giận như trong bài Tin Mừng hôm nay (CN III/MC-B – Ga 4, 14-16). Thánh sử Gio-an trình thuật: “Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” Nếu không được biết Đức Giê-su từ trước, mà chỉ nhìn hành động của Người xảy ra trước mắt, chắc chắn sẽ cho đó là một người cộc cằn thô lỗ, thiếu văn hóa. Nhưng nếu được diện kiến Người nhiều lần và chỉ cần nhìn theo con mắt trần gian cũng đã thấy được Đức Giê-su là một mẫu người rất hiền lành khiêm nhường và có một tấm lòng bao dung độ lượng không ai sánh kịp. Đến ngay như đám kinh sư luật sĩ Ít-ra-en vốn là những kẻ chỉ muốn tìm chứng cớ để hãm hại Người, vậy mà họ đã không tìm được khuyết điểm nào.

Còn nhìn theo lăng kính siêu nhiên thì vì Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nên bản tính của Người là nhân từ bác ái (“Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” – Mt 11, 29-30).  Với một châm ngôn “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9, 13), Người luôn dạy dỗ các môn đệ một tình yêu vô bờ bến (yêu đến độ sẵn sàng hy sinh cả mạng sống cho người mình yêu, yêu cả kẻ thù – Mt 5, 43), một tấm lòng khoan dung độ lượng bao la (“ai tát mình má trái, thì hãy đưa cả má phải cho họ tát tiếp” – Mt 5, 39; tha thứ cho anh em đã xúc phạm đến mình không chỉ 3 hay 7 lần, mà là bảy mươi lần bảy – Mt 18, 21…) và một đức tính khiêm nhường tuyệt đối (“Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường, hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” – 1Pr 5, 5; “Thầy là Thầy là Chúa mà còn quỳ xuống rửa chân cho anh em thì anh em hãy rửa chân cho nhau” – Ga 13, 14). Vậy mà lần này Người đã nổi cơn thịnh nộ dữ dội như vậy là vì sao?

Đền thờ là biểu tượng ngôi nhà của Thiên Chúa, cũng là nơi dân Chúa tập trung để bày tỏ lòng tôn kính phụng thờ Đấng Toàn Năng hằng hữu. Vì thế, Đền thờ Giê-ru-sa-lem vào những ngày Sa-bát, nhất là những ngày đại lễ như lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần, người Do Thái ở các nơi tề tựu hành lễ rất đông. Trong những dịp đó, dân chúng thường phải đổi tiền và mua các con vật như chiên, bò, bồ câu để dùng làm lễ vật dâng tiến theo nghi thức Do Thái giáo thời đó. Tuy nhiên, người ta đã lợi dụng dịp này, biến Đền Thờ thành chỗ buôn bán, đổi chác để kiếm lời, biến nơi linh thiêng thành chốn ô uế. Vấn đề đặt ra ở đây không phải là quy lỗi cho những người buôn bán, mà kẻ gây ra cảnh trái tai gai mắt như vậy thực chất là những người trông coi đền thờ (bọn luật sĩ, kinh sư Pha-ri-sêu). Họ đã làm ngơ để những bọn con buôn vào buôn bán, mà vì sao họ làm ngơ? Tất nhiên là vì lợi nhuận do đám người buôn bán đóng thuế hoặc ngầm ngấm đút lót hối lộ. Không đóng thuế hoặc hối lộ, chắc chắn không thể làm ăn gì được. Vì thế, nói đám người kinh sư luật sĩ làm ngơ còn là nhẹ, mà phải nói là họ đã cố tình để xảy ra tình trạng bát nháo trong đền thờ nhằm mục đích trục lợi cá nhân. Cơn thịnh nộ của Chúa là điều tất yếu vậy.

Hành động của Chúa Giê-su không chỉ đơn thuần là xua đuổi các con buôn, đụng chạm đến quyền lực và lợi nhuận của hàng tư tế, nhưng sâu xa hơn, đó là Người phủ nhận hoàn toàn cung cách thờ phượng đã biến chất (chẳng khác gì cảnh buôn thần bán thánh diễn ra nhan nhản ở thế kỷ XXI này). Ngoài ra, thông qua việc tẩy uế đền thờ được xây dựng bằng vật chất, Chúa Giê-su còn giới thiệu ngôi đền thờ đích thực là chính thân thể Người (“Người Do Thái hỏi Đức Giê-su: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” Đức Giê-su đáp: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại.” Người Do Thái nói: ”Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?” Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói.” – Ga 2, 18-22).

Ngoài ra, Người còn muốn nhắc đến ngôi Đền Thờ tâm linh, như Lời Người trao đổi với người phụ nữ Sa-ma-ri: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” Người phụ nữ thưa : “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” Đức Giê-su nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.” (Ga 4, 21-26).

Cũng đã có nhiều người cho rằng khi trả lời người phụ nữ Sa-ma-ri, Đức Giê-su đã phủ nhận những đền thờ xây dựng bằng vật chất, vậy tại sao Người lại nổi giận xua đuổi người buôn bán ra khỏi đền thờ Giê-ru-sa-lem và nói đó là “nhà Cha tôi”? Đức Giê-su không phủ nhận, vì – hơn ai hết – Người hiểu rất rõ Đền thờ xây dựng bằng vật chất là một biểu tượng không thể thiếu cho lòng tôn kính thờ phương của loài người đối với Đấng Tối Cao. Loài người với nhãn quan và tâm lực trần tục, thường thì phải có một điểm tựa, một điểm xuất phát hiện thực, để từ đó hướng tâm hồn lên cõi siêu linh. Nói cách khác, tâm lý chung của loài người chỉ thích được “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền) mới tin. Vì thế, Đức Ki-tô nổi cơn thịnh nộ là nhằm xác định tầm quan trọng của nơi thờ phượng Thiên Chúa (Đền thờ xây dựng bằng vật chất), nhiên hậu Người mới dẫn mọi người tới ngôi Đền thờ đích thực là nơi cung lòng mỗi người và cuối cùng là đích điểm: “Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người” (Ga 2, 21).

Rõ ràng là Đức Giê-su Ki-tô đã một lần nữa nhắc lại Lời dạy đừng chú trọng hình thức bên ngoài mà phải coi trọng cái cốt lõi, cái chân lý đích thực ẩn kín bên trong. Đừng khua chiêng gõ mõ khi làm việc thiện, đừng đứng ở ngã ba ngã tư lải nhải khi cầu nguyện; cũng vậy, việc thờ phượng Thiên Chúa không cứ ở núi này núi nọ, đền nọ miếu kia, mà phải là “thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật”. Và cũng chính điều đó khiến đám luật sĩ đặt câu hỏi: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” và được Đức Giê-su trả lời: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.” (Ga 4, 18-19).

Đền thờ Giê-ru-sa-lem là một công trình xây dựng ròng rã 46 năm mới xong, vậy mà phá bỏ đi, chỉ cần ba ngày là Đức Giê-su sẽ xây lại được! Ai nghe cũng thấy là chuyện không tưởng, nên chẳng lạ khi thấy đám “Người Do Thái nói: “Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?” (Ga 4, 20). Đến như vậy mà đám người Do Thái vẫn chưa sáng mắt thì làm sao mà sáng lòng cho nổi! Chỉ đến khi Sự Thật phơi bày, mới đấm ngực thốt lên: “Quả thật người này là Con Thiên Chúa” (Mt 27, 54). Lời tiên báo của Chúa đã thành hiện thực: Ngôi Đền Thánh Giê-su Ki-tô bị dân Do Thái phá huỷ tan tành, thì ngày thứ ba đã khôi phục hoàn toàn, tráng lệ hơn, sáng láng hơn: Chúa đã phục sinh vinh hiển.

Đối với Ki-tô hữu ngày nay thì sao? Tất cả những sự kiện và Lời dạy của Chúa đã được lịch sử chứng minh rất cụ thể và được trình thuật lại trong Kinh Thánh thật chi tiết, không còn cảnh như mấy người Do Thái ngơ ngác tự hỏi “xây một Đền thờ hoành tráng như thế mà chỉ trong 3 ngày thôi ư?” Tuy nhiên, có một điều mà nhiều người vẫn chưa  ý thức được, đó là ngôi Đền thờ do chính Đức Giê-su xây dựng là Giáo hội cho đến nay, đã hơn 2000 năm trôi qua, tuy rằng rất nguy nga lộng lẫy, nhưng vẫn thực sự chưa được tẩy uế như mong muốn của Người đã xây dựng nên (Đức Giê-su). Thật thế, những lầm lỗi khiếm khuyết của Giáo hội xuyên qua lịch sử 20 thế kỷ, cũng không phải là it. Bởi vậy ngày 12/3/2000, Thánh GH Gioan-Phaolô II đã chính thức thanh tẩy Giáo hội vì “các tội đã phạm trong khi phục vụ chân lý, các tội đã làm tổn thương đến sự hiệp nhất Ki-tô giáo, các tội chống lại dân tộc Israel, các tội chống lại tình yêu, hòa bình và kính trọng đối với các nền văn hóa và các tôn giáo, các tội chống lại phẩm giá của người phụ nữ và sự hiệp nhất của loài người, và các tội phạm đến các quyền cơ bản của con người.” (theo “VietCatholic –19/3/2000”). Không những chỉ là dịp này, mà trong suốt triều đại, Thánh GH Gioan-Phaolô II đã đề ra phương châm và cùng với Giáo hội thực hiện một cách cụ thể và hữu hiệu: “canh tân và sám hối”.

“Lầm lỗi là bản tính của con người”, chuyện đó không có gì đáng trách, nhưng nó sẽ thật sự đáng trách phạt nếu người lầm lỗi không nhìn ra được mà ăn năn hối cải để xin ơn tha thứ như Thánh GH Gioan-Phaolô II đã làm. Ngoài ngôi đền thờ chung là Giáo hội, mỗi Ki-tô hữu còn là ngôi Đền thờ của Chúa Thánh Thần. Muốn thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật, thì xuất phát điểm phải là Đền thờ Thánh Linh nơi cung lòng mỗi người phải luôn được thanh tẩy hàng ngày, hàng giờ. Khi nhắc đến công việc tẩy uế ngôi Đền thờ Thánh Linh trong cung lòng mỗi Ki-tô hữu, có người thì cho rằng “Chuỵên nhỏ! Chỉ cần đến toà hoà giải là mọi chuyện xong xuôi hết!”; nhưng cũng không ít người thì cho rằng khi “bàn tay đã chót nhúng chàm” khó lòng tẩy sạch, thì chi bằng nhúng chàm luôn cả thân mình cho yên chuyện.

Cả 2 thái độ cực đoan ấy (một bên thì lạc quan tếu, còn một bên thì bi quan thái quá) đều không thể chấp nhận. Anh đến toà hoà giải là để xin ơn tha thứ, Chúa luôn sẵn sàng “cho” nhưng anh có biết dọn dẹp cung lòng và mở rộng cửa lòng đón “nhận” hay không. Đến toà hoà giải lấy lệ và theo luật, mà cửa lòng cứ khép kín, cung lòng không tẩy uế, thì cũng chẳng khác gì xua đuổi hơn là đón tiếp, liệu Chúa có vào cung lòng anh được không? Còn anh bi quan thái quá cũng không được. Anh nên nhớ ngôi đền thờ Chúa Thánh Thần nơi con người anh là do chính Thiên Chúa tạo dựng, không lý gì Người lại bỏ rơi anh, dù ngôi đền ấy có rác rưởi dơ dáy đến đâu chăng nữa. Điều quan trọng là bản thân anh có thực lòng muốn và quyết chí thanh tẩy hay không mà thôi. Nếu lòng anh đã mở, chí anh đã quyết, Thiên Chúa sẽ ban Thần Khi và anh sẽ được sạch. Hãy in sâu vào tâm trí câu châm ngôn của Thánh Au-gus-ti-nô: “Thiên Chúa có thể dựng nên chúng ta mà không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng Người không thể cứu rỗi chúng ta nếu chúng ta không ưng thuận.” (“Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài” – ibid).

Nói tóm lại, ngôi Đền Thánh Linh nơi cá vị mỗi Ki-tô hữu cũng như ngôi Đền Giáo hội đều rất cần được thanh tẩy. Tất nhiên, với ngôi đền Giáo hội thì không thể chỉ ỷ lại vào một mình Đức Giáo hoàng, cũng như ngôi Đền Thánh Linh cá vị chỉ trông cậy vào vị Mục tử đại diện Chúa Ki-tô nơi toà hoà giải. Các ngài không thể làm gì được nếu không có sự đồng lòng, quyết tâm nơi mỗi Ki-tô hữu cũng như toàn thể Giáo hội. Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa hãy ban Thần Khi cho chúng con, để chúng con vững lòng tin cậy, biết tôn trọng bảo vệ sự trong sáng ngôi đền thờ Giáo xứ, Giáo họ, Giáo phận và Giáo hội toàn cầu; đặc biệt biết sửa sang dọn dẹp ngôi Đền thờ tâm hồn của chúng con để Chúa yêu thương ngự trị.

Ôi! “Lạy Chúa là Ðấng rất từ bi nhân hậu, Chúa đã từng chỉ dạy chúng con cách chữa lành những vết thương tội lỗi: là ăn chay hãm mình, siêng năng cầu nguyện và chia cơm sẻ áo cho kẻ khó nghèo. Này chúng con nhận biết mình yếu hèn lầm lỗi, và hết lòng sám hối ăn năn; xin Chúa thương đoái nhìn chúng con và đưa tay nâng đỡ. Chúng con cầu xinnhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN III MC-B).

Về mục lục

.

CÁC ÔNG CỨ PHÁ HỦY ĐỀN THỜ NÀY ĐI

  Fx Đỗ Công Minh

     Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu vào đền thánh Giêrusalem, “ Người thấy trong đền thờ có những kẻ bán chiên bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền. Người lấy dây làm roi mà xua đuổi. . . Người nói với những kẻ bán bồ câu: Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán “. Đức Giêsu đã rất giận giữ cho thấy Người coi trọng “Nhà Cha “ như thế nào! Còn hơn thế nữa, Người  tự nhận là Đền thờ của Thiên Chúa : “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Điều này phải sau cuộc phục sinh của Người, các môn đệ mới nhận ra, các ông đã tin vào kinh thánh và vào Đức Giêsu.

        Lạy Chúa,

        Mỗi một ngôi thánh đường, dù lớn, dù nhỏ, như Thánh Giáo hòang Gioan PhaoLô II đã nói: ” nhà thờ nào cũng là của anh chị em và là nhà của Thiên Chúa. Anh chị em hãy coi trọng nhà thờ như một nơi chúng ta có thể gặp gỡ Cha của chúng ta “.  Mỗi một công đòan cần có một ngôi nhà thờ. Chính trong nhà thờ, nơi mọi người tụ họp cầu nguyện, nơi thuận tiện để lắng nghe Lời Chúa. Đức Giêsu luôn hiện diện trong nhà Cha của Người. Chúa hằng chờ đợi mỗi người chúng con mỗi ngày đến để tâm sự với Người nơi nhà Tạm, lãnh nhận Người trong Thánh Thể.  Thế nhưng, nhiều khi con người lại  quên mất điều ấy. Đức Cha Anfonso Nguyễn Hữu Long trong một bài viết mới đây sau chuyến thăm của Đức Hồng Y Bộ Trưởng bộ Loan báo Tin mừng đã từng nhận xét về Giáo hội Chúa tại Việt Nam . Ngài viết “Chúng ta còn loay hoay dồn nhiều công sức vào việc xây dựng cơ sở vật chất, tổ chức nhiều cuộc lễ hòanh tráng , tốn phí nhiều , trong khiviệc xây dựng và củng cố các đền thờ tâm hồn vẫn còn bị lơ là. Nhân lực , vật lực dành cho việc xây cất và tổ chức lễ lạt thì nhiều, mà dành cho việc Loan báo Tin Mừng thì quá ít. . . “. Đó là một thực tế đáng buồn hiện nay. Chúng con hiểu rằng ngôi nhà thờ mà Chúa nói đến trong  Tin Mừng hôm nay còn là chính Chúa.   Mỗi người chúng con có thể kín múc được sự sống đời đời từ nơi Người? chúng con có dám tự nhận mình cũng phải trở nên đền thờ Chúa  như lời Thánh PhaoLô căn dặn “ Anh em không biết rằng thân thể anh em là đền thờ Thiên Chúa sao? “ . Phần con, con có tự nhận mình là một viên gạch, góp phần vào việc xây dựng nhà Chúa cho xứng hợp?  Mỗi lần đến nhà Chúa, con có mang trong lòng một tình yêu chân chính ,một lòng mến sốt sắng, lòng trông cậy Chúa ở bên con, hay đến nhà Chúa với thái độ thờ ơ, bàng quan, vô cảm. Thậm chí mang theo hằn thù, chia rẽ, đầy những toan tính sự đời. Đến nhà Chúa nhưng vẫn chồng chất cồng kềnh với mọi lo toan về tiền của, danh lợi. Không những không đón nhận được từ nơi Chúa điều gì, nhưng lại sẵn sàng để lại những trách móc, tị nanh, đòi hỏi Chúa phải thỏa mãn cho con theo ý riêng của con. Và khi ra về, Chúa ở lại trong nhà thờ, còn con, con lại thênh thang giữa đời với bao bon chen, lạc thú . Tự bản thân con có lo tu sửa đền thờ tâm hồn mỗi ngày để trở nên xứng đáng làm nơi Chúa ngự , hay mãi mang nặng ích kỷ, vụ lợi ?

      Xin cho con nhân những ngày mùa Chay Thánh này biết nhìn lại mình, con có xứng đáng hơn những người buôn bán, đổi chác tiền của ngày xưa ? hay nếu ngày hôm nay, con  không chịu sám hối và Tin vào Tin Mừng để Chúa phải xua đuổi ra khỏi đền thờ, thì khốn cho con .

       Xin Chúa giúp con biết thực sự hối lỗi mình, biết sửa đổi  hầu mỗi ngày nên xứng đáng hơn, trở thành những viên đá sống động góp phần xây dựng Đền thờ Thiên Chúa nơi con.    

       Xin giúp con . Chúa ơi !

Về mục lục

.

THANH TẨY BẢN THÂN MÌNH

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Chúa Giê-su là Đấng rất hiền lành và Ngài cũng là mẫu mực của sự hiền lành như lời Ngài mời gọi: “Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11, 29).  

Khi bị người đời phê phán là người mất trí (Mc 3, 21), là kẻ nói phạm thượng (Mt 9, 3), là người lấy phép của tướng quỷ mà trừ quỷ (Mt 9, 34), là người bị quỷ ám (Ga 7,20), là người dại dột … Chúa Giê-su vẫn bình thản như không.
Nhất là trong cuộc thương khó, dù bị lăng nhục và hành hạ đủ điều, bị chế nhạo đủ cách, Chúa Giê-su vẫn nín lặng và thản nhiên. Khi chịu đóng đinh vào thập giá với những cơn đau khủng khiếp, Chúa Giê-su chẳng những không oán hận mà lại còn cầu xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ hành hạ và đóng đinh Ngài.

Tóm lại, Chúa Giê-su là Đấng rất dịu hiền và rất bao dung khiến người ta nghĩ rằng Ngài không bao giờ nổi giận.

Chúa Giê-su không thể khoan dung với việc tục hoá đền thờ

Vậy mà khi vào đền thờ Giê-ru-sa-lem, thấy người ta làm ô uế đền thờ thì Chúa Giê-su không thể nào chịu nổi. Ngài nổi giận thật sự. Tin mừng Gioan ghi lại: “Ngài thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Ngài liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Ngài nói với những kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán” (Gioan 2, 14-16).

Thật không ngờ! Một Chúa Giê-su rất hiền lành khiêm nhượng, Đấng mà ‘cây lau bị giập, Ngài không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi’ (Mt 12,20), giờ đây đã nổi trận lôi đình, phải dùng roi vọt và biện pháp cứng rắn đối với những người xúc phạm đến sự linh thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.

Điều đó chứng tỏ rằng đối với Chúa Giê-su, việc làm ô uế Đền Thờ là một xúc phạm nặng nề mà Ngài vốn rất nhân từ và bao dung cũng không thể nào chịu đựng nổi!

Thân thể chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa

Thế nhưng còn một đền thờ khác còn cao trọng hơn đền thờ Giê-ru-sa-lem xưa, đó là đền-thờ-thân-xác chúng ta. Thánh Phao-lô khẳng định: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (I Cor 3,16) hoặc: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? (I Cor 6, 19).

Chúa Giê-su cũng dạy rằng mỗi người chúng ta là đền thờ cho Ba Ngôi ngự trị: “Ai yêu mến Thầy và tuân giữ lời Thầy, thì Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta (tức Ba Ngôi Thiên Chúa) sẽ đến ngự trong người ấy” (Ga 14, 23).

Chính vì yêu quý đền-thờ-thân-xác chúng ta quá đỗi nên Chúa Giê-su sẵn sàng chuộc lại bằng giá máu của Ngài, đã thánh hoá bằng Lời hằng sống và hiến ban Thịt Máu Ngài trong bí tích Thánh Thể để bồi bổ đền thờ này vạn lần cao đẹp hơn.

Điều đó chứng tỏ rằng đối với Thiên Chúa thì thân xác con người là đền thờ vô giá!

Vì thế, nếu hôm xưa người Do-thái làm ô uế đền thờ Giê-ru-sa-lem khiến Chúa Giê-su đau lòng một phần, thì hôm nay, nếu có ai làm cho đền thờ cao quý là thân xác các môn đệ Ngài ra nhơ uế thì Ngài đau xót gấp trăm. Thế nên, Ngài nghiêm khắc lên án những người xúc phạm: “Ai làm cho một kẻ nhỏ tin vào Thầy vấp phạm, (tức là làm hư hại đền-thờ-thân-xác người khác), thì thà lấy cối đá cột vào cổ người ấy rồi xô xuống biển còn hơn”  (Lc 17, 1-2).

Thánh Phao-lô cũng quả quyết: “Ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy” ( I Cor 3, 13-17).  

Hãy sớm thanh tẩy đền thờ bản thân

Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn thật sâu vào nội tâm kín ẩn của mình để truy tìm những điều làm cho chúng ta ra nhơ uế và quyết tâm thanh tẩy tâm hồn, vì “từ trong lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế” (Mt 15, 19-20).

Ngoài ra, chúng ta phải tôn trọng thân xác chúng ta là đền thờ Thiên Chúa, được Chúa Giê-su cứu chuộc bằng Máu thánh Ngài, được xức dầu thánh hiến bằng Thánh Thần, được Ba Ngôi Thiên Chúa vui thích chọn làm nơi ngự trị. Cần trang điểm đền thờ thân xác chúng ta bằng những đức tính tốt; phải nâng cấp bản thân bằng rèn luyện cho mình những phẩm chất cao đẹp cho xứng với danh hiệu đền thờ cao quý của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Về mục lục

.

VÌ SỰ ÁC LAN TRÀN

Lm. Giuse Nguyễn

Trong khi Giáo hội khởi đầu mùa Chay vào Lễ Tro, Thứ Tư 14/02/2018; thì cũng chính vào ngày đó, một vụ xả súng kinh hoàng ở Parland, bang Florida của Mỹ làm cho ít nhất 17 người thiệt mạng và khoảng 50 người bị thương. Ngay ngày hôm sau, 15/02/2018 (tức ngày cuối cùng của năm Đinh Dậu 2017), tin tức về vụ thảm sát làm cho 5 người trong một gia đình bị giết một cách dã man tại Sài Gòn lan tràn. Chưa hết, theo báo cáo chính thức của Bộ Y Tế, từ ngày 15 đến 22/02/2018 (27 tháng chạp đến mồng 4 Tết) đã có trên 6.200 người phải vào viện do đánh nhau, trong đó có 15 người tử vong. Bên cạnh đó hiện tượng cướp bóc, giựt dọc một cách trắng trợn tại những chỗ đông người trong những dịp đầu năm… làm cho nhiều người cảm thấy bất an.

Có lẽ vì thế mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã chọn chủ đề cho sứ điệp Mùa Chay năm nay từ câu Kinh Thánh trong Tin Mừng của Matthêu: “Vì sự ác lan tràn, nên lòng mến của nhiều người sẽ ra nguội lạnh” (24,12). Đức Thánh Cha đã giải nghĩa câu Kinh thánh này như sau: “Câu này ở trong đoạn Chúa nói về thời tận thế và ở trong bối cảnh thành Jerusalem, trên Núi Cây Dầu, chính tại nơi khởi đầu cuộc thương khó của Chúa. Khi trả lời một câu hỏi của các môn đệ, Chúa Giêsu loan báo sầu muộn lớn và mô tả tình trạng trong đó cộng đồng tín hữu có thể lâm vào: đứng trước những biến cố đau thương, một số tiên tri giả sẽ lường gạt nhiều người, đến độ đe dọa làm cho tâm hồn họ bị tắt lịm lòng mến là trung tâm của toàn thể Tin Mừng.”

Trong bài Tin Mừng hôm nay, đứng trước thực trạng đền thờ Jerusalem bị người ta xúc phạm, biến thành nơi kinh doanh, buôn bán kiếm tiền và trở thành nơi toan tính, lường gạt nhau… Đức Giêsu đã đứng dậy, mạnh mẽ tuyên bố và ra tay loại trừ những sự xấu đó ra khỏi đền thờ. Hành động thanh tẩy đền thờ của Đức Giêsu hôm nay nhắc nhở chúng ta về tình trạng “sự ác lan tràn” do các tiên tri giả mà Đức Thánh Cha Phanxicô nói đến trong sứ điệp mùa chay 2018 của Ngài.

Ngài đã triển khai những hình dạng của tiên tri giả đó giống như người làm nghề “mê hoặc rắn”, điều khiển sự độc ác của nó bởi một phương pháp thôi miên, bùa chú. Những tiên tri giả này điều khiển đam mê, cảm xúc của con người để họ chỉ tìm khoái lạc trong tất cả: nhục dục, quyền lực và cả đồng tiền. Như vậy tự bản chất dục vọng, quyền lực và đồng tiền không xấu, nó chỉ xấu bởi những người dồn hết năng lực của mình để kiếm tìm những điều đó, và hạnh phúc của họ là ở nơi những điều đó.

Dạng thức khác của tiên tri giả giống như những “lang băm” (những thầy thuốc dỏm). Đức Thánh Cha nói những lang băm này: “Cống hiến những giải pháp đơn giản và tức thời cho những đau khổ, nhưng thực ra những liều thuốc này hoàn toàn vô hiệu: bao nhiêu người trẻ tìm phương dược giả dối trong ma túy, trong những quan hệ dùng rồi bỏ” (qua đường), kiếm tiền dễ dàng một cách bất chính!. Bao nhiêu người khác nữa bị vướng vào một cuộc sống hoàn toàn là ảo, trong đó những tương quan có vẻ đơn gian và mau lẹ hơn, nhưng rồi chúng vô nghĩa một cách bi thảm! Những kẻ lường gạt ấy cống hiến những điều vô giá trị, nhưng chúng lại tước mất điều quí giá nhất như phẩm giá, tự do và khả năng yêu thương.”

Quả thật, những tiên tri giả đó đã và đang gieo rắc “sự ác lan tràn”. Từ thời Đức Giêsu, vì đồng tiền, vì những ham mê thế gian mà người ta đã đánh mất đi sự linh thánh ngay trong nơi Đền Thánh, kể cả những người có phận vụ thánh. Và cho đến ngày nay, sự ác vẫn tiếp tục lan tràn vì thói mê hoặc của ma quỷ đã gieo vào lòng con người; vì những liều thuốc dỏm của chúa tể các thầy lang băm chính là ma quỷ để con người chạy theo những liệu pháp chóng qua mà không lo chữa trị tận căn.

Nhìn lại tội ác nơi xã hội cũng như nơi mỗi người chúng ta, chung quy lại cũng chỉ vì những điều vừa nêu trên. Vì tiền bạc mà người ta bất chấp tất cả, kể cả việc bán rẻ linh hồn của mình cho ma quỷ. Vì những đam mê dục vọng mà người ta buông thả con người, đắm chìm trong những giá trị thấp hèn. Vì danh vọng quyền lực mà người ta đã luồn cúi hoặc tiêu diệt, đạp đổ nhau…

Đáng ngại hơn là sự dữ do con người dùng những liều thuốc dỏm của “thầy lang băm” vì thấy nó hấp dẫn, tức thời. Để quên nỗi buồn người ta đã tìm đến với xì ke, ma túy hoặc những chất gây nghiện khác. Một số bạn trẻ ngụy biện cho việc sống thử trước hôn nhân là điều cần thiết để trắc nghiệm cho hôn nhân sau này. Một số người phá thai một cách dễ dàng vì cho rằng đó là việc ngoài ý muốn. Một số người đi xem bói hoặc những việc đồng bóng khác vì muốn chính mình điều khiển cuộc đời mình, theo ý mình, chứ không theo sự quan phòng của Chúa… Đức Thánh Cha nói họ tưởng mình có tất cả, nhưng thực sự họ đã mất nhân phẩm, tự do và khả năng yêu thương.

Hôm nay Đức Giêsu thanh tẩy Đền Thờ, là một sự thật cho thấy sự ác sẽ được đẩy lùi nếu để Đức Giêsu bước vào trong ngôi đền thờ là tâm hồn, thân xác và cuộc đời của chúng ta. Ngài biết rõ những ngổn ngang, những ô uế, những dơ bẩn… trong tâm hồn của mỗi người. Hãy cùng với Đức Giêsu sống tình con thảo với Chúa trong những việc đạo đức sốt sắng hơn, nhiều hơn trong mùa Chay này. Hãy cùng với Đức Giêsu thực hành việc làm phúc bố thí để giải thoát chúng ta khỏi sự ham hố và giúp khám phá tha nhân là anh chị em chúng ta: điều chúng ta sở hữu không phải chỉ là của chúng ta(SĐMC 2018). Hãy cùng với Đức Giêsu ăn chay hãm mình để biết làm chủ những cảm xúc, giải tỏa những bạo lực bên trong con người, là nguyên nhân dẫn đến những tội ác; đồng thời cũng giúp ta cảm nhận được những thiếu thốn của người khác, từ đó dễ dàng yêu thương tha nhân hơn.

Lạy Chúa, xin thanh tẩy tâm hồn và thân xác chúng con để xứng đáng là đền thờ của Chúa Thánh Thần.

Về mục lục

.

MÙA CHAY: XÉT LƯƠNG TÂM VỀ MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi 

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Xh 20:1-17;  1 Cr 1:22-25;  Ga 2:13-25)

          Chúng ta đang trong mùa sám hối, tức là mùa Chay, thời gian cố gắng từ bỏ nếp sống tội lỗi để hoàn toàn quay trở lại với Chúa.  Phương tiện giúp chúng ta xét lương tâm là các điều răn Chúa ban trên núi Xi-nai và các giá trị Tin Mừng nằm trong lời giảng của Chúa Giê-su cũng như trong lối sống của Người.  Phụng vụ Lời Chúa hôm nay quả là một bản xét mình để chúng ta nhìn lại tình trạng mối tương quan giữa mình với Chúa và mình với anh chị em.

          Qua bài đọc Cựu Ước, Luật Mô-sê nhắc nhở chúng ta về các bổn phận đối với Thiên Chúa, Đấng tạo dựng chúng ta.  Người là Thiên Chúa duy nhất chúng ta phải thờ phượng.  Như Thiên Chúa đã dẫn dắt Ít-ra-en ra khỏi nhà nô lệ Ai-cập, Người cũng giải thoát chúng ta khỏi hậu quả của tội nguyên tổ để chúng ta được trở lại làm con Chúa.  Để gìn giữ chúng ta trong mối tương quan cha con với Chúa, Chúa muốn chúng ta chỉ thờ phượng một mình Người mà thôi, chứ không thờ thần nào khác.  Rồi với phận làm con, chúng ta được mời gọi hãy làm rạng danh Cha mình, không dùng danh Người để làm những chuyện bất xứng hoặc làm hoan ố danh Cha.  Để có thể biểu lộ tình cha con cách cụ thể hơn, Chúa muốn chúng ta dành thì giờ để sống tình yêu ấy, bằng cách dành cho ngài một khoảnh khắc, đó là ngày sa-bát đối với dân Chúa ngày xưa và ngày Chúa Nhật đối với chúng ta ngày nay.  Tham dự Thánh lễ Chúa Nhật là cách tốt nhất, để chúng ta lắng nghe Chúa dạy dỗ qua Kinh Thánh và kết hợp với Người qua Thánh Thể.

          Song song với bổn phận đối với Chúa là bổn phận đối với tha nhân.  Chúng ta được nhắc nhở hãy xét lại mối tương quan gia đình qua việc thảo kính cha mẹ, sống những tương quan nhân bản và xã hội, để tránh làm tổn thương và thiệt hại cho người khác.  Nếu chúng ta đã nhận Thiên Chúa làm Cha, thì đương nhiên chúng ta cũng phải nhìn nhận mọi người là anh chị em của chúng ta và phải yêu thương họ như Chúa yêu thương chúng ta.

          Qua các điều răn, Thiên Chúa đã dạy chúng ta một lối sống.  Tuy nhiên, điều tuyệt vời hơn thế nữa, đó là Người đã ban cho chúng ta Chúa Ki-tô, một gương mẫu của lối sống ấy.  Thánh Phao-lô đã gọi Chúa Ki-tô là Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa và ngài hãnh diện rao giảng Đức Khôn Ngoan đó.  Chúng ta hãy xem Chúa Giê-su đã biểu lộ cách sống bổn phận đối với Thiên Chúa như thế nào qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay.  Trước sự kiện Đền Thờ bị những người buôn bán biến thành cái chợ, Chúa Giê-su đã biểu lộ “lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa” bằng cách đuổi họ ra khỏi Đền Thờ.  Dĩ nhiên đây chỉ là một trong muôn vàn hành vi khác của Chúa Giê-su, cho chúng ta thấy Người đã chu toàn những bổn phận đối với Thiên Chúa và những bổn phận đối với anh chị em như thế nào.  Điều đặc biệt câu chuyện này muốn nói với chúng tahôm nay là Chúa Giê-su đã sống mối tương quan thân mật của Người với Thiên Chúa.  Gương mẫu này nhắc nhở chúng ta phải luôn phát huy lòng yêu mến Chúa của chúng ta.

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Chúng ta có thể cảm thấy Mười điều răn không thúc đẩy chúng ta mạnh mẽ sống phận làm con Chúa và làm anh chị em với nhau cho bằng gương sống của Chúa Giê-su. Hành động Chúa Giê-su làm hôm nay biểu lộ lòng yêu mến Chúa của Người.  Nhưng đó cũng có thể là công việc Người muốn làm cho mỗi người chúng ta vì ta là đền thờ Chúa Thánh Thần.  Đúng vậy, đền thờ tâm hồn của chúng ta cần được thanh tẩy, để Thiên Chúa được tôn vinh trong và nhờ chúng ta.  Đền thờ ấy cần được thanh tẩy và Chúa Giê-su cũng đang chờ đợi để Người có thể ra tay đuổi những con vật nhơ nhớp ra, lật đổ bàn đổi tiền là những lối suy nghĩ của thế gian tội lỗi, nhất là khôi phục lại lòng nhiệt thành vì nhà Chúa nơi chúng ta.  Thiếu lòng nhiệt thành ấy nên chúng ta đã lơ là trong những bổn phận thiêng liêng:  đi dự Thánh lễ cho qua lần, không cầu nguyện riêng, không suy niệm Lời Chúa, không tới giúp đỡ những anh chị em cần đến chúng ta, không làm những cánh tay bước chân nối dài để phục vụ những người khốn khổ… Nhìn đi nhìn lại, ta đã đi một nửa mùa Chay rồi.  Thời thuận lợi và cứu độ dành cho ta cũng không còn mấy nữa.  Vậy chúng ta hãy nhìn lên mẫu gương sống động là Chúa Giê-su, Đức Khôn Ngoan nhập thể, để học biết “mến Chúa yêu người” như Chúa dạy chúng ta! 

Về mục lục

.

NHÀ TA LÀ NHÀ CẦU NGUYỆN

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

     Chúa nhật này chúng ta suy niệm về việc Chúa Giesu thanh tẩy đền thánh Jerusalem và sứ điệp của Phaolo nói về Thánh Giá Chúa Giesu. Hai hình ảnh khá độc đáo này sẽ giúp chúng ta -trong mùa Chay Thánh- hiểu biết và yêu mến chúa Giesu Kito nhiều hơn.  

NHÀ TA LÀ NHÀ CẦU NGUYỆN….

    Câu chuyện Gioan nói về việc Chúa Giesu thanh tẩy đền thánh đã làm nổi bật cảnh thê thảm tương tự như ở những Tin Mừng khác. Trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm, việc này xẩy ra sau cuộc rước Chúa Giesu đi vào đền thánh. Dân chúng reo mừng khi Chúa đi vào đền thánh, một phần để tỏ lòng kính mến, một phần để thách thức đền thánh và những vị lãnh đạo tôn giáo ở đó. Đức Giesu lật đổ những bàn đổi tiền, đuổi những người bán chim, chiên bò….ra khỏi đền thánh. Hành động này có ý nghĩa gì? Chúa nhắc lại lời Kinh Thánh: “Nhà Ta là nhà cầu nguyện…mà các ngươi biến thành nơi trộm cướp” (Mc 11:17; Is 56:6-7, Gr 7:11).   

    Trong Tin Mừng Gioan, việc thanh tẩy đền thánh xẩy ra lúc Chúa Giesu khởi đầu công tác mục vụ của Người, không phải lúc khởi đầu các biến cố xẩy ra vào những ngày cuối cùng của cuộc đời Chúa. Lời nói và hành động của Chúa trong đền thánh được nhắc lại trong các Phúc Âm Nhất Lãm hay trong Tin Mừng Gioan, đều có một ý nghĩa mới đối với những thế hệ Kito hữu về sau. “Mang những thứ này ra khỏi đây! Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán!” Đền Thánh không phải là trung tâm thương mại, cửa hàng mậu dịch mà là Nơi Thánh của Cha Ta. Như các tiên tri đi trước, Chúa Giesu muốn thức tỉnh tâm hồn dân Người nhớ lại mục đích của đền thánh..    

ĐỀN THỜ MỚI SỐNG ĐỘNG  

    Các môn đệ nhớ lại Chúa đã nói trong đền thờ lời Thánh vịnh 69:10 “Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa đã xâm chiếm hồn tôi”, có nghĩa là “Lòng tôi tràn ngập tình yêu nóng bỏng vì nhà Chúa.” Khi đền thánh Jerusalem bị quân La Mã phá hủy thì cả dân Do Thái lẫn Kito giáo đều than tiếc. Những kẻ theo Chúa Giesu nhớ lại cảnh tượng huy hoàng thuở xưa trong đền thờ. Bây giờ họ có thể hiểu theo một nghĩa mới. Đền thờ cũ đã qua đi, đền thờ mới đã được xây lại. Đền thờ mới này không phải bằng đá, gỗ hay vàng. Nó là đền thờ sống động của dân thánh (1Pr 2:4-6;Ep 2:19-22). 

CON NGƯỜI CỰC ĐOAN CỦA CHÚA GIESU  

     Điểm đặc thù của câu chuyện Tin Mừng Gioan hôm nay là hình ảnh chúa Giesu nổi nóng khi thanh tẩy đền thánh. Việc này nói lên hai thái cực đối nghịch của Chúa. Chúa là con người cách mạng cực đoan. Chúa là một người rất hiền hòa, không bao giờ giận hờn. Nhưng hai thái cực này không thể biện minh cho nhau được.

    Chúa Giesu muốn cải đổi xã hội, không phải vì cực đoan tích cực hay cực đoan thụ động. Người muốn tận hiến đến tuyệt đỉnh yêu thương vì Cha Người và mọi sự của Cha Người. Người muốn tạo dựng những con người mới, là hình ảnh của Thiên Chúa, đấng Người yêu thương và đem tình yêu đó cho muôn dân. Các tông đồ và các môn đệ của Chúa Giesu đã nhận biết Chúa, coi Chúa là hình ảnh của đam mê cực đoan, nhất quyết hy sinh mạng sống mình vì Sự Thật và lòng Trung Tín.  

    Chúng ta có chấp nhận hai thái cực đó do sự hiểu biết của chúng ta về đức Giesu và tình liên đới với Người không? Chúng ta có đam mê điều gì trong đời không? Chúng ta có yêu thương đến say mê tất cả mọi sự thuộc về Thiên Chúa và về con Người đức Giesu không?    

SỨ ĐIỆP THÁNH GIÁ: CHÚA KITO BỊ ĐÓNG ĐANH  

    Trong thư gửi tin hữu Corinto, Phaolo đã nhấn mạnh đến những bất ổn và gương xấu trong cộng đồng. Tình hiệp thông và đoàn kết đang bị đe dọa vì nạn bè phái và chia rẽ nội bộ đã gây tổn thương trầm trọng cho sự hiệp nhất của ‘thân thể’ chúa Kito. Thay vì khôn khéo dùng lời lẽ văn hoa, triết học hay thần học để giải quyết mọi khó khăn, Phaolo loan truyền đức Kito bằng sứ điệp: Chúa Kito bị đóng đanh.  

    Sức mạnh của Phaolo không do văn chương lôi cuốn, nhưng ở sự yếu đuối của những ai thực sự tin tưởng vào “quyền năng của Thiên Chúa” (1Cr 2:1-4).  

    Phaolo viết trong thư gửi tín hữu Corinto: “Sứ điệp về Thánh Giá là sự ‘điền rồ’ đối với những kẻ bị hư mất, nhưng với chúng ta là những kẻ được cứu rỗi thì lại là ‘quyền năng’ của Thiên Chúa.”(1:18, 22-25). Thánh Giá là trung tâm điểm thần học của Phaolo. Nói về Thánh Giá là nói về ơn Cứu Độ, là hồng ân mà Thiên Chúa ban cho loài người.  

    Sứ điệp đơn giản của Phaolo về Thánh Giá là gương xấu và sự điên rồ. Ngài nhấn mạnh điều đó bằng những lời sau đây: “ Điên rồ đối với những kẻ bị hư mất, nhưng đối với chúng ta là những kẻ được cứu rỗi thì lại là quyền năng của Thiên Chúa. Qua sự tuyên xưng điên rồ của chúng ta, Thiên Chúa quyết định cứu rỗi những ai có lòng tin. Đối với dân Do Thái họ đòi hỏi phải có dấu chỉ, với dân Hy Lạp họ ước mong sự khôn ngoan, nhưng chúng ta tuyên xưng chúa Kito bị đóng đanh, thì đối với dân Do Thái nó chẳng có gì là chắc chắn, đối với dân ngoại thì đó là một sự điên rồ….”  

    “Gương xấu” và “điên rồ” của Thánh Giá -trong thực tế- rõ ràng là thất bại, buồn thảm,  nhưng ở đó rõ ràng lại có quyền năng của tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Thánh Giá là một hình thức diễn tả tình yêu, mà tình yêu chính là quyền năng thực sự được thể hiện mà bề ngoài xem như có vẻ yếu đuối.  

    Thánh Phaolo cảm nghiệm thấy điều đó trong chính thân xác mình, và ngài minh chứng cho chúng ta qua những hành trình thiêng liêng của ngài. Sau này nó đã trở thành những điểm khởi hành quan trọng cho những môn đệ chúa Giesu. Ngài nói: “Người quả quyết với tôi, ‘Ơn của Thày đã đủ cho con, vì quyền năng của Thầy được thể hiện trọn vẹn trong sự yếu đuối’” (2Cr 12:9); và ngay cả “Thiên Chúa đã chọn những gì thấp hèn và chẳng đáng kể, những điều không có để hủy giệt những điều đang có” (1Cr 1:28).  

    Người môn đệ của dân ngoại đã tự xác tín mình đến như vậy với Chúa Kito là đấng cũng đã từng xác tín như thế, ngay cả giữa những gian nan thử thách và cuộc sống trong tin yêu Con Thiên Chúa, đấng đã thương yêu ông và hy sinh thân mình vì tội lỗi của ông và của tất cả mọi người (Gl 1:4; 2:20).    

LỜI KẾT: CẦU NGUYỆN  

    Hôm nay, khi chiêm nghiệm tình yêu nóng bỏng của Chúa Giesu vì mọi điều của Cha Người cũng như mầu nhiệm cứu chuộc của Thánh Giá, chúng ta hãy cùng nhau đọc lời nguyện cầu xin này:  

Lạy Thiên Chúa,

đấng “điên rồ” nhưng khôn ngoan,

yếu đuối nhưng mạnh mẽ.

Vì sức mạnh ân sủng Chúa trong mùa Chay thánh,

Xin hãy rửa sạch đền thờ Hội Thánh Chúa

Và thanh tẩy cung thánh tâm hồn chúng con.

Chớ gì chúng con được tràn ngập tình yêu nóng bỏng

…vì nhà Cha

Và lòng vâng theo giới răn Chúa

…thấm nhập bao vây chúng con

suốt cuộc hành trình mùa Chay Thánh.  

 

Chúng con cầu xin Chúa

Qua đức Giesu Kito,

Người của Thánh Giá

…đấng đầy quyền năng và khôn ngoan,

Chúa hằng sống và ngự trị với Người,

hiệp nhất với Chúa Thánh Thần

Là Thiên Chúa đời đời chẳng cùng, Amen.

Về mục lục

.

ĐỀN THỜ.

Lm. Nguyễn Thái

Giận hay phẫn nộ là một cảm xúc mạnh và rất bình thường của con người. Tục ngữ ca dao có câu: “Giận thì mắng, lặng thì thương.” Người đời bản tính vốn hiền, mặc dù khi nóng giận thì ai cũng tỏ ra hung dữ, thế nhưng khi cơn giận đã nguôi ngoai thì người ta lại ân hận về sự nóng giận của mình, và thương yêu ngay người mình vừa la mắng. Rất nhiều khi vì thương yêu nên mới giận mà la mắng, trách móc.

Đối với con người yếu đuối, giận dữ thường là nguyên nhân gây ra những vấn đề không tốt đẹp nơi gia đình và xã hội (Mt 5:22). Nó gây hậu quả dây chuyền. Chồng bực bội ở sở, về nhà la vợ. Vợ rầy con. Con đá chó, đánh mèo… Nó tạo ra bạo lực nơi gia đình dưới nhiều hình thức như đánh đập, la hét, chửi bới… Nó gây nên cảm giác xấu cho người khác và tạo nên sự ngăn cách trong các liên hệ. Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe… Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thóa mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác…” (Ep 4:29-32; 1 Cr 13: 4-7).

Đối với Thiên Chúa, sự phẫn nộ được thúc đẩy bởi lòng đạo đức thánh thiện khi đứng trước tội lỗi, lạm dụng, bất công xã hội, những hành vi chà đạp nhân phẩm con người và sự xúc phạm đến Thiên Chúa thì cảm xúc phẫn nộ này lại diễn tả một tâm huyết nhiệt tình cao độ: “Đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán.” “Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi” (Ga 2: 16-17).

Thánh Augustinô đã viết rằng niềm Hy Vọng có hai nàng nữ tì xinh đẹp: sự phẫn nộ và lòng can đảm. Phẫn nộ để không thực hiện điều không được phép làm; và can đảm để thực hiện điều có thể làm. Đúng như Thánh Augustinô đã nói, Chúa Giêsu đã nổi giận vì những lý do sau:

Thứ nhất, vì những người lãnh đạo tôn giáo đã quá chú tâm đến việc phụng tự, nghi lễ mà quên luân lý và đạo đức, quên rằng đền thờ là nơi thiêng thánh có sự hiện diện của Thiên Chúa. Họ quên rằng đền thờ là nơi để gặp gỡ Thiên Chúa, để cảm nghiệm về ân sủng và tình yêu của Ngài.

Theo luật của Chúa truyền dạy, dân chúng phải đến đền thờ để dâng của lễ. Của lễ hy sinh là một yếu tố quan trọng trong đời sống đức tin. Của lễ biểu tỏ chiều sâu của lòng thành thật; nó chứng tỏ chúng ta đặt Thiên Chúa và điều Ngài yêu cầu lên trên tất cả mọi của cải và nhu cầu riêng tư của chúng ta.

Theo luật Mô-sê, của lễ đòi hỏi chỉ là một con cừu đực tơ hay con dê đực con, hoặc một cặp chim bồ câu được hiến tế bởi các tư tế. Trong những nông trại, những con vật này rất dễ kiếm. Nhưng vào thời Chúa Giêsu, dân thành phố đã không còn nuôi những con vật này ở nhà nữa. Do đó khi đi đến đền thờ dâng của lễ, để cho việc tế tự trở thành dễ dàng, giới chức thẩm quyền của đền thờ cho phép việc buôn bán những con vật tế tự ngay tại tiền đường của đền thờ. Việc mua bán phải dùng những đồng tiền riêng của đền thờ. Nếu không có, phải đổi tiền Rôma sang tiền đền thờ ngay tại đó. Giới thẩm quyền lại cho mở thêm dịch vụ đổi tiền để phục vụ cho ích lợi của nhu cầu tế lễ.

Đền thờ biến thành chợ. Chợ thì ồn ào, trả giá, chửi bới, la ó, bẩn thỉu. Mua bán thì có lừa lọc. Đổi chác thì có gian lận. Tính chất thiêng liêng tôn giáo của đền thờ đã bị tục hóa. Đền thờ và nhu cầu cứu rỗi của dân chúng bị lạm dụng. Thay vì chỉ đường hướng lên Thiên Chúa, nó lại hướng dẫn người ta xuống cõi trần tục.

Ngày nay tại các cộng đoàn của người Việt Nam, nhiều nhà thờ nguy nga lộng lẫy cũng đã được xây dựng. Nhưng đôi khi nhà thờ đã trở nên một công trình để phô trương tài năng và tiền bạc của con người thay vì để ca tụng Thiên Chúa!

Thứ hai, những người lãnh đạo tôn giáo đã coi thường tính cách phổ quát của đền thờ. Đã khinh thường và loại trừ những người khác. Đền thờ Giêrusalem chia ra làm 5 khu vực như sau: 1- Khu cực thánh. 2- Khu của các vị tư tế. 3- Khu của dân Israel. 4- Khu của phụ nữ. 5- Khu của dân ngoại. Mặc dù phân chia ra làm năm cấp, nhưng tất cả đều có chỗ trong nhà của Thiên Chúa. Ngôi nhà phổ quát của Thiên Chúa dành cho mọi người, “cho tất cả mọi quốc gia” ở khắp mọi nơi trên trái đất, một nơi để cầu nguyện và thờ phượng Thiên Chúa. Nhưng những người lãnh đạo tôn giáo đã quên mất điều này và nghĩ rằng đền thờ là của riêng họ và dân tộc họ mà thôi. Họ đã quyết định biến khu vực thứ 5, dành cho dân ngoại thành khu chợ, buôn bán súc vật, và trao đổi tiền bạc!

Sự chiếm đóng của đế quốc Roma là một điều tủi nhục đối với người Do Thái. Đồng tiền Roma mang hình ảnh của hoàng đế Caesar là một sự phỉ báng nếu đem nó vào trong bốn khu vực kia của đền thờ. Vì thế, nó chỉ được sử dụng và lưu hành trong khu dân ngoại mà thôi. Do đó, khu vực dân ngoại đã bị loại trừ, không được coi là thuộc về Đền Thờ, Nhà Chúa, mà chỉ là khu họp chợ buôn bán đổi chác tiền bạc. Chúa Giêsu đã đánh đuổi những kẻ buôn bán, hất tung tiền bạc của những người đổi chác: “Hãy đem những thứ này ra khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2: 16).

Trong thời kỳ còn phân biệt và kỳ thị chủng tộc, những người da màu đã không được phép bước vào nhà thờ của những người da trắng. Gandhi người Ấn Độ Giáo, khi còn là một thanh niên, ông đã bước vào một nhà thờ Kitô Giáo để cầu nguyện, nhưng đã bị người hướng dẫn chỗ ngồi của cộng đoàn mời ra vì màu da của ông. Từ đó trở đi ông đã không bao giờ bước vào nhà thờ Kitô Giáo nữa, vì ông cảm thấy rằng những người Kitô Giáo còn thua xa những người Ấn Độ Giáo!

Thứ ba, Đền thờ Giêrusalem là biểu tượng của sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Israel với tình yêu và sự trung thành của Ngài trong suốt chiều dài lịch sử cứu độ. Vì thế, đền thờ chiếm một vị trí rất quan trọng trong đời sống của dân chúng. Nó diễn tả sự trở về thành công sau bao nhiêu năm lưu vong. Nó là nơi hội họp của cộng đoàn trong thời gian bị người ngoại quốc chiếm đóng. Đền thờ Giêrusalem đã trở nên giống như tờ giấy căn cước, xác định căn tính và giá trị tinh thần của dân tộc Do Thái.

Nhưng tiếc thay, vì quá chú trọng đến ý nghĩa này, đền thờ đã trở nên một biểu tượng đầy hãnh diện và quyền lực của dân Do Thái. Nó là niềm kiêu hãnh của một dân tộc. Thay vì đền thờ chỉ đường hướng lên với Thiên Chúa, nó lại quy hướng người ta vào niềm kiêu hãnh của một dân tộc. Đó là lý do tại sao Chúa phẫn nộ và nói tiên tri về sự phá hủy của đền thờ: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21: 6; Mc 13: 2; Mt 24:2).

“Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại… Người có ý nói đến đền thờ là thân thể Người” (Ga 2: 19-21). Đền thờ Giêrusalem bằng gỗ đá đã không hướng dẫn người ta hướng về với Thiên Chúa, nên vào năm 70 đã bị tướng Titus của đế quốc Roma phá hủy bình địa như lời tiên tri của Chúa Giêsu đã nói để chấm dứt đền thờ của thời Cựu Ước. Bắt đầu thời Tân Ước, chính thân xác của Chúa Giêsu sẽ là đền thờ vĩnh viễn để đưa tất cả mọi con người, từ khắp các quốc gia về với Thiên Chúa.

Mùa Chay Giáo hội kêu gọi ta hướng lòng lên với Thiên Chúa. Tìm về gặp gỡ Thiên Chúa, nơi sa mạc (Chúa Nhật thứ I Mùa Chay), trên núi cao (Chúa Nhật thứ II Mùa Chay), và hôm nay Chúa Nhật thứ III Mùa Chay, chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa trong đền thờ, nơi Bàn Tiệc Thánh Thể.

Giáo Lý Công Giáo số 1324 dạy rằng: “Thánh Thể là nguồn mạch và đỉnh cao của sinh hoạt Giáo Hội. Các bí tích khác cũng như tất cả các thừa tác vụ trong Giáo Hội và các tác vụ tông đồ đều liên kết và quy hướng về Thánh Thể. Bởi vì Thánh Thể chứa đựng tất cả kho báu thiêng liêng của Giáo Hội, tức chính bản thân Chúa Kitô, lễ Vượt Qua của chúng ta.”

Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã lập lại lời của Công Đồng Vatican II (Lumen Gentium #11 và Presbyterorum Ordinis #5), và Sách Giáo Lý Công Giáo số 1324 để nhấn mạnh rằng “Thật vậy, phép Thánh Thể chí thánh chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng của Giáo Hội: đó là chính Đức Kitô” (Ecclesia De Eucharistia #1).

Về mục lục

.

THANH TẨY ĐỀN THỜ-

Lm. Đinh Lập Liễm

Đền thờ là nơi qui tụ mọi người thành cộng đồng tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý (Jn 4:23-24) là ngợi khen, cảm tạ, cầu nguyện với tinh thần đức tin, đức cậy và đức mến sâu sắc như Đức Maria đã thể hiện trong lời kinh Magnificat (Sách Giáo lý số 2906-2907).

Đền thờ Giêrusalem là một đền thờ nguy nga tráng lệ đã được vua Hêrôđê Cả ra lệnh trùng tu đại qui mô từ năm 19 trước công nguyên và mãi đến năm 63 sau công nguyên mới hoàn thành. Sự kiện Đức Giêsu xua đuổi kẻ buôn bán xẩy ra vào năm 27-28 sau Chúa Giêsu thì việc trùng tu đó kéo dài 46 năm (Jn 2:20). Điều này rất phù hợp với Thánh Luca 3,1-2 nói về ngày Chúa chịu phép rửa năm 15 đời hoàng đế Tiberiô. Đây là một nêu mốc khá chắc chắn để tính niên lịch của Chúa. Công việc trùng tu đền thờ đòi hỏi rất nhiều nhân công. Flavius Joseph nói rằng khi xong việc người ta phải thải về 18 ngàn thợ. Như thế mới thấy rằng Đền thờ Giêrusalem lớn lao và đẹp đẽ đến chừng nào (Mk 13:1-2).

Vào dịp lễ Vượt qua của người Do Thái, Đức Giêsu lên Giêrusalem, thấy người ta đổi tiền, mua bán súc vật làm ô uế Đền thờ, Ngài lấy làm khó chịu xua đuổi họ ra khỏi đền thờ: ”Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán” (Jn 2:16). Cũng nên biết là những người ở xa đến khó có thể đem theo súc vật để hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong Đền thờ là cần thiết hay ít ra được dung thứ. Vậy nếu việc mua bán súc vật là tiện lợi cho người từ xa tới, thì sao Đức Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật quanh Đền thờ? Thưa chúng ta thấy có một số lý do:

Lễ Vượt qua của người Do Thái được tổ chức rất long trọng ở Giêsrusalem. Theo luật pháp, mọi người nam Do Thái sống cách xa Giêrusalem trong vòng 25 cây số bắt buộc phải đi dự lễ. Trong các lễ của người Do Thái, lễ Vượt Qua là lễ trọng nhất. Không phải chỉ có người Do Thái trong xứ Palestine đến dự lễ mà các người Do Thái ở khắp nơi (Act 2:15-11) cũng hướng về quê hương và mong được mừng lễ Vượt qua tại Giêrusalem ít nhất một lần trong đời. Chuyện nghe thật đáng kinh ngạc, nhưng dường như cũng đã có đến 2.2 triệu người Do Thái đã tập họp về Xứ Thánh dự lễ Vượt qua.

Theo thói quen, mỗi khi hành hương lên Giêrusalem mừng lễ người ta thường dâng của lễ bằng con vật sống. Trong sân đền thờ có chỗ bán con vật sống là việc bình thường. Nhưng cái không bình thường là sự lạm dụng. Luật qui định là bất cứ con vật nào dùng làm lễ tế đều phải lành lặn, không tỳ vết (Ex 12:5). Các chức sắc quản trị đền thờ bổ dụng những người kiểm tra để khám xét con vật, mỗi lần khám xét đều phải trả lệ phí một phần mười hai siếc-lơ. Nếu khách hành hương mua một con vật ngoài đến thờ, chắc chắn con vật ấy sẽ bị từ chối khi khám xét. Ngoài ra, mỗi con vật mua trong đền thờ có khi phải trả đắt gấp 15 lần so với giá mua bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bóc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công xã hội này càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.

Luật buộc mỗi người Do Thái phải nộp thuế cho đền thờ từ 19 tuổi trở lên (Ex 30:13-14). Tiền thuế phải nộp là nửa siếc-lơ, bằng hai ngày lương công nhật. Trong việc giao dịch bình thường, có đủ mọi thứ tiền ở Palestine, nhưng thuế nộp cho đền thờ là một thứ tiền riêng của người Do Thái, khách hành hương phải đổi lấy thứ tiền này. Người ta lấy lý do là các thứ tiền khác bị xem là ô uế không thể dùng để trả nợ cho Thiên Chúa. Khách hành hương phải chịu những tệ nạn bọn đổi bạc với giá cắt cổ.

Trước những bóc lột quá đáng như thế, Đức Giêsu bừng bừng nổi giận. Thánh Gioan cho biết là Chúa đã lấy dây bện thành một ngọn roi xua đuổi bọn họ và đạp đổ tung thùng tiền. Đức Giêsu đã cảnh cáo bọn họ: ”Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Đây cũng là lời quở trách những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ đã đồng lõa trong việc trần tục hóa và thương mại hóa Đền thờ. Tin Mừng Thánh Matthêu (21,13), Marcô (11,17),và Luca (19,38) còn trích sách ngôn sứ Isaia để cảnh giác họ: ”Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp” (Is 56,7).

Khi xua đuổi những người buôn bán trong Đền thờ, Đức Giêsu đã bộc lộ cho chúng ta thấy lòng tôn kính của Ngài đối với nhà của Chúa, và để lại cho chúng ta một tấm gương sáng về cung cách tôn kính những nơi thờ phượng như những thánh địa dành riêng cho việc cầu nguyện mà thôi.

Khi Đức Giêsu nói với người Do Thái: ”Hãy phá hủy Đền thờ này đi. Nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại” (Jn 2:19). Nếu hiểu chữ “Đền thờ” theo nghĩa vật chất thì làm sao xây dựng lại được vì Đền thờ này lớn lao phải dựng lại mất 46 năm mới hoàn thành? Người Do Thái không thể hiểu câu nói của Đức Giêsu và cho đó là câu nói hồ đồ và có tính cách phạm thượng. Nhưng ý Đức Giêsu muốn nói: Đền thờ ấy chính là thân thể Ngài.

Đền thờ vật chất là những nhà thờ mà chúng ta xây dựng. Đền thờ thiêng liêng là thân xác chúng ta, con người chúng ta hay là Hội Thánh. Chúng ta không ngại tốn công, tốn của để sửa sang hay xây cất nhà thờ. Dù phải hy sinh đến mấy, miễn là làm được nhà thờ là chúng ta không quản ngại. Nhưng còn một đền thờ khác nữa, mà có khi chúng ta chưa lo sửa sang cho đủ, đó là con người chúng ta, thân xác chúng ta. Thánh Phaolô nói: ”Thân xác anh em là đền thờ Thiên Chúa, nơi Thánh Thần ngự trị” (I Cor 3:16-17). Vì vậy, song song với việc lo xây cất nhà thờ ở bên ngoài là xây cất nhà thờ nội tâm với một nền móng vững chắc là đức tin ( I Cor 3:11) và những sự hiểu biết cần thiết về đạo, và những đồ trang trí là những đức tính của một Kitô hữu trưởng thành như khoan dung, quảng đại, thông cảm và tha thứ.

Thánh Kinh hôm nay nhắc nhở ta: ”Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa hun đúc tâm hồn tôi” (Tv 68.10). Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa phải nhắc nhở cho chúng ta biết tỏ ra tôn kính nhà Chúa, biết giữ sạch sẽ cho nhà Chúa. Lòng nhiệt thành cho nhà Chúa phải nhắc nhở ta dạy dỗ cho con cháu biết phân biệt đâu là nơi thờ phượng. Dạy cho con cháu biết tôn trọng nhà thờ, nơi thờ phượng thì phải giữ nghiêm trang, không la hét, trò chuyện, xả rác… Ta cũng nên xét theo phương diện tích cực xem, ta có thể làm gì để tỏ ra tôn kính nhà Chúa như săn sóc, giữ gìn và bảo vệ nhà Chúa.

Nhìn ra các tôn giáo bạn, ta thấy người Hồi giáo khi vào nhà thờ của họ, phải để giầy ngoài sân. Ta có thể tưởng tượng giả sử có một ngàn người để một ngàn đôi giầy, tức là hai ngàn chiếc bên ngoài, ra khỏi đền thờ đi tìm chiếc giầy nào là của mình trong hai ngàn chiếc giầy thì sẽ lộn xộn và khó khăn như thế nào. Tuy nhiên, để tỏ ra tôn kính nơi thờ phượng, người Hồi giáo vẫn giữ điều lệ này cho tới ngày nay.

Nói tới việc bênh vực nhà Chúa theo gương Đức Giêsu, chúng ta cũng cần phân biệt hai loại đền thờ, đó là đền thờ vật chất mà mọi người qui tụ về đó để tôn vinh Thiên Chúa. Và còn một đền thờ nữa là con người chúng ta, thân xác chúng ta.

Chúng ta đã có nhà thờ dùng để thờ phượng Chúa, để tổ chức những sinh hoạt phụng vụ hay làm các việc đạo đức. Ai cũng yêu mến nhà thờ của mình. Ai cũng bênh vực, không để cho người khác phạm đến nhà thờ. Có khi chúng ta chịu đổ máu để bênh vực nhà thờ của chúng ta. Nhưng chúng ta phải lưu ý: nhà thờ là nhà của muôn dân, nơi dành cho mọi người đến cầu nguyện, không phân biệt tôn giáo, giai cấp, mầu da, chủng tộc. Nhiều khi vô tình hay hữu ý, ai trong chúng ta cũng có lần thành chướng ngại vật ngăn cản anh em tìm đến gặp Chúa: chỉ cần một lời nói cứng cỏi và thiếu tế nhị, một thái độ lạnh nhạt thiếu nhã nhặn hay một cử chỉ khinh thường tha nhân… là chúng ta đã có thể xua đuổi anh chị em lương dân ra khỏi nhà thờ và sau này họ khó có cơ hội khác để trở lại.

Khi còn là một sinh viên, Gandhi được du học tại Nam Phi, một thuộc địa của nước Anh. Tại đây nổi tiếng về tệ nạn phân biệt chủng tộc. Trong thời gian này, Gandhi có dịp đọc Kinh Thánh của Kitô giáo và lập tức ông bị giáo thuyết của Đức Giêsu cuốn hút, nhất là kinh Tám mối phúc thật trong Bài Giảng trên núi. Ông rất tâm đắc trước lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, là Do Thái hay lương dân… Gandhi nghĩ rằng: Có lẽ Kitô giáo là giải pháp tối ưu và hữu hiệu để giải quyết tận gốc sự phân biệt giai cấp trong xã hội Ấn độ quê hương của ông. Gandhi nghĩ mình nên tìm hiểu và sẽ gia nhập vào Kitô giáo.

Ngày nọ, Gandhi có ý định đi bộ đến một nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về giáo lý Công Giáo. Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ thì bị người giữ cửa chặn lại và không cho ông bước vào nhà thờ. Bấy giờ ông cho biết ý định tìm hiểu đạo của mình. Nhưng thật là bất ngờ khi người giữ cửa lại nói như sau: ”Đây là nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu mi muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến nhà thờ khác dành riêng cho dân da mầu mà xin!” Gandhi rất tức giận và bỏ về nhà, ông ghi lại cảm tưởng trong nhật ký của ông như sau: ”Tôi rất thán phục Đức Giêsu và giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung của Ngài. Thế nhưng tôi rất bất mãn mỗi khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ của Ngài! Nếu trong đạo Kitô mà cũng còn phân biệt chủng tộc như vậy, thì Kitô giáo có hơn gì Ấn giáo có phân biệt giai cấp của tôi? Thôi, tôi cần chi phải gia nhập đạo này. Tốt nhất là tôi cứ chấp nhận có bất toàn trong Ấn giáo và cố gắng sống theo giáo lý truyền thống của cha ông là đủ!”

Nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa và trở thành đền thờ của Chúa như Thánh Phaolô đã nói (x. 1Cr 3,16). Trong nghi thức rửa tội cho trẻ em, Linh mục đọc lời nguyện trừ tà xua đuổi ác thần ra khỏi em bé để em được trở nên đền thờ của Chúa: ”Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã sai Con Chúa xuống thế gian, để trục xuất quyền lực của ác thần Satan ra khỏi chúng con, giải thoát và đem con người được giải thoát khỏi tối tăm vào ánh sáng kỳ diệu của Nước Chúa. Chúng con nài xin Chúa làm cho những em này, sau khi khỏi tội nguyên tổ, được trở thành đền thờ của Chúa uy linh, và xin Chúa cũng cho Thánh Thần ngự trong các em.”

Khi đã trở thành đền thờ thiêng liêng của Chúa chúng ta có nhiệm vụ bảo vệ cho xứng đáng, đừng bao giờ để cho thần Mammon trở vào chiếm giữ, vì như Chúa nói: ”Kho tàng của con ở đâu thì lòng con ở đấy” (Mt 6,21). Tiền của là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống vì “Đồng tiền liền khúc ruột”, nhưng đừng để cho tiền của lấn át linh hồn. Chúng ta phải khôn ngoan biến tiền của thành đứa đầy tớ trung thành phục vụ mình, đừng bao giờ để cho nó trở thành ông chủ khắc nghiệt chế ngự ta.

Chúng ta là những Kitô hữu, cuộc sống chúng ta đã được dâng hiến cho Thiên Chúa và đã trở thành đền thờ cho Chúa ngự. Nỗ lực của chúng ta là phải làm sao sống xứng đáng là đền thờ của Chúa, đừng bao giờ đuổi Chúa ra khỏi đền thờ này. Vì thế, chúng ta hãy cố gắng biến cuộc đời của chúng ta thành đền thờ của Chúa Ba Ngôi.

Để kết thúc, ta hãy đọc lời nguyện sau đây được viết trên cửa một nhà thờ nọ: “Lạy Chúa, xin làm cho cánh cửa này đủ rộng để có thể đón tiếp mọi người nào cần đến tình thương của đồng loại, anh em; nhưng cũng đủ hẹp để có thể ngăn chận mọi kiêu căng, ganh tị, bất hoà. Xin làm cho ngưỡng cửa này đủ phẳng để buớc chân của trẻ thơ và những người lầm đường lạc lối vào đây mà không bị vấp ngã.  Xin làm cho nhà này là nhà cầu nguyện và là cổng dẫn vào Nước Chúa” (Theo Flor McCarthy).

Về mục lục

.

LÀM CHỦ

Lm Vũđình Tường

Phố chợ là nơi tập trung buôn bán đủ loại từ súc vật, trâu bò, đến gia cầm, rồi đồ dùng, vật dụng và ngay cả thực phẩm thức ăn, thức uống, cộng thêm cả gian hàng vàng bạc lẫn đổi chác tiền bạc. Để có phép buôn bán và làm chủ những gian hàng người ta phải trả tiền thuê mướn hàng năm. Khi có thanh tra họ có giấy phép đưa ra trình cho biết họ làm chủ gian hàng và có quyền buôn bán.
Đức Kitô rất bất bình khi nhóm lãnh đạo cho phép thương buôn, buôn bán trong Đền Thờ biến nơi thờ phượng thành phố chợ. Họ có tiền, có thế lực, coi Đền Thờ là tài sản riêng của gia đình họ.

Đức Kitô dùng giây thừng đuổi bò lừa ra khỏi đền thờ, lật đổ tung bàn đổi chác hàng hoá và rất nhẹ nhàng với dân nghèo bán chim bồ câu. Ngài nói với họ

Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán Gn 2,16

Câu nói trên nói lên nhiều điều quan trọng. Trước hết Đức Kitô coi Đền Thờ là nhà của Thiên Chúa nơi trần gian và Thiên Chúa là Cha của Ngài. Thứ hai, Đức Kitô là Đấng đầu tiên và là Đấng duy nhất ví thân xác mình là Đền Thờ. Thứ ba, mù quáng vì lợi nhuận nhóm lãnh đạo Đền Thờ biến nơi thờ phượng thành hang trộm cắp. Thứ tư, Thiên Chúa là Đấng duy nhất làm chủ Đền Thờ, con buôn và nhóm lãnh đạo không phải chủ, đúng hơn họ có trách nhiệm coi sóc Đền Thờ.

Hành động xua đuổi quân buôn bán không chỉ làm cho thương buôn bực tức mà còn làm cho nhóm lãnh đạo Đền Thờ mất mặt. Họ hội họp với nhau tìm cách giết Ngài. Họ chất vấn Ngài:

Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ chúng tôi biết là ông có quyền làm điều đó.

Đức Kitô đáp

Phá huỷ Đền Thờ này đi, ba ngày sau tôi sẽ xây lại c.13.

Họ nhìn nhau cười chế diễu vì ba ngày làm sao có thể làm điều cha ông họ mất nhiều năm để xây cất. Câu trả lời của Đức Kitô vượt quá tầm hiểu biết của họ bởi Đức Kitô ngụ í nói về chính thân thể Ngài. Ngày nay chúng ta biết thân thể Đức Kitô là Đền Thờ và cuộc tử hình thập giá và sau ba ngày sống lại vinh quang đã xảy ra đúng như điều Đức Kitô tiên báo trước về thân thể Ngài.
Dùng hình ảnh Đền Thờ nói lên thân thể mình Đức Kitô cho biết. Đền Thờ là của Thiên Chúa và không ai có quyền coi Đền Thờ là của riêng. Khi trả lời nhóm gài bẫy bắt bẻ Đức Kitô họ hỏi Ngài có nên đóng thuế cho Caesar không? Đức Kitô nói với họ.

Của Caesar trả về Caesar, Của Thiên Chúa trả về Chúa Mat 22,21.

Thứ hai, Đền thờ thuộc về Thiên Chúa và chỉ một mình Ngài có quyền làm chủ Đền Thờ bởi vì đó là nơi Thiên Chúa ngự trị.

Thứ ba, Đền Thờ là nơi thờ phượng Thiên Chúa và hãy dùng đúng mục đích của Đền Thờ làm nơi thờ phượng.

Thứ tư, Đức Kitô có toàn quyền trên thân thể Ngài khi Ngài nói

Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự í hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Gn 10,18

Chúng ta không làm chủ gì cả, kể cả thân xác mình cũng là của Chúa ban. Sức khoẻ, trí khôn, tài năng, khéo léo, sắc đẹp tất cả đều do Chúa ban để chúng ta hưởng dùng và giúp đỡ anh chị em khác. Thánh Phaolô cho biết thân xác anh chị em là đền thờ Chúa Thánh Thần 1Cor 6,19. Anh chị em nhận lãnh từ Thiên Chúa vì thế cần giữ thân xác cho trong sạch xứng đáng đền thờ Chúa Thánh Thần. Khi cuộc lữ hành trần thế chấm dứt thân xác cát bụi trở về cát bụi; hình ảnh Thiên Chúa trong ta trở về với Thiên Chúa. Cần giữ tâm hồn trong sáng, sạch sẽ trước tôn nhan Thiên Chúa bởi chúng thuộc về Thiên Chúa. Chúng ta xin ơn làm chủ thân xác mình, đừng để cho thói hư, nghiện ngập làm chủ thân xác.

Về mục lục

.

THANH TẨY “NHÀ THỜ”

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Các môn đệ Chúa Giêsu khi chứng kiến việc Thầy mình thịnh nộ trước sự kiện người ta biến đền thờ thành nơi buôn bán, đã nhớ lại lời Kinh Thánh: “Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”. Một cơn thinh nộ đúng nghĩa bằng việc lấy dây làm roi đánh đuổi người buôn bán chiên bò, lật nhào bàn ghế và hất tung tiền của những người đổi bạc. Quả là to gan, nếu không là tên phạm thượng thì cũng là phường phá hoại. Cần phải nghiêm trị nếu không sẽ mất hết luật lệ, mất hết truyền thống, tôn ti…

Trước hết cần phải cật vấn ông này lấy quyền gì mà làm những sự to gan, tày trời như vậy. Những người Do Thái lúc bấy giờ, cách riêng những người đang có trọng trách đã kinh ngạc trước câu trả lời của Chúa Giêsu: “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”. Dĩ nhiên họ chẳng thể hiểu nội hàm câu trả lời của Người. Sau này, khi chứng kiến cuộc khổ nạn và phục sinh của Thầy chí thánh, các môn đệ mới hiểu Thầy dùng chính mạng sống của mình để làm dấu chỉ cho việc Người có quyền hành sử những sự to gan như thế. Đã chấp nhận hy sinh mạng sống vì sự việc gì đó thì nó phải có tầm quan trọng đáng kể và việc đó chính là thanh tẩy đền thờ.

Thanh Tẩy nhà thờ vật chất gỗ đá (église – church): Chuyện nhỏ. Quét bụi, lau chùi bàn ghế nhà thờ… là chuyện phải làm. Người ta vẫn làm thường nhật hay thường kỳ mà chẳng một ai thắc mắc. Ra những quy luật để gìn giữ các nhà thờ thực sự là nơi quy tụ tín hữu cho việc thờ phượng, tránh các lạm dụng làm mất sự thiêng thánh, thì cũng là chuyện dễ đón nhận và tuân giữ. Nhiều nơi, nhiều giáo xứ khi có điều kiện đã xây phòng hội, xây phòng giáo lý để tách các việc hội họp, dạy giáo lý ra khỏi nhà thờ. Đây là việc làm chính đáng nhưng cũng vẫn là chuyện không lớn.

Thánh hiến hay làm phép một ngôi nhà thờ cũng chẳng là chuyện trọng đại nếu xét về công sức bỏ ra. Chỉ một thánh lễ do Đức Giám Mục chủ sự hay do một linh mục được uỷ quyền thì mọi sự gọi là hoàn tất.

Thanh tẩy Nhà Thờ (Église – Church): Chuyện lớn. Khi hai từ nhà thờ được viết hoa thì đã không còn là một công trình kiến trúc vật chất, cho dù vẫn còn nhiều người, nhiều tập thể, vì thiếu hiểu biết hay cố tình làm như không biết, gọi là “bọn Nhà Thờ” hay “Nhà Thờ”, mà thực ra đó là Giáo Hội. Thanh tẩy Giáo Hội ư? Chuyện lớn đấy! Đó là một cơ cấu tổ chức, là một thực thể có tính thánh thiêng. Đó là tập thể những người có niềm tin. Và cũng không thể không kể, cho dù chỉ là đại diện, đó là những người đang có quyền cao, chức trọng. Trong niềm tin và theo giáo lý, Giáo Hội được Công đồng Vatican II trình bày với hình ảnh nền tảng đó là đoàn dân Thiên Chúa. Thế nhưng dưới cái nhìn người bình dân trong đạo và theo nhãn quan của bà con ngoài đạo thì quý đấng bậc có “chức vụ cao trọng” được đồng hoá với Giáo Hội cách nào đó.

Để làm cho cơ cấu tổ chức và luật lệ thực sự có ra vì con người chứ không ngược lại, thì quả là chuyện không nhỏ chút nào (x.Mc 2,27). Công đồng Vatican II đã kết thúc vào năm 1965, thế mà phải đến năm 1983 Bộ tân Giáo Luật mới được hình thành. Thử hỏi nội dung và tinh thần của bộ Giáo Luật 1983 đã được triển khai và áp dụng ra sao và ở mức độ nào? Chuyện “phép vua thua lệ làng” hình như vẫn tồn tại ít nhiều nơi này nơi kia. Để giúp những người đang mang trọng trách với chức vị lớn trở thành “người hầu thiên hạ” thì cũng không phải là việc một sớm một chiều (x.Mc 9,35). Chuyện “phủ bênh phủ, huyện bênh huyện” là chuyện vẫn không là cá biệt. Thỉnh thoảng có một vài tín hữu giáo dân vì thành tâm mà bạo miệng lên tiếng về một vài tình trạng “cha chú” đó đây, hoặc lên tiếng về thái độ thụ động của đấng này, vị kia trước bất công, bạo quyền, thì cũng dễ bị hứng “búa rìu” đủ kiểu.

Thanh tẩy đền thờ tâm hồn: chuyện hệ trọng. “Bách niên chi kế, mạc như thụ nhân” (Quản Trọng). Và kế ngàn đời là trồng con cái Chúa. Trồng người con Chúa ra sao đây? Bản Thập giới mà bài trích sách Xuất Hành trình bày không hề lỗi thời mà trái lại. Chúa Kitô đã minh nhiên nhắc lại điều này với một vị luật sĩ và với người thanh niên muốn nên trọn lành (x.Mt 19,16-19). Để mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn, đồng thời yêu thương tha nhân như chính mình thì chuyện thanh tẩy là chuyện phải làm cả đời.

Theo thiển ý, để có những đền thờ tâm hồn trong sáng, thánh thiện, xứng đáng, thì một trong những điều cần thanh tẩy đó là sự tham lam. Thánh Tông đồ dân ngoại đã từng gọi tham lam là một hình thức “thờ ngẫu tượng”. Chúa Kitô cũng đã từng ví “của tiền” (dĩ nhiên có cả chức quyền, danh vị) như một vị thần, khi Người nói rằng không được làm tôi hai chủ (x.Lc 16,13). Và thực tiển minh chứng rõ ràng lòng tham lam, tham danh, hám lợi đã giết chết hay làm băng hoại tình người thật khó lường. Sự tham lam khi đã được quyền bính bảo kê hay được luật lệ hợp thức hoá thì hậu quả thật khó lường. Đức Bênêđictô XVI trong cuốn “Đức Giêsu thành Nagiarét” nhận thức rằng khi Chúa Giêsu thanh tẩy đền Thờ Giêrusalem, Người không phá bỏ lề luật nhưng Người đánh đổ các sai trái của con người vốn đã được lề luật hoá (Phần II trang 24).

Thanh tẩy nhà thờ gỗ đá, cách riêng Nhà Thờ viết hoa hay đền thờ tâm hồn chắc chắn phải có trả giá. Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng, dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan thì chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô chịu đóng đinh…(1Cr 1,22). Chúa Kitô đã chấp nhận để người ta phá “thân thể Người” để rồi xây lại sau ba ngày không phải chỉ để thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem mà đặc biệt để thanh tẩy cái Nhà Thờ viết hoa cũng như các đền thờ tâm hồn, tức là con người qua mọi thời đại.

Môn đệ không trọng hơn Thầy (x.Ga 15,20). Rất nhiều người, nhiều vị thánh đã từng to gan tiếp bước chân Thầy chí thánh nhiệt thành lo việc thanh tẩy Nhà Thờ viết hoa, thanh tẩy các đền thờ tâm hồn. Và số phận của họ đã dẩy đầy truân chuyên. Nói gì cho xa, để có được thành quả là Công Đồng Vatican II và gìn giữ cũng như phát triển thành quả ấy thì nhiều vị, nhiều đấng bậc đã chấp nhận bao hy sinh, khổ ải, truân chuyên. Cuộc đời của Hồng Y Ives Congar, cha Marie –Dominique Chenu, Đức Gioan XXIII, Đức Phaolô VI… là những minh chứng hùng hồn.

Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Một quy luật như là tất yếu. Đã sợ thiệt thân thì hầu chắc không làm được sự gì tốt cho việc nhà Chúa. An thân, thủ phận, hay sống theo “chủ nghĩa cơ hội” thật không xứng với người môn đệ Chúa Kitô. Có thể có nhiều lý do, nhưng chắc chắn có lý do này, đó là chưa nhiệt tâm lo việc nhà Chúa. Khi chưa nhiệt tâm lo việc nhà Chúa thì có lẽ chúng ta đang mãi mê lo việc nhà mình chăng?

Về mục lục

.

LÀM Ô UẾ ĐỀN THỜ HỮU HÌNH CỦA THIÊN CHÚA

P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn, hành trinh lên Giêrusalem của Chúa Giêsu là một hành trình tiến đến Mầu Nhiệm Tử Nạn của Người. Chúng ta thấy, Tin Mừng Chúa Nhật II MC củng cố niềm tin cho các môn đệ của Người là một Biến Cố Biến Hình, Thánh Vịnh 115 cho biết cuộc hành trình của Người ở tại câu : “ Trước nhan Thiên Chúa , Tôi sẽ đi trong miền đất của nhân sinh”. Điều nầy nói lên, Chúa Giêsu thực thi Sứ Vụ Thiên Sai của Người giữa nhân loại tội lỗi.

Hôm nay , Chúa Nhật IIi MC, Tin Mừng theo thánh Gioan cho chúng ta một chi tiết duy nhất trong cuộc đời Cứu Thế của Chúa Giêsu như thế nào khi Người tiến vào thành Thánh Giêrusalem ?

Gần đến ngày Lễ Vượt Qua của dân Dothai, Chúa Giêsu lên thành Giêrusalem, Người thấy những cảnh tượng mua bán chiên bò, gia súc để chuẩn bị cho Đại Lễ, trao đổi, tiền bạc và cảnh tượng nhốn nháo. Một cảnh tượng làm ô uế đền thờ Thiên Chúa không thể chịu đựng. Người liền lấy dây thừng làm roi, đánh đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi khu vực đền thờ.. Điều nầy , mặc nhiên dấy lên sự bất bình của những con buôn, bởi vì, lợi ích tư hữu của họ bị động chạm.người nói với họ : “ …Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán “.

Chúng ta thấy, sự nỗi giận của Chúa Giêsu là sự nỗi giận vì lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa, một sự nổi giận không vì bản Thân Người, mà là sự nỗi giận vì  người Dothai làm ô uế đền thờ Thiên Chúa, vâng, và đây là lần nỗi giận duy nhất trong cuộc đời Cứu Thế của Người. Đến độ, các mộn đệ của người nhớ lại Lời chép ytrong Thánh Kinh rằng :” Lòng nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa , sẽ làm hao tổn thân xác Tôi” . ( x. c 17) ( chỉ có duy nhất ở Ga)

 Và đến độ , Người so sánh sẵn sàng để cho người Dothai phá hủy đền thờ là chính Thân Thể Mầu Nhiệm của Ngưới tức cuộc khổ hình sắp xảy ra vời Đền Thánh Giêrusalem. Câu nầy cho thấy vừa là lời tiên tri, vừa là thể hiện hết mình Tính Thiên Sai Cứu Thế của Chúa Giêsu. Điều nầy cho thấy Chúa Giêsu tôn thờ Chúa Cha trong chân lý và tình yêu lớn như thế nào. Người sẵn lòng hy sinh, trao mình chịu nạn để cứu chuộc thế nhân, nhưng , Người không thỏa hiệp với sự làm ô uế đền thờ Thiên Chúa, dù là đền thờ hữu hình.

Như vậy, đền thờ hữu hình Giêrusalem, rồi sau đó, Lời tiên tri của Chúa Giêsu cũng bị sụp đỗ, dù thời gian xây dựng là bốn mươi sáu năm. Nhưng, đền thờ thiêng liêng là chính Thân thể Mầu Nhiệm của Người thì sẽ tồn tại muôn đời.

Lời tiên tri của Chúa Giêsu cho chính Thân Mình Mầu Nhiệm của Người. cũng ứng nghiệm như chính đền thờ hữu hình Giêrusalem vậy. Chúa Giêsu không nói suông, khi Người nỗi giận trước sự việc thờ phượng của Người Dothai, niềm tin và sự tôn thờ Thiên Chúa nơi họ thật là giả trá, hời hợt, chỉ là bên ngoài mà thôi.

Điều nầy cho thấy, sự bất xứng trong việc thờ phượng Thiên Chúa ở những nơi thiếu thành tâm, thiện chí, chỉ cầu hình thức bên ngoài, như những lễ hội rình rang, tốn công sức , thời gian vô bổ. Thức chất , bên trong, nội tâm con người trống vắng Thiên Chúa.

Trải qua hơn hai mươi thế kỷ, giá trị Đoạn Lời Chúa hôm nay còn nguyên tính thời sự. dù chưa thấy vị linh mục nào can đảm như Thấy Chí Thánh , đứng ra bảo vệ chính đáng những nơi thờ tự của Giáo Hội khi bị xâm phạm nghiêm trọng, có chăng chỉ là những thỏa hiệp mềm yếu, để được tiếng là “ khôn ngoan”.

Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện “, xin cho mọi Kitô hữu luôn ý thức và trung thành tuân giữ có trách nhiệm như Lời dạy của Chúa Giêsu .

Đền thớ vật chất luôn hướng đến đền thờ tâm linh là Chính Chúa, và đền thờ chính trong tâm hồn con người nhân thế có Chúa ở cùng.

Vì vậy, theo đó, khi vị linh mục đại diện Hội Thánh xướng lên lời chào : “ Chúa ở cùng anh chị em “, thì, chính lúc ấy , nếu tâm hồn từng người không phải là đền thờ của Thiên Chúa, thì sao Thiên Chúa có thể ở cùng chúng ta được. Vậy, muốn Thiên Chúa ngự trong tâm hồn chúng ta, thì chính tâm hồn chúng ta phải xứng đáng như một đền thờ đế Thiên Chúa ngự vào.

Vì thế, thánh phaolo đã nhắc nhở chúng ta : “ Anh em không biết sao, anh em là đền thờ của Thiên Chúa , và Thần Khí Thiên Chúa ngự trong anh em sao ?”

Thánh Vịnh 18 hôm nay, cho chúng ta biết “ Giới răn Chúa chính trực và luật pháp Ngài công minh”.

Và Bài đọc II hôm nay, thánh Phaolo cho chúng ta biết  (1Cr 1, 22 -25) rằng :”…người Dothai và Hylap thì dùng sự khôn ngoan của họ là lý trí  phàm nhân, họ xem thường Thập Giá, chính lúc ấy, Thiên Chúa muốn dùng Thập Gía để cứu độ con người qua Đức Giêsu –Kitô.”

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã rao giảng Nước Trời bằng một Lời mời vác Thập Gía và chính Chúa đã thực thi cho chúng con noi theo, trên đường lên thành thánh Giêrusalem, để chịu tử nạn, Người đã vác lấy Thập Gía siêu nhiên là xua đuổi con buôn tại đền thờ, để cho họ biết rằng, Chúa có quyền làm như vậy, vì , Người đã tự hiến đi chính Thân Thể Mầu Nhiệm của người cho thế gian . Xin cho Mọi Người chúng con biết tôn thờ Thiên Chúa trong chân lý và tình yêu là chính tâm hồn mỗi người chúng con ./. Amen.

Về mục lục

.

THANH TẨY TÂM HỒN TRỞ NÊN ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Ga 2,13-25

(13) Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái, Đức Giê-su lên thành Giê-ru-sa-lem, (14) Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. (15) Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ. Còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. (16) Người nói với những kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán”. (17) Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”. (18) Người Do Thái hỏi Đức Giê-su: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” (19) Đức Giê-su đáp: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi, nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (20) Người Do Thái nói: “Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?” (21) Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người. (22) Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó. Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói. (23) Trong lúc Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người bởi đã chứng kiến các dấu lạ Người làm. (24) Nhưng chính Đức Giê-su không tin họ, vì Người biết họ hết thảy (25) và không cần ai làm chứng về con người. Quả thật, chính Người biết có gì trong lòng con người.

  1. Ý CHÍNH:

Với lòng nhiệt thành yêu mến Thiên Chúa, Đức Giê-su không thể chấp nhận được cảnh tượng bát nháo diễn ra nơi Đền Thờ của Chúa Cha. Người đã biểu lộ uy quyền của Con Thiên Chúa bằng việc dùng roi xua đuổi bọn con buôn cùng với tiền bạc, chiên bò, chim câu của họ… ra khỏi Đền Thờ. Người tẩy uế Đền Thờ của Chúa Cha và khẳng định rằng: Từ nay việc thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa sẽ phải được cử hành mãi mãi trong Đền Thờ Mới là thân xác Phục Sinh của Người và trong lòng các tín hữu, thay sự thờ phượng tạm thời trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được làm bằng gỗ đá.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 13-15: + Lễ Vượt Qua của dân Do Thái: Vào thời Đức Giê-su, lễ Vượt Qua là một trong ba đại lễ, buộc người Do Thái ở khắp nơi phải hành hương về Đền thánh Giê-ru-sa-lem để sát tế và ăn bữa tiệc chiên Vượt Qua, kỷ niệm biến cố Xuất Hành, trong đó Đức Chúa đã dùng Mô-sê giải phóng con cháu Gia-cóp là dân Do Thái khỏi ách nô lệ cho dân Ai Cập. + Đền Thờ: Đền Thờ là dấu chỉ Đức Chúa hiện diện giữa dân Người. Không kể Đền thờ tạm là Nhà Lều trong thời gian 40 năm dân Do Thái đi qua sa mạc, còn có ba Đền Thờ đã lần lượt được xây dựng tại Giê-ru-sa-lem là Đền Thờ Sa-lô-mon, Đền Thờ Sau Lưu Đầy và Đền Thờ thời vua Hê-rô-đê. + Có những kẻ bán chiên bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền: Tại sân lương dân, các Tư tế cho một số người vào bán chiên, bò và chim câu… để dân chúng dễ dàng mua dâng vào Đền Thờ làm lễ vật hiến tế (x. Ga 2,14 ; Lc 2,24). Cũng có cả những người ngồi đổi tiền từ đồng tiền của Rô-ma sang đồng tiền riêng của Đền Thờ. Lý do đổi tiền vì tiền Rô-ma lưu hành ngoài xã hội có đúc hình và ký hiệu của hoàng đế Xê-da được coi như thần linh (x. Lc 20, 24-25), nên đã bị cấm sử dụng trong Đền Thờ. Người Do Thái muốn đóng thuế tôn giáo hay góp tiền trùng tu Đền Thờ (x. Lc 21,1-2) phải đổi từ đồng tiền Rô-ma lưu hành ngoài xã hội thành đồng tiền Đền Thờ tại bàn đổi tiền này, rồi mới được bỏ tiền Đền Thờ vào thùng quyên góp (x. Ga 2,14). + Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả…: Sự bất kính do bọn con buôn gây ra khiến Đức Giê-su rất đau lòng. Người nổi cơn thịnh nộ và đã lấy các đoạn dây thừng cột chiên bò bỏ lại đó đây, chắp lại làm thành dây roi, và dùng dây roi này mà đánh đuổi bọn con buôn và các con vật ra khỏi Đền Thờ.

– C 16-19: + “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”:  Nói câu này, Đức Giê-su đã gián tiếp nhận mình là Con Thiên Chúa ngang hàng với Thiên Chúa. “Nơi buôn bán” hay “hang trộm cướp” là kiểu nói diễn tả tình trạng bất kính trong Đền Thờ, một nơi tôn nghiêm được dành riêng thờ phượng Đức Chúa. Thế là ứng nghiệm lời các ngôn sứ đã tuyên sấm để quở trách dân Do Thái (x. Gr 7,11). + “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”: “Sẽ phải thiệt thân” nghĩa là “sẽ phải chết”. Như vậy ý nghĩa lời Thánh Vịnh 69,10 như sau: Lòng nhiệt thành với Đền Thờ sẽ khiến Đức Giê-su bị người đời bách hại (x. Ga 15,5). + Người Do Thái hỏi Đức Giê-su: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?”: “Người Do Thái” trong câu này ám chỉ các đầu mục của Đền Thờ là các Tư tế và thầy Lê-vi đang phục vụ Đền Thờ. Họ bực tức khi thấy Đức Giê-su đánh đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ mà chính họ đã cho phép. Do đó họ hạch hỏi Đức Giê-su đã dựa vào dấu lạ nào để chứng minh Người có quyền làm như thế. Trước đây họ cũng nhiều lần đòi Đức Giê-su phải làm phép lạ cho họ thấy để tin Người đã được Thiên Chúa sai đến (x. Mt 12,38 ; Mc 8,11 ; Lc 11,16). + “Các ông cứ phá Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày Tôi sẽ xây dựng lại”: Ở đây, Đức Giê-su cho họ một phép lạ làm chứng Người được Thiên Chúa sai đến, là Người sẽ sống lại nội trong ba ngày sau khi chết. Tuy nhiên Đức Giê-su sử dụng kiểu nói dụ ngôn mà các ngôn sứ hay dùng là gọi thân thể Người là Đền Thờ. Câu này có nghĩa là: Dù thân xác Người có bị giết chết thì cũng chỉ trong ba ngày sẽ sống lại.

– C 20-22: + Phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong: Do các đầu mục Do Thái đã hiểu lời Đức Giê-su theo nghĩa đen nên đã nói đến thời gian xây dựng Đền Thờ vật chất phải mất 46 năm (Khởi công năm 20 trước Công Nguyên và đến năm 26 sau Công nguyên mới tạm hoàn thành những công trình chính), đang khi ý Đức Giê-su lại muốn nói Đền Thờ là Thân Thể của Người. Sau này khi Thượng Hội Đồng Do Thái xét xử Đức Giê-su do Thượng Tế Cai-pha làm chủ tọa, có hai kẻ đã đứng ra cáo gian Người rằng: “Tên này đã tuyên bố: Tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa và nội trong ba ngày sẽ xây cất lại” (Mt 26,61). Các đầu mục còn nhắc lại lời tố cáo này khi lăng nhục Đức Giê-su trên thập giá (x. Mt 27,40). + Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính Thân Thể Người: Thân Thể Đức Giê-su phục sinh là nơi Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình ra cho loài người (x. Ga 1,14). Thân thể ấy là Đền Thờ Mới, nơi thờ phượng Thiên Chúa trong Thần khí và Sự thật (x. Ga 4,23-24). + Khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó: Chỉ dưới ánh sáng Phục Sinh và được Thánh Thần tác động, các môn đệ mới có thể hiểu chính xác các lời nói việc làm của Đức Giê-su (x. Ga 12,16; 14,26).

– C 23-25: + Nhiều kẻ tin vào danh Người, nhưng chính Đức Giê-su lại không tin họ: Phép lạ chỉ có tác dụng kích thích tính tò mò khiến người ta đến xem để biết thực hư ra sao, còn đức tin có được là do tai nghe (x. Rm 10,17) chứ không do mắt thấy (x Ga 20,29). Một số khá đông dân chúng đã tin Đức Giê-su vì thấy các phép lạ Người làm (x. Ga 12,17-18). Nhưng đức tin dựa trên mắt thấy là thứ đức tin bất toàn và không bền vững. Do đó Đức Giê-su không tín nhiệm hạng tín hữu này. Thực vậy, trong số đám đông dân chúng đòi kết án tử hình thập giá cho Chúa trước tòa Phi-la-tô, chắc không thiếu những kẻ đã từng tung hô khi đón rước Người vào Thành trước đó mấy ngày (x. Lc 19,37-38; Ga 12,12-15). + Đàng khác, phép lạ không đương nhiên dẫn đến đức tin: Các biệt phái và Kinh sư đã chứng kiến nhiều phép lạ Người làm, thế mà họ đâu có tin Người, trái lại còn đòi quan Phi-la-tô kết án tử hình thập giá cho Người (x. Ga 11,45-53). Ngòai ra, họ còn xuyên tạc phép lạ trừ quỉ của Đức Giê-su như sau: “Ông ta nhờ tướng quỉ mà trừ quỉ” (Mc 3,22). + Người biết họ hết thảy: Đức Giê-su biết rõ ý đồ của dân chúng theo Người là do vụ lợi, nên đã nói với họ rằng: “Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6,26). Người đòi bệnh nhân phải có đức tin như điều kiện để Người làm phép lạ chữa lành cho họ (x Mc 5,34). Người khen đức tin mạnh mẽ của người đàn bà xứ Ca-na-an trước khi chính thức chữa bệnh cho con gái bà (x Mt 15,28). Người đã không làm phép lạ ở Na-da-rét do dân làng không tin Người là Đấng Thiên Sai (x Mt 13,58).

  1. CÂU HỎI: 1) Lễ Vượt Qua là đại lễ kỷ niệm biến cố nào trong lịch sử dân Ít-ra-en? 2) Đền thờ là gì? Trong lịch sử có mấy Đền thờ đã được xây dựng tại Giê-ru-sa-lem? Đền thờ thời Đức Giê-su là Đền Thờ thứ mấy? 3) Tại sao trong Đền thờ Giê-ru-sa-lem lại có cảnh buôn bán chiên bò, bồ câu và đổi tiền? 4) Đức Giê-su đã có thái độ nào trước hiện tượng bát nháo bất kính nói trên? 5) Đức Giê-su đã trả lời thế nào khi người Do thái hạch hỏi người về quyền xua đuổi con buôn ra khỏi Đền thờ? 6) So sánh câu nói của Đức Giê-su về việc phá hủy Đền thờ trong Tin Mừng hôm nay với lời hai nhân chứng cáo gian Người trước tòa Thượng tế Cai-pha khác nhau thế nào? Họ còn nhắc lại điều cáo gian này vào lúc nào? 7) Thực ra Đền thờ Đức Giê-su nói tới ở đây ám chỉ điều gì? 8) Đức tin chân chính là do mắt thấy hay bởi tai nghe? Phép lạ có đương nhiên khiến kẻ vô tín tin Chúa không? Tại sao? 9) Đức Giê-su làm phép lạ nhằm mục đích gì? Người đòi bệnh nhân điều kiện gì trước khi chữa lành cho họ?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây. đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2,16):
  2. CÂU CHUYỆN:

1) MỖI TÍN HỮU ĐỀU LÀ ĐỀN THỜ CỦA THIÊN CHÚA:

Vua Trajano là hoàng đế cai trị nước Rôma từ năm 98 đến năm 117. Nhà vua đã cấm đạo, và đã bắt thánh Ignatio giám mục thành Antiochia. Tại tòa án, nhà vua đã chế nhạo đạo công giáo, rồi gọi thánh Ignatio là thằng quỉ xấu xa, thánh Ignatio giám mục thưa lại rằng:

– Tâu đức vua, chẳng có ai gọi người mang Thiên Chúa trong mình là thằng quỉ dữ được.

Nhà vua hỏi lại:

– Vậy ông mang Thiên Chúa trong mình ư?

Thánh Ignatio giám mục trả lời:

– Tâu đức vua, phải – tôi mang Thiên Chúa trong mình, vì những người đã chịu phép rửa tội, sống đời sạch tội, đều là đền thờ của Thiên Chúa. Bởi vậy, không hạnh phúc nào lớn lao cho bằng người công giáo, bằng được trở nên đền thờ Thiên Chúa; và cũng chẳng có gì can hệ cho con người bằng phải luôn là đền thờ cho Thiên Chúa ngự.

Nghe xong, hoàng đế Trajano đã lên án rằng:

– Ignatio thành Antiochia là người đã cậy mình vì mang Thiên Chúa trong mình nên phải điệu đến Roma, để làm của ăn cho thú dữ.

Trong Mùa Chay, Hội Thánh muốn các tín hữu chúng ta thanh tẩy đền thờ tâm hồn của mình như lời thánh Phaolô: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1Cr 3,16).

2) PHẢI THỜ CHÚA TRONG THẦN KHÍ VÀ SỰ THẬT:

Người ta kể rằng: một người kia nằm mơ, thấy thiên sứ dẫn mình đến một ngôi nhà thờ trong một ngày chúa nhật. Tại đó người này thấy người nhạc sĩ đang đàn phong cầm nhưng không nghe thấy tiếng âm nhạc, ca đoàn và cộng đoàn hát nhưng không nghe có âm thanh nào cả. Rồi đến khi linh mục đứng lên giảng, môi mấp máy, nhưng không ra tiếng nói nào cả. Người ấy rất đỗi ngạc nhiên hỏi thiên sứ, thì thiên sứ nói: “Ông không nghe thấy gì, vì không có gì để nghe cả. Những người trong nhà thờ không tham dự vào buổi thờ phượng, mà chỉ dự phần vào hình thức thờ phượng mà thôi. Tâm hồn họ trống rỗng. Họ không thờ phượng Chuá từ trong cõi lòng. Họ chỉ là những chiếc máy vô hồn phát ra. Họ nếu không nói là giả hình thì cũng là những loại người thờ Chuá bằng môi bằng miệng, còn lòng dạ họ đã xa Chuá lâu rồi.

Câu chuyện này dạy chúng ta một bài học quan trọng: khi vào nhà thờ thờ phượng Chúa, chúng ta cần đọc kinh cầu nguyện với thái độ tin tưởng và yêu mến. Hãy hát ngợi khen Chúa với lòng mến yêu tha thiết. Khi nào ta làm được như thế thì việc thờ phượng mới có ý nghĩa. Và chỉ những lúc đó, lời ca ngợi của chúng ta mới bay lên tới Chúa được.

3) TIẾNG CHIM HÓT TRONG BỤI MẬN GAI.

Thỉnh thoảng đài truyền hình VN lại cho chiếu lại bộ phim: “Tiếng chim hót trong bụi mận gai” mà tác giả là một nữ văn sĩ người Úc đạo Tin Lành. Khi viết cuốn tiểu thuyết này, bà đã đứng trên quan điểm của đạo Tin Lành để phê phán luật độc thân của hàng giáo sĩ Công Giáo. Tuy nhiên, câu chuyện này cũng là dịp để chúng ta suy nghĩ về sức mạnh của đồng tiền đã tác động không những trên cuộc đời của một linh mục mà còn ảnh hưởng lớn lao đến uy tín của Hội Thánh nữa.

Câu chuyện về một linh mục là Cha RÁP (Ralph): RÁP là một linh mục trẻ nhiều tài năng nhưng cũng đầy tham vọng. Vị linh mục này có nhiều ưu điểm, có sức cuốn hút mạnh mẽ khiến nhiều người đến với mình, nhưng đồng thời ông cũng muốn được nổi danh và ham mê tiền bạc vật chất. Trong số các người mến mộ cha Ráp, có một bà già quí phái giàu có, bà quí mến Cha cách đặc biệt, nhưng tình cảm của bà không được cha đáp lại, nên từ tình yêu biến thành thù hận. Tuy nhiên, thay vì trả thù theo kiểu thường tình, bà già này đã cố tình gài bẫy để bôi đen cuộc đời của vị linh mục trẻ bằng cách: Trước khi chết, bà đã làm một bản di chúc dâng cúng toàn bộ tài sản kếch sù của bà cho Hội Thánh Công Giáo, với điều kiện là Hội Thánh phải bổ nhiệm Cha Ráp trực tiếp quản lý số tài sản đó. Do quản lý nhiều tiền, Cha Ráp đã được bề trên cất nhắc lên địa vị cao trong Hội Thánh, nhưng đồng thời những đồng tiền mà Cha quản lý kia cũng biến đổi lòng đạo đức của Cha ngày càng xuống cấp, để rồi cuối cùng cha đã bị sa ngã trong vòng tay của một thiếu nữ xinh đẹp tên là Mê-ghi.

Câu chuyện nhằm chỉ trích Giáo Hội Công giáo, nhưng cũng nói lên một sự thực: Giáo Hội của Đức Kitô tuy bản chất tinh tuyền, nhưng lại gồm những con người bằng xương bằng thịt và có thể bị ảnh hưởng xấu do tiền của. Là con người, thì ai cũng phải cẩn thận khi sử dụng tiền của. Tiền của cần thiết cho mọi người, cho mọi tổ chức và cho cả Giáo Hội. Nhưng nó dễ chiếm địa vị độc tôn, khi nó trở thành chủ nhân như lời Chúa đã cảnh giác chúng ta: “Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của” (Mt 6,24).

4) PHẢI ĐỌC KINH DỰ LỄ THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA?

Có một người nằm mơ, thấy mình được một thiên thần dẫn đi quan sát sinh hoạt tại một nhà thờ vào ngày Chúa Nhật. Tại đó, khi dự lễ, ông thấy nhạc công đang say mê đánh đàn phong cầm nhưng ông lại không nghe thấy có tiếng đàn nào phát ra cả. Ca đoàn và cộng đoàn cũng ca hát và thưa kinh trong thánh lễ, nhưng ông cũng không nghe thấy lời hát hay câu kinh nào. Rồi khi linh mục chủ tế rao giảng Tin Mừng, tuy môi linh mục mấp máy nói, nhưng không lời giảng nào lọt vào tai ông. Ông ta rất ngạc nhiên quay sang hỏi thiên thần lý do tại sao không nghe được âm thanh, thì thiên thần trả lời như sau: “Sở dĩ ông không nghe thấy âm thanh, vì đã không có tiếng đàn hát hay lời giảng nào thực sự phát ra cả. Những người dự lễ trong nhà thờ nhưng tâm trí họ lại đang nghĩ đến chuyện khác và các ca viên thì hát mà không quan tâm đến lời mình đang hát. Họ là những người chỉ tôn thờ Thiên Chúa ngoài môi ngoài miệng, còn lòng họ thì ở xa Chuá!

Đôi khi chúng ta cũng đến với Chúa chỉ bằng lễ nghi bề ngoài mà thiếu tâm tình mến Chúa trong tâm hồn. Ðó chính là lối thờ phượng máy móc, vụ hình thức của những người biệt phái và kinh sư Do thái ngày xưa, cũng như của nhiều người tín hữu hôm nay. Họ chăm chỉ đọc kinh dự lễ nhưng chỉ làm theo thói quen và để khỏi bị mắc tội, mà không kèm tâm tình mến Chúa khi cầu nguyện dâng lễ.

  1. SUY NIỆM:
  2. Đức Giê-su thanh tẩy Đền Thờ:

“Cứ mỗi dịp gần Tết kéo dài đến tháng ba (âm lịch) hằng năm, cổng chùa lại léo xéo cảnh đổi tiền lẻ vào lễ chùa. Những tờ tiền 200, 500 đồng được đổi thành từng cục như viên gạch mộc, cứ “10 ăn 8 hoặc 10 ăn 7”. Tức 100.000 đồng tiền chẵn thì đổi được 70.000 hoặc 80.000 đồng loại chuyên dùng để “sắp lễ” (200, 500 đồng). Không biết bao nhiêu triệu đồng tiền “bé” được quay vòng cả năm không chán: người đi lễ đổi tiền, tiền ấy được ném vào xó xỉnh, cài vào chân tay, nách, đùi của các pho tượng đẹp nổi tiếng của quốc gia; rồi nhà chùa xách túi hoặc rổ rá đi gom tiền ấy lại đem ra đổi ngoài cổng chùa. Và vòng quay lại bắt đầu.

Đó là trích từ một bài viết trong Tuổi Trẻ Online diễn tả về tệ nạn xảy ra thường xuyên tại nhiều ngôi chùa Việt Nam thời gian gần đây, và đã bị dư luận lên án gay gắt. Câu chuyện người ta dùng tiền lẻ làm ô uế đình chùa Việt Nam cũng tương tự như câu chuyện dân Do thái làm ô uế Đền Thờ Giê-ru-sa-lem thời Đức Giê-su, đã được Người thanh tẩy như trong Tin Mừng Gio-an sau đây:

“Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ. Còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2,14-16).

Hành động xua đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ của Đức Giê-su cho thấy: Việc lạm dụng Đền Thờ để tìm tư lợi là làm mất đi sự trang nghiêm của nơi thờ phượng và làm ô uế Đền Thờ,… Đó là một trọng tội cần phải được cấp thời chấn chỉnh. Đức Giê-su đòi người ta trả lại chức năng thực sự của Đền thờ khi nói: “Đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2,16b). Qua hành động này, Đức Giê-su cũng gián tiếp bác bỏ lối thờ phượng Thiên Chúa hình thức bề ngoài, đúng như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm lời Đức Chúa quở trách dân Do thái xưa: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 76b; Is 29,13).

2) Thân xác chúng ta cũng là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần:

– Để trả lời những kẻ chất vấn lấy quyền nào để ra tay xua đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ, Đức Giê-su đã trả lời như sau: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội ba ngày Tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Qua đó, Người ám chỉ Người chính là Đấng Thiên Sai và thân thể của Người giống như Đền Thờ, sẽ bị tàn phá do người đời, nhưng đến ngày thứ ba sẽ từ cõi chết trỗi dậy.

– Ngoài ra thân xác mỗi người chúng ta cũng là Đền Thờ của Thiên Chúa như thánh Phao-lô dạy: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (I Cor 3,16.19). Do đó, chúng ta phải tôn trọng Đền Thờ của Chúa Ba Ngôi là thân xác chúng ta như lời Chúa Giê-su: “Ai yêu mến Thầy và tuân giữ lời Thầy, thì Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta (tức Ba Ngôi Thiên Chúa) sẽ đến ngự trong người ấy” (Ga 14, 23).

3) Hình phạt dành cho những kẻ làm ô uế Đền Thờ:

– Những ai làm cho Đền Thờ thân xác mình và Đền Thờ là anh em khác ra ô uế thì Đức Giê-su lại càng đau lòng như Người đã lên án những kẻ xúi giục phạm tội: “Khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã. Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển, còn lợi cho nó hơn là để nó làm cớ cho một trong những kẻ bé nhỏ này vấp ngã” (Lc 17,1b-2). Thánh Phao-lô cũng quả quyết về hình phạt dành cho những kẻ này: “Ai phá hủy Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” (I Cr 3,17).

– Ngày nay Đức Giê-su cũng muốn các Nhà thờ phải thật sự là nơi thờ phượng Thiên Chúa trong “Thần khí và sự thật” (x Ga 4,24). Người muốn nhà thờ là nơi để con người gặp gỡ Thiên Chúa. Tuy nhiên, nhìn vào các nhà thờ hiện nay, chúng ta thấy nhiều khi Nhà thờ đã đưa các sinh hoạt vui chơi văn nghệ như Tết Trung Thu trình diễn trong gian cung thánh, làm mất đi bầu khí trang nghiêm lẽ ra phải có. Nên biết rằng: Khi ra giảng đạo, Đức Giê-su muốn môn đệ cầu nguyện trong bầu khí thinh lặng, như Người đã vào nơi hoang vắng ngay từ sáng sớm để cầu nguyện kết hiệp với Chúa Cha (x Mc 1,35).

4) Cần thanh tẩy thể xác và tâm hồn bằng cách nào trong Mùa Chay này? :

– Tin Mừng CN hôm nay ghi nhận việc Đức Giêsu thanh tẩy đền thờ Giê-ru-sa-lem. Người cũng muốn chúng ta tiếp tục công việc của Người là giữ gìn thân xác ta là đền thờ thiêng liêng của Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần luôn thanh tẩy tâm hồn và thân xác xứng đáng được Chúa ngự trị.

Hãy kính trọng thân xác của mình và của tha nhân.

Hãy tu sửa các đền thờ thân xác chúng ta và tha nhân bị xuống cấp, đang bị xúc phạm.

Hãy sửa chữa đền thờ là thân xác ta đang bị bệnh tật, đói khát và mang thương tích.

Cần thanh tẩy tâm hồn chúng ta khỏi tội thờ thần tài khi coi trọng tiền bạc hơn Thiên Chúa.

Cần thanh tẩy tâm hồn chúng ta khỏi các đam mê dục vọng làm ô uế Đền thờ tâm hồn chúng ta.

Cần thanh tẩy tâm hồn chúng ta khỏi thói gian tham và cư xử bất công với người dưới.

Cần thanh tầy tâm hồn chúng ta khỏi các thói hư, đặc biệt thói kiêu căng ganh ghét và tự ái cao.

– Trong những ngày Mùa Chay này, mỗi tín hữu hãy năng tự kiểm điểm để tìm ra những điều làm cho Đền Thờ tâm hồn mình ra ô uế, rồi quyết tâm tu sửa. Nguyên nhân làm cho người ta ra ô uế là: “Vì tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế” (Mt 15,19-20). Trong Mùa Chay này, chúng ta cần tập luyện các nhân đức đối lập với thói hư. Cụ thể cần tập hai nhân đức quan trọng này là hiền lành và khiêm nhường để nên giống Đức Giê-su như Người đã dạy: “ Hãy học với Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29).

  1. THẢO LUẬN: 1) Bạn sẽ làm gì để học tập nhân đức hiền lành và khiêm nhương của Chúa Giê-su? 2) Giả như được tin Đức Giê-su sắp đến thăm viếng nhà bạn, thì bạn sẽ làm gì để thanh tẩy tâm hồn đón rước Chúa?
  2. LỜI CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Nếu Chúa sống trong thời đại của chúng con hôm nay, chắc hẳn Chúa cũng phải ra tay tẩy uế Nhà Thờ, khi nhiều ngôi Thánh Đường đã bị người ta coi thường. Ngoài ra thân xác chúng con cũng chính là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần, thế mà nhiều lần chúng con cũng làm cho ra ô uế khi suy nghĩ, nói năng và hành động theo thói thế gian, chiều theo các đam mê xác thịt để phạm tội, thay vì lẽ ra phải luôn bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa. Trong những ngày Mùa Chay này, xin giúp chúng con thanh tẩy tâm hồn nhờ siêng năng đến nhà thờ dâng lễ, tích cực tham dự các buổi tĩnh tâm, làm các việc hãm mình đền tội, quyết tâm đổi mới đời sống để ngày một nên con thảo của Chúa Cha, và ăn ở hòa thuận để nên anh chị em của mọi người.

– “Lạy Chúa Giêsu. Tình Yêu của con. Nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình…

Lạy Chúa Giêsu. Cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh:  nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả. Vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con sẽ được thực hiện.” (Theo lời cầu của thánh nữ Têrêxa)

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY. NĂM B

Lm. Antôn

Bài Tin mừng hôm nay kể lại cho chúng ta sự việc Chúa Giê-su thanh tẩy Đền thờ.  Thái độ và hành động của Chúa hôm nay cứng rắn và cương quyết lạ thường.  Đọc những sách Tin mừng chúng ta thấy chưa bao giờ Chúa làm như vậy.  Rõ ràng việc Chúa làm có nhiều mục đích.

Chúng ta biết đối với người Do Thái ngày xưa đền thờ Giêrusalem là nơi tôn nghiêm, thánh thiêng và vinh dự tự hào của cả dân tộc.  Ngôi đền thờ đầu tiên được xây cất trong vòng 7 năm thời lập quốc dưới triều đại của vua Salômôn, và tồn tại được 300 năm, cho đến ngày quân Ba tư đánh chiếm và tàn phá thành bình địa.

Sau khi được giải thoát khỏi cuộc lưu đày tại Babylon và trở về quốc gia, người Do Thái xây lại đền thờ ngay chính trên nền đền thờ đã bị phá hủy trước đó. Trong suốt gần 350 năm, những người Do Thái sống tha hương đã thường xuyên trở về quê hương để hành hương đền thờ.  Sau đó, đền thờ đã bị quân Xy-ri do vua An-ti-ô-cô Đệ nhị dẫn đầu đánh chiếm cướp phá đền thờ. Một lần nữa, đền thánh Giêrusalem bị rơi vào cảnh hoang tàn đổ nát.

Gần 1 thế kỷ sau, vào năm 63 trước Chúa Giê-su, người Do Thái lại thua trận và bị quân La Mã đánh chiếm và cai trị. Sau đó Hê-rô-đê được phong làm quan tổng trấn cai trị vùng đất Giu-đê-a.  Trong thời điểm này, dân Do Thái được phép xây dựng lại đền thánh Giêrusalem, và phải mất 46 năm công cuộc tái thiết mới hoàn tất.

Chúng ta biết là đền thờ được chia làm nhiều khu vực, trong đó có khu vực được gọi là “Cực Thánh” nơi Chúa hiện diện, chỉ các tư tế mới được vào dâng hương và của lễ.  Ngoài khu vực dành riêng cho tư tế, cũng có nơi để dân chúng tự do ra vào thờ phượng.  

Theo luật Do Thái, hằng năm tất cả mọi người tới tuổi trưởng thành đều phải hành hương đền thánh ít là một lần trong các dịp lễ. Thế nên vào những dịp lễ lớn như Vượt Qua, có vô số người từ khắp muôn nơi đổ về, và do đó trong khu vực bên ngoài của đền thờ có những gian hàng để đổi tiền, mua bán và ăn uống đuợc dựng nên. Như chúng ta đã biết, nơi đâu có ăn uống thì có rác, dơ bẩn, mùi hôi, nơi đâu có sự đổi tiền và buôn bán thì có sự ồn ào, trả giá, đôi co, và không tránh khỏi gian dối, lừa gạt, tham lam và bớt xén.  Như thế thì còn đâu là ý nghĩa cao đẹp và thánh thiêng của đền thờ. Người ta đã biến nơi cầu nguyện và gặp gỡ Thiên Chúa thành nơi thương mại, gian dối và lừa đảo.  Hơn nữa càng gần tới ngày lễ, quang cảnh đền thờ càng ồn ào, náo nhiệt không khác gì một buổi chợ.  Quang cảnh này đã làm cho Chúa Giêsu bực bội khó chịu và không thể im lặng bỏ qua, vì vậy Ngài đã thanh tẩy đền thờ.  

Qua hành động thanh tẩy đền thờ của Chúa Giê-su, chúng ta ghi nhận được nhiều mục đích.  Trước hết, Chúa Giê-su muốn trả lại cho đền thờ sự tôn nghiêm và thánh thiêng, vì thế, Chúa phải xua đuổi tất cả những vật và người làm dơ bẩn và xúc phạm đền thờ.  Đó là vấn đề thời Chúa Giê-su, nhưng hôm nay chúng ta phải lưu tâm một chút về vấn đề này.  Thứ nhất, nhà thờ là nơi tôn nghiêm và thánh thiêng, là nơi chúng ta đến để cầu nguyện và lãnh nhận ơn Chúa qua các Bí tích, và là nơi thờ phượng và gặp gỡ Chúa. Vì vậy, chúng ta phải hết sức trang nghiêm, không nghêng ngang, không nói chuyện ồn ào trong nhà thờ, không nhai sing-gôm, không xử dụng các máy điện tử, và nhất là nên tắt các điện thoại di động.

Tiếp đến, khi xua đuổi các người buôn bán và đổi tiền ra khỏi đền thờ, Chúa Giê-su muốn thanh tẩy khỏi đền thờ những việc gian tham, lừa dối và không công bằng vì lợi lộc tiền bạc.  Hay nói một cách khác, Chúa muốn thanh tẩy sự nguy hiểm tôn thờ tiền bạc.  Những con buôn đưa súc vật vào đền thờ không phải vì lòng yêu mến Chúa hay vì lòng hy sinh quảng đại muốn tìm cách để xây dựng đền thờ, nhưng vì tham lam muốn kiếm tiền, coi trọng tiền bạc hơn Chúa.  Dùng Chúa và đền thờ để phục vụ tư lợi của mình.  Chúng ta cũng phải coi chừng.  Nhiều người trong chúng ta một cách nào đó cũng lợi dụng đền thờ như thế.

Cuối cùng, khi đuổi xúc vật ra khỏi đền thờ, Chúa Giê-su còn muốn thanh tẩy cả thái độ và cách thờ phượng của chúng ta.  Thời xưa, người ta dâng xúc vật làm của lễ.  Lòng đạo đức được đo bằng sức nặng của con vật hay bằng vật chất.  Dâng vật to và nhiều sẽ được nhiều ơn phúc.  Nay, Chúa Giê-su muốn chúng ta đến với Chúa bằng chính tâm hồn của chúng ta.  Lễ vật của chúng ta dâng đẹp lòng Chúa là thái độ khiêm nhường, tấm lòng bác ái, quảng đại, và là tấm lòng ăn năn sám hối chân thật.

Thật vậy, Chúa Giêsu thanh tẩy không chỉ đền thờ bằng gỗ đá, nhưng Chúa muốn thanh tẩy đền thờ tâm hồn của mỗi người chúng ta để xứng đáng là nơi Chúa ngự trị.  Vì thế, chúng ta phải gìn giữ đền thờ ấy luôn trong sạch, cao quí từ lời nói, tư tưởng đến hành động.  Chúng ta hãy thành tâm thử hỏi: “Tâm hồn của chúng ta bây giờ có xứng đáng là nơi Chúa ngự không?”  “Những người chung quanh có nhận ra sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn của chúng ta không?”  Khi chúng ta có những lời nói và hành động có tính cách kiêu căng, lừa dối, gây chia rẽ và ích kỷ thì đời sống của chúng ta cũng như đền thờ Giêrusalem xưa trở thành ô uế và cần sự thanh tẩy qua tình yêu tha thứ của Chúa.

Tóm lại, qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su kêu gọi chúng ta hôm nay phải có trách nhiệm, trang nghiêm và tôn trọng nhà thờ là nơi Chúa ngự.  Chúng ta phải giữ  ngôi nhà thờ sạch sẽ và thánh thiêng vì là nơi chúng ta đến cầu nguyện xin ơn và thờ phượng Chúa.  Xin Chúa giúp chúng ta biết dùng mùa chay thánh này để nhận ra những sự dơ bẩn và ô uế là tội lỗi và những nết xấu hiện diện trong đời sống, và quyết tâm xin Chúa thanh tẩy, hãy đến với Chúa trong Bí tích Hòa giải, một Bí tích cao quí mà Thiên Chúa đã ban cho giáo hội, để biến đổi tâm hồn chúng ta trở nên thánh thiện hơn, xứng đáng là đền thờ Chúa ngự.

Về mục lục

.