Suy niệm Lời Chúa mỗi ngày – Tuần 3 Mùa Chay

53

SUY NIỆM LỜI CHÚA MỖI NGÀY TUẦN III MÙA CHAY

Lm. Ngọc Dũng, SDB

THỨ HAI TUẦN III MÙA CHAY

TÌM THẤY CHÚA TRONG NHỮNG “BÌNH THƯỜNG” CỦA NGÀY SỐNG

(2 V 5:1-15a; Lc 4:24-30)

Trong bài đọc 1, chúng ta đọc thấy câu chuyện của Naaman, người được Ngôn Sứ Êlisa chữa khỏi bệnh phong hủi. Trong trình thuật chữa lành này, chúng ta nhận ra những yếu tố cần thiết sau để cho việc chữa lành xảy ra và để Thiên Chúa được tôn vinh: (1) mọi nỗ lực của con người không mang lại sự chữa lành (x. 2 V 5:1-7); (2) Chúa dùng những con người bé nhỏ để đưa người cần chữa lành đến với Ngài [cô bé giúp việc và Ngôn Sứ Êlisa]; (3) bày tỏ ước muốn được chữa lành (x. 2 V 5:8-9); (4) từ bỏ con người tự cao và kiêu ngạo của mình để thực hiện những việc nhỏ bé mà Thiên Chúa muốn (x. 2 V 5:10-14); (5) tuyên xưng đức tin và tôn vinh Thiên Chúa vì được chữa lành (x. 2 V 5:15a). Như chúng ta biết, trong Kinh Thánh, những người phong hủi là những người không chỉ chịu sự đau đớn trên thân xác, nhưng sự đau đớn lớn nhất của họ là sự cách ly khỏi đời sống gia đình và cộng đoàn thờ phượng. Được chữa lành khỏi bệnh phong hủi là được hội nhập lại với đời sống cộng đoàn, được nối kết lại các mối tương quan với Chúa và tha nhân. Để được điều này, một trong những yếu tố quan trọng trong các yếu tố chúng ta nêu trên là từ bỏ sự tự cao, kiêu ngạo của mình và thực hiện những điều Chúa muốn nơi chúng ta. Những người sống khiêm nhường là những người có mối tương quan sâu xa với Thiên Chúa và người khác.

Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta về Chúa Giêsu là vị ngôn sứ như Êlia và Êlisa. Theo Thánh Luca, khác với các ngôn sứ khác, Chúa Giêsu được sai đến không chỉ cho dân Do Thái, nhưng cho muôn dân. Phản ứng đầu tiên của dân chúng trước những lời giảng dạy của Ngài là: “Ai cũng tán thành và thán phục những lời ân sủng từ miệng Người nói ra” (Lc 4:22). Tuy nhiên, ngay sau đó, thái độ của họ thay đổi và họ vấp phạm về Ngài khi nhận ra nguồn gốc tầm thường của Ngài: “Họ bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao ?” (Lc 4:22). Qua điều này, Chúa Giêsu muốn  dạy chúng ta một chân lý mà ít người biết đến: Nhìn thấy sự vĩ đại trong cái vĩ đại là bình thường, còn nhìn thấy cái vĩ đại trong những gì tầm thường là phi thường. Thật vậy, ai trong chúng ta cũng có thể nhận ra sự vĩ đại trong những khám phá nổi tiếng của khoa học. Nhưng rất ít người nhận ra sự vĩ đại của tình yêu mà một người cha hay một người mẹ dành cho con cái trong những công việc thật bình thường mỗi ngày. Khi chúng ta không nhận ra được sự vĩ đại trong những gì là bình thường, chúng ta dễ dàng rơi vào thái độ loại trừ. Đây là điều mà người Do Thái rơi vào khi họ nhận thấy nguồn gốc tầm thường của Chúa Giêsu. Như là một ngôn sứ, Chúa Giêsu cũng phải chấp nhận định mệnh bị loại trừ và bị giết như các ngôn sứ khác. Thật vậy, có câu nói trong đời rằng: “Quen thuộc sinh ra coi thường”: Những người và những vật quá quen thuộc sẽ dễ dàng làm chúng ta “coi thường.” Hay nói cách khác, chúng ta khó khám phá ra cái mới mẻ trong những người hoặc những vật quá quen thuộc và như thế chúng ta dễ dàng để định kiến chi phối cách nhìn và lối cư xử của mình.

Để vượt qua thái độ định kiến, Thánh Luca trong Tin Mừng mời gọi chúng ta có cái nhìn cởi mở và không loại trừ. Điều này được Thánh Luca trình bày qua việc chỉ ra lối nhìn thiển cận của người Do Thái, đó là họ cho rằng ơn cứu độ chỉ dành riêng cho “một dân tộc được tuyển chọn.” Nhưng theo Thánh Luca, ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến là cho mọi người, cả nam lẫn nữ. Điều này được phản chiếu trong hình ảnh của hai ngôn sứ Êlia và Êlisa: “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xarépta miền Xiđôn. Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Xyri thôi” (Lc 4:25-27). Chúng ta thấy hai ngôn sứ Êlia và Êlisa được sai đến với những người ngoài “dân được tuyển chọn.” Đây là điều sẽ tìm thấy trong sứ vụ của Chúa Giêsu như một vị ngôn sứ trong Tin Mừng của Thánh Luca.

Hai câu cuối cùng của Tin Mừng hôm nay chỉ ra phản ứng tiêu cực của những người nghe sự thật về chính họ: “Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành – thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4:28-30). Thái độ này hoàn toàn trái ngược với thái độ ngưỡng mộ và là hệ quả của thái độ coi thường trước đó mà họ có về Chúa Giêsu. Họ phẫn nộ vì Chúa Giêsu nói rằng: Ơn cứu độ dành cho họ cũng được chia sẻ cho những dân tộc khác. Họ phẫn nộ vì sự quảng đại và tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa. Đúng hơn, họ phẫn nộ vì họ ghen tỵ vì Thiên Chúa “đối xử tốt với những người khác như Ngài đã từng đối xử độ lượng với họ.” Tuy nhiên, sự phẫn nộ vì ghen ghét của họ không ngăn bước chân của Chúa Giêsu tiếp tục thực hiện kế hoạch cứu độ muôn người của Chúa Cha: Không có hành trình nào cao đẹp bằng hành trình của người ngôn sứ đi theo con đường Thiên Chúa vạch ra dù bị chống đối và loại trừ.

**********************

THỨ BA TUẦN III MÙA CHAY

HÃY THỨ THA VÌ CHÚNG TA ĐÃ ĐƯỢC THA THỨ

(Đn 3:25.34-43; Mt 18:21-35)

Bài đọc 1 hôm nay trình bày cho chúng ta một mẫu cầu nguyện theo khuôn mẫu cầu nguyện trong Cựu Ước. Như chúng ta biết, theo mẫu cầu nguyện này, chúng ta luôn bắt đầu bằng việc nhắc lại những công trình kỳ diệu Chúa đã làm (Đn 3:34-36), tiếp đến là nhận ra thân phận tội lỗi của mình trước mặt Chúa và quyết tâm trở về với Chúa (Đn 3:37-41), và cuối cùng là cầu xin Chúa can thiệp để giải thoát chúng ta khỏi sự dữ đang tấn công chúng ta (Đn 3:42-43). Một cách cụ thể, bài đọc 1 trình bày cho chúng ta lời cầu nguyện của thầy thượng tế Adaria sau khi đền thờ bị phá huỷ. Dân chúng bị lưu đày. Điểm chúng ta cần lưu ý là việc thay thế của lễ bên ngoài với tâm hồn thống hối và tinh thần khiêm nhường. Đây là điều không ai trong chúng ta không có. Chúng ta có thể không có tiền để mua những của lễ chiên bò, nhưng tâm hồn thống hối và khiêm nhường là điều chúng ta không mất tiền để mua. Và đó là của lễ đẹp lòng Chúa nhất. Hãy đến với Chúa với tâm hồn khiêm cung và thống hối của những người mang thân phận yếu đuối, của những con người cần đến Chúa.

Tuy nhiên, khi một người đến với Chúa với tâm hồn thống hối và tinh thần khiêm nhường sẽ cảm nghiệm được tình yêu bao la và sự tha thứ vô điều kiện của Thiên Chúa. Và khi cảm nghiệm được tình yêu và tha thứ của Thiên Chúa, thì người đó được mời gọi phải đối xử với người khác như Thiên Chúa đã đối xử với họ. Đây chính là điểm nối kết hai bài đọc của ngày hôm nay.

Theo các học giả Kinh Thánh, dụ ngôn người đầy tớ không tha thứ trong bài Tin Mừng hôm nay được Thánh Mátthêu lấy từ nguồn Q (truyền miệng), nên chỉ được tìm thấy trong Tin Mừng của Thánh Mátthêu. Để hiểu bài Tin Mừng này, chúng ta cần đặt nó trong bối cảnh của nó, chương 18. Chương 18 của Tin Mừng Thánh Mátthêu nói đến tương quan trong Giáo Hội [cộng đoàn]. Chương 18 có thể chia ra hai phần: phần đầu nói về các vấn đề sẽ xảy ra trong Giáo Hội [cộng đoàn] – (1) vấn nạn ai là người lớn nhất; (2) vấn đề làm gương mù gương xấu cho các thành viên khác; (3) thái độ cần có với những “chiên lạc.” Phần hai nói đến những phương cách để giải quyết những vấn đề: (1) sửa đổi huynh đệ; (2) cầu nguyện chung với nhau; (3) tha thứ cho nhau. Bài Tin Mừng hôm nay gồm ý thứ ba trong phần hai: tha thứ cho nhau; và được áp dụng vào dụ ngôn người đầy tớ không tha thứ.

Kinh nghiệm thường ngày dạy chúng ta rằng: chúng ta thường không có vấn đề gì với người khác khi cuộc sống êm ả và hạnh phúc. Nhưng khi sóng gió ập đến, khi người chúng ta sống chung làm chúng ta đau khổ và tổn thương, chúng ta thường có những thái độ tiêu cực và đôi khi phản kháng. Một trong những điều khó nhất khi sống với người khác là tha thứ những tổn thương mà chúng ta mang lại cho nhau. Thật vậy, tha thứ là một trong những điều khó nhất con người có thể làm. Tha thứ một lần đã khó, huống gì là phải tha thứ bảy lần hoặc bảy mươi lần bảy. Đây là điều mà Thánh Phêrô đã đề cập với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần ? Có phải bảy lần không?” (Mt 18:21). Câu nói của Thánh Phêrô không đơn giản là một câu hỏi, nhưng là một câu nói mang tính “tự hào” về sự tha thứ của Phêrô, khác hẳn với lời tự hào đầy khát máu của Laméc trong sách Sáng Thế (4:15,24). Và Chúa Giê-su đáp lại cho Phêrô: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18:21-22).

Câu hỏi của Phêrô với Chúa cũng là câu hỏi của mỗi người trong chúng ta: Chúa ơi, con phải chấp nhận người anh chị em này cho đến bao giờ? Con phải tha thứ cho họ bao nhiêu lần nữa? Con mệt mỏi lắm rồi! Con hết sức rồi! Con không thể tha thứ cho họ được nữa vì con là con người. Tuy nhiên, chúng ta cần biết rằng: khả năng tha thứ nói lên sức mạnh và sự chân thật của tình yêu mà một người dành cho người khác. Đây chính là điều mà Chúa Giêsu nói với Thánh Phêrô, với các môn đệ khác, và với mỗi người trong chúng ta: Người yêu ít sẽ tha thứ ít, còn người yêu thương nhiều sẽ tha thứ nhiều. Người có tình yêu chân thật sẽ tìm thấy niềm vui trong sự tha thứ cho người mình yêu. Còn người không dành cho người khác một tình yêu chân thật, sẽ chỉ thấy sự mệt mỏi và cay đắng trong việc tha thứ cho người khác. Tóm lại, tha thứ và yêu thương là hai mặt của một đồng tiền. Chúng ta có thể nói rằng: tha thứ là hình thức diễn tả tình yêu cao nhất cho người khác.

Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn để dạy dỗ các môn đệ và dân chúng. Dụ ngôn người đầy tớ không tha thứ trong bài Tin Mừng hôm nay là ví dụ cụ thể Chúa Giêsu sử dụng để khuyên răn chúng ta về việc không lắng nghe những phương cách Ngài dạy để giải quyết những vấn đề trong cộng đoàn. Không những thế, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn này để nói cho chúng ta về sự khác biệt, nhưng có tương quan mật thiết giữa lòng thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta và của chúng ta dành cho nhau. Nói cách cụ thể, người nào không cảm nhận được sự yêu thương và tha thứ của Chúa dành cho mình sẽ khó và, có thể nói, là không thể yêu thương và tha thứ cho người xúc phạm đến mình. Điều này được khẳng định trong bài Tin Mừng hôm nay: “Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo : ‘Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?” (Mt 18:32-33).

Chúng ta phải chân nhận rằng, câu chuyện về người đầy tớ trong dụ ngôn của Chúa Giêsu là câu chuyện của mỗi người chúng ta. Chúng ta nợ Chúa rất nhiều. Mỗi ngày chúng ta phạm đến Chúa bao nhiêu lần, nhưng Chúa đều tha thứ cho chúng ta khi chúng ta thành tâm trở về với Ngài. Còn anh chị em chúng ta không phạm đến chúng ta mỗi ngày, may lắm một tuần một lần, mỗi tháng một lần, hoặc 1 năm một lần, nhiều khi cả đời một lần mà chúng ta không thể tha thứ cho họ. Chúng ta biện minh rằng, nhưng tôi là con người giới hạn nên sự tha thứ của tôi có giới hạn. Đúng như thế! Nhưng nếu chúng ta chỉ ở lại trong cái giới hạn, thì chúng ta mãi ở lại trong cái gọi là con người như bao nhiêu người thuộc các tôn giáo khác. Còn khi chúng ta bước ra khỏi cái giới hạn để đi vào cái vô hạn, chúng ta sẽ trở nên “con Thiên Chúa” và “môn đệ của Chúa Giêsu” điều làm chúng ta khác với những “con người thuần tuý.” Có câu nói trong đời rằng: tha thứ cho người “đáng được tha” là con người; còn tha thứ cho người “không đáng được tha” là Thiên Chúa.

Một chi tiết làm chúng ta suy gẫm là thái độ và lời cầu xin của người đầy tớ với chủ và người bạn với người đầy tớ như nhau: “Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy : ‘Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết’” (Mt 18:26); và Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ : ‘Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh’” (Mt 18:29). Nhưng phản ứng của ông chủ và người đầy tớ hoàn toàn khác nhau trước thái độ van xin. Ông chủ “liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ” (Mt 18:27), còn người đầy tớ thì không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ” (Mt 18:30). Chi tiết này là bối cảnh để giải thích cho câu nói cuối cùng của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng: “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18:35). Tóm lại, thái độ của ông chủ và câu nói cuối cùng của Chúa Giêsu khuyến cáo chúng ta về thái độ không tha thứ của chúng ta với anh chị em của mình. Chúng ta phải nhớ rằng: Thiên Chúa là Đấng công bình và sẽ đối xử với chúng ta như chúng ta đối xử với người khác.

 

**********************

THỨ TƯ TUẦN III MÙA CHAY

HÃY TRUNG THÀNH TUÂN GIỮ NHỮNG ĐIỀU NHỎ NHẤT CHÚA DẠY

(Đnl 4:1.5-9; Mt 5:17-19)

Bài đọc 1 hôm nay được đặt trong bối cảnh của giao ước trên núi Sinai giữa Thiên Chúa và dân Israel. Môsê đưa ra cho dân Israel những lợi ích mà họ sẽ được khi họ đem ra thực hành những thánh chỉ và quyết định của Thiên Chúa. Một cách cụ thể, họ sẽ được: (1) “sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em (Đnl 4:1); (2) trở thành một “dân khôn ngoan và thông minh!’ (Đnl 4:6); (3) “thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người” (Đnl 4:7). Tuy nhiên, để được những điều ấy, họ phải “ý tứ và cẩn thận giữ mình đừng quên những điều mắt anh em đã thấy, và suốt đời, đừng để cho những điều ấy ra khỏi lòng anh em; trái lại, anh em hãy dạy cho con cháu anh em biết” (Đnl 4:9). Điều mắt họ đã thấy mà suốt đời phải giữ trong lòng và dạy cho con cháu là gì? Đó là những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện để đưa họ ra khỏi nộ lệ Ai Cập và ban cho họ đất hứa làm gia nghiệp. Chỉ khi họ thực hiện điều này, họ sẽ trở nên dân vĩ đại nhất và qua họ Thiên Chúa sẽ chúc lành cho mọi dân tộc trên mặt đất. Và đây chính là điều Chúa Giêsu khẳng định trong bài Tin Mừng hôm nay.

Ai trong chúng ta cũng muốn mình trở nên vĩ đại và quan trọng. Vì vậy, chúng ta thường mong ước và tìm cách làm những điều lớn lao và vĩ đại trong cuộc sống. Không ai muốn làm những điều nhỏ nhặt. Tuy nhiên, một nguyên tắc căn bản trong cuộc sống mà ít người khám phá ra đó là: mọi khởi đầu đều rất nhỏ bé, rất khiêm nhường, đến nỗi không mấy người để ý và quan tâm đến. Một cung điện nguy nga bắt đầu với một viên đá, và những viên đá khác nối kết với nhau; một tác phẩm văn chương nổi tiếng bắt đầu với một chữ và những chữ khác kết với nhau; một bức tranh đẹp cũng bắt đầu với một đường màu đơn sơ và sự hoà hợp với những màu khác; một mối tình đẹp được bắt đầu với một nụ cười hoặc một ánh mắt trìu mến; ngược lại, một sự đổ vỡ trong tương quan thường bắt đầu với một lời nói hoặc một hành động thiếu suy nghĩ và thiếu tế nhị. Tất cả đều bắt đầu từ những điều nhỏ bé, không mấy quan trọng! Vì vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng: cái vĩ đại là chuỗi dài của những điều nhỏ bé kết lại. Một tình yêu trung thành là chuỗi dài của những trung thành nhỏ bé mỗi ngày. Đây là bối cảnh giúp chúng ta hiểu điều Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay.

Bài Tin Mừng hôm nay nằm trong bối cảnh của Bài Giảng Trên Núi hay Bài Giảng về Các Mối Phúc của Chúa Giêsu. Cụ thể hơn, đoạn trích được đặt giữa lời dạy của Chúa Giêsu về việc các môn đệ là muối và ánh sáng trong thế gian (Mt 5:13-16) và tiêu chuẩn mới [về cách hành xử] mà Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ của Ngài cao hơn các điều mà Mười Điều Răn đề nghị (Mt 5:20-48). Đọc đoạn trích trong bối cảnh này, chúng ta nhận ra điều Chúa Giêsu muốn dạy các môn đệ và chúng ta là: để trở nên ánh sáng và muối cho thế gian, người môn đệ phải sống theo tiêu chuẩn mới mà Chúa Giêsu đặt ra. Tuy nhiên, sống theo tiêu chuẩn mới không có nghĩa là bỏ đi những gì đã được tiêu chuẩn cũ đưa ra, nhưng giữ những điều đó cách cặn kẽ với tinh thần mới và lối giải thích mới mà Chúa Giêsu mang lại. Hay nói đúng hơn, để là muối và ánh sáng cho thế gian, người môn đệ của Chúa Giêsu phải sống cách triệt để những tiêu chuẩn cũ [trong Mười Điều Răn] theo ý định của Thiên Chúa, chứ không phải theo ý định, lối giải thích dựa vào truyền thống con người. Chúng ta cùng nhau phân tích chi tiết hơn bài Tin Mừng để rút ra điều Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hành hôm nay.

Chúa Giêsu khẳng định rằng: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5:17). Trong câu này, chúng ta lưu ý những lời sau: “Anh em đừng tưởng.” Những từ này ám chỉ có sự hiểu sai về sứ mệnh của Chúa Giêsu và cần phải được sửa lại. Họ hiểu sai là Ngài đến để bãi bỏ hết tất cả những điều cũ, để thiết lập một hệ thống [tôn giáo] mới. Nhưng Chúa Giêsu sửa sai lối suy nghĩ này bằng cách khẳng định rằng Ngài không đến để bãi bỏ những gì giúp con người tốt hơn trong luật cũ. Điều này ngụ ý dạy chúng ta về cám dỗ “thay đổi tất cả” hay “phá đổ tất cả” những gì của những người khác đã xây dựng. Ví dụ cụ thể, một người được chọn vào một vị trí nào đó trong cộng đoàn hay xã hội thường có cám dỗ bỏ hết tất cả những gì những người tiền nhiệm đã làm. Cám dỗ này dễ dàng dẫn người đó đến thái độ “vô ơn” và “đổ lỗi.” Hãy tập sống biết ơn, xây dựng và hoàn thiện những gì người khác đã bắt đầu là sứ điệp Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta trong ý đầu tiên của bài Tin Mừng. Nói cách khác, đừng là những người vô ơn!

Sứ điệp thứ hai mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay là: những ai trung thành trong việc nhỏ sẽ trung thành trong việc lớn. Qua việc khẳng định tính vĩnh cửu của luật cũ [Mười Điều Răn]: “Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18), Chúa Giêsu thiết lập mối tương quan không thể tách rời của luật cũ và luật mới: “Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời” (Mt 5:19). Thật vậy, câu khẳng định tính vĩnh cửu của luật cũ (Mt 5:18) chứa đựng hai ý nghĩa: (1) Toàn bộ Cựu Ước có giá trị mang tính tôn thờ cho tất cả các môn đệ của Chúa Giêsu và sẽ phải được tiếp tục bảo vệ, cầu nguyện, học hỏi và công bố; (2) Những gì được luật cũ trình bày phải được tuân giữ cách tuyệt đối. Trong bối cảnh này, vì mang tính ràng buộc tuyệt đối, những gì nhỏ nhất trong luật cũ cũng quan trọng và phải được tuân giữ. Một chi tiết khác dễ bị bỏ qua nhưng quan trọng trong câu 19 mà chúng ta cần lưu ý là: Những người không tuân giữ những điều nhỏ và dạy người khác tuân theo không bị “loại trừ khỏi Nước Trời,” nhưng chỉ được gọi là “kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời.” Điều này cho chúng ta thấy, sứ điệp của Nước Trời là dành cho hết mọi người, không loại trừ một ai. Chúng ta rút ra được điều gì cho ngày sống ở đây? Hãy tránh thái độ loại trừ người khác ra khỏi nhóm và nhất là ra khỏi con tim của mình.

**********************

THỨ NĂM TUẦN III MÙA CHAY

SỐNG HIỆP NHẤT VỚI CHÚA VÀ VỚI ANH CHỊ EM

(Gr 7:23-28; Lc 11:14-23)

Thế giới chúng ta sống hôm nay đang khuyến khích một lối sống thực dụng và “duy cảm xúc.” Những gì chúng ta không thích thì chúng ta có thể bỏ đi và thay bằng cái khác hợp với khẩu vị của chúng ta hơn. Trong nền văn hoá ưa chuộng những gì chóng qua và mang lại hạnh phúc chóng tàn này, con người không trân trọng những giá trị mang tính tuyệt đối và vĩnh cửu. Nếu có thì họ cũng xem những giá trị tuyệt đối và vĩnh cửu như những gánh nặng. Hệ quả là con người dễ dàng thay đổi trong mọi sự, từ các vật dụng cho đến các tương quan. Mọi thay đổi luôn bắt đầu với sự thay đổi của cõi lòng, nhất là trong tương quan của chúng ta với người khác và với Chúa. Hãy nhìn sâu vào trong con tim và cõi lòng của chúng ta để xem Thiên Chúa mời gọi chúng ta phải thay đổi điều gì trong ngày hôm nay.

Lòng chúng ta có dễ dàng thay đổi không? Có nhiều lý do để một người thay đổi cõi lòng, và một trong những lý do chính đó chính là lời nói của người khác. Khi nghe một lời nói đầy an ủi, lòng của một người đang buồn phiền sẽ cảm thấy được nâng đỡ; nhưng khi nghe một lời nói thiếu tế nhị thì lòng của một người đang vui cũng cảm thấy nôn nao. Nếu chúng ta để cho lòng của chúng ta thay đổi vì lời nói của người khác, tại sao chúng ta không thay đổi cõi lòng khi nghe Chúa nói với chúng ta? Khi một người nghe tiếng người yêu của mình, họ sẽ vui mừng. Chúng ta có cảm thấy vui mừng khi nghe tiếng Chúa, Đấng yêu chúng ta cách tuyệt đối và vô điều kiện và là Đấng chúng ta yêu trên hết mọi sự không? Thánh vịnh đáp ca hôm nay trình bày sự khao khát của Thiên Chúa cho mỗi người chúng ta khi chúng ta nghe tiếng Ngài: Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa! Người phán: “Các ngươi chớ cứng lòng.” Thật vậy, Thiên Chúa muốn chúng ta phải thay đổi cõi lòng mỗi khi nghe Ngài phán.

Lời Chúa trong bài đọc 1 hôm nay nói lên sự cứng lòng của dân Israel trước lời của Đức Chúa. Ngôn sứ Giêrêmia nhắc lại cho dân Israel giao ước mà họ đã ký kết với Đức Chúa tại Sinai, là họ phải “bước theo mọi đường lối [Đức Chúa] truyền dạy, để các ngươi được hạnh phúc” (Gr 7:23). Nhưng họ đã “chẳng nghe, chẳng để tai, cứ theo những suy tính của mình, theo tâm địa ngoan cố xấu xa; chúng đã lùi chứ không tiến” (Gr 7:24). Thái độ này của dân Israel cũng chính là thái độ của nhiều người trong chúng ta. Chúng ta nghe lời Chúa mỗi ngày. Nhưng chúng ta không nghe với cõi lòng nên chúng ta không suy niệm trong lòng và đem ra thực hành. Nói cách cụ thể, chúng ta chỉ giữ đạo hay làm các việc đạo đức cách máy móc để chu toàn bổn phận “bên ngoài” của việc thờ phượng, còn cõi lòng của chúng ta thì xa Thiên Chúa. Hết năm này đến năm khác, chúng ta nghe Chúa mời gọi hãy tha thứ, nhưng chúng ta vẫn không nghe, vẫn không thứ tha; Chúa dạy chúng ta không xét đoán người khác và cầu nguyện cho những người làm chúng ta đau khổ, chúng ta cũng không chấp nhận lời sửa dạy của Ngài và sống mãi trong thái độ “bới lông bắt rận” khi đối xử với người khác.

Sự cứng lòng cũng được Thánh Luca trình bày trong bày Tin Mừng ngày hôm nay. Dân chúng đã nghe Chúa Giêsu giảng dạy, nhìn thấy những phép lạ Ngài thực hiện. Nhưng họ vẫn không tin Ngài đến từ Thiên Chúa và dùng bàn tay Thiên Chúa để trừ quỷ. Chúng ta cần đọc bài Tin Mừng hôm nay trong bối cảnh cầu nguyện mà Chúa Giêsu đang dạy các môn đệ của Ngài (Lc 11:1-13). Ngài khẳng định rằng: tất cả những gì chúng ta xin trong khi cầu nguyện sẽ được ban cho chúng ta. Và một trong những món quà Thiên Chúa sẽ ban là quyền trừ quỷ.

Câu đầu tiên của bài Tin Mừng hôm nay là bối cảnh lời dạy của Chúa Giêsu về nguồn gốc của sức mạnh Ngài có để trừ quỷ: “Khi ấy, Đức Giêsu trừ một tên quỷ, và nó là quỷ câm. Khi quỷ xuất rồi, thì người câm nói được. Đám đông lấy làm ngạc nhiên” (Lc 11:14). Chúng ta thấy thái độ đầu tiên của đám đông là ngạc nhiên. Nhưng thái độ này nhanh chóng biến thành chê bai. Chúng ta để ý đến ngôn từ Thánh Luca sử dụng. Thánh Sử đã dùng từ “đám đông ngạc nhiên” khi nói đến phản ứng trước phép lạ Chúa Giêsu thực hiện (Lc 11:14). Nhưng khi nói đến thái độ nghi ngờ, ngài sử dụng từ “có mấy người” (x. Lc 11:15), và cuối cùng khi nói đến những người muốn thử Chúa Giêsu, ngài sử dụng từ “kẻ khác” (Lc 11:16). Điều này có nghĩa gì đối với cuộc sống chúng ta? Điều này dạy chúng ta rằng: đứng trước một người hay một sự kiện xảy ra chúng ta thường có những thái độ và nhận định khác nhau, tuỳ góc độ chúng ta nhìn. Như vậy, sự khác biệt trong ý kiến và cái nhìn không hệ tại ở thực tại chúng ta quan sát vì nó vẫn là một và không thay đổi, mà hệ tại ở góc độ chúng ta đang đứng để quan sát hay nói đúng hơn, hệ tại ở “tương quan” của chúng ta với thực tại. Khi tôi có tương quan tốt với người khác thì tôi dễ dàng cảm thông cho một lỗi nhỏ của họ; nhưng cùng lỗi đó sẽ khó được tôi tha thứ khi người đó không được lòng tôi.

Trước khi phân tích cách chi tiết nội dung chính của bài Tin Mừng, có hai điều chúng ta cần lưu ý: (1) Vấn đề được tranh luận trong bài Tin Mừng hôm nay không phải là vấn đề trừ quỷ, nhưng là vấn đề về nguồn gốc của sức mạnh Chúa Giêsu dùng để trừ quỷ; (2) Chúa Giêsu là Đấng thông hiểu, Ngài biết những gì trong tâm trí của con người: “Người biết tư tưởng của họ” (Lc 11:17).

Nội dung chính của cuộc tranh luận về nguồn gốc của sức mạnh để trừ quỷ nằm trong lời giải thích của Chúa Giêsu (Lc 11:17-22). Chúng ta có thể chia lời giải thích của Chúa Giêsu làm ba phần sau:

Trong phần thứ nhất (Lc 11:17-18), Chúa Giêsu dùng hình ảnh trong thực tế để nói đến sự nghịch lý trong luận chứng của những người chống đối Ngài và không chấp nhận nguồn gốc của sức mạnh trừ quỷ đến từ Thiên Chúa. Khi nói, “Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà nọ đổ xuống nhà kia. Nếu Satan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được? Chúa Giêsu khẳng định chân lý sau: ở đâu có sự chia rẽ, ở đó có sự điều tàn và sụp đổ. Nếu ngay cả những người làm xấu [Satan] không chống đối nhau để đứng vững thì những người làm việc tốt càng không nên chống đối nhau nếu muốn được đứng vững. Hãy tránh mọi hình thức gây chia rẽ (nhất là những ai sống đời thánh hiến), nếu chúng ta muốn đứng vững và tồn tại để có được một đời sống an vui phục vụ Chúa và phục vụ nhau.

Phần thứ hai (Lc 11: 18-19) là trọng tâm của câu trả lời của Chúa Giêsu về nguồn gốc của sức mạnh trừ quỷ: “… bởi lẽ các ông nói tôi dựa thế Bêendêbun mà trừ quỷ. Nếu tôi dựa thế Bêendêbun mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ? Bởi vậy, chính họ sẽ xét xử các ông. Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.” Trong phần này, Chúa Giêsu dùng từ “ngón tay Thiên Chúa” để đưa người nghe về với “kinh nghiệm xuất hành” (x. Xh 8:15). Qua đó, Ngài muốn khẳng định với họ rằng: những gì Thiên Chúa đã làm trong quá khứ để giải thoát dân Ngài khỏi ách nô lệ, bây giờ đang được Chúa Giêsu tiếp tục. Như vậy, câu trả lời này chính là câu khẳng định về căn tính của Chúa Giêsu: Ngài là Đấng đến từ Thiên Chúa và dùng “ngón tay Thiên Chúa” để giải thoát họ khỏi ách nô lệ của tội lỗi.

Trong phần thứ ba (Lc 11: 21:22), Chúa Giêsu kết thúc câu trả lời của mình với lời mời gọi hãy trở nên mạnh mẽ trong sức mạnh của Thiên Chúa nếu chúng ta muốn chiến thắng những thế lực của sự dữ tấn công chúng ta: “Khi một người mạnh được vũ trang đầy đủ canh giữ lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn. Nhưng nếu có người mạnh thế hơn đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ tước lấy vũ khí mà người ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được.” Lời Chúa ở đây khuyến cáo chúng ta rằng: Những ai dựa vào sức của mình sẽ bị thất bại ê chề trong cuộc chiến với sự dữ; chỉ có những ai dựa vào ơn Chúa mới đủ sức để “canh giữ lâu đài của mình” và của cải của mình được an toàn. Bạn đang dựa vào sức mạnh của bạn hay của Chúa?

Cuối cùng, bài Tin Mừng hôm nay kết thúc với lời mời gọi cho những ai muốn trở nên môn đệ của Chúa Giêsu: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán” (Lc 11:23). Nếu chúng ta là những người đi theo Chúa Giêsu, chúng ta phải là những người cùng Ngài thu góp. Câu này nhắc nhở chúng ta về trường hợp của Phêrô khi ông can ngăn Chúa Giêsu sau khi Ngài tiên báo về cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài. Ông liền bị Chúa Giêsu gọi là Satan, là người chống lại Ngài. Chúng ta có đi với Chúa Giêsu không? Nếu chúng ta đi với Chúa Giêsu tại sao nhiều khi chúng ta lại phàn nàn và giận dữ khi Ngài muốn chúng ta đi theo con đường Ngài muốn chúng ta đi hoặc làm những việc Ngài muốn chúng ta làm? Hãy là những người đi với Chúa Giêsu và thu góp với Ngài trong từng lời nói và việc làm của chúng ta.

**********************

THỨ SÁU TUẦN III MÙA CHAY

ĐỪNG SỐNG BẤT TRUNG VỚI THIÊN CHÚA

(Hs 14:2-10; Mc 12:28b-34)

Sách Ngôn sứ Hôsê là một trong những sách nói lên tình yêu trung thành của Thiên Chúa dành cho Israel: Thiên Chúa vẫn luôn trung thành cho dù dân Israel bao lần chạy theo ngẫu tượng. Điều này được phản chiếu trong hình ảnh của Ngôn sứ khi ông được gọi và làm theo lệnh của Thiên Chúa để cưới một cô gái điếm; cô gái điếm này sẽ đi theo những người đàn ông khác, và ngôn sứ phải đi tìm về từ lần này đến lần khác. Đây chính là hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng luôn trung thành và đi tìm Israel [chúng ta] trở về với Ngài, dù nhiều lần họ bỏ Ngài để đi theo những ngẫu tượng khác. Đây chính là bối cảnh để chúng ta hiểu lời Chúa trong bài đọc 1 hôm nay. Nội dung chính của bài đọc 1 là lời mời gọi Israel hãy trở về với Đức Chúa.

Một trong những điểm Hôsê muốn nói cho dân Israel thời đó và chúng ta hôm nay là nguồn gốc của những vấp ngã của chúng ta. Chúng ta vấp ngã vì chúng ta cầu cứu và dựa vào sức của con người, dựa vào những gì không phải là Thiên Chúa (x. Hs 14:4). Thật vậy, một trong những đề tài chính của sách Hôsê là việc tôn thờ ngẫu tượng. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng: dân Israel thời đó và chúng ta hôm nay thường tôn thờ ngẫu tượng hơn là Thiên Chúa. Chúng ta để cho các ngẫu tượng như tiền tài, danh vọng và quyền lực chi phối cuộc sống của chúng ta và làm cho chúng ta tìm thấy sự an toàn trong chúng. Hệ quả là chúng ta trở thành bất trung với Thiên Chúa, với những lời chúng ta tuyên hứa trong bí tích Rửa Tội [hoặc trong ngày tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm]. Nếu chúng ta đang sống bất trung với Thiên Chúa, hãy nghe lời của Ngôn sứ Hôsê mà trở về với Thiên Chúa và sống trung thành với Ngài.

Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục khẳng định vị trí cao trọng của tình yêu trung thành và vô điều kiện qua việc Chúa Giêsu cho biết tình yêu là điều răn đứng đầu. Bài Tin Mừng nói lên cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với một kinh sư. Đây chính là cuộc tranh luận thứ tư của Chúa Giêsu với các kinh sư. Tuy nhiên, thái độ chân thành và khao khát học hỏi của vị kinh sư biến sự kiện đó thành một cuộc trao đổi để học hỏi hơn là một cuộc tranh luận như thường xảy ra giữa Chúa Giêsu và các kinh sư. Chúng ta thấy có một sự tương đồng và hợp lý trong bài Tin Mừng. Chúng ta có thể chia bài Tin Mừng ra làm hai phần: phần 1 (Mc 12:28b-31) là câu hỏi thưa – đáp giữa vị kinh sư và Chúa Giêsu, phần 2 (Mc 12:32-34) là phần nhận định hay phản ứng của vị kinh sư và Chúa Giêsu trên câu trả lời của người kia.

Phần 1 là câu hỏi-đáp về sự cao trọng của điều răn yêu thương: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng hàng đầu?” (Mc 12:28b). Chúa Giêsu trích Đnl 6:4-5 để trả lời cho câu hỏi trên: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.” Câu này đứng vị trí đầu tiên trong ba bản văn Kinh Thánh mà người Do Thái phải đọc hai lần mỗi ngày. Điều răn yêu Chúa có nguồn gốc trong chính bản chất của Ngài như là Thiên Chúa duy nhất. Bốn danh từ “lòng, linh hồn, trí khôn và sức lực” không ám chỉ những phần khác nhau của con người, những nói lên tính toàn bộ của con người. Nói cách khác, chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa với trọn con người của chúng ta. Chúng ta có đang yêu Chúa với trọn con người của chúng ta không hay tình yêu của chúng ta đã bị phân mảnh cho những tạo vật khác? Chúa Giêsu không dừng lại ở việc yêu Chúa, Ngài thêm vào tình yêu dành cho người thân cận: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc 12:31). Tuy nhiên, chúng ta cần cẩn trọng trong việc đồng hoá hoặc gắn hai điều răn này với nhau. Hai điều răn được nối kết với từ “yêu” và chúng được đặt song song với nhau chính là “hành động mang tính thần học” của chính Chúa Giêsu. Khi phân tích câu trả lời của Chúa Giêsu từ khía cạnh Kitô học, chúng ta nhận ra nét đặc biệt sau: Trong câu trả lời của Ngài, Chúa Giêsu không chỉ nói đến vị trí tối thượng của tình yêu dành cho Thiên Chúa, của Shema Israel, nhưng Ngài còn khẳng định vị trí cao trọng của tình yêu dành cho người khác. Hai điều răn này đi với nhau không thể tách rời. Điều này xảy ra vì sự nhập thể của Ngài. Nói cách khác, qua mầu nhiệm nhập thể, Chúa Giêsu đã mang tình yêu dành cho Thiên Chúa và cho con người lại với nhau trong Ngôi Vị của Ngài: Ngài là Thiên Chúa thật [tình yêu dành cho Thiên Chúa] và là người thật [tình yêu dành cho người thân cận]. Chỉ có trong Chúa Giêsu, hai giới răn yêu Chúa và yêu người trở nên một. Ngài đã mang trời hoà giải với đất, giới hạn với vô hạn, tương đối với tuyệt đối, thời gian với vĩnh cửu. Như vậy, chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới có thể yêu Chúa và yêu người khác cách trọn vẹn.

Phần thứ hai trình bày cho chúng ta sự nhận định của vị kinh sư về câu trả lời của Chúa Giêsu và sau đó là nhận định của Chúa Giêsu về nhận định của vị kinh sư. Trong nhận định của mình, vị kinh sư đồng ý với những gì Chúa Giêsu trình bày mà không tỏ thái độ chống đối bằng cách nhắc lại những gì Chúa Giêsu nói. Nhưng như Chúa Giêsu thêm giới răn yêu người thân cận vào giới răn yêu Chúa, vị kinh sư cũng thêm “hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ” (Lc 12:33). Lời này của vị kinh sư vọng lại lời của Ngôn sứ Hôsê (6:6) và lời trong sách Samuen quyển thứ nhất (15:22). Trong câu trả lời của vị kinh sư, chúng ta nhận ra nguyên lý nằm sau mọi lễ toàn thiêu và hy lễ là tình yêu dành cho Thiên Chúa và người thân cận. Có phải tình yêu Thiên Chúa và người thân cận là động lực thúc đẩy tất cả những lời nói và việc làm của chúng ta không?

Đứng trước câu trả lời khôn ngoan của vị kinh sư, Chúa Giêsu “khen” ông ta và khẳng định rằng: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa đâu!” (Mc 12:34). Câu nói của Chúa Giêsu không mang tính “tương lai,” nhưng là hiện tại. Nước Thiên Chúa là một thực tại mà vị kinh sư đang đứng rất gần, ngay bên cạnh. Chính tình yêu dành cho Thiên Chúa và tha nhân sẽ chuẩn bị cho ông đón nhận Nước Thiên Chúa. Đây cũng chính là điều Chúa Giêsu nhắc nhở mỗi người chúng ta: chúng ta chỉ có thể vào Nước Thiên Chúa khi tình yêu dành cho Chúa và cho tha nhân là động lực duy nhất của đời sống chúng ta.

**********************

THỨ BẢY TUẦN III MÙA CHAY

SỐNG KHIÊM NHƯỜNG TRƯỚC MẶT CHÚA

(Hs 6:1-6; Lc 18:9-14)

Ai trong chúng ta cũng đã một lần trải qua kinh nghiệm mang trong mình một vết thương trên thân xác hoặc trong tâm hồn. Khi mang vết thương, chúng ta cảm thấy đau đớn, nhưng khi vết thương được chữa lành, chúng ta được hưởng một niềm vui khôn tả. Niềm vui được chữa lành làm chúng ta quên đi những đau đớn mà chúng ta đã phải chịu đựng. Đây chính là kinh nghiệm của dân Israel được Ngôn sứ Hôsê nói đến trong bài đọc 1 hôm nay. Chính niềm vui được Thiên Chúa chữa lành là động lực để họ trở về với Chúa. Chúng ta có thể nhận ra trong bài đọc 1 hôm nay hai thái độ sau: thái độ kiên định của dân Israel khi quyết định trở về với Thiên Chúa và thái độ “đòi hỏi” tình yêu nơi dân Israel khi họ trở về. Đây chính là hai thái độ chúng ta cần suy gẫm trong tương quan mỗi ngày của chúng ta với Thiên Chúa.

Hôsê trình bày quyết tâm trở về của dân Israel trong những lời thật cảm động: “Con cái Israel bảo nhau rằng: ‘Nào chúng ta hãy trở về cùng Đức Chúa. Người đã xé nát thân chúng ta, nhưng rồi lại chữa lành. Người đã đánh đập chúng ta, nhưng rồi lại băng bó vết thương’” (Hs 6:1). Dân Israel trở về vì họ biết chắc một điều là Đức Chúa sẽ đoái thương đến họ sau khi sửa phạt những lỗi lầm của họ. Hôsê trình bày kinh nghiệm trở về này của dân Israel như là kinh nghiệm phục sinh của Chúa Giêsu: “Sau hai ngày, Người sẽ hoàn lại cho chúng ta sự sống; ngày thứ ba, sẽ cho chúng ta trỗi dậy, và chúng ta sẽ được sống trước nhan Người” (Hs 6:2). Nói cách khác, khi trở về với Chúa, dân Israel sẽ được biến đổi và sống một đời sống mới mà Thiên Chúa ban cho họ. Để đạt được điều đó, họ phải ra sức nhận biết Thiên Chúa khi Ngài đến như hừng đông mỗi ngày xuất hiện và như mưa rào, như mưa xuân tưới gội đất đai (x. Hs 6:3). Chỉ khi nhận ra Thiên Chúa xuất hiện trong từng giây phút sống, chúng ta mới có thể đáp lại và sống trọn vẹn theo sự hướng dẫn của Ngài. Vậy, hãy tỉnh thức để nhận ra Chúa đến với chúng ta trong những sự kiện nhỏ bé của đời sống thường ngày.

Nỗi lòng của Thiên Chúa mỗi khi dân Israel và chúng ta đi lạc xa khỏi tình yêu của Ngài là Ngài vẫn mong chờ họ và chúng ta với một tình yêu tuyệt đối. Chính tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa mời gọi chúng ta phải đáp lại với tình yêu, chứ không phải với hy lễ (x. Hs 6:6): “Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu.” Ngài muốn chúng ta nhận ra Ngài là Thiên Chúa của chúng ta chứ không phải là những ngẫu tượng. Ngài cũng nhắc nhở chúng ta về tình yêu chóng tàn của chúng ta:  “Tình yêu của các ngươi khác nào mây buổi sáng, mau tan tựa sương mai” (Hs 6:4). Thiên Chúa muốn nơi chúng ta một tình yêu kiên định và trung thành. Không ai trong chúng ta muốn người khác yêu mình với một “tình yêu bốn mùa” – sáng nắng, chiều mưa, trưa lâm râm và tối sương mù. Ai cũng mong người khác yêu mình với một tình yêu không thay đổi và trung thành. Thiên Chúa luôn yêu chúng ta với tình yêu trung thành và vô điều kiện, và Ngài cũng mong chúng ta yêu lại Ngài với một tình yêu chân thật và trung thành.

Bài Tin Mừng hôm nay là một lời cảnh tỉnh cho những ai trong chúng ta xem mình là đạo đức, thánh thiện hơn và hay xét đoán người khác. Thánh Luca trình bày mục đích của dụ ngôn ngay trong câu đầu tiên: “Khi ấy, Đức Giêsu kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác” (Lc 18:9). Chúng ta có bao giờ khinh chê người khác không? Nếu có, hãy suy gẫm bài Tin Mừng hôm nay và thay đổi.

Tuy nhiên, trước khi phân tích cách chi tiết bài Tin Mừng, chúng ta cần lưu ý hai điểm sau: Thứ nhất, Chúa Giêsu nói dụ ngôn này cho các môn đệ là những người theo Ngài phải biết về điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa, đó là, không phải chỉ dựa vào những công việc đạo đức của họ, nhưng hoàn toàn vào lòng thương xót của Thiên Chúa; thứ hai, Chúa Giêsu dạy các môn đệ trong dụ ngôn hôm nay về thái độ cần có khi cầu nguyện sau khi khuyên các môn đệ phải cầu nguyện luôn qua dụ ngôn quan toà bất chính và bà goá quấy rầy (Lc 18:1-8). Nói cách khác, Chúa Giêsu muốn các môn đệ mặc lấy thái độ của người thu thuế mỗi khi cầu nguyện với Chúa. Như vậy, thái độ của người thu thuế là điều Luca nhắm đến chứ không phải là sự so sánh giữa người Pharisêu và người thu thuế. Thánh Luca dùng sự tương phản để làm sáng tỏ điều ngài muốn nhấn mạnh, giống như dùng sự tương phản giữa màu đen và trắng để làm nổi bật nhau.

Chi tiết đầu tiên chúng ta lưu ý trong dụ ngôn này là việc Thánh Luca sử dụng “cặp đôi” của Kinh Thánh để áp dụng cho dụ ngôn của mình. Thánh Luca đã sử dụng phương pháp này trong dụ ngôn người cha nhân hậu trong chương 15:11-32 – “Người kia có hai người con” (c.11). Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay cũng bắt đầu tương tự như thế: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện” (Lc 18:10). Và như chúng ta đã biết, một trong hai người sẽ được khen, còn người kia sẽ bị khiển trách. Đây là bối cảnh để chúng ta hiểu dụ ngôn. Bây giờ, chúng ta tập trung vào thái độ của người Pharisêu và người thu thuế để rút ra những điều cần tránh và những điều cần học khi đến với Chúa.

Thái độ của người Pharisêu: ông ta tự xem mình là người công chính. Thánh Luca không liên kết sự công chính với đức tin như Thánh Phaolô. Ngài nhấn mạnh đến ba yếu tố sau đây về sự công chính: (1) sự tự phụ về những việc tốt mình làm sẽ không làm chúng ta tránh khỏi phán xét của Thiên Chúa; (2) như Chúa Giêsu, chúng ta phải thực hiện những hành vi công chính như bố thí; và (3) Thiên Chúa là Đấng làm cho chúng ta nên công chính với ơn của Ngài, chứ không phải với việc làm tốt của chúng ta. Ba yếu tố này không tìm thấy trong thái độ của người Pharisêu khi đến với Chúa. Ông ta tự “công chính hoá” chính mình qua những việc tốt của mình: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18:11-12). Người Pharisêu thật sự không sai. So về đời sống đạo đức, ông ta thật sự đạo đức hơn người thu thuế nhiều. Cái sai của ông chính là nâng mình lên trở thành “chúa” qua việc “công chính hoá” chính mình. Nói cách khác, ông ta biến mình làm tiêu chuẩn để đo lường đúng sai, và như thế ông chiếm lấy vị trí của Thiên Chúa là tiêu chuẩn tuyệt đối đời sống luân lý của con người. Đây là thái độ chúng ta cần phải tránh khi đến với Chúa trong cầu nguyện: hãy để Chúa là Chúa và nhận ra thân phận của mình trước mặt Chúa.

Thái độ của người thu thuế: “Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18:13). Ông ta nhận ra thân phận tội lỗi của mình trước mặt Thiên Chúa. Và ông không công chính hoá chính mình vì ông biết rằng đó là việc của Thiên Chúa. Khác với người Pharisêu, người thu thuế đến với Thiên Chúa trong tương quan giữa Đấng Tạo Hoá và tạo vật; còn người Pharisêu đến với Thiên Chúa trong tương quan của một tạo vật đặt mình vào vị trí của Đấng Tạo Hoá. Hành vi đấm ngực của người thu thuế là dấu hiệu của sám hối. Hành vi đấm ngực này được Thánh Luca sử dụng lại và gán cho những người chứng kiến Chúa Giêsu chết trên Thánh Giá (Lc 23:48). Học nơi người thu thuế, chúng ta không kể công khi đến với Chúa, mà chỉ kể cho Chúa nghe những thất bại và tội lỗi của chúng ta để xin Ngài tha thứ và thánh hoá chúng ta. Nhìn từ khía cạnh này, cầu nguyện chính là “kể cho Chúa nghe những yếu đuối, tội lỗi của mình và xin Chúa dủ lòng thương.” Đây chính là thái độ Chúa Giêsu muốn các môn đệ phải có khi cầu nguyện.

Bài Tin Mừng kết thúc với nhận định của Chúa Giêsu về tình trạng của người Pharisêu và người thu thuế, đồng thời khuyến cáo các môn đệ phải cẩn thận về việc phô trương chính mình: “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18:14). Người thu thuế được nên công chính vì ông nhận ra mình cần lòng thương xót của Thiên Chúa và đã tỏ ra ăn năn về tội lỗi của mình; còn người Pharisêu thì không cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa vì ông đã tự cho mình là công chính. Về phần chúng ta, khi đến với Chúa, chúng ta đang mang thái độ và tâm tình của ai: người Pharisêu hay người thu thuế?