Suy niệm Lời Chúa mỗi ngày- Tuần II Mùa Phục Sinh

50

SUY NIỆM TUẦN II MÙA PHỤC SINH

Lm. Ngọc Dũng, SDB

THỨ HAI TUẦN II MÙA PHỤC SINH – LỄ TRUYỀN TIN

XIN VÂNG NHƯ MẸ

(Is 7:10-14; 8:10; Hr 10:4-10; Lc 1:26-38)

Trong Mùa Chay, phụng vụ Giáo Hội cử hành long trọng hai lễ mừng kính hai người có liên quan đặc biệt đến cuộc đời Chúa Giêsu trên trần thế, đó là Thánh Giuse và Mẹ Maria. Thánh Giuse được mừng kính trọng thể vào ngày 19 tháng 3 vừa qua, và sau một tuần, Giáo Hội mừng kính long trọng lễ Truyền Tin. Lễ Truyền Tin cử hành hôm nay được tính từ lễ Giáng Sinh (ngày 25 tháng 12) để nêu lên lý do Chúa Giêsu được Mẹ Maria cưu mang 9 tháng trong dạ như bao nhiêu người khác [Ngài là con người thật]. Tuy nhiên, khi cử hành hai lễ này trong Mùa Chay, Giáo Hội muốn chúng ta nhìn lên các ngài để học ở các ngài những thái độ cần thiết để đón nhận Chúa Giêsu vào cuộc đời mình. Các ngài cũng đã phải trải qua hành trình “sám hối,” thay đổi kế hoạch sống của riêng mình, thay đổi lối sống, lối suy nghĩ để đón nhận kế hoạch của Thiên Chúa. Đây chính là điều Giáo Hội muốn chúng ta thực hiện trong Mùa Chay.

Bài đọc 1 hôm nay trình thuật lại lời tiên sấm của Isaia về lời hứa của Thiên Chúa cho nhà của Đavít đang hoang mang lo sợ trước tấn công của Razon, vua của Aram và Pekah, vua của Israel (x. Is 7:1-9b). Trong nỗi hoang mang của nhà Đavít, Isaia được sai đến với Akhát để trấn an vua và nhà Đavít phải vững tin vào Chúa vì Ngài sẽ bảo vệ Judah. Để biết là Đức Chúa không bỏ rơi họ, Isaia nói vua Akhát có thể xin một dấu lạ (x. Is 7:11). Nhưng vua Akhát không dám xin Đức Chúa một dấu lạ: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa” (Is 7:12). Dù vua Akhát không xin, Đức Chúa vẫn ban cho vua Akhát và nhà Đavít một dấu, đó là, “này đây người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuen nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Is 7:14; 8:10). Điều này cho thấy việc đến trần gian của Chúa Giêsu không phải là kế hoạch của con người, nhưng là của Thiên Chúa. Lời sấm này sẽ được hoàn thành nơi Đức Maria được thuật lại trong bài Tin Mừng hôm nay.

Bài đọc 2 trình bày cho chúng ta về việc vâng phục của Chúa Giêsu. Ngài chấp nhận đến để thực thi thánh ý của Chúa Cha. Tác giả của thư gởi Do Thái khẳng định rằng: sự nhập thể của Chúa Giêsu là điều cao trọng hơn mọi hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội: “Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói : Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10:5-7). Việc hạ mình để trở nên giống chúng ta trong mọi sự ngoại trừ tội lỗi là điều đẹp ý Thiên Chúa Cha nhất. Hay nói cách khác, của lễ đẹp nhất chính là làm theo thánh ý của Thiên Chúa. Như vậy, mỗi khi chúng ta không làm theo ước muốn tự nhiên của mình để hoàn toàn thực hiện những điều Chúa Giêsu dạy chúng ta là chúng ta dâng lên Thiên Chúa Cha của lễ đẹp nhất. Chúng ta tìm thấy mẫu gương tuyệt vời nơi Đức Mẹ được trình thuật trong bài Tin Mừng.

Chúng ta có thể nói rằng, bài Tin Mừng hôm nay được viết theo kiểu kịch nghệ [Hy Lạp] và có thể được chia làm hai phần: phần đầu là lời mở đầu của người dẫn và phần hai nói về cuộc đối thoại giữa Thiên Thần Gabriel và Mẹ Maria. Chúng ta có thể viết lại đoạn Tin Mừng này như một đoạn trong vở kịch về lịch sử cứu độ của Thiên Chúa như sau:

Người dẫn: Khi bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria (Lc 1:26-27).

Thiên Thần Gáprien: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1:28).

(Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì [Lc 1:29]).

Thiên Thần Gáprien: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà được đẹp lòng Thiên Chúa. Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1:30-33).

Mẹ Maria:  “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (Lc 1:34).

Thiên Thần Gáprien: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ toả bóng trên bà; vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng, vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1: 35-37).

Mẹ Maria: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1:38).

(Rồi sứ thần từ biệt ra đi).

Khi viết lại theo lối kịch nghệ Hy Lạp, chúng ta nhận ra đây chính là một “tuyệt phẩm” không những về mặt văn chương, nhưng còn về mặt sân khấu và phim ảnh. Cuộc đối thoại trong “đoạn kịch” này là cuộc đối thoại quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại, vì nó làm thay đổi hoàn toàn định mệnh của con người và vũ trụ. Qua cuộc đối thoại này, Ngôi Hai đã đến cư ngụ trong cung lòng của Mẹ Maria, và hơn thế nữa, Ngài đã mặc lấy xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta (x. Ga 1:14). Về phía chúng ta thì thế nào? Đâu là hoa quả của việc đối thoại của chúng ta với Chúa? Sau khi đối thoại với Chúa, chúng ta có dành cho Ngài một chỗ trong con tim của chúng ta, để qua chúng ta Ngài cũng hiện diện với những người khác không?

Thông thường, mỗi khi nghe đoạn Tin Mừng này, chúng ta tập trung vào lời ‘Fiat” của Mẹ Maria vì câu này đã gợi hứng cho nhiều người bước theo Chúa, nhất là trong đời sống thánh hiến, cũng như khi chịu đau khổ thử thách trong cuộc sống; câu này cũng đã là nguồn cảm hứng cho nhiều nhạc sĩ, thi sĩ, hoạ sĩ và điêu khắc. Tuy nhiên, lời “Fiat” của Mẹ Maria là đỉnh cao và là đích đến của một quá trình tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa. Mẹ không “xin vâng” theo kiểu mù quáng. Lời “xin vâng” của Mẹ là kết luận của điều mà thần học khẳng định: “đức tin đi tìm sự hiểu biết.” Chúng ta cùng nhau phân tích hành trình đức tin đi tìm sự hiểu biết này của Mẹ qua những phản ứng rất tự nhiên của Mẹ để  rút ra những bài học quý giá cho hành trình đức tin của chúng ta.

Phản ứng thứ nhất: Mẹ bối rối và tự hỏi về lời chào của Thiên Thần. Mẹ bối rối vì tình yêu Thiên Chúa dành cho Mẹ quá lớn lao. Mẹ chỉ là một thiếu nữ bình thường, đơn sơ, không có gì nổi bật. Mẹ chỉ có một con tim thao thức và khao khát ơn cứu độ của những “người nghèo của Thiên Chúa.” Mẹ bối rối và tự hỏi vì lời chào khó hiểu của Thiên Thần là Mẹ phải vui lên. Làm sao Mẹ có thể vui khi dân của Mẹ đang sống trong cảnh bị đô hộ và đau khổ? Mẹ bối rối và tự hỏi về câu nói của Thiên Thần Gáprien: “Thiên Chúa ở cùng bà.” Đây chính là “điệp khúc” luôn được lặp lại trong Cựu Ước mà Thiên Chúa nói với những người Ngài chọn cho một sứ mệnh nào đó của Ngài. Thật vậy, Mẹ bối rối và tự hỏi: không biết sứ mệnh Thiên Chúa muốn mời gọi Mẹ là gì? Và Thiên Thần nói cho Mẹ về sứ mệnh mà Thiên Chúa mời gọi Mẹ cộng tác là: “bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu.” Đứng trước sứ mệnh cao trọng và vượt khỏi trí hiểu của con người như thế, Mẹ liền xin lời giải thích. Điều này đưa chúng ta đến thái độ thứ hai của Mẹ [hay bước thứ hai trong hành trình đức tin đi tìm sự hiểu biết].

Phản ứng thứ hai: Mẹ xin lời giải thích chứ không nghi ngờ. Mẹ không nghi ngờ như trường hợp của Dacaria, người có vợ, tức là có tương quan vợ chồng. Còn Mẹ, theo Tin Mừng Thánh Luca thuật lại, chỉ mới đính hôn với Giuse, chứ chưa về chung sống. Nên việc thụ thai là điều không thể hiểu. Chúng ta cần lưu ý đến chữ “biết” trong câu hỏi của Mẹ Maria: “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” Chữ này trong Kinh Thánh, nhất là trong sách Sáng Thế (chương 1-15) được sử dụng để nói đến “hành vi quan hệ giữa vợ chồng.” Trong ánh sáng này, chúng ta hiểu việc Mẹ hỏi Thiên Thần là một chuyện bình thường, chứ không mang tính nghi ngờ. Trước câu hỏi vượt ra khỏi trí hiểu của con người vì nó nằm trong lãnh vực của “đức tin đi tìm sự hiểu biết,” Thiên Thần Gáprien đã giải thích cho Mẹ. Mẹ lắng nghe lời giải thích. Chỉ một lần! Đúng, chỉ một lần, vì Mẹ lắng nghe với trọn con tim, trọn con người của một người đi tìm thánh ý Thiên Chúa, của một con tim hoàn toàn dành cho Chúa và cho nhân loại. Kết quả của việc lắng nghe này là lời “xin vâng,” là việc “đem ra thực hành.” Điều này có ý nói cho chúng ta biết rằng: Người không lắng nghe với trọn con tim đi tìm thánh ý Thiên Chúa sẽ không thể thốt lên lời “xin vâng” như Mẹ. Hãy biết mở rộng cõi lòng và con tim để lắng nghe khi Chúa giải thích cho chúng ta những điều vượt quá trí hiểu của chúng ta qua lời Chúa, qua những sự kiện của cuộc sống hằng ngày, và qua những người chúng ta gặp gỡ.

Phản ứng thứ ba: Mẹ hoàn toàn vâng phục. Lời “Fiat” của Mẹ là đỉnh cao của cuộc đối thoại với Thiên Chúa. Chúng ta có thể nói rằng: Lời “Fiat” của Mẹ chính là “sự tự hạ,” tự nên trống rỗng để được Chúa đổ đầy với sự hiện diện của Ngài. Mẹ đã “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết”: chết đi cho con người của mình để được Chúa chiếm lấy và sống trong Mẹ, để rồi không còn là Mẹ sống, mà là Chúa Giêsu sống trong Mẹ. Chúng ta cũng được mời gọi để trở nên như Mẹ: biết chết đi cho ý riêng và kế hoạch riêng của mình để chỉ sống cho Chúa và kế hoạch của Ngài. Nếu không có sự chết đi cho chính mình, thì lời “Fiat” sẽ trở nên không thể.

Tóm lại, phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lên Mẹ để tạ ơn Mẹ về lời “xin vâng” của Mẹ đã mang Chúa Giêsu đến cho nhân loại. Hơn nữa, đó cũng là lời mời gọi chúng ta học nơi Mẹ tâm hồn sẵn sàng và dễ dạy với Thiên Chúa hầu để Ngài thực hiện những gì Ngài muốn trên cuộc đời của chúng ta.

**************

THỨ BA TUẦN II MÙA PHỤC SINH

TRONG CHÚA GIÊSU, CHÚNG TA CẢM NẾM ĐƯỢC THIÊN ĐÀNG

(Cv 4:32-37; Ga 3:7b-15)

Bài đọc 1 hôm nay trình bày cho chúng ta về kiểu mẫu của một cộng đoàn [gia đình hay giáo xứ] lý tưởng và tuyệt hảo. Chúng ta có thể nói rằng, đây là hình ảnh của thiên đàng nơi chỉ có tình yêu ngự trị. Đâu là chìa khoá làm cho cộng đoàn hay gia đình hạnh phúc? Chúng ta tìm thấy những yếu tố cần thiết sau đây:

Thứ nhất, hiệp nhất giữa những khác biệt: “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung” (Cv 4:32). Bài đọc 1 cho chúng ta thấy rõ, các tín hữu thời đó rất đông, nhưng họ chỉ có một lòng một ý. Điều này xảy ra vì không ai nghĩ cho riêng mình mà chỉ nghĩ cho người khác; đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân. Khi mọi người sống chung với nhau chỉ có một mục đích để vươn tới, thì sẽ có hiệp nhất. Nhưng điều này không dễ dàng cho chúng ta ngày hôm nay khi chủ nghĩa cá nhân đang chiếm ưu thế và có ảnh hưởng lớn trên lối sống và việc làm của chúng ta. Chúng ta nghĩ về lợi ích của mình nhiều hơn là lợi ích chung. Vì vậy, chúng ta nhìn sự khác biệt của người khác như những “mối đe doạ” cho lợi ích cá nhân hơn là những điều để bổ sung cho những khuyết điểm của chúng ta. Để sống hạnh phúc, hãy biết đón nhận sự khác biệt của người khác như những món quà của Thiên Chúa để bổ sung cho những khiếm khuyết của chúng ta và đồng thời nghĩ về hạnh phúc của người khác hơn là của chính mình.

Thứ hai, làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần: “Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giêsu đã sống lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng” (Cv 4:33). Chúa Thánh Thần là Đấng mang lại sự canh tân của vạn vật, mang lại sức sống mới. Yếu tố thứ hai liên quan đến việc để cho Chúa Thánh Thần uốn nắn chúng ta mỗi ngày để làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh qua đời sống mới của chúng ta, đó là một đời sống chết đi cho tội lỗi để sống lại trong một đời sống yêu thương và tha thứ trong Đức Kitô.

Thứ ba, sống đời sống chia sẻ: “Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền, đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được phân phát cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu” (Cv 4:34-35). Một trong những điều làm cho đời sống chung hạnh phúc là khả năng trao ban và chia sẻ. Khi một người để cho anh chị em của mình túng thiếu trong khi mình sung túc giàu sang, chắc chắn con tim của người đó không có chút tình thương nào. Chỉ những người sống đời yêu thương mới có khả năng trao ban cho những người khác những gì mình có và mình là. Như vậy, khả năng trao ban [những gì mình có và những gì mình là chứ không phải những gì dư thừa] là thước đo tình yêu của một người dành cho anh chị em của mình. Tình yêu làm cho “người yêu” trao ban mọi sự cho “người được yêu.” Đây chính là tình yêu của Thiên Chúa mà chúng ta được mời gọi bắt chước mỗi ngày. Đừng để anh chị em của chúng ta thiếu thốn khi chúng ta no đủ.

Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Nicôđêmô về việc “sinh ra bởi Thần Khí.” Như chúng ta biết, Nicôđêmô đã không hiểu điều Chúa Giêsu nói vì ông hiểu theo nghĩa của văn tự, còn Chúa Giêsu nói theo nghĩa hình tượng. Trung tâm của Bài Tin Mừng hôm nay là việc Chúa Giêsu giải thích cho Nicôđêmô về ý nghĩa của việc sinh ra bởi Thần Khí. Thật vậy, Thánh Gioan nêu lên cho chúng ta hình ảnh của những người sinh ra bởi Thần Khí họ sẽ giống như gió: “Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy” (Ga 3:8). Điều này không có nghĩa là họ thay đổi hướng đi như gió, nhưng có ý nói là những người sinh ra bởi Thần Khí sẽ được “tự do khỏi tội lỗi và tự do cho Thiên Chúa.” Nói cách khác, những người được sinh ra bởi Thần Khí là những người diễn tả tình yêu Thiên Chúa cách trung thực mà không để cho cái bóng của mình che khuất tình yêu đó.

Khi thấy Nicôđêmô không hiểu điều Ngài nói, Chúa Giêsu liền giải thích cho ông. Nhưng lời giải thích của Ngài đã đưa Nicôđêmô và chúng ta sang một đề tài khác, đó là đề tài làm chứng trong tương quan với Chúa Thành Thần. Chúng ta có thể nhận ra ba phần trong lời giải thích của Chúa Giêsu: phần 1 (Ga 3:11) nói về nền tảng của lời chứng và sự không đón nhận của Nicôđêmô và các lãnh đạo người Do Thái: “Thật, tôi bảo thật ông: chúng tôi nói những điều chúng tôi biết, chúng tôi làm chứng về những điều chúng tôi đã thấy, nhưng các ông không nhận lời chứng của chúng tôi”; phần 2 (Ga 3:12-13) trình bày Chúa Giêsu là suối nguồn duy nhất để biết về Nước Trời: “Nếu tôi nói với các ông về những chuyện dưới đất mà các ông còn không tin, thì giả như tôi nói với các ông về những chuyện trên trời, làm sao các ông tin được? Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống”; phần 3 (Ga 14-15) ám chỉ việc sinh ra bởi Thần Khí chỉ được mạc khải khi Ngài được giương cao trên thập giá: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.”

Trong ba phần từ lời giải thích của Chúa Giêsu, điều đáng để chúng ta suy gẫm đó là lời khẳng định của Ngài: rằng chỉ nơi Ngài chúng ta mới tìm được những “kiến thức cần thiết về Thiên Đàng.” Ai trong chúng ta cũng muốn lên Thiên Đàng và chúng ta loay hoay tìm đủ mọi cách để đạt đến điều đó. Nhưng nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta lại đi tìm không đúng chỗ. Chúng ta đi tìm trong sách vở để có được những tư tưởng vĩ đại về Thiên Đàng. Nhưng rồi khi trở về với thực tế của cuộc sống, thay vì sống với nhau và làm chứng cho nhau về Thiên Đàng qua đời sống yêu thương và tha thứ, chúng ta làm tổn thương nhau qua những lời ăn tiếng nói và cử chỉ không phải “của Thiên Đàng,” không phải của những người sinh ra bởi Thần Khí, mà là của những người sinh ra bởi thân xác. Để biết được Thiên Đàng là gì, hãy đến với Chúa Giêsu. Những ai có Chúa Giêsu trong đời sẽ cảm nếm được Thiên Đàng là gì và có khả năng biến nơi mình sống trở nên Thiên Đàng cho người khác nếm cảm. Một gia đình hay một cộng đoàn tu trì chỉ trở nên Thiên Đàng khi mỗi thành viên có Chúa trong con tim, và khi có Chúa Giêsu là vị trí trung tâm trong chính gia đình hay cộng đoàn của mình.

 

**************

THỨ TƯ TUẦN II MÙA PHỤC SINH

CHÚA GIÊSU ĐẾN VÌ YÊU CHÚNG TA

(Cv 5:17-26; Ga 3:16-21)

Ghen tức là một cảm xúc mà ai ai cũng có. Khi ghen tức, chúng ta không còn nhìn mọi sự cách sáng suốt, hay nói đúng hơn, chúng ta không còn nhìn mọi sự theo cách nhìn của Chúa. Khi ghen tức ai, chúng ta chỉ tìm mọi cách để “làm hại” người đó. Điều này đã xảy ra cho Chúa Giêsu và trong bài đọc 1 hôm nay chúng ta cũng thấy xảy ra cho các Tông Đồ: “Bấy giờ, vị thượng tế cùng tất cả những người theo ông – tức là phái Xađốc – ra tay hành động. Đầy lòng ghen tức, họ bắt các Tông Đồ, nhốt vào nhà tù công cộng” (Cv 5:17-18). Vì ghen tức mà vị thượng tế và những người theo phái Xađốc bắt nhốt các Tông Đồ vào ngục. Tuy nhiên, kinh nghiệm dạy chúng ta rằng: những người ghen tức là những người nếm mùi cay đắng của sự ghen tức. Thay vì tống người khác vào tù, họ tự tống mình vào tù. Những người ghen tức với người khác là những người không biết chính mình. Họ luôn sống trong lo sợ nên không bao giờ có bình an. Tuy nhiên, bài đọc 1 chỉ cho chúng ta thấy rằng nhà tù mà con người lập ra không thể giam cầm những người làm chứng cho đời sống mới trong Đức Kitô phục sinh. Chính Thiên Chúa sẽ giải thoát các chứng nhân của Ngài khỏi sự cầm tù của những người ghen tức họ. Nhà tù khủng khiếp nhất chính là một con tim đóng kín, không có yêu thương.

Trong cuộc đối thoại với Nicôđêmô, Thánh Gioan “chêm vào” trình thuật về việc Chúa Cha sai Chúa Con để đem sự sống cho thế gian. Trong đoạn Tin Mừng này, Thánh Gioan liên kết đề tài đức tin với viễn cảnh phán xét của ngày cánh chung: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:18). Những lời này cho thấy thần học của Thánh Gioan, đó là việc xét xử không chỉ xảy ra vào thời cánh chung, mà xảy ra trong từng ngày sống của con người. Con người bị lên án vì không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta có thể tự hào nói rằng mình không bị lên án vì đã tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. Tuy nhiên, chúng ta sẽ bị “kết án” vào ngày sau hết nếu chúng ta không sống đúng với niềm tin của mình. Tin trong Tin Mừng Thánh Gioan không chỉ là việc gắn chặt đời mình với những tín điều, nhưng còn là hoàn toàn phó thác cuộc sống của mình để theo Chúa Giêsu và trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Tin Chúa Giêsu là sống đời sống yêu thương và tha thứ như Ngài.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan trình bày cho chúng ta lý do tại sao Chúa Cha sai Chúa Giêsu đến trong thế gian; đó là vì yêu: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Những lời này chỉ rõ cho chúng ta thấy động lực Chúa Giêsu đến trong thế gian là để mạc khải tình yêu của Thiên Chúa cho con Người. Ngài đến vì yêu. Ngài sống và chết cho chúng ta cũng vì yêu. Đời sống hằng ngày của chúng ta, những người tin vào Chúa Giêsu, cũng phải được thúc đẩy bằng tình yêu. Từ lời ăn tiếng nói, từ hành động đến cách cư xử phải thấm nhiễm tình yêu của Thiên Chúa. Để rồi, qua cuộc sống của chúng ta, người khác không nhìn thấy gì ngoài tình yêu Thiên Chúa đang hoạt động trong chúng ta. Chúng ta có đang sống đúng với giấc mơ của Chúa cho chúng ta không?

Bên cạnh đó, những lời trong bài Tin Mừng gợi lên trong chúng ta hai cảm xúc khác nhau: cảm xúc được an ủi và cảm xúc lo sợ. Một mặt, chúng ta cảm thấy được an ủi vì chúng ta được biết rằng: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3:17). Mặt khác, chúng ta cảm thấy lo sợ vì đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa không mạnh mẽ như Ngài mong ước. Thật vậy, đứng trước tình yêu cao vời, vô điều kiện của Thiên Chúa diễn tả nơi Đức Kitô, chúng ta được an ủi là Thiên Chúa luôn luôn yêu thương và không bao giờ rút lại tình yêu Ngài dành cho chúng ta. Nhưng chúng ta cũng nhận ra sự mỏng dòn yếu đuối của mình. Đã biết bao nhiêu lần chúng ta đã từ chối tình yêu của Thiên Chúa để sống theo giấc mơ của riêng mình để rồi chúng ta chỉ nhận được những nỗi trống vắng và cay đắng trong cuộc sống. Tình yêu của con người thì giới hạn, tình yêu của Thiên Chúa thì vô hạn. Hãy đến với Chúa để cảm nghiệm sự ngọt ngào của tình yêu vô hạn hầu chúng ta có thể yêu anh chị em mình như thế.

Trong ba câu cuối cùng của bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan đưa chúng ta về lại với hình ảnh ánh sáng và bóng tối mà thánh sử đã trình bày trong phần dẫn nhập (x. Ga 1:1-18). Hình ảnh tương phản này được thánh nhân sử dụng để giải thích lý do tại sao nhiều người chống đối và từ chối ơn cứu độ của Thiên Chúa được Chúa Giêsu mang đến vì họ “đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng” (Ga 3:19). Hình ảnh ánh sáng nói đến những người sống theo sự thật, còn hình ảnh bóng tối nói đến những người làm điều ác. Ở đây, chúng ta nhận ra tiêu chuẩn để biết được công việc của mình được thực hiện trong Thiên Chúa hay không, đó là chúng ta sống theo sự thật, sống theo ơn Chúa. Theo các học giả Kinh Thánh, ba câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay được Thánh sử viết lại từ một bản văn có trước đó của người Do Thái. Trong bối cảnh nói về Chúa Thánh Thần hay sinh ra trong Thần Khí, thì sống theo sự thật có nghĩa là sống đời sống công chính. Trong bối cảnh này, người công chính [hay người sinh ra bởi Thần Khí] là người ghét sự dữ, ghét làm điều xấu. Còn những người không sống công chính sẽ bị kết án, “và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa” (Ga 3:19). Chính mình lên án mình vì chúng ta không muốn ra khỏi bóng tối, không muốn ra khỏi lối sống cũ của chúng ta. Thật vậy, theo tâm lý bình thường, chúng ta không muốn thay đổi những gì chúng ta đã quá quen thuộc. Người sống trong bóng tối lâu ngày không thích ra ánh sáng. Nếu họ ra, họ phải từ từ làm quen với ánh sáng; nếu không, ánh sáng có thể làm cho mắt họ bị mù. Trong hai câu cuối, Thánh Gioan giải thích rõ cho chúng ta: ai là người được sinh ra bởi xác thịt và ai là người được sinh ra bởi Thần Khí. Những người sinh ra bởi xác thịt là những người “làm điều ác,” và họ “ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng,” để “các việc họ làm khỏi bị chê trách” (Ga 3:20). Còn những người sinh ra bởi Thần Khí là những người “sống theo sự thật,” họ đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3:21). Chúng ta thuộc loại nào trong hai loại người trên?

 

**************

THỨ NĂM TUẦN II MÙA PHỤC SINH

SỐNG VÀ LÀM CHỨNG CHO CHÚA

(Cv 5:27-33; Ga 3:31-36)

“Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em : tôi tớ không lớn hơn chủ. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. Nhưng họ sẽ làm tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15:20-21). Câu nói trên của Chúa Giêsu đã ứng nghiệm nơi các môn đệ trong bài đọc 1 hôm nay. Chúng ta thấy các thành viên của Thượng Hội Đồng có thái độ chống đối và muốn giết các Tông Đồ như họ đã từng làm với Chúa Giêsu. Đây cũng chính là điều chúng ta phải đối diện trong đời sống chứng tá cho Chúa Giêsu. Chúng ta đã nghe, đã biết điều này rất rõ, tại sao chúng ta lại ngạc nhiên và phàn nàn, kêu ca khi chúng ta phải chịu đau khổ và chống đối vì danh Ngài? Nhiều khi chúng ta đã đánh mất đi lòng yêu mến và nhiệt tình trong đời sống chứng tá khi bị chống đối hoặc khi nghe những lời chỉ trích.

Trong bài đọc 1 hôm nay, các Tông Đồ không để cho sự sợ hãi giết chết đi niềm vui có Chúa và niềm vui được mời gọi làm chứng nhân cho Ngài. Các ngài dạy cho chúng ta phải biết vâng lời ai: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5:29). Đây là điều chúng ta cần phải lưu ý trong từng ngày sống. Ai trong chúng ta cũng muốn tìm thánh ý Chúa và thực hành, nhưng chúng ta lại để mình bị chi phối bởi lời nói của người khác nhiều hơn là vâng lời Chúa. Ví dụ như khi chúng ta biết là Chúa không muốn chúng ta nghĩ xấu và nói xấu nhau, nhưng khi nghe người khác nói xấu về một người nào đó mà mình “không thích,” tự nhiên mình sẽ quên mất Chúa và để cho lời của người khác làm cho lòng mình hoan hỉ, để rồi mình cũng bắt đầu “thêm dầu vào lửa.” Các Tông Đồ không làm thế. Các ngài nắm bắt cơ hội đó để  làm chứng cho Chúa (x. Cv 5:30-32). Tại sao chúng ta không nắm bắt những cơ hội có được trong ngày sống để làm chứng cho Chúa? Đừng mất thời gian với những chuyện vô ích. Hãy dành thời gian tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa và vâng theo lời Ngài hơn là để cho những lời chỉ trích như gió thoảng của người khác làm cho chúng ta mất đi niềm vui có Chúa.

Sợi chỉ nối kết hai bài đọc Lời Chúa hôm nay là chủ đề về đời sống mới trong Đức Kitô, đó là đời sống hoàn toàn vâng lời Thiên Chúa, hoàn toàn nói những điều Thiên Chúa muốn. Chúng ta nhận ra điều này trong bài đọc 1 qua hình ảnh các Tông Đồ và nhất là trong bài Tin Mừng qua hình ảnh Chúa Giêsu. Bài đọcTin Mừng của thánh Gioan hôm nay (Ga 3:31-36) được xem là bản tóm tắt của toàn chương [hay của toàn bộ lời chứng của Chúa Giêsu cho Nicôđêmô]. Bản tóm tắt này nhằm khẳng định rằng Chúa Giêsu được sai đến để ban cho con người sự sống mới, sự sống trong Thần Khí.

Phân tích cấu trúc của bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nhận ra hai phần sau đây: phần thứ nhất (Ga 3:31-33) nói đến hai loại chứng nhân, đó là từ trời và từ đất. Trong phần này, Chúa Giêsu khẳng định Ngài là Đấng đến từ trời và làm chứng cho chúng ta những gì Ngài đã thấy và mời gọi chúng ta bước vào sự hiệp thông của sự sống đời đời qua việc tin vào Ngài đã được Chúa Cha sai đến để làm chứng rằng, “Thiên Chúa yêu thế gian” cách tuyệt đối và vô điều kiện đến nỗi đã sai Con Một của mình đến thế gian (x. Ga 3:16); trong phần thứ hai (Ga 3:34-36), Chúa Giêsu khẳng định Ngài là Đấng được Chúa Cha ban cho Thần Khí và sai đến thế gian không chỉ để làm chứng về những gì Ngài đã thấy, nhưng còn để ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Ngài.

Trong phần thứ nhất, chúng ta thấy Thánh Gioan tiếp tục tư tưởng sinh ra bởi xác thịt và sinh ra bởi Thần Khí và liên kết với đề tài đến từ trên cao và đến từ đất. Nói cách khác, người sinh ra bởi xác thịt là người đến từ đất và người được sinh ra bởi Thần Khí thì đến từ trời cao. Nói cách cụ thể hơn, người đến từ trên cao thì sống theo sự linh hứng và hướng dẫn của Thần Khí, còn người đến từ đất thì sống theo “bản năng tự nhiên.” Chúng ta thuộc loại nào trong hai loại này? Chắc chắn chúng ta thuộc loại thứ hai, sinh ra bởi Thần Khí, vì chúng ta đã được tái sinh trong Bí Tích Rửa Tội. Nhưng chúng ta có duy trì đời sống đó trong chúng ta không, đó là vấn đề chúng ta cần suy gẫm. Chúng ta tự hỏi: làm sao tôi có thể duy trì sự sống trong Thần Khí ở trong tôi?

Chìa khoá giúp chúng ta trả lời cho câu hỏi trên nằm ở câu 35: “Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người.” Trong câu này, chúng ta tìm thấy lời chứng đầu tiên nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Chúa Con. Vì tình yêu này, Chúa Cha ban cho Chúa Con mọi sự, đó là quyền phán xét và ban sự sống đời đời cho mọi xác phàm. Khẳng định này giúp chúng ta nhận ra chân lý này: thứ nhất, ở đâu có tình yêu thật, ở đó có sự trao ban mọi sự, không giữ lại gì cho mình. Nói cách cụ thể hơn, người yêu với một tình yêu chân thật là người luôn trao ban cho người khác những gì mình có và mình là. Nhìn từ khía cạnh này, chỉ có một cách duy nhất để duy trì sự sống trong Thần Khí, đó là sống yêu thương trong trao ban. Như vậy, chính đời sống yêu thương [như Chúa Giêsu yêu] là dấu chỉ giúp chúng ta nhận ra một người được sinh ra bởi Thần Khí và đến từ trên cao.

Điểm cuối cùng của bài Tin Mừng mà chúng ta cần lưu ý là sự phân rẽ giữa những người tin và những người không tin: “Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy” (Ga 3:36). Cặp tương phản này [tin-không tin] luôn xuất hiện trong Tin Mừng Thánh Gioan. Trong những lời này, Chúa Giêsu chỉ ra cho chúng ta thấy những người tin có sự sống đời đời, còn những người không tin sẽ bị xét xử. Câu này cũng ám chỉ đến nỗ lực của những ai khám phá ra chân tính của Chúa Giêsu và tin vào Ngài. Chúng ta tự hỏi: Tin là gì? Tại sao tin vào Người Con là có sự sống đời đời? Chúng ta biết rằng, theo nguyên ngữ, tin có nghĩa là “trao cho Chúa con tim của mình.” Điều này có nghĩa là khi mình tin vào Chúa, mình hoàn toàn trao cho Chúa cuộc sống và con tim của mình. Nói như Thánh Phaolô, người tin là người sống, “nhưng không phải là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2:20). Khi Chúa Giêsu sống trong chúng ta, thì chúng ta không còn sống theo xác thịt, nhưng được sự sống đời đời tuôn chảy trong chúng ta. Như vậy, người tin là người sống trọn vẹn cho Thiên Chúa và là người sống và hành động như Đức Kitô. Chúng ta có thuộc loại người tin này không? Chúng ta đã hoàn toàn để cho Chúa Giêsu sống trong chúng ta chưa?

**************

THỨ SÁU TUẦN II MÙA PHỤC SINH

CHÚA GIÊSU: BÁNH HẰNG SỐNG

(Cv 5:34-42; Ga 6:1-15)

Bài đọc 1 tiếp tục trình bày cho chúng ta cuộc họp của Thượng Hội Đồng để xét xử Phêrô và các môn đệ. Điều làm chúng ta suy gẫm là lời nói của Gamaliên và sự vui mừng của các Tông Đồ vì được chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu. Trong hình ảnh của Gamaliên, “một kinh sư được toàn dân kính trọng” (Cv 5:34), chúng ta thấy Thiên Chúa ban cho ngay cả những người chống đối sự khôn ngoan để bảo vệ những chứng nhân của Ngài. Lời nói của ông đã thuyết phục Thượng Hội Đồng. Những lời đáng suy gẫm của ông là: “Vậy giờ đây, tôi xin nói với quý vị: hãy để mặc những người này. Cứ cho họ về, vì nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá huỷ; còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì quý vị không thể nào phá huỷ được; không khéo quý vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa” (Cv 5:38-39). Trong những lời này, chúng ta đọc thấy một sự thật là: sự gì đến từ Thiên Chúa sẽ trường tồn, còn những gì đến từ con người sẽ chóng qua như cây cỏ; những gì đến từ Thiên Chúa thì dù con người có muốn phá huỷ cũng không thể, còn những gì do người phàm thì tự nó sẽ bị diệt vong. Những chi tiết này nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của việc tìm kiếm những gì thuộc về Thiên Chúa. Chúng ta không cần phải ghen tỵ và so sánh với sự hưng thịnh của người khác, vì nếu điều đó đến từ Thiên Chúa thì chúng ta không bao giờ có thể dập tắt, còn nếu là của người phàm, thì nó sẽ tự sụp đổ, chúng ta không cần phải bận tâm.

Chi tiết thứ hai chúng ta có thể suy gẫm là thái độ của các Tông Đồ khi bị ngược đãi vì danh Chúa Giêsu: “Họ cho gọi các Tông Đồ lại mà đánh đòn và cấm các ông không được nói đến danh Đức Giêsu, rồi thả các ông ra. Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5:40-41). Các Tông Đồ vui không phải vì bị đánh đòn hoặc cấm giảng dạy, nhưng hân hoan vì cảm thấy mình được coi là những người xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu. Chính vì niềm vui này mà các Tông Đồ tiếp tục “vâng phục Thiên Chúa hơn người phàm,” nên “mỗi ngày, trong Đền Thờ và tại tư gia, các ông không ngừng giảng dạy và loan báo Tin Mừng về Đức Kitô Giêsu” (Cv 5:42). Chi tiết này mời gọi chúng ta nhìn lại thái độ của mình khi chúng ta đối diện với đau khổ và những thử thách trong cuộc sống. Những giây phút ấy, chúng ta có thấy mình gần Chúa không? Chúng ta có cảm thấy hãnh diện vì được xem là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu không? Hay chúng ta cảm thấy xấu hổ khi chịu đau khổ vì danh Ngài?

Bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu bài giảng của Chúa Giêsu về bánh hằng sống (Ga 6:1-71). Đây là một trong những chương dài trong Tin Mừng Thánh Gioan. Bài giảng này có sự tương đồng với những sự kiện được Thánh Máccô thuật lại trong 6:30-54 và 8:11-33. Những sự kiện đó bao gồm: (1) hoá bánh cho năm ngàn người ăn (Ga 6:1-15; Mc 6:30-44); (2) Chúa Giêsu đi trên biển (Ga 6:16-24; Mc 6:45-54); (3) đòi một dấu lạ (Ga 6:25-34; Mc 8:11-13); (4) bình luận về bánh hằng sống (Ga 6:35-59; Mc 8:14-21); (5) lời tuyên xưng của Phêrô (Ga 6:60-69; Mc 8:27-30); (6) [tiên báo về] cuộc thương khó (Ga 6:70-71; Mc 8:31-33). Những hình ảnh [biểu tượng] về Chúa Giêsu như Đấng cung cấp “nước hằng sống” trong chương 4 và bánh từ trời được phát triển cùng với nền Kitô học của Thánh Gioan như một vị vua – ngôn sứ theo Môsê. Đối với thánh sử, toàn bộ câu chuyện về bánh hằng sống trở thành một cuộc đối diện khác giữa đám đông không tin và Đấng đến từ trời với lời ban sự sống. Cấu trúc của bài Tin Mừng hôm nay như sau: (1) bối cảnh xa (Ga 6:1-4); (2) bối cảnh gần: Chúa Giêsu đối thoại với các môn đệ (Ga 6:5-10); (3) Chúa Giêsu thực hiện phép lạ (Ga 6:11-13); (4) phản ứng của dân chúng và hành động của Chúa Giêsu sau phép lạ (Ga 6:14-15). Chúng ta cùng nhau suy gẫm trên những điểm mà cấu trúc Tin Mừng đã gợi ý cho chúng ta.

Trước tiên, chúng ta cần lưu ý rằng Thánh Gioan đã nới rộng phần giới thiệu bằng việc thêm vào đó những chi tiết sau: (1) một cột móc không rõ ràng về thời gian [“sau những điều này”]; (2) một nơi chốn cụ thể [“bên kia Biển Hồ Galilê, cũng gọi là Biển Hồ Tibêria.”]; (3) động lực của đám đông tìm đến Chúa Giêsu [“Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm.”]; (4) thời điểm quy chiếu [“Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái.”]. Trong phần này, điều đáng để chúng ta suy gẫm là động lực của đám đông đến với Chúa Giêsu. Thánh Gioan trình bày rõ ràng cho chúng ta là đám đông đến với Chúa Giêsu vì họ thấy ‘những dấu lạ người làm cho những kẻ đau ốm,’ nói cách khác là họ nhìn thấy Chúa Giêsu chữa lành những kẻ đau ốm. Như chúng ta biết, một trong những hành động quan trọng trong Tin Mừng Thánh Gioan là ‘thấy.’ Tuy nhiên, ‘thấy’ chỉ mới là bước đầu của tin. Đám đông đến với Chúa Giêsu chỉ vì ‘thấy’ Ngài thực hiện những dấu lạ chứ chưa biết và tin Ngài. Điều này được chỉ rõ trong phần kết của bài Tin Mừng, đó là họ chỉ nhận ra Ngài như một vị ‘ngôn sứ’ giống như Môsê, người đã cho dân Israel bánh ăn trong sa mạc. Chúng ta cũng đến với Chúa mỗi ngày [hoặc mỗi tuần], nhưng động lực của chúng ta là gì? Nhiều người trong chúng ta đã ‘thấy’ nhiều dấu lạ Chúa thực hiện mỗi ngày trong cuộc đời của mình [hay của người thân], nhưng chúng ta đã đóng cửa lòng mình lại, chúng ta không nhận ra Ngài và đặt trọn niềm tin yêu phó thác vào tay Ngài. Chúng ta chỉ đến với Chúa chỉ vì chúng ta cần những nhu cầu của mình được đáp ứng, chứ chúng ta không đến với Ngài vì tin yêu Ngài.

Bối cảnh gần của phép lạ là một cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và các môn đệ, cụ thể là với Philipphê và Anrê. Chúng ta viết lại cuộc đối thoại này như sau:

Chúa Giêsu [“Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philípphê]: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” [“Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi].

Ông Philípphê: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.”

Anrê:   “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!”

Chúa Giêsu: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi.” [Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn].

Trong phần phép lạ, chúng ta đọc thấy như sau: “Vậy, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: ‘Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi.’ Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng” (Ga 6:11-13). Điều đáng để chúng ta lưu ý là sự tương phản và tiếp nối giữa hành động của Chúa Giêsu và các môn đệ. Trong Tin Mừng Thánh Gioan, chính Chúa Giêus là người phân phát cho dân chúng bánh và cá sau khi đã dâng lời tạ ơn. Các môn đệ chỉ là những người đi thu lại những gì Chúa Giêsu đã phân phát. Điều này khác với Tin Mừng Nhất lãm là Chúa Giêsu dâng lời tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ đi phân phát cho dân chúng và cũng chính các môn đệ đi thu lại những gì Chúa Giêsu đã bẻ ra và các ông phân phát. Chúng ta rút ra từ những chi tiết này điều để suy gẫm là: Chúa Giêsu luôn là Người trao ban chính mình và mọi sự cho chúng ta. Về phần chúng ta, chúng ta chỉ cộng tác với Ngài trong việc phân phát những gì của Chúa Giêsu đã trao vào tay chúng ta cho anh chị em của mình. Sứ vụ của chúng ta là sự tiếp nối của sứ vụ Chúa Giêsu. Những gì chúng ta trao ban đều thuộc về Chúa Giêsu. Chỉ khi hiểu được điều này, sứ vụ của chúng ta mới sinh được nhiều hoa trái để mọi người được ăn no nê mà vẫn còn dư thừa.

Bài Tin Mừng kết thúc với phản ứng của đám đông sau khi nhìn thấy dấu lạ là: “Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: ‘Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!’” (Ga 6:14). Đứng trước sự hiểu lầm về chân tính của mình, Chúa Giêsu liền tránh mặt: “Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (Ga 6:15). Đứng trước dấu lạ Chúa Giêsu thực hiện, dân chúng chỉ dừng lại ở những gì “thuộc về thân xác, thuộc về đất.” Vì vậy, họ không hiểu được thực tại trên trời mà qua dấu lạ Chúa Giêsu ám chỉ đến. Qua dấu lạ, họ chỉ dừng lại ở việc tuyên xưng Chúa Giêsu là một vị ngôn sứ như Môsê, người đã cho họ bánh ăn trong sa mạc. Họ không thể đạt đến việc tuyên nhận rằng, Ngài là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, là Con Thiên Chúa. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng chỉ dừng lại ở vẻ bề ngoài của sự kiện để rồi không thể đọc và hiểu được điều Thiên Chúa nói với chúng ta. Hãy vượt qua những gì mà con mắt thể lý có thể nhìn, và nhìn với con mắt đức tin, chúng ta mới hiểu được những thực tại của Thiên Chúa.

**************

THỨ BẢY TUẦN II MÙA PHỤC SINH

THẦY ĐÂY, ĐỪNG SỢ!

(Cv 6:1-7; Ga 6:16-21)

Bài đọc 1 hôm nay cho chúng ta thấy một thực trạng thường xảy ra trong các cộng đoàn, đó là kêu ca phàn nàn khi các nhu cầu của các thành viên không được thoả mãn. Nếu điều này được giải quyết ổn thoả thì mọi sự sẽ tốt đẹp. Nếu không, sẽ gây ra chia rẽ và bất hoà trong cộng đoàn. Để làm được điều đó, mỗi người phải nhận ra vị trí của mình trong cộng đoàn và hoàn thành nó cách tốt nhất. Nói cách đơn giản, bài đọc 1 hôm nay là bản tóm kết của một cuộc “bỏ phiếu” để chọn người thích hợp cho công việc cần được giải quyết. Tiến trình được thực hiện như sau:

Vấn đề xảy ra: “Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do Thái theo văn hoá Hy Lạp kêu trách những tín hữu Do Thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên” (Cv 6:1). Chi tiết này cho chúng ta thấy rằng, mỗi cộng đoàn đều có vấn đề riêng của nó và cũng thường có những lời kêu trách, phàn nàn về nhau và về những điều xảy ra. Điều này nhắc nhở chúng ta rằng: thực tế không có cộng đoàn hoàn hảo, vì mỗi cộng đoàn được tạo thành bởi những con người yếu đuối và giới hạn. Vì vậy, phải biết cảm thông và nâng đỡ nhau và nhất là tìm hướng giải quyết.

 Hướng giải quyết: Chúng ta thấy các Tông Đồ rất khôn khéo để tìm cách giải quyết vấn đề. Điều này đã đặt nền tảng [Kinh Thánh] cho việc thiết lập chức phó tế: “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người có tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa” (Cv 6:2-4). Trong hướng giải quyết, chúng ta thấy các Tông Đồ nêu rõ nguyên tắc “không ai được bỏ trách nhiệm của mình.” Nói cách khác, các Tông Đồ muốn nhắc nhở chúng ta rằng: khi có vấn đề xảy ra trong cộng đoàn, mỗi người không được lơ là với bổn phận của mình, nhưng phải hoàn thành cách tốt nhất. Khi thực hiện điều đó, chúng ta sẽ nhận ra được những người cần được tuyển chọn để đáp ứng nhu cầu cần thiết [lúc đó] của cộng đoàn.

Người [những người] được chọn phải là người nhân đức. Người đó phải là người “được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan.” Điều này mời gọi chúng ta nhìn lại chính mình. Thiên Chúa cũng tuyển chọn chúng ta để chia sẻ với Ngài trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Nhưng chúng ta có phải là những người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan không? Hãy sống làm sao để danh thơm tiếng tốt của chúng ta được lưu truyền. Có câu nói trong đời rằng: Chúng ta chỉ có một cuộc sống để sống, sống sao cho có ý nghĩa, cho đầy yêu thương và tha thứ mới đáng sống. Chỉ qua danh thơm tiếng tốt và đời sống đạo đức thánh thiện của chúng ta mà người khác đón nhận đức tin (x. Cv 6:7).

Sự kiện được trình thuật trong bài Tin Mừng hôm nay nằm sau đoạn nói về việc Chúa Giêsu hoá bánh ra nhiều. Sự kiện này cũng được hai thánh sử Mátthêu (14:22-33) và Máccô (6:45-52) thuật lại. Chi tiết khác biệt mà chúng ta cần lưu ý ở đây là, trong khi Thánh Mátthêu và Máccô dùng trình thuật này để nói đến đức tin của các môn đệ, còn Thánh Gioan hiểu trình thuật này như mạc khải của Chúa Giêsu về chính mình. Ngoài chi tiết trên, chúng ta còn nhận ra những điểm khác biệt sau: (1) Sau sự kiện hoá bánh ra nhiều, Thánh Matthêu và Máccô cho biết Chúa Giêsu bắt các môn đệ lên thuyền đi qua bờ bên kia trong khi Ngài giải tán đám đông và sau đó Ngài lên núi cầu nguyện một mình. Chi tiết này không tìm thấy trong Tin Mừng Thánh Gioan; (2) Thánh Mátthêu và Gioan không cho biết lý do Chúa Giêsu đi trên mặt nước để đến với các môn đệ, còn Thánh Máccô cho biết: “Người thấy các ông phải vất vả chèo chống vì gió ngược, nên vào khoảng canh tư đêm ấy, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông” (Mc 6:48); (3) Thánh Mátthêu và Máccô cho biết lý do các môn đệ hoảng sợ là vì họ tưởng Chúa Giêsu là ma, còn Thánh Gioan không đề cập đến chi tiết này; (4) trong Tin Mừng Thánh Mátthêu chúng ta tìm thấy chi tiết Thánh Phêrô xin Chúa Giêsu cho ngài đi trên mặt nước để đến với Ngài. Chi tiết này không tìm thấy trong Tin Mừng Thánh Máccô và Gioan; (5) Chúa Giêsu lên thuyền thì gió và biển lặng (được Thánh Mátthêu và Máccô thuật lại), Tin Mừng Thánh Gioan không đề cập đến việc Chúa Giêsu lên thuyền vì thuyền đã đến bờ.

Giờ đây, chúng ta cùng nhau tập trung vào bài Tin Mừng để nghe Chúa nói gì với chúng ta trong ngày hôm nay. Khi đọc kỹ bài Tin Mừng, chúng ta nhận ra đây chính là hành trình “vượt biển” của các môn đệ [và của chúng ta]. Chúng ta thấy rõ rằng các môn đệ bắt đầu hành trình của mình vào buổi chiều, nghĩa là khi trời còn sáng: “Chiều đến, các môn đệ xuống bờ Biển Hồ, rồi xuống thuyền đi về phía Caphácnaum bên kia Biển Hồ” (Ga 6:17). Khi còn ánh sáng, các môn đệ vẫn còn thấy đường đi và họ “không cần Chúa đến” với họ. Tuy nhiên, tình hình thay đổi khi trời “đã tối mà Đức Giêsu chưa đến với các ông. Biển động, vì gió thổi mạnh” (Ga 6:17-18). Hai câu này rất quan trọng trong bài Tin Mừng hôm nay vì nó trình bày cho chúng ta sự thật về hành trình của các môn đệ và của chúng ta trong đêm tối. Thật vậy, trong đêm tối cuộc đời, nhiều vấn đề và khó khăn xảy ra như sóng biển dập vùi, chúng ta thường trông chờ Chúa đến, nhưng không thấy Chúa đâu. Thánh Gioan nhắc nhở chúng ta rằng: không phải là Chúa không đến, mà là “Chúa Giêsu chưa đến.” Điều này có nghĩa là Ngài sẽ đến vào “giờ” của Ngài. Thật vậy, họ chỉ chèo được chừng “năm hoặc sáu cây số, các ông thấy Đức Giêsu đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần thuyền” (Ga 6:19). Khi đi trong đêm tối của cuộc đời, chúng ta cần biết chắc chắn rằng, Chúa Giêsu sẽ đến. Nhưng khi Ngài đến, hy vọng chúng ta không hoảng sợ như các môn đệ: Các ông hoảng sợ vì quá tập trung đến bóng tối, bão tố và gió lốc nên không còn nhận ra Chúa Giêsu. Dù chúng ta không nhận ra Ngài, chúng ta vẫn biết rằng, Chúa Giêsu vẫn luôn nói những lời thật dịu hiền để trấn an và giúp chúng ta nhận ra Ngài: “Thầy đây mà, đừng sợ!” (Ga 6:20). Khi chúng ta không “sợ” để cho Chúa Giêsu bước vào cuộc đời của mình, chúng ta sẽ đến bến nơi chúng ta định đến (x. Ga 6:21). Chỉ với Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể vượt qua đêm tối cuộc đời và đạt đến bến bờ hạnh phúc mà chúng ta luôn khao khát, mong chờ. Đừng sợ để cho Chúa Giêsu yêu bạn và đồng hành với bạn. Ngài không lấy gì ở bạn, nhưng sẽ ban mọi sự cho bạn!