Suy niệm Lời Chúa mỗi ngày – Tuần Bát Nhật Phục Sinh

76

SUY NIỆM LỜI CHÚA MỖI NGÀY

TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH

Lm. Ngọc Dũng, SDB

 

THỨ HAI TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH

HÃY BIẾN CUỘC SỐNG CỦA BẠN THÀNH BÀI GIẢNG

VỀ SỰ PHỤC SINH CỦA CHÚA GIÊSU

(Cv 2:14.22b-33; Mt 28:8-15)

Trong Mùa Phục Sinh, các bài đọc 1 được lấy từ sách Công Vụ các Tông Đồ. Vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai, cuốn sách này được gán cho Thánh Luca. Theo các học giả Kinh Thánh, sách Công Vụ các Tông Đồ là cuốn thứ hai trong bộ sách hai cuốn của Thánh Luca viết về lịch sử Kinh Thánh [Tin Mừng Thánh Luca là cuốn thứ nhất]. Cuốn sách này trình bày ơn cứu độ được hứa cho dân Israel trong Cựu Ước, được Đức Giêsu Kitô hoàn thành và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần đã được mang đến cho dân ngoại như thế nào. Công Vụ các Tông Đồ được viết khoảng năm 80-90 AD.

Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta tìm thấy điều được gọi là Kerygma [“giảng dạy”]. Từ này được dùng để trình bày nội dung về sứ điệp của các Tông Đồ về Chúa Giêsu. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta trong Thư gởi tín hữu Rôma [10:14] rằng, Kerygma là điều thiết yếu mà chúng ta phải tin để được ơn cứu độ. Chúng ta tìm thấy Kerygma trong lời giảng dạy của Thánh Phêrô: “Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi. (Cv 2: 23-24). Những lời này được Thánh Phêrô lập lại trong đoạn tiếp theo: “Người đã chết và được mai táng, và mộ của người còn ở giữa chúng ta cho đến ngày nay. Nhưng vì là ngôn sứ và biết rằng Thiên Chúa đã thề với người là sẽ đặt một người trong dòng dõi trên ngai vàng của người, nên người đã thấy trước và loan báo sự phục sinh của Đức Kitô khi nói: Người đã không bị bỏ mặc trong cõi âm ty và thân xác Người không phải hư nát. Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng” (Cv 2:29-32). Đọc những lời này, chúng ta có thể nhận ra những yếu tố sau đây của Kerygma: Chúa Giêsu đã bị nộp, bị đóng đinh, chết và đã phục sinh [sống lại]. Đây là nội dung của lời rao giảng đầu tiên của các tông đồ. Nói cách khác, sứ điệp về Chúa Giêsu mà các Tông Đồ rao giảng là Ngài đã chết cho chúng ta, đã sống lại và sẽ đến trong vinh quang. Như vậy, sứ điệp đầu tiên của Tin Mừng là sứ điệp Thập Giá và Phục Sinh của Chúa Giêsu, sứ điệp của cuộc “vượt qua” từ sự chết đến sự sống của Chúa Giêsu. Như Thánh Phêrô và các Tông Đồ, chúng ta cũng được mời gọi để rao giảng sứ điệp của cuộc vượt qua của Chúa Giêsu trong ngày sống của mình. Qua lời nói, cử chỉ và hành động của mình, chúng ta phải tỏ cho người khác biết rằng chúng ta đang sống mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu, đó là chúng ta đã chết đi cho con người cũ của mình và đang sống con người mới đầy yêu thương trong Đức Kitô.

Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta về việc hiện ra của Chúa Giêsu. Đây là chứng cớ thứ hai chứng minh về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu ngoài chứng cớ về ngôi mộ trống. Trong bài Tin Mừng, Thánh Mátthêu trình bày cho chúng ta thấy phản ứng khác nhau trước sự kiện phục sinh của Chúa Giêsu. Các người phụ nữ “vội vã rời khỏi mồ,” rời khỏi nơi “chôn kẻ chết.” Đây là dấu hiệu đầu tiên của sự phục sinh, đó là đi ra khỏi “vùng đất tối tăm và bóng của sự chết” cách “nhanh chóng.” Dấu hiệu cho biết chúng ta đang sống mầu nhiệm Phục Sinh là chúng ta “nhanh chóng” rời bỏ những thói hư tật xấu, những thái độ không tốt không hay mà giam giữ chúng ta trong “ngôi mộ” của sự lạnh lùng và vô cảm trước lời mời gọi nên thánh của Thiên Chúa.

Chúng ta thấy nơi các người phụ nữ có một cảm giác hỗn hợp giữa “sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giêsu hay” (Mt 28:8). Trong tâm lý học, cảm giác hỗn hợp giữa sợ hãi và niềm vui thường xảy ra cho những người chuẩn bị lập gia đình. Nhìn từ khía cạnh này, hình ảnh “hôn nhân” [Giữa Đức Kitô và Hội Thánh] được hàm chứa trong bối cảnh của sự phục sinh. Nỗi sợ hãi của các bà bị tan biến và niềm vui của các bà vỡ oà khi “Chúa Giêsu đón gặp các bà.” Khi gặp Chúa Giêsu, nỗi sợ hãi và niềm vui đã nhường chỗ cho hành vi “tôn thờ”: “Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người” (Mt 28:9). Và Chúa Giêsu đã trao cho các bà sứ mệnh: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (Mt 28:10). Các bà trở thành “tông đồ của các tông đồ.” Nói cách khác, các bà là những chứng nhân đầu tiên của sự phục sinh. Tuy nhiên, điểm chúng ta lưu ý trong câu 10 là việc Chúa Giêsu gọi các môn đệ là “anh em của Thầy.” Câu này hàm chứa sự tha thứ của Chúa Giêsu cho kẻ đã “chối Ngài,” và những kẻ đã “bỏ Ngài.” Dấu ấn của phục sinh là chúng ta “biến kẻ thù, biến những người làm chúng ta đau khổ, biến những người xúc phạm đến chúng ta, biến những người chúng ta không thích thành anh chị em của chúng ta.”

Một cách tổng quát, bài Tin Mừng hôm nay trình bày về một chân lý thường xảy ra trong đời sống thường ngày của chúng ta, đó là cùng một sự kiện nhưng có những thái độ, phản ứng và lối giải thích khác nhau. Người có cảm tình phản ứng và giải thích khác với người không có cảm tình; người vui giải thích sự kiện khác với người buồn; người tin thì phản ứng và giải thích khác với người không tin. Thật vậy, cùng sự kiện Chúa Giêsu phục sinh, nhưng các người phụ nữ và các môn đệ tin vì họ có “cảm tình” với Chúa Giêsu, trong khi đó các thượng tế thì không tin và giải thích khác về sự kiện: “Các anh hãy nói như thế này: ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác” (Mt 28:13). Điều này nhắc nhở chúng ta rằng: trước một sự kiện sẽ có nhiều phản ứng và lối giải thích khác nhau. Đây là điều hiển nhiên vì chúng ta mang những tâm trạng khác nhau và đứng trên những quan điểm khác nhau để nhìn và giải thích sự kiện. Vì thế, chúng ta đừng có kết án người khác và cho là họ không đúng. Phản ứng đúng nhất là “lắng nghe” và tìm ra điểm chung, điểm hiệp nhất chúng ta lại với nhau và với Chúa. Và khi chúng ta có “phản ứng tiêu cực” trước một sự kiện hay một người nào đó, hãy “làm việc” trên phản ứng tiêu cực của mình trước khi tìm cách giải thích và thay đổi sự kiện hay người khác.

Điểm cuối cùng của bài Tin Mừng hôm nay làm chúng ta suy gẫm là hành động “cộng tác trong công việc sai trái” giữa các thượng tế và lính gác. Các thượng tế thì “cho lính một số tiền lớn” và dạy lính canh “nói dối” [hay bóp méo sự thật] (x. Mt 28:12-13), còn các lính canh thì “nhận tiền và làm theo lời [các thượng tế] dạy” (Mt 28:15). Đây cũng chính là điều thường xảy ra trong ngày sống của chúng ta. Chúng ta “cộng tác” vào “việc xấu” của người khác bằng nhiều cách, như lắng nghe nói xấu rồi “thêm dầu vào lửa,” khuyên người khác làm điều xấu, v.v. Hơn thế nữa, nhiều khi chúng ta như các thượng tế, thay vì làm chứng cho sự thật, chúng ta tìm mọi cách để bóp méo sự thật; hoặc như các lính canh, vì một vài lợi ích vật chất cho cá nhân, chúng ta sẵn sàng bóp méo sự thật để hãm hại anh chị em của mình. Phục sinh là mùa mời gọi chúng ta sống đúng và sống thật với ơn gọi Kitô hữu và đời sống mới trong Đức Kitô.

 

************************

THỨ BA TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH

SỐNG BIẾN ĐỔI SAU KHI GẶP CHÚA

(Cv 2:36-41; Ga 20:11-18)

Trong phần đầu của sách Công Vụ Các Tông Đồ, chúng ta sẽ nghe về Thánh Phêrô giảng dạy. Là người được Chúa Giêsu đặt làm đầu trong các môn đệ [và Giáo Hội], Thánh Phêrô được trình bày như là người giảng dạy và làm chứng có uy quyền nhất sau khi Chúa Giêsu lên trời. Hôm qua, trong bài giảng của Thánh Phêrô, chúng ta đã thấy được Kerygma của Giáo Hội, và trong bài giảng hôm nay, Thánh Phêrô đã làm chứng rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và đã có ba ngàn người tin vào lời chứng của Thánh Phêrô và gia nhập Kitô giáo.

Trong bài đọc 1, chúng ta thấy có một sự thay đổi tận căn trong những người Do Thái nghe Thánh Phêrô làm chứng về Chúa Giêsu: “Toàn thể nhà Israel phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô” (Cv 2:36). Chắc chắn rằng trong số này có người không “trực tiếp” đóng đinh Chúa Giêsu. Tuy nhiên, họ nhận ra trong lời giảng của Thánh Phêrô rằng họ đóng đinh Chúa Giêsu khi họ không kêu lên với Philatô để tha cho Ngài thay vì tha cho Barnabas, khi họ để cho chính mình bị ảnh hưởng bởi đám đông để không dám làm chứng cho sự thật và nhất là khi họ phạm tội. Nhận ra điều này, nên khi nghe Thánh Phêrô nói “họ đau đớn trong lòng” (Cv 2:37). Đau đớn trong lòng là bước đầu tiên trong quá trình trở về với Chúa. Và Thánh Phêrô lập lại sứ điệp sám hối của Chúa Giêsu: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần” (Cv 2:38). Chúng ta tự hỏi: Tại sao Thánh Phêrô lại có khả năng thuyết phục như thế? Sự thuyết phục của Thánh Phêrô không hệ tại ở chính khả năng của ngài, nhưng dựa vào những lời ngài rao giảng. Nói cách cụ thể, Thánh Phêrô “lặp lại” những gì Chúa Giêsu đã nói. Ngài chỉ đơn giản để cho sứ điệp này được vọng lại trong chính cuộc đời của mình. Ngài chứng minh cho lời giảng của Chúa Giêsu bằng chính sự biến đổi của mình, từ một người chối Chúa trở thành người mạnh dạn làm chứng cho Chúa. Như vậy, Thánh Phêrô đã sống điều Chúa Giêsu rao giảng và biến nó trở thành chính điều ngài rao giảng. Điều này nhắc nhở chúng ta rằng: không có bài giảng nào có ảnh hưởng lớn trên người khác cho bằng việc sống lời Chúa Giêsu giảng dạy và biến nó thành xương thịt của mình trước khi nói cho người khác. Hay nói cách khác, “gương sáng nói lớn hơn ngôn từ.”

Giống như những người Do Thái trong bài đọc 1 hôm nay, Maria Magdala cũng đã có một sự thay đổi tận căn: từ một người buồn bã khóc than đến một người tràn đầy niềm vui. Điều này xảy ra vì bà đã được Chúa Giêsu gọi chính tên, đã nhận ra và đã được nhìn thấy Ngài. Điều này ám chỉ cho chúng ta sự thật này: tất cả những ai gặp Chúa Giêsu sẽ tìm thấy được niềm vui. Nếu chúng ta đến với Chúa mà không có niềm vui, chúng ta sẽ không thể nghe và nhận ra được tiếng Ngài gọi tên chúng ta và vì vậy sẽ không gặp được Ngài. Mỗi khi đến với Chúa, nếu chúng ta không muốn gặp Ngài, thì ít ra chúng hãy cho phép Ngài gặp chúng ta. Đừng trốn trong những khái niệm cao siêu “về Ngài,” đừng trốn trong “đống lo lắng,” đừng trốn sau bức tường của ghen tỵ và hận thù, và đừng trốn trong nấm mồ của sự cô đơn và chia rẽ của chúng ta. Hãy để cho Chúa Giêsu gặp chúng ta! Hãy ra khỏi những gì chia cắt chúng ta với Chúa Giêsu và người khác.

Giờ đây, chúng ta cùng nhau phân tích bài Tin Mừng hôm nay để khám phá ra những yếu tố cần thiết giúp chúng ta ra khỏi nấm mồ của chúng ta để phục sinh và sống một đời sống mới với Chúa Giêsu. Chúng ta nhận thấy trong bài Tin Mừng những chuyển biến sau:

Hành động và thái độ của Maria Magdala trước khi gặp Chúa Giêsu: “Khi ấy, bà Maria Magdala đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. Thiên thần hỏi bà: ‘Này bà, sao bà khóc?’ Bà thưa: ‘Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!’” (Ga 20:11-13). Chúng ta lưu ý những hành động của Maria: “bà đứng ngoài, gần bên mộ, mà khóc.” Bà không đi vào trong mộ như Thánh Phêrô và môn đệ được Chúa Giêsu yêu để “thấy và tin.” Chúng ta không biết lý do tại sao bà không vào. Có lẽ bà sợ không dám đối diện với nỗi đau của bà hoặc cũng có thể là bà không được phép vào. Điều rõ ràng là bà vẫn để cho nỗi đau hoàn toàn chiếm ngự chính mình để rồi chỉ muốn đi tìm lại một Đức Giêsu đã chết. Đây cũng là thái độ của nhiều người trong chúng ta. Nhiều lần, chúng ta cũng đi tìm một “Thiên Chúa đã chết,” một Thiên Chúa mà chúng ta có thể đặt đâu chúng ta tuỳ thích, một Thiên Chúa làm theo ý muốn của chúng ta. Khi làm như thế, chúng ta sẽ không bao giờ nhận ra Ngài, vì Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống.

Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Maria Magdala:

Người dẫn: Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giêsu đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giêsu.”

Chúa Giêsu: “Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai?”

Maria Magdala: (tưởng là người làm vườn): “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.”

Chúa Giêsu: “Maria!”

Maria Magdala: “Rápbuni !” (nghĩa là ‘Lạy Thầy’).

Chúa Giêsu: “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em’.”

Cuộc đối thoại [gặp gỡ] giữa Chúa Giêsu và bà Maria Magdala là một cuộc đối thoại tuyệt vời nhất để nói lên tương quan giữa người gọi và người được gọi. Như chúng ta đã biết, trong Tin Mừng Thánh Gioan, Chúa Giêsu luôn là người đi bước trước trong tất cả các cuộc đối thoại. Cuộc đối thoại này cũng vậy, Chúa Giêsu bắt đầu với “cảm xúc” mà Maria Magdala đang cảm nhận, cảm xúc “buồn sầu khóc lóc.” Lúc đầu, Chúa Giêsu sử dụng danh từ chung dành cho mọi người phụ nữ để gọi bà, đó là “thưa bà [chị].” Khi được gọi như thế, bà Maria đã “tưởng Chúa Giêsu là người làm vườn.” Nhưng khi Chúa Giêsu “gọi đích danh” của mình, bà Maria ngay lập tức nhận ra Thầy của mình. Gọi tên là để thiết lập mối quan hệ. Trong hai lần gọi này, chúng ta nhận ra có sự thay đổi trong mối tương quan: Từ mối tương quan chung chung [“này bà”] đến mối tương quan “cá vị.” Điều này nói cho chúng ta điều gì? Tương quan của chúng ta với Thiên Chúa [Chúa Giêsu] phải là một mối TƯƠNG QUAN CÁ VỊ. Thiên Chúa yêu tôi và người khác như nhau, nhưng Thiên Chúa yêu tôi “theo cách thức mà tôi là” chứ không theo cách thức Ngài dùng để yêu người khác. Thật vậy, giữa người gọi và người được gọi luôn hiện diện một mối tương quan cá vị, chứ không dừng lại ở mối tương quan chung chung.

Hành động và thái độ của Maria Magdala sau khi gặp Chúa Giêsu: “Bà Maria Magdala đi báo cho các môn đệ: ‘Tôi đã thấy Chúa,’ và bà kể lại những điều Người đã nói với bà” (Ga 20:18). Trong những lời này, chúng ta thấy Maria Magdala làm hai điều sau đây khi đã thấy Chúa Giêsu, đó là “đi” và “kể lại.” Đây là hành động của những người được sai đi, hành động của những người môn đệ khi đã “nhìn thấy Chúa.” Thật vậy, những ai đã nhìn thấy Chúa họ không thể giữ Ngài cho chính mình, nhưng sẽ trở thành người “được sai đi” để nói “lại những gì Chúa đã nói với mình.” Niềm vui có Chúa là niềm vui dành cho hết mọi người. Đây chính là điều Chúa mời gọi chúng ta: hãy mang niềm vui được nhìn thấy Chúa cho người khác.

 

************************

THỨ TƯ TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH

NHẬN RA CHÚA TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ

(Cv 3:1-10; Lc 24:13-35)

Như chúng ta đã trình bày hôm qua, sách Công Vụ Các Tông Đồ đã tường thuật cho chúng ta thấy những gì các Tông Đồ đã làm, và qua đó chúng ta nhận ra rằng tất cả những gì các ngài nói và làm đều lặp lại những gì Chúa Giêsu đã nói và làm. Vì vậy, chúng ta nhận ra câu chuyện trong bài đọc 1 hôm nay tương tự với câu chuyện của anh mù từ khi lọt lòng mẹ được tường thuật trong Tin Mừng Thánh Gioan (x. Ga 9:1-41). Chúng ta tập trung vào hình ảnh của những nhân vật chính trong bài đọc 1 để xem Chúa muốn mình làm gì hôm nay.

Đặt mình trong trường hợp của anh què, chúng ta sẽ phản ứng thế nào khi có người nào đó bỗng dưng cho chúng ta điều mà chúng ta thực sự mong ước từ lâu nhưng chưa ai cho? Có lẽ lúc còn nhỏ, anh què cũng mong ước được chạy nhảy như chúng bạn. Năm tháng trôi qua, anh sống trong cảnh tối tăm và dần dần hài lòng với đời sống “ăn xin” của mình: “Ngày ngày họ đặt anh ta bên cửa Đền Thờ gọi là Cửa Đẹp, để xin kẻ ra vào Đền Thờ bố thí” (Cv 3:2). Mong ước của anh bây giờ chỉ đơn giản là kiếm đủ tiền ăn mỗi ngày. Mong ước được chạy nhảy, đi lại đã dần chết trong lòng anh. Anh thật sự không còn hy vọng được nhìn thấy ánh sáng. Hình ảnh của anh què cũng là hình ảnh của mỗi người chúng ta. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng mong ước được đi đến với ánh sáng trong những đêm đen. Nhưng năm tháng trôi qua, điều chúng ta mơ ước không được đáp ứng. Chúng ta vẫn đi một mình cô đơn trong bóng tối. Từ từ, chúng ta bỏ cuộc và hài lòng với việc sống trong bóng đen của cuộc đời. Chúng ta cảm thấy thoả mãn với những “bố thí” của con người và quên đi Thiên Chúa, Đấng mà đối với Ngài mọi sự đều có thể (x. Mt 19:26). Hãy đến với Chúa trong những đêm đen của cuộc đời, vì Ngài là ánh sáng bất diệt.

Đặt mình trong trường hợp của Phêrô và Gioan, chúng ta sẽ làm gì cho anh què? Thường khi một người xin chúng ta một điều gì đó, chúng ta chỉ nhìn thấy nhu cầu trước mắt của người đó và đáp ứng lại, chứ chúng ta không nhìn thấy nhu cầu xa của người đó. Chúng ta thường nghe nói rằng: Hãy dạy cho người khác câu cá thay vì cho họ cá mỗi ngày, để họ có thể câu cá hầu cung cấp cho chính mình và những người thân của họ. Phêrô và Gioan không chỉ nhìn thấy nhu cầu “cần của ăn áo mặc” của anh què, nhưng còn nhìn thấy khát vọng đã chết trong lòng anh ta, khát vọng được chạy nhảy và đi lại. Và các ngài đã đáp ứng khát vọng thầm kín này của anh. Tuy nhiên, khát vọng này chỉ có thể được đáp ứng “nhân danh Đức Giêsu Kitô.” Điều này nhắc nhở chúng ta rằng, chỉ có một mình Đức Giêsu Kitô mới có thể đáp ứng những nhu cầu mà chúng ta không thể tìm thấy ở con người; và chúng ta cũng chỉ có thể giúp người khác đi ra khỏi đêm đen của đời họ nhờ nhân danh Đức Giêsu Kitô.

Hình ảnh của Phêrô và Gioan trong tương quan với người què nhắc nhở chúng ta về một nguyên tắc không thể thay đổi trong đời, đó là chúng ta không thể cho cái chúng ta không có [hay nói cách tích cực, chúng ta chỉ có thể cho cái chúng ta có]. Chúng ta không thể cho người khác tiền, nếu chúng ta không có tiền. Như vậy, chúng ta không thể cho người khác Chúa Giêsu nếu chúng ta không có Ngài trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta có Chúa Giêsu trong cuộc đời mình để mang Ngài đến cho người khác không? Nếu chúng ta chưa có Ngài trong con tim của mình, hãy chuẩn bị cho Ngài một chỗ để Ngài ngự vào ngay hôm nay. Có như thế, chúng ta mới có thể thốt lên như Thánh Phêrô: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giêsu Kitô người Nadarét, anh đứng dậy mà đi!” (Cv 3:6).

Bài Tin Mừng hôm nay kể về câu chuyện của hai môn đệ trên đường Emmaus. Để hiểu bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần lưu ý đến những chi tiết sau: (1) thần học của Tin Mừng Thánh Luca; (2) cấu trúc của bài Tin Mừng; (3) thái độ của Chúa Giêsu; (4) thái độ của hai môn đệ. Chúng ta cùng nhau phân tích từng điểm trên để rút ra những điều đáng suy gẫm cho ngày sống của chúng ta.

Thứ nhất, thần học của Tin Mừng Thánh Luca: Một trong những nét đặc trưng về thần học của Tin Mừng Thánh Luca là Chúa Giêsu “luôn trên đường hành trình,” và hành trình của Ngài chỉ có một, từ “bên ngoài vào Giêrusalem.” Nói cách khác, Giêrusalem là điểm kết thúc của hành trình tại thế của Chúa Giêsu [và khởi đầu của các môn đệ]. Đây là bối cảnh để chúng ta hiểu những điều xảy ra trong Tin Mừng. Ba ngày trước đây, Chúa Giêsu đã kết thúc hành trình của mình tại Giêrusalem qua biến cố “ông Giêsu Nadarét, Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá” (Lc 24:19-20). Và hôm nay, “vào ngày thứ nhất trong tuần, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Emmaus, cách Giêrusalem chừng mười một cây số” (Lc 24:13). Các ông đã đi một hành trình “ngược với hành trình của Chúa Giêsu” [Chúa Giêsu đi vào Giêrusalem còn các ông đi ra khỏi Giêrusalem]. Kết quả là “họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu” Cv 24:17). Chi tiết này cho chúng ta thấy rằng: những ai đi ngược lại với hành trình của Chúa Giêsu sẽ kết thúc trong âu sầu buồn bả. Nói cách khác, những ai không đi chung hành trình với Chúa Giêsu sẽ luôn có “vẻ mặt buồn rầu.” Chi tiết này cũng được chứng thực trong dụ ngôn Người Samaria Nhân Hậu (x. Lc 10:29-37): “Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết.” Chúng ta có đang đi chung hành trình với Chúa Giêsu không?

Thứ hai, cấu trúc của bài Tin Mừng: Qua những diễn tiến của câu chuyện “Emmaus” được trình thuật trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể nhận ra được cái “cấu trúc đầu tiên của Thánh Lễ.” Thật vậy, hành trình của Chúa Giêsu giúp các môn đệ nhận ra Ngài được bắt đầu với việc “Đức Giêsu nói với hai ông rằng: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24:25-27). Phần này tương ứng với phần Phụng Vụ Lời Chúa. Sau phần này, lòng hai môn đệ đã cháy bừng lên. Sau khi lòng được cháy bừng lên vì được “Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho,” các ông nhận ra Chúa khi “Ngài đồng bàn với họ, và Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ.” Phần này tương xứng với phần Phụng Vụ Thánh Thể. Chúng ta thấy ở đây hai phần gắn kết chặt chẽ không rời nhau và trong cả hai phần, chính Chúa Giêsu là Người thực hiện việc “giải thích Sách Thánh” và “bẻ bánh và trao” cho chúng ta. Những chi tiết này nhắc nhở chúng ta về thái độ của mình khi đến tham dự thánh lễ: Lòng chúng ta có cháy bừng lên khi nghe lời Chúa và mắt chúng ta có mở ra để nhận ra Chúa Giêsu trong Thánh Thể không?

Thứ ba, thái độ của Chúa Giêsu: một trong những điều chúng ta có thể học được nơi Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng là nghệ thuật đồng hành với người khác [nhất là đồng hành thiêng liêng]. Việc đồng hành này đòi hỏi sự sẵn sàng đi với người được đồng hành, lắng nghe câu chuyện của họ, giải thích cho họ và kiên nhẫn tìm mọi cách để giúp họ ra khỏi tình trạng của mình để cuối cùng thay đổi hành trình của mình để trở về với hành trình mà Thiên Chúa muốn họ đi. Điều này không dễ dàng cho chúng ta, những người thường thấy người khác mắc sai lầm [đi sai đường] là bắt đầu “lên giọng dạy đời.” Chúng ta nhận ra trong bài Tin Mừng việc Chúa Giêsu thấy hai môn đệ “đi sai đường,” đi “ngược với đường Ngài đã đi,” hay có thể nói là chạy trốn nơi họ chứng kiến cảnh đau thương mà không đọc được ý nghĩa đằng sau những đau thương mà họ chứng kiến và cảm nghiệm, nhưng Ngài vẫn đến và thinh lặng đồng hành với họ. Điều đáng để chúng ta lưu ý ở đây là việc chính Chúa Giêsu “tiến đến gần và cùng đi với họ” (Lc 24:15). Ngài là người chủ động tiến đến và đồng hành với chúng ta trong những giây phút đau buồn. Ngài muốn chia sẻ với chúng ta mọi sự, nhất là khi chúng ta bước đi trong bóng đêm của đức tin. Ngài tiến lại cùng đi và một cách kiên nhẫn giải thích cho chúng ta hiểu về ý nghĩa đau khổ của chúng ta. Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta làm như Ngài: Khi thấy người khác đi sai đường, chúng ta không lên án họ, nhưng sẵn sàng đồng hành với họ, lắng nghe họ, kiên nhẫn tìm cách giải thích cho họ cho đến khi họ trở lại. Bao lâu họ còn chưa nhận ra họ đang đi trên “con đường sai lạc,” bấy lâu chúng ta không “biến mất” khỏi họ. Hãy đồng hành với những anh chị em đang đi trong đêm đen của cuộc đời cho đến khi họ tìm lại được ánh sáng! Hãy lắng nghe và chia sẻ với những người đau buồn cho đến khi họ tìm lại được niềm vui!

Thứ tư, thái độ của hai môn đệ: chi tiết đầu tiên chúng ta lưu ý nơi hai môn đệ là sự thay đổi trong cái nhìn của họ. Trước khi chia sẻ với Chúa Giêsu, họ để cho nỗi đau buồn của “tất cả những sự việc vừa mới xảy ra” che mờ, khiến “mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Chúa Giêsu.” Nhưng sau khi họ được Chúa Giêsu đồng hành, giải thích và nhất là “nài ép” Chúa Giêsu ở lại với họ “vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn,” họ đã nhận ra Ngài trong “nghi thức bẻ bánh.” Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng để cho nỗi buồn chiếm lấy chúng ta. Chúng ta không chịu để cho bất kỳ ai an ủi. Hệ quả là chúng ta sống mãi trong nỗi buồn miên man của mình. Giống như hai môn đệ trên đường Emmaus, chúng ta phải “nài ép” Chúa Giêsu đến ở với chúng ta khi ngày sống của chúng ta đã về chiều và bóng đêm đen bắt đầu làm chúng ta hoảng sợ. Chi tiết thứ hai chúng ta cần lưu ý đó là sự thay đổi trong hành trình của hai môn đệ. Trong phần đầu của bài Tin Mừng, chúng ta thấy hai môn đệ “buồn rầu đi ra khỏi Giêrusalem” vì họ đi ngược với hành trình của Chúa Giêsu. Nhưng khi nhận ra Chúa Giêsu lúc Ngài bẻ bánh, “Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó” (Lc 24:33). Họ đã vui mừng đi lại hành trình Chúa Giêsu đã đi. Điều này cho chúng ta hay rằng, chỉ những ai nhận ra Chúa Giêsu, nhất là trong Thánh Thể, mới có khả năng đi lại hành trình tự hiến và yêu thương mà Chúa Giêsu đã đi và trở nên nhân chứng cho sự phục sinh của Ngài.

 

************************

THỨ NĂM TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH

CHÍNH ANH CHỊ EM LÀ NHÂN CHỨNG CỦA THẦY

(Cv 3:11-26; Lc 24:35-48)

Chúng ta không khỏi ngạc nhiên trước sự thay đổi của Phêrô, từ một người nhút nhát chối Chúa Giêsu ba lần thành một người can đảm làm chứng cho Ngài. Đây chính là món quà đầu tiên của Phục Sinh, sống một đời sống mới trong Đức Giêsu Kitô và can đảm làm chứng về những điều mắt thấy tai nghe. Chúng ta đã bắt đầu sống món quà này của Phục Sinh, là hoàn toàn sống cho Chúa Giêsu chưa? Nếu chưa, hãy bắt đầu ngay giây phút này. Đừng để cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu trở nên vô nghĩa trong cuộc đời chúng ta.

Sợi chỉ nối kết hai bài đọc hôm nay chính là hai từ “làm chứng.” Trong bài đọc 1, chúng ta thấy Thánh Phêrô làm chứng cho Chúa Giêsu và trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ của Ngài làm chứng về những điều họ đã nghe và đã thấy. Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta nhận ra trong bài giảng của Thánh Phêrô hai điều căn bản và cần thiết cho việc rao giảng về Chúa Giêsu như sau: (1) dùng kinh nghiệm hằng ngày để nói về Chúa Giêsu và (2) biết được người nghe của mình là ai. Điều thứ nhất giúp chúng ta bắt đầu việc làm chứng không phải với những gì trừu tượng và lý thuyết, nhưng bắt đầu với một cái gì rất cụ thể, một kinh nghiệm mắt thấy tai nghe. Điều này dựa trên mầu nhiệm nhập thể của Chúa Giêsu. Điều thứ hai giúp chúng ta làm thế nào để làm cho lời chứng của chúng ta dễ hiểu và được chấp nhận với người nghe. Áp dụng hai điều này vào bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Thánh Phêrô dùng việc chữa lành của anh què để rao giảng về Chúa Giêsu. Trước sự kinh ngạc của toàn dân, Thánh Phêrô “nắm lấy cơ hội” mà họ thấy được để bắt đầu nói về Chúa Giêsu. Thánh Phêrô biết những người trước mặt mình là những người Do thái nên ngài sử dụng những hình ảnh rất gần gũi với họ, đó là các tổ phụ Abraham, Ixaác và Giacóp, hình ảnh của Môsê và các ngôn sứ. Chính những hình ảnh quen thuộc này làm cho lời rao giảng của ngài gần gũi và được đón nhận. Từ những điều này, chúng ta rút ra được điều gì để suy gẫm hôm nay?

Trong mỗi ngày sống, chúng ta trải qua rất nhiều kinh nghiệm. Nhiều người trong chúng ta cùng trải qua những kinh nghiệm giống nhau, nhưng có người đọc được bài học, có người không. Chúng ta cần phải lưu ý rằng, đối với người Kitô giáo, không có kinh nghiệm nào xảy ra cách ngẫu nhiên trong ngày sống của chúng ta. Đằng sau mỗi kinh nghiệm vui buồn đều có bài học hay điều Chúa muốn nói với chúng ta. Hay nói cách khác, Chúa dạy và thanh luyện chúng ta mỗi ngày qua những kinh nghiệm vui buồn của mình. Chỉ khi chúng ta đọc ra được điều Chúa muốn nói với chúng ta qua từng kinh nghiệm sống, chúng ta mới có thể giúp người khác nhận ra được bàn tay Ngài hoạt động trong cuộc đời của họ. Đừng cảm thấy nhàm chán với những kinh nghiệm lặp lại trong từng ngày sống. Hãy khám phá ra sự mới mẻ của Thiên Chúa trong từng kinh nghiệm sống.

Bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối tư tưởng của ngày hôm qua. Chúng ta có thể thấy được hai điều quan trọng và cần thiết cho việc làm chứng sự Phục Sinh của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng, đó là (1) nghe người khác làm chứng, và (2) kinh nghiệm cá nhân. Điều này gợi cho chúng ta nhớ lại hai câu hỏi của Chúa Giêsu với các môn đệ: “Người ta bảo Thầy là ai?” và “Còn anh [chị] em, anh [chị] em bảo thầy là ai?” Sau khi nghe hai môn đệ từ Emmaus “trở về, thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh” (Lc 24:35), các môn đệ chắc cũng vui mừng. Nhưng như vậy chưa đủ. Họ cũng phải có được kinh nghiệm như hai môn đệ kia, và như thế “thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!”(Lc 24:36). Dù đã được nghe hai môn đệ kia nói về việc Chúa Giêsu đã sống lại, nhưng kinh nghiệm cá nhân được nhìn thấy Chúa Giêsu phục sinh làm cho “các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” (Lc 24:37). Ở đây, Thánh Luca chỉ ra cho chúng ta thấy sự khác biệt rất lớn giữa “nghe thuật lại” và “kinh nghiệm trực tiếp.” Chỉ có kinh nghiệm  trực tiếp mới gợi lên trong chúng ta những cảm xúc cụ thể và những phản ứng mà chỉ riêng chúng ta mới có. Điều này nhắc lại cho chúng ta điều chúng ta đã khẳng định ở trên, đó là chỉ có những kinh nghiệm cụ thể mà chúng ta có thể cảm nghiệm được sự đụng chạm của Thiên Chúa trên cuộc đời của chúng ta và kết quả là chúng ta có thể nói là: “tôi đã đụng chạm đến Ngài, và kinh nghiệm này là của riêng tôi.”

Điểm thứ hai Thánh Luca muốn nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay là “thân xác” Chúa Giêsu sau khi phục sinh. Các môn đệ hoảng hốt và ngờ vực vì họ tưởng đã thấy ma. Họ tưởng Chúa Giêsu sau phục sinh không còn là “con người.” Nhưng Chúa Giêsu khẳng định với họ rằng: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24:39). Như vậy, sự phục sinh không làm cho Chúa Giêsu trở nên một Đấng không thể đụng chạm. Chúng ta có thể đụng chạm đến Ngài mỗi ngày, và ngay hôm nay. Chúng ta chỉ hiểu điều này trong bối cảnh lời chứng của hai môn đệ từ Emmaus: họ đã nhận ra Chúa Giêsu khi Ngài bẻ bánh. Nói cách cụ thể, chúng ta vẫn đụng chạm đến Chúa Giêsu mỗi ngày trong Bí Tích Thánh Thể. Hay nói đúng hơn, Chúa Giêsu “đưa tay chân” cho chúng ta xem mỗi ngày trong Bí Tích Thánh Thể. Điều này có làm cho chúng ta vui mừng như các môn đệ không?

Điểm cuối cùng Thánh Luca gợi cho chúng ta suy gẫm là đề tài về việc mạc khải của Chúa Giêsu: “Rồi Người bảo: ‘Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm.’ Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh” (Lc 24:45-46). Tất cả những gì được viết trong Cựu Ước và những gì Ngài đã rao giảng chỉ được hiểu từ mầu nhiệm phục sinh của Ngài. Tuy nhiên, để hiểu tất cả những gì về Ngài thì chúng ta phải cần được Chúa Giêsu “mở trí.” Điều này nhắc nhở chúng ta rằng: việc biết Thiên Chúa [Chúa Giêsu] không phải chỉ là nỗ lực của con người, nhưng còn là ân ban của Thiên Chúa. Như vậy, sự hiểu biết về mầu nhiệm của Thiên Chúa không lệ thuộc vào “chỉ số thông minh,” nhưng lệ thuộc vào sự cởi mở của cõi lòng và sự dễ dạy với Chúa Thánh Thần. Nhà thần học lỗi lạc nhất là người để cho Thiên Chúa hoàn toàn chiếm lấy mình, là người “sám hối mỗi giây phút” để nhìn mọi sự với cái nhìn của Thiên Chúa.

 

************************

THỨ SÁU TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH

GẶP CHÚA GIÊSU TRONG CÔNG VIỆC THƯỜNG NGÀY

(Cv 4:1-12; Ga 21:1-14)

Sự can đảm của Thánh Phêrô để làm chứng cho Chúa Giêsu lại được chứng tỏ ngày hôm nay trước những người mà trước kia thánh nhân rất sợ hãi. Điều này cho thấy sự kiện phục sinh đã thật sự mang lại một sự biến đổi tận căn nơi Thánh Phêrô. Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy hai phản ứng khác nhau trước phép lạ và lời giảng dạy của Thánh Phêrô và Gioan. Đây là điều chúng ta thấy thường xảy ra cho Chúa Giêsu. Thật vậy, bài giảng của Phêrô và Gioan làm cho các tư tế, viên lãnh binh đền thờ và các người thuộc nhóm phản ứng cách giận dữ và chống đối; trong khi đó “trong đám người nghe lời giảng, có nhiều kẻ đã tin theo, chỉ riêng số đàn ông đã lên đến chừng năm ngàn” (Cv 4:4). Chi tiết quan trọng thứ hai xảy ra cho Chúa Giêsu được lặp lại trong cuộc đời của Thánh Phêrô và Gioan được trình bày trong bài đọc 1 là “bị luận tội trước công hội”: “Hôm sau, các thủ lãnh Do thái, các kỳ mục và kinh sư họp nhau tại Giêrusalem. Có cả thượng tế Khanan, các ông Caipha, Gioan, Alêxanđê và mọi người trong dòng họ thượng tế” (Cv 4:5-6). Tuy nhiên, giống với thầy mình, các môn đệ can đảm làm chứng cho sự thật và trong lời làm chứng của mình, Thánh Phêrô đã khẳng định một chân lý quan trọng trong tín điều của Kitô Giáo, đó là “Ngoài Người [Đức Kitô] ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4:10-12). Điều này khẳng định vị trí quan trọng của Chúa Giêsu trong cuộc đời của mỗi người chúng ta, không chỉ cho sự sống đời này mà còn cho sự sống vĩnh cửu. Nếu Chúa Giêsu quan trọng như thế, liệu Ngài có chiếm được chỗ trung tâm trong ngày sống của chúng ta không?

Chúng ta tiếp tục nghe trong tuần này những trình thuật về những lần hiện ra của Chúa Giêsu với các môn đệ của Ngài. Bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay nhắc cho chúng ta nhớ lại bối cảnh của mẻ cá lạ lùng được Thánh Luca thuật lại (Lc 5:1-11). Những chi tiết giống nhau trong hai trình thuật này bao gồm: các môn đệ đánh cá suốt đêm mà không bắt được gì, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông thả lưới, bắt được nhiều cá, Thánh Phêrô phản ứng trước mẻ cá bắt được, cá là biểu tượng của sứ mệnh của các môn đệ, và điều kiện của lưới. Bên cạnh những điểm giống trên là những chi tiết khác nhau sau: vị trí của thuyền, vị trí của Chúa Giêsu so với chiếc thuyền, bản chất phản ứng của Phêrô, điều kiện thực sự của lưới, và sự hiện diện của các thuyền khác đến giúp.

Điều làm chúng ta ngạc nhiên trong bài Tin Mừng hôm nay đó là sự kiện các môn đệ không nhận ra Chúa Giêsu dù đây là “lần thứ ba Đức Giêsu tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 21:14). Làm sao các ông không thể nhận ra Chúa Giêsu khi Ngài đã hiện ra cho họ hai lần rồi? Điều này khẳng định rằng sự sống phục sinh của Chúa Giêsu có gì đó hoàn toàn mới đến nỗi các môn đệ đã sống với Ngài ba năm và đã chứng kiến hai lần Ngài hiện ra mà không nhận ra Ngài. Điều giúp họ nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh chính là “bối cảnh rất quen thuộc” của đời sống hằng ngày của họ. Như vậy, đời sống mới trong Chúa Giêsu Phục Sinh không đưa chúng ta ra khỏi thực tại đang sống, nhưng biến đổi thực tại đó và làm cho nó trở thành nơi chúng ta gặp Ngài. Nói cách khác, những công việc chúng ta làm mỗi ngày chính là phương tiện biến đổi chúng ta và giúp chúng ta nhận ra đời sống mới trong Đức Kitô Phục Sinh.

Chúng ta cùng nhau phân tích ba phần của bài Tin Mừng hôm nay để rút ra những bài học hữu ích cho ngày sống của chúng ta. Phần 1 (Ga 21:1-3) nói cho chúng ta về hoàn cảnh và tâm trạng của Phêrô và các môn đệ sau biến cố Phục Sinh. Trong phần này, chúng ta thấy Phêrô là người “quyết định việc đi đánh cá” và các môn đệ khác hưởng ứng. Qua chi tiết này, Thánh Gioan ám chỉ đến vị trí đứng đầu của Thánh Phêrô. Chúng ta không biết lý do đằng sau quyết định đi đánh cá của Phêrô là gì. Có hai khả thể xảy ra: một là vì Phêrô muốn trở lại kinh nghiệm ban đầu, kinh nghiệm mà qua đó ông đã gặp và đáp lại tiếng Chúa Giêsu mời gọi theo Ngài hầu củng cố lại sự dấn thân của mình; nhưng cũng có thể là ông đã mệt mỏi với việc theo Chúa Giêsu, Đấng bị đóng đinh, nên muốn trở lại với đời sống trước kia mà ông đã bỏ để đi theo Chúa Giêsu. Tuy nhiên, chi tiết quan trọng ở đây chính là họ đã nỗ lực suốt đêm hôm đó mà không bắt được gì (Ga 21:3). Hình ảnh đánh cá được đặt nằm trong bối cảnh “Chúa Giêsu lại tỏ mình ra cho các môn đệ.” Điều này ám chỉ đến việc tìm Chúa trong công việc hằng ngày. Nhưng nhiều khi chúng ta nỗ lực tìm trong “bóng đêm,” trong đêm đen của nỗ lực con người nên chúng ta không thấy. Chỉ với ánh sáng của Chúa Giêsu mang lại, chúng ta mới có thể bắt được nhiều cá. Đây là chi tiết nối kết phần 1 với phần 2.

Phần 2 (Ga 21:4-8) bắt đầu với câu: “Khi trời đã sáng.” Điều này cho chúng ta thấy chỉ trong ánh sáng sự hiện diện của Chúa Giêsu, dù là một sự hiện diện không “được nhận ra,” chúng ta mới có thể đạt được những thành quả lớn trong những công việc mình làm. Chúng ta cũng thấy trong phần này thái độ của Chúa Giêsu. Ngài bình thản đồng hành với các ông. Ngài không vội vàng trong việc tỏ mình ra. Ngài sử dụng những kinh nghiệm hằng ngày của họ để giúp họ nhận ra Ngài. Đây chính là điều chúng ta cần ý thức trong cuộc sống khi chúng ta đi tìm kiếm Chúa. Không phải là chúng ta nỗ lực tìm mọi cách để nhận ra Chúa, nhưng chính Ngài tìm mọi cách để giúp chúng ta nhận ra Ngài. Trong trường hợp này, người môn đệ được Chúa yêu nhận ra Ngài qua mẻ cá, còn Phêrô nhận ra Chúa Giêsu qua lời chứng của người môn đệ được Đức Giêsu thương mến. Chúa Giêsu dùng những người khác và các sự kiện trong cuộc sống để giúp chúng ta nhận ra Ngài. Liệu chúng ta có muốn để cho mình bị Ngài thuyết phục không?

Trong phần 3, chúng ta thấy có sự “hoà lẫn giữa cá [và bánh] được Chúa Giêsu chuẩn bị” và “cá mới bắt được” (Ga 21:9-10). Đây chính là sự hoà quyện không thể tách rời của mầu nhiệm Giáo Hội; và đây cũng chính là sự hoà quyện của “ơn Chúa” và “nỗ lực của con người dưới sự hướng dẫn của Chúa.” Trong phần này, có hai hình tượng chúng ta cần lưu ý đó là con số “một trăm năm mươi ba con” và hành động của Chúa Giêsu “cầm lấy bánh trao cho các ông.” Hình ảnh thứ nhất về “một trăm năm mươi ba con” đại diện cho tất cả các dân tộc trên thế giới. Điều này ám chỉ đến sứ mệnh và tính phổ quát của Giáo Hội: trong Giáo Hội, mọi dân tộc [mọi người] đều tìm thấy chỗ của mình. Điều này mời gọi chúng ta hãy mở rộng con tim của mình để cũng có thể khẳng định rằng: trong trái tim của tôi, ai cũng có chỗ. Hình ảnh thứ hai quá quen thuộc với chúng ta, đó là hình ảnh về Bí Tích Thánh Thể. Khi Chúa Giêsu cầm bánh và cá trao cho các môn đệ, “không ai trong các môn đệ dám hỏi “Ông là ai?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa” (Ga 21:12). Điều này có thật sự xảy ra cho chúng ta không? Nếu điều này xảy ra cho chúng ta, tại sao cuộc sống của chúng ta vẫn không có thay đổi?

************************

THỨ BẢY TRONG TUẦN BÁT NHẬT PHỤC SINH

VỮNG TIN VÀO CHÚA

(Cv 4:13-21; Mc 16:9-15)

Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta tiếp tục nghe lời chứng của Phêrô và Gioan trước công hội. Sự thay đổi nơi Phêrô và Gioan sau sự kiện Phục Sinh đã làm các thủ lãnh Do Thái, các kỳ mục và kinh sư ngạc nhiên. Họ ngạc nhiên vì thấy hai ngài “mạnh dạn, và biết rằng hai ông là những người không có chữ nghĩa, lại thuộc giới bình dân. Họ nhận ra hai ông là những người đã từng theo Đức Giêsu; đồng thời họ lại thấy người đã được chữa lành đứng đó với hai ông, nên họ không biết đối đáp thế nào” (Cv 4:13-14). Chúng ta nhận ra ở đây một điều đáng suy gẫm, đó là khi những người “không học thức” để cho ánh sáng của phục sinh chiếu toả trên họ, hay nói một cách đơn giản, khi những người “bé mọn” để cho Chúa Giêsu Phục Sinh biến đổi mình thành con người mới, họ sẽ trở nên những nhân chứng thuyết phục đến nỗi những người tự xưng là “có học thức, có chữ nghĩa và có bằng cấp” không thể nào sánh với họ.

Đứng trước lời chứng đầy thuyết phục của Thánh Phêrô và Gioan, Thượng Hội Đồng phải công nhận lời chứng của các ngài: “Ta phải xử làm sao với những người này? Họ đã làm một dấu lạ rành rành: điều đó hiển nhiên đối với mọi người cư ngụ tại Giêrusalem, và ta không thể chối được” (Cv 4:16). Tuy nhiên, họ không muốn ra khỏi sự chai đá của họ. Họ không muốn đối diện với sự thật là họ đã sai trong việc đóng đinh Chúa Giêsu. Điều này cũng thường xảy ra trong cuộc sống của chúng ta khi chúng ta để lòng chúng ta trở nên chai đá dù chúng ta thấy Chúa đã thực hiện thật nhiều phép lạ cho chúng ta. Nói cách khác, nhiều lần chúng ta không chấp nhận mình sai. Chúng ta luôn cho anh chị em chúng ta sai và ngăn cấm họ làm những điều tốt nhân danh Chúa vì chúng ta sợ người anh chị em của mình có tầm ảnh hưởng rộng hơn mình. Đừng sợ anh chị em của mình có ảnh hưởng tốt trên người khác hơn mình. Nhưng hãy sợ chính mình không ảnh hưởng tốt trên người khác, hay để người khác ảnh hưởng xấu trên mình.

Đứng trước thái độ chống đối và đe doạ của Thượng Hội Đồng, Thánh Phêrô và Gioan không sợ hãi. Chính sự can đảm làm chứng cho Chúa Giêsu, làm chứng cho sự thật của các ngài mà “ai nấy đều tôn vinh Thiên Chúa vì việc đã xảy ra” (Cv 4:21). Điều đáng ngạc nhiên ở đây là mọi người không ca ngợi tôn vinh Thánh Phêrô và Gioan, nhưng là tôn vinh Thiên Chúa. Điều này xảy ra vì Thánh Phêrô và Gioan không để cho cái bóng của mình che mờ Đấng họ làm chứng. Hay nói theo ngôn từ của bài đọc là các ngài nghe lời Thiên Chúa hơn là nghe lời con người (x. Cv 4:19). Và điều Thiên Chúa muốn là họ phải làm chứng cho “những gì tai đã nghe, mắt đã thấy” (Cv 4:20). Điều này nhắc nhở chúng ta rằng: khi chúng ta làm việc cho Chúa [khi chúng ta phục vụ], đừng tìm vinh danh cho chính mình, đừng để cho cái bóng của mình che khuất bóng Thiên Chúa. Khi người đời tôn vinh chúng ta hơn là tôn vinh Thiên Chúa qua việc phục vụ của mình, chúng ta cần xem xét lại liệu chúng ta đang rao giảng về Thiên Chúa hay đang rao giảng về chính mình.

Đề tài rao giảng là lệnh truyền của Chúa Giêsu cho các môn đệ mà chúng ta nghe trong bài Tin Mừng hôm nay. Đoạn Tin Mừng chúng ta nghe hôm nay, theo các tác giả Kinh Thánh, là đoạn kết được thêm vào Tin Mừng Thánh Máccô sau này [có thể vào thế kỷ thứ hai]. Như vậy, Tin Mừng Thánh Máccô kết ở câu 8. Có nhiều lý do đưa ra để biện minh cho việc thêm vào đoạn kết này. Tuy nhiên, đó không phải là điểm chúng ta cần chú ý, vì điều chúng ta quan tâm ở đây là sứ điệp Chúa muốn nói với chúng ta qua đoạn Tin Mừng này. Đâu là sứ điệp mà Chúa muốn nói với chúng ta?

Khi đọc kỹ bài Tin Mừng, chúng ta thấy đây chính là bản tóm tắt của những lần Chúa Giêsu hiện ra với Maria Magdala và các môn đệ mà được Thánh Luca và Gioan trình thuật lại cách chi tiết. Điểm chung của bài Tin Mừng và bài đọc 1 là sự “cứng lòng tin.” Như chúng ta đã trình bày trong bài đọc 1, các thủ lãnh Do Thái, các kỳ mục và kinh sư cứng lòng tin dù đã chứng kiến phép lạ Thánh Phêrô và Gioan thực hiện. Chúng ta thấy sự cứng lòng tin này nơi các môn đệ khi bà Maria Magdala và hai môn đệ trên đường Emmaus kể cho họ nghe về việc Chúa Giêsu phục sinh (x. Mc 16:11, 13). Và Chúa Giêsu “khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy” (Mc 16:14). Chúng ta cũng đã chứng kiến những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã làm cho chúng ta. Niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa có lớn mạnh theo năm tháng không? Niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa được chứng minh qua đời sống mới, đời sống biến đổi của chúng ta.

Tuy nhiên, điều làm chúng ta kinh ngạc và đáng suy gẫm là việc Chúa Giêsu tiếp tục “đặt niềm tin” vào những người “cứng lòng tin.” Ngài tiếp tục chọn họ và sai họ đi rao giảng Tin Mừng: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16:15). Điều này gợi cho chúng ta hai điều: thứ nhất, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục đặt niềm tin vào chúng ta dù chúng ta là những người đã bao lần yếu đuối và sa ngã. Ngài vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài trong công việc rao giảng Tin Mừng. Vì vậy, chúng ta phải trân trọng ơn gọi Kitô hữu [thánh hiến] của mình để sống xứng đáng với sự tin tưởng của Chúa Giêsu. Thứ hai, chúng ta được mời gọi tin tưởng anh chị em của mình, những người đã có lần làm chúng ta “mất niềm tin”. Điều này không dễ dàng đối với chúng ta, nhưng không phải không thể. Người không cảm nhận được sự tin tưởng của Chúa dành cho mình sau bao lần mình bất tín thì cũng sẽ không tin tưởng vào người khác sau khi bị người khác bất tín.