CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY_B

254

Chúa Nhật 4 Mùa Chay Năm B

Lời Chúa: 2Sb 36, 14-17, 19-23; Ep 2, 4-10; Ga 3, 14-21.

 

 

Mục lục

1. Tin hay không tin  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Nhìn lên ánh sáng  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Chút ánh sáng  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

4. Yêu đến quên mình  (Lm. Tạ Duy Tuyền)

5. Yêu đến nỗi ban tặng con mình cho thế gian (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

6. Quyết bước theo Ánh Sáng Thật là Đức Kitô  (Lm. Giuse Dương Hữu Tình, Gp. Hải Phòng) 

7. Giọt nước mắt  (Trầm Thiên Thu)

8. Người thợ săn trên trời  (Gm. Arthur Tone)

9. Giương cao con rắn  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

10. Chúa Nhật 4 Mùa Chay_B  (Lm. Antôn giáo xứ thánh Giuse, Tulsa)

11. Ai tin Chúa sẽ được cứu chữa để sống muôn đời (Lm. Đan Vinh – HHTM)

 

.

TIN HAY KHÔNG TIN

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Ông Nicôđêmô là một thành viên của Công nghị Do Thái, tương đương với quốc hội Việt Nam hiện nay. Là người thiện chí đi tìm Chân lý, nhưng còn e ngại vì sợ ảnh hưởng đến tiến thân và sự nghiệp, nên ông chỉ dám đến gặp Chúa vào ban đêm. Trong cuộc đàm đạo với ông, Chúa Giêsu đã nói về sứ mạng của Người. Người được Chúa Cha sai đến trần gian vì yêu thương nhân loại. Qua Chúa Giêsu, Chúa Cha tỏ bày tình thương vô bờ bến của Ngài đối với thế gian, đặc biệt là đối với các tội nhân. Về phía con người, tin vào Chúa là sự đền đáp trước tình thương của Ngài và là điều kiện để được Chúa chúc phúc. Tin vào Chúa  cũng là điều Ngài mong đợi nơi con người.

Nếu Đức Tin nơi con người là sự mong đợi của Thiên Chúa, thì không có nghĩa là Thiên Chúa cần chúng ta. Trái lại, Đức Tin đem lại cho chúng ta sự giải thoát khỏi sự chết và đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu. Lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng nhấn mạnh tới những cụm từ đối lập mang ý nghĩa rất phong phú:

-Tin và không tin

-Sự sống và sự chết

-Cứu độ và án phạt

-Giải phóng và cầm buộc

-Ánh sáng và bóng tối

-Việc thiện và việc ác

Như vậy, tin là tự do chọn lựa Chúa và dấn thân sống hết mình vì chọn lựa đó. Nếu bạn tin vào Chúa, bạn sẽ tìm được sự sống, sẽ được cứu độ trong ngày xét xử, sẽ được ánh sáng chiếu soi. Một khi tin vào Chúa thì những hành động của bạn sẽ là những việc thiện. Bởi lẽ bạn không thể tin vào Chúa mà lại có một lối sống ngược lại với điều bạn tuyên xưng.

Một cách cụ thể, tin vào Chúa là tin vào Đức Giêsu Kitô. Tin vào Chúa không chỉ có nghĩa là tin Ngài đang hiện diện, mà còn là thiện chí thực hiện những điều Chúa Giêsu dạy. “Ai khước từ Thày là khước từ Đấng đã sai Thày” (Lc 10-16). Đón nhận và thực hiện lời Chúa Giêsu là tuyên xưng Đức Tin vào Thiên Chúa cách hữu hiệu nhất. Nhờ việc tuân giữ giáo huấn của Chúa Giêsu, chúng ta trở nên những tác phẩm của Thiên Chúa, được canh tân trong Chúa Giêsu, nên con người hoàn thiện, và như thế, chúng ta làm cho ánh vinh quang của Ngài tỏa rạng qua cuộc đời của chúng ta (x. Bài đọc II).

Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu vào ban đêm đã làm cho ông Nicôđêmô thay đổi cuộc đời. Từ một người còn nghi ngờ, dè dặt, ông đã trở nên môn đệ của Chúa. Ông không còn sợ hãi, trái lại, ông đã công khai biện hộ cho Chúa Giêsu nơi những người biệt phái (x. Ga7,51) và đã cộng tác trong việc an táng Chúa Giêsu (x. Ga 19,39). Một điều đáng chú ý là khi Chúa chịu chết đau thương trên thập giá, cũng chính là lúc ông Nicôđêmô sẵn sàng từ bỏ công danh sự nghiệp để công khai nhận mình là môn đệ của Chúa Giêsu.

Mùa Chay là thời điểm để chúng ta sống Đức Tin một cách mãnh liệt hơn. Phụng vụ dùng lời Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô để khẳng định với chúng ta, nếu chúng ta thành tâm tin vào Chúa thì chúng ta sẽ tìm được niềm vui ở đời này và hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Chúng ta lựa chọn đứng về phía ánh sáng hay bóng tối? Chúng ta đang làm việc thiện hay việc ác? Chúng ta đang bảo vệ sự sống hay cổ võ sự chết? Tất cả những vấn nạn này cần được trả lời bằng chính cuộc sống của chúng ta.

Sám hối, ăn năn và hòa giải trong Mùa Chay không phải là những việc làm mang tính tiêu cực, nhưng hướng về một tương lai tốt đẹp, nhờ quyền năng và tình thương của Chúa. Bài đọc I trích từ sách Sử biên niên đã suy tư và rút ra bài học từ một biến cố vô cùng quan trọng trong lịch sử dân Do Thái. Đó là sự kiện người Do Thái chấm dứt cảnh lưu đày và được trở về quê hương. Theo tác giả, những gì đã xảy ra như Nhà Thiên Chúa bị tàn phá, Giêrusalem bị triệt hạ, dân chúng bị lưu đày đều đến từ một nguyên nhân là sự bất trung bất nghĩa của các tư tế và dân chúng. Trong cảnh lưu đày, dân đã sám hối và kêu cầu Chúa. Ngài đã can thiệp qua vị vua Ba Tư là Kyrô. Vị vua này đã cho phép dân Do Thái lên đường hồi hương, đồng thời tái thiết Đền Thánh Giêrusalem hoang tàn. Vương quốc Israel được khôi phục. Cuộc sống sau bao năm lưu đày nay được ổn định. Người Do Thái xác tín, vua Kyrô chính là vị cứu tinh của họ. Bài học lịch sử mà tác giả đã rút ra được, đó là: tội lỗi là nguyên nhân của những thảm họa, và sám hối là điều kiện để được thứ tha.

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Hãy nhìn lên cây thánh giá để biết Chúa yêu chúng ta đến dường nào, để rồi, từ cây thánh giá, chúng ta học được những bài học cần thiết trong mối tương quan với Chúa và cách ứng xử với anh chị em.

Về mục lục

 

 

NHÌN LÊN ÁNH SÁNG

Tgm. Ngô Quang Kiệt

Trong sa mạc, dân Israel kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Thiên Chúa cho rắn độc ra cắn họ, khiến nhiều người phải chết. Dân chúng xin ông Môsê khẩn cầu Thiên Chúa. Thiên Chúa truyền cho ông làm một con rắn bằng đồng và treo lên để ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống (Ds 21, 4b-9).

Hôm nay, khi nói Người sẽ bị treo lên như con rắn đồng của Môsê, Đức Giêsu mời gọi ta cũng hãy biết nhìn lên Thánh giá để được sống. Việc nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên Thánh giá mở ra cho ta những nhận thức sau:

1) Nhận thức về tội lỗi của ta. Dân Do thái phản nghịch với Chúa, nên họ đã bị rắn lửa cắn chết. Chính tội lỗi làm người ta phải đau khổ. Chính tội lỗi đã gây ra tai hoạ cho toàn dân. Chính tội lỗi đã gây ra chết chóc. Nhìn lên con rắn đồng là nhận biết mình tội lỗi. Cũng vậy, vì tội lỗi của ta mà Đức Giêsu đã chịu treo trên Thánh giá. Người nào có tội tình gì mà phải chết đau đớn, tủi nhục như thế. Không một mảnh vải che thân. Chết lúc tuổi thanh xuân. Chết như một tội nhân. Chết như một người nô lệ. Trước khi chết đã bị sỉ nhục, bị hành hạ đến tan nát hình hài, đến chẳng còn hình tượng con người. Tất cả chỉ vì tội lỗi của ta. Tội lỗi đã làm ta phải chết. Tội lỗi làm linh hồn ta bị biến dạng, méo mó, xấu xa. Tội lỗi khiến ta tủi nhục chẳng dám ngẩng mặt nhìn lên. Đức Giêsu đã gánh lấy tất cả tội lỗi của ta. Người chịu nhục nhã cho ta được vinh quang. Người chịu thương tích để chữa lành vết thương của ta. Người chịu chết như nô lệ để ta được tự do. Người chịu chết cho ta được sống. Người chịu treo lên để kéo ta khỏi vũng bùn nhơ tội lỗi. Nhìn ngắm Người chính là nhìn ngắm tội lỗi của ta. Hiểu được cái chết đau đớn tủi nhục của Người là ý thức được tội lỗi nặng nề của ta.

2) Nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Nhận thức về tội lỗi đưa ta đến nhận thức về tình yêu thương của Chúa. Ta tội lỗi đáng phải chết. Nhưng Chúa thương yêu không bỏ rơi ta. Người tìm hết cách cứu ta. Tình yêu Chúa dành cho ta thật bao la tha thiết. Tình yêu đã khiến Chúa ra như điên dại. Còn ai điên dại hơn người dám hy sinh con một mình để cứu người khác. Thế mà Chúa Cha đã “yêu ta đến nỗi đã ban Con Một” của Người cho ta. Còn ai điên dại hơn kẻ dám liều mạng chết vì người yêu. Thế mà Đức Giêsu đã tự nguyện chết cho ta. Người đã dậy ta: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã hy sinh mạng sống để làm chứng tình yêu Người dành cho ta. Ta có xứng đáng gì đâu? Ta chỉ là một hạt bụi. Ta ngập trong yếu đuối tội lỗi. Thế mà Người yêu thương đến điên dại, đến chết vì ta. Càng nhìn lên Thánh giá, ta càng thấy mình tội lỗi. Càng thấy mình tội lỗi, ta lại càng thấy tình yêu thương của Chúa dành cho ta thật là bao la, tha thiết, mênh mông khôn tả.

3) Nhận thức về ơn cứu độ của Chúa. Trong sa mạc họ chẳng tìm ra người có thể cứu chữa họ. Chẳng có thuốc nào cứu họ khỏi chết. Chỉ mình Thiên Chúa có thể cứu họ. Thế nên họ phải nhìn lên con rắn đồng để được Chúa cứu. Ta cũng thế. Biết thân phận mình tội lỗi yếu hèn, ta càng cảm nghiệm được ơn cứu độ của Chúa. Ta ngập chìm trong tội lỗi, chẳng thể nào vươn lên được nếu không có ơn cứu độ của Chúa. Ta yếu đuối, chẳng thể nào tự sức mình đứng lên nếu không có ơn Chúa nâng đỡ. Ta bị giam cầm trong ngục tù sự chết, chỉ có Chúa mới có thể tháo bỏ xiềng xích, đưa ta tới miền sự sống. Linh hồn ta ngập ngụa nhơ uế, chỉ có Chúa mới có thể rửa sạch tội tình. Linh hồn ta bị bóng tối tội lỗi phủ vây, chỉ có ánh sáng của Chúa mới soi chiếu cho ta biết đường ngay lẽ phải.

Nhìn lên Thánh giá chính là từ nơi tối tăm nhìn lên ánh sáng. Ánh sáng tình yêu thương từ Thánh giá chiếu toả sẽ giúp ta an tâm trở về với Chúa là Cha, người Cha nhân hiền lúc nào cũng chờ đón đứa con hoang đàng trở về, lúc nào cũng sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho ta. Ánh sáng cứu độ từ Thánh giá chiếu toả sẽ giải thoát ta khỏi bóng tối tội lỗi, đưa ta trở về làm con cái Thiên Chúa Sự Sáng. Ánh sáng tình yêu và ánh sáng cứu độ sẽ nâng ta lên, để từ nay ta vượt thoát lên khỏi bóng tối tội lỗi, sống thanh sạch công chính, luôn mơ ước những điều cao thượng, xứng đáng là con cái sự sáng. Trong mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh, ta hãy năng chiêm ngắm Thánh giá, để Chúa nâng tâm hồn ta lên với Chúa.

Lạy Chúa, xưa Chúa đã phán: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32), xin hãy lôi kéo hồn con lên với Chúa.

 

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Bạn có cảm thấy mình được Chúa yêu thương không? Hãy kể lại một kinh nghiệm trong đó bạn cảm nhận được tình yêu thương của Chúa.
  2. Bạn có thấy mình yếu đuối, cần ơn Chúa cứu độ không?
  3. Bạn đã chiêm ngắm Thánh giá lâu giờ chưa? Bạn có muốn chiêm ngắm Thánh giá trong mùa Chay này không?

Về mục lục

 

CHÚT ÁNH SÁNG

Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc

Trái chanh, bản chất là chua, ấy vậy nó sẽ được biến đổi trở thành ly nước ngon, mát khi có nước, có đường, có đá. Cuộc đời đầy đen tối xảy đến, ta có thể chết gục hoặc mạnh mẽ đứng lên, đó là nhờ tìm gặp được chút ánh sáng hy vọng. Với người ham mê đọc sách, chỉ cần một chút ánh sáng họ có thể thu nhận được nhiều điều bổ ích ở trong hoàn cảnh giới hạn nhất. Cũng có trường hợp vì đau khổ, thất bại, không tha thiết sống nữa, tuy nhiên chỉ một lời khích lệ, cảm thông của người bạn, họ nhận ra “có tình yêu là có tất cả”.

Thời Cựu ước, ông Môisê là ánh sáng, là hy vọng cho toàn dân : khi đối diện với nguy hiểm vượt Biển đỏ, lúc đói khát ở samạc, rồi bị rắn cắn, dân chúng chỉ biết cậy trông Môisê, nhờ ông kêu xin Giavê Thiên Chúa cứu giúp. Kinh nghiệm người xưa cho rằng : phú quí sinh lễ nghĩa, bần hàn sinh đạo tặc. Nếu nhân tính bị sói mòn, thì con người không phải ở hoàn cảnh nào cũng có thể sống tử tế, suy nghĩ cách hành động nghiêm chỉnh được đâu ! Bị rắn cắn, vừa đau vừa sợ chết, ấy vậy nhìn lên con rắn đồng theo chỉ dẫn của Môisê, sẽ được cứu, được khỏi, không hề dễ dàng. Gặp đau khổ, thiếu tình yêu thương, nguy hiểm trong cuộc sống, chỉ cần “TIN vào Đức Kitô là không bị hư mất, nhưng được sống đời đời”, thế mới gọi là hành động của đức tin.

Thánh Phaolô trong bài đọc II cho chúng ta biết, Thiên Chúa yêu thế gian đến độ tội lỗi có thể giết chết, nhưng nhờ Đức Kitô, nhờ đau khổ thập giá của Đức Kitô mà chúng ta đạt tới ơn cứu độ, đó là ân huệ Chúa tặng ban, không hề phát xuất từ việc làm của con người. Sách Sử biên hôm nay tường thuật việc Thiên Chúa đã dùng lề luật, các ngôn sứ để giáo dục dân, họ vẫn từ chối đón nhận; cuối cùng Chúa đã dùng vua Canđê để sửa dạy dân. Đau khổ, sửa phạt, không có ý nhằm thỏa mãn cơn nóng giận, mà nhằm cảnh tỉnh mọi người sám hối, nhận ra lỗi tội của mình, hầu được cứu và được sống đời đời.

Tục ngữ có câu : dạ đau, con xót, con nào cũng là con, người xưa hay chúng ta hôm nay, đều là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa, dù ta yếu đuối tội lỗi, tình yêu thương của Chúa chính là thứ ánh sáng cần thiết thức tỉnh để cứu chúng ta. Thánh sử Gioan nói : “ai hành động xấu thì ghét sự sáng và không đến cùng sự sáng, vì sợ những việc làm của mình bị khiển trách”. Chỉ một chút ánh sáng ở hiên nhà, khiến kẻ trộm cắp phải khó chịu vì sợ bị phát hiện. Chỉ một chút ánh sáng, đủ giúp người đi đường trong đêm tối tự tin, không sợ vấp té. Đúng, đã là người Kitô hữu, mọi người đều được nghe biết mùa chay là mùa sám hối canh tân lòng trí, đều hiểu Chúa Kitô chính là ánh sáng thế gian. Chỉ một ánh sáng của Đức Kitô, đủ giúp người ta soi rõ được lòng mình mà sám hối, nhận biết Thiên Chúa yêu thương đến cứu độ, không hề có ý định luận phạt, mà luôn nhân từ thứ tha.

Con người cần tình yêu để mà sống, nhưng con người không có tình yêu vẫn phải sống. Thiên Chúa đã yêu thế gian nên ban Con một Ngài, dù tin hay không, Thiên Chúa vẫn ban Đức Kitô là ánh sáng; dù tin yêu hay nghi ngờ, Đức Kitô vẫn chịu đau khổ và tử nạn để cứu độ nhân loại. Ta sống vì đã mang thân xác con người, ta sống vì trách nhiệm, vì nghĩa vụ với người thân, vì ở trong mầu nhiệm Hội Thánh Chúa Kitô. Vì có chung một “vầng hồng”, có diễm phúc ở trong tình yêu Đức Kitô, do đó ta sống để mà tin yêu, và ta tin yêu để có được Đức Kitô là niềm vui trong cuộc sống.

***Người ta có kể câu chuyện phiếm đầy ý nghĩa thế này :

Có một ông chồng đi sau xe chở quan tài của người vợ đưa ra nghĩa trang. Ông bạn đi gần bên thấy người chồng tội nghiệp này sao cái miệng nhép nhép như đang đọc kinh.

Ông bạn tò mò đến gần hơn, thì nghe ông chồng này không phải đọc kinh, mà ông ấy đang hát. Ông bạn ngạc nhiên hỏi : “Đám tang vợ vui vẻ gì mà ông hát ?”

Ông chồng trả lời : từ ngày cuới bà ấy đến giờ, chỉ có hôm nay tôi đi chung với bà ta mà không tranh cãi, sao lại không hát ? Ông bạn ấy cũng không khỏi giật mình khi chợt nghĩ tới câu tục ngữ : người có lúc vinh lúc nhục, sông có lúc đục lúc trong. Thế rồi ông cũng mỉm cười và tiếp tục cất bước.

Gia đình nào, cộng đoàn nào, hoàn cảnh thuận lợi hay không, mỗi người đều cảm thấy mệt mỏi đau khổ, bất hạnh, nếu như thiếu tình yêu thương tha thứ. Ông chồng đưa tiễn vợ ra nơi an nghỉ mà miệng hát ca vì từ nay không phải tranh cãi gì nữa với vợ, thế nhưng ông sẽ thấy sự trống vắng vì mất đi người bạn đời mà ông từng gắn bó.

Ngạn ngữ Pháp cho rằng : người phụ nữ đẹp mang lại cho bạn hào quang chứ không phải hạnh phúc. Thánh sử Gioan hôm nay thì nói : ai hành động trong sự thật thì đến cùng ánh sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ hành động trong Thiên Chúa. Vâng, Thiên Chúa đã yêu loài người, nên ban Đức Kitô là ánh sáng đến cho nhân loại, để ai tin vào Đức Kitô thì không phải đi trong tối tăm, không bị hư mất. Hình ảnh con rắn đồng ở sa mạc cứu được dân chúng khỏi chết phần xác. Hình ảnh Đức Kitô chịu chết trên thập giá là ánh sáng chiếu soi để ai tin và biết cậy trông vào Đức Kitô thì phần hồn được sống và sống đời đời. Amen.

Về mục lục

 

 

YÊU ĐẾN QUÊN MÌNH

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Khi yêu, người ta thường đòi hỏi quá cao nơi người mình yêu. Họ đòi người yêu phải chung thủy, phải hy sinh, phải quan tâm. Đôi khi còn đòi hỏi người mình yêu phải đánh đổi cả tính mạng vì yêu.

Có một anh chàng nói với cô gái:

Nếu mình chia tay em có buồn không?

Đương nhiên là có

Buồn đến mức độ nào?

Đương nhiên là không đến mức độ có thể chết

Vậy mình chia tay đi “!

Hóa ra tình yêu luôn phải có tính bất tử. Nếu yêu nhau mà không đạt đến mức độ sẽ chết vì thiếu người mình yêu thì chưa phải là tình yêu chân thành. Đó cũng là tình yêu mà Xuân Diệu bảo rằng: “Người đi một nửa hồn tôi chết – Một nửa hồn kia bỗng dại khờ”.

Thế nhưng, có người bảo rằng: “Không phải cứ là tình yêu thì phải vĩnh cửu, phải sống chết ở bên nhau, người ta yêu nhau là để được hạnh phúc bên nhau, chứ không phải để chết bên nhau, nếu chết vì yêu thì không những kẻ đó thật bất hạnh mà còn là kẻ ngu ngốc nhất trên đời”.

Thực ra cái chết ở đây không phải là cái chết chung, cũng không phải là liều mạng chết, mà là một tình yêu dâng hiến để vì người mình yêu có thể làm mọi sự, kể cả hy sinh tính mạng mình.

Một học sinh đã tuyên bố với bạn bè: Cuối cùng rồi cũng có người con gái dám liều mình vì tao. Cả phòng nhao nhao:

– Ai vậy mày, nhỏ nào nói nghe coi?

– Nhỏ Hồng bên lớp sử chứ ai!

– Nhỏ nói gì với mày?

– Nhỏ nói “Yêu ông ư? Tui thà nhảy lầu còn hơn”.

Cái chết nhảy lầu này không phải là cái chết vì yêu mà là cái chết chốn chạy tình yêu. Một cái chết không phải vì tình mà là sợ tình. Họ chạy chốn tình yêu chứ không tự nguyện đến với tình yêu. Chỉ có trong tình yêu người ta mới dám sống chết cho nhau. Có yêu nhau người ta mới hiến dâng mạng sống để mang lại hạnh phúc cho người mình yêu. Có yêu nhau người ta mới chẳng quản ngại khó khăn đến mức độ: “Yêu nhau mấy núi cũng trèo – Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”.

Đây chính là tình yêu cao vời của Đức Ky-tô dành cho nhân loại. Ngài không trốn chạy khi gặp gian truân. Ngài không lùi bước khi đối đầu với hiểm nguy. Ngài đã yêu là yêu cho đến cùng, cho dù phải trả giá bằng cái chết đau thương. Chính Ngài đã đề cao tình yêu tự hiến này khi Ngài nói: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu dám thí mạng vì bạn hữu”. Ngài đã dốc cạn đến giọt máu cuối cùng cho người mình yêu khi lưỡi đòng đâm thấu trái tim Ngài, “nước và máu chảy ra”. Ngài đã hoàn tất một đời người khi dâng hiến chính thân mình làm giá chuộc cho người mình yêu.

Thiên Chúa vẫn yêu bạn, yêu tôi. Ngài vẫn tiếp tục thi thố tình yêu của mình trên từng cuộc đời chúng ta. Giá máu cứu chuộc Ngài vẫn đổ ra để mang đến ơn giao hòa cho chúng ta. Thánh giá Ngài vẫn mang lấy tội lỗi nhân loại khi Ngài tiếp tục hiến tế chính mình trên bàn thờ để sinh ơn cứu rỗi cho loài người chúng ta.

Xem ra chúng ta đều là những con nợ ân tình của Chúa. Chúng ta nợ Chúa vì nhiều lần Chúa đã tha thứ tội lỗi cho chúng ta, nhiều lần Chúa chịu đóng đinh vì tội lỗi chúng ta. Xin cho chúng ta biết trả lại món nợ cho Chúa khi chính mình cũng chịu hiến tế hy sinh cho anh em. Xin loại bỏ nơi chúng ta tính hưởng thụ, thói ích kỷ để sống một đời yêu thương và phục vụ tha nhân. Amen

Về mục lục

 

 

YÊU ĐẾN NỖI BAN TẶNG CON MÌNH CHO THẾ GIAN

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Các nhà nghiên cứu cho thấy ngày nay, xu hướng gia đình ít con ngày càng tăng. Người ta thường cho rằng : Ít con để nuôi dạy cho tốt. Tuy nhiên, các nghiên cứu dường như cho kết quả ngược lại và không phải cứ đông con là con cái hư hỏng, mà đa số các trường hợp con cái hư hỏng lại rơi vào những gia đình ít con. Không khó để giải thích cho vấn đề này. Với các gia đình Châu Á, việc có ít con sẽ biến những đứa con thành “lá ngọc cành vàng”, thành “cậu ấm cô chiêu”, được cha mẹ chiều chuộng, lo cho từ A đến Z. Vì thế, cha mẹ vô tình biến những đứa con của mình thành những ông hoàng, bà chúa, muốn gì được nấy ; đến nỗi cha mẹ không dám nặng lời la mắng hay sửa dạy, cũng không dám rời con, biến con mình thành những con Kanguru ở trong lòng mẹ dù đã khôn lớn.

Thiên Chúa là Cha, Ngài chỉ có một Người Con duy nhất là Chúa Giêsu. Vậy mà, Thiên Chúa đã không hề chiều chuộng Con của Ngài. Vì yêu thế gian, Ngài đã trao tặng Người Con ấy cho nhân loại, để nhân loại nhờ Người mà được cứu độ. Hôm nay, Tin Mừng Gioan đã khẳng định : Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời.

Khi trao tặng Con Một cho thế gian, Thiên Chúa đã chấp nhận mọi rủi ro xảy đến cho Con của Ngài, và còn chấp nhận việc Con của Ngài sẽ bị thế gian phản đối, từ chối. Đúng như thế, nhân loại đã chiều theo lối sống dễ dãi, buông mình theo dòng chảy của thế gian và sự dữ từ chối điều thiện, điều lành. Đại diện cho cả nhân loại đón nhận Con Thiên Chúa làm người chính là dân Do Thái. Dù là một dân được tuyển chọn và được chuẩn bị từ lâu, nhưng dân Do Thái đã không ngừng phản bội lại Thiên Chúa và sứ mạng của họ.

Sách Sử Biên Niên tóm tắt một gian đoạn lịch sử của Israel, là một chuỗi những phản bội, thất trung của hàng lãnh đạo là các tư tế. Đáng lẽ, họ phải là những người dẫn dắt dân Israel đi theo đường lối của Thiên Chúa, nhưng ngược lại, chính họ đã sống bê tha, học đòi theo lối sống của dân ngoại, làm cho đền thờ ra ô uế, dân chúng ra hư hỏng. Thiên Chúa đã nhiều lần sai các tiên tri đến để sửa dạy, uốn nắn lại đời sống của họ cho phù hợp với ý Chúa, nhưng họ đã từ chối phục thiện và còn chống đối và giết hại những người Chúa sai đến. Trước sự ngỗ nghịch, cứng đầu của họ, Thiên Chúa đã cảnh cáo họ bằng việc để cho dân ngoại xâm chiếm, cướp phá và bắt họ đi làm nô lệ.

Thiên Chúa giống như người Cha vì quá thương con, không nỡ nhìn thấy con mình đau khổ, Ngài đã dùng một ông vua dân ngoại là Kyrô tuyên bố cho Israel được hồi hương, khôi phục lại đất nước và còn cung cấp vật liệu giúp họ phục hồi lại Giêrusalem sau nhiều năm bị bỏ hoang tàn. Với những hành động yêu thương như thế, Israel dường như vẫn không tỉnh ngộ để nhận ra tình yêu thương của Thiên Chúa, họ vẫn cứ nghiêng chiều về điều xấu. Thiên Chúa đã cho chính Con Một của Ngài đến để nói cho họ về tình yêu của Thiên Chúa, và để yêu thương họ đến tận cùng.

Trong câu chuyện với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã cho ông thấy trước hình ảnh Con Thiên Chúa sẽ bị treo lên để đem lại ơn cứu độ cho tất cả những ai tin Ngài. Khi nhắc lại sự kiện ông Môsê treo con rắn nơi hoang địa như dấu chỉ để ai tin vào Thiên Chúa mà nhìn lên con rắn bằng đồng, thì được cứu, Chúa Giêsu đã muốn nói trước đến cái chết thập giá của mình. Con rắn đồng trong hoang địa chỉ là dấu chỉ cho những ai tin vào Thiên Chúa và lời của Môsê thì được cứu thoát khỏi rắn cắn, còn khi Chúa Giêsu bị treo lên, Ngài sẽ kéo mọi người đến với Ngài và ai đến với Ngài, tin vào Ngài thì đón nhận được sự sống và ơn cứu độ từ chính Ngài ban tặng cho kẻ ấy.

Chúa Giêsu đã diễn tả tình yêu quảng đại của Thiên Chúa khi nói : Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để những ai tin vào Con của Ngài, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời. Yêu đến nỗi ban con một tức là yêu không tính toán thiệt hơn, không cân nhắc so đo, là dám trao tặng tất cả. Khi trao ban Con Một cho nhân loại, Thiên Chúa đã chấp nhận trao ban cả “khúc ruột” của mình cho nhân loại. Con một là người con thừa tự, là tương lai và hy vọng của người cha, vậy mà Thiên Chúa đã không hề hối tiếc khi quyết định trao tặng Người Con ấy cho nhân loại. Chúa Giêsu trở nên một trong chúng ta, chia sẻ cùng một kiếp người và mọi đau khổ, buồn vui với con người chúng ta.

Thiên Chúa có quyền và có thể kết án con người vì những tội lỗi họ gây ra, nhưng Thiên Chúa đã không làm như thế, mà Ngài để cho con người có quyền tự do chọn lựa số phận cùng đích của mình : thuộc về Thiên Chúa hay đứng về phía đối nghịch, đứng về phía ánh sáng hay bóng tối. Số phận của mỗi người sẽ là bất hạnh hay hạnh phúc, hoàn toàn tùy thuộc vào thái độ và quyết định của mỗi người. Ai quyết định sống theo chân lý thì thuộc về ánh sáng, còn ai để mình chìm trong bóng tối, thì phải chịu cảnh mù lòa, tối tăm đời đời.

Thánh Phaolô đã xác tín vào tình yêu của Chúa khi chia sẻ với Cộng đoàn Ephêsô : Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu thế gian, dù chúng ta có chết vì tội lỗi hoặc bị ma quỷ lôi kéo, Người vẫn cho chúng ta được sống cùng với Chúa Kitô. Điều đó cho thấy lòng quảng đại, bao dung của Thiên Chúa thì lớn hơn tội của chúng ta. Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương không phải vì chúng ta đáng yêu, hay bởi chúng ta đã làm được điều gì đó, nhưng chỉ vì lòng quảng đại và tình yêu vô hạn của Chúa mà thôi. Thiên Chúa luôn mong muốn chúng ta sống cho xứng đáng với tình yêu của Ngài, tin và đón nhận Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô.

Tin, là đòi chúng ta phải chấp nhận bước theo con đường và sự hướng dẫn của Chúa. Ngài dẫn chúng ta đi con đường của Tám mối phúc thật, tức là con đường phải cố gắng hy sinh, phải từ bỏ chính mình cùng với sự lôi cuốn, hấp dẫn của danh vọng, của cải, thế gian. Ngài muốn chúng ta phải luôn làm mới lại con người và cuộc sống bằng việc sám hối canh tân, bằng yêu thương tha thứ, bằng quan tâm chia sẻ.

Đến Con mình mà Thiên Chúa còn chẳng tiếc với ta, thì tại sao chúng ta vẫn cứ nấn ná, hồ nghi lòng quảng đại, tha thứ của Chúa mà chưa trở về để lãnh nhận ơn tha thứ ? Đừng bao giờ thất vọng về tình trạng của mình, dù chúng ta có tội lỗi đến mấy thì Thiên Chúa vẫn sẵn sàng thứ tha ; cũng đừng ỷ nại để rồi chúng ta không cố gắng sửa chữa những sai lầm và không quyết tâm làm lại cuộc đời. Cũng vì ỷ nại như thế, mà nhiều người đã vuột mất cơ hội sửa chữa sai lầm. Mùa chay là mùa tốt nhất để mọi người thực hiện quyết tâm của mình, đừng để mùa chay qua đi vô ích mà hãy bắt đầu làm một việc gì đó cụ thể cho mình và cho người bên cạnh.

Hãy quyết tâm bước ra khỏi bóng tối của sự mờ ám trong công việc, trong hành động của mình, bằng việc tập sống và làm việc tốt với một lương tâm ngay thẳng, một tâm hồn thanh thản, đừng nuôi dưỡng sự giận dữ và thù oán với anh em, mà hãy tập nghĩ tốt, giải thích tích cực những việc làm của anh em, điều đó sẽ giúp giảm bớt đi những nghi kỵ. Hãy kiềm chế miệng lưỡi, đừng nói những điều thiếu suy nghĩ, gây tổn thương hoặc gieo nghi kỵ cho nhau, mà hãy nói với nhau bằng lời nói chân thành mang tính xây dựng.

Các bậc cha mẹ hãy đem gia đình mình ra khỏi bóng tối của cãi vã, giận dỗi, bằng cách chiếu sáng gia đình bằng niềm vui, tiếng cười và sự thứ tha. Hãy cứu gia đình và con cái mình khỏi tình trạng khô khan, nguội lạnh bằng cách tái lập nếp sống đạo đức của từng thành viên và của gia đình, siêng năng đến với Thánh lễ và các Bí tích, và lập nên những giờ kinh, giờ cầu nguyện chung của gia đình.

Chúng ta là con của ánh sáng, chúng ta đừng sợ khi sống trong ánh sáng, đừng ngại khi làm việc tốt, đừng sợ khi phải thể hiện mình là người con Chúa, là người được Chúa yêu thương. Hãy để Đức Kitô loại trừ khỏi tâm hồn những bóng tối của đam mê và dục vọng, sống vượt lên trên con người cũ với bản năng thấp hèn ; sống thân tình với Đức Giêsu như với bạn hữu. Nhờ đó, Ngài sẽ dẫn dắt cho mỗi quyết định và hành động của chúng ta và đưa ta tới hạnh phúc đích thực. Amen.

Về mục lục

 


QUYẾT BƯỚC THEO ÁNH SÁNG THẬT LÀ ĐỨC KITÔ

Lm. Giuse Dương Hữu Tình

Chủ đề của Chúa nhật thứ tư Mùa Chay trình bày Chúa Giêsu là Ánh Sáng Thật. Bởi thế Tin Mừng của Chúa nhật thứ tư Mùa Chay năm A tường thuật lại sự kiện Chúa Giêsu chữa một người mù từ thuở mới sinh (Ga 9,1-41). Tin Mừng của Chúa nhật thứ tư Mùa Chay năm B hôm nay, ghi lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Ni-cô-đê-mô dường như cũng trình bày cho chúng ta về đề tài đó.

Đoạn Tin Mừng hôm nay không trình bày từ đầu cuộc đối thoại, phần trao đổi giữa Chúa Giêsu và ông Ni-cô-đê-mô về việc tái sinh bởi ơn trên, nhưng vào ngay câu Chúa nói đến ông Mô-sê và sự kiện con rắn đồng. Chúng ta có để ý cách so sánh của Chúa không? “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy”. Sao Chúa lại so sánh mình với con rắn? Điều này buộc chúng ta phải trở về với sự kiện con rắn đồng trong Cựu Ước được sách Dân Số ghi lại (Ds 21,4-9). Đây là sự kiện xảy ra khi dân It-ra-en đã được Thiên Chúa dẫn ra khỏi đất Ai-Cập. Lẽ ra họ đã được Thiên Chúa dẫn thẳng vào Đất Hứa, nhưng vì họ đã nổi loạn, kêu trách ông Mô-sê và Thiên Chúa nên Ngài đã nổi giận tuyên bố không một ai thuộc thế hệ này sẽ được vào Đất Hứa: “ngày mai các ngươi hãy quay trở lại, và theo hướng Biển Sậy mà vào sa mạc” (Ds 14,25). Thế là dân phải bị lang thang trong sa mạc bốn mươi năm trời như lời Thiên Chúa phán (Ds 14,33). Thời gian lang thang trong sa mạc cũng là thời gian Thiên Chúa thanh luyện và cũng là thời gian thử thách. Lại một lần nữa, dân Chúa mất kiên nhẫn, kêu trách ông Mô-sê và Thiên Chúa, khiến Ngài liền cho rắn độc ra cắn chết nhiều người. Đến khi họ nài xin ông Mô-sê khẩn cầu cùng Thiên Chúa tha thứ, Chúa truyền cho ông Mô-sê làm con rắn treo lên cây cột, ai bị rắn cắn mà nhìn lên thì liền được sống. Ông Mô-sê đã làm như vậy và nhiều người đã được sống nhờ nhìn lên con rắn này.

Thực ra người Do Thái lúc đó thừa hiểu rằng con rắn dù có được làm bằng đồng hay bằng gì đi nữa, tự nó không thể chữa bệnh cho ai, cũng không thể cứu được ai. Nhưng thực tế đã có rất nhiều người được cứu vì họ đã đến và kịp nhìn lên con rắn đồng. Dân Chúa đã hiểu rằng trong cơn nguy hiểm đến tính mạng, họ đã chạy đến với Thiên Chúa, trông cậy vào Ngài, phó thác và tin tưởng nơi Ngài. Chính niềm tin và sự phó thác đến mức tuyệt đối này đã cứu họ. Đây sẽ là một bài học nhớ đời cho dân Chúa: Đánh mất niềm tin đồng nghĩa đặt cuộc đời của mình vào tình trạng nguy hiểm, và trái lại khi nguy biến thì chỉ có niềm tin mới có sức giải cứu.

Chúa Giêsu khi nhắc lại sự kiện này cho ông Ni-cô-đê-mô và so sánh sự kiện đó với sự kiện của chính Người, Chúa muốn tuyên bố với ông rằng kể từ nay, ai muốn được cứu, phải chạy đến với Ngài; từ nay không còn chuyện nhìn biểu tượng để nhớ đến Thiên Chúa nữa mà đã đến lúc chiêm ngưỡng chính Người; đã đến lúc tuyệt đối đặt niềm tin tưởng vào Người như lời Người nói: “ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,15).

Chỉ cần tin tưởng, phó thác vào Người là được cứu thoát và được sống. Chỉ có vậy thôi mà sao khó thế. Khó, bởi một niềm tin như thế luôn đòi phải có những lựa chọn dứt khoát, phải từ bỏ, phải quyết đứng về phía ánh sáng. Chúng ta vẫn có thể nói chúng ta đang tin, đang phó thác và đang nhìn thấy ánh sáng của Chúa chiếu soi. Nhưng khi phải trả lời cho câu hỏi: thực tế chúng ta đã quyết định chọn lựa những gì cho đời sống đức tin của chúng ta, chúng ta đã đứng về phía nào khi ánh sáng của Chúa soi vào tận tâm can chúng ta, chúng ta đã thực sự sống ra sao, chúng ta mới nhận ra chân tướng thực sự của mình. Lời Chúa của Chúa nhật hôm nay như một bản xét mình và một lời mời gọi. Xét lại cách sống hiện tại và mời gọi sống theo Ánh Sáng Thật là Đức Kitô. 

Về mục lục

 

GIỌT NƯỚC MẮT

Trầm Thiên Thu

Nước mắt là biểu hiện của nỗi buồn, hiếm khi là biểu hiện của niềm vui như cụ Nguyễn Công Trứ mô tả: “Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười” (thi phẩm Cây Thông).

Nước mắt nào cũng mặn, nhưng có nhiều loại nước mắt. Loại nước mắt bị người ta ghét nhất là “nước mắt cá sấu”. Loại nước mắt bị ghét nhất mà lại thường thấy nhiều nhất! Vậy người ta thích loại nước mắt nào? Chắc hẳn loại nước mắt người ta thích là “nước mắt thật lòng” – dù buồn lắm.

Trong nhạc phẩm “Giọt Nước Mắt Ngà”, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đã mô tả: “Em đứng bên sông buồn, nhìn cuộc tình trôi qua và lòng người phôi pha. Trên hai đóa môi hồng, nụ cười đã đi xa, ôi giọt nước mắt nào cho cuộc tình đầu…”. Ở đây là loại tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể hiểu cho các loại tình yêu khác. Nước mắt thật lòng luôn buồn, y như người ta vẫn nói: “Sự thật hay mất lòng”. “Giọt Nước Mắt Ngà” của ông Ngô Thụy Miên cũng buồn lắm, dù quý lắm, nhưng giọt nước mắt đó đã hướng thượng: “Anh đi về dấu giáo đường, cho cuộc tình bay cao, cho lòng mình xôn xao…”. Màu buồn mà vẫn đẹp, sắc tím mà vẫn lung linh.

Chúa Giêsu cũng đã từng khóc. Ngài xúc động tới ba lần trước cái chết của anh bạn Ladarô. Khi thấy cô Maria khóc và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến (Ga 11:33), đó là lần thứ nhất. Ngài khóc lần thứ hai khi đi đến mộ Ladarô (Ga 11:35). Người Do Thái thấy vậy liền nói: “Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!”. Khi nghe người ta đặt vấn đề rằng Ngài chữa khỏi chứng mù mà sao lại không thể làm cho Ladarô khỏi chết. Thế là Ngài lại thổn thức trong lòng (Ga 11:38), tức là Ngài khóc lần thứ ba.

Sinh ra ai cũng khóc. Khóc vì “tiên tri” rằng đời là bể khổ, hay là khóc cần thiết cho cuộc sống? Phần cứng được cài đặt sẵn trong máy vi tính là có dụng ý của nhà chế tạo. Nước mắt cũng vậy, chắc hẳn có dụng ý mầu nhiệm của Thiên Chúa. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xin Chúa cất khỏi chén đắng mà không được, rồi vẫn phải bị te tua tơi tả cho đến chết thê thảm. Và chính Chúa Giêsu cũng đã phải khóc nhiều lần, buồn não lòng, “buồn đến chết được” (Mt 26:38; Mc 14:34) kia mà!

Samuel Beckett (1906-1989, tiểu thuyết gia, kịch tác gia và thi sĩ Ai-len) có triết lý độc đáo lắm: “Nước mắt của thế gian này luôn bất biến. Nơi này có người bắt đầu khóc thì ở nơi nào đó có một người ngừng rơi lệ. Với tiếng cười cũng vậy”. Tính liên đới rất lạ!

Thật dễ để dùng vạt áo lau khô những giọt lệ, nhưng rất khó để có thể xóa sạch dấu vết nước mắt khỏi trái tim mình. Tuy nhiên, nước mắt lại chính là ngôn ngữ bí ẩn của trái tim, không thể diễn tả được. Vì thế, chúng ta phải cố gắng để có thể biết cách nhìn lại những giọt nước mắt để chúng ta có thể mỉm cười, nhưng đừng bao giờ nhìn lại những nụ cười vì chắc chắn chúng ta sẽ bật khóc.

Nước mắt tốt cho thị lực, và cũng có lợi cho tinh thần. Nước mắt có thể làm trôi đi nhiều thứ, kể cả tội lỗi. Chúng ta phải khóc nhiều vì tội nhiều, phải khóc cả đời, thế mà vẫn không sạch hết tội.

Kinh Thánh cho biết về mức tăng vọt về tội lỗi: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giêrusalem ra ô uế. Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ, vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa” (2 Sb 36:14-16). Được đằng chân, lân đằng đầu. Tội chồng lên tội theo cấp số cộng, rồi cấp số nhân. Con người quá đỗi lộng hành, thế mà Thiên Chúa vẫn im lặng, làm ngơ!

Kinh Thánh cho biết thêm: “Quân Can-đê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giêrusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị. Thế là ứng nghiệm lời Đức Chúa phán, qua miệng ngôn sứ Giêrêmia rằng: cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn” (2 Sb 36:19-21). Lịch sử mãi mãi vẫn là lịch sử.

Đó là lịch sử đời thường, cũng như lịch sử ngày nay, mọi sự vẫn diễn biến, nhưng Thiên Chúa vẫn hiện hữu và luôn theo dõi từng động thái của con người. Quả thật, “Chúa có mặt trong lịch sử loài người, Chúa có mặt trong lịch sử đời tôi”. Một sự thật vừa mặc nhiên vừa minh nhiên. Bác học Albert Einstein (1879-1955, Đức quốc) đã xác định: “Mối liên kết giữa Thiên Chúa và con người chính là niềm tin. Và chính nhờ niềm tin mà tất cả vạn vật trong vũ trụ này đều có thể tồn tạichuyển động.

Cuộc sống có ba thời (thì) chính: Quá khứ, hiện tại, và tương lai. Mỗi người cũng có ba thời như vậy, nhưng mà quá khứ đã qua, tương lai chưa biết, nghĩa là chúng ta không thể “nắm giữ” quá khứ và tương lai, chúng ta chỉ còn hiện tại. Như vậy, chúng ta phải cố gắng sống thời hiện tại cho tốt để không phải khóc ngày mai, và hãy quên hôm qua đi, nó có là nụ cười hay nước mắt thì chúng ta cũng chẳng làm gì được nữa, nhưng chúng ta có thể “rút ra” được số vốn kinh nhiệm để sống cho hôm nay, và để hướng tới tương lai.

Kinh Thánh hướng về tương lai: “Năm thứ nhất thời vua Kyrô trị vì nước Ba Tư, để lời Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia được hoàn toàn ứng nghiệm, Đức Chúa tác động trên tâm trí Kyrô, vua Ba Tư. Vua thông báo cho toàn vương quốc và ra sắc chỉ như sau: Kyrô, vua Ba Tư, phán thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giêrusalem tại Giuđa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ, ở với họ, và họ hãy tiến lên!” (2 Sb 36:22-23). Thiên Chúa cũng đang mong chờ chúng ta biến đổi, nhất là trong Mùa Chay Thánh này. Càng dứt khoát càng dễ biến đổi, càng mau biến đổi càng có lợi.

Trong thời gian lưu đày, tác giả Thánh Vịnh đã than thở: “Bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn. Bọn lính canh đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên: “Hát đi, hát thử đi xem Sion nhạc thánh điệu quen một bài!” (Tv 137:1-3). Đang khóc làm sao cười được, đang buồn làm sao vui nổi! Thế mà ngày nay người ta lại có dạng “khóc thuê”, cái gì cũng thuê, thậm chí người ta còn có dịch vụ “khấn thuê”, “dâng lễ vật thuê”,… Thần linh cũng đành “bó tay” thôi!

Tác giả Thánh Vịnh than thở: “Bài ca kính Chúa Trời, làm sao ta hát nổi nơi đất khách quê người? Giêrusalem hỡi, lòng này nếu quên ngươi thì tay gảy đàn thành tê bại! Lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm, nếu ta không hoài niệm, không còn lấy Giêrusalem làm niềm vui tuyệt đỉnh của tâm hồn” (Tv 137:4-6). Khi buồn, người ta chán mọi sự, chẳng cần gì nữa, chỉ muốn khóc thôi. Nước mắt thường trào ra ngoài và chảy xuôi xuống theo gò má, nhưng cũng có loại nước mắt buồn không chảy ra ngoài mà chảy ngược vào trong. Nhìn họ rất tĩnh mà lòng họ rất động. Nỗi buồn quá dày, nỗi đau quá lớn, đến nỗi đã “cô đọng” thành sự tĩnh lặng, bất động!

Cuộc đời là chuỗi dài đau khổ, thấm đẫm nỗi buồn, ướt sũng nước mắt. Nếu không có niềm tin, người ta sẽ chết. Quả thật, đã có nhiều người tuyệt vọng trong đau khổ nên đã tự kết liễu đời mình – ở đây không đề cập những người gây tội ác rồi tìm đến cái chết để “chạy trốn”.

Vâng, rất đau khổ nhưng cũng rất hạnh phúc, vì chúng ta còn may mắn lắm. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep 2:4-6). Tất cả là hồng ân, chứ chúng ta có làm được gì, dù có kỳ diệu đến mức nào, cũng chỉ là con số không thật to mà thôi. Đừng bao giờ ảo tưởng về “cái tôi” tồi tệ của mình!

Thánh Phaolô giải thích tỉ mỉ và nhấn mạnh: “Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người. Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2:7-10). Mỗi người được Thiên Chúa đặt vào một vị trí nhất định nào đó để làm sáng danh Ngài, nhưng chúng ta thường đặt ra những cái “nếu” theo trí hiểu phàm nhân, thế nên chúng ta khen người này, chê người kia, không ưa người nọ,… Đừng áp đặt Thiên Chúa theo ý mình!

Ai cũng có nỗi khổ riêng, với loại nước mắt riêng. Nhưng đau khổ và nước mắt đều có giá trị. Kinh Thánh cho biết: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3:14-15). Chúa Giêsu chịu đau khổ để diệt khổ, chịu chết để chiến thắng tử thần, đó là vì tội nhân chúng ta: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:16-18).

Muốn hết khổ, chỉ có cách duy nhất là “đi xuyên qua đau khổ”; muốn nhẹ lòng, chỉ còn biết khóc. Chẳng ai thương mình hơn ta thương mình, có an ủi cũng chỉ cảm thông một phần nhỏ với ít nhiều “giả dối” mà thôi. Thật vậy, trên Đường Thập Giá, Chúa Giêsu đã nói với các phụ nữ ĐỪNG khóc thương Ngài, mà hãy khóc thương cho phận mình và con cháu (Lc 23:28).

Thánh sử Gioan cho biết: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3:19-21). Những lời này quá rõ ràng!

Đẹp thay những giọt nước mắt ăn năn như nước mắt của tác giả Thánh Vịnh (Tv 35:14; Tv 56:9; Tv 102:10), nước mắt của người phụ nữ tội lỗi (Lc 7:38), nước mắt của Phêrô (Mt 26:75; Mc 14:72; Lc 22:62), nước mắt của Phaolô (2 Cr 12:21), nước mắt của các phụ nữ thành Giêrusalem (Lc 19:41), vì nước mắt là một trong tám mối phúc: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5:5). Ước gì mỗi chúng ta có được những giọt nước mắt ấm nồng như vậy!

Để được Thiên Chúa xót thương, chúng ta phải chân thành ăn năn; việc ăn năn được thể hiện qua động thái KHÓC, khóc thật lòng. Chúng ta hãy cùng tác giả Thánh Vịnh thân thưa: “Lạy Chúa, xin nghe lời con nguyện cầu, tiếng con kêu cứu, xin Ngài lắng tai nghe. Con khóc lóc, xin đừng làm ngơ giả điếc, vì con là thân khách trọ nhà Ngài, phận lữ hành như hết thảy cha ông” (Tv 39:13). Biết khóc thì chúng ta chắc chắn được Thiên Chúa cứu độ. Chính Ngài sẽ cứu chúng ta thoát khỏi nỗi buồn bằng cách “lau sạch nước mắt” (Kh 7:17; Kh 21:4).

Chúa Nhật IV Mùa Chay có màu Tím nhưng mang sắc Hồng, gọi là Chúa Nhật Mừng (Laetare), vì chúng ta đã đi qua nửa chặng đường Mùa Chay. Nhờ ơn Chúa, ước mong chúng ta cùng tự cố gắng và dìu nhau theo bước Chúa Giêsu Kitô đến đỉnh Can-vê. Giọt Nước Mắt đau buồn sẽ biến thành Giọt Nước Mắt vui mừng khi ca vang Alleluia trong Đêm Phục Sinh.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết thật lòng khóc cho tội mình, thương cho phận mình và yêu tha nhân, để nhờ đó mà chúng con được cứu độ. Vì Cuộc Khổ Nạn cùng Máu Thánh của Chúa Giêsu, vì Nước Mắt của Đức Mẹ, xin Chúa thương cứu các linh hồn, cứu thế giới và cứu chúng con, các tội nhân của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

Về mục lục

 

NGƯỜI THỢ SĂN TRÊN TRỜI

Gm. Arthur Tone.

Một trong những bài thơ tôn giáo nổi tiếng nhất bằng Anh ngữ tựa đề: “Người Thợ Săn Trên Trời”, sáng tác của Francis Thompson, ông cố chạy trốn Chúa. Ông so sánh Chúa với một thợ săn, vâng một con chó săn theo đuổi linh hồn. Đây là câu chuyện đời tư của Thompson.

Khi còn là cậu con trai, ông có ý định làm linh mục. Nhưng vì ông lười biếng. Cha ông phải ghi tên gởi ông vào trường thuốc. Ông làm quen với thói hút ma túy, nó hủy hoại tinh thần và thể xác ông. Ông đi ăn xin, chui rúc trong xóm ổ chuột, kiếm sống qua ngày bằng đánh giày, bán quạt và giữ ngựa. Nhờ lòng tốt của cô gái nghèo, Thompson gặp ông bà Wilfred Meynell. Họ thấy ông có tài, có lòng tốt thầm kín, họ giúp ông bắt gặp tình thương của Chúa.

Bằng chứng hiển nhiên của tình thương Chúa cho chúng ta được diễn tả trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thiên Chúa yêu thương thế gian, đến nỗi ban tặng Người Con Một, để những ai tin vào Ngài sẽ không bị diệt vong, nhưng được sống đời đời”. Cha trên trời chứng tỏ tình thương cho mỗi người chúng ta bằng cách sai Người Con yêu quý của Người để đổi lại chúng ta. Như ông Thompson linh hồn chạy trốn Chúa. Như người thợ săn rượt theo con thỏ. Thiên Chúa tìm kiếm từng linh hồn. Khác với người thợ săn, Chúa muốn cứu linh hồn đó chứ không hủy bỏ.

Làm sao chúng ta có thể có một quan niệm về mức độ vô biên của người thợ săn trên trời thương chúng ta? Trong bức thơ gởi cho Giáo đoàn Êphêsô, Thánh Phaolô gợi ý chúng ta nghĩ đến “Chiều rộng, chiều dài, chiều cao và chiều sâu của tình yêu Chúa” đối với chúng ta.

Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì rộng rãi: nó trải rộng tới mọi người; tới dân ngoại, tới người tội lỗi, tới cả những người chống đối Người. Thiên Chúa muốn mọi người được chia sẻ sự tốt lành của Người.

Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì dài: “Ta yêu ngươi bằng tình yêu vĩnh cửu (Jer 21.3)”. Trước khi có thế giới, Thiên Chúa đã yêu bạn. Tình yêu Thiên Chúa trải qua đời này tới đời kia.

Tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta thì cao: Nó từ ngai tòa Đấng Tối cao trên trời cao thẳm mà tới. Chiều cao của tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ trong tặng vật của Người cho chúng ta. Có gì cao siêu hơn được chia sẻ chính sự sống của Chúa qua các bí tích. Tình yêu nào cao hơn việc ban Người Con tốt lành, thánh thiện của Người cho chúng ta khi rước lễ.

Tình yêu Thiên Chúa thì thẳm sâu: Thiên Chúa tự hạ mình từ Thiên đàng cao vời xuống chuồng bò thấp hèn ở Bethlem, tới căn nhà tồi tàn và rừng hoang, tới con người rất hèn, tới sự xỉ nhục của thập giá và chiều sâu của nấm mồ.

Một lần nữa, như Francis Thompson, như các vị thánh, chúng ta nhận thấy rằng: Thiên Chúa săn tìm linh hồn chúng ta cùng khắp thế giới. Vậy chúng ta hãy trở về với tình yêu đó. Chúng ta hãy cố gắng “tiến triển trong tình yêu” như chúng ta cầu nguyện trong kinh nguyện Thánh Thể II.

Trong mùa chay, chúng ta hãy nhớ Đấng Tình Thương đã ban cho chúng ta sự sống. Ước chi người thợ săn trên trời bắt được mỗi chúng ta.

Xin Chúa chúc lành cho bạn.

Về mục lục

 

GIƯƠNG CAO CON RẮN

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB

Thiên Chúa có bộ mặt nào? – Thánh thiện, quyền phép, thông minh hay công thẳng…? Ai mà biết được khuôn mặt thật của Người nếu như Người không đích thân mặc khải cho biết!

Người Do Thái tin rằng họ biết rất rõ bộ mặt thật của Đức Chúa; họ gọi Ngài là Gia-vê (theo ký tự YHWH), một tên vừa nói lên bản chất tự hữu mang tính triết học, lại vừa diễn tả quyền phép vô song của một đấng tạo dựng muôn loài, mang tính lịch sử. Khuôn mặt hiển hách đó, theo họ, đã lộ rõ qua các dấu lạ điềm thiêng mà Mô-sê nhân danh Ngài thực hiện trong cuộc Xuất Hành giải phóng kiêu hùng, sau khi đã hoàn toàn khuất phục quyền lực thần thánh của Pha-ra-ô được coi là vô địch thời bấy giờ. Thế nhưng Đức Giê-su lại khảng định rằng, khuôn mặt đó chưa hoàn toàn chính xác! Lý do thật đơn giản: đó vẫn chỉ dựa trên suy đoán của loài người, vì thật sự đã có ai từng sống với Thiên Chúa để biết rõ Ngài thế nào đâu; “không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho” (Mt 11:27)

Vấn đề ở đây là: diện mạo Thiên Chúa mà ‘Con Người muốn mạc khải cho’ là thứ diện mạo nào? Trước hết Đức Giê-su đưa ra một hình ảnh có sẵn trong Cựu Ước, nhưng rất ít được người Do Thái thời đó quan tâm: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc”. Quả vậy câu truyện được kể trong chương 21 sách Dân Số đã không được các luật sĩ và biệt phái thời đó quan tâm giải thích. Họ cho rằng đó chỉ là một giai thoại mang tính sự kiện lịch sử; dân phạm tội kêu trách Mô-sê, và thế là Đức Chúa đã báo oán qua việc cho rắn độc bò ra cắn hại dân khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết. Rồi Mô-sê chủ động khẩn cầu cho dân, và Đức Chúa truyền cho ông: “Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống!” (Ds 21:6-9) Câu chuyện không nhằm vẽ lên khuôn mặt Đức Chúa từ nhân và xót thương; có vẻ ngược lại là đàng khác, Ngài lộ rõ diện mạo nghiêm khắc, trừng phạt; ‘Dân kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê… và Đức Chúa cho rắn độc bò ra cắn chết họ’. Nếu dân có được cứu thì chẳng qua là do lời khẩn cầu của Mô-sê, tôi trung của Ngài. Còn tại sao lại giương cao con rắn là biểu tượng của hình phạt, để ‘hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên đó’ thì được cứu sống, thì không ai giải thích nổi, vì… đơn giản Đức Chúa muốn như thế! Khi Đức Giê-su dùng chính hình ảnh này để công bố mạc khải vĩ đại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” thì xem ra lại càng rối mù hơn. Ni-cô-đê-mô, hay bất cứ người Do Thái nào cũng vậy thôi, sẽ cho điều đó là hoàn toàn vô lý, không thể chấp nhận, nhất là sau dẫn chứng sự kiện hình phạt rắn độc cắn: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án”.

Riêng đối với Ki-tô hữu chúng ta, tất cả đều biết một điều căn bản: Tin Mừng chính yếu hệ tại ở điều này, đó là Thiên Chúa yêu thương thế gian, là Thiên Chúa không lên án, là Thiên Chúa không đánh phạt, một khi Đức Ki-tô đã được giương cao trên thập giá. Đó là diện mạo đích thực của Thiên Chúa mà Đức Ki-tô đã thân hành vẽ lên bằng chính thập giá của Người. Chỉ cần ‘tin vào Con của Người’, chỉ cần ngước nhìn lên Thập Giá cứu độ với lòng khiêm tốn và cậy trông, chỉ cần ‘sống theo sự thật và đến cùng ánh sáng’, thì cũng đã đủ để bất cứ ai, cho dầu tội lỗi tới mấy, cũng sẽ không bị lên án chết. Và ‘sự thật’ của Tin Mừng đơn giản chỉ là, căn cứ lời quả quyết của môn đệ Gio-an – người được coi là hiểu biết Thiên Chúa tình yêu rõ hơn ai hết: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta… Nếu chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội, thì chúng ta coi Người là kẻ nói dối, và lời của Người không ở trong chúng ta” (1Ga 1:8-10). Và thật lạ lùng, bản án nếu có bị tuyên, sẽ không căn cứ vào tội lỗi đã phạm, mà chỉ dựa trên một điều duy nhất xem ra chẳng mấy nhằm nhò gì: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng…” ‘Bóng tối’ và ‘ánh sáng’ Gio-an đề cập tới sẽ không mang nội dung luân lý của tội lỗi hay nhân đức, mà chỉ là từ khước hoặc tin nhận Tin Mừng về một ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian tới nỗi…’. Nói cách khác, bóng tối là vẫn nhắm mắt tin vào một Thiên Chúa công thẳng và luận phạt, một Thiên Chúa chỉ biết lên án và trừng trị. Ai cứ cố chấp ở lì trong bóng tối đó, chắc chắn sẽ bị lên án thôi. Lý do là vì mọi việc người ấy làm, cho dầu trong cái nhìn của con người có là tốt lành thánh thiện tới mấy đi nữa, thì cũng vẫn chưa phải là được thực hiện trong Thiên Chúa tình yêu xót thương và cứu độ. Còn ánh sáng đơn giản sẽ là nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, để mở lòng đón nhận ơn cứu độ đầy từ tâm của Thiên Chúa.

 Trong tư cách Ki-tô hữu, nhất định mỗi người chúng ta phải sống theo sự thật, và chân thành đi trong ánh sáng của ‘Thiên Chúa yêu thương thế gian…’ thôi, đặc biệt trong thời khắc cuối của mùa chay thánh, để trong niềm tin vào Đức Ki-tô thập giá cứu độ, chúng ta không còn chút sỡ hãi nào bị lên án nữa.

Lạy Chúa Giê-su được giương cao trên thập giá, xin cho con biết không ngừng chiêm ngắm Thánh Giá để thấu hiểu, ‘Thiên Chúa đã yêu con tới nỗi đã phó nộp…’, và để nhờ nhận biết trong tin yêu điều này, con sẽ ‘không bị lên án’, cho dẫu có tội lỗi và bất toàn tới mấy. Xin cho con cùng với Phao-lô, biết tập trung trọn đời mình vào duy nhất một mình Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh mà thôi. A-men.

Về mục lục

 

CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY_B

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Vào những bệnh viện và vào một vài nhà thuốc, chúng ta thấy có một dấu hiệu màu xanh trong đó có hình một con rắn quấn quanh cây cột. Một số bác sĩ cũng đeo một huy hiệu tương tự trước ngực. Đó là biểu tượng của ngành y tế. Biểu tượng này có nguồn gốc từ trong một câu chuyện được kể trong sách Cựu ước, xảy ra cho dân Do thái trên đường về Đất Hứa. Chúa Giê-su đã nhắc lại sự kiện này trong bài Tin mừng hôm nay, ám chỉ về cái chết cứu chuộc của Ngài.  

Khi dân Do Thái còn đang lang thang trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, họ đã nhiều lần kêu trách Chúa và ông Mô-sê, họ nói rằng: tại sao lại đưa họ vào sa mạc để họ phải khổ như thế này? Khi đói khát trong sa mạc, họ được Chúa ban thức ăn manna mỗi ngày, nhưng sau họ cảm thấy chán ngán thức ăn này. Họ phàn nàn kêu trách Chúa: chẳng có gì vui, chẳng có gì ngon, chỉ có mỗi manna chán ngắt. Chúng ta nhận thấy họ đã không cảm tạ mà còn kêu trách Chúa như vậy. Qua việc bày tỏ ra sự bất mãn, họ không còn tin vào quyền năng và lòng yêu thương của Chúa nữa. Họ đã mất niềm tin vào Chúa, cho nên họ muốn quay trở về với kiếp nô lệ bên Ai cập.

Vì sự bất trung, vô ơn và bội tín, có lần Chúa đã cho rắn lửa xuất hiện khắp nơi và cắn chết nhiều người, khi đó họ mới ý thức, nhận ra tội của mình với Chúa. Sau đó, họ ăn năn sám hối và cầu cứu với ông Mô-ê xin Chúa tha thứ. Chúa động lòng thương xót bảo ông Mô-sê làm một con rắn bằng đồng treo lên cây cao, để bất cứ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên con rắn đồng này thì được cứu sống.

Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta nhận thấy con rắn đồng kia chỉ là một thứ kim loại vô tri vô giác, tự nó không có khả năng hay quyền hành gì để cứu giúp dân Do thái lúc ấy, yếu tố quan trọng và cần thiết cứu giúp người ta chính là đức tin. Việc nhìn vào con rắn đồng là biểu hiệu một lòng tin vào Thiên Chúa. Niềm tin từ bên trong phát ra bên ngoài và thúc đẩy con người đến hành động đi và đến cũng như nhìn lên. Chính vì đức tin mà Chúa đã cứu họ. Và đó là ý nghĩa của câu Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô trong bài Tin mừng hôm nay: “Ngày xưa, Môsê treo con rắn đồng thế nào thì Con Người sẽ bị treo lên như thế, để nhờ đó những ai tin nhận sẽ được cứu rỗi.” Chúa tuyên bố như thế là Chúa có ý ám chỉ cái chết của Ngài, Ngài sẽ chết cách nào, Ngài sẽ bị treo lên thập giá để chuộc tội cho nhân loại.

Tin mừng thánh Gioan đề cập 3 lần việc Con Người phải được giương cao mang những ý nghĩa mà chúng ta cần chú ý. Ý nghĩa thứ nhất ám chỉ về cái chết của Chúa Giê-su trên thập giá. Thứ hai mang ý nghĩa về sự phục sinh và lên trời vinh hiển của Ngài, trong tiến trình trở về với Chúa Cha, đi ngược lại với tiến trình đi xuống trong mầu nhiệp nhập thế của Ngôi Hai Thiên Chúa, của Ngôi Lời lúc nhập thể. Và ý nghĩa thứ ba theo cái nhìn của thánh Gioan, khi Chúa được giương cao lên thập giá chính là lúc Chúa làm cho Chúa Cha vinh hiển, và là đỉnh cao trong mầu nhiệm cứu chuộc, vì chính lúc này, Chúa tiếp thu, cuốn hút tất cả nhân loại, từ lúc được tao dựng cho đến ngày tận thế, để dâng lên Thiên Chúa Cha.

Ông bà anh chị em thân mến. Trong mùa chay này, Giáo hội nhắc nhở chúng ta là thời điểm thích hợp, và hãy hy sinh thời gian để nhìn lên Chúa Giê-su Kitô trên thập giá, và suy niệm tình yêu và ơn cứu chuộc của Chúa. Những người bị rắn độc cắn nơi hoang địa ngày xưa đã nhìn lên rắn đồng, biểu tượng của lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa, với thái độ tin tưởng và đã được thoát chết. Chúa-Giêsu –Trên-Thánh-Giá không cứu chúng ta khỏi cái chết phần xác, nhưng Ngài còn làm một điều lớn lao và cao trọng hơn nhiều, đó là cho cả hồn lẫn xác của chúng ta được sống đời đời. Chúa đã biến cây thập giá trở nên Cây Thánh Giá, bằng cách nằm trên, chịu đóng đanh vào và chịu chết trên thập giá vì tội của chúng ta. Chúng ta quen hiểu sự sống đời đời là sự sống vĩnh cửu vào ngày tận thế. Tuy nhiên, theo thánh Gioan thì sự sống đời đời đã được bắt đầu ngay từ bây giờ, ngay từ lúc chúng ta còn sống trên trần gian, và ngay từ lúc Chúa được gương cao trên thập giá.

Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su Ki-tô kêu gọi chúng ta tin vào Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, là Đấng Gánh Tội Trần Gian. Chúa kêu gọi chúng ta hãy tin vào Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, để chúng ta có can đảm, sức mạnh và khiêm nhường từ bỏ những sự ích kỷ và tự cao, vác thập giá vì đức tin, vì lời Chúa, đi con đường Chúa đã đi. Để chúng ta sống chân lý yêu thương của Ngài, biết tôn thờ kính mến Chúa trên hết và trước hết mọi sự, cũng như sống bác ái và quảng đại với tha nhân. Và để sống trong sự sống của Chúa, có một tâm hồn xứng đáng là đền thờ Chúa ngự, khi chúng ta rước Chúa Giê-su Thánh Thể vào trong tâm hồn.

Chúng ta phải luôn ý thức tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta sẽ không bao giờ phai nhạt dù cho cuộc đời chúng ta có đổi thay. Tình yêu của Thiên Chúa vẫn luôn mưa tưới trên mọi người, cả người lành cũng như kẻ ác, người tốt cũng như người xấu. Chúa không cưỡng ép con người chúng ta phải tin theo Ngài. Trái lại, Chúa ban cho chúng ta quyền tự do lựa chọn hạnh phúc cho chính mình. Và Chúa luôn ban ơn, kêu gọi và cứu giúp chúng ta nhận ra tình yêu của Chúa. Vì thế, kẻ tin và theo Chúa, đặt tin tưởng vào Chúa thì đã được cứu. Còn kẻ từ chối không tin hay cứng lòng, thì tự họ, họ đã tự kết án mình, tự tìm đến sự chết, tự tìm đến cõi diệt vong. Từ xưa, Chúa Giê-su đã bị giương lên cao trên thập giá để yêu thương và muốn cứu chuộc chúng ta. Nhưng Chúa không thể cứu chúng ta được nếu chúng ta không muốn.

Chúng ta đang sống trong Mùa Chay, và đã đi được một nửa đường của Mùa Chay. Như ông bà anh chị em nhìn lên tấm băng rô trên đây, Mùa Chay kêu gọi chúng ta ăn năn sám hối, sửa đổi đời sống. Chúng ta nhận biết chúng ta là những người tội lỗi, và tin Chúa yêu thương chúng ta hơn hết những người trần gian yêu chúng ta, nên chắc chắn Chúa sẽ tha thứ cho chúng ta khi chúng ta nhìn lên Cây Thánh Giá Cứu Chuộc và xin Ngài tha lỗi cho chúng ta. Chúng ta cầu xin Chúa giúp sức ban ơn cho chúng ta biết dùng tự do của mình để chọn con đường dẫn đến tình yêu thương tha thứ và đời sống đời đời ngày từ đời này. Con đường đó chính là Chúa Giê-su Ki-tô. Tin vào Chúa Giêsu chắc chắn là việc cần thiết để chúng ta sẽ được hạnh phúc muôn đời. Vậy để biểu lộ lòng chúng ta tin yêu Chúa, chúng ta hãy lắng nghe lời Chúa kêu mời ăn năn sám hối.  

Về mục lục

.

AI TIN CHÚA SẼ ĐƯỢC CỨU CHỮA ĐỂ SỐNG MUÔN ĐỜI

Lm. Đan Vinh – HHTM

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Ga 3,14-21

(14) Khi ấy Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, (15) để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. (16) Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (17) Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. (18) Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án ; Nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào Danh của Con Một Thiên Chúa. (19) Và đây là bản án: Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. (20) Quả thật, ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. (21) Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.

  1. Ý CHÍNH:

Khi nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su đã mặc khải về tình thương cứu độ của Thiên Chúa như sau:

Để cứu chuộc thế gian đang sống trong bóng tối sự chết, Thiên Chúa đã sai Con Một giáng trần làm Đấng Thiên Sai. Nhờ chấp nhận cái chết đau thương trên thập giá để đền tội thay và giao hòa loài người với Thiên Chúa.

Từ đây, những ai muốn được ơn cứu độ phải có mấy điều kiện sau: Một là phải được tái sinh bởi Nước và Thánh Thần. Hai là phải tin Đức Giê-su, Đấng đã chịu chết trên thập giá để đền tội thay, mà con rắn đồng thời Mô-sê là hình bóng. Ba là phải vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Người.

Nhờ cùng chết với Đấng Thiên Sai, họ cũng sẽ được ánh sáng của Người chiếu soi để được tham phần vào sự sống lại vinh quang của Người và được hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên đàng đời sau.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 14-15: + Ni-cô-đê-mô: Một người vị vọng trong dân Do Thái, là thành viên của Công Nghị tại Giê-ru-sa-lem. Ông muốn tìm hiểu về con người và giáo lý của Đức Giê-su, nhưng vẫn trong tâm trạng dè dặt. Sau này ông đã can đảm bênh vực Đức Giê-su trong Công Nghị (x. Ga 7,50-52; 12,32). Và khi an táng Người, ông đã can đảm gia nhập vào hàng ngũ các môn đệ của Đức Giê-su (x. Ga19,39). + Mô-sê giương cao con rắn trong sa mạc: Khi được cứu thoát khỏi cảnh nô lệ người Ai Cập, dân Do Thái thay vì biết ơn Chúa và Mô-sê, họ lại kêu ca trách móc khi phải chịu kham khổ. Họ thà quay lại làm nô lệ cho dân Ai-Cập, miễn là hằng ngày được ngồi bên nồi thịt và được ăn uống no nê, còn hơn là được tự do mà bị đói khát thiếu thốn giữa nơi sa mạc hoang vu. Chúa đã trừng phạt họ về tội vô ơn bạc nghĩa ấy. Họ đã bị rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Bấy giờ họ mới hồi tâm sám hối và cầu xin Mô-sê để chuyển cầu xin Đức Chúa tha tội. Đức Chúa đã tha và truyền đúc tượng một con rắn bằng đồng, treo lên cây cột để ai bị rắn cắn mà tin cậy vào tình thương tha thứ của Đức Chúa qua việc nhìn lên con rắn đồng này, thì sẽ được cứu sống (x. Ds 21,8-9). + Con Người: là một hình ảnh được ngôn sứ Đa-ni-en nhìn thấy trong giấc chiêm bao. Con Người nói đây là một nhân vật được Đức Chúa tuyển chọn và trao cho sứ mệnh cai trị muôn dân trong sự công minh chính trực (x. Đn 7,13-14). Đức Giê-su nhiều lần đã tự xưng là Con Người theo nghĩa này (x. Mt 8,20; 12,32). + Cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời: Đức Giê-su đã tiên báo Người sẽ được nâng lên khỏi mặt đất, hay bị treo trên cây thập giá, giống như con rắn đồng thời Mô-sê xưa, để giao hòa tội nhân với Đức Chúa và nên dấu chỉ ơn cứu độ cho loài người. Người cũng được nâng lên trong vinh quang của Thiên Chúa, nghĩa là được tôn vinh trong Thiên Chúa (x. Ga 3,13; 6,62), để kéo mọi tín hữu lên trời hưởng hạnh phúc với Người (x. Ga 8,28; 12,32-34).

– C 16-18: + Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một: Thánh Gio-an đã khẳng định nhiều lần: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8). Người thể hiện tình yêu qua việc ban Con Một yêu dấu cho thế gian. Thế gian chính là mọi loài thụ tạo, đặc biệt là loài người. Sự ban tặng này, gợi lên hình ảnh tổ phụ Áp-ra-ham xưa đã vâng lời Đức Chúa, đem hiến dâng con trai độc nhất là I-sa-ác để làm của lễ toàn thiêu tiến dâng Đức Chúa (St 22,2-13). + Để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời: Điều kiện để được ơn cứu độ là phải tin vào Đức Giê-su – Con Một Thiên Chúa, là Đấng ban ơn cứu độ cho loài người. Ơn cứu độ là ơn tha thứ mọi tội lỗi, xóa bỏ hình phạt đáng chịu vì tội, và saư này được sống lại trong ngày tận thế để được hưởng hạnh phúc muôn đời trong Nước Trời với Chúa. + Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án: Tin ở đây là chấp nhận Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. Tin cũng là vâng nghe lời Người mời gọi, là từ bỏ mọi sự mà vác thập giá bước theo chân Người. Tin đòi ta phải kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su để sống tình yêu thương đối với tha nhân, giống như cành nho chỉ phát sinh hoa trái nếu được tháp nhập vào thân cây nho và hút được nhựa sống từ thân cây chuyển sang cho (x. Ga 15,4). NÓI CÁCH KHÁC: Tin là sống trong ơn nghĩa với Thiên Chúa. Những ai đặt trọn niềm tin vào Đức Giê-su như vậy thì không bị kết án nữa vì họ đã được Người chịu chết đền tội thay cho rồi. + Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi vì không tin vào Danh Con Một Thiên Chúa: Không tin là từ chối Chúa, là không sống trong ơn nghĩa với Chúa. Đây là những kẻ thù ghét Đức Giê-su và chống lại Hội Thánh của Người. Vì kẻ không tin không được dự phần vào ơn cứu độ của Đức Giê-su, nên tội và án phạt của họ vẫn còn đó. Vì không tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, nên họ sẽ không được cứu độ nhờ Danh Người (x. Pl 2,9-11). Như vậy, những kẻ không tin đã tự loại mình ra khỏi Ơn Cứu Độ của Đức Giê-su

– C 19-21: + Ánh sáng đã đến thế gian: Đức Giê-su là “Vầng Đông soi sáng” (x. Lc 1,78-79 ; 2,32) là “ánh sáng đích thực” đã đến thế gian và chiếu soi mọi người (x Ga1,9). Người đã tự ví mình là “Ánh Sáng thế gian” để ai theo Người thì sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống đời đời (x. 9,5). Những ai tin vào Danh Người thì không phải chết và không bao giờ bị hư mất (Ga 12,46). + Người ta thích bóng tối hơn ánh sáng vì các việc họ làm đều xấu xa: Thánh Phao-lô giải thích lý do người ta thích bóng tối hơn ánh sáng là do tội bất phục tùng của nguyên tổ A-đam nên tội lỗi đã nhập vào thế gian, và tội là nguyên nhân dẫn đến sự chết (x. Rm 5,12). Tội nguyên tổ làm cho con người dễ chiều theo bóng tối hơn ánh sáng. Thánh Phao-lô cũng thú nhận như sau: “Muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,18-19). + Ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách: Bóng tối và ánh sáng luôn xung khắc nhau. Ánh sáng đi đến đâu thì sẽ xua tan bóng tối. Người đời thường ưa thích bóng tối là các đam mê tội lỗi hơn là ánh sáng của sự khiêm hạ phục vụ tha nhân. Họ không chấp nhận ánh sáng là Đức Giê-su và còn xuyên tạc các việc tốt Người làm (x. Mt 9,33-34). Họ rình để bắt lỗi từng lời nói việc làm của Người để tố cáo Người (x. Mc 3,2). Cụ thể là phái Pha-ri-sêu và Hê-rô-đê, đã liên minh với nhau để tìm cách triệt hạ Người (x. Mc 3,6). + Kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa: Những người ăn ở lương thiện và công minh chính trực, thì dễ dàng tìm thấy chân lý và sẵn sàng đi theo ánh sáng soi đường là Đức Giê-su. Nhờ đó họ sẽ làm được nhiều việc tốt theo thánh ý Thiên Chúa.

  1. CÂU HỎI: 1) Hãy cho biết đức tin vào Đức Giê-su của ông Ni-cô-đê-mô diễn tiến thế nào? 2) Con rắn trong sa mạc thời kỳ Xuất Hành của Cựu Ước, liên quan thế nào với việc Đức Giê-su chịu chết trên thánh giá thời Tân Ước sau này? 3) Ngày nay muốn được hưởng ơn cứu độ do Đức Giê-su thiết lập, các tín hữu cần những điều kiện nào? 4) Tin vào Con Thiên Chúa cụ thể đòi chúng ta phải làm gì? Tin như vậy ta sẽ được lợi ích nào? 5) Hình phạt dành cho những kẻ cố chấp không tin vào Đức Giê-su sẽ như thế nào? 6) Đức Giê-su đã nói câu gì để mặc khải Người là ánh sáng? Tại sao người đời lại thích bóng tối hơn ánh sáng do Đức Giê-su đem lại? 7) Ai đi theo ánh sáng của Đức Giê-su thì sẽ được những ơn ích nào?

 

II.SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”(Ga 3,15)
  2. CÂU CHUYỆN: RẮN ĐỒNG TRONG SA MẠC

Khi nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô vào lúc đêm tối, Đức Giê-su đã đề cập đến con rắn đồng đã được Mô-sê treo trên cây cột, như một biểu hiệu tình thương của Thiên Chúa tha thứ tội lỗi của dân Ít-ra-en. Tình thương ấy sẽ còn được biểu lộ qua việc Đức Giê-su bị giương cao trên cây thập giá, để những ai tin nơi Người, nhìn lên cây thập giá là biểu hiệu tình yêu tột đỉnh của Người, thì sẽ không phải chết trong tội nữa, nhưng sẽ được Người cứu độ và được tham phần sự sống muôn đời của Người (Ga 3,14-15). Thánh Gio-an đã tóm kết như sau: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).

  1. SUY NIỆM:

1) Thiên Chúa yêu thế gian nên đã sai Con Một xuống cứu độ thế gian:

Đã từ lâu, hình ảnh một con rắn cuộn tròn quanh một cây gậy cũng được ngành y dược thế giới chọn làm biểu tượng của khoa chữa bệnh cho con người. Hình ảnh ấy xem ra cũng rất phù hợp với ý nghĩa của con rắn đồng thời Mô-sê, được treo trên cây cột để chữa lành những ai phạm tội nà bị rắn cắn được khỏi chết. Tuy nhiên chỉ có Đức Giê-su, Đấng đã hiến thân chịu treo trên thập giá, mới thật là linh dược chữa lành mọi bệnh hoạn thể xác và linh hồn của chúng ta.

Khi nói chuyện với ông Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su đã mặc khải về tình thương cứu độ của Thiên Chúa như sau: Để cứu chuộc thế gian đang sống trong bóng tối sự chết, Thiên Chúa đã sai Con Một giáng trần làm Đấng Thiên Sai. Nhờ vâng theo ý Chúa Cha đi con đường “qua đau khổ vào vinh quang”, Đức Giê-su đã chịu khổ hình thập giá để đền tội thay loài người và trở thành Đấng trung gian hòa giải loài người với Thiên Chúa.

2) Điều kiện để nhận được ơn cứu độ của Chúa Giê-su:

Những ai muốn được hưởng ơn cứu độ phải hội đủ mấy điều kiện sau: Một là khiêm tốn nhận mình là tội nhân để ăn năn sám hối và chịu phép rửa tội tái sinh làm con Thiên Chúa nhờ Nước và Thánh Thần. Hai là phải tin Chúa Giê-su, Đấng đã chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho loài người mà con rắn đồng thời Mô-sê là hình bóng. Ba là phải sẵn sàng “bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà đi con đường hẹp leo dốc của Chúa Giê-su”.

Nhờ cùng chết với Chúa Giê-su, họ cũng sẽ được ánh sáng của Người chiếu soi để được tham phần vào sự sống lại vinh quang của Người là được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời.

3) Tin và đi theo con đường thánh giá của Chúa Giê-su:

Cũng như khi bị mắc bệnh nan y, nếu muốn được khỏi bệnh, ta phải đến xin thầy thuốc khám bệnh để tìm nguyên nhân và cho thuốc điều trị. Bệnh nhân chỉ được khỏi bệnh nếu tin vào khả năng của thầy thuốc khám bệnh, nhận toa thuốc và uống thuốc đúng như liều lượng. Cuối cùng còn phải nghe theo lời khuyên của bác sĩ để tránh nguyên nhân gây bệnh về sau. Cũng vậy, khi chúng ta phạm tội mà muốn khỏi bị chết về tâm linh, ta cần tin vào Chúa Giê-su, đi theo đường thánh giá, năng nhìn lên Chúa bị treo trên thánh giá để cầu xin ơn tha tội noi gương người trộm lành xưa (x. Lc 23,40-43). Chắc chắn chúng ta sẽ được ơn Chúa cứu độ và được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời sau.

4) Phải làm gì để được ơn tha tội và chừa bỏ thói hư?:

Mùa chay mời gọi chúng ta nhìn lại để biết mình đang sống trong ánh sáng hay đang ở trong bóng tối sự chết? Chúng ta hãy đến bệnh viện của Chúa là Hội Thánh để kiểm tra sức khỏe tâm hồn, để được Chúa Giê-su chữa lành bênh tật thói xấu là mối tội đầu. Một tác giả vô danh đã kể về cuộc kiểm tra sức khỏe tâm linh của ông ta nơi bệnh viện của Chúa và đã được ơn Chúa chữa lành như sau:

– Đầu tiên khi đo huyết áp cho tôi, bác sĩ Giê-su cho biết tôi bị bệnh thiếu máu Đức Tin và Lòng Bác Ái. Và khi cặp độ, nhiệt kế báo hiệu tôi đang bị sốt cao Ích Kỷ lên tới 40 độ cần phải cấp thời được điều trị.

– Ðiện tâm đồ chỉ ra rằng trái tim của tôi thiếu những rung động Tình Thương, chứng huyết áp cao do mạch máu bị tắc nghẽn vì lớp cholesterone Ganh Ghét và có nguy cơ bị đột quỵ bất cứ lúc nào.

– Tới khoa xương khớp, tôi đã tìm ra nguyên nhân tại sao chân tay của tôi lại hay bị đau nhức khiến đi đứng khó khăn, là do Mỡ Tự Mãn trong máu lên khá cao và chất đạm axit uric do ăn uống thiếu điều độ cũng tăng gấp đôi mức an toàn, nên bị cục Gút ở khuỷu tay rất khó cử động bình thường. Cũng vì thế mà tôi không thể “Đi Bước Trước” để mỉm cười bắt tay người mới gặp hay cố gắng bắt chuyện làm hòa với bà chị dâu khó tính luôn nói hành nói xấu tôi.

– Chứng cận thị Tham Lam làm mờ mắt khiến tôi đánh giá tha nhân dựa trên dáng vẻ bề ngoài như nhà cửa, xe cộ, quần áo… thay vì nhìn vào bản chất và động cơ ẩn giấu trong tâm hồn họ.

– Do quen nghe những tiếng ồn ào của quán nhạc Ka-ra-ô-kê nên một bên tai tôi đã bị Ðiếc Nặng, không còn nghe được hay muốn nghe những lời tâm sự của những người bất hạnh.

Tôi đã được bác sĩ Giê-su tận tình khám bệnh miễn phí do Lòng Thương Xót. Người đã cho tôi một toa thuốc gồm hai loại thuốc đặc trị là Lời Chúa và Thánh Thể, đồng thời khuyên tôi thực hành vật lý trị liệu là Thao Luyện Tâm Linh và làm Công Tác Bác Ái thăm viếng tha nhân.

Tôi quyết tâm trong Mùa Chay này sẽ chữa bệnh theo toa thuốc của Chúa như sau:

Mỗi sáng khi vừa thức dậy, tôi sẽ dùng ngay một ly nước Tạ Ơn Chúa. Trong bữa điểm tâm, tôi uống thêm một thìa súp Nụ Cười Thân Thiện và Chào Hỏi những người tiếp xúc.

Ở cơ quan làm việc, lợi dụng các giờ nghỉ giữa giờ, tôi làm các động tác vật lý trị liệu là Nghĩ Đến Người Khác và Đáp Ứng Nhu Cầu của họ. Trong bữa trưa, tôi không quên uống thêm viên thuốc Nhẫn Nại Chịu Đựng. Buổi tối về nhà, tôi không quên vận động tay chân bằng cách giúp người thân làm các việc nhà biểu lộ Tình Thương Cụ Thể. Rồi trước khi đi ngủ, tôi uống thêm thuốc Sám Hối Tạ Ơn và Cậy Trông Phó Thác trong tay Chúa quan phòng.

  1. THẢO LUẬN: 1) Khi nào ta phạm tội với Thiên Chúa và tha nhânvà phân biệt Tội nặng nhẹ về giống tội, về mức độ phạm và về hình phạt? 2) Có khi nào người ta chỉ phạm tội bằng lời nói mà vẫn có tội nặng hay không? Nêu ví dụ tội nặng về lời nói, việc làm hay bỏ việc phải làm. 3) Khi ý thức mình đã phạm tội, chúng ta cần làm gì noi gương người phụ nữ tội lỗi (x Lc 7,47) hay ông Phê-rô (x Lc 22,61-62),để sớm được giao hòa với Chúa?

5) NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa đã yêu thương chúng con đến cùng, nên đã ban Lời Chúa cho chúng con và dạy chúng con biết cách ăn ở thế nào để nên con thảo của Chúa Cha, và anh chị em của mọi người. Chúa cũng ban bí tích Thánh Thể làm lương thực nuôi dưỡng đức tin trong cuộc hành trình về Nhà Cha trên trời. Chúa còn ban chính mạng sống mình, chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho chúng con. Để mỗi lần lỡ sa ngã phạm tội, chúng con biết tin thác vào tình thương của Chúa và nhìn lên Thánh giá, để xin ơn tha thứ. Trong những ngày Mùa Chay này, xin Chúa giúp chúng con năng suy niệm chặng đàng Thánh giá, chăm chỉ đến nhà thờ suy ngắm mười lăm sự thương khó, tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Chay để cảm nghiệm được tình Chúa yêu thương và quyết tâm chừa cải các thói hư. Nhờ đó, hy vọng chúng con sẽ được biến đổi nên người mới, thành con yêu dấu của Chúa Cha, môn đệ thực sự của Chúa và nhiệt tình làm việc tông đồ là làm chứng cho tình thương của Chúa với ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.