CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN – NĂM B

133

CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN – B

Lời Chúa: Gs 24,1-2a.15-17.18b; Ep 5,21-32; Ga 6, 54a. 60-69

———

 

Năm 2018

Mục lục

1. Tin và trung thành với đức tin (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Bỏ Thầy con biết theo ai? (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

3. Lời Chúa là Lời Hằng Sống (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

4. Lời Hằng Sống  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

5. Chọn lựa căn bản  (Lm. Louis M. Nhiên, CRM)

6. Bỏ Ngài con biết theo ai? (Lm. Đinh Lập Liễm)

7. Đi theo ai  (Lm. Nguyễn Thái)

8. Suy niệm Chúa Nhật 21 Thường niên_B  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

9. Suy niệm Chúa Nhật 21 Thường niên_B.  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

10. Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa  (Fx. Đỗ Công Minh)

11. Quyết bước theo Chúa (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

12. Gắn bó với Chúa Kitô (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang)

13. Lời Chúa là Thần khí và sự sống  (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)

14. Niềm xác tín  (Trầm Thiên Thu)

15. Bỏ Thầy con sẽ theo ai? (Lm. Trần Bình Trọng)

16. Lòng trung thành  (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

17. Suy niệm chú giải lời Chúa – Chúa Nhật 21 TN_B  (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

18. Lòng trung thành.  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

19. Chọn lựa khôn ngoan (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

20. Đức tin sống động  (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

21. Hoang đường   (Lm. Vũ Đình Tường)

22. Cả các anh cũng tính bỏ đi hay sao? (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD)

23. Trao ban sự sống thần linh  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

24. Thanh tẩy bằng Lời Chúa  (Lm. Bosco Dương Trung Tín)

25. Chọn lựa: Một hành vi không dễ  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

26. Chúa Nhật 21 Thường niên_B  (Lm. Antôn)

 

 

Năm 2015.

Mục lục

1. Chọn lựa và trung thành (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)

2. Hành trình đức tin (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Chúa chính là hạnh phúc (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Các con cho Thầy là ai? (Lm. D. Nguyễn Ngọc Long)

5. Bánh Lời Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

6. Trong anh em có những kẻ không tin (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

7. Trung thành hay phản bội  (Văn Hào, SDB)

8. Trung Ngôn Nghịch Nhĩ  (Trầm Thiên Thu)

9. Chúa Nhật 21 Thường niên_B  (Lm. Antôn, giáo xứ thánh Giuse, Tulsa)

10. Mầu nhiệm Giêsu  (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

11. Lời Hằng Sống  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

12. Chúa mới có lời ban sự sống (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

13. Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời (Lm. Đan Vinh)

 

 

TIN VÀ TRUNG THÀNH VỚI ĐỨC TIN

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Tin là chấp nhận một chuỗi những điều xem ra “vô lý” đối với lý trí con người. Chấp nhận sống theo đức tin là giống như người đứng bên này đỉnh đồi lao mình vào vòng tay Thiên Chúa, khi Ngài đứng đỉnh đồi bên kia. Chính vì thế, đức tin phải đi đôi với lòng trung thành và sự tín thác. Nên thánh chính là trung thành với đức tin đã lãnh nhận, và cố gắng mỗi ngày để đức tin ấy được trọn vẹn tinh tuyền nơi cuộc đời chúng ta.

Theo giáo lý của Giáo Hội, “Tín điều” là những điều buộc người tín hữu phải tin. Ai không tin những tín điều đã được Giáo Hội tuyên tín, thì người đó được kể như người không hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội. Trong năm Chúa nhật kế tiếp, Phụng vụ giáo huấn chúng ta về Thánh Thể, khẳng định nơi Hình Bánh và Hình Rượu, có sự hiện diện trọn vẹn của Đức Giêsu. Công đồng Tridentinô ở thế kỷ thứ 16 đã khẳng định sự hiện diện này bằng ba trạng từ: đích thực (vraiment), thật sự (réelle) và theo bản thể (substantielle). Trong Bí tích Thánh Thể, Mình và Máu cùng với linh hồn và thần tính của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô hiện diện. Sự hiện diện này không thể giải thích bằng lý trí.

Trong lịch sử, đã có những phép lạ Thánh Thể cho thấy sau khi truyền phép, Bánh trở nên thịt thật, và những phân tích khoa học cho thấy phần thịt này có những tế bào như thịt người. Tuy vậy, không chỉ có những trường hợp vừa nêu mới là phép lạ, nhưng mỗi khi linh mục cử hành Thánh lễ, đọc lời “truyền phép”, thì phép lạ xảy ra, đó là sự “biến đổi bản thể” của bánh và rượu để trở nên Mình và Máu Chúa Giêsu. Đức tin khẳng định với chúng ta điều ấy.

Cũng trong lịch sử, đã có những ý kiến bất đồng về Thánh Thể và làm cho Bí tích này trở nên một trong những nguyên nhân gây chia rẽ nghiêm trọng giữa các Kitô hữu. Vì Bí tích Thánh Thể là “Mầu nhiệm của đức tin”, nên chỉ có đức tin và sự tuân phục mới giúp ta nhận ra sự cao quý của Bí tích này. Ngay khi Chúa Giêsu nói về Bánh hằng sống, người Do Thái, và ngay cả các môn đệ cũng đã có phản ứng rồi. Vì vậy, thời nào cũng có những người tin và những người không tin vào sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu trong Bí tích này.

Đoạn Tin Mừng được đọc trong thánh lễ hôm nay là phần kết thúc cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và người Do Thái về đề tài Bánh hằng sống. Trước những lời tuyên bố của Chúa Giêsu, một số người thấy chói tai và dần dần bỏ đi. Phần lớn những người này đến với Chúa với ước mong được nhận lãnh bánh nuôi sống thể xác, giống như phép lạ ngoạn mục Người mới làm cách đó vài ngày. Ở đây, Chúa lại nói về một thứ bánh thiêng liêng. Ai lãnh nhận Bánh này sẽ được sự sống đời này và sự sống vĩnh cửu đời sau. Khá nhiều người bỏ đi vì họ coi những điều Chúa Giêsu đang nói là ảo tưởng, phi thực tế. Niềm tin vào Bánh hằng sống cũng vấp phải phản ứng của chính một số môn đệ. Thánh Gioan đã viết một cách buồn bã: “Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa”. Họ đã ra đi trong thất vọng, vì hình ảnh của họ vốn có về Đấng Thiên sai hoàn toàn khác biệt với sứ mạng và giáo huấn thực sự của Chúa Giêsu. Khi đối diện với những thử thách gian truân, người tín hữu được mời gọi bày tỏ lòng trung thành với Người. Lòng trung thành cần phải có để đón nhận những chân lý cao siêu mặc dù chưa lý giải thỏa đáng.

Thánh Phêrô, vị Tông đồ trưởng, đã chứng tỏ lòng trung thành ấy trong bối cảnh có nhiều người bỏ đi. Người ta thường nói ở đời “phù thịnh chứ không ai phù suy”. Phêrô là một người can đảm. Ông đã “phù suy” khi tuyên thệ theo Chúa vào lúc dường như mọi người đã bỏ Người. Ông đã tìm được sự chọn lựa tốt nhất cho đời mình. Theo Chúa là lý tưởng và là sự sống còn của ông, như lời ông nói: “Bỏ Thày thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Có lẽ ông cũng đã đắn đo cân nhắc xem theo Chúa thì được những gì và mất những gì, như có lần ông đã đặt câu hỏi với Thầy mình. Giờ đây, Phêrô như một người từng trải kinh nghiệm chắc chắn trong cuộc đời. Ông khẳng khái tuyên xưng Đức tin vào Chúa, dù mọi người rút lui. Sau này, chúng ta còn được nghe lời tuyên bố của Phêrô trong bữa tiêc ly: “Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng!” (Lc 22,34). Lời tuyên bố này về sau không được tuân giữ, do việc Phêrô chối thày mình ba lần, nhưng không vì thế mà làm giảm lòng nhiệt thành, hăng say và tâm huyết của vị Tông đồ trưởng.

Đời sống Kitô hữu là một lựa chọn. Chúng ta chọn Chúa là lý tưởng của đời sống chúng ta. Trước những cám dỗ và bon chen vì cơm áo gạo tiền, có những lúc chúng ta quên mất sự lựa chọn ấy. Bài đọc I kể với chúng ta, sau khi vào Đất hứa, ông Giôsuê đã tập hợp dân Do Thái ở một nơi gọi là Sikhem để cùng nhau nhìn lại hành trình sa mạc kéo dài 40 năm. Trong hành trình này, người Do Thái gặp nhiều gian nan thử thách. Có nhiều người phạm lỗi với Chúa do kiêu ngạo, ích kỷ và phạm các giới răn. Họ còn thờ lạy  thần linh của các dân ngoại. Tại Sikhem, ông Giôsuê kêu gọi một cuộc thanh tẩy toàn dân, để dứt bỏ quá khứ, bước sang một trang sử mới. Vị thủ lãnh mời gọi dân hãy chọn lựa Chúa và sống theo giới luật Ngài đã truyền ban cho các bậc tổ tiên. “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác”. Lời tuyên xưng của dân chúng thật mạnh mẽ quyết liệt, thể hiện sự gắn bó trung thành với Đấng đã cứu họ khỏi Ai Cập và dẫn đưa họ vào Đất hứa.

Có thể vào những lúc đen tối của cuộc đời, Chúa hỏi chúng ta: “Con có muốn bỏ Thầy mà đi không?”. Xin cho chúng ta có đủ can đảm để thưa như thánh Phêrô: ““Bỏ Thày thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Được như vậy thì thật hạnh phúc cho chúng ta.

Về mục lục

.

BỎ THẦY CON BIẾT THEO AI?

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi  

Cái trớ trêu của con người vẫn là những gì họ nhìn, thấy, rồi mới tin Đặc biệt trên lãnh vực siêu nhiên, mầu nhiệm là điều phải có đức tin mới hiểu được.Người ta không thể dùng lý trí tự nhiên để lý luận, phân tích vv…Tất cả các mầu nhiệm, người Kitô hữu chỉ có thể hiểu nhờ đức tin. Do đó, khi nói tới lương thực, cơm, bánh, con người cảm nhận được liền, nhưng nói tới những gì trên Cung Trăng, trên  Sao Hỏa chẳng hạn, người bình dân rất khó nhận biết!

Chính vì thế, khi nói tới Bánh Trường Sinh, Bánh Ban Sự Sống những người đồng thời với Chúa Giêsu hầu như không hiểu gì ! Các môn đệ cũng rơi vào kinh nghiệm khủng hoảng đức tin ấy…

Thực vậy, khi nghe Đức Giêsu tuyên bố, Người sẽ để lại cho nhân loại, cho con người Thịt và Máu Người, nhiều môn đệ đã phản ứng lại :” Lời này chói tai quá, ai mà nghe được “ ( Ga 6, 60 ). Từ lúc đó, theo thánh Gioan tường thuật :” …Có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa “ ( Ga 6, 66 ). Những người này đã theo Chúa Giêsu một thời gian, đã tin và đã trở thành môn đệ của Người, nhưng họ đã không theo Người tới cùng. Theo Chúa là một hành động chọn lựa hoặc theo Người hoặc chọn những thứ mà thế gian ban tặng: địa vị, danh vọng, của cải vv…Chúa Giêsu đã muốn các môn đệ xác định lại mục đích khi theo Chúa :” Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao ?”.

Vâng, theo Chúa không phải là sự chọn lựa một lần, đó là đòi hỏi xác định lại sự lựa chọn của mình hằng giờ, hằng ngày và mãi mãi chon Người. Có những người đã là con Chúa, nhưng thực tế họ đã không trung thành với Chúa, đã không theo Chúa tới cùng. Bước Đức Kitô là bước vào một cuộc thử thách gay go : trung tín hay bỏ Người giữa đường. Theo Chúa là đòi hỏi đi tới cùng, trung tín với Người mãi mãi.

Tại sao nhóm thứ nhất bỏ đi, nhóm thứ hai ở lại với Chúa tới cùng. Bởi vì, nhóm thứ nhất theo Chúa nhưng còn tính toán lợi hại, theo Chúa nhưng đắn đo tìm kiếm lợi nhuận, tìm kiếm địa vị, danh vọng vv…Nên, khi Chúa nói :” Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời “. Họ rút lui, không theo Chúa nữa vì chẳng hiểu gì, họ tính toán hơn thịêt, bỏ Người không thương tiếc. Còn nhóm thứ hai khi nghe lời khẳng định, tuyên bố của Chúa Giêsu, Phêrô thay mặt các môn đệ khác, đã thưa với Chúa :” Bỏ Thầy chúng con biết theo ai ? “ ( Ga 6, 68 ). Thánh Phêrô và các môn đệ khác đã nhận ra Chúa mới là hạnh phúc đích thực mà họ đang tìm kiếm. Các Ngài tin và xác tin chỉ có “ Thầy mới là Đấng có Lời ban sự sống “ như Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo viết :” Thiên Chúa luôn lôi kéo con người vì nơi Người con người mới tìm được chân lý và hạnh phúc đích thực. Và hạnh phúc đích thực là được sống mật thiết với Chúa “. Phêrô đã nhận ra Chúa là Tình Yêu, Chúa là Đường,Sự Thật và là Sự Sống . Do đó, đứng trước thử thách gay go, Phêrô vẫn tuyên xưng :” Thầy là Đấng Kitoô, Con Thiên Chúa”( Ga 6, 52 ).

Ngày nay, trong cuộc hành trình đức tin theo Chúa, có những lúc chúng ta cũng gặp những thử thách căm go như bị lung lay về đức tin, vì những trào lưu hưởng thụ, những cám dỗ của văn minh sự chết: tiền tài, xác thịt, danh vọng vv…Những lúc đó chúng ta hãy nhìn lên Chúa và thân thưa với Chúa với tất cả tấm lòng :” Bỏ Thầy chúng con biết theo ai ? Vì Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời “.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn biết một niềm tín thác vào Chúa.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Tại sao khi Chúa tuyên bố:” Ta là Bánh Trường Sinh “ lại có những môn đệ rút lui, bỏ Chúa ?

2.Thái độ của Phêrô thì sao ?

3.Chúng ta phải có thái độ nào trước những cám dỗ của thế gian?

4.Bí Tích Thánh Thể giúp chúng ta thế nào ?

Về mục lục

.

LỜI CHÚA LÀ LỜI HẰNG SỐNG

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Từ xưa đến nay, sống trường thọ luôn là mơ ước của toàn nhân loại. Không hiếm các bậc đế vương trong lịch sử hao công tốn của đi tìm kiếm. Hiện nay, dù cho khoa học có rất nhiều tiến bộ, đời sống con người ngày càng phát triển, chất lượng cuộc sống cũng như tuổi thọ được nâng cao, nhưng cái đích cuộc sống bất tử có lẽ còn rất xa con người hay bất cứ ai muốn đạt được điều kỳ diệu ấy. Bất tử, đồng nghĩa với không phải chết, hay sống đời đời.

Phụng vụ lời Chúa hôm nay chỉ cho chúng ta một bí quyết, chọn Chúa thì sẽ được sống tự do, sống vui và sống sống hạnh phục (x. Gs 24, 1-2a. 15-17. 18b), theo Chúa, kết hợp với Chúa thì sẽ được sống đời đời, lời thánh Phêrô khẳng định, “chỉ có Chúa mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (x. Ga 6,68).
Chọn Chúa để được sống

Sinh ra sống ở trên đời, con người được đặt trước những lựa chọn. Chọn cho mình một lý tưởng, một hướng đi là điều rất quan trọng nhất, chọn đúng thì hạnh phúc, chọn sai sẽ có điều ngược lại. Ai trong chúng ta cũng phải đối diện với sự chọn lựa ấy, dân Do thái thời được Giôsuê đặt trước những chọn lựa : ” Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tùy ý chọn thần mà thờ…”. Dân đáp lại : “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Thiên Chúa, mà phụng thờ các thần khác. Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông của chúng tôi lên từ đất Ai Cập, từ nhà nô lệ…” (Gs 24, 15-17). Dân đã chọn Chúa để được sống trong tự do làm con cái Chúa là Chúa sự sống.

Chọn Giêsu Bánh Hằng Sống

Đoạn Tin Mừng hôm nay dẫn chúng ta về Capharnaum, nơi có rất nhiều người theo Chúa Giêsu vì họ đã thấy phép lạ Chúa làm, đặc biệt sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng. Về phương diện xã hội, chính tại nơi đây Chúa Giêsu có nguy cơ “chết vì thành công”, như Tin Mừng mô tả, họ muốn tôn Người lên làm vua (x. Ga 6, 15). Đây là thời điểm quan trọng trong cuộc đời rao giảng của Chúa Kitô. Chính thời điểm này, Người bắt đầu mạc khải rõ nét về về Bánh Hằng Sống là chính Người với những lời xác quyết về sự sống siêu nhiên qua điệp của Người.

Khát vọng của con người là được sống trường sinh. Ngay từ thủa ban đầu, Adam va Evà đã hái và ăn trái cấm, vì tin rằng trái này sẽ làm cho mình sống mãi, không phải chết. Bất tử trên đời này là một điều thú vị và ai cũng khao khát, nhưng xem ra không tìm thấy ở trần gian này.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta ăn và uống chính thịt và máu Người để được sống đời đời. Điều này có nghĩa là chúng ta được mời gọi “ăn” và “uống” không phải một sự vật, nhưng là “ăn thịt và uống máu con người có tên Giêsu” một ngôi vị sống động. Người tha thiết mời gọi chúng ta đến với Người, tin vào Người, ở lại trong Người như thánh Phaolô : “Không còn là tôi sống, nhưng Đức Kitô sống trong tôi” (), nghĩa là ai đón rược Chúa vào trong cuộc đời, được Chúa trở thành xương thịt, thành sự sống cho người ấy. Chẳng những thịt máu Chúa nuôi sống mà Lời Chúa cũng mang lại cho chúng ta sự sống đời đời cho những kẻ nghe Người. Thế nhưng không phải ai cũng có thể lĩnh hội được.

Lời từ miệng Chúa phán ra với đám đông dân chúng khiến Chúa gặp rắc rối với họ, đến nhóm môn đệ Chúa cũng còn nói : “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6, 60).

Một ai đó nói rằng, trong lịch sử Giáo hội, những người vĩ đại giống như những những cây cột không thể phá hủy khi đổ xuống : “Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui không còn theo Người nữa” (Ga 6,66). Chúng ta có thể gục ngã, “bỏ qua”, ra đi, chỉ trích, hay tiếp thu những Lời Chúa Giêsu nói trên vào trong tâm trí chúng ta. Với sự khiêm nhường và tin tưởng, chúng ta hãy thưa với Chúa Giêsu rằng, lạy Chúa chúng con muốn trung thành với Chúa hôm nay, mai ngày và mãi mãi. Xin Chúa giúp chúng ta hiểu rằng thật vô ích khi tranh luận về lời giảng dạy của Thiên Chúa hay Giáo hội nên chúng ta nói với nhau rằng “Tôi không hiểu” ; “Lạy Thầy, chúng ta sẽ đi theo ai?” (Ga 6,68). Chúng ta nên xin một ơn phân định siêu nhiên hơn. Chỉ trong Thiên Chúa và Giáo hội chúng ta sẽ tìm thấy Lời ban sự sống đời đời : “Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,68).

Lời Đức Kitô mang lại sự sống đời đời

Giống như Phêrô, chúng ta biết rằng Chúa Giêsu nói với chúng ta bằng ngôn ngữ siêu nhiên, một ngôn ngữ mà chúng ta phải đồng ý và đồng hóa để hiểu ý nghĩa, nếu không chúng ta chỉ nghe thấy những tiếng ồn không mạch lạc và khó chịu. Giống như Phêrô, trong đời sống Kitô hữu chúng ta có những khoảnh khắc, chúng ta phải tự làm mới và bày tỏ chính mình với Chúa Giêsu để thưa với Chúa rằng chúng con ở với Chúa và chúng con muốn tiếp tục theo Chúa. Phêrô yêu mến Chúa Giêsu, và đó là lý do tại sao ông ở lại với Chúa, những người khác yêu Chúa chỉ vì cơm bánh, trẻ em theo Chúa vì “kẹo”, số người khác vì lý do chính trị đã bỏ rơi Chúa. Bí mật của lòng trung thành là tình yêu và sự tin tưởng.

Chúng ta hãy xin Đức Maria là Đức Nữ trung tín thật thà giúp chúng ta từ bây giờ trung thành với Chúa và với Giáo hội.

Về mục lục

.

LỜI HẰNG SỐNG

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Chúa ban Thịt Máu nuôi hồn,
Bánh thiêng hằng sống, suy tôn Ngôi Lời.
Môn đồ lẩm bẩm nặng lời,
Chói tai bực bội, lạ đời khó nghe.
Số người chán nản lập phe,
Rời Thầy bỏ lối, vào bè rút lui.
Môn đồ trung tín mừng vui,
Có Thầy dẫn bước, tin vui cuộc đời
Lời Thầy thần trí cao vời,
Tuôn ban sự sống, cho người trần gian.
Thần lương Chúa đã thương ban,
Của ăn sức sống, ngập tràn yêu thương.
Tin mừng mạc khải dẫn đường,
Lắng nghe Lời Chúa, hiến chương Nước Trời.
Lời ban sự sống đời đời,
Tự do chọn lựa, gọi mời bước theo.

Chúa phán: Những lời Ta nói với các ngươi là thần trí và là sự sống. Khi Chúa Giêsu kết thúc bài nói về bánh hằng sống, chính là Thịt Máu của Ngài. Ai ăn sẽ được sống đời đời. Có nhiều môn đệ cảm thấy lời đó khó nghe nên lẩm bẩm khó chịu nói rằng: Lời này chói tai qúa. Lời của Chúa làm chói tai, có nghĩa là họ không thể chấp nhận được. Lời Chúa là lời hằng sống có sức thánh hóa và biến đổi tâm hồn. Khi không chấp nhận nó sẽ trở thành một thách thức và gánh nặng.

Thiên Chúa tạo dựng con người, Ngài ban cho những đặc quyền trên muông thú. Ngài ban cho con người có lý trí và có tự do. Có trí khôn để suy xét và có tự do để chọn lựa điều hay lẽ phải. Khi Chúa tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến của chúng ta, nhưng muốn cứu chuộc, Chúa dành cho chúng ta có quyền được lựa chọn.

Truyện kể về bác sĩ Victor France, người Do Thái, khi ông bị bắt giam tại trại tập trung của Đức Quốc Xã. Ông đã bị tước đoạt tất cả và bị lột hết quần áo. Bị kinh bỉ tới cùng tận. Ông không còn gì. Chính trong giây phút đó, ông đã nhận ra rằng ông có một thứ mà không ai có quyền tước đoạt. Ông có toàn quyền chọn cho mình một thái độ. Thái độ chọn lựa là của chính ông. Ông có thể tha thứ hay kết án, bỏ cuộc hay tiếp tục, ghen ghét hay hy vọng. Đây chính là sự lựa chọn và là sức mạnh vô song của con người.

Biết bao vị thánh tử đạo đã chọn lựa con đường theo Chúa. Dù có phải khổ đau, chém đầu, xử giảo hay tù đầy, các ngài vẫn chọn lựa niềm tin trung kiên vào Chúa Kitô. Các Tông đồ xưa sau khi nghe Chúa nói về bánh hằng sống từ trời xuống, các ngài đã chấp nhận và chọn Chúa là Thầy và là Chúa. Các ngài biết rằng chọn Chúa, các ngài sẽ bị bắt bớ, bị cầm tù, bị khinh bỉ và bị giết vì danh Chúa nhưng các ngài luôn xác tín rằng họ sẽ được chung hưởng hạnh phúc đời đời.

Chúng ta cũng có quyền lựa chọn theo Chúa hay không theo. Biết rằng chọn theo Chúa là chọn con đường đi vào sự sống. Theo Chúa thì cần phải quyết tâm và từ bỏ. Quyết tâm sống theo lời Chúa dậy, thực hành các giới răn và tuân theo ý Chúa. Từ bỏ những danh, lợi, thú ở đời để chúng ta cùng vác thánh giá hằng ngày mà theo Chúa. Hãy đặt trọn niềm tin nơi Chúa. Chúa có lời ban sự sống đời đời. Lạy Chúa, bỏ Chúa chúng con biết theo ai.

Về mục lục

.

CHỌN LỰA CĂN BẢN

Lm. Louis M. Nhiên

Một chủ nông trại nọ thuê một người thanh niên đến nhặt khoai tây cho nông trại. Công việc xem ra thật đơn giản: chỉ cần phân loại các củ khoai tây và cho vào sọt. Lớn theo lớn, trung bình theo trung bình, và nhỏ theo nhỏ. Sau một vài ngày làm việc, người thanh niên đến gặp ông chủ và xin nghỉ việc, gương mặt anh hốc hác và mệt mỏi. Được hỏi lý do, anh giải thích như sau: “Công việc ông giao phó không phải là công việc nặng nhọc, nhưng điều làm cho tôi nhức óc đó là phải chọn lựa.” (Lẽ Sống, trang 117).

Đời là một chuỗi những chọn lựa và quyết định. Trước ngưỡng cửa đại học các sinh viên học sinh phải đối diện với những chọn lựa:  Chọn ngành gì, chọn trường nào, bạn cùng phòng với ai? Các bạn trẻ lại phải đối diện với việc chọn lập gia đình hay đi tu, sống độc thân?  Các gia đình chọn sống ở nơi này hay di chuyển đến nơi khác, nên mua nhà hay thuê nhà?

Trong những sự lựa chọn đó, đã có những lần mỗi người chúng ta phải đối diện với những chọn lựa đầy quan trọng có ảnh hưởng chi phối tới cả cuộc sống con người.

Bài đọc thứ nhất và bài Tin Mừng hôm nay đề cập đến một sự chọn lựa căn bản cho cuộc sống người Công Giáo chúng ta: Chọn theo Chúa hay chọn từ bỏ không theo Chúa. Bài đọc thứ nhất ông Giosuê đã nói với dân chúng:  “Nếu các người không muốn tôn thờ Thiên Chúa, các người có quyền chọn lựa… Phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa.” Rồi bài Tin Mừng ghi lại: “Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui không còn theo Ngài nữa,”vì những điều Chúa dạy về phép Thánh Thể làm cho họ chói tai không thể chấp nhận được.

Chọn Chúa đã khó, theo Chúa lại càng khó khăn hơn nữa. Nhiều môn đệ đã không theo Chúa vì đã không hiểu được giáo lý cao siêu về phép Thánh Thể, nhưng ngày nay có những người từ bỏ không theo Chúa không phải vì không hiểu giáo lý cao siêu, nhưng chỉ vì những lý do tầm thường, vì nhu cầu vật chất, vì miếng cơm manh áo.

Khi mới qua Mỹ năm 1975, có cha giảng rằng: “Vì để giữ được đạo, để theo Chúa, chúng ta đã phải bỏ quê hương Việt Nam, sang tị nạn nơi nước Mỹ này, nhưng nếu không cẩn thận để ý, thì chúng ta lại bỏ Chúa vì những nhu cầu vật chất tầm thường.”

Điều này đã đang xảy ra. Cách đây khá lâu, một cha ở Texas chia sẻ rằng người Việt Công Giáo nơi cha đang thi hành mục vụ: “May mà không may.” Khi xin cắt nghĩa, cha giải thích:  “May là họ có nghề may, nhưng không may ở chỗ vì làm nhiều ăn nhiều, may nhiều ăn nhiều nên nhiều người đã may ngày chưa đủ, bỏ ngủ may đêm, may quên giờ nghỉ, rồi bỏ cả đi lễ Chúa Nhật, bỏ quên Chúa.  May mà không may là như thế.”

Chọn Chúa đã khó, theo Chúa lại càng khó hơn nữa nhất là trong xã hội hôm nay. Một lần tôi gặp một chị Việt Nam, trong khi trò chuyện chị cho biết chị là người Công Giáo, nhưng chị không đi lễ Chúa Nhật lý do là chị đã phải đi làm một tuần 6 ngày, còn ngày Chúa Nhật chị ở nhà thu dọn nhà cửa, lo mua đồ ăn cho tuần tới thành ra không có thời giờ đi lễ, nhưng chị vẫn luôn tin nơi Chúa và vẫn giữ đạo tại tâm. Tôi khuyên bảo chị là nên biết ơn Thiên Chúa và cố gắng sắp xếp thời giờ tham dự thánh lễ hàng tuần như một hành động tạ ơn cám tạ Chúa vì muôn ơn lành chị và gia đình đã đang lãnh nhận.

Câu hỏi mà ông Giosuê đã hỏi người Do Thái và câu hỏi Chúa đã hỏi các môn đệ: “Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?” cũng là câu hỏi cho từng người chúng ta hôm nay.  Các người Do Thái đã trả lời không có chuyện bỏ Chúa để thờ thần ngoại vì Chúa đã thương giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ và đã làm nơi họ những điều kỳ diệu, còn thánh Phêrô đã đại diện trả lời: “Bỏ Thầy, chúng con biết đi theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống.”Chúa cũng đã yêu thương kêu gọi chúng ta theo Chúa, cho chúng ta được sống trong đất nước văn minh tự do này, và điều quan trọng chúng ta cần để ý đó là: Tình yêu cũng như niềm tin không thể bị ép buộc, và trước cuộc sống đời đời, không ai, không ai có thể chọn lựa hay quyết định giùm cho chúng ta được trừ chính chúng ta, và Thiên Chúa đã đang chờ đợi câu trả lời bằng cuộc sống của mỗi người chúng ta.

Về mục lục

.

BỎ NGÀI CON BIẾT THEO AI?

Lm. Đinh Lập Liễm

Bài đọc 1 hôm nay thuật lại cho chúng ta biết: vào khoảng năm 1200 trước kỷ nguyên, dân Do Thái đã vượt qua sông Giorđan để vào đất hứa dưới sự hướng dẫn của ông Giosuê. Ông đã triệu tập toàn thể dân chúng lại và nói với họ: ”Hôm nay, các ngươi hãy tùy ý chọn lựa phải tôn thờ ai, Thiên Chúa hay các tà thần?” Toàn dân đã thưa với ông Giosuê: ”Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà tôn thờ những thần ngoại lai, vì Chúa là Thiên Chúa chúng tôi” (Jos 24:1-18).

Trước lời tuyên bố của Đức Giêsu: ”Thịt Ta là của ăn, máu Ta là của uống” thì không những đám dân chúng mà nhiều trong số các môn đệ đã phản ứng như những người Do Thái khác: ”Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi” (Ga 6,60)? Khi nghe Đức Giêsu nói vậy, nhiều môn đệ, tuy được sống gần Ngài một thời gian, cũng rút lui, từ giã Ngài: ”Từ bấy giờ, có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Ngài nữa” (Ga 6,66). Họ đã theo Ngài một thời gian, đã tin, đã trở thành môn đệ, nhưng họ không thể đi tới cùng.

Đứng trước sự tan rã bi đát này, Đức Giêsu quay về Nhóm Mười Hai, những người được coi là thân tín nhất của Ngài: ”Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không?” Thánh Phêrô đã thay mặt cho cả Nhóm nói lên thái độ của họ: ”Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa“ (Jn 6:67-69).

Như vậy, Thánh Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên một lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ, Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Do đó, những lời tuyên bố, quả quyết và khẳng định trong bài giảng về Bánh Hằng Sống này thực sự là theo nghĩa đen thông thường nói về phép Thánh Thể.

Ngày nay người ta nói nhiều đến dấn thân. Dấn thân, nhập cuộc là thân phận của con người. Sống là lựa chọn. Mà chọn lựa là liều lĩnh, vì không bao giờ ta nắm chắc được một cách rành rọt như 2 với 2 là 4 tất cả những lý do lựa chọn và những điều tương lai dành cho sự lựa chọn của ta. Nhưng không vì thế mà ta không dám liều mình. Khi đã dùng trí khôn suy nghĩ, cân nhắc theo như ta có thể, rồi ta cứ tiến bước.

Cuộc đời là một chuỗi những sự lựa chọn. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không lựa chọn được (Ph 1:22-23), còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Và chính sự lựa chọn này sẽ định hướng và đánh giá cuộc đời của mình. Nghĩa là nếu chọn đúng, chọn khéo thì đời mình sẽ tốt, sẽ hạnh phúc; còn nếu chọn ẩu, chọn sai thì cuộc đời sẽ xấu, sẽ bất hạnh.

Nói đến lựa chọn là giả thiết phải có sự tự do trong đó. Nếu ai bị ép buộc phải làm một việc gì ngoài ý muốn thì không còn là tự do lựa chọn nữa, mà là sự bó buộc (ICor 9:17). Chính sự tự do trong lựa chọn làm cho chúng ta phải suy nghĩ, phải day dứt vì phải có trách nhiệm trong việc lựa chọn, phải nhận lấy hậu quả của việc lựa chọn ấy.

Bất cứ cách nào, lựa chọn là phải liều, phải chấp nhận một tương lai bấp bênh, phải chấp nhận hậu quả của việc lựa chọn ấy, mặc dầu phải hy sinh rất nhiều. Trong chọn lựa việc kết hôn, chúng ta sẽ thấy rõ đặc tính của sự lựa chọn ấy: “Nhà anh chẳng chiếu chẳng giường. Chỉ ấm ổ rạ, nàng thương chăng là? Yêu nhau chẳng quản cửa nhà. Chuồng chim cũng lấy, chuồng gà cũng theo.”

Đức Gioan Phaolô II thường khuyên những người đến với Ngài rằng: Chúng con phải lựa chọn. Chọn là một quyết định lớn và quan trọng của đời người. Chúng ta đã chọn. Và chúng ta còn phải tiếp tục chọn, vì đời là một tiến trình, đời là một cuộc đổi mới không ngừng nghỉ. Khẩu hiệu của Đức Gioan 23 là: Giờ đây tôi mới khởi sự (Rev 21:5). Mỗi ngày chúng ta phải khởi đầu với sự lựa chọn.

Mà sự lựa chọn căn bản và quan trọng nhất của cuộc sống là chọn Đấng chúng ta tôn thờ. Chúng ta phải chọn Chúa là thần tượng vì Ngài là một vị thần siêu việt, tuyệt đối đáng tôn thờ. Ta không được bắt chước dân Do Thái xưa thờ con bò vàng thay vì Ngài (Ex 32:1-6). Chính Đức Giêsu cũng khuyên: ”Không ai có thể làm tôi hai chủ… Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mt 6, 24).

Nhưng Thiên Chúa là Đấng vô hình, ta không thể tiếp cận với Ngài, ta cần phải có một thần tượng nào gần chúng ta hơn, vị thần ấy đã nói: ”Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Jn 14:9) và Đấng ấy đã nói: ”Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6).

Sự lựa chọn của chúng ta sẽ mang lại phần thưởng mà Thánh Phêrô và các Tông Đồ xưa đã nhận lãnh, đó là được chia sẻ tấm bánh hằng sống, Mình và Máu Đức Kitô. Được chết đi với Chúa mỗi ngày (ICor 15:31) để được sống lại với Chúa trong hạnh phúc và vinh quang. Chính Thánh Thể là cớ vấp phạm cho các môn đệ khiến họ từ bỏ Chúa, và ngày nay cũng có những người không chấp nhận được mầu nhiệm này. Đây là một lựa chọn quan trọng có liên quan đến cuộc đời mai hậu của ta.

Nhiều môn đệ đã bị thử thách về bí tích Thánh Thể. Trong cuộc sống cũng sẽ có những giây phút chúng ta cũng bị thách đố như các môn đệ, và có thể chúng ta cũng bị cám dỗ từ bỏ Chúa, không theo Ngài nữa. Những lúc đó, chúng ta đừng để mình vấp phạm những lỗi lầm giống như các môn đệ xưa đã vấp phải, nghĩa là đừng chỉ lo chú tâm đến những vấn đề xẩy đến cho chúng ta, mà hãy đưa mắt nhìn vào Đức Giêsu; chúng ta hãy xác nhận lại niềm tin vào Ngài như Thánh Phêrô đã làm: ”Lạy Thầy, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Jn 6:68-69).

Trong ngày chịu phép Rửa tội, Linh mục hỏi chúng ta có từ bỏ ma quỉ và những việc làm của chúng không? Cha mẹ chúng ta hay chính chúng ta đã quả quyết thưa từ bỏ. Ta lại còn tuyên xưng và tin theo Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Chúng ta đã chọn Thiên Chúa là gia nghiệp của mình. Rồi trong mỗi dịp lễ Phục Sinh, từng người chúng ta lại có dịp bầy tỏ sự lựa chọn của mình một lần nữa khi tuyên xưng đức tin và lại tuyên bố từ bỏ ma quỉ và các việc của của chúng.

Chúng ta đã chọn Chúa và chỉ chọn một mình Chúa chứ không thể chọn cả hai, không được thờ hai chủ. Lựa chọn một lần chưa đủ, còn phải lặp đi lặp lại nhiều lần; nó phải được thể hiện qua những lựa chọn nho nhỏ trong mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta chỉ có một sự lựa chọn duy nhất: chọn Chúa. Chọn lựa đúng thì được sống và chọn lựa sai thì chết (Sir 15:16-17; Deut 21:26-28).

Ở đô thị Jaffa xứ Palestina, có một khu đất gọi là khu đất quyết định. Các sông ngòi chảy vào khu đất ấy lưỡng lự một lúc rồi mới chảy sang một trong hai hướng. Những sông ngòi theo một hướng thì chảy vào khu vườn Sharon xinh đẹp. Còn những sông ngoài theo hướng kia thì chảy vào Biển Chết, biển này không có một sinh vật nào sống nổi. Cuộc đời chúng ta cũng thế. Chúng ta phải chọn một hướng, không ai có thể làm tôi hai chủ: “Một nhà hai chủ không hoà. Hai vua một nuớc ắt là không yên.”

Chọn lựa tự do, nhưng chọn lựa lại là giới hạn. Khi đã có một chọn lựa là chúng ta phải biết tự giới hạn mình. Chính Đức Giêsu khi chọn con đường cứu độ nhân loại, Ngài cũng đã phải chấp nhận thân phận giới hạn con người, và cả cái chết nhục nhã trên thập giá như lời Thánh Phaolô trong bài đọc 2: ”Đức Kitô yêu thương Hội Thánh, và phó mình vì Hội Thánh, để thánh hóa Hội Thánh,…ngõ hầu bầy tỏ cho mình một Hội Thánh vinh quang, không vết nhơ, không nhăn nheo…, nhưng thánh thiện và tinh tuyền” (Eph 5:25-27).

Nếu ta bỏ Chúa thì sẽ ra sao? Linh mục nhạc sĩ Thành Tâm đã suy diễn câu hỏi bất hủ của Thánh Phêrô thành một bài thánh ca rất ý nghĩa như sau:

Bỏ Ngài con biết theo ai? Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cách chim bơ vơ trong khung trời lộng gió. Bỏ Ngài con sẽ theo ai, đời lộng gió cánh chim ngàn khơi. Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một con tuyền lao đao trên biển cả mênh mông. Bỏ Ngài con biết theo ai, thuyền buông lái biết trôi về đâu? Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ. Và bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cuộc hành trình cô đơn, buồn bã. Bước đi không Ngài, đời con buồn tênh.

Còn nếu chọn Ngài, thì cuộc đời của chúng ta tuy cũng vẫn là một cuộc hành trình, cũng vẫn như cánh chim bay trong khung trời lộng gió, cũng như một con thuyền giữa biển cả mênh mông; nhưng trong cuộc hành trình ấy, đã có Chúa đồng hành, cánh chim đã biết hướng mà bay, con thuyền đã có người lèo lái và như thế sẽ bảo đảm đi tới bến đò bình an (Lm Carolô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 606-607).

Chọn Chúa, đi theo Chúa, trước mắt là một sự hy sinh, một sự mất mát và bị người đời coi như một sự điên rồ, nhưng như Thánh Phaolô nói thì đó là sự khôn ngoan trước mặt Chúa (ICor 1:24). Có lẽ người ta nói đúng: ”Khôn thế gian làm quan địa ngục, dại thế gian làm quan thiên đàng!”

Bước theo Chúa là phải đi vào con đường khổ giá, phải qua cửa hẹp, nhưng chính con đường hẹp hòi khắc khổ lại đem đến vinh quang. “Xả thân nếu muốn theo Thầy. Vác cây khổ giá hằng ngày mà theo (Lc 9:23).

Về mục lục

.

ĐI THEO AI

Lm. Nguyễn Thái

“Một giọt sương buổi sáng sớm lung linh trên ngọn cỏ, bỗng reo lên “Ôi mát quá!” Nó ngắm nhìn mình thỏa thuê ra vẻ đắc ý vì thấy mình to lớn, rồi tự nhủ: “Ta sẽ đi cho mọi người thấy vẻ đẹp và sự to lớn của ta.” Nó đã đi qua khu rừng đầy cây cối. Những lá cây, ngọn cỏ xin hạt sương chút nước để uống, giọt sương lắc đầu ngạo mạn nói: “Các ngươi dám xin ta sao, liệu các ngươi có uống nổi cả giọt nước của ta không?” Rồi nó kênh kiệu bỏ đi.

Gặp vũng nước đang bị từng đám súc vật hút cạn nguồn sống, giọt sương ngỡ ngàng tiến đến hỏi: “Chị ơi! Chị là ai mà to lớn, đẹp đẽ và quảng đại thế?” Vũng nước đáp: “Tôi chỉ là giọt nước luôn sống cho đi.” Nó đang phân vân tự hỏi “cho đi” là gì nhỉ? Nó lại ngỡ ngàng trước tiếng reo hò của người đánh cá. Vũng nước bảo nó hãy đến mà xem. Giọt sương liền đi và hết sức ngạc nhiên, trước mặt nó là một dòng sông hiền hòa trong vắt, đầy những tiếng cười của bọn trẻ đang nô đùa bơi lội. Giọt sương tiến đến hỏi: “Chị ơi, chị là ai?” Dòng sông khiêm tốn trả lời: “Tôi là những giọt sương bé nhỏ luôn biết cho đi.”

Lúc này giọt sương hối hận và xấu hổ, vì từ lâu nó không hề dám cho đi, không vì kẻ khác. Thấy giọt sương bé nhỏ đau khổ, hối hận, dòng sông dịu dàng bảo: “Đừng buồn nữa em. Hãy xuống đây ở với chị, chị sẽ đưa em đi thăm biển cả.” Lúc đầu giọt sương có vẻ ngần ngại, nhưng sau nó nghĩ: “Thật mình vừa bé nhỏ lại quá kiêu ngạo. Thôi ta hãy tập sống cho đi.” Nó đã chấp nhận cho dòng sông chính bản thân mình. Dòng sông nhận nó trong vòng tay yêu thương và cho nó được đầy tràn. Giữ đúng lời hứa, dòng sông đưa nó ra biển khơi. Được hòa nhập với biển, nó tự nhủ: “Đúng là lúc ta chấp nhận cho đi thì sẽ được đầy tràn, lúc ta biết hy sinh cho người khác là ta được lãnh nhận tất cả” (Minh Hoàng tóm lược, Abba số 54).

“Cảm nghiệm từ giọt sương” trên đây đã nói lên tâm sự của Phêrô và các môn đệ sẵn sàng từ bỏ tất cả mọi sự để theo Chúa Giêsu, sống hiến thân phục vụ Nước Trời: “Thầy ơi! Bỏ Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6: 68).

Đoạn Tin Mừng hôm nay, Ga 6: 60-69, diễn tả một thời điểm quyết định trong đời mục vụ của Chúa Giêsu. Lúc ban đầu rất nhiều người muốn đi theo Chúa, muốn làm môn đệ của Ngài để được ăn bánh no nê, và được chữa khỏi các bệnh tật. Họ mong được của ăn phần xác và sự đảm bảo cho cuộc sống trần thế. Họ chờ đợi một Đấng Thiên Sai sẽ đến để đáp ứng lòng mong ước về vật chất và chính trị của họ.

Nhưng khi Chúa Giêsu muốn biến đổi cái nhìn của họ hướng về đời sống tinh thần và sự sống đời đời: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga 6:51), và khi Ngài muốn mạc khải cho họ biết ý nghĩa đích thực của Đấng Thiên Sai đến để hy sinh và trao ban chính Mình và Máu Ngài, họ liền quyết định từ bỏ Ngài: “Lời này chói tai quá! Ai nghe được” (Ga 6:60).

Sách Giáo Lý Công Giáo số 1336 viết: “Thánh Thể và Thập Giá là những hòn đá vấp phạm. Vẫn là một mầu nhiệm đó, và nó vẫn là dịp của những chia rẽ: ‘Chính anh em cũng muốn bỏ đi sao?’ (Ga 6:67). Câu hỏi này của Chúa vẫn vang lên qua các thời đại, và đó cũng là lời mời gọi chân tình của Ngài thúc giục ta hãy khám phá ra rằng chỉ có mình Ngài có ‘những lời ban sự sống đời đời’ (Ga 6:68), và đón nhận hồng ân của Thánh Thể trong niềm tin là đón nhận bản thân Chúa Kitô.”

Ăn Mình và uống Máu Ngài là trở nên một thân thể với Ngài, là cùng phải chấp nhận một giá trị mới: cho đi và hy sinh bản thân mình cho tha nhân, vì Nước Trời. Đời sống của mỗi người là một sự chọn lựa dựa theo những bậc thang giá trị tối thượng của mình. Những con người ích kỷ chỉ chọn lựa của ăn thể xác, cuộc sống trần gian làm cùng đích (Ph 3:19) thì không thể nào chấp nhận được sự hy sinh để phát triển đời sống tinh thần cho phần rỗi đời đời của mình cũng như của tha nhân.

Dân chúng thời Chúa Giêsu cũng như thời nay, họ chỉ đến với Chúa Giêsu vì cái mà Chúa Giêsu đã làm cho họ, họ không muốn đi xa hơn. Lịch sử Giáo Hội Công Giáo đã ghi lại những công việc truyền giáo ở nhiều quốc gia trên thế giới: Nhiều người bản xứ theo Kitô Giáo vì các nhà truyền giáo ngoại quốc cho họ gạo để ăn, cho ruộng đất để canh tác. Đến khi hết gạo, họ cũng bỏ đạo. Từ đó phát xuất một danh từ mỉa mai là “đạo gạo”!

William Sloan Coffin, đã nói đến sự sai lầm của việc truyền giáo khi nhấn mạnh đến việc thỏa mãn những nhu cầu vật chất và trần thế: “Điều bất ổn trong việc gọi là Phúc Âm hóa của Kitô Giáo tại Mỹ Châu là nó bắt đầu bằng sự ích kỷ – Hãy đến với Chúa Giêsu thì cuộc đời của bạn sẽ được ổn định, sự rạn nứt trong hôn nhân sẽ được hàn gắn, con cái bạn sẽ sống trong sạch – và tôi không thấy được sự hợp lý khi bạn khởi sự rao giảng bằng sự ích kỷ như vậy mà lại kết thúc bằng việc Chúa Giêsu giảng dạy rằng: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống” (Mk 8:35). Có một khoảng cách biệt lớn lao giữa những người đến gặp Chúa để thỏa mãn những nhu cầu của họ và những người đã được gọi theo Ngài để trở thành những môn đệ của Ngài.”

Đang khi có những người bỏ Chúa Giêsu ra đi, thì Phêrô đại diện cho mười hai Tông Đồ là những người đã sống với Chúa lâu hơn, biết Chúa nhiều hơn, đức tin của họ có lẽ cũng mạnh hơn, cho dù có lẽ họ cũng chưa hiểu rõ lắm những lời Chúa đã nói, đã quyết định ở lại với Chúa. Họ chọn lựa con đường hy sinh, bước theo Chúa.

Có một cô giáo tên là Thompson. Thường vào đầu niên học, các thầy cô đều có hồ sơ của các học sinh của mình. Em Teddy Stollard, một trong những học sinh của cô Thompson, đầu tóc rối bù, thường trả lời nhát gừng khi được hỏi tới. Cô đã đọc trong học bạ của em: “Lớp 1, Teddy là một học sinh trung bình. Chưa phát huy hết khả năng. Gia đình em có vấn đề. Lớp 2, Teddy chia trí lo ra, không chịu học bài, mẹ em bị ung thư. Lớp 3, Teddy càng trở nên tệ hơn, không theo kịp các bạn trong lớp. Mẹ em chết. Cha em không để ý đến em. Lớp 4, Teddy sẽ phải ở lại lớp, trừ khi có gì khác…”

Nhân dịp Lễ Giáng Sinh, tất cả học sinh mang quà đến tặng cô giáo, chất đống trên bàn. Teddy cũng mang một món quà được gói kỹ và dán lại trong miếng giấy đi chợ mầu nâu. Cô Thompson mở ra, một cái vòng đeo cổ bằng đá, có những hột đá đã bị đánh mất. Và một nửa chai nước hoa loại rẻ tiền. Cô giáo vừa mở quà ra thì các em khác trong lớp phì cười. Nhưng cô giáo cũng trân trọng đeo chiếc vòng vào cổ và cầm lọ nước hoa giơ lên cao cho các em xem. Sau buổi học hôm đó, Teddy ở lại gặp cô giáo và nói: “Thưa cô, khi cô xức nước hoa vào người cô, em cảm thấy mùi vị giống như của mẹ em. Và cái vòng của mẹ em cũng rất là đẹp trên cổ cô!”

Sau Giáng Sinh, lớp học bắt đầu lại, cô đã thay đổi hoàn toàn, cô dồn hết nổ lực và tâm trí trong việc dạy dỗ học sinh. Cô bắt đầu với Teddy, cho thêm bài tập, dạy kèm riêng. Và đến cuối năm thì Teddy đã theo kịp lớp học và còn vượt xa nhiều em khác.

Nhiều năm sau đó, cô giáo nhận được một lá thư. “Cô Thompson thân mến! Em học rất chăm, em đứng hạng nhì trong lớp. Em muốn cô là người đầu tiên biết tin này.” Vài năm sau, cô lại nhận được một thư khác. “Cô thân mến! Em vừa được nhà trường cho biết là em tốt nghiệp hạng nhất trong lớp em. Em nghĩ rằng cô sẽ vui khi hay tin nầy. Em biết rằng lên đại học thì việc học hành sẽ khó hơn, nhưng em rất thích.” Rồi tám năm sau đó, cô lại nhận được một lá thư nữa: “Cô thân mến! Em vừa tốt nghiệp, em sẽ là Bác sĩ Teddy Stollar, MD. Em xin mời cô đến dự đám cưới của em và đóng vai của mẹ em. Cô giáo đã đi dự đám cưới với vai trò là mẹ của Dr. Teddy. Cô xứng đáng lắm, vì cô đã cho đi cuộc đời cô cho học sinh. Qua sự hy sinh của cô, cuộc đời của các em học sinh đã thay đổi. Hy sinh và cho đi là lý tưởng chung của tất cả mọi người Kitô hữu, môn đệ Chúa Kitô.

Một ngày nọ, một nữ tu đến hỏi Thánh Catherine rằng: “Làm thế nào con có thể đền đáp lại cho Chúa tất cả những sự tốt lành của Ngài đã làm cho con? Làm thế nào con có thể vinh danh Ngài vì tất cả lòng nhân từ, thương xót và bao dung của Ngài?” Thánh Catherine đã trả lời: “Dù con có làm bất cứ việc ăn năn sám hối nào, con cũng sẽ không cảm thấy đủ. Dù con có xây lên một ngôi nhà thờ chánh tòa, thêm giờ im lặng cầu nguyện, con cũng không cảm thấy đủ. Nhưng mẹ nói với con một điều con có thể làm để đền đáp tình yêu của Chúa đã yêu con: Đó là con hãy tìm một người thật khó thương giống như con và ban tặng cho người đó một loại tình yêu giống như Thiên Chúa đã ban cho con.”

Lời khuyên của Thánh Nữ Catherine cũng khó nghe và khó thực hiện nữa! Nhưng đây là ý nghĩa của việc chia sẻ Mình và Máu Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Không thể nói đến tình yêu đích thực, mến Chúa – yêu người, nếu không có sự hy sinh lẫn cho nhau.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Tin mừng Chúa nhật hôm nay ghi lại phần cuối trong bài giảng của Chúa Giêsu về bánh hằng sống và những phản ứng của thính giả trong hội đường Capharnaum. Hôm đó thành phần tham dự nghe bài giảng của Chúa Giêsu đa số là dân chúng, còn có một số môn đệ và 12 tông đồ. Ở đây thánh sử Gioan muốn nói đến phản ứng của các môn đệ và các tông đồ.

Có 2 phản ứng trái ngược nhau:

– Thái độ không tin, không chấp nhận giáo lý của Chúa Giêsu vì họ không hiểu, không nhận ra nguồn gốc thần linh của Chúa Giêsu. Nhóm này gồm đa số dân chúng và một số môn đệ. Họ tranh luận với nhau: “Lời này chói tai quá! Ai nghe được!”. Họ hiểu lời Chúa giảng về bánh hằng sống hoàn toàn theo nghĩa vật chất, nên họ cho là chói tai, họ lẩm bẩm kêu trách và xúc phạm. Thánh Gioan ghi nhận cụ thể rằng: “Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui không còn theo Người nữa”.

– Thái độ tin và chấp nhận lời rao giảng của Chúa Giêsu. Sau khi thấy phản ứng cứng lòng của các môn đệ, Chúa Giêsu nói với các tông đò, xem các ông phản ứng ra sao: “Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không?”. Phêrô đã đại diện anh em tông đồ bày tỏ niềm tin vào Thầy mình: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.

Phêrô cùng với anh em tông đồ tin vào Chúa Giêsu bởi các ông xác tín Thầy mình là Đấng Messia: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Ở đây chúng ta thấy các tông đồ cũng nghe những lời mà các môn đệ cho là chói tai, nhưng các ông không vấp phạm mà còn cảm thấy không thể bỏ Thầy được, vì các ông tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, chỉ có Thiên Chúa mới có thể trở nên thần lương ban cho nhân loại sự sống đời đời: “Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu Tôi sẽ được sống đời đời”.

Sống trong một thế giới vô thần, duy vật, tục hóa và hưởng thụ. Một xã hội có nhiều mâu thuẫn đối nghịch với Tin mừng, với đạo Công giáo, chống lại Thiên Chúa, loại bỏ những giá trị thánh thiêng. Lời Chúa hôm nay đòi hỏi người tín hữu phải dứt khoát chọn lựa: chọn Chúa hay thế gian, sống theo tinh thần của Chúa hay tinh thần thế tục, đi theo Chúa hay theo ma quỷ.

Sống là phải chọn lựa, chọn lựa là hy sinh và từ bỏ. Như thế, hành vi chọn lựa không phải dễ dàng, luôn phải trả giá. Chọn lựa một nghề để mưu sinh, chọn lựa một người bạn đời hay chọn lựa cuộc sống tu trì, chọn một lý tưởng… không phải là chuyện đơn giản, tin theo Đức Giêsu lại càng nhiêu khê và đòi nhiều hy sinh…

Dân Do Thái thời cựu ước cũng đã trải qua cuộc chọn lựa dứt khoát: Theo Chúa, tôn thờ Thờ Chúa hay tôn thờ các thần khác. Trong bài đọc I, Giôsuê nói với toàn thể dân Irael: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tùy ý chọn thần mà thờ… Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Thiên Chúa”. Dân đáp lại:“Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Thiên Chúa, mà phụng thờ các thần khác. Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông của chúng tôi lên từ đất Ai Cập, từ nhà nô lệ…”.

Cũng như dân Do Thái xưa, người Kitô hữu chúng ta không có ý lìa bỏ Thiên Chúa vì Người đã giải thoát chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi. Nhưng trong cuộc sống thực tế có thể nhiều lần chúng ta đã lìa bỏ Thiên Chúa khi không tuân theo lề luật Chúa, không giữ lời Người, phạm tội, sống bất công với anh em.

Có thể chúng ta “không hề có ý lìa bỏ Thiên Chúa”, không theo chủ nghĩa vô thần, nhưng lại là những người “vô thần thực sự”, nghĩa là sống như không có Thiên Chúa, vì thực tế đã không sống theo lời Chúa dạy, không sống đạo chân thành “Có đạo mà không sống đạo”. Thậm chí có những người vẫn “giữ đạo” qua việc tham dự thánh lễ, rước lễ, đọc kinh… Nhưng lại không “hành đạo” trong cuộc sống hàng ngày qua việc thực hành lời Chúa, việc bác ái, phục vụ tha nhân. Nói cách khác, chúng ta chưa dứt khoát chọn lựa Thiên Chúa, chưa yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN_B.

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Bài Tin Mừng hôm nay được coi như đoạn kết cho một câu chuyện tương đối dài trong TM của Gioan. Câu chuyện bắt đầu bằng một phép lạ rất đặc biệt được cả bốn Tin Mừng ghi lại. Đó là phép lạ bánh hóa nhiều. Sau phép lạ Chúa giảng một bài giảng rất đặc biệt với đề tài cũng rất đặc biệt. Đó là bài giảng về bánh hằng sống. Bài giảng này đã gây ra một sự phân hoá chưa từng thấy trong thái độ của những người nghe Chúa lúc đó. Ngoài thái độ của những kẻ đã có sẵn một ác ý và luôn thù nghịch với Chúa, chúng ta còn có thể thấy ba thái độ rất khác nhau về vấn đề này.

1. Trước hết là thái độ của đa số quần chúng.

– Được Chúa cho ăn bánh no nê, họ cảm thấy vui. Hơn nữa họ còn muốn tôn Chúa lên làm vua để cai trị họ, với hy vọng họ sẽ có được một tương lai sáng sủa và oai hùng hơn.

– Chính vì quá mong mỏi một tương lai có tính cách trần thế như vậy cho nên khi thấy Chúa không đáp ứng được những mong ước của mình, dân chúng đã bắt đầu lạnh nhạt với Chúa. Khi Chúa nói với họ về một thứ bánh mà Chúa gọi là bánh hằng sống thì họ tỏ ra lãnh đạm lạ thường. Thái độ đó dần dần đã làm cho họ trở thành những người sẵn sàng đối đầu với Chúa sau này.

2- Thái độ thứ hai là thái độ của một số các môn đệ. 

– Lý ra thì họ phải là những người hiểu Chúa, tha thiết với Chúa nhiều hơn. Cho dù những lời Chúa giảng có khó chấp nhận thì họ cũng phải luôn gắn bó với Chúa. Thế nhưng thật không may cho Chúa, Chúa mới chỉ đề cập đến một vấn đề hơi khó hiểu một chút thế mà họ đã bỏ Chúa, bỏ một cách không một chút nuối tiếc. Charles Erdman bảo họ bỏ Chúa vì họ thất vọng. Họ thất vọng vì Chúa không trở thành một nhà lãnh đạo chính trị như lòng họ vẫn thầm mong.

– Trước sự ra đi của họ, xem ra Chúa hơi đau xót một chút nhưng Chúa vẫn giữ nguyên thái độ và không chịu lùi bước.

3- Thái độ cuối cùng là thái độ của nhóm 12.

– Sau khi một số các môn đệ bỏ đi, Chúa hướng mắt của Người về nhóm 12.

– Phêrô đại diện cho tất cả nhóm nói lên một lời mà cho dù không phải là Chúa chúng ta cũng dư biết là Chúa rất vui lòng.

– Thái độ của Phêrô làm Chúa cảm động. Phêrô đã dứt khoát chọn Chúa… Một chọn lựa không có gì làm cho ông thay đổi.

B- Vấn đề của ta: Tại sao cùng đứng trước một Chúa Giêsu mà lại có nhiều thái độ khác nhau như thế? Tại vì những lời Chúa nói và vấn đề Chúa đặt ra khó tin quá.

+ Dân chúng không hiểu được vì họ không muốn hiểu.

+ Một số môn đệ không những đã không muốn hiểu mà còn cho đó là những lời quá chói tai nghe không được nên họ bỏ đi.

+ Chỉ còn lại một nhóm nhỏ tuy không hiểu nhưng vẫn tin và vẫn chấp nhận. Họ chấp nhận bởi vì họ cảm thấy không thể bỏ Chúa. Lòng tin của họ rất chân thành. Niềm tin của nhóm 12 chẳng khác gì niềm tin của Giosuê thuở xưa trong thời Cựu ước. Tại Sikem nơi mà trước đây Abraham đã dựng bàn thờ đầu tiên để dâng đất Canaan này cho Thiên Chúa (Kn 12,6), nơi mà Giacob và con cái của ông đã để lại rất nhiều kỷ niệm (Kn 33;35), nơi mà trước đây ông đã chọn để tuyên bố luật pháp. Chính tại nơi đây một lần nữa Giosuê biểu lộ lòng trung thành của ông và gia đình ông. Ông nói với những người Do thái như thế này: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ ĐỨC CHÚA, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần khác mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người E-mô-ri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC CHÚA.”

Vâng đó là một chọn lựa thật đẹp, đẹp trong thái độ của ông và gia đình ông, và còn đẹp cả ở trong ý nghĩa nữa: “Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC CHÚA.”

Giosuê quả xứng đáng là một nhà lãnh đạo. Lòng tin và lòng trung thành của ông đã trào qua và thấm vào lòng của toàn dân. Dân chúng cũng cảm thấy họ không thể chọn con đường nào khác. Họ đã đáp lại: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ ĐỨC CHÚA để phụng thờ các thần khác! Vì chính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua. ĐỨC CHÚA đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người E-mô-ri ở trong xứ. Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ ĐỨC CHÚA, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi.”

Đó là những gì đã xẩy ra từ ngàn xưa, cách chúng ta cả gần 3000 năm.

Thế còn bây giờ thì sao?

Vào năm 1924 ở nước Anh, có một người tên là Eric Liddell. Eric Liddell là vận động viên xuất sắc trong môn chạy 100 mét. Mọi người đều hy vọng anh sẽ đem về cho quê hương chiếc huy chương vàng tại đại hội Olympic được tổ chức tại Paris nước Pháp năm đó. Nhưng rồi họ ngỡ ngàng bực tức khi nghe tin anh từ chối không tham dự đại hội đó. Lý do là vì đại hội đó tổ chức nhằm ngày Chúa nhật. Anh không thể bỏ lễ Chúa nhật để đi tìm một huy chương vàng. Mọi người đều gây sức ép trên anh. Cả hoàng tử xứ Walles cũng cố gắng thuyết phục anh đi dự đại hội đó. Thế nhưng anh nhất định không chịu đổi ý, báo chí Anh quốc cho anh là tên phản bội.

Vài năm sau, anh còn làm cho mọi người sửng sốt hơn nữa, khi anh đến Trung Hoa làm trong vai trò của một nhà truyền giáo.

Thế rồi thế chiến thứ hai xảy ra. Khi Nhật nhả̉y vào cuộc chiến, anh bị bắt và bị giam trong một trại tập trung. Tại đây anh vẫn tiếp tục việc mục vụ bên cạnh các tù nhân. Vài năm sau, anh đã anh dũng chết tại trại tập trung nầy. Năm 1980, có người đã dựng lên cuốn phim về cuộc đời hy sinh vì Chúa của anh. Cuốn phim tựa đề là “Chuyến xe chở lửa”.  Cuốn phim đã phá kỷ lục về lợi nhuận mà còn đoạt giải thưởng Hàn Lâm năm 1982.

Cuộc đời của Eric Liddell đã làm sáng tỏ thái độ dứt khoát mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi các môn đệ của Ngài trong bài Tin Mừng hôm nay

Một khi đã quyết định theo Chúa Giêsu, Eric cứ nhắm thẳng phía trước mà tiến bước, không bao giờ ngó lại phía sau dù phải đối diện với áp lực khủng khiếp của dân chúng, dù bị gọi là tên phản bội.

Bí quyết nào giúp anh can đảm, trung thành bền đỗ đến thế?

Anh luôn thức dậy sớm mỗi ngày, suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện. Đó là bí quyết của anh. Và chắc chắn đó cũng là bí quyết cho chúng ta, nếu chúng ta muốn làm môn đệ Chúa bền vững. Và “ai bền đỗ dến cùng sẽ được cứu thoát” (Theo “Sunday  homilies”).

Về mục lục

.

THẦY LÀ ĐẤNG THÁNH CỦA THIÊN CHÚA

Fx Đỗ Công Minh

        Bài  Tin mừng hôm nay thuật lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với các môn đệ  ngay tại hội đường Cac-pha-na-um sau khi  nghe Người nói: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì được sống muôn đời “. Lời Chúa nói họ không tin và không thể hiểu, thậm chí còn lớn tiếng phê phán “ Lời này chướng tai quá , ai mà nghe nổi “, không ít người khác xầm xì, dè bỉu. Người biết các ông, không phải chỉ là đám đông theo Người, mà chính là những môn đệ ít nhiều đã đi theo Chúa, nhưng các ông không thể tin vào Lời Chúa nói về chính thân thể Người là máu, là thịt,  là của ăn để con người phải dùng hầu được sống đời đời. Đức Giêsu đã lên tiếng về việc này : “Thầy đã bảo với anh em: không ai đến được với Thầy, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho “,  và cuối cùng số đông bỏ đi chỉ còn nhóm mười hai, những người kiên trung ở lại.

        Quả thật, việc các môn đệ thấy chướng tai khi nghe Lời Chúa nói với các ông, họ không có được cái nhìn đức tin. Họ chỉ nghĩ theo trí hiểu của con người trần gian, làm sao dám ăn thịt và uống máu  người đồng lọai với mình? Chúa không trách họ. Họ không thể hiểu “Chính Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống“.Và không chỉ các môn đệ ngày ấy không tin, bỏ đi, mà cho đến hôm nay số người chưa tin vào Lời Chúa vẫn còn là số đông trên thế giới này .

       “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” Câu hỏi mà Đức Giêsu đặt ra cho nhóm Mười hai cũng là đặt ra cho mỗi người chúng con đây. Con đang sống trong một thế giới mà nhiều người  vin vào chủ thuyết duy nghiệm, đòi hỏi bất cứ việc gì cũng phải kiểm nghiệm bằng mắt thấy, tai nghe, tay sờ được, cảm nhận được qua các ngũ quan thì mới tin, còn ngòai ra thì bỏ ngòai tai những lời dạy của Hội Thánh đã được Thiên Chúa mạc khải qua Đức Giêsu Kitô, nên nhiều người hôm nay cũng cảm thấy chướng tai khi nghe Lời Chúa Trong Thánh Kinh.

         Phần chúng con, những người được đón nhận Tin Mừng của Chúa qua các Tông đồ, qua Giáo hội Công Giáo tông truyền, chúng con tin rằng “Không ai đến được với Thầy (Đức Giêsu), nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho “.Tuy thế, lòng tin của con hầu như vẫn còn mỏng dòn, do dự, vẫn còn yếu ớt, ngờ ngợ. Con có dám mạnh dạn như Tông đồ Phêrô tuyên xưng :”Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời ” ? Con có dám nói những lời mà Thánh Phaolô đã từng nói “Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là chính Chúa sống trong tôi “ ?

        Xin cho con biết lắng nghe và đón nhận Lời Chúa. Xin giúp con nhận ra rằng đón nhận Lời và Thánh Thể chính là con được ăn thịt và uống máu Người.  Con được đón nhận Bánh Trường sinh, là lương thực nuôi dưỡng linh hồn con. Nhiều lần con cũng đã từng bỏ đi khi nghe được tiếng Chúa nhắc nhở, vì những cám dỗ của trần thế, vì sự yếu đuối  cuả bản thân mà con tỏ ra thái độ “Lời này chướng quá “ . Chính vì lòng tin cuả con còn non yếu. Xin Chúa ban thêm đức tin cho con để con có thể thưa lên như Thánh Phêrô Tông Đồ: “ Phần chúng con, chúng con đã tin nhận và biết rằng chính Thầy là đấng Thánh của Thiên Chúa “. AMEN.

Về mục lục

.

QUYẾT BƯỚC THEO CHÚA

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP

          Bốn bài giảng liên tiếp về Bánh Hằng Sống của Đức Giêsu đã tạo ra nhiều phản ứng nơi những cử toạ Do thái. Khi Ngài tiết lộ cho họ biết Ngài có Bánh hằng sống, ăn vào sẽ không đói khát nữa, họ bèn xin Ngài cho họ thứ bánh đó. Tiến thêm một bước, Ngài cho họ biết Bánh đó chính là Ngài từ trời xuống, họ có phản ứng chống lại ngay vì họ cho rằng Ngài chỉ là con bác thợ mộc Giuse ở Nazareth, làm sao lại có chuyện đó được ?  Nhưng khi Đức Giêsu cho họ biết Bánh Hằng sống đó chính là thịt máu Ngài, phải ăn thì mới có sự sống trong mình, thì họ có phản ứng kịch liệt vì họ cho đây là một việc tởm gớm, không thể chấp nhận được. Thậm chí cả một số môn đệ cũng có phản ứng tương tự :”Lời này chướng tai quá, ai mà nghe đuợc”. Kết quả là một số môn đệ bỏ đi, không theo Ngài nữa.

          Sau thất bại tàn tệ đó, Đức Giêsu quay sang nhóm Mười Hai, là những người thân tín nhất,  xem họ có thái độ thế nào ?  Rất may, ông Phêrô đã thay mặt cho nhóm Mười Hai thưa ngay với Ngài rằng:”Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Như vậy, các Tông đồ đã tin vào lời Chúa và quyết tâm theo Ngài.

          Ngày nay, trước mầu nhiệm Thánh Thể, vẫn còn có những người có thái độ như dân Do thái và một số môn đệ xưa : họ không tin nhận phép Thánh Thể vì họ cho là một việc phi lý, một sự bầy đặt. Còn chúng ta, chúng ta hãy học theo gương thánh Phêrô và các Tông đồ mà tuyên xưng đức tin và quyết tâm theo Chúa đến cùng, mặc dầu việc tin theo đó đòi hỏi nơi chúng ta nhiều từ bỏ, nhiều hy sinh.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

          + Bài đọc 1 : Gs 24,1-18.

          Sau khi ông Maisen qua đời, ông Giosuê lãnh nhận trách nhiệm lãnh đạo dân chúng và đưa họ vào Đất Hứa. Sau khi chinh phục được Đất Hứa và chia phần đất cho từng chi tộc, ông Giosuêâ tập họp dân chúng lại tại Sikem và đòi họ phải tuyên bố dứt khoát lập trường : tin theo Đức Chúa và trung thành với Giáo ước của Ngài hay tin theo các thần của dân ngoại ở Babylon hay các thần của xứ sở mà họ vừa chiếm cứ ?

          Toàn dân dứt khoát và đồng bộ chọn Thiên Chúa, Đấng đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai cập. Từ nay họ sẽ trở thành dân riêng của Đức Chúa, trung thành thi hành giao uớc đã ký kết với Ngài ; và từ nay sự hiệp nhất sẽ phát xuất từ một niềm tin chung vào Giavê Thiên Chúa.

          + Bài đọc 2 : Ep 5,21-32.

          Bài đọc hai chỉ là đề tài phụ nhưng nói lên mối dây chặt chẽ giữa các tín hữu với Chúa Kitô. Chắc chắn thánh Phaolô biết đề tài Kinh Thánh về lễ cưới giữa Thiên Chúa và dân Ngài, và một cách tự nhiên, ngài nói sang hôn lễ giữa Đức Kitô và Hội thánh để nhấn mạnh rằng chính nơi Đức Kitô mà tình yêu Thiên Chúa đối với dân Ngài đã đến mức viên mãn.

          Theo đó, giáo huấn của thánh Phaolô về đạo vợ chồng có 2 điểm :

  1. a) Vợ phải phục tùng chồng như Hội thánh tùng phục Đức Kitô.
  2. b) Chồng phải yêu thương vợ như Đức Kitô thương yêu Hội thánh và như người ta yêu thương thân xác mình.

          Kiểu nói của thánh Tông đồ Dân ngoại có thể gây ngỡ ngàng cho người nghe, nhưng sẽ không gây khó chịu  và có thể chấp nhận được khi qui chiếu về Tình yêu giữa Chúa Kitô và Hội thánh.

          +. Bài Tin mừng : Ga 6,60-69.

          Sau bài giảng về Bánh Hằng Sống với lời khẳng định quyết liệt của Đức Giêsu :”Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống”(Ga 6,55), sự cứng lòng tin của người Do thái lây sang cả nhóm các môn đệ. Họ cảm thấy chướng tai vì những lời quá táo bạo, đảo lộn hết cả mọi quan niệm của họ từ trước đến giờ.

          Bị đặt trước giờ phút phải lựa chọn : tin hay không tin, theo hay rời bỏ ? Nhiều người Do thái không tin và cùng với một số môn đệ cũng rời bỏ Ngài. Nhưng Đức Giêsu không rút lại  điều gì trong lời khẳng định của Ngài.

          Nhưng một câu hỏi được đặt ra một cách đột ngột cho các Tông đồ :”Cả các con nữa, các con cũng muốn bỏ đi hay sao”(Ga 6,67) ? Thánh Phêrô đã đại diện cho nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin một cách tuyệt vời :”Lạy Thấy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai ? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”(Ga 6,68).

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

                                                Bỏ Ngài con biết theo ai ?

          Cả bốn bài Tin mừng của bốn Chúa nhật trước và bài Tin mừng hôm nay là phần cuối bài giảng của Đức Giêsu về Bánh hằng sống. Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết thái độ và phản ứng của các thính giả, cách riêng của các môn đệ và đặc biệt của các Tông đồ.

I. CÂU CHUYỆN LỰA CHỌN.

  1. Dân Do thái chọn Thiên Chúa.

          Bài đọc 1 hôm nay thuật lại cho chúng ta biết : vào khoảng năm 1200 trước kỷ nguyên, dân Do thái đã vượt qua sông Giorđan để vào đất hứa dưới sự hướng dẫn của ông Giosuê. Sau khi chia đất đai cho các chi tộc, ông cảm thấy phải đau lòng truớc sự ngỗ nghịch phản bội của dân Do thái, ông đã triệu tập toàn thể dân chúng lại, truyền cho các kỳ lão, thủ lãnh các gia tộc, các quan án, các sĩ quan đến trước tôn nhan Chúa, rồi ông  nói với họ:”Hôm nay, các ngươi hãy tùy ý chọn lựa phải tôn thờ ai, Thiên Chúa hay các tà thần”? Toàn dân đã biết hối cải, chừa bỏ tội lỗi và đồng thanh quyết định chọn Thiên Chúa để tôn thờ Ngài, khi thưa với ông Giosuêâ â:”Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà tôn thờ những thần ngoại lai, vì Chúa là Thiên Chúa chúng tôi”.

          Dân Do thái hồi tưởng lại biết bao ơn lành Chúa đã ban cho họ, đã cứu họ thoát ách nô lệ Ai cập. Ngài đã làm biết bao việc kỳ diệu, những phép lạ do cánh tay hùng mạnh của Ngài; Ngài đã thi thố biết bao ơn phúc khi dẫn đưa dân tộc họ vào Đất hứa, đất chảy sữa và mật mà Chúa đã hứa với cha ông họ. Mặc dầu họ phản bội, Chúa vẫn luôn rộng lòng tha thứ, yêu thương chờ đợi họ trở lại để tôn thờ Ngài. Chúa đã chấp nhận lòng sám hối của họ khi họ đồng tâm từ bỏ tà thần, trở lại chọn Chúa để tôn thờ Ngài. Dân Do thái đã quyết định và lựa chọn đúng.. Nhưng thực sự, dân Do thái có trung thành với lời giao ước mà họ đã ký kết khi quyết định chọn Chúa để tôn thờ Ngài hay không ? Lịch sử dân Do thái đã trả lời cho câu trả lời này.

  1. Lựa chọn và tin theo Đức Giêsu.

a) Thái độ của dân Do thái.

          Trong suốt bài giảng Đức Giêsu nói về Bánh hằng sống, chúng ta thấy các thính giả có những phản ứng  như sau :

          – Khi Đức Giêsu nói với họ phải tin vào Ngài thì dân chúng thưa với Ngài:”Vậy thì ông làm dấu gì cho chúng tôi thấy mà tin ông ? Ông làm gì nào” (Ga 6,30).

          – Khi Ngài hứa ban bánh sự sống thì dân chúng thưa Ngài :”Thưa Ngài, hãy luôn luôn cho chúng tôi bánh ấy”(Ga 6,34).

          – Khi Ngài tự xưng là Bánh bởi trời thì họ kêu ca :”Ông ấy lại không phải là Giêsu con ông Giuse đó sao ? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết ! Làm sao bây giờ ông ấy dám nói : Ta từ trời xuống”(Ga 6,40-42) ?

          – Khi Ngài phán:”Bánh Ta sẽ ban, chính là thịt mình Ta”. Lúc này người Do thái mới la lối rùm beng lên:”Làm sao ông ấy có thể cho chúng ta ăn thịt mình được”(Ga 6,52).

          Đọc tất cả những cảm nghĩ đó ta thấy rằng trong giới thính giả, một số người lưỡng lự, một số dứt khoát bỏ Chúa, không nghe Ngài nữa (Trần văn Khả).

b) Thái độ của các môn đệ.

          Trước lời tuyên bố của Đức Giêsu :”Thịt Ta là của ăn, máu Ta là của uống” thì không những đám dân chúng mà nhiều trong số các môn đệ đã phản ứng như những người Do thái khác:”Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi”(Ga 6,60) ? Khi nghe Đức Giêsu nói vậy, nhiều môn đệ, tuy được sống gần Ngài một thời gian, cũng rút lui, từ giã Ngài:”Từ bấy giờ, có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Ngài nữa”(Ga 6,66). Họ đã theo Ngài một thời gian, đã tin, đã trở thành môn đệ, nhưng họ không thể đi tới cùng.

c) Thái độ của Nhóm Mười Hai.

          Đứng trước sự tan rã bi đát này, Đức Giêsu quay về Nhóm Mười Hai, những người được coi là thân tín nhất của Ngài. Vậy phản ứng của họ thế nào trước câu hỏi của Đức Giêsu:”Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không”?  Thánh Phêrô đã thay mặt cho cả Nhóm nói lên thái độ của họ:”Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai ? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng : Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên  Chúa “ (Ga 6 , 70).

          Như vậy, thánh Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên một lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ , Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Do đó, những lời tuyên bố, quả quyết và khẳng định trong bài giảng về Bánh Hằng Sống này thực sự là theo nghĩa đen thông thường nói về phép Thánh Thể.

II. LỰA CHỌN VÀ TIN THEO.

  1. Nói về sự lựa chọn.

          Ngày nay người ta nói nhiều đến dân thân. Dấn thân, nhập cuộc là thân phận của con người. Sống là lựa chọn. Mà chọn lựa là liều lĩnh, vì không bao giờ ta nắm chắc được một cách rành rọt như 2 với 2 là 4 tất cả những lý do lựa chọn và những điều tương lai dành cho sự lựa chọn của ta. Nhưng không vì thế mà ta không dám liều mình. Khi đã dùng trí khôn suy nghĩ, cân nhắc theo như ta có thể, rồi ta cứ tiến bước.

          Cuộc đời là một chuỗi những sự lựa chọn. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra  và cái chết là người ta không lựa chọn được, còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Và chính sự lựa chọn này sẽ định hướng và đánh giá cuộc đời của mình. Nghĩa là nếu chọn đúng, chọn khéo thì đời mình sẽ tốt, sẽ hạnh phúc; còn nếu chọn ẩu, chọn sai thì cuộc đời sẽ xấu, sẽ bất hạnh.

          Nói đến lựa chọn là giả thiết phải có sự tự do trong đó. Nếu ai bị ép buộc phải làm một việc gì ngoài ý muốn thì không còn là tự do lựa chọn nữa, mà là sự bó buộc. Chính sự tự do trong lựa chọn làm cho chúng ta phải suy nghĩ, phải day dứt vì phải có trách nhiệm trong việc lựa chọn, phải nhận lấy hậu quả của việc lựa chọn ấy.

Truyện : thần Hercule.

          Theo truyện thần thoại của Hy lạp, Hercule là một vị thần, một lần đứng giữa ngã ba đường và tự hỏi xem đi về đâu. Hai người chỉ đường đến với ông. Một người nói :

          – Hãy theo tôi, đây là con đường thoải mái, hạnh phúc và lối đi dễ dàng.

          Người thứ hai nói :

          – Đây là con đường cố gắng, nỗ lực, khó khăn. Tuy là đường khó khăn, nhưng đưa tới hạnh phúc.

          Hercule đã chọn con đường khó khăn và quả thực ông khôn ngoan, ông đã thành công.

          Bất cứ cách nào, lựa chọn là phải liều, phải chấp nhận một tương lai bấp bênh, phải chấp nhận hậu quả của việc lựa chọn ấy, mặc dầu phải hy sinh rất nhiều . Trong chọn lựa việc kết hôn, chúng ta sẽ thấy rõ đặc tính của sự lựa chọn ấy :

                                      Nhà anh chẳng chiếu chẳng giường,

                                      Chỉ ấm ổ ra, nàng thương chăng là ?

                                      – Yêu nhau chẳng quản cửa nhà,

                                      Chuồng chim cũng lấy, chuồng gà cũng theo.

  1. Chúng ta chọn Đức Giêsu.

          Đức Gioan Phaolô II thường khuyên những người đến với Ngài rằng : Chúng con phải lựa chọn. Chọn là một quyết định lớn và quan trọng của đời người. Chúng ta đã chọn. Và chúng ta còn phải tiếp tục chọn, vì đời là một tiến trình, đời là một cuộc đổi mới không ngừng nghỉ. Khẩu hiệu của Đức Gioan 23 là : Giờ đây tôi mới khởi sự. Mỗi ngày chúng ta phải khởi đầu với sự lựa chọn.

          Mà sự lựa chọn căn bản và quan trọng nhất của cuộc sống là chọn Đấng chúng ta tôn thờ. Chúng ta phải chọn Chúa là thần tượng vì Ngài là một vị thần siêu việt, tuyệt đối đáng tôn thờ. Ta không được bắt chước dân Do thái xưa thờ con bò vàng thay vì Ngài. Chính Đức Giêsu cũng khuyên :”Không ai có thể làm tôi hai chủ… Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”(Mt 6, 24).

          Nhưng Thiên Chúa là Đấng vô hình, ta không thể tiếp cận với Ngài, ta cần phải có một thần tượng nào gần chúng ta hơn, vị thần ấy đã nói:”Ai thấy Thầy là thấy Cha” và Đấng ấy đã nói:”Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”(Ga 14,6).

          Có một người suốt 2000 năm đã được bao nhiêu người hâm mộ tin theo, thậm chí còn nhận lấy cái chết để tỏ ra trung thành với vị thần ấy !

          Vị thần đó là ai ?

          Đó là Đức Giêsu Kitô.

          Sự lựa chọn của chúng ta sẽ mang lại phần thưởng mà thánh Phêrô và các tông đồ xưa đã nhận lãnh, đó là được chia sẻ tấm bánh hằng sống, Mình và Máu Đức Kitô. Được chết đi với Chúa mỗi ngày để được sống lại với Chúa trong hạnh phúc và vinh quang. Đó là niềm vui của mỗi chúng ta. Đây là  một lựa chọn quan trọng có liên quan đến cuộc đời mai hậu của ta.

  1. Chúng ta tin theo Đức Giêsu.

          Chúng ta đã chọn Đức Giêsu làm thần tượng, làm Chúa của mình, điều đó chứng tỏ không những chúng ta phải có niềm tin và còn hơn nữa chúng ta phải có đức tin. Mà giả như chúng ta chưa có đức tin cho đủ thì hãy theo lời khuyên của triết gia Blaise Pascal:”Nếu bạn muốn có đức tin, hãy qùi xuống và cầu nguyện”.

          Sống theo đức tin là đi trong đêm tối, vì đức tin là “khước từ cách hiểu biết thông thường, nhờ giác quan và lý trí, lý luận“ để “tin vào một người khác”, đó là tin mà không thấy, như thánh Gioan sẽ nói rất nhiều lần.

          Đối với Đức Giêsu, như chúng ta đã thấy, luôn gây đụng chạm ! Đức tin không hẳn nhiên là thế. Đức tin luôn luôn cho ta thấy chướng. “Đức tin” không phải là một bài học được lặp đi lặp lại “nhưng” là một “dấn thân” trong cuộc sống, là một thôi thúc phải chấp nhận từ bỏ ánh sáng riêng của mình, được coi là có tính khoa học, để đón nhận mạc khải của một người khác mà không thể kiểm chứng được bằng những phương thế nhân loại. Chính Thánh Thể là cớ vấp phạm cho các môn đệ khiến họ từ bỏ Chúa, và ngày nay cũng có những người không chấp nhận được mầu nhiệm này.

         Đức tin cũng đòi hỏi phải có thử thách. Qua câu chuyện được kể trong bài Tin mừng hôm nay, tức câu chuyện Đức Giêsu nói với các môn đệ Ngài về bí tích Thánh Thể. Trong cuộc sống cũng sẽ có những giây phút chúng ta cũng bị thách đố như các môn đệ, và có thể chúng ta cũng bị cám dỗ từ bỏ Chúa, không theo Ngài nữa.  Những lúc đó, chúng ta đừng để mình vấp phạm những lỗi lầm giống như các môn đệ xưa đã vấp phải, nghĩa là đừng chỉ lo chú tâm đến những vấn đề xẩy đến cho chúng ta, mà hãy đưa mắt nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta hãy xác nhận lại niềm tin vào Ngài như thánh Phêrô đã làm:”Lạy Thầy, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa”.

III. TRUNG THÀNH VỚI SỰ LỰA CHỌN.

          Trong ngày chịu phép Rửa tội, Linh mục hỏi chúng ta có từ bỏ ma qủi và những việc làm của chúng không ? Cha mẹ chúng ta hay chính chúng ta đã quả quyết thưa từ bỏ. Ta lại còn tuyên xưng và tin theo Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Chúng ta đã chọn Thiên Chúa là gia nghiệp của mình. Rồi trong mỗi dịp lễ Phục sinh, từng người chúng ta lại có dịp bầy tỏ sự lựa chọn của mình một lần nữa khi tuyên xưng đức tin và lại tuyên bố từ bỏ ma qủi và các việc của của chúng.

          Chúng ta đã chọn Chúa và chỉ chọn một mình Chúa chứ không thể chọn cả hai, không được thờ hai chủ. Lựa chọn một lần chưa đủ, còn phải lặp đi lặp lại nhiều lần, nó phải được thể hiện qua những lựa chọn nho nhỏ trong mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta chỉ có một sự lựa chọn duy nhất : chọn Chúa. Chọn lựa đúng thì được sống và chọn lựa sai thì chết.

          Ở đô thị Jaffa xứ Palestina, có một khu đất gọi là khu đất quyết định. Các sông ngòi chảy vào khu đất ấy lưỡng lữ một lúc rồi mới chảy sang một trong hai hướng. Những sông ngòi theo một hướng thì chảy vào khu vườn Sharon xinh đẹp. Còn những sông ngoài theo hướng kia thì chảy vào Biển Chết, biển này không có một sinh vật nào sống nổi. Cuộc đời chúng ta cũng thế. Chúng ta phải chọn một hướng, không ai có thể làm tôi hai chủ :

                                      Một nhà hai chủ không hoà,

                                      Hai vua một nuớc ắt là không yên.

          Chọn lựa tự do, nhưng chọn lựa lại  là giới hạn. Khi đã có một chọn lựa là chúng ta phải biết tự giới hạn mình. Chính Đức Giêsu khi chọn con đường cứu độ nhân loại, Ngài cũng đã phải chấp nhận thân phận giới hạn con người, và cả cái chết nhục nhã trên thập giá như lời thánh Phaolô trong bài đọc 2 :”Đức Kitô yêu thương Hội thánh, và phó mình vì Hội thánh, để thánh hóa Hội thánh,…ngõ hầu bầy tỏ cho mình một Hội thánh vinh quang, không vết nhơ, không nhăn nheo…, nhưng thánh thiện và tinh tuyền”.

          Phải chăng chọn Chúa và theo Chúa là một nghịch ly ùvì Chúa chỉ hứa cho những sự mất mát ? Người ta thuật lại câu chuyện của một ông tướng kỳ lạ, đó là đại tướng Garibaldi. Một ngày kia, ông nhóm họp quân đội ăn mặc rách rưới mà hiểu dụ rằng :”Ta cho các ngươi sự đói khát, lạnh lẽo, thương tích và chết  trận. Ai vui lòng nhận các điều ấy thì hãy theo ta”. Kết quả : chẳng ai chịu rời bỏ hàng ngũ của mình.

          Chúng ta nghĩ thế nào về câu nói của vị đại tướng ấy ? Có kỳ lạ không ? Có vô lý không ? Có điên khùng không ? Và chúng ta nghĩ thế nào về câu nói của Đức Giêsu:”Ai gìn giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai vì Ta mà mất mạng sống mình thì lại tìm lại được”(Mt 10,39) ?

          Và để kết thúc, chúng ta phải đặt ra câu hỏi : Nếu ta chọn Chúa thì sẽ ra sao ? Và nếu ta bỏ Chúa thì sẽ ra sao ? Linh mục nhạc sĩ Thành Tâm đã suy diễn câu hỏi bất hủ của thánh Phêrô thành một bài thánh ca rất ý nghĩa như sau :

“Bỏ Ngài con biết theo ai”

          – Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cách chim bơ vơ trong khung trời lộng gió.

          – Bỏ Ngài con sẽ theo ai, đời lộng gió cánh chim ngàn khơi.

          – Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một con tuyền lao đao trên biển cả mênh mông.

          – Bỏ Ngài con biết theo ai, thuyền buông lái biết trôi về đâu ?

          – Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ.

          – Và bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cuộc hành trình cô đơn, buồn bã.

          Bước đi không Ngài, đời con  buồn tênh.

          Còn nếu chọn Ngài, thì cuộc đời của chúng ta tuy cũng vẫn là một cuộc hành trình, cũng vẫn như cánh chim bay trong khung trời lộng gió, cũng như một con thuyền giữa biển cả mênh mông, nhưng trong cuộc hành trình ấy, đã có Chúa đồng hành, cánh chim đã biết hướng mà bay, con thuyền đã có người lèo lái và như thế sẽ bảo đảm đi tới bến đò bình an (Lm Carolô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 606-607)

          Chọn Chúa, đi theo Chúa, trước mắt là một sự hy sinh, một sự mất mát và bị người đời coi như  một sự điên rồ, nhưng như thánh Phaolô nói thì đó là sự khôn ngoan trước mặt Chúa. Có lẽ người ta nói đúng :”Khôn thế gian làm quan địa ngục, dại thế gian làm quan thiên đàng” !

Truyện : vua Charles V.

          Vua Charles một lần kêu hoàng tử đến và cho hoàng tử được chọn. Trên bàn vua đặt một thanh kiếm và một vương miện (Triều thiên), Vua nói :

          – Con chọn cái nào ?

          Ngần ngừ một lúc hoàng tử cầm lấy thanh kiếm.

          Vua cha hỏi :

          – Sao con lại chọn thanh kiếm ?

          Hoàng tử cầm thanh kiếm chỉ vào vương miện đáp :

          – Nhờ thanh kiếm này, con sẽ được vương miện kia.

          Chúng ta đã quen với khẩu hiệu :”Per crucem ad lucem” : qua thập giá để tới vinh quang. Bước theo Chúa là phải đi vào con đường khổ giá, phải qua cửa hẹp, nhưng chính con đường hẹp hòi khắc khổ lại đem đến vinh quang. Theo gương hoàng tử, chúng ta cũng phải nhờ øthanh kiếm đau khổ để có thể chiếm được triều thiên vinh phúc muôn đời, thánh giá phải đi trước triều thiên

Xả thân nếu muốn theo Thầy,

Vác cây khổ giá hằng ngày mà theo. (Mt 16,24)

Về mục lục

.

GẮN BÓ VỚI CHÚA KITÔ

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Cuộc sống là những chuỗi ngày lựa chọn, nhưng có nhiều người cứ mãi chọn sai nên không thể hạnh phúc. Cuộc sống của dân Israel năm xưa, cũng như cuộc sống của mỗi người chúng ta hôm nay luôn bị giằng co giữa Thiên Chúa và thế tục, hứa trung thành với Thiên Chúa nhưng rồi lại bỏ Chúa. Vì thế, chúng ta cần phải khẳng định thái độ sống.

Dân Israel được Thiên Chúa yêu thương giải thoát họ khỏi ách nô lệ của người Ai cập. Dẫn đưa họ vào đất hứa với bao vui sướng: đất đai phì nhiêu, cây trái tốt tươi, đời sống thoải mái khác xa với những ngày lang thang trong hoang địa. Nhưng họ đã sớm quên đi bao kỳ công Thiên Chúa đã làm cho cha ông họ và chính họ để có được ngày hôm nay, bởi họ tiếp cận với một nếp sống cầu an, hưởng thụ và với những nghi lễ theo bản năng thấp hèn. Vì thế, ông Giôsuê, người kế vị Môsê dẫn dân vào đất hứa đã triệu tập các vị đại diện dân chúng tại Sikem và mời gọi họ quyết định lựa chọn: thờ Thiên Chúa hay thờ các thần ngoại?. Ông Giôsuê nói cho mọi người biết quyết định của ông và gia đình ông: “Phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa”. Các đại biểu đã đồng thanh tuyên bố rằng: “Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Chúa mà tôn thờ những thần ngoại”. Dân Israel đã khôn ngoan sáng suốt lựa chọn Thiên Chúa và nhớ lại những kỳ công mà Thiên Chúa đã làm cho cha ông họ và chính họ. Họ đã không tỏ ra vô ơn, tham lợi mà vội bỏ Thiên Chúa để chạy theo những thần của dân ngoại.

Thưa anh chị em, vào thời Chúa Giêsu cơm cám dỗ bỏ Chúa cũng đã có lần xảy ra. Sau khi Chúa Giêsu tuyên bố: “Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống”. Uống máu xúc vật đã là điều cám kỵ, vậy mà Chúa Giêsu quả quyết: “Ai ăn thịt và uống máu Ta thì được sống đời đời”. Nghe đến đây, nhiều người Do thái đã lần lượt bỏ Người mà đi. Chính các môn đệ của Chúa Giêsu cũng nói với nhau rằng: “Lời này chói tai quá! Ai nghe được!”. Thánh Gioan còn ghi lại: “Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa”. Đứng trước lời tuyên bố của Chúa Giêsu xem ra có vẻ “chói tai”, thì Phêrô đại diện Nhóm Mười Hai vẫn không tỏ ra nao núng khi Chúa Giêsu hỏi nhóm Mười Hai rằng: “Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?”. Simon Phêrô thay mặt nhóm Mười Hai đã cảm nhận được quyền lực của Chúa Giêsu và thưa với Người: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa”.

Có câu chuyện kể rằng, một người da trắng và một người thổ dân cùng nghe giảng. Người thổ dân cảm động xin nhập đạo ngay. Còn người da trắng cũng cảm động nhưng cả năm sau mới nhập đạo. Trong một buổi phụng vụ, người da trắng hỏi: Tôi phải mất một thời gian mới có lòng tin, sao anh có lòng tin sớm thế?. Người thổ dân đáp: Này bạn, có vị hoàng tử hứa cho chúng ta chiếc áo mới. Bạn nhìn vào áo mình, tự nhủ: “Áo mình còn đẹp, để mai sau hãy lấy”. Còn tôi, tôi nhìn vào tấm chăn cũ kĩ của mình, thấy nó chẳng ra gì, nên vội vàng đến nhận áo mới. Bạn ạ, bạn đã có chút khôn ngoan, nên bạn còn muốn dùng chúng. Còn tôi, tôi không có, nên tôi mau mắn đón nhận sự khôn ngoan của Chúa Giêsu.

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Niềm tin và tình yêu đã là động lực giúp con người khôn ngoan lựa chọn Chúa và trung thành gắn bó với Người. Thế nhưng, sống trong một thế giới không ngừng đổi thay, con người dễ bị lôi kéo vào thái độ thay lòng đổi dạ, giao ước hôn nhân bị đổ vỡ: đến với nhau, sống với nhau, rồi bỏ nhau. Nhiều Kitô hữu cũng đối xử với Chúa như thế: theo Chúa rồi bỏ Chúa. Có lẽ chúng ta đây cũng nhiều lần bị cám dỗ bỏ Chúa. Thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy phục tùng nhau trong sự kính sợ Thiên Chúa. Ngài cũng dùng hình ảnh của vợ chồng trong đời sống hôn nhân gia đình, để nói lên mối dây chặt chẽ giữa các tín hữu với Chúa Kitô. Hôm nay, chúng ta hãy suy nghĩ lại cuộc hành trình đi theo Chúa, và chúng ta tha thiết xin Chúa đừng để chúng ta bỏ Chúa bao giờ, bởi vì, như lời Thánh Phêrô tuyên xưng: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.

Nguyện xin Chúa là nguồn mạch tình yêu và sự khôn ngoan, giúp chúng ta khôn ngoan sáng  suốt lựa chọn Chúa và trung thành đi theo Chúa để được hưởng sự sống hạnh phúc muôn đời. Amen.

Về mục lục

.

LỜI CHÚA LÀ THẦN KHÍ VÀ SỰ SỐNG

 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

” Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống”

I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN 6,54a-60-68:

54 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết… 60 Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” 61 Nhưng Đức Giê-su tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Người bảo các ông: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư ?  62 Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? 63 Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống.

64 Nhưng trong anh em có những kẻ không tin. “Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người.  65 Người nói tiếp: “Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho.”  66 Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa.

67 Vậy Đức Giê-su hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” 68 Ông Si-môn Phê-rô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. 69 Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.”

II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN 6,54a.60-68:      

2.1 Chương 6 Tin Mừng Gio-an không chỉ nói/viết về Bánh và Sự Sống, Bánh Trường Sinh và Sự Sống Muôn Đời mà còn nói về ”Lời là Thần Khí và Sự Sống.” Trong bài Phúc âm Chúa Nhật XXI Thường Niên B chúng ta thấy hai loại người: Một loại là những người không đón nhận ”Lời là Thần Khí và Sự Sống”. Đó là những môn đệ bỏ không theo Đức Giê-su nữa (Ga 6,66). Một loại là những người đón nhận ”Lời là Thần Khí và Sự Sống”. Đó là Si-mon Phê-rô và 11 Tông Đồ: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” (Ga 6,68-69).

2.2 Vậy thì chúng ta không chỉ quan tâm đến việc đón nhận Bánh là Mình Chúa, mà chúng ta còn phải quan tâm đến việc đón nhận Lời Chúa nữa. Trong Hiến Chế tín lý Mạc Khải ”Lời Thiên Chúa” (Dei Verbum)  các Nghị Phụ của Công Đồng Vatican II đã nhấn mạnh hai điều này:

* một là Giáo Hội tôn kính Lời (Chúa) cũng như tôn kính Mình (Chúa);

* hai là tín hữu phải rước Mình (Chúa) và rước Lời (Chúa) làm của ăn linh hồn.

III. THỰC THI  LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN 6,54a.60-68:     

3.1 Rước Lời không chỉ là nghe giảng trong các thánh lễ. Rước Lời là mỗi ngưuời giáo dân phải thực hành việc đọc và suy niệm Lời Chúa, nếu không được mỗi ngày thì cũng phải là mỗi tuần. Rước Lời còn đòi giáo dân tham dự các Khóa học hỏi, chia sẻ Thánh Kinh để biết phương pháp đọc, chia sẻ và cầu nguyện với Lời Chúa.

3.2 Rất tiếc là trong các giáo xứ khó mà tim ra một Lớp/Khóa Thánh Kinh cho giáo dân tham dự. Lý do có lẽ là vì các linh mục của chúng ta quá bận rộn với việc quản trị giáo xứ nên quên mất bổn phận giảng dậy Lời Chúa cho giáo dân. Hoặc là vì các linh mục cho rằng giảng Phúc âm trong thánh lễ là đủ rồi. Thật ra là không đủ. Và nghe giảng trong Nhá Thờ thì rất khác với nghe giảng trong lớp.

3.3 Vì giáo dân ít quan tâm đến việc đón nhận ”Lời là Thần Khí và Sự Sống” nên chúng ta không lạ gì khi thấy đời sống đức tin của nhiều giáo dân khô cứng và nghèo nàn. Thật đáng buồn và đáng lo.

IV. CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA TRONG TIN MỪNG GIO-AN 6,54a.60-68:     

Lạy Chúa Giê-su là Lời Thiên Chúa (Dei Verbum), chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa vì Chúa đã mạc khải Cha và Kế Hoạch Cứu Độ của Người cho chúng con.

Chúng con biết Chúa muốn chúng con đón nhận ”Lời là Thần Khí và Sự Sống” để đời sống của chúng con sinh nhiều hoa trái. Chúng con cảm tạ và ngợi khen Chúa. Xin Chúa ban Thấn Khí và Sự Sống cho chúng con.  Amen.

Về mục lục

.

NIỀM XÁC TÍN

Trầm Thiên Thu

Đề cập đức tin – một trong ba đức đối thần, Thánh LM TS Tôma Aquinô (1225-1274) phân tích: “Mặc dù cái nhìn chúng ta bị giới hạn và mờ nhạt về những sự rất linh thánh, nhưng chỉ thoáng thấy những sự ấy cũng đã là hoan lạc lắm rồi. Có ba điều cần thiết cho phần rỗi con người: hiểu biết điều nào PHẢI TIN; hiểu biết điều nào PHẢI ƯỚC AO; và hiểu biết điều nào PHẢI THỰC HIỆN. Có những điều ta phải nắm giữ bằng ĐỨC TIN, nhưng lý trí vẫn có thể tìm hiểu; nhờ đó, mọi người đều có thể chia sẻ tri thức về Thiên Chúa một cách dễ dàng, không hoài nghi và lầm lạc”.

Cũng liên quan đức tin, Chân phước LM Charles Eugène de Foucauld (1858-1916) cho biết: “Giây phút tôi nhận biết Thiên Chúa hiện hữu, tôi biết tôi không thể làm gì khác hơn ngoài việc sống cho một mình Người. ĐỨC TIN tước lột mặt nạ khỏi thế giới này và tỏ ra Thiên Chúa trong mọi sự. ĐỨC TIN làm cho không còn sự gì là không thể, làm cho những từ ngữ như lo lắng, nguy hiểm và sợ hãi trở nên vô nghĩa. Nhờ đó, tín hữu sống cuộc đời yên hàn thanh thản, với một niềm tin sâu xa – như một con trẻ được mẹ cầm tay”.

Đặc biệt là Thánh GH Gioan XXIII (1881-1963) đã từng nhắn nhủ riêng với Giáo Hội Việt Nam: “Xin mượn lời Thánh Phaolô để nhắn nhủ rằng: ‘Các con hãy tỉnh thức, hãy vững vàng trong đức tin, hãy can trường và mạnh mẽ’ (1 Cr 16:13). Và để biểu dương hơn nữa lòng thương yêu, săn sóc và cảm phục, cha nhắc lại đây lời Thánh Phaolô: ‘Hằng ngày, cha phải cám ơn Thiên Chúa vì các con. Thực thế, đức tin các con mãnh liệt thêm mãi, tình thân ái của các con với tha nhân mỗi ngày một dồi dào, khiến Cha được hãnh diện vì chúng con trước mặt Giáo hội của Chúa, hãnh diện vì các con bền chí, vững lòng tin trong mọi cơn bách hại, trong những giờ gian lao khốn khó: như thế mới xứng đáng vào nước Thiên Chúa, chính vì Ngài mà các con đã chịu đau khổ’ (2 Tx 1:3-5)”.

Đức tin trừu tượng, không thể sờ được, nhưng có thể cảm nhận một cách cụ thể. Thật lạ! Tin hay không tin là “chấp nhận” hoặc “từ chối”. Một “biên độ” rất mong manh. Rất đơn giản, nhưng cũng rất phức tạp. Sự giằng co đó luôn xảy ra, thế nên cần phải có lòng can đảm để có thể đứt khoát mau mắn. Chỉ trong tích tắc mà các vị tử đạo dám dứt khoát khước từ sự sống để bước theo Đức Kitô. Các ngài đã can đảm, và một niềm xác tín rằng “chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5). Bổn phận của chúng ta – Kitô hữu Công giáo – là TIN YÊU và THỜ KÍNH chỉ MỘT THIÊN CHÚA mà thôi, chứ không có bất cứ một thần linh nào khác!

Chúng ta diễm phúc là nhận biết Chúa và tin theo Ngài, nhưng đức tin đó phải được chứng tỏ. Giáo lý Công giáo dạy: “Làm dấu Thánh Giá là tuyên xưng Thiên Chúa”. Đó là đức tin của Giáo hội và của mỗi chúng ta. Hằng ngày chúng ta thể hiện đức tin nhiều lần bằng cách làm dấu: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”. Cũng cần lưu ý là chúng ta “làm dấu” chứ không “làm giấu” (phát âm gần giống nhau nhưng ý nghĩa hoàn toàn khác nhau). Tuyên tín một cách đơn giản là “làm dấu Thánh Giá”, thế mà đôi khi chúng ta làm cho xong lần, vội vã như “phù phép”, thậm chí có khi tay “vẽ dấu Thánh Giá” mà miệng còn càm ràm hoặc lầm bầm điều gì đó. Ôi thôi!

Biết rằng con người yếu đuối, dễ thay lòng đổi dạ, nhưng không thể cứ viện cớ đó để tự biện hộ. Miệng thì nói tin Chúa nhưng lại hành động khác, chắc hẳn nên xét lại lắm. Ngày xưa, ông Giôsuê đã quy tụ ở Sikhem mọi chi tộc Israel và triệu tập các kỳ mục Israel, các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục. Họ đứng trước nhan Thiên Chúa. Ông Giôsuê nói với toàn dân về lời tuyên phán của Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel: “Thuở xưa, khi còn ở bên kia Sông Cả, cha ông các ngươi, cho đến Terác là cha của Ápraham và của Nakho, đã phụng thờ các thần khác” (Gs 24:2). Ngày nay, chúng ta gọi họ là những kẻ phản bội hoặc bội bạc, nhưng ngày nay chúng ta cũng có hơn họ, bởi vì chúng ta cũng đã bao lần phạm tội phản nghịch với Thiên Chúa nhân hậu.

Tuy nhiên, ông Giôsuê vẫn không ép buộc mà cho họ tự do chọn lựa: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa thì hôm nay anh em CỨ TUỲ Ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người Emôri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa” (Gs 24:15). Nghe vậy mà họ thấy “rét”. Họ được “đánh động” nên cảm thấy hối hận, và họ đáp lại: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người Emôri ở trong xứ. Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi” (Gs 24:16-18).

Cũng là phàm nhân với nhau nên cũng giống nhau y chang. Nghĩa là chúng ta cũng đã và đang yếu đuối, nói một đàng làm một nẻo, cứ liên tục qụy ngã rồi lại té lên té xuống, vậy mà vẫn chưa thực sự “nên người”. Chúng ta yếu đuối nhưng không được thất vọng, vì chúng ta may mắn có “sức mạnh vô song của Đức Kitô”. Tội lỗi tày trời, tội lỗi ngập đầu, tội lỗi đỏ như máu, thế mà chúng ta vẫn được Thiên Chúa xót thương mà tha thứ tất cả, không chỉ vậy mà chúng ta còn được phục hồi nguyên trạng cương vị người con. Vì thế, chúng ta phải tự hứa: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Ngài chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên” (Tv 34:2-3). Bất kỳ ai cũng phải “làm lành lánh dữ, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hoà” (Tv 34:15). Đó là sống theo huấn lệnh của Thiên Chúa, cũng có nghĩa là chúng ta đã xác tín là tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất.

Tuyệt đối Thiên Chúa là Đấng nhân lành (x. Ga 10:11 & 14), và chỉ có Ngài là Đấng nhân lành (Mt 19:17), vì thế Ngài “đối đầu với quân gian ác, xoá nhoà tên tuổi chúng trên đời”, nhưng Ngài vẫn luôn “để mắt nhìn người chính trực và lắng tai nghe tiếng họ kêu” (Tv 34:16-17). Thật vậy, “họ kêu xin, và Chúa đã nhận lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv 34:18). Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót nên Ngài luôn “gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề. Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi” (Tv 34:19-21). Đặc biệt là “xương cốt họ đều được Chúa giữ gìn, dầu một khúc cũng không giập gãy” (Tv 34:21). Đó là cách quan phòng và tiền định của Thiên Chúa.

Phàm nhân là loài yếu đuối, chúng ta là phàm nhân nên chúng ta cũng yếu đuối, mà càng yếu đuối thì càng cần có đức tin, và chính đức tin làm cho chúng ta nên vững mạnh. Đức tin và đức ái liên quan tinh thần phục vụ – sống cho và sống vì nhau – khởi đầu từ gia đình. Thánh Phaolô nói: “Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy TÙNG PHỤC LẪN NHAU” (Ep 5:21).

Tùng phục nhau bằng cách nào? Thánh nhân giải thích “dài hơi” một chút: “Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh” (Ep 5:22-25). Như vậy là chính Đức Kitô “thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng NƯỚC và LỜI hằng sống, để trước mặt Ngài, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền” (Ep 5:26-27). Thiên Chúa là Đấng chí thánh nên những gì thuộc về Ngài đều phải là thánh.

Tương tự, “chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình” (Ep 5:28). Rất hợp lý, bởi vì vợ chồng “tuy hai mà một”, trở nên “một” qua bí tích Hôn phối. Nên một thì không thể là hai hoặc ba, nghĩa là “người này cũng là người kia”. Chẳng có ai ghét thân xác mình bao giờ, chỉ có kẻ ngu xuẩn mới hành hạ chính mình, nhưng “người ta NUÔI NẤNG và CHĂM SÓC thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Ngài” (Ep 5:29-30). Sách Thánh xác định rạch ròi: “Chính vì thế, người đàn ông sẽ LÌA cha mẹ mà GẮN BÓ với vợ mình, và cả hai sẽ thành MỘT XƯƠNG MỘT THỊT” (Ep 5:31). Và Thánh Phaolô minh định: “Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5:32). Hình ảnh phu thê là hình ảnh Đức Kitô và Giáo Hội – và ngược lại. Do đó, những người sống đời hôn nhân phải cố gắng thể hiện đức tin qua ơn gọi hôn nhân của mình. Hôn nhân là bí tích do Thiên Chúa thiết lập chứ không phải do loài người tạo nên. Thế nên không thể “vui ở, buồn đi” theo ý mình.

Cái gì cũng có tính liên đới, dù đó là điều tốt hay xấu. Tương tự, đức tin cũng có nhiều hệ lụy. Tất cả đều liên kết với nhau một cách mạch lạc và rất kỳ diệu. Thân xác không hơi thở là xác chết – bởi vì “Chúa lấy sinh khí lại, chúng tắt thở ngay” (Tv 104:29), và “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:17 & 26). Đó là hai cái chết: chết thể lý và chết tinh thần. Cái chết nào cũng đáng sợ!

Hôm đó, khi Chúa Giêsu giảng dạy trong hội đường ở Ca-phác-na-um, Ngài nói: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời” (Ga 6:54). Nghe vậy, nhiều môn đệ của Ngài cũng cảm thấy “nóng gáy” nên nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6:60). Các “đệ tử ruột” mà còn phát biểu vậy đó! Ngài biết tỏng các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, nên Ngài bảo họ: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống. Nhưng trong anh em có những kẻ KHÔNG TIN” (Ga 6:61-64). Quả thật, vấn đề đức tin là vấn đề thực sự quan trọng. Không phải cứ nói tin là tin, vì lời nói đó có thể chỉ là “hàng giả” – giả vờ vậy thôi. Cách xác tín cho biết “sức khỏe tâm linh” của chúng ta ra sao, khỏe hay yếu, hoặc cứ làng xàng – chẳng khỏe cũng chẳng yếu.

Thật vậy, ngay từ lúc đầu, Chúa Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Ngài. Thế nên Ngài cho biết: “Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6:65). Từ lúc đó, nhiều môn đệ đã “bỏ của chạy lấy người”, không còn đi theo Ngài nữa. Thấy vậy, Ngài hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6:67). Nhưng ngư phủ Simôn Phêrô nói ngay: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68). Thật tuyệt vời! Ngư phủ Phêrô lâu lâu nói một câu nghe “quá đã”, đúng là “trên cả tuyệt vời”. Ông không dám bỏ Sư phụ Giêsu vì ông đã xác tín. Thật vậy, chính ông đã công khai tuyên tín: “Phần chúng con, chúng con ĐÃ TIN và NHẬN BIẾT chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6:69).

Ôi, lão ngư Phêrô ơi! Xin giúp chúng con cũng được sáng con-mắt-đức-tin để có thể chân nhận Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ duy nhất, và luôn biết tín thác vào chính Thiên-Chúa-Con-Người ấy.

Cũng liên quan đức tin, Thánh LM Piô Năm Dấu (1887-1968) cho biết: “Thiên Chúa muốn kết ước với linh hồn TRONG ĐỨC TIN, linh hồn nào muốn cử hành hôn lễ thiên đàng ấy phải bước đi TRONG ĐỨC TIN tinh ròng, đó là phương thế duy nhất thích hợp cho sự kết hợp tình yêu”.

Lạy Thiên Chúa duy nhất và toàn năng, xin thắp lên ánh sáng đức tin trong mỗi chúng con, xin nâng đỡ để chúng con hãnh diện tuyên tín qua từng ánh mắt và mọi động thái, xứng đáng là môn đệ của Đức Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu của Ngài, và tất cả chỉ vì Thánh Danh Ngài mà thôi. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

BỎ THẦY CON SẼ THEO AI?

Lm Trần Bình Trọng

Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã ban cho loài người được tự do lựa chọn: hoặc chấp nhận hay khước từ ơn Chúa. Sau khi chu toàn sứ mệnh Môsê trao phó để đưa dân Chúa chọn vào miền đất hứa,

ông Giôsuê đã triệu tập các vị đại diện dân chúng tại Si-khem để khẳng định lại niềm tin vào Chúa. Ông nói với họ rằng: Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ.. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Thiên Chúa (Gs 24:15). Dân Ít-ra-en cũng đã lựa chọn. Họ quyết định phụng thờ Thiên Chúa vì Người đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ bên Ai cập, đã làm những việc kỳ diệu và dẫn đưa họ vào miền đất hứa.

Tuy nhiên khi gặp khó khăn và thử thách trong sa mạc, họ lại bất trung, phản nghịch cùng Chúa. Và mỗi lần họ ăn năn sám hối thì Chúa lại giang tay đón nhận họ trở về với lòng bao dung tha thứ. Khi Ðức Giêsu đến, hứa cho họ ăn bánh hằng sống là thịt và uống máu Người thì mới có sự sống muôn đời, họ liền tranh luận hỏi nhau: làm sao ông này có thể cho họ ăn thịt Người được? (Ga 6:52).

Lớp thính giả thứ hai trong Phúc âm hôm nay là các môn đệ khi nghe Ðức Giêsu giảng dạy về việc ăn thịt và uống máu Người để được sống muôn đời, cũng lẩm bẩm cho rằng lời nói thật là chướng tai (Ga 6:60). Và theo Phúc âm thuật lại: Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa (Ga 6:66). Từ ngữ môn đệ được hiểu là người theo Ðức Giêsu và con số được ghi là bảy mươi hai môn đệ. Và khi có những môn đệ bỏ cuộc, Ðức Giêsu không ngạc nhiên, cũng không buồn giận, và không thay đổi lập trường. Người không giải thích, cũng không rút lại lời giảng dạy để mong bắt được mẻ cá lớn là các môn đệ.

Ðến lượt lớp thính giả thứ ba là các tông đồ thì Ðức Giêsu còn thách đố các ông thêm nữa. Người đòi hỏi nơi các tông đồ một đức tin không dè dặt, không lưỡng lự. Ðức Giêsu gần làm hoảng hồn các tông đồ, khi Người hỏi thêm các ông: Còn chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi không? (Ga 6:67). Hoặc ở lại hay bỏ đi, một câu hỏi mà họ không thể nào tránh né được. Ðể trả lời câu hỏi, ông Phêrô tiến lên, đóng vai trò lãnh đạo, đáp lại: Thưa Thầy, nếu bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời (Ga 6:68). Ông muốn nói là không có ai khác để mà theo cả. Ðức Giêsu đòi hỏi một quyết định quả quyết nơi các tông đồ. Và Người đã nhận được lời cam kết của thánh Phêrô. Một lời cam kết đã làm tiêu tan những nghi ngờ của các tông đồ khác.

Cũng vậy, tất cả những người đã quyết định theo Chúa qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức đều phải đương đầu với những thử thách về đức tin. Hằng ngày ta gặp nhiều cám dỗ để chối bỏ đức tin công giáo tông truyền. Ta gặp nhiều tiếng gọi dụ dỗ từ báo chí, truyền thanh, truyền hình và mạng tin, bảo ta điều gì phải tin, điều gì không cần tin, việc gì phải làm, việc gì không nên làm, điều gì phải thắc mắc, điều gì cần phải được xét lại. Ta bị cám dỗ để giữ đạo theo xu hướng nhất thời, tuỳ theo hứng khởi: vui thì đi lễ thờ phượng, không thì ở nhà. Ta bị cám dỗ chỉ giữ đạo nếu Giáo hội thay đổi lập trường về một vài nguyên tắc luân lý nào đó, nếu Giáo hội chiều theo ước muốn của ta.

Ta bị cám dỗ chối bỏ đức tin vào sự hiện diện của Chúa trong Bí tích Thánh thể vì không hiểu sao bánh rượu sau khi linh mục đọc lời truyền phép vẫn giống bánh rượu trước khi truyền phép? Và đó chính là mầu nhiệm đức tin mà loài người không thể dùng lí trí để giải thích và hiểu được một cách thoả đáng. Nếu người ta có thể hiểu được mầu nhiệm trong đạo, thì cái được gọi là mầu nhiệm, không còn phải là mầu nhiệm nữa, mà chỉ là một triết thuyết hay một hệ thống khoa học. Vì thế mầu nhiệm vẫn mãi mãi là mầu nhiệm, nếu không thì đức tin không còn phải là đức tin nữa, mà chỉ là sự hiểu biết thôi. Tuy nhiên, nếu không hiểu, tại sao lại tin? Tin là chấp nhận dựa trên lời nói hay thế giá của người khác. Các tông đồ không hiểu, nhưng vẫn tin vì dựa trên lời nói, quyền năng  và thế giá của Thầy mình.

Khi cảm thấy khó chấp nhận về đường lối giáo huấn chính thức của Giáo hội, là phản ảnh của đường lối Phúc âm, về một vài vấn đề như tính dục, li dị, phá thai .., đó là lúc mà câu hỏi Chúa đặt ra cho các tông đồ sẽ lại vọng lên bên tai ta: Còn con, con có muốn lìa bỏ Giáo hội mà Thầy đã thiết lập trên nền tảng các tông đồ không? Khi bất đồng ý kiến với Giáo hội về một số chính sách của Toà Thánh Vatican, đó là lúc mà một câu hỏi tương tự sẽ vọng lên bên tai ta: Còn con, con có muốn chấp nhận đường lối của Giáo hội mà Thầy thiết lập không? Khi thấy những gương mù, gương xấu xẩy ra ngay trong hàng giáo sĩ, câu hỏi khác sẽ vọng lên: Còn con, con có muốn ở lại trong Giáo hội để cầu nguyện và xây dựng Giáo hội của Thầy không?

Khi phải đối chất với những lời giảng dậy khó chấp nhận trong đạo, hoặc giáo lí khó khăn của đạo thì người theo đạo nửa mùa, hoặc mạo nhận theo đạo, toan cắt nghĩa sao cho phiên phiến đi, để cho trở nên dễ dãi, hoặc áp dụng lẽ đạo qua loa, sao cho phù hợp với ước muốn và quan niệm của họ cũng như của quần chúng. Thính giả trong Phúc âm hôm nay hiểu rõ lời Ðức Giêsu giảng dạy, hiểu ý Người muốn nói gì nên mới cho là chướng tai đấy. Vậy mà Chúa cũng không cải chính về sự chướng tai đó đâu. Họ hiểu Chúa không nói đến việc ăn thịt và uống máu theo nghĩa tượng trưng thôi đâu. Khi cảm thấy Chúa mà mình tôn thờ, sao mà khó thế nếu so sánh với những chúa và thần của những đạo khác, đó là lúc mà câu hỏi giả sử của ông Giôsuê cũng vọng bên tai ta: Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ (Js 24:15).

Phúc thay cho những gia đình, cộng đoàn giáo xứ và trong Giáo hội mà có được những người nói được những lời bất hủ như vậy để bầy tỏ đức tin quả quyết như ông Giôsuê, hoặc Thánh Phêrô: Bỏ Thấy, con sẽ theo ai, hầu giúp củng cố đức tin của người khác trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ và trong cả Giáo hội.

Lời cầu nguyện xin cho được ơn giữ vững niềm tin vào Bí tích Thánh thể:

Lạy Chúa Giêsu Thánh thể.

Con xin cảm tạ Chúa đã lập Phép Thánh thể

để làm của ăn uống thiêng liêng cho loài người.

Xin Chúa làm no thoả những đói khát của con

khi con lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa

Và xin cho con giữ vững lời Chúa.

Ðừng để con nghe theo lời quyến rũ rỉ tai

mà chối bỏ đức tin và xa lìa Chúa. Amen.

Về mục lục

.

LÒNG TRUNG THÀNH

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

Chúng ta vẫn thường hay nghe nói người này hứa dỏm, người kia hứa lèo. Chính bản thân nhiều khi cũng tỏ ra bực mình vì ai đó không giữ đúng lời hứa. Từ những chuyện nhỏ nhất, tầm thường nhất của cuộc sống, đến những vấn đề quan trọng nhất, người ta đều có thể bất trung thất tín.

Ví dụ: Ai cũng biết, hôn nhân là mối dây ràng buộc chặt, nhưng người ta vẫn phản bội nhau. Một hợp đồng kinh tế vừa mới ký xong, có thể vì lợi lộc riêng tư, người ta vẫn phản bội hợp đồng đó. Một hiệp ước hòa bình giữa hai đảng phái đã được ký kết để đừng chém giết nhau nữa, thì cũng không ai dám tin chắc rằng, hai đảng phái đó hoàn toàn tuân theo hiệp ước, dù nó là hiệp ước quốc tế đi nữa. Vậy là chiến tranh nổ ra, chém giết vẫn còn, những cái chết oan uổng vẫn không ngừng tiếp diễn. Nhìn vào thực tế của đời sống như thế, nhiều lúc ta như chán nản, bật thốt lên: Người đời là vậy! Họ phản bội nhau, bất trung với nhau, không cần đếm xỉa gì đến hậu quả.

Đối với nhau đã vậy, đối với Thiên Chúa, con người cũng phản bội, cũng bất trung không kém. Từ thuở bình minh của nhân loại, thế giới, theo Thánh Kinh diễn tả, chỉ có hai người: Ađam, Eva. Tưởng chừng cả hai sẽ an phận trong hạnh phúc tuyệt đối Chúa đã an bài. Nhưng không, lòng tham, sự kiêu ngạo đã làm hai ông bà không chấp nhận hạnh phúc đó, mà lại muốn bằng Thiên Chúa. Để bằng Thiên Chúa, chỉ còn cách không vâng lời, chống lại Thiên Chúa, bất trung với Người. Vì tội chống Thiên Chúa một cách tày trời, đã gây ra hậu quả không lường: cả loài người cùng bị vạ lây trong tội nguyên tổ.

Bất trung của Ađam và Eva là mở đầu cho vô vàn những bất trung mà con người phản bội Thiên Chúa. Chẳng hạn, thời gian dài dân Chúa phải lang thang trong sa mạc là một bằng chứng. Bốn mươi năm trường nếm đủ mùi vị của khổ đau: nào là đói, rét, khát, rắn độc cắn…, đã làm cho dân của Chúa mất kiên nhẫn, nhiều lần lên tiếng trách móc ông Môsê và ông Aaron. Không dừng ở đó, họ còn oán trách nặng lời đối với Thiên Chúa của họ. Họ nghi ngờ lòng thương xót của Chúa: không biết Chúa có thương mình không, hay Thiên Chúa đem họ ra khỏi Aicập để mượn nỗi khổ gay gắt của sa mạc để giết chết họ? Lòng dân nổi loạn đến mức, có lần ông Môsê thất vọng cùng cực, than thở với Chúa: Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên vai con? Có phải con đã cưu mang dân này đâu?… Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn…” (Ds 11, 12tt). Trong sa mạc, lòng dân quên mất tình yêu của Chúa, vì thế đã không biết ơn Thiên Chúa của mình, ngược lại, nhiều lần họ đi từ thái độ bất trung đến đối nghịch Thiên Chúa.

Hôm nay bài đọc một là một phần của câu chuyện dài về lòng thương xót của Thiên Chúa và sự bất trung của dân Người. Sau những năm tháng lang thang rày đây mai đó trong sa mạc, bây giờ sắp định cư trong đất hứa, hạnh phúc chỉ còn là một bước nhảy về phía trước. Trong hoàn cảnh này, dân Chúa phải xác định lại lập trường của mình: Họ có muốn trung thành theo Chúa, thờ phượng Chúa nữa hay không? Dẫu hôm nay, họ dỏng dạc tuyên bố sự chọn lựa của mình: “Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ các thần khác”, và dù cho lý do buộc họ phải xác định lại đức tin của mình là bởi đã quá nhiều lần họ bất trung với Chúa, thì không phải vì thế, mà từ nay về sau họ không còn bất trung. Lời quyết tâm trung thành hứa trước nhan Chúa vẫn còn đó, nhưng lòng dân thì hay thay đổi. Suốt dọc dài của lịch sử, sự phản bội ngấm ngầm hay ra mặt đã làm cho dân của Chúa nhiều lần bước ra khỏi tình yêu của Người, sống cách xa Thiên Chúa. Chính sự bất trung liên tục mà dân Chúa đã bao lần chuốc lấy cơn phẫn nộ của Người. Nhưng nổi bậc lên trên tất cả, lớn hơn cả những lần phẫn nộ, lớn hơn cả sự phản bội của dân vẫn là tình yêu khoan dung, và tha thứ mà Thiên Chúa dành cho họ. Đọc Thánh Kinh ta có cảm tưởng như Thánh Kinh hình thành bởi một công thức gồm ba động từ: phản bội – nổi giận – tha thứ. Dân không ngừng phản bội, nhiều lần Thiên Chúa nổi giận, sau đó lại xót thương và tha thứ. Suốt chiều dài của lịch sử mà Thánh Kinh diễn tả cứ lặp đi lặp lại y như thế.

Đó là bài đọc I trích trong sách Giosuê. Trong bài Tin Mừng, một lần nữa, ta lại thấy lời khẳng định về lòng trung thành một cách dứt khoát của thánh Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Dù khẳng khái là thế, nhưng không phải mọi lúc Phêrô đều cứng rắn và hết lòng trung thành. Vì khi Thầy Giêsu của mình lâm nguy trong cuộc tử nạn, có lẽ chính là lúc Thầy cần Phêrô nhất: cần một sự đồng cảm, cần một sự chia sẻ nào đó, cần lắm một thái độ, ít nữa là một ánh mắt tin tưởng để Thầy bớt cô đơn trên mỗi bước đường thập giá… Chính những giờ phút quan trọng ấy, những giờ phút cần thiết ấy, Phêrô lại quên mất lời tuyên xưng mới đó, tính cho đến thời điểm diễn ra cuộc thương khó của Thầy, chưa được bao lâu. Vì một chút sợ hãi và yếu lòng, Phêrô đã chối Thầy, không phải một lần, mà là ba lần, không phải trong ba năm, nhưng chỉ cách nhau có hai canh gà!

Ôn lại những gì dân Chúa đã sống ngày xưa, và nhìn lại lời tuyên xưng cũng như lỗi lầm của thánh Phêrô nhân dịp Hội Thánh mời gọi ta suy niệm các bài Kinh Thánh nói về lòng trung thành trong ngày Chúa nhật XXI, bạn và tôi, một lần nữa, hãy thâm tín một cách chắc chắn rằng, Chúa vẫn yêu chúng ta, yêu từng người một. Dẫu ta có lỗi lầm bao nhiêu, có bất trung cách mấy, Chúa vẫn một lòng khoan dung tha thứ. Chúa đã chấp nhận nguyên tổ ngay cả khi nguyên tổ chống đối Chúa; Người cũng không vì lỗi lầm của dân riêng mà khước từ tình yêu đối với họ, cũng không phải vì Phêrô yếu đuối mà Chúa tước quyền làm tông đồ trưởng, hơn nữa làm giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh, thì hôm nay bạn và tôi vẫn có quyền hy vọng. Chúa vẫn thế, vẫn mãi mãi là Thiên Chúa của lòng trung thành, của tình yêu và tha thứ, chỉ sợ chúng ta không hy vọng nữa mà thôi. Ta bất trung với Chúa nhiều lần, đó là sự thật. Nhưng còn một sự thật khác lớn hơn nhiều: Tình yêu của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của ta. Bởi thế, biết mình yếu đuối, lỗi lầm bao nhiêu, ta càng vững tin vào Chúa bấy nhiêu. Nếu lỡ có lần nào vấp ngã, ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía Chúa. Bí tích giải tội là cách tốt nhất để ta lấy lại bình an, lấy lại lòng trung thành cùng Chúa mà chính mình đã đánh mất.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 21 TN_B

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXI có thể được tóm gọn ở nơi diễn ngữ này: “Tấn thảm kịch của sự chọn lựa”. Có những chọn lựa mang tính quyết định đối với cá nhân hay dân tộc.

Gs 24: 1-2a, 15-17, 18b

Bài Đọc I nhắc lại việc ông Gio-suê đưa ra cho dân Ít-ra-en ngay khi họ định cư ở miền đất ngoại giáo một sự chọn lựa dứt khoát: phụng thờ ngẫu tượng hay phụng thờ Đức Chúa, Đấng đã bảo vệ họ và dẫn đưa họ đến tận miền đất mà Ngài đã hứa ban cho tổ tiên của họ.

Ep 5: 21-32

Trong đoạn trích thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, Thánh Phao-lô sánh ví tình yêu chung thủy giữa chồng và vợ trong hôn nhân Ki-tô giáo với sự kết hiệp bất khả phân ly của Đức Giê-su với Hội Thánh của Người.

Ga 6: 54a, 60-69

Tin Mừng trình bày một chọn lựa khác: tin vào Đức Giê-su và vào lời hứa ban thịt và máu của Người, hay từ chối tin vào Người và không chấp nhận mầu nhiệm này. Đây là thời điểm chọn lựa giữa lòng trung tín và thái độ khước từ.

BÀI ĐỌC I (Gs 24: 1-2a, 15-17, 18b)

Sách Gio-suê được đặt liền ngay sau bộ Ngũ Thư; sách này thuật lại việc dân Thiên Chúa định cư ở đất Ca-na-an (thế kỷ thứ mười ba trước Công Nguyên), những diễn biến của cuộc chinh phục, đoạn việc phân chia lãnh thổ giữa mười hai chi tộc Ít-ra-en.

  1. Một sự chọn lựa dứt khoát

Ông Gio-suê, kế nghiệp ông Mô-sê, lãnh đạo dân Do thái. Ông là vị anh hùng chính của sách mang tên ông. Vào cuối đời, noi gương ông Mô-sê, ông Gio-suê muốn căn dặn dân Do thái lần cuối, vì thế, ông quyết định triệu tập toàn thể các chi tộc Ít-ra-en ở Si-khem.

Địa danh mà ông chọn, ở trung tâm Đất Hứa. Xét về phương diện địa lý, địa danh này rất thuận tiện (sau này miền này được gọi là Sa-ma-ri). Ngoài ra, miền này chất chứa biết bao kỷ niệm tôn giáo rất có ý nghĩa: Si-khem là nơi tổ phụ Áp-ra-ham trú ngụ đầu tiên khi đặt chân lên đất Ca-na-an và là nơi vị tổ phụ dựng bàn thờ đầu tiên kính Chúa (St 12: 6-8). Đó cũng là nơi mà tổ phụ Gia-cóp đã tậu một thuở đất và đã chôn dưới gốc cây những tượng thần linh ngoại giáo mà thân nhân của ông còn đem theo với mình, đây là dấu chỉ của việc từ bỏ phụng thờ các thần linh của họ (St 33: 18-20). Hành động này báo hiệu cách đặc biệt việc thờ phượng chỉ một mình Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Cũng một cách như vậy, ông Gio-suê đòi hỏi dân Ít-ra-en phải dứt khoát từ bỏ thờ lạy các thần linh và cam đoan phụng thờ một mình Đức Chúa, Thiên Chúa của họ.

  1. Tấn thảm kịch của sự chọn lựa

Đoạn văn hôm nay trích từ bài diễn từ của ông Gio-suê được đặt vào trong khung cảnh phụng vụ: ông Gio-suê và tất cả các lãnh tụ dân Ít-ra-en “ra trình diện trước nhan Thiên Chúa”. Đây là biểu thức quen thuộc chỉ ra rằng có một đền thánh ở Si-khem (chắc chắn Hòm Giao Ước được đặt ở nơi thánh địa này).

Ông Gio-suê đưa ra cho toàn dân Ít-ra-en một chọn lựa triệt để: phụng thờ các vị thần linh của dân ngoại hay chỉ một mình Đức Chúa. Sự quyến rũ của việc phụng thờ các thần linh có thể xuất xứ từ đa thần giáo của tổ tiên họ, hay từ dân bản địa mà họ cùng chung sống trên đất Ca-na-an. Dân Ít-ra-en phải chọn lựa một trong hai. Ông Gio-suê đòi hỏi họ long trọng tái cam kết. Lập luận cốt yếu mà ông đưa ra dựa trên sự trung tín của Đức Chúa, chính Ngài đã giải thoát họ ra khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, đã dẫn đưa họ đến tận Đất Hứa này, bất chấp mọi trở ngại đã giữ trọn lời hứa của Ngài với cha ông họ. Dân Ít-ra-en phải đáp trả sự trung tín của Thiên Chúa bằng cách tái cam kết phụng thờ chỉ một mình Ngài “vì Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi”.

  1. Giao ước ở Si-khem

Trên bình diện lịch sử, một cuộc triệu tập như vậy cho thấy là cần thiết để tái tổ chức toàn thể dân Chúa chọn thành một dân duy nhất, bởi lẽ dân Do thái vào Đất Hứa, đất mà các tổ phụ đã sống, và gặp lại những hậu duệ đã không cùng họ rời quê hương sang Ai-cập. Việc sáp nhập những hậu duệ này vào các chi tộc của cuộc Xuất Hành quả là cần thiết. Cuối cùng, cũng cần phải hiệp nhất các chi tộc trước khi họ phân tán khắp xứ sở Ca-na-an. Để được như vậy, chỉ có chung một niềm tin mới có thể gắn kết những yếu tố rời rạc của dân Thiên Chúa.

Nhưng về phương diện lịch sử, Giao Ước Si-khem chắc chắn là bản sao chép phụng vụ mà dân Ít-ra-en cử hành hằng năm để long trọng lập lại lời cam kết trung thành tuân giữ Giao Ước. Sách Đệ Nhị Luật xem ra làm chứng điều này, một bài thuyết giáo về Giao Ước theo sát sơ đồ của bài diễn từ ông Gio-suê; hay nói chính xác hơn, ông Mô-sê căn dặn dân Ít-ra-en hằng năm phải tưởng nhớ lời cam kết của mình đối với Đức Chúa. Một ngàn năm sau, việc tưởng niệm như vậy cấu thành yếu tố cốt yếu của “lễ Ngũ Tuần”. Hằng năm, vào ngày đại lễ đó, người ta lập lại lời cam kết trung thành tuân giữ Giao Ước Xi-nai (thật lạ thường, bài diễn từ của ông Gio-suê ở Si-khem không được nhắc đến).

Cuối cùng, chúng ta ghi nhận rằng vào năm 931 trước Công Nguyên sự thống nhất của dân Chúa chọn bị thách đố: mười chi tộc tự tách mình ra khỏi vương triều Đa-vít để thiết lập vương quốc Ít-ra-en, mà kinh đô là Sa-ma-ri; trong khi hai chi tộc còn lại vẫn trung thành với vương triều Đa-vít, được gọi vương quốc Giu-đa, mà kinh đô là Giê-ru-sa-lem. Sự phân ly đau đớn này là phản đề cuộc triệu tập vĩ đại ở Si-khem.

BÀI ĐỌC II (Ep 5: 21-32)

Chúng ta tiếp tục đọc phần thứ hai thư thánh Phao-lô gởi các tín hữu Ê-phê-xô, đây là phần luân lý và khuyến dụ.

Sau khi đã nói về đời sống mới của người Kitô hữu qua phép Rửa, thánh nhân đưa ra vài lời căn dặn liên quan đến đời sống gia đình: thánh nhân tuần tự gợi lên những mối liên hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, chủ và tớ. Đoạn trích hôm nay đề cập đến mối liên hệ giữa chồng và vợ.

Chúng ta cần phải nhận ra hai khía cạnh khác nhau trong bản văn này: khía cạnh lỗi thời, việc khai triễn của những phong tục tập quán đã khiến cho những lời đề nghị của thánh nhân không còn thích hợp nữa; và khía cạnh bất khả đổi thay, luôn luôn có giá trị và luôn luôn mang tính thời sự: sự hiệp nhất của Đức Ki-tô với Giáo Hội của Người được sánh ví với sự hiệp nhất bất khả phân ly của chồng với vợ trong hôn nhân Ki-tô giáo.

  1. Khía cạnh lỗi thời

Bản văn của thánh Phao-lô không còn đáp ứng tâm thức hiện nay của chúng ta. Quả thật, trong bối cảnh tôn giáo, văn hóa và xã hội của thánh nhân, lời khuyên “vợ phải tùng phục chồng” cần phải điều chỉnh lại cho phù hợp với “quyền bình đẳng nam nữ” trong thế giới hiện nay. Mặc dầu viết từ Rô-ma, thánh nhân vẫn quan niệm bổn phận của người vợ theo truyền thống Do thái. Chúng ta cũng nên ghi nhận rằng, về phương diện pháp lý, bổn phận người vợ phải phục tùng chồng trước đây ở Đông Phương rất phổ biến, ngay cả ở Việt Nam: “xuất giá tòng phu”, đã bị hủy bỏ từ lâu rồi. Do đó, chúng ta cũng phải khảo sát hậu cảnh tôn giáo của lời đề nghị này: Giáo Hội tùng phục Đức Ki-tô, chấp nhận Tin Mừng của Người và tuân giữ các huấn lệnh của Người như thế nào thì người vợ phải phục tùng chồng như vậy.

Còn đối với lời khuyên: “người chồng phải yêu vợ mình như yêu chính thân thể mình” không phải là xúc phạm đến người bạn đời của mình sao? Phải nói thực, linh đạo hôn nhân, sau một lịch sử lâu dài, đã vượt qua những quan niệm như vậy. Tình nghĩa vợ chồng sống theo tinh thần Ki-tô giáo là lời mời gọi thường hằng ra khỏi cái tôi của mình, quên đi bản thân mình mà yêu người bạn đời của mình như chính người ấy. Không phải thánh Phao-lô đã tiên cảm điều đó khi nói rằng người chồng phải bắt chước Đức Ki-tô, Người đã “yêu thương và hiến thân mình vì Hội Thánh” đó sao?

Vì thế, trước tiên phải vượt qua những quan niệm này mà cố gắng thấu hiểu tư tưởng của thánh nhân, chủ yếu thuộc loại suy.

  1. Truyền thống Kinh Thánh

Thánh Phao-lô áp dụng cho Đức Ki-tô và Hội Thánh của Ngươi ngôn từ của các ngôn sứ, các ngài đã diễn tả tình yêu của Đức Chúa dành cho dân Ít-ra-en bằng những từ ngữ hôn nhân. Khởi đi từ thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, ngôn sứ Hô-sê đã trình bày hình ảnh hôn ước giữa Thiên Chúa và Dân Ngài bằng những ngôn từ thật thống thiết; từ đó, hình ảnh này trở thành kinh điển. Chúng ta gặp lại hình ảnh này nhất là tại các ngôn sứ: Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en, I-sai-a đệ nhị. Hình ảnh này xuất hiện một lần nữa và được thiêng liêng hóa trong sách Khôn Ngoan (thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên). Chính trong truyền thống Kinh Thánh này mà viễn cảnh của thánh Phao-lô được định vị.

Việc so sánh tình nghĩa vợ chồng phàm nhân với tình nghĩa của Đức Chúa với Dân Người thật là tuyệt vời, dù rằng không phải mọi yếu tố đều xứng hợp. Quả thật, sự so sánh vẫn kiếm khuyết ở nơi mức độ đồng hóa Đức Ki-tô với người chồng được tô điểm bằng sự hoàn thiện, cao cả, uy quyền, và Dân Người với người vợ xem ra hoàn toàn phụ thuộc, có nhiều khuyết điểm, cần được tinh tuyền và thánh thiện “để ra mắt Người”.

Cũng vậy, trong Cựu Ước, Đức Chúa là vị hôn phu rất mực thủy chung, không bao giờ quên những lời thề non hẹn biển của mình; trong khi dân Do thái là vị hôn thê thường bội thề, bất trung với Thiên Chúa của mình, vi phạm các huấn lệnh của Ngài, chạy theo các ngẫu tượng.

Vì so sánh như vậy, người chồng phải yêu thương vợ mình “như Đức Ki-tô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh”. Lời mời gọi chan chứa tình nghĩa chồng vợ này tạo nên một dấu nhấn mới gây xôn xao ở giữa lòng xã hội ở đó chỉ người chồng mới có quyền rẩy vợ và ở đó chỉ người phụ nữ ngoại tình bị trừng phạt (dù rằng tội đồng lõa cũng bị trừng trị: Lv 20: 10; Đnl 22: 22, tuy nhiên chúng ta ghi nhận rằng việc người chồng ngoại tình hiếm khi bị kết án).

  1. Hội Thánh là Hiền Thê và Thân Thể của Đức Ki tô

Đoạn trích thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô này khai triển một trực giác đã xuất hiện kể từ thư thứ hai gởi các tín hữu Cô-rin-tô (2Cr 11: 2), đó là cách diễn tả đạo lý rõ ràng nhất của thánh Phao-lô về Hội Thánh là “Thân Thể Đức Kitô”.

Đức Ki-tô đã thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh “bằng nước và lời hằng sống”, theo nguyên ngữ của bản văn Hy lạp “bằng việc tắm rửa kèm theo lời”. Thánh Phao-lô sử dụng từ “tắm rửa” vì phép Thánh Tẩy được thực hiện bởi việc nhận chìm vào bể nước, nhưng cũng ám chỉ đến nghi thức tắm rửa của vị hôn thê theo tập tục Do thái cũng như Hy lạp. Còn việc kể ra “kèm theo lời” rõ ràng là biểu thức phép Thánh Tẩy. Dù xác định thoáng qua nhưng thật quý báu biết bao.

Có thể cũng có một sự quy chiếu đến phép Thánh Thể, khi thánh nhân gợi lên “người chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, không ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi dưỡng và săn sóc thân xác mình”; đó là điều Đức Giê-su làm đối với Hội Thánh của Người khi nuôi dưỡng Hội Thánh bằng Mình và Máu của Người.

  1. Chiều kích cao cả của hôn nhân

Sự kết hiệp của Đức Giê-su với Hội Thánh là dấu chỉ của sự hiệp nhất giữa đôi vợ chồng trần thế, đó là ý muốn của Đấng Tạo Hóa, vì “cả hai sẽ trở thành một xương một thịt”, như cách diễn tả của sách Sáng Thế mà thánh nhân nhắc lại. Như vậy, sự hiệp nhất chồng vợ được tháp nhập vào trong một thực tại thánh, thực tại này siêu thăng đời sống hôn nhân. Mầu nhiệm hôn nhân thật là cao cả vì là hình ảnh hôn ước giữa Đức Giê-su và Hội Thánh.

TIN MỪNG (Ga 6: 54a, 60-69)

Đây là một trong những trang Tin Mừng thống thiết nhất. Đức Giê-su đã hoàn tất diễn từ Bánh Hằng Sống; Người đã loan báo ân ban thịt và máu của Người bằng những từ ngữ hiện thực nhất. Như vậy, Đức Giê-su đặt để các môn đệ của Người trước một sự lựa chọn: tin vào những lời công bố không thể nào tin được này hay từ chối mà ra đi vì “lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”.

  1. Nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Đức Giê-su nữa

Chúa Giê-su vừa mới công bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống”. Các môn đệ, tức một nhóm đông hơn nhiều nhóm Mười Hai, đã hiểu những lời của Đức Giê-su theo nghĩa thuần túy duy vật: “lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”.

Đức Giê-su thử làm cho họ hiểu rằng để có thể hiểu những lời của Người, có một cách giải thích khác với cách giải thích của họ, không quá duy vật và “xác thể”, nhưng một cách “thần thiêng”“Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư?”. Từ “chướng” theo nghĩa đầu tiên, có nghĩa sự ngăn trở mà người ta vấp phải, như vấp phải hòn đá trên đường. “Thế khi anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” Người muốn hướng tâm trí của họ về tương lai và ở bên kia cuộc tử nạn của Người, khi Người trở về nơi Người đã đến. Lúc đó ý nghĩa của những lời Người nói mới được sáng tỏ: “thịt” và “máu” mà Người ban tặng chính là Thân Thể của Đấng Phục Sinh, là nguồn sống thần linh trao ban vô tận cho loài người, như vậy loài người đón nhận sự sống Người ban mới có sự sống trường sinh trong chính mình.

“Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống”. Lời của Đức Giê-su “là thần khí và là sự sống”, tức là “Thần Khí làm cho sống”, vì chỉ có Thần Khí mới làm cho người tín hữu thấu hiểu được những lời Đức Giê-su đã nói, những phép lạ Người đã làm (3: 6) và những thực tại thần thiêng Người đã biểu lộ qua bản thân Người (Ga 15: 26a). Trái lại, “xác thịt”, tức phàm nhân, chỉ đóng khung trong ánh sáng của riêng mình, không thể hiểu ân ban mà Đức Giê-su hứa. Như vậy, cộng đoàn Ki-tô hữu hậu phục sinh trung thành với bàn tiệc Thánh Thể dễ hiểu hơn các môn đệ chán chường này.

  1. Nỗi buồn của Đức Giê-su

“Nhưng trong anh em có những kẻ không tin. Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người”. Sự phản bội của ông Giu-đa được kết nối với những môn đệ không tin này: “vì lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”. Điều này hé mở cho thấy rằng ông Giu-đa đã vấp ngã trên mầu nhiệm Thánh Thể khởi đi từ nghi ngờ giáo huấn của Thầy về Bánh Hằng Sống.

“Từ đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa”. Trước việc các môn đệ rút lui không theo Người nữa và trước viễn cảnh về một sự phản bội, Đức Giê-su buồn rầu hỏi nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa , anh em cũng muốn bỏ thầy đi sao?”. Nhân danh các môn đệ, thánh Phê-rô tuyên xưng đức tin của mình: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại đời sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Thánh nhân đặt “tin” trước, rồi mới đến “nhận biết”. Chỉ trong ánh sáng của đức tin, người ta mới có thể nhận biết những chân lý vượt quá khả năng hiểu biết của phàm nhân.

Mặc khải Thánh Thể đã đặt ra một sự chọn lựa bi thảm. Mặc khải này vẫn sẽ là “mầu nhiệm đức tin” đối với các tín hữu của mọi thời đại.

Về mục lục

.

LÒNG TRUNG THÀNH.

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Mỗi lần tham dự Thánh lễ hôn phối, ta được nghe từng lời của chú rể : Anh … nhận em … làm vợ và hứa sẽ giữ lòng trung thành với em, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như khi mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em suốt đời anh. Đáp lại, cô dâu cũng nói lên lòng trung thành với chồng của cô.

Lòng trung thành dường như là điều cần thiết cho cuộc sống chung. Trong mọi tương quan, trong mọi bậc sống đều cần lòng trung thành, sự chung thủy với nhau. Bạn bè chơi với nhau cần trung thành để không phản bội nhau. Vợ chồng cần trung thành để không có lỗi với nhau. Thầy trò cần lòng trung thành để gắn bó mật thiết với nhau. . . Và như vậy, chúng ta thấy lòng chung thủy, sự trung thành luôn là điều mà mọi người chúng ta phải gìn giữ trong mọi mối tương quan với nhau.

Nhưng xem ra xã hội chạy theo lợi nhuận đã khiến con người khó giữ lời hứa trung thành. Vì lợi nhuận có người đã thay đổi công ty mỗi năm vài lần, cho dù đó là những ông chủ đã từng cưu mang họ lúc khó khăn. Bạn bè chơi với nhau ngày hôm nay cũng thế ! Rất khó kiếm được bạn tri kỷ như thế hệ cha anh. Họ chơi với nhau  nhưng dễ dàng đạp đổ nhau vì cái lợi cá nhân, vì công danh của họ. Ngày hôm nay càng khó kiếm những đứa học trò về thăm thầy cô sau khi công thành danh toại, đôi khi còn phản thầy, phản bạn và vu khống nhau . . .

Điều báo động là lòng trung thành, sự chung thủy trong hôn nhân hôm nay cũng đang bị phá hủy một cách đáng báo động. Ở những thành phố lớn như Sài Gòn người ta tính cứ 3 đôi kết hôn thì 1 đôi không trung thành với nhau trọn đời. Và theo thống kê tại nơi thử máu AND để xác định cha con ruột với nhau thì cứ 10 trường hợp thì có 3 trường hợp nuôi con hàng xóm. . .

Quả thực, lòng trung thành nói thì dễ nhưng giữ lại chẳng dễ chút nào. Ngay trong tôn giáo có mấy người thực sự giữ lòng trung thành với Thiên Chúa? Ở Việt Nam vào thập niên 1980-1990 của thế kỷ trước rất nhiều người đã ghi vào lý lịch bản thân là không tôn giáo để tìm kiếm công danh cho dễ. Ở đâu đó ta vẫn thấy người Công Giáo nhưng không trung thành giữ luật Chúa, họ vẫn tham ô, lừa gạt, sống thiếu yêu thương . .  .

Lời Chúa hôm nay, ta cũng nghe lời hết sức tình cảm từ môi miệng của Simon Phêrô : “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời “. Nhưng Phê-rô thực sự đã không giữ lời hứa. Ông đã ngã đi ngã lại tới 3 lần và cuối cùng bỏ chạy biệt tăm trên đường thập giá mà Chúa phải đi một mình!

Cuộc đời mỗi người chúng ta dường như cũng có nét gì đó giống Simon Phêrô xưa. Nói yêu Chúa thì dễ nhưng khi phải làm chứng thì lại chạy xa. Đi lễ thì đông nhưng giữ trọn luật Chúa còn mấy ai? Ngày nay không còn có những cuộc bách hại đạo tàn khốc nhưng cuộc cạnh tranh cơm áo gạo tiền đã khiến bao người đánh mất lòng trung thành với Thiên Chúa. Và lòng trung thành với nhau của vợ chồng, của bạn bè , của đối tác làm ăn càng khó giữ vì lợi nhuận mà người ta dễ dàng phản bội nhau.

Chúa Giê-su hôm nay nói với các môn đệ và cũng là chúng ta muốn trung thành với Chúa và với nhau không thể dựa vào bản thân mà hãy dựa vào chính Chúa. Chính ơn ban của Chúa Cha mới giúp chúng ta sống trung thành với lời hứa. Thế nên, chúng ta cần khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối của mình để trông cậy với ơn Chúa. Hãy gia tăng cầu nguyện, hãy phó thác vào Chúa để Ngài nâng đỡ sự yếu đuối của chúng ta và hoàn thiện chúng ta nên tốt hơn.

Xin ơn Chúa giúp chúng ta giữ lòng trung thành với Chúa và với nhau. Nhất là luôn nhận ra Chúa mới là nguồn sống trường sinh để biết chọn Chúa hơn là của cải trần gian mau qua. Amen

Về mục lục

.

CHỌN LỰA KHÔN NGOAN

Lm. Jos. DĐH.

Lửa thử vàng, gian nan thử đức, chẳng ai lại hiểu đó là khái niệm mơ hồ, cho dù vàng bạc quý hiếm, khổ đau trong cuộc sống lại quá nhiều. Câu thành ngữ quen thuộc: không có gì quý hơn độc lập tự do, vẫn mãi còn là một minh chứng, ai cũng sẽ thành công trên hành trình đời này, khi họ biết sử dụng con tim khối óc để chọn một lối đi đúng, để lựa một phong cách sống đẹp. Có sa cơ thất thế mới rõ ai là bạn hiền, có nuôi con mới hiểu công khó của cha mẹ, có vấp ngã trong đời, hẳn sẽ “thấm thía” hơn với trấn an: thất bại là mẹ thành công. Một quyết định đúng, một chọn lựa đúng đẹp, mang đến niềm vui hạnh phúc, sẽ không phải vòng vo trong hy vọng, hay bởi tình cờ may mắn, nhưng sẽ là kết quả của tính hợp lý.

Lạc quan, tự tin, do hoàn cảnh thuận lợi thì quả dễ dàng, được ăn uống đủ chất, được đủ điều kiện học tập, được sống trong bầu khí gia đình hạnh phúc, đối tượng đó thành công đâu khó khăn gì ? Cụ Phan Bội Châu để lại 2 câu thơ vừa khích lệ con cháu hãy tin tương lai sáng lạn ở phía trước, vừa động viên ý chí nghị lực cần phải có để được thành danh: nếu phải đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt nào có hơn ai. Lời giảng dạy của Đức Giêsu về bánh trường sinh, khởi đi từ thực tế thiết thực đến cao sâu, có người im lặng, có kẻ phản kháng, cả một số môn đệ cũng bất mãn vì “lời khó nghe” ! Sứ mạng hay ơn gọi của mỗi người sẽ không êm đềm, xuôi thuận, do đó một chuỗi dài hành trình phía trước, ai cũng cần phải có những chọn lựa khôn ngoan.

Có tình yêu, có bình an, có gắn bó với anh chị em, hiệp thông với Đấng chúng ta tin tưởng, cuộc đời mỗi người mới là lời chứng khôn ngoan: có khó mới có anh hùng, qua bao gian khổ tỏ lòng trung kiên. Con người hôm nay ham hố lợi lộc, bất trung, bội phản, đầy giới hạn yếu hèn có khác gì người thời xưa ! Nhưng nhờ tình yêu Đức Kitô, chúng ta vẫn đang được soi sáng, dẫn dắt, cũng nhờ thế mà “cái đầu” của chúng ta được thông suốt, “trái tim” chúng ta mới không loạn nhịp. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn mời gọi chúng ta tiếp tục chọn lựa: “cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không”?

Chân lý mà người xưa hay nay đều biết: thuốc đắng giã tật, sự thật mất lòng, thực tế thuốc đắng bao giờ cũng khiến người ta ngại uống, sự thật thì khó nghe, khó chấp nhận. Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, Đức Giêsu là Bánh trường sinh, nghe, hiểu, tin, vẫn mãi là ơn ban, là cơ hội dành cho mỗi người. Tình yêu Thiên Chúa không hề đổi thay, dù niềm tin chúng ta chưa khá hơn đám đông năm xưa, Đức Giêsu vẫn là Chúa, là Thầy, là bạn hữu, là Đấng vì yêu, đã chịu chết mà đền thay tội lỗi nhân loại. Chúng ta nên hiểu: đã là bạn thì mãi mãi là bạn, không thể như sông lúc cạn lúc sâu ! Đã là những người tin theo Chúa, không thể sống trong hoài nghi, dù là đám đông Do-thái, là môn đệ, là nhóm 12, hoặc chúng hôm nay, tất cả đều phải dứt khoát lập trường theo Chúa, không thể sống lấp lửng, nửa vời.

Giáo huấn của Đức Giêsu về bánh hằng sống không chỉ hướng đến đám đông Do-thái, vì con người tự nhiên, tất cả đều mơ ước được hạnh phúc, được trường sinh bất tử, do đó chúng ta hôm nay cũng là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa. Cám dỗ chối bỏ Đức Giêsu, không tin Đức Giêsu là Thần lương nuôi linh hồn, vẫn là một điều đáng sợ của sự thông thái, quyền lực, tự mãn. Ở trong tình yêu, người ta không thua khi bị thế gian, ma quỷ, tấn công, mà chỉ thua khi tự đầu hàng chúng. Nhờ tình yêu, mỗi khi phải đối mặt với nghịch cảnh, trong chúng ta luôn có một sức mạnh tiềm ẩn, chính niềm tin sẽ dẫn chúng ta đến một chọn lựa khôn ngoan nhất. Đức Giêsu đã nói tới sự thật về tình yêu thương rất cao sâu đó: “không ai có thể đến với Ta, nếu không được Cha Ta ban cho”.

Tục ngữ có câu: có vụng, sau mới khéo. Có té ngã, thất bại, mới thấy mình chưa khôn, có hiểu sai, có bầm dập khổ đau, mới thấy mình cần tình yêu thương. Cha mẹ thương con thương cháu là đúng, nhưng đâu phải cứ ngọt ngào, cứ đáp ứng đòi hỏi của con cháu mới là thương yêu, nhưng cha mẹ có tình, có lý, có thẳng, có thật, mới thực sự gọi là thương yêu. Sứ mạng của Đức Giêsu sẽ không thể im lặng, rút êm, khi mà đám đông Do-thái, các môn đệ, các tông đồ, đang nghi ngờ về tình yêu của Thiên Chúa, về Bánh hằng sống sẽ được ban cho nhân loại. Đức Giêsu tôn trọng sự chọn lựa của các tông đồ, và cũng như các học trò của Đức Giêsu hôm nay, chúng ta được tự do sống sự chọn lựa thật khôn ngoan: “lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai ? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Amen.

Về mục lục

.

ĐỨC TIN SỐNG ĐỘNG

Bông hồng nhỏ

Có một câu chuyện kể rằng: Có một ông bố giao cho ba đứa con của mình một nhiệm vụ rất quan trọng, hễ ai hoàn thành nhiệm vụ thì ông sẽ trọng thưởng. Cả ba người con nghe xong yêu cầu thì vội vã ra đi. Người con cả lên rừng tìm con thú để về làm món thịt nướng cho cha vì anh nghĩ, chốn rừng sâu nước độc, Chúa sẽ chẳng ở trên ấy. Nhiệm vụ của anh hoàn thành. Người con thứ lặn xuống sông bắt cá vì nghĩ rằng, dưới nước sâu Chúa sẽ chẳng hiện diện. Người con út ra đi, anh xuống thung lũng sâu vẫn gặp thấy Chúa, lên rừng Chúa vẫn hiện diện. Cuối cùng anh trở về tay không. Chỉ có anh con út được cha trọng thưởng dù anh trở về tay không. Bởi anh đã mang về cho cha cả một kho báu, đó là niềm tin vào Thiên Chúa hằng hữu.

Hôn nay, sau khi nghe Thầy Giê-su khẳng khái tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6,54a), nhiều môn đệ phản đối, có kẻ đã rút lui, không còn đi theo Thầy Giê-su nữa. Có lẽ thầy Giê-su đã rất buồn khi các môn đệ không hiểu tấm lòng Thầy Giê-su yêu thương họ,  và càng buồn hơn khi họ bỏ đi, chối từ nguồn sống được ban cho họ. Đối với họ, việc ăn thịt và uống máu con người là điều kinh khủng, chỉ xảy ra ở những kẻ man di mọi rợ. Họ chẳng nhận biết rằng Thầy Giê-su chính là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (x. Ga 6, 69b) và Ngài có thể trao ban chính máu thịt Ngài nuôi sống con người vì yêu con người đến cùng (x. Ga 13, 16). Khi chứng kiến sự ra đi, sự chối từ của các môn đệ, Nhóm Mười Hai có lẽ cũng không tránh khỏi sự bối rối. Thầy Giê-su biết trước sẽ có kẻ không tin và kẻ nào sẽ nộp mình nhưng với tình yêu bao la, Thầy muốn cho tất cả đều được nghe lời sự sống. Thầy Giê-su hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6, 67). Trước câu hỏi của Thầy, Nhóm Mười Hai đứng trước hai chọn lựa: một là nhất quyết trung thành với Thầy, hai là dứt áo ra đi.  Ông Phê-rô đã thay mặt anh em thưa với Thầy: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6, 69). Trước dư luận phản đối Thầy Giê-su, câu trả lời của Tông đồ Phê-rô chính là một xác tín mạnh mẽ, quyết liệt, đã nâng đỡ đức tin của anh em mình. Không những thế, câu trả lời còn cho thấy niềm tin vào Thầy Giê-su và ơn gọi đi theo Thầy nơi nhóm Mười Hai, trước sau như một, quyết chí trung thành.

Về phần ta, ta được lắng nghe lời Thiên Chúa dạy dỗ, được chính Thánh Thể Chúa dưỡng nuôi. Đó là hồng ân Thiên Chúa ban tặng cho ta. Nhịp sống ngày càng vội vã, hối hả đã kéo ta như càng lìa xa Thiên Chúa. Đức tin mà ta tuyên xưng liệu có trở thành một lời tuyên tín chân thực, thống nhất trong cuộc sống của ta? Ngày hôm nay ta mạnh mẽ ca vang tình yêu Chúa nhưng có đôi lần ta lại lãnh đạm thờ ơ với Chúa. Như thế là thế nào? Chẳng phải lúc ta ngại ngùng giấu giếm mình là Ki-tô hữu khi không làm dấu Thánh, hay khi không rộng lòng chia sẻ với anh em mình vật chất ta có, tình yêu thương của ta,.. là khi ta bỏ Thầy Giê-su rồi sao? Chính Tông đồ Phê-rô cũng đã chối Chúa ba lần vì sợ hãi nhưng cũng ba lần ông thưa với Chúa Giê-su Phục Sinh: “Thầy biết con yêu mến Thầy” (x. Ga 21, 15-17).  Noi gương Ngài, ta hãy sống tinh thần sám hối và yêu mến Chúa mỗi ngày bằng một đức tin sống động.

Lạy Chúa, sau khi hân hoan lắng nghe lời Chúa và dự tiệc Thánh Thể no say, xin cho con can đảm sống lời Chúa bằng một đức tin sống động, một tình yêu mến chân thực. Nếu khi nào con vấp ngã, xin Chúa kéo con về để con được thánh hóa trong Chúa. Amen.

Về mục lục

.

HOANG ĐƯỜNG

Lm Vũdình Tường

Kẻ thì cho là hoang đường, kẻ khác lại nói nghe chói tai, kẻ khác nữa cho là khó nghe, kẻ khác thấy không thoải mái. Đây là phản ứng của đám đông khi họ nghe Đức Kitô nói về lương thực trường sinh.

Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. c.53

Đức Kitô biết phản ứng của họ, Ngài đã không rút lại lời đã nói, trái lại còn nhấn mạnh thêm

Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thị tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống. c.54

Nghe vậy đám đông xa lánh Ngài. Đức Kitô không để cho đám đông lung lạc công việc Ngài làm và Ngài cũng muốn môn đệ xác định rõ í định của họ nên Ngài nói với các ông

Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? c.62

Đức Kitô đưa ra những lời trên để cho đám đông tự chọn thái độ sống cho riêng họ. Tin theo Đức Kitô hoặc chối bỏ Ngài. Sau khi thấy đám đông ra đi, Đức Kitô hỏi riêng các môn đệ

Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao? c.67

Đừng coi thường người ngư phủ này, Phêrô đại diện anh em lên tiếng

Thưa thầy, bỏ thầy chúng con biết đến với ai? Thầy mới có lời đem lại sự sống đời đời c.68

Câu đáp của Phêrô làm mọi người kinh ngạc về sự khôn ngoan sâu hơn đáy biển, rộng hơn bầu trời. Phêrô đáp lại Đức Kitô ngoài Ngài ra không còn ai hơn được. Phêrô không cho biết ông đã theo những ai. Tuy nhiên câu so sánh cho biết ông biết có những người khác cũng đưa những hứa hẹn nên mới so sánh. Ông cũng nhận định Đức Kitô là Đấng tốt lành nhất. Hơn nữa ông còn xác quyết Thầy là Đấng có lời ban sự sống đời, không phải sự sống thường mà là sự sống đời đời. Đám đông cho là lời nói chói tai, trong khi Phêrô cho là lời hằng sống. Điều mà ông cầu mong. Hơn nữa Phêrô còn nhận biết Đức Kitô đến từ Thiên Chúa. Rất có thể câu nói: nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? giúp Phêrô mở ánh sáng con mắt đức tin nhận biết Đức Kitô là Đấng Thánh của Thiên Chúa c.69

Tương tự như Joshua tuyên xưng đức tin trước cộng đoàn của ông. Phêrô cũng tuyên xưng đức tin trước mặt Đức Kitô. Joshua nói với toàn dân

Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ í chọn thánh thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông, hoặc các thần của người

Amorites mà anh em đã chiến đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa Jos 24,15

Cả hai nhóm tin vào Đức Kitô và không tin vào Đức Kitô đều có những điểm chung và những điểm khác biệt.

Điểm chung thứ nhất cả hai cùng đi tìm sự sống thật, khi tìm gặp kẻ tin, người không. Thứ hai, cả hai đều tìm gặp được Đấng ban sự sống thật. Thứ ba, cả hai nhóm đều hiểu lờ mờ giáo huấn của Đức Kitô. Thứ tư, cả hai phải làm quyết định quan trọng trong chọn lựa.

Điểm khác biệt. Thứ nhất, mhóm chọn tin theo; nhóm chọn không tin. Thứ hai, nhóm chọn tin thầm lặng; trong khi nhóm chọn không tin nhiều lời chỉ trích, phê bình, chê bai. Thứ ba, nhóm chọn tin theo chấp nhận thay đổi, đổi cách sống mới. Nhóm không tin, không thay đổi nhưng trở về với lối sống cũ. Thứ tư, nhóm không tin chọn lối sống của tiền nhân và tiếp tục tìm kiếm; nhóm tin chọn thay đổi theo lối sống do Đức Kitô hướng dẫn và tiếp tục nhận được giáo huấn của Ngài. Nhóm thay đổi vẫn giữ truyền thống nhưng được Đức Kitô giải thích theo lối mới: Bác ái và yêu thương làm lề luật căn bản. Thứ năm. Nhóm chọn theo Đức Kitô sống vui vẻ, nhóm chọn lối sống cũ đã không vui sống còn sống trong phàn nàn, than phiền.

Đi theo Đức Kitô là tự nguyện sống theo đường lối Chúa; đường lối đó là tin vào Chúa và yêu thương tha nhân. Tin vào Chúa là chấp nhận thay đổi theo tình yêu Chúa hướng dẫn, đặt í Chúa trên í ta và sống thực thi í Chúa. Để í Chúa hướng dẫn cuộc sống. Đôi khi điều này không dễ chấp nhận, nhất là khi điều đó đòi hỏi hy sinh, đau khổ. Con người luôn muốn làm chủ đời mình, muốn làm chúa tể mọi loài. Để Chúa làm chủ đòi hỏi khiêm nhường, hạ mình phục vụ anh em. Chúng ta xin ơn khôn ngoan biết coi trọng và đặt í Chúa trên í riêng.

Về mục lục

.

CẢ CÁC ANH CŨNG TÍNH BỎ ĐI HAY SAO?

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

Bài Tin Mừng Gioan hôm nay (Ga 6:60-69) nói lên những phản ứng khác nhau của các môn đệ về bài giảng Bánh Hằng Sống mà chúng ta đã nghe ở hai tuần trước. Chúa Giesu ban bánh, nhưng không phải như manna mà Thiên Chúa ban trong hoang địa cho dân Israel mà là chính Người, là sự Sống. Ai ăn bánh này “sẽ được sống đời đời”.

Danh từ Bánh và Sự Sống trong Tin Mừng Gioan, chỉ là những từ bình thường, nhưng lại mang một ý nghĩa thần học. Lời Chúa nói ra lúc đó không đơn giản như vậy; nó khá phức tạp, có thể đụng chạm người nghe. Thấy cử chỉ và thái độ của khán thính giả, chúa Giesu nói: “ Những lời đó đã xúc phạm các ngươi hay sao?”

Câu hỏi thách thức đó của Chúa đã đặt ra một vấn đề cực kỳ quan trọng. Không phải chỉ có một người theo Chúa đã phản bội Chúa, nhưng thực tế có những người đã từng theo Chúa nay “quay lưng lại với Chúa, không theo Chúa nữa.”

Nhóm người này co cụm lại khi cao điểm đã tới. Dù Chúa cắt nghĩa thế nào đi nữa cũng có kẻ hủy lời hứa quay mặt bỏ đi. Gioan dùng từ “các môn đệ” là ám chỉ những kẻ quay lưng bỏ đi. Họ không phải là những người tình cờ đến nghe Chúa hoặc thường xuyên nghe. Họ là những môn đệ đã từng biết Chúa và Chúa biết họ rất rõ.

CẢ CÁC ANH NỮA CŨNG TÍNH BỎ ĐI CHĂNG?

Đoạn Chúa gọi 12 tông đồ lại và đặt vấn đề thẳng với các ông: “Cả các anh cũng tính bỏ đi hay sao?”

Phero, coi như phát ngôn viên của nhóm trả lời: “Thưa Thầy, chúng tôi có thể đi theo ai bây giờ đây? Thầy là lời hằng sống.” Lời Chúa nói thì mỗi lúc có một ý nghĩa khác, nhưng sự trao đổi này giống hệt như lời tuyên xưng của Phero trên đường đi tới các làng  xã ở vùng Caesare Philippi khi Chúa hỏi “Người ta nói thầy là ai?” Phero trả lời: “Thấy là Kito, đấng Thiên Sai” (Mc 8:27-30) Cả hai trường hợp này, phép lạ hóa bánh chỉ là thay đổi bối cảnh của một câu hỏi quyết định: Chúa Giesu thực sự là ai?

ĐÒI HỎI CỦA PHAOLO VỀ PHÉP HÔN PHỐI

Đọc thư thánh Phaolo (bài đọc 2) nói về tình nghĩa vợ chồng, chúng ta phải hiểu thánh nhân  có ý nói tới sự liên hệ chúa Kito và Giáo Hội. Tình yêu hỗ tương vợ chồng thế nào thì sự liên kết giữa Giáo Hội và chúa Kito cũng vậy.

Khởi điểm và trung tâm của hôn nhân Kito giáo là Tình Yêu. “Chồng phải yêu thương vợ, như chúa Kito thương yêu Giáo Hội và hy sinh mạng sống vì Giáo Hội.” Bài giảng của Phaolo có vẻ khó khăn đối với hoàn cảnh thời nay.

Như trong Sáng Thế (St 2:24), hôn nhân là một cơ chế thánh (Ep 5:31), Phaolo diễn tả  tình nghĩa vợ chồng theo hôn nhân Kito giáo một cách tượng hình, ám chỉ  sự liên hệ mật thiết giữa đức Kito và Giáo hội. Người vợ phải phục vụ chồng đúng như tinh thần phục vụ của Giáo Hội đối với chúa Kito (Ep 5:22, 24), và người chồng phải săn sóc vợ mình suốt đời như Chúa Kito trung thành với Giáo Hội vậy (Ep 5:25-30).

Phaolo đã thêm vào đoạn sách Sáng Thế một ý nghĩa cao xa nhất phù hợp với sự nối kết giữa chúa Kito và Giáo Hội, trong đó sự trung thành và tận hiến của đôi vợ chồng Kito giáo phải giống như đức Kito đối với Giáo Hội (Ep 5:31-33).

Câu thánh Phao nói “vợ phải phụ thuộc chồng” có thể bị hiểu lầm nếu tách ra khỏi bản văn. Vì như vậy là chồng đã lạm dụng, hành hạ vợ (Ep 5:22). Nhưng cả đoạn (c.21-33) lại nói lên tình yêu hỗ tương giữa chồng vợ như tình yêu chúa Kito và Giáo Hội: “Người chồng phải yêu vợ mình như yêu chính mình,  như chúa Kito yêu Giáo Hội.”

Kinh Thánh không thể dùng để diễn nghĩa hoặc gán ép cho bạo hành và lạm dụng. Tin Mừng kêu gọi tất cả chúng ta yêu thương nhau, săn sóc nhau và kính trọng nhau, thì tình nghĩa hôn nhân cũng bắt buộc như vậy mà còn phải hơn thế nữa, vì đó là tình liên đới có giao ước.

Tình yêu và sự kính trọng hỗ tương này cũng cần phải trải rộng thành tình liên đới giữa các quốc gia và các dân tộc. Nó phải được thể hiện nơi cấu trúc và luật lệ của xã hội. Yêu thương nhau, phục vụ nhau là chìa khóa mở cửa vào một hôn nhân đầy tình người, tình thương đích thực, một tình liên đới chính danh và ngay thẳng

GIA ĐÌNH LÀ NỀN TẢNG XÃ HỘI

Biển Đức XVI viết trong “Bác Ái trong Sự Thật / Caritas in Veritate”:

“Vì vậy, điều này đang trở thành một nhu cầu xã hội và cả kinh tế nhất là khi nó được giới thiệu cho những thế hệ trẻ vẻ đẹp của hôn nhân và gia đình để họ thấy rằng các cơ chế đó đáp ứng được những nhu cầu xâu xa nhất và phẩm giá của con người.

“Trong viễn tượng này, các quốc gia được kêu gọi đưa ra những chính sách nhắm vào trung tâm điểm và sự vẹn toàn của gia đình được đặt trên nền tảng hôn nhân giữa người nam và người nữ, là tế bào căn bản và sống động của xã hội, hẩu bảo đảm nhu cầu kinh tế tài chính trong khi tôn trọng đặc tính tương giao chính của gia đình.” (44)

“Bác Ái trong Sự Thật / Caritas in Veritate” được coi như một đáp ứng cho khủng khoảng kinh tế

của thời đại, nhưng còn hơn thế nữa đã bảo vệ gia đình, thánh hóa đời sống và ngăn cản hành động hạ thấp phẩm giá con người. Biển Đức đã cẩn thận dò xét mọi địa hạt, mổ xẻ từng vấn đề liên hệ cũng như mối tương quan giữa nó và kinh tế.

Không kể bất cứ một khía cạnh kinh tế nào, sự khôn ngoan được chia sẻ đều liên quan đến chính những địa hạt đó. Nó giúp chúng ta rất nhiều khi cố gắng muốn phát triển con người đích thực. Đây không phải là giảng huấn cổ xưa hay một tàn dư của quá khứ. Nó là nền tảng sống động cho con người ở hiện tại và mai sau. Giông như nhiều lời chúa Giesu nói, ở đây có lời đã xúc phạm thiên hạ và “họ bỏ đi”.

Không có con người có hôn phối, chúng ta không thể tạo dựng tương lai của xã hội và Giáo Hội. Tu sĩ tốt cũng do những gia đình tốt và vững chắc. Họ có ơn gọi để phục vụ Giáo Hội. Nạn khủng khoảng ơn gọi ở nhiều nơi trên thế giới phần lớn là do gia đình đổ vỡ và bị hủy hoại.

       VẤP NGÃ VÀ THỬ THÁCH

Chiều sâu và ý nghĩa của đoản văn của đức Kito cũng như giảng huấn về Giáo Hội có thể đã bị hiểu lầm, khiến những kẻ không tin bị vấp ngã, nhưng lại là một thử thách cho những ai có niềm tin.

Chủ đề gương xấu -trong Tân Ước- được liên kết với niềm tin, nghĩa là tự do chấp nhận mầu nhiệm chúa Kito. Trước Phúc Âm, chúng ta không thể vô cảm, hờ hững hay thoái thác lảng tránh. Thiên Chúa gọi đích danh từng cá nhân mỗi người chúng ta và yêu cầu chúng ta phải tuyên xưng về người (Mt 10:32-33).

Khi chúng ta đối diện với những giảng huấn khó khăn của chúa Giesu và Giáo Hội, chúng ta có muốn bỏ đi không? Có thể nói, rất nhiều lần, vì vấn đề phức tạp và áp lực của xã hội quanh ta, chúng ta muốn “bỏ đi?”

Khi chúa Giesu hỏi các môn đệ–“các anh có muốn bỏ đi không?” Phero đại diện đã không nói“Vâng”, mà cũng không hoàn toàn nói “Không”. Ông đã trả lời: “Chúng con có thể đi theo ai đây bây giờ?” Đây không phải là một trả lời có tính nịnh bợ vuốt ve Chúa nhưng là lời chân tình và thành thật. Phero và các môn đệ đã ở lại với Chúa vì Chúa là nguồn mạch sự sống của họ. Chúa Giesu giải phóng họ và ban cho họ một đời sống mới.

Bước theo Chúa và tuân theo giảng huấn của Giáo Hội không phải luôn luôn dễ, thoải mái, sung sướng, được ăn trên ngồi trước, làm cha thiên hạ. Nhưng một khi đã đi vào nghiệp vụ đời sống vĩnh cửu thì không thể có cách nào khác thay thế là Thập Giá.

Tuần này chúng ta ráng nhớ lời Chúa Giesu:

Ai ăn ta thì sẽ sống vì ta.” Hãy là chứng nhân cho niềm tin Giáo Hội và kế hoạch của Thiên Chúa về hôn nhân là một nối kết thánh giữa người nam và người nữ, cũng như đời sống gia đình là nền tảng của xã hội.

Về mục lục

.

TRAO BAN SỰ SỐNG THẦN LINH

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Hôm ấy, tại hội đường Ca-phác-na-um, Chúa Giê-su nói với những người hiện diện: “Thật, tôi bảo thật các ông: Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi,thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy… ”

Mọi người trong hội đường cảm thấy bị “sốc” trước những lời này của Chúa Giê-su. Ngay cả các môn đệ thân tín của Chúa Giê-su cũng nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” Và thế là kẻ trước người sau lần lượt bỏ đi không muốn theo Ngài nữa!

Chúa Giê-su rất đau lòng trước tình cảnh đó, Ngài nói với Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”

Hôm nay, ngay cả những người có đạo khi nghe những lời này cũng cảm thấy “ghê”.  Tại sao Chúa lại nói những lời gây khó chịu cho bao người như thế?

Phải hiểu thế nào cho đúng lời Chúa Giê-su trong Tin mừng hôm nay.

Trước hết ta cần phân biệt thân xác của Chúa Giê-su trước và sau khi phục sinh khác biệt rất xa.

Trước phục sinh, thân xác Ngài hoàn toàn giống như thân xác chúng ta: cần ăn khi đói, cần uống khi khát, thân xác đó có thể bị thương tích vì roi đòn, bị đâm thủng bởi ngọn giáo của người lính Rô-ma và thân xác đó đã thực sự bị giết chết…

Tuy nhiên, sau khi phục sinh, thân xác Chúa Giê-su biến đổi hoàn toàn nên không còn giống như thân xác chúng ta: Dù các môn đệ họp nhau trong phòng cửa đóng then cài cẩn thận, Chúa Giê-su phục sinh vẫn hiện đến giữa họ không cần qua cửa; thân xác phục sinh của Chúa Giê-su không lệ thuộc không gian; thân xác đó không thể bị thương tích và không bao giờ chết nữa…

Nói tóm lại, sau khi phục sinh, Chúa Giê-su mang một thân xác thần linh, thiêng liêng, vô hình vô tướng.

Vì thế, khi Chúa Giê-su nói “Thịt Ta là Của ăn, máu Ta thật là Của uống …” là Chúa Giê-su nói về thân xác phục sinh của Ngài, nói về Thịt Máu thiêng liêng của Ngài, chứ không phải là nói về thân xác chưa sống lại, vì thân xác trước phục sinh của Chúa Giê-su có thể chỉ cao chừng 1,8m, nặng chừng 80 kg thì có đâu mà cắt chia ra cho nhiều người ăn được.

Chúa Giê-su xác nhận Mình và Máu mà Ngài hứa ban chính là thân xác sau phục sinh, như lời Ngài nói : “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống.”

Như thế khi chúng ta ăn uống Mình Máu Chúa Giê-su là chúng ta ăn uống Mình Máu của Chúa Giê-su phục sinh. Đây không phải là thứ thịt máu của con người trần gian, mà là thịt máu của Thiên Chúa, rất thiêng liêng, vô cùng cao cả.

Tại sao Chúa Giê-su mời chúng ta ăn uống Thịt Máu đã phục sinh vinh hiển của Ngài ?

Bởi vì,

Sự sống của thân mình không thể chuyển qua nuôi sống bàn tay khi bàn tay đó bị cắt lìa khỏi cơ thể, không còn nên một với thân thể.

Tương tự như thế, Sự Sống của Chúa Giê-su không thể thông truyền cho chúng ta nếu chúng ta không được tháp nhập nên một với Ngài.

Vì thế, Chúa Giê-su mời ta ăn uống Thịt Máu Ngài, để nhờ đó ta trở nên một với Ngài, cùng chung máu thịt với Ngài… Và một khi được nên một với Chúa Giê-su mật thiết như thế, thì những gì của Chúa Giê-su cũng là của chúng ta; Sự Sống của Chúa Giê-su cũng là sự sống của chúng ta. Bấy giờ chúng ta được sống đời đời mãi mãi với Chúa Giê-su.

Lạy Chúa Giê-su,

Người mắc bệnh ung thư vào thời kỳ cuối chỉ cầu mong sao sống thêm được chừng 5 hoặc 7 năm nữa là phúc lắm rồi và người bệnh sẵn sàng bỏ ra tiền tỷ để mưu cầu sống thêm được một thời gian ngắn trên dương gian.

Thế mà hôm nay, Chúa mời chúng con đón nhận Mình máu thánh Chúa để được sống muôn đời với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần cùng với Mẹ Maria và các thánh trên thiên quốc thì còn gì quý bằng!

Xin cho tâm hồn chúng con tràn đầy hoan lạc trước hồng phúc vô giá và khao khát tiếp nhận hồng ân nầy với hết lòng cảm tạ tri ân.

Về mục lục

.

THANH TẨY BẰNG LỜI CHÚA

Lm. Bosco Dương Trung Tín

“Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68).

  Tại sao thánh Phê-rô cũng như các tông đồ dám nói lên câu nói đó ? Vì các Ngài “đã tin và nhận biết rằng Đức Giê-su là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (x.Ga 6,69). Nói cách khác, Đức Giê-su không chỉ là người mà còn là Thiên Chúa nữa. Nên Lời của Đức Giê-su, cũng chính là Lời của Thiên Chúa, cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Theo nghĩa đen, tức là Đức Giê-su là Ngôi Lời của Thiên Chúa nhập thể (x.Ga,1,1). Theo nghĩa bóng, tức là Đức Giê-su là Ngôi Hai Thiên Chúa, nên Lời của Ngài nói cũng là Lời của Thiên Chúa. Tóm lại, Lời mà Đức Giê-su nói là LỜI CHÚA.

  Lời Chúa mới đem lại cho ta sự sống đời đời. Nếu ta bỏ Chúa thì ta sẽ đến với ai đây ? Ta sẽ đến với người đời, đến với người này người kia. Thế nhưng, lời của những người này không đem lại cho ta sự sống đời đời. Vì “Thần Khí mới là cho sống, chứ xác thịt nào có ích chi. Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống” (x.Ga 6,63). Lời của Đức Giê-su là Thần Khí và là sự sống, nên Lời của Đức Giê-su đem lại cho ta sự sống đời đời. Còn lời của người đời là “xác thịt”, không có ích chi cho sự sống đời đời của ta cả.

Khi ta nghe và thực hành Lời Chúa, thì sức mạnh của Chúa làm việc trong ta, ta cũng làm việc trong Chúa và sống với Chúa, Lời Chúa trở thành nguyên lý cho sức sống và cho sự sống của ta. Không chỉ ở đời này mà còn cả đời sau, nghĩa là đời đời. Khi ta nghe lời người đời, ta sẽ xa rời Chúa, may ra ta chỉ có sống ở đời này, chứ không được sống ở đời sau với Chúa. Ở đời này ta đã xa rời Chúa thì đời sau ta cũng xa rời Chúa luôn. Quả thực lời của người đời chẳng có ích gì cho đức tin của ta, cũng chẳng đem lại cho ta sự sống đời đời được.

Chỉ có Lời Chúa mới có sức thánh hóa và thanh tẩy ta nên xinh đẹp, nên lộng lẫy; không có vết nhăn hay tì vết nào, tức là làm cho ta nên thánh nên thiện. Thánh Phao-lô nói: “Người thánh hóa và thanh tẩy Giáo Hội bằng Nước và Lời hằng sống, để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp, lộng lẫy, không tì ố, không vết nhăn hoặc bất cứ khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền” (x. Ep 5, 26-27). Nói về Hội Thánh cũng là nói về mỗi người chúng ta.Vì mỗi người chúng ta là thành phần của Hội Thánh.

Mỗi người chúng ta đã được thánh hóa bằng Nước, tức là bằng phép rửa tội, điều đó cần nhưng chưa đủ. Ta còn cần đến Lời Chúa thanh tẩy nữa. Qua phép rửa, ta được thánh hóa và trở nên con cái Thiên Chúa. Để rồi từ ngày đó trở đi ta sống đời làm con Chúa. Làm con Chúa thì ta phải nghe và sống Lời Chúa. Quả thực, chỉ có nghe và thực hành Lời Chúa, ta mới trở nên đích thực là con Chúa, nếu không, ta chỉ là con Chúa trên giấy tờ. Chỉ có “Made in Con Chúa” thôi.

Phép rửa ta chỉ chịu có một lần, được thánh hóa một lần, nhưng ta cũng cũng cần Lời Chúa thanh tẩy ta mỗi ngày. Mỗi khi ta sống Lời Chúa là mỗi lần ta được thanh tẩy. Có tẩy đi tẩy lại ta mới nên thánh thiện. Con người của chúng ta hèn mọn và yếu đuối mà. Có nghĩa là ta cần sinh lại mỗi ngày qua Lời Chúa. Mỗi lần sinh lại là ta “lột xác” như rắn, như cua, để ta lớn lên, để ta nên thánh nên thiện.

Điều này cũng giải thích cho ta hiểu, tại sao trong Giáo Hội Công Giáo nói chung và Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ nói riêng, lại có sự lạm dụng tình dục trẻ em của hàng giáo sĩ. Vì các Đấng các Bậc đó, mới được thánh hóa trong bí tích rửa tội, trong bí tích truyền chức, chứ chưa được thanh tẩy bằng Lời Chúa. Có nghĩa là các Vị đó chưa sống Lời Chúa trong cuộc sống của mình, nên đã làm những việc xấu xa như vậy và làm cho Hội Thánh không xinh đẹp, không lộng lẫy và mang những vết nhăn, mang những vết tì ố.

Điều này cũng thức tỉnh mỗi người chúng ta, hãy coi chừng, nếu ta không nghe và không sống Lời Chúa trong cuộc sống của mình thì ta sẽ không đáng là con Chúa đâu. Ta sẽ làm những điều xấu xa, gian ác và làm cho Hội Thánh Chúa có nhiều vết nhăn và nhiều vết tì ố đấy. Mỗi người chúng ta đều phải trả lẽ trước mặt Chúa về những việc mình làm và những gì mình sống.

Có khi ta sẽ bị Chúa xét xử nghiêm khắc hơn. Tại sao ta được rửa tội rồi mà ta không sống đời làm con Chúa chứ, ta rửa tội để làm gì ? Chẳng lẽ cứ được rửa tội là ta được lên thiên đàng và sống đời đời sao? “Không bao vờ”, “né vờ” (Never). Chỉ khi nào ta nên thánh nên thiện ta mới được lên thiên đàng và sống đời đời với Chúa thôi.

Tại sao ta đã chịu chức làm Hồng y, làm Giám mục, làm Linh Mục, làm Phó tế mà ta không nên thánh nên thiện cơ chứ ? Thế thì ta chịu chức để làm gì? Chẳng lẽ để bị lên án và bị kết án sao? Càng chức trọng quyền cao bao nhiêu thì ta sẽ càng bị xét xử nghiêm khắc bấy nhiêu.

Tại sao ta khấn rồi mà ta không nên thánh nên thiện cơ chứ. Vậy ta khấn để làm gì ? Chẳng lẽ để ta làm việc và học hành thôi sao ? Ta sống đời thánh hiến mà ta không nên thánh thì sao cơ chứ, có uổng phí, có nực cười quá chăng !!!!

Quả thực, khi được rửa tội, được truyền chức, được khấn dòng là ta có cơ hội rất tốt để nghe và thực hành Lời Chúa, để dần dần ta nên thánh nên thiện. Ta được gia nhập vào Cộng Đoàn Dân Chúa, cũng giống như các môn đệ được gặp Đức Giê-su vậy. Các Tông Đồ gặp Đức Giê-su, được nghe Lời Người để các ngài có thể nói rằng: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”.

Mỗi người chúng ta cũng vậy, khi được rửa tội, khi được chịu chức, khi được khấn dòng là ta được gia nhập vào Giáo Hội và được phúc nghe Lời Chúa. Ta cũng phải thâm tín và nói rằng: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”. Ta đừng thấy những việc lạm dụng xấu xa của một số người mà bỏ Chúa, bỏ Giáo Hội. Không. Chúa không xấu; Giáo Hội không xấu; chỉ có những người không sống Lời Chúa mới xấu xa mà thôi. Coi chừng trong đó có ta, nếu ta không sống Lời Chúa.

Vậy ta hãy khắc cốt ghi tâm rằng: Lời Chúa là Thần Khí và là sự sống. Lời Chúa mới đem lại cho chúng ta sự sống đời đời mà thôi. Ta hãy lắng nghe và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống và trong ơn gọi của mình, để dần dần chúng ta nên thánh nên thiện. Nên thánh nên thiện phải là mục đích tối hậu ta phải nhắm đến. Có làm gì, có học hành chi, có phục vụ thế nào thì mục đích cuối cùng của ta là phải làm cho ta nên thánh nên thiện, chứ không vì một mục đích nào khác.

Có thế, ta mới sống bình an và hạnh phúc ở đời này và ngày sau cũng được sống đời đời với Chúa trên thiên đàng nữa. Đồng thời, chúng ta cũng góp công làm cho Giáo Hội Chúa nên xinh đẹp, lộng lẫy, bớt đi những vết nhăn; bớt đi những vết tì ố, bớt đi những khuyết điểm, để nên thánh thiện và tinh tuyền trước thế gian và trước Thiên Chúa.

Về mục lục

.

CHỌN LỰA: MỘT HÀNH VI KHÔNG DỄ

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Cả anh em nữa, anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không? Chúa Giêsu không hỏi: anh em có tiếp tục theo Thầy không mà lại hỏi thẳng thừng: anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không. Một câu hỏi không thuộc dạng mời gọi như trước đây mà là đặt vấn đề chọn lựa rõ ràng, dứt khoát.

Kitô hữu chúng ta theo đạo không phải là theo một học thuyết mang tính triết lý hay thần học nào đó, nhưng là theo một “con người”, theo một “ai đó”, một “Đấng nào đó”. Đấng hay con người mà chúng ta lựa chọn đi theo, lựa chọn để gắn bó, đó là Đức Giêsu Kitô. Chọn lựa một công việc để làm kế sinh nhai quả không mấy dễ. Chọn lựa một bậc sống thật lắm phân vân đủ bề. Chọn lựa một con người để làm bạn đời trăm năm cũng lắm sự nhiêu khê. Và chọn lựa Đấng để trao gửi hạnh phúc hôm nay và vĩnh cửu chắc chắn sẽ khó khăn hơn nhiều. Vì thế, khi phải chọn lựa trong một vấn đề quan trọng, chúng ta cần có đủ cơ sở một cách nào đó.

Sau khi nhắc lại cho dân tình yêu của Thiên Chúa qua các kỳ công Người đã thực hiện để bảo vệ dân, Giosuê khẳng khái trước toàn dân rằng: “Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa” (Gs 24,15) . Và dân đã đáp lại rằng họ không hề có ý định bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác. Họ sẽ thờ phụng Thiên Chúa, vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của họ dùng quyền năng thực hiện những dấu lạ lớn lao để đem họ cùng với cha ông họ ra khỏi đất Ai Cập, khỏi nhà nô lệ mà vào đất hứa. Như thế, cơ sở để dân Chúa xưa chọn thờ phụng Người đó là vì Người đã giải thoát họ khỏi cảnh đời nô lệ.

Trước câu hỏi của Chúa Giêsu, một kiểu đặt vấn đề đòi hỏi có sự chọn lựa dứt khoát thì Phêrô đã thay mặt nhóm Mười Hai trả lời: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). Không kể trường hợp một phần tử trong nhóm không tin, thì câu trả lời của Phêrô nói lên sự chọn lựa của cả tập thể Tông Đồ. Và sự chọn lựa ấy đặt cơ sở trên điều này: vì Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Để nói lên được những lời này, chắc chắn cùng với các bạn, Phêrô đã từng chứng kiến uy quyền của Thầy khi khiến nước lã hóa thành rượu ngon (x.Ga 2,1-12). Các vị đã từng nghe Thầy nói với viên sĩ quan cận vệ nhà vua rằng: “Ông cứ về đi, con ông sống” và đứa con trai của ông ta đang đang hấp hối đã đuợc cứu sống (x.Ga 4,46-54 ). Và các ngài chưa thể quên lời tạ ơn mới đây của Thầy đã giúp cho năm ngàn người đàn ông chưa kể đàn bà và con trẻ no nê chỉ từ năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá (x.Ga 6,1-15).

Không ai tự nguyện dấn thân theo một lý tưởng, thực hiện một trách vụ hay gắn bó với một con người mà không ấp ủ một hoài bão, một ước mơ hay niềm hy vọng nào đó. Xưa, dân Do Thái chọn tôn thờ Thiên Chúa là để một mặt khỏi bị Người giáng họa, trừng phạt, mà trái lại sẽ được Người chúc phúc và che chở trước các “kẻ thù” lân bang (Gs 24,19-20).

Cái hoài bão, uớc mơ, đúng hơn là cái mục đích việc Phêrô thay mặt anh em chọn gắn bó với Thầy đó là vì “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”. Sự sống đời đời là một ước mơ của con người, mọi thời và mọi nơi. Dù đủ đầy của cải vật chất, dù nắm trong tay quyền sinh sát của bậc đế vương thì con người vẫn cảm nhận cái hữu hạn của cuộc sống đời này. Danh vọng quyền lực, của cải hay tiền tài không thể giúp ta kéo dài cuộc sống đến vô tận. Một thanh niên có nhiều sản nghiệp đã đến tham vấn Chúa Giêsu: Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời? Sau khi biểu anh ta giữ các giới răn, Chúa Giêsu đã mời gọi anh ta hãy bán của cải, phân phát cho người nghèo rồi đến mà theo Người (x.Mt 19,16-22; Mc 10,17-22; Lc 18,28-30).

Chọn lựa là hy sinh. Một câu nói cho thấy một lẽ tất yếu của việc chọn lựa. Chọn ra đi thì phải hy sinh chuyện không ở lại, chọn việc cất tiếng nói thì đương nhiên phải mất thái độ giữ im lặng, đã chọn tôn thờ Thiên Chúa thì phải bỏ các thần của dân ngoại (x.Gs 24,23)… Tuy nhiên sự hy sinh trong việc chọn lựa không chỉ dừng lại ở các nội dung xem như đối lập của sự chọn lựa mà còn có đó sự hy sinh ngay trong chính hành vi chọn lựa. Sự hy sinh ở đây được hiểu như một sự đánh cược, một sự dân thân, một sự “liều lĩnh” nào đó. Vì chưng, chúng ta vốn khó có được các cở sở một cách chắc chắn kiểu trăm phần trăm khi chọn lựa một điều gì đó. Chúng ta dễ nhận ra ngay hiện thực này qua việc các bạn thanh niên nam nữ chọn bạn đời hay chọn ơn gọi tu trì. Như thế, sự hy sinh ở đây có thể hiếu như sự can đảm dấn thân, chấp nhận nhiều “cái giá” phải trả khi chọn lựa.

Cái giá mà chúng ta phải trả khi chọn lựa đi theo Chúa Giêsu, gắn bó với Người đó chính là “vác thập giá”. “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,27). Cái giá mà Phêrô sẽ phải trả được Đấng Phục sinh báo trước: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đế nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi Người bảo ông: “Hãy theo Thầy” (Ga 21,18-19).

“Thiên Chúa dựng nên tôi không cần có tôi, nhưng Người không thể cứu tôi mà cần có tôi” (thánh Âugustinô ). Tự do là một quà tặng cao quý Chúa ban cho loài người, loài cao trọng nhất trong các loài hữu hình Người dựng nên. Tự do là một ân ban cao quý và cũng là một thử thách ắt có của tình yêu. Được sống đời đời hay phải chết đời đời có nghĩa là được hạnh phúc bất diệt hay bị trầm luân mãi mãi, các khả thể này đang tùy ở sự lựa chọn của chúng ta. Ai lại không muốn được sự sống đời đời, được hạnh phúc bất diệt, nhưng vấn nạn khó vượt qua đó là chúng ta thường e ngại phải trả giá vì phải chọn lựa.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Antôn

Bài Tin mừng hôm nay kết thúc chương 6 Tin mừng thánh Gioan về Bánh Hằng Sống là chính Chúa Giê-su.  Trong bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước, Chúa Giê-su tuyên bố: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống… Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống.”  Đám đông dân chúng nghe lời tuyên bố quả quyết như thế, họ lẩm bẩm, phản đối, xô xát nhau. Họ không thể nào chấp nhận được những lời tuyên bố rất quả quyết của Chúa: thịt máu Ngài là của ăn của uống ban sự sống muôn đời.  Còn thái độ của các môn đệ như thế nào?  Bài Tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta biết phản ứng của các môn đệ nói chung và của nhóm 12 nói riêng.  Nhiều môn đệ đã phản ứng như đa số dân chúng.  Khó chịu, lẩm bẩm lời gì mà chướng tai thế!  Ông ta làm sao lấy thịt mình cho người ta ăn được?  Như vậy, không những dân chúng tỏ ra chán ngán vô lý mà cả các môn đệ của Chúa cũng bị khủng hoảng, và từ lúc ấy một số môn đệ đã rút lui không đi theo Chúa nữa.

Những lời mặc khải của Chúa Giê-su là một thử thách lớn lao cho lòng tin của các môn đệ ngày xưa, và cho nhiều người chúng ta ngày nay đối với Bí tích Thánh Thể.  Nhiều người không tin hay không còn tin Chúa Giê-su thực sự hiện diện trong Bí tích Thánh Thể nữa.  Chúng ta thành tâm tự hỏi: “Chúng ta có dễ dàng tin rằng trong Thánh lễ, Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi trở nên thức ăn thức uống cho chúng ta không?”  Thật sự là thế!  Đây là một điều kỳ diệu lạ lùng, chỉ có tình yêu cao cả của Thiên Chúa mới làm nổi và có thể làm nổi.  Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô vàn, cho nên Ngài đã biến bánh rượu nên thịt máu Ngài để nuôi sống linh hồn chúng ta.  Vì thế nếu chúng ta xác tín, thì mỗi lần rước lễ, chúng ta hãy để cho tâm hồn của mình sững sờ thán phục, và cảm tạ tình thương vô biên của Chúa.

Những môn đệ bỏ Chúa ra đi vì họ không cảm nhận ra được tình yêu thương đó. Sau khi họ bỏ đi, Chúa Giê-su hỏi nhóm 12:  “Chúng con muốn bỏ đi không?”  Si-mon Phê-rô trả lời thay cho các bạn:  “Không đời nào chúng con bỏ Thầy.”  Có nghĩa là các ông quả quyết chọn Chúa và theo Chúa.  Nghe được những lời này, chúng ta có thể đoán được Chúa cảm thấy được an ủi và ấm lòng biết bao!  Các Tông đồ thân tín đã tuyên xưng lòng tin của họ vào Chúa: Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống đời đời.

Ngày nay, mỗi lần chúng ta đến nhà thờ để cùng với mọi người trong cộng đồng giáo xứ dâng Thánh lễ, chúng ta cũng hãy đến với một lòng tin như các tông đồ, nhất là khi rước lễ, chúng ta hãy xác tín rằng chúng ta ăn thịt và uống máu Chúa Giê-su.  Thánh Thể nối kết chúng ta mật thiết với Chúa và với nhau. Đây là Bí tích tình yêu cao cả!  Chúng ta đừng bao giờ quên Thiên Chúa đang yêu thương chúng ta vô cùng và Chúa muốn chúng ta hãy yêu thương nhau.

Như các Tông đồ ngày xưa, trong cuộc sống hôm nay, chúng ta có tự do để lựa chọn và quyết định, và chúng ta biết có những quyết định hay lựa chọn ảnh hưởng đến cuộc sống đức tin, ảnh hưởng đến hạnh phúc của vợ chồng và đến đời sống của con cái trong gia đình. Trong bài đọc I, sau khi vào Đất hứa, ông Giô-suê đã trở thành người lãnh đạo thay thế Môi-sen.  Ông nhận thấy cuộc sống của dân chúng dần dần xa lìa Thiên Chúa và đi thờ thần ngoại bang, cho nên ông đã triệu tập dân chúng lại tại Si-kem để lập một giao ước.  Ông tuyên bố cho mọi người biết phải quyết định dứt khoát: một là kính thờ một Thiên Chúa, hai là thờ các thần ngoại bang. Và như chúng ta vừa nghe, họ đã đồng thanh hứa trung thành và chỉ kính thờ một Thiên Chúa, Đấng đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai cập mà thôi.

Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô khuyên các đôi vợ chồng một khi đã quyết định chọn nhau làm bạn đời, thì phải suốt đời trung thành với nhau trong giao ước hôn nhân.  Thánh Phao-lô kêu gọi vợ chồng phải từ bỏ sự ích kỷ sống cho riêng mình, biết hy sinh cho nhau để giao ước hôn nhân đem đến kết quả là yêu thương, hạnh phúc và sự hòa thuận.  Vợ chồng phải bảo vệ giao ước hôn nhân bằng sự chung thủy, tôn trọng, chu toàn bổn phận làm vợ, làm chồng, làm cha mẹ dạy dỗ đức tin cho con cái.

Hôm nay, chúng ta cũng quyết định đến đây để dâng Thánh lễ cảm tạ đội ơn Chúa vì những ơn lành hồn xác, nhất là ban cho chúng ta Lời Chúa và Thánh Thể.  Thánh lễ được cử hành trong một bữa tiệc và dưới hình thức một bữa ăn. Những người ngồi cùng bàn phải là anh chị em và phải là những người thương mến nhau.  Trước khi lên rước lễ chúng ta chúc bình an cho nhau.  Chúc bình an là tha thứ hòa giải với nhau để nối kết lại tình đoàn kết và thương mến như anh chị em trong một nhà.  Chúc bình an hòa giải để mọi người trong cộng đồng giáo xứ dẹp bỏ mọi bất hòa, đồng tâm nhất chí trong tình yêu Thiên Chúa vì được nối kết với nhau như những chi thể trong Thân Thể Chúa Ki-tô.  Chúc bình an trước khi rước Thánh Thể vì Thánh Thể là Bí tích tình yêu và hiệp nhất.

Mỗi khi dự Thánh lễ, chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn sốt sắng và xứng đáng để được rước Mình Thánh Chúa, để Mình Thánh Chúa kết hợp chúng ta với Chúa và với nhau, và nhắc nhở chúng ta phải sống hiệp nhất, sống hy sinh, bác ái và quảng đại để xây dựng giáo xứ làm sáng danh Chúa.  Xin Chúa ban cho chúng ta một niềm xác tín Chúa Giê-su là Bánh Hằng Sống từ trời xuống và hiện diện trong Bí tích Thánh thể, là nguồn ơn sức mạnh giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, để luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh, và có những chọn lựa khôn ngoan theo thánh ý và đẹp lòng Chúa, đưa đến bình an và hạnh phúc đời này và đời sau.

Về mục lục

.

 

CHỌN LỰA VÀ TRUNG THÀNH

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Thánh Thể là mối dây liên kết các tín hữu và là biểu tượng của tình hiệp thông trong Giáo Hội. Tuy vậy, trong lịch sử, do sự ích kỷ của con người, nên đã có những ý kiến bất đồng về Thánh Thể và làm cho Bí tích này trở nên một trong những nguyên nhân gây chia rẽ nghiêm trọng giữa các Kitô hữu. Phải chăng vấn đề bất đồng ý kiến này đã có từ thời ban đầu do việc có những người khước từ giáo huấn của Chúa Giêsu về Bánh hằng sống? Trong thực tế, vẫn còn đó những người tin và những người không tin vào sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu nơi Bí tích này.

Đoạn Tin Mừng được đọc trong thánh lễ hôm nay là phần kết thúc cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và người Do Thái về đề tài Bánh hằng sống. Chúa Giêsu đã khởi đi từ nhu cầu ăn uống để nuôi thân xác, rồi dần dần dẫn vào mầu nhiệm cao siêu là Bí tích Thánh Thể, tức là Thịt và Máu Người. Xem ra kết thúc cuộc đối thoại này không khả quan. Bởi lẽ, trước những lời tuyên bố của Chúa Giêsu, một số người thấy chói tai và dần dần bỏ đi. Phần lớn những người này đến với Chúa với ước mong được nhận lãnh bánh nuôi sống thể xác, giống như phép lạ ngoạn mục Người mới làm cách đó vài ngày. Ở đây, Chúa lại nói về một thứ bánh thiêng liêng. Ai lãnh nhận Bánh này sẽ được sự sống đời này và sự sống vĩnh cửu đời sau. Khá nhiều người bỏ đi vì họ coi những điều Chúa Giêsu đang nói là ảo tưởng, phi thực tế. Niềm tin vào Bánh hằng sống cũng vấp phải phản ứng của chính một số môn đệ. Thánh Gioan đã viết một cách buồn bã: “Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa”. Họ đã ra đi trong thất vọng, vì hình ảnh của họ vốn có về Đấng Thiên sai hoàn toàn khác biệt với sứ mạng và giáo huấn thực sự của Chúa Giêsu. Khi đối diện với những thử thách gian truân, người tín hữu được mời gọi bày tỏ lòng trung thành với Người. Lòng trung thành cần phải có để đón nhận những chân lý cao siêu mặc dù chưa lý giải thỏa đáng.
 
Thánh Phêrô,vị Tông đồ trưởng, đã chứng tỏ lòng trung thành ấy, trong bối cảnh có nhiều người bỏ đi. Người ta thường nói ở đời “phù thịnh chứ không ai phù suy”. Phêrô là một người can đảm. Ông đã “phù suy” khi tuyên thệ theo Chúa vào lúc dường như mọi người đã bỏ Người. Ông đã tìm được sự chọn lựa tốt nhất cho đời mình. Theo Chúa là lý tưởng và là sự sống còn của ông, như lời ông nói: “Bỏ Thày thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Có lẽ ông cũng đã đắn đo cân nhắc xem theo Chúa thì được những gì và mất những gì, như có lần ông đã đặt câu hỏi với Thầy mình. Giờ đây, Phêrô như một người từng trải kinh nghiệm chắc chắn trong cuộc đời, Ông khẳng khái tuyên xưng Đức tin vào Chúa, dù mọi người rút lui. Sau này, chúng ta còn được nghe lời tuyên bố của Phêrô trong bữa tiêc ly: “Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng!” (Lc 22,34). Lời tuyên bố này về sau không được tuân giữ, do việc Phêrô chối thày mình ba lần, nhưng không vì thế mà làm giảm lòng nhiệt thành, hăng say và tâm huyết của vị Tông đồ trưởng.

Đời sống Kitô hữu là một lựa chọn. Chúng ta chọn Chúa là lý tưởng của đời sống chúng ta. Do biết bao cám dỗ trong cuộc bon chen vì cơm áo gạo tiền, có những lúc chúng ta quên mất sự lựa chọn ấy. Bài đọc I kể với chúng ta, sau khi vào Đất hứa, ông Giôsuê đã tập hợp dân Do Thái ở một nơi gọi là Sikhem để cùng nhau nhìn lại hành trình sa mạc kéo dài 40 năm. Trong hành trình này, người Do Thái gặp nhiều gian nan thử thách. Có nhiều người phạm lỗi với Chúa do kiêu ngạo, ích kỷ và phạm các giới răn. Họ còn thờ lạy  thần linh của các dân ngoại. Tại Sikhem, ông Giôsuê kêu gọi một cuộc thanh tẩy toàn dân, để dứt bỏ quá khứ, bước sang một trang sử mới. Vị thủ lãnh mời gọi dân hãy chọn lựa Chúa và sống theo giới luật Ngài đã truyền ban cho các bậc tổ tiên. Lời tuyên xưng của dân chúng thật mạnh mẽ quyết liệt, thể hiện sự gắn bó trung thành với Đấng đã cứu họ khỏi Ai Cập và dẫn đưa họ vào Đất hứa.

Trong suốt 5 Chúa nhật vừa qua, Phụng vụ giúp chúng ta suy tư về ý nghĩa của Bí tích Thánh Thê ở nhiều khía cạnh khác nhau, và mời gọi chúng ta sống mầu nhiệm Thánh Thể trong cuộc sống hằng ngày. Nhờ Thánh Thể, chúng ta tìm được sức mạnh để dấn thân. Mẹ Têrêsa đã viết: “Một số người hỏi: ‘Các sơ tìm đâu ra sức mạnh và niềm vui để phục vụ?’. – Niềm vui chúng tôi có được là nhờ Thánh Thể mà chúng tôi nhận lãnh hằng ngày”. Nhờ Thánh Thể, chúng ta kiên  định trong Đức tin vào Chúa và làm cho Đức tin ấy mỗi ngày một tỏa sáng trong cuộc sống hôm nay.
 
Có thể vào những lúc đen tối của cuộc đời, Chúa hỏi chúng ta: “Con có muốn bỏ Thầy mà đi không?”. Xin cho chúng ta có đủ can đảm để thưa như thánh Phêrô: “Bỏ Thày thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,68). Được như vậy thì thật hạnh phúc cho chúng ta.

Về mục lục

 

HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Đức tin là một con đường: con đường dẫn ta tới Chúa. Đây là một con đường dài. Vì ta sẽ phải đi suốt cuộc đời mới hết. Đường đức tin có những quãng đầy hoa thơm cỏ lạ và tiếng chim hót véo von. Đó là những khi niềm tin dâng đầy. Ta cảm thấy phấn khởi vì được gặp gỡ Chúa, được Chúa an ủi, mọi sự diễn ra êm xuôi tốt đẹp. Nhưng đức tin sẽ phải trải qua những quãng đường gian nan đầy chông gai sỏi đá. Ta gặp khó khăn thử thách. Ta gặp đau khổ thất bại. Ta không tìm đâu ra lối thoát. Ta như chìm trong đêm tối mênh mông chẳng có ánh sáng nào soi đường dẫn lối. Đó là khi niềm tin bị thử thách, bị nghiêng ngả chao đảo. Ta cảm thấy mệt mỏi chán chường. Ta muốn bỏ cuộc, rẽ sang đường khác. Ta bị cám dỗ tìm con đường dễ dàng hơn, rộng rãi hơn, thoải mái hơn.

Đó là trường hợp của những người Do Thái và một số môn đệ hôm nay.

Khi Đức Giêsu hoá bánh và cá ra nhiều nuôi năm nghìn người, niềm tin của đám đông dâng lên cao vời vợi. Họ phấn khởi mừng vui. Họ tin tuyệt đối rằng Người chính là Đấng Cứu Thế đến cứu dân tộc Do Thái. Niềm tin của họ mạnh mẽ đến nỗi khi Đức Giêsu trốn đi, họ vẫn đuổi theo sát nút với ý định tôn Người lên làm vua cai trị họ.

Thế mà hôm nay, khi Đức Giêsu tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”, đám đông đã bỏ Chúa. Một số môn đệ cũng bỏ Chúa mà đi. Đức tin bồng bột tưởng chừng như không gì dập tắt nổi của những ngày hôm trước nay đã tan tành như mây khói. Sự gắn bó tưởng chừng như không gì chia cắt nổi bỗng trở nên nhạt nhẽo lạnh lùng. Đức tin gặp thử thách và họ đã không đủ mạnh tin để vượt qua thử thách. Họ đã thất vọng bỏ cuộc. Nhưng Đức Giêsu vẫn bình tĩnh chấp nhận sự quay lưng trở gót của những người thân tín. Người không vì thế mà nói những lời nhẹ nhàng hơn. Đức tin phải trải qua thử thách. Lửa thử vàng, gian nan thử lòng trung tín. Chỉ có những người bạn trung thành qua những khó khăn mới là những người bạn đích thực. Chỉ có niềm tin kiên vững bất chấp mọi thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa.

Giữa cơn khủng hoảng ấy, thánh Phêrô đã đại diện nhóm 12 tuyên xưng niềm tin sắt đá vào Đức Kitô. Dù chưa hiểu những điều Đức Giêsu nói, nhưng các ông vẫn đặt trọn niềm tin vào Người. Thế mới gọi là tin. Vì chưa thấy nên mới cần tin. Đã thấy rõ, đã biết rõ thì đâu cần tin nữa. Tuy nhiên niềm tin không phải là cái gì vô lý. Sau khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều và sau khi chứng kiến Người đi trên mặt nuớc, các ông hoàn toàn có cơ sở để đặt niềm tin nơi Người. Đó là hai khía cạnh trái ngược của niềm tin. Tin là một ngọn đèn soi cho ta bước đi trong đêm tối. Ngọn đèn chỉ sáng đủ cho ta bước đi từng bước nhỏ trong niềm tin. Nhưng màn đêm vẫn tăm tối đủ cho ta nghi ngại. Chính vì thế mà niềm tin mới có giá trị và cần thiết.

Lời tuyên xưng của thánh Phêrô lại càng có giá trị trong lúc mọi người gặp khủng hoảng và bỏ Chúa. Tin tưởng khi thời cơ thuận lợi thì thật dễ dàng. Nhưng vẫn tin tưởng gắn bó với Chúa trong những lúc gặp khó khăn thử thách đó mới thật sự là niềm tin chân chính.

Hành trình đức tin của chúng ta chắc chắn sẽ không khác hành trình đức tin của các Tông đồ. Có những thời gian thuận lợi, ta thấy niềm tin dâng cao mãnh liệt. Khi ấy Lời Chúa là những lời êm ái ngọt ngào làm phấn chấn lòng ta. Lời Chúa mang đến cho ta niềm vui, niềm bình an, niềm hy vọng. Lời Chúa đem đến cả thành công và may mắn nữa.

Nhưng rồi tới những ngày u ám tăm tối, ta cảm thấy niềm tin lung lay chao đảo. Đó là khi ta gặp khó khăn thử thách. Lúc ấy Lời Chúa làm cho cuộc đời ta mất bình an. Lời Chúa gõ vào tính tự ái, tự cao, tự đại của ta. Lời Chúa gõ vào sức khoẻ ta. Lời Chúa gõ vào gia sản ta. Lời Chúa như lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn ta, tạo ra những vết thương sâu thẳm không bao giờ ngưng rỉ máu. Những lúc ấy, ta dễ bị cám dỗ từ bỏ Chúa như những người Do Thái trong bài Tin Mừng hôm nay.

Trong những giờ phút gặp gian nan thử thách như thế, ta hãy nhớ đên những lời tuyên xưng của thánh Phêrô. Niềm tin tuyên xưng trong đau đớn thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Sự trung tín vượt qua được những cơn khủng hoảng mới minh chứng một tình yêu chân thực.

Trong những giờ phút tăm tối nhất, hãy mạnh dạn thưa với Chúa như thánh Phêrô: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai. Chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống đời đời”. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Đã có khi nào bạn cảm thấy niềm tin chao đảo, lung lay? Bạn đã làm gì để vượt qua những giờ phút khó khăn đó?

2- Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Bạn có xác tín điều đó không?

3- Sau khi những khó khăn qua đi, bạn nhìn thấy tất cả đều là ơn Chúa. Bạn có kinh nghiệm đó không?

Về mục lục

 

 

CHÚA CHÍNH LÀ HẠNH PHÚC

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Cuộc sống là một hành trình tìm kiếm. Con người luôn dáo dát đi tìm kiếm. Tìm kiếm những niềm vui hạnh phúc trong cuộc đời. Nhưng xem ra chẳng có gì trọn vẹn! Hạnh phúc chẳng nơi đâu tròn đầy! Tất cả đều vô vị, chán chường. Còn bé thì chỉ mong chóng làm người lớn để tung hoành. Khi lớn thì lam lũ vất vả chỉ mong gom được chút tiền còm để dưỡng già. Mà về già thì lại ngồi tiếc nuối quá khứ vàng son! Nghĩa là chẳng bao giờ bằng lòng với những cái đang có trong hiện tại.
Năm xưa thánh Augustino cũng đã tìm, đã kiếm niềm vui hạnh phúc trong nhiều cách và đam mê nhưng chỉ khi ngài  tìm được Chúa mới thực là niềm vui trọn vẹn, hạnh phúc tròn đầy. Ngài đã thốt lên trong tiếc nuối thời gian: Lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng!
Có một anh sinh viên bị bắt vào lính đi quân dịch. Anh ta bất mãn vì bị như thế, nên tính tình trở nên bất thường, suốt ngày cứ nhớn nhác như muốn tìm một cái gì. Khi phải xếp hàng đi tập trên đường mà anh thấy được một tờ giấy văng vãi là thế nào anh ta cũng chạy tới nhặt lên xem. Đọc xuôi một hồi rồi lại lật tờ giấy đọc ngược nữa. Rồi càu nhàu vất đi: không phải cái này! 
Cứ thế, ngày này qua ngày khác, lần nào anh ta cũng nhặt lên được mấy tờ giấy đọc rồi lại vất xuống: “không phải cái này.” Người đội trưởng bực mình la hét phạt chán rồi cũng vậy thôi. Còn đồng đội thì cũng đành chịu cái tên “hết thuốc chữa” này mỗi ngày một “mát” quá ra! Một hôm văn phòng gọi anh ta lên. Vị chỉ huy hằn giọng nói ngay: Mày “mát” quá không ai chịu nổi nữa. Đây, mày cầm cái giấy này về ngay!  
Anh ta cầm giấy giơ lên đọc. Thì ra là giấy miễn dịch. Anh ta sung sướng reo lên: A, đúng là cái này rồi. Và anh ta vội vã chạy mất. 
Phê-rô năm xưa cũng từng vui sống trong bậc gia đình, từng đeo đuổi theo con sóng để đánh bắt cá, từng vui với thợ thuyền trên sông nước, nhưng dường như ông vẫn không tìm ra lẽ sống và hạnh phúc. Chỉ từ khi bước theo Thầy, cuộc đời ông đã rẽ sang trang sử mới. Những ngày bên Thầy cho ông cảm nghiệm được chỉ ở bên Chúa mới trọn vẹn niềm vui và hạnh phúc. Ông cảm nghiệm niềm vui bên Chúa lớn hơn tất cả những niềm vui mà ông từng có. Thế nên, khi Chúa hỏi: cả anh em cũng muốn bỏ đi sao? Ông liền mau mắn trả lời: Bỏ Thầy con biết theo ai, vì Thầy mới có lời ban sự sống đời đời.
Hóa ra những niềm vui mau qua kia chẳng thấm là bao so với niềm vui có được sự sống đời đời. Niềm vui trần gian thì mau qua. Sự sống đời đời là niềm vui trọn vẹn và vĩnh viễn. Nếu ai đã có được nó trong cuộc đời thì chẳng phải lo bon chen tìm kiếm những niềm vui giả tạo mau qua của trần gian. Chính Chúa sẽ làm thỏa mãn mọi sự đến nỗi ở bên Chúa không còn phải ham muốn điều gì khác nữa.
Cuộc sống luôn cho chúng ta nhiều niềm vui, nhưng nó chỉ khiến ta thêm thèm khát niềm vui. Cuộc đời con người xem ra cũng giống như anh lính, ngày nào cũng dáo dát đi tìm kiếm, mừng vui cầm lấy một điều gì đó, nhưng rồi lại thất vọng vất đi và bảo: không phải cái này! Cuộc đời con người dường như cứ ngụp lặn trong đại dương mãi chơi vơi mà chẳng bao giờ dừng. Điều quan yếu là phải tìm được Chúa, nắm bắt được Ngài thì mới được no thỏa niềm vui và hạnh phúc. Có Thiên Chúa thì mới òa lên niềm vui như anh lính đã tìm được sự giải phóng, như Phê-rô đã tìm được Chúa làm gia nghiệp, như Augustino đã tìm được lẽ sống sau bao nhiêu ngày tìm kiếm.
Xin Chúa giúp chúng ta có đủ con mắt đức tin để nhận ra Chúa là lẽ sống, là cùng đích cuộc đời. Xin cho chúng ta nhận ra Chúa thật quyền năng để chúng ta tín thác, cậy dựa vào Chúa trong những khó khăn thử thách. Ước gì cuộc đời chúng ta đủ xác tín về niềm tin của mình như Phê-rô để ở lại và bước đi theo Chúa cho đến cùng. Amen.

Về mục lục

 

 

CÁC CON CHO THẦY LÀ AI?

Lm. D. Nguyễn Ngọc Long

Tạp chí Reader’s Digest – Das Best số tháng 4/1999 trang 116 đăng kết quả Bản thăm dò ý kiến của người dân Đức về Đức Tin vào Thiên Chúa:
50 phần trăm người được hỏi ý kiến vào lứa tuổi từ 14 đến 39 tin vào sự sống vĩnh cửu mai sau; trái lại chỉ 38 phần trăm người vào lứa tuổi 60 còn tin vào điều này.
70 phần trăm đều cho rằng xã hội bây giờ không tin vào Thiên Chúa nữa. 78 phần trăm những người trẻ thuộc thế hệ từ 14 đến 29 tuổi cảm thấy đời sống tôn giáo càng ngày càng biến mất trong đời sống; và họ cho là tình trạng này xảy đến quá sớm…
Hội Thanh Thiếu Niên Công giáo thuộc Giáo phận Munich thăm dò ý kiến 1200 bạn trẻ về vai trò Chúa Giêsu trong đời sống tinh thần của họ… Phần đông cho biết Chúa Giêsu Kitô không còn chiếm địa vị trung tâm đời sống tinh thần họ nữa! Bản đúc kết đi kết luận: Trong đời sống tôn giáo của người trẻ ngày nay, niềm tin Kitô giáo không còn hấp dẫn hay gây nhiều ảnh hưởng nơi họ. Chúa Giêsu dần dần ít được nhắc tới trong các buổi thuyết trình, hay nếu có cũng chỉ được nêu ra như một nhân vật lịch sử.
Như thế có thể nói hình ảnh về Thiên Chúa, về Chúa Giêsu, trung tâm điểm của niềm tin Kitô giáo không còn ăn rễ sâu nơi tâm thức con người, ít là nơi những người trẻ tương lai của xã hội, Giáo hội nữa!
Vậy đâu là ý nghĩa câu hỏi của Thầy Giêsu năm xưa cho chúng ta ngày nay: “Các con cho Thầy là ai?”
Ông Phêrô xưa kia nhân danh anh em môn đệ trả lời Thầy mình: “Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống!”
Tôi không tin Ông Phêrô trả lời theo cách suy tư lý luận thần học khúc mắc khô cứng với nhiều trích dẫn dài dòng ngày nay. Nhưng câu trả lời đó do Thần Linh Thiên Chúa đánh động tâm hồn Ông nói ra. Câu trả lời ngắn gọn biểu lộ niềm xác tín của tâm hồn đơn sơ mộc mạc của bác sống nghề thuyền chài lưới ngoài sông biển!
Vậy niềm tin đó từ đâu mà ông có? Lòng tin đó không phải tự dưng từ trời rơi xuống, nhưng là kết quả của năm tháng ngày giờ tiếp xúc, nghe nhìn tận mắt Thầy Giêsu.
Lúc đầu các môn đệ theo Thầy Giêsu cũng nghĩ Thầy mình là một nhà giáo có nhiều tài năng thu hút con người, hay một Tiên Tri như các tiên tri thời Cựu ước, và cũng có thể là một Gioan Tẩy Giả! Nhưng với thời gian gần Thầy, các Ông nhận ra Thầy mình không phải như vậy. Thầy Giêsu giảng dậy không căn cứ vào luật lệ truyền từ xa xưa, vào sách vở. Nhưng lời Ngài nói phát ra luồng mãnh lực, một Người đầy uy quyền: “Các con nghe nói, luật xưa truyền dậy rằng… nhưng Thầy bảo cho các con hay… (Mt 5,21…) Ngài quả quyết, chính Ngài có quyền trên ngày Sabbath (x.x.Mt 12, 8). Và dân chúng kính phục uy tín quyền năng Ngài, chính lời Ngài đã đi sâu vào tim óc người dân (x.x. Mt 7, 29).
Đời sống, lời giảng dậy của Ngài hoàn toàn khác biệt với các Tiên tri thời Cựu ước. Lời Ngài không phải chỉ là mớ điều khôn ngoan, điều răn đe, kêu gọi phải ăn năn sám hối, nhưng là lời ban ơn tha thứ làm hòa, khoan dung nhân ái, điều này ai có thể làm được, nếu không phải chỉ một mình Thiên Chúa! (Mt 9, 2).
Mối liên hệ giữa Ngài với Thiên Chúa Cha không phải là tôi tớ, nhưng là liên hệ thân tình cha con. Ngài là sứ giả rao giảng tình yêu Thiên Chúa, nhưng vị Sứ giả đó lại chính là trung tâm của sứ điệp tình yêu (Mc 8, 35; Mt 10, 37).
Các môn đệ thán phục Thầy mình, ngày càng nhận ra và tin vào Ngài. Dân chúng kính phục đổ xô đến nghe ngài giảng thuyết. Nhưng những lời quả quyết về Ngài phát xuất từ chính Ngài làm cho người nghe không khỏi bất mãn khó chịu đến nghi ngờ.
Phêrô và các môn đệ tin vào Thầy mình không qua do hiểu biết nghiên cứu học hỏi lý luận, nhưng qua gặp gỡ, đối thoại, nghe Ngài giảng thuyết. Chính từ mảnh đất đó Thần Linh Thiên Chúa tác động soi chiếu tâm hồn các ông nhận ra Thầy mình là Đức Kitô Con Thiên Chúa.
Tò mò theo Chúa để tin vào Ngài, hay tin vào Chúa để theo Ngài. Cả hai thái độ đều biểu lộ một tâm hồn sẵn sàng gặp gỡ Chúa, qua việc đọc Lời Chúa, nghe Lời Chúa và ngắm nhìn Chúa trong thiên nhiên, nơi con người.
Và qua đó tìm ra trả lời cho câu hỏi: “Các con cho Thầy là ai?”

Về mục lục

 

 

BÁNH LỜI CHÚA

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Bài Phúc Âm hôm nay kết thúc Tin Mừng Gioan chương 6 với lời tuyên tín của Thánh Phêrô : chỉ có Chúa Giêsu mới đem lại Lời ban sự sống đời đời.

Khi Chúa Giêsu tuyên bố : “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì có sự sống đời đời”, lập tức nhiều môn đệ phản ứng: “Lời này chói tai quá, ai mà nghe được” (Ga 6,60). “Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa” (Ga 6,66). Thấy một số môn đệ bỏ đi, Chúa Giêsu hỏi nhóm mười hai: còn các con, các con có muốn bỏ Thầy mà đi nữa không?

Thánh Phêrô trả lời: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì con biết theo ai, vì Thầy có Lời ban sự sống đời đời”. Phêrô xác tín: Thầy có Lời ban sự sống, nên đã quyết tâm chọn Thầy: bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai?

Chúa Giêsu là Bánh Trường Sinh – Bánh Thánh Thể và là Lời Ban Sự Sống – Bánh Lời Chúa, lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng nhân loại.

Khi nói đến Lời Chúa, nhiều người nghĩ ngay đến Sách Thánh Kinh. Đối với người Công giáo, Lời Chúa có nhiều ý nghĩa và vượt trên Sách Thánh Kinh.

Cụm từ Lời Chúa có thể được dùng để nói về:

– Lời Hằng Hữu, là Ngôi Hai của Thiên Chúa Ba Ngôi.

– Lời Thiên Chúa lúc tạo dựng, nhờ Người mà mọi sự hiện hữu được tạo thành.

– Chúa Giêsu, Ngôi Lời làm người và ở cùng chúng ta.

– Thánh Kinh, Lời được Thiên Chúa linh hứng và viết thành văn tự.

– Truyền Thống của Giáo Hội, vang vọng cách trung thực Lời của Thiên Chúa cho mọi thế hệ.

  1. Lời Hằng Hữu

Lời Chúa là Ngôi Lời Thiên Chúa, là Lời Hằng Hữu của Thiên Chúa. Tin Mừng Thánh Gioan mở đầu: “Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời ở cùng Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1,1).

Ngôi Lời Hằng Hữu vì Ngôi Lời ở cùng Thiên Chúa, và Ngôi Lời chính là Thiên Chúa. Ngôi Lời chính là Đức Giêsu Kitô. Đây là tâm điểm của tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, nhưng chỉ là Một Thiên Chúa Duy Nhất.

  1. Lời Tạo Dựng

Sách Sáng thế mở đầu: “Lúc khởi đầu, khi Thiên Chúa sáng tạo trời đất” (St 1,1). Thiên Chúa tạo dựng tất cả mọi sự bằng cách dùng Lời mà phán : “Rồi Thiên Chúa phán: Hãy có ánh sáng, và liền có ánh sáng… Rồi Thiên Chúa phán: Phải có một cái vòm ở giữa khối nước, để phân rẽ nước với nước” (St 1,3a.6a). Mỗi ngày, Thiên Chúa tạo dựng bằng cách phán Lời Ngài. Vào ngày thứ sáu : “Thiên Chúa phán: Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” (St 1,26a). Lời được phán ra và người nam người nữ đã hiện hữu theo chính hình ảnh Thiên Chúa.

Sách Sáng thế và Tin Mừng Gioan có một mối liên hệ đặc biệt. Sách Sáng thế mở đầu với một câu chuyện tạo dựng tất cả mọi sự, bắt đầu với ánh sáng. Tin Mừng Thánh Gioan là câu chuyện tái tạo dựng về tinh thần đã được mạc khải và hoàn thành nhờ Đức Giêsu Kitô, ánh sáng thế gian.

Trong Sách Sáng Thế cũng như trong Tin Mừng Gioan, nhờ Lời Tạo Dựng mà muôn vật được tạo thành :“Nhờ Người mà muôn vật được tạo thành,và không có Người, thì không có gì được tạo thành” (Ga 1,3a). Ngôi Lời Hằng Hữu của Thiên Chúa chính là Lời Tạo Dựng.

  1. Ngôi Lời làm người

Ngôi Lời Hằng Hữu, Lời Tạo Dựng, nguồn mạch của tất cả những gì hiện hữu, đã làm người và ở giữa chúng ta:“Ngôi Lời đã trở thành nhục thể và ở giữa chúng ta.Và chúng tôi đã thấy vinh quang của Người,như vinh quang của Con Một Chúa Cha, đầy ân sủng và chân lý” (Ga 1,14).

Ngôi Lời đã làm người đó là Đức Giêsu Nazareth. Người đã ở giữa nhân loại trong một giai đoạn của lịch sử, ở vùng đất Palestine, làm người Do thái, và sống dưới quyền đô hộ của Đế quốc Rôma. Người đã chết và đã phục sinh.Người luôn ở giữa nhân loại trong Thánh Kinh, trong các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, trong Giáo Hội, trong tha nhân và trong mỗi người chúng ta.

  1. Thánh Kinh là Lời Hằng Sống của Thiên Chúa

Thánh Kinh là Lời mạc khải của Thiên Chúa. Thánh Kinh là Lời được Thiên Chúa linh hứng. Thánh Kinh là Lời Chúa được các Thánh Sử ghi lại bằng văn tự qua dòng Lịch sử Cứu độ.

Thánh Kinh là bức tâm thư Thiên Chúa gởi cho Dân được tuyển chọn. CĐVTC II đã dạy:”Trong các Sách Thánh,Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ.Vậy sức mạnh và quyền năng chứa đựng trong Lời Chúa lớn lao đến độ trở thành điểm tựa đầy năng lực cho Hội thánh và là sức mạnh của đức tin,lương thực nuôi linh hồn,nguồn sống thiêng liêng,tinh tuyền và trường cửu cho con cái của Hội Thánh”(MK21).

  1. Yêu mến, học hỏi và sống Lời Chúa

Lời Chúa là chính Chúa Kitô. Thánh Giêrônimô nói: “Không biết Thánh Kinh là không biết Đức Kitô”. Học hỏi Lời Chúa để tìm được nguồn năng lực cho sức mạnh đức tin, lương thực thần thiêng nuôi linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu (MK 21).

Lời Chúa là Sự Thật, “là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” (Tv 119 ;105). Chúng ta kín múc ánh sáng và sự khôn ngoan từ Lời Chúa để đời mình được chiếu soi và hướng dẫn.

“Lời Chúa trở thành niềm vui và hạnh phúc của lòng con” (Gr 15,16). Không có lời nào của loài người có thể đến với con người bằng một sự thâm sâu như Lời Thiên Chúa đến với họ.

“Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Dt 4,12).

Lời Chúa có sức sống và quyền năng vô cùng bởi lẽ: “Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là Sự Sống”.

Lời Chúa quý giá như một viên ngọc, như kho báu. Ai yêu mến khám phá sẽ say mê, đến nỗi có thể bán hết mọi của cải tài sản để có được viên ngọc quí, có được kho báu ấy.Có những người chỉ cần khám phá một câu Tin Mừng thôi là thay đổi cả một cuộc đời. Chẳng hạn như thánh Phanxicô Assidi, câu “Phúc cho những người nghèo khó” đã khiến ngài bỏ hết gia tài của cha mẹ để dấn thân vào một cuộc sống nghèo khó nhưng vô cùng hạnh phúc. Thánh Phanxicô Xaviê được đánh động bởi câu: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào được ích gì”.Thánh nhân từ bỏ tất cả danh vọng thế tục dấn thân truyền giáo và đã đưa về cho Chúa hàng trăm ngàn linh hồn.Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng tìm thấy linh đạo “con đường thơ ấu” từ câu “Nước Trời thuộc về những trẻ nhỏ”…

Ngày Chúa Nhật 05/10/2008, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI chủ sự Thánh lễ khai mạc Thượng Hội đồng Giám Mục Thế giới lần thứ 12 với chủ đề “Lời Chúa trong Đời sống và Sứ vụ của Giáo Hội”. Đức Thánh Cha đã gọi Đức Trinh Nữ Maria là người môn sinh tuyệt hảo của Lời Chúa.

Mẹ Maria là một khuôn mẫu tuyệt vời cho chúng ta trong sứ vụ học hỏi, suy niệm và rao truyền Lời Chúa. Mẹ là người đã đón nhận Lời, đã cưu mang Lời thành xác phàm trong lòng dạ mình. Nhờ đó Mẹ đã sinh Lời cho nhân loại. Quá trình đón nhận, cưu mang, và sinh hạ chính là quá trình mà mỗi Kitô phải đi qua nếu muốn Lời Chúa mang lại hiệu quả cho mình và cho tha nhân. Vì thế, chiêm ngắm Mẹ Maria, học tập với Mẹ và cầu nguyện cùng Mẹ là một trong những cách thế tốt nhất giúp chúng ta chu toàn sứ mạng học hỏi, suy niệm và rao truyền Lời Chúa.

Mỗi thánh lễ là một bữa tiệc. Chúng ta được mời đến dự bàn tiệc Lời Chúa trước khi dự bàn tiệc Thánh Thể. Cả hai đều là lương thực bổ dưỡng cho người tín hữu. Công đồng Vaticanô (PV 7) khẳng định rằng, khi chúng ta nghe đọc Lời Chúa trong Phụng Vụ thì Chúa Giêsu “hiện diện trong Lời của Người, vì chính Người nói khi ta đọc Kinh Thánh trong Giáo Hội”. Như thế Chúa Giêsu vẫn loan báo Tin Mừng trong từng thánh lễ (PV 33). Chúa Giêsu vẫn trao cho chúng ta Tấm Bánh là Lời của Người.

Bổn phận của các linh mục là phải trình bày Lời Chúa như thế nào để giáo dân thấy được giá trị hấp dẫn của Lời Chúa.

Bổn phận của giáo dân là phải biết chăm chú lắng nghe để chính mình cũng khám phá ra được giá trị tuyệt vời của Lời Chúa.

Bổn phận của tất cả mọi tín hữu, linh mục cũng như giáo dân, là phải học hỏi, yêu mến và sống Lời Chúa. Nhờ học hỏi Lời Chúa mà mỗi người biết Chúa Giêsu. Nhờ suy niệm và cầu nguyện mà mỗi người gặp gỡ Chúa Giêsu. Nhờ sống Lời Chúa mà mỗi người yêu mến và bước theo Chúa Giêsu. Đời sống thiêng liêng cốt yếu dựa trên Chúa Giêsu và gắn bó với Người như “Cành nho gắn với thân nho” (Ga 15,5). Học hỏi, gặp gỡ, chiêm ngắm Chúa Giêsu, chúng ta được Lời Chúa biến đổi mỗi ngày. Từ đó dần dần nên giống Chúa Giêsu hơn, được nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, có được những tâm tình, thái độ và phản ứng của Chúa Giêsu.

Lời Chúa là tấm bánh thơm ngon cho những ai biết lắng nghe và đem ra thực hành. Càng sống Lời Chúa, chúng ta càng gặp được ánh sáng và sức mạnh, nhất là được hiệp thông mật thiết với Chúa Giêsu để cuộc đời mỗi người được biến đổi, có ý nghĩa, có giá trị.

Về mục lục

 

TRONG ANH EM CÓ NHỮNG KẺ KHÔNG TIN

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Lời mời gọi tiếp nhận ‘bánh hằng sống’, hay đúng hơn ‘ăn thịt và uống máu’ của Đức Giê-su, đã bị đám thính giả Do Thái nói chung, thậm chí cả một số môn đệ nói riêng, khước từ; “Lời này chướng tai quá, ai mà nghe cho nổi!… Từ lúc đó nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa”. Chắc chắn không phải vì họ không muốn có bánh ăn là thứ mà họ đang kiếm tìm, nhưng họ khước từ ‘ăn thịt và uống máu’ vì là hình thức ghê tởm đối với bất kỳ ai. Điều đó thật ra cũng dễ hiểu thôi, và chẳng có gì đáng chê trách! Tuy nhiên điều làm chúng ta suy nghĩ chính là, từ sự ghê tởm tự nhiên đó, họ đã không còn tin vào Đức Giê-su nữa, “Trong anh em có những kẻ không tin”… và nhiều người quyết định lìa bỏ Người.

Nếu chỉ là vì hình thức ‘ăn thịt và uống máu’ làm họ ghê tởm, thì cách giải quyết cũng nhẹ nhàng thôi: chỉ cần trao bánh và rượu, rồi nói: “này là thịt và máu Ta”, như Người sẽ làm trong bữa ăn ly biệt, là sẽ dễ dàng được chấp nhận ngay. Thế nhưng, trong nhận thức của Đức Giê-su, thì rõ ràng đó không phải là lý do đáng quan tâm nhất để họ từ khước. Đối với Người, các môn đệ đang cần củng cố một điều gì còn thâm sâu hơn nhiều mà Người gọi là đức tin nhờ Thần Khí; “Thần Khí mới làm cho sống chứ xác thịt chẳng có ích gì”, vì cũng chỉ có Thần Khí mới có thể mở miệng Phê-rô thốt lên lời tuyên xưng: “Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa!”

Ngày nay trong số các Ki-tô hữu cũng có nhiều kẻ không tin, nhưng vấn đề chúng ta phải giáp mặt có lẽ lại trái ngược hẳn với các môn đệ Do Thái thời xưa. Khi giảng giải về Thánh Thể, người ta nhấn mạnh, bánh và rượu thật là ‘mình và máu’ Chúa (cũng có thể là do phản ứng của Công Giáo trước việc anh em Tin Lành chối bỏ học thuyết ‘biến thể’ transubstantiation). Điều này ngày nay không quá khó chấp nhận, ngay cả đối với các dự tòng, chỉ cần đưa ra một lý luận đơn giản: có điều gì mà Thiên Chúa không làm được? Cũng vậy khi tiến lên rước lễ, chẳng ai trong chúng ta còn có cái cảm giác ghê tởm của ‘ăn thịt và uống máu’. Thế nhưng, như đã từng xẩy ra cho các môn đệ xưa, vấn đề chính của chúng ta sẽ là: tôi có thật sự ‘tin và theo Thầy’ cách triệt để hay không? ‘Uống nước hằng sống’ và ‘ăn bánh trường sinh’ thực chất chỉ là những kiểu nói tượng hình để diễn đạt một điều hệ trọng hơn nhiều. Môn đệ Phê-rô đã biểu lộ niềm tin này qua lời tuyên xưng chân thành: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68). Chính Đức Giê-su cũng chỉ rõ: “… Trong anh em có những kẻ không tin… Vì thế, Thầy bảo anh em: không ai đến với Thầy được nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”. Tác giả Gio-an hình như cũng có cùng một nhận định khi nói về các môn đệ: “Quả thực ngay từ đầu đức Giê-su đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp người”. Như vậy ‘tin Đức Giê-su’ có nghĩa là lấy cái chết tự hiến thập giá của Người làm sức sống cho đời mình, làm con đường duy nhất dẫn đến Chúa Cha – sự sống vĩnh cửu; “Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” Chỉ ai tin như thế (= ăn thịt và uống máu) mới bảo đảm cho mình được sống muôn đời; “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”.

Xác tín điều này, tôi không hề có ý hạ thấp tầm quan trọng của bí tích Thánh Thể trong nội dung triết học và thần học; ngược lại là đàng khác. Khi cử hành Thánh Thể, thay vì chỉ suy nghĩ rằng mình đang làm một việc đạo đức tốt lành và thánh thiện bậc nhất (hàng đầu trong số các bí tích hay phụng vụ), tôi cần minh định rõ rằng mình đang tuyên xưng niềm tin vào Đức Ki-tô cách long trọng nhất, cũng như đang đón nhận ơn cứu độ cách thâm sâu nhất. Đức tin của tôi không đơn thuần chỉ là xác tín bánh và rượu đã trở thành Mình và Máu Thánh Chúa Ki-tô. Đức tin phải đưa tôi tới việc đón nhận Đấng đã hiến dâng mình trên thập giá để tôi được thông phần vào sự sống từ ái vô biên của Chúa Cha… Và điều này thiết thực tới độ, cho dầu tôi, nếu có chết trước cả khi có dịp ‘ăn thịt và uống máu’ Người nơi bí tích Thánh Thể, và nếu tôi đã từng hết lòng ‘ăn bánh trường sinh’ trong niềm tin phó thác thâm sâu nhất đó, thì chính niềm tin này mới đảm bảo cho tôi “không còn chết nữa, nhưng được sống muôn đời”.

Điều tối quan trọng là đôi lúc tôi cần thật sự duyệt lại niềm tin của mình đạt nơi bí tích Thánh Thể, nhất là trong Thánh Lễ tôi cử hành hàng ngày.

Lạy Cha chí ái, mỗi ngày khi con cử hành Thánh Thể, cho dầu có là một thói quen như hầu hết các linh mục khác, xin Cha luôn làm con ý thức rằng, đây chính là lời tuyên xưng đức tin thâm sâu nhất của con. Thánh Thể khi đó sẽ diễn đạt việc con đón nhận ơn cứu độ vô giá của thập giá Chúa Ki-tô cách trọn vẹn nhất, sẽ trở thành con đường để con đi vào sức sống vô biên của Chúa Cha, và bảo đảm cho con cuộc sống vĩnh hằng. Xin Cha giúp con luôn cử hành Thánh Lễ trong niềm tin như vậy. A-men.

Về mục lục

 

 

TRUNG THÀNH HAY PHẢN BỘI

Văn Hào

Người ta vẫn thường nói, trên đời này không có gì ghê tởm và đáng cho chúng ta khinh bỉ cho bằng sự phản bội. Trò phản thầy. Con cái phản bội công ơn cha mẹ, nhất là vợ chồng phản bội nhau trong nghĩa tình phu thê, .. tất cả đều đáng bị nguyền rủa và coi khinh. Tuy nhiên, trong đời sống đức tin, đặc biệt trong ơn gọi thánh hiến, chúng ta cũng có nguy cơ dễ rơi vào sự bội phản này. Lời tuyên tín của thánh Phêrô trong trình thuật tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta phải luôn canh tân lòng trung thành và bền bỉ theo Chúa Giêsu từng ngày: “ Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6,68)

Nghịch lý của Lời

Sau khi Đức Giêsu tuyên bố : “ Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”, nhiều môn đệ dị ứng và ngán ngẩm bỏ đi. Có lẽ họ đã theo Chúa một thời gian khá lâu với những động cơ khác nhau, nhưng cuối cùng hầu hết đã thoái lui và đầu hàng vô điều kiện. “Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi”(c.60). Họ bỏ của chạy lấy người, vì không thể chấp nhận nghịch lý theo suy luận tự nhiên nơi đầu óc của họ. Lời Đức Giêsu tuyên bố làm sụp đổ hoàn toàn những toan tính trần thế mà họ vẫn đeo bám khi đến với Đức Giêsu. Quả thật, Đức Giêsu vẫn luôn là một mầu nhiệm ẩn kín và khó hiểu. Mầu nhiệm về Ngài và những lời Ngài nói luôn hàm ngậm một nghịch lý, và cao điểm của nghịch lý này là cái chết trên Thập giá. Một con người mà họ mơ tưởng sẽ trở thành thủ lãnh chính trị, khai lập một vương quốc mới đầy oai phong, lại bị kết án như một tên tội phạm, và bị treo thân cách nhục nhã giống hệt một tên cướp đáng sợ. Một số môn đệ bỏ đi cũng dễ hiểu. Lời Đức Giêsu nói ra nghe thật chói tai và nhức nhối. Giả như chúng ta ở vào hoàn cảnh đó, có lẽ chúng ta cũng sẽ hành xử giống như họ. Khi tuyên bố như thế, ông Giêsu đúng là một con người điên điên khùng khùng chẳng giống ai. Ngay cả các thân nhân đồng hương với Chúa cũng đã có lần phải lắc đầu và ngao ngán thốt lên “ Ông ấy đã mất trí rồi” ( Mc 3,21).

Nhưng nếu tìm hiểu căn nguyên một cách sâu xa hơn, một số môn đệ bỏ đi, bởi vì họ đã chưa thực sự cắm sâu vào mầu nhiệm Đức Giêsu. Họ chỉ nghe Chúa nói bên ngoài, nhưng bên trong, tâm hồn họ vẫn hoàn toàn đóng khép. Con tim họ chưa mở toang ra để lời Chúa có thể thẩm thấu vào sâu tận nơi con người họ. Thánh Biển Đức cũng dạy các con cái Ngài: “Chúng con phải siêng năng lắng nghe lời Chúa, nhưng không phải nghe với đôi tai của thân xác mà với đôi tai của cõi lòng”.

Tự bản chất, Đức Giêsu chính là Lời hằng sống được hiến trao cho nhân loại. “Lời đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Lời Thiên Chúa không phải là một hệ thống những triết ngôn, hay những tư tưởng khuyến thiện để răn đời. Lời Chúa ở trên một mức độ khác cao cả hơn rất nhiều, bởi vì Lời Chúa và duy nhất chỉ có Lời của Thiên Chúa mới đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Đây là lời tuyên tín của Thánh Phêrô, được khởi hứng bởi Thần khí, đồng thời cũng là một mặc khải sâu xa Thiên Chúa ngỏ trao. Những kiến thức khoa học, chúng ta có thể nghiên cứu để sở đắc. Những chân lý triết học, chúng ta có thể dùng lý luận để suy tư. Nhưng lời Chúa không phải là một mớ kiến thức để nhồi nhét, nhằm thỏa mãn sự tò mò nơi đầu óc con người. Muốn đón nhận lời của Chúa để được sống luôn mãi, thái độ căn bản cần phải có chính là “tin” vào Ngài. Trong diễn từ về bánh nơi chương 6 trong Tin mừng Gioan, Đức Giêsu nói khá nhiều về thái độ căn bản này: “Ai tin vào tôi sẽ được sống muôn đời”. Lời khuyến mời của Đức Giêsu cũng tương thích với lời tuyên tín của thánh Phêrô. “ Chỉ Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”. Ăn thịt và uống máu Chúa, cũng như mở lòng đón nhận nhận Lời của Thiên Chúa sẽ được trường sinh. Đây là hai cách thái giống hệt nhau biểu tỏ một thực tại duy nhất : Tin vào Đức Giêsu.

Canh tân lòng trung thành

Lời của Chúa là nghịch lý luôn hàm ngậm mầu nhiệm tự hủy. Thánh giáo phụ Grêgoriô thành Nysse đã quảng diễn nghịch lý đức tin này khi Ngài viết: “Hành trình đức tin của chúng ta đến với Chúa giống như chúng ta đang dấn bước tìm đến một khoảng tối đầy ánh sáng”. Ánh sáng và bóng tối, sự sống và sự chết, ân sủng và tội lỗi… là những cặp phàm trù tương phản và đối kháng nhau ẩn chứa nơi nghịch lý của Lời, cũng như trong nghịch lý của mầu nhiệm Đức Giêsu. Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta phải liều lĩnh dấn bước vào bóng tối để tiến đến ánh sáng, phải chấp nhận đi qua Thập giá và cái chết để tiến nhận sự sống và vinh quang. Đối diện trước nghịch lý này, chúng ta sẽ phải chạm mặt với những cám dỗ muốn thoái lui và không muốn chấp nhận điều nghịch thường đó.Vì thế, chúng ta cần phải canh tân lòng trung thành mỗi ngày. Đức tin không phải chỉ đón nhận một lần là xong. Thánh Phaolô cũng đã căn dặn giáo đoàn Rôma: “Những người có đức tin vững mạnh phải nâng đỡ những người yếu đuối không có niềm tin vững mạnh” (Rm 15,1).

Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng đã từng cảnh báo chúng ta về ba nguy cơ gây xói mòn đức tin và làm suy giảm căn tính đích thực nơi mọi Kitô hữu, đó là sống theo chủ nghĩa duy vật (materialism), sống theo chủ nghĩa hưởng thụ (consumerism) và sống theo chủ nghĩa tục hóa (secularism). Là môn đệ Đức Giêsu, chúng ta phải đặt Thiên Chúa vào chỗ tối thượng (in primacy). Điều này ai cũng biết trên lý thuyết, nhưng trong thực tế, chúng ta lại hay sống theo kiểu khác. Khi chúng ta thượng tôn tiền bạc, đặt tiền bạc làm thước đo mọi giá trị theo kiểu sống duy vật, thì đó chính là một sự phản bội. Khi chúng ta chủ trương sống an nhàn với những tiện nghi vật chất để thỏa mãn nhu cầu thể xác theo kiểu sống hưởng thụ, đó cũng là một sự phản bội. Đặc biệt, khi chúng ta mất dần cảm thức linh thánh, không còn thiết tha đến việc cầu nguyện và rơi vào nếp sống tục hóa, thì chắc chắn đó cũng chính là con đường phản bội mà chúng ta đang từ từ đi vào. Chúng ta phải can đảm đạp đổ những “con bò vàng” giống như con bò vàng của những người Do thái năm xưa trong sa mạc Sinai, để từng giờ từng phút, chúng ta luôn lặp lại quyết tâm sống trung thành.

Nguy cơ phản bội

Một đứa bé 12 tuổi ngồi tham dự phiên tòa xét xử vụ án ly dị của bố mẹ, đã viết lại những dòng tâm sự đầy nước mắt sau đây:

“Con nhớ mãi buổi chiều thu ấy, lá rơi nhiều. Bên ngoài trời mưa tầm tã. Bố đến hôn con, một nụ hôn cay đắng và nghiệt ngã. Tâm hồn con tan nát và chết lặng.

Bố ơi, sao bố dùng cái hôn ấy để xé nát gia đình chúng ta. Sao bố dùng nụ hôn giả dối ấy để trao cho con thay vì hôn trên đôi môi của mẹ. Chữ ký ngày xưa trên bàn thờ Chúa ngày bố mẹ thành hôn nay trở thành những nét chữ không hồn.

Mẹ ơi, sao mẹ không đến nhận nụ hôn thay cho con, nụ hôn ngày xưa mẹ đã hạnh phúc lãnh nhận trước bàn thờ Chúa. Sao mẹ vẫn lạnh lùng đứng đó như một kẻ xa lạ nhìn bố hôn con, một nụ hôn như mũi dao nhọn đâm nát trái tim bé bỏng nơi con.

Bố ơi, mẹ ơi, con phải trung thành với ai đây khi con sẽ đứng nhìn những nụ hôn bố trao cho mẹ ghẻ, mẹ sẽ trao cho một người đàn ông khác hoàn toàn xa lạ.

Chúa ơi, con còn quá nhỏ bé, sao Chúa để con phải nhận những nụ hôn Giuđa này?”

Đúng vậy, trên đời này không có gì đáng chúng ta ghê tởm cho bằng sự phản bội.

Nhưng, những nụ hôn Giuđa hình như vẫn đang được lặp lại trong cuộc sống mỗi người chúng ta, qua nhiều dạng thức khác nhau, đặc biệt trong đời sống đức tin, nhất là trong đời sống thánh hiến.

Kết luận

Cha Matthêu King, một linh mục dòng Salêdiêng DonBosco đã qua đời cách đây hơn 7 năm. Ngài được Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II mời sang Rôma để làm cố vấn đặc biệt cho giáo triều về những vấn đề của Trung quốc. Trong những năm tháng cuối đời nằm trên giường bệnh quặn đau với căn bệnh ung thư, Ngài vẫn thường nói: “ Tôi luôn cám ơn Chúa về ba hồng ân Chúa đã ban cho tôi. Trước hết, tôi được biết Chúa và trở nên môn đệ Đức Giêsu ngày tôi lãnh nhận bí tích Thánh tẩy. Thứ đến, Chúa đã chọn tôi trong ơn gọi Salêdiêng và trở nên một linh mục phục vụ Giáo hội. Cuối cùng, Chúa đã gửi đến cho tôi căn bệnh đau đớn này để tôi được thông dự vào những khổ đau với Chúa Giêsu trên Thánh giá. Tôi luôn cảm tạ Chúa vì ba ân huệ quý giá này”. Ngài cũng luôn nói với những ai đến thăm Ngài: “Xin anh em cầu nguyện cho tôi, để tôi được mãi trung thành”.

Đức tin không phải chiếm được một lần là xong. Chúng ta còn phải chiến đấu mãi, phải luôn bươn chải mãi, để với ơn Chúa, chúng ta có thể trung thành đến cùng.

Về mục lục

 

 

TRUNG NGÔN NGHỊCH NHĨ

Trầm Thiên Thu

Câu thành ngữ “trung ngôn nghịch nhĩ” (Hán-Việt) bắt nguồn từ câu chuyện được ghi chép lại trong Sử Ký Tư Mã Thiên (*), trong giai thoại thứ 55 về quân sư tài ba Trương Lương (262-189 trước công nguyên). Ý nói rằng những lời khuyên chân thành thường nghe không thuận tai và khiến người ta khó chấp nhận.

Đời nhà Hán (năm 206 trước CN đến năm 23 sau CN), Hán cao tổ Lưu Bang sống xa hoa với hàng ngàn cung phi mỹ nữ. Phàn Khoái khẩn thiết tấu trình: “Tâu bệ hạ, ngài thấy trong cung có vô số châu báu và hàng nghìn mỹ nữ. Tất cả những thứ này chính là điều đã làm nhà Tần suy vong. Thần mong bệ hạ lập tức trở về doanh trại, bệ hạ không thể ở lại trong cung”.

Tuy nhiên, Lưu Bang bỏ ngoài tai những lời can gián của Phàn Khoái. Nghe vậy, Trương Lương vẫn dám nói thẳng: “Tần vương sống xa hoa, hung bạo và hủ bại. Đó là lý do dân chúng nổi dậy lật đổ ông ta và đánh bại quân Tần. Bệ hạ vừa mới lật đổ một Tần vương hung bạo bức bách dân chúng”. May thay, Lưu Bang đã nhận ra sai lầm mà quay về doanh trại và chấn chỉnh cách sống.

“Trung ngôn nghịch nhĩ” nghĩa là lời nói ngay thẳng thì nghe chướng tai. Người ta cũng nói “thuận ngôn nghịch nhĩ”, và được Việt hóa thành “nói thật mất lòng”. Vâng, thuốc đắng dã tật (có người nói là giã, đã, đả). Người dám nói thật là người can đảm, nhưng phải khôn ngoan để phân định nên nói lúc nào, nơi nào và với ai. Nói không đúng lúc, không đúng chỗ và không đúng người sẽ phản tác dụng. Tuy nhiên, phải nói thật vì công ích chứ không để chứng tỏ “bản lĩnh” của mình, và có thể lợi bất cập hại.

Một hôm, ở Si-khem, ông Giô-suê quy tụ mọi chi tộc Ít-ra-en, đồng thời triệu tập các kỳ mục Ít-ra-en, các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục. Họ hiện diện trước nhan Thiên Chúa. Ông Giô-suê nói với toàn dân: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ, hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người E-mô-ri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa” (Gs 24:15).

Tự do là điều Thiên Chúa cho chúng ta “tùy ý”, được toàn quyền sử dụng. Rất thoải mái, nhưng phải khôn ngoan mới biết sử dụng đúng đắn. Thật ra gọi là tự do nhưng chính sự tự do cũng có giới hạn nhất định của nó. Cái khó là ở chỗ đó.

Thật may là dân không có ý như ông Giô-suê nghĩ. Họ đáp lại: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người E-mô-ri ở trong xứ. Về phần chúng tôi,chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi” (Gs 24:16-18).

Ước gì tất cả chúng ta, những người đã được lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, trở nên con cái của Thiên Chúa, sẽ biết quan tâm như ông Giô-suê và dân Ít-ra-en xưa, để có thể kiên trì giữ vững đức tin cho đến hơi thở cuối cùng. Có lẽ lúc này chúng ta có thể lặp lại câu ca dao Việt Nam: “Dù ai nói ngả nói nghiêng, thì tôi vẫn vững như kiềng ba chân”. Cũng có thể coi chiếc kiềng-ba-chân đó là Tin-Cậy-Mến, ba đức đối thần cần thiết lắm.

Ngày xưa, nhiều lần có những lúc nổi lên các bè rối, tà thuyết. Ngày nay không thấy các dạng tương tự, nhưng vẫn luôn có những “làn sóng” nguy hiểm hơn sóng thần, bởi vì càng văn minh hiện đại thì người ta càng tinh vi trong cách chối bỏ Thiên Chúa. Từ nghi ngờ đến chối bỏ đức tin không xa bao nhiêu, có thể chỉ như một làn ranh mong manh mà thôi!

Vì thế, chúng ta luôn phải tự nhủ: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa” (Tv 34:2-3a), đồng thời vì yêu thương mà nhắn nhủ với người khác: “Xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên” (Tv 34:3b).

Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, luôn chạnh lòng thương những người hèn mọn, thấp cổ, bé miệng, “họ kêu xin, và Chúa đã nhận lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv 34:18). Thật vậy, “Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề” (Tv 34:19), còn người công chính, “khi gặp nhiều nỗi gian truân, Ngài giúp họ luôn thoát khỏi” (Tv 34:20). Có được một vị Thiên Chúa như vậy thì làm sao có thể rời xa? Chỉ có những kẻ khờ dại hoặc ngu xuẩn mới có mưu đồ phản loạn, muốn chống lại Ngài, muốn chối bỏ Ngài!

Tác giả Thánh Vịnh minh chứng: “Xương cốt họ đều được Chúa giữ gìn, dầu một khúc cũng không giập gãy. Quân gian ác chết vì tội ác, kẻ ghét người lành chuốc án phạt vào thân. Chúa cứu mạng các người tôi tớ, ai ẩn thân bên Chúa không bị phạt bao giờ” (Tv 34:21-23).

Ai cũng đã từng được Chúa cứu thoát nhiều lần, bằng cách này hay cách khác, kể cả những người chưa chân nhận Ngài và tôn thờ Ngài. Chính Ngài đã xác định: “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng biết Ta” (Ga 10:27). Nghe và sống Lời Chúa là chứng tỏ niềm tin vào Ngài, là sống đạo. Sống đạo từ đâu? Từ chính việc tu thân và ngay tại gia đình mình.

Trình thuật Ep 5:21-32 là lời nhắn nhủ của Thánh Phaolô về việc “gia đình sống đạo” theo tinh thần Kitô giáo giữa đời thường: “Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau”. Tùng phục nhau không phải theo hệ lụy chủ nhân với tôi tớ, mà đơn giản là lắng nghe nhau, vâng lời nhau, yêu thương nhau, và phục vụ nhau.

Trước tiên, Thánh Phaolô nói về hệ lụy phu thê: “Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền. Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Rất chi tiết và chí lý, vì vợ chồng tuy hai mà một, họ không còn là hai mà chỉ là một mà thôi (x. Mt 19:6).

Thánh Phaolô phân tích và dẫn chứng: “Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người. Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh”. Và ông kết luận: “Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng”. Nói chung, dù là ai cũng phải tôn trọng nhau, đặc biệt là vợ chồng – những người luôn ở bên nhau cả tinh thần và thể lý. Có tôn trọng nhau mới biết yêu thương nhau và phục vụ nhau theo lệnh truyền của Đức Giêsu Kitô.

Người Anh có thành ngữ: “A friend in need is a friend indeed – Khi hoạn nạn mới biết bạn thật”. Người bạn thật không chỉ ở bên ta khi ta gặp khó khăn, mà còn dám nói thật mà không sợ ta mất lòng.

Trình thuật Ga 6:61-70 là phần cuối của diễn từ mà Đức Giêsu đã giảng dạy trong hội đường ở Ca-phác-na-um. Sau khi nghe Ngài nói chính Ngài là Bánh Trường Sinh và phải ăn uống Thịt Máu Ngài để được sống dồi dào, người Do Thái lùng bùng lỗ tai. Ngay cả nhiều môn đệ của Ngài còn nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?”. Ôi chao, các môn đệ còn như vậy huống chi người ta! Ngài biết tỏng là các môn đệ cũng đang xầm xì về vấn đề ấy, nên Ngài bảo họ: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống”.

Và Ngài nói thẳng: “Nhưng trong anh em có những kẻ không tin. Xấu hổ quá! Mắc cở hết sức! Mang tiếng là theo Thầy, được Thầy mở lòng trí và được thụ giáo bao điều hay lẽ phải, thế mà lại bị Thầy trách nặng nề như vậy. Sự thật mãi là sự thật, không thể biện hộ, và đừng tưởng mình “ngon lành” hơn người khác. Chúa Giêsu nói sự thật rành rành ra đó đấy thôi!

Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Ngài, vì Ngài thấu suốt mọi sự. Rồi Ngài nói tiếp: “Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”. Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Ngài nữa. Họ chịu không nổi vì “choáng”, vì nghe toàn là những lời “khó lọt lỗ tai”, thôi thì đành “bỏ của chạy lấy người” vậy.

Tùy. Không ép. Hoàn toàn tự do mà. Ngài biết có những người mạnh miệng nhưng nhát đảm, chết khiếp trước khi chết thật, thế nên Ngài hỏi thẳng Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”. Ui da! Thầy ơi là Thầy, răng mà hỏi chi khó rứa hỉ? Có lẽ ai cũng ngại trả lời nên ông Simôn Phêrô liền gãi đầu và đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Một câu xác định và tuyên tín mạnh mẽ, “bù lỗ” lần ông hồ nghi nên suýt chết đuối trên biển và bị Thầy chê là kém tin (Mt 14:25-31), và lần ông dám cản bước Thầy nên bị rủa là Satan (Mc 8:33).

Đức Giêsu đặt vấn đề: “Chẳng phải Thầy đã chọn anh em là Nhóm Mười Hai sao? Thế mà một người trong anh em lại là quỷ!”. Ngài muốn nói về Giuđa, con ông Simôn Ítcariốt, một môn đệ trong Nhóm Mười Hai, sẽ nộp Ngài. Chắc chắn lúc đó nhìn Chúa Giêsu “thấy thương” lắm, vì mặt Ngài buồn rõ nét nhưng chưa đến lúc tiện nói ra!

Thật không dễ để có thể bình thản sống theo câu “trung ngôn nghịch nhĩ”. Phải thực sự can đảm lắm. Học giả Tuân Tử (313-235 trước CN, Trung Hoa) đã phân định rạch ròi ba loại người chúng ta thường gặp trong cuộc sống: “Người chê ta mà chê đúng, đó là thầycủa ta; người khen ta mà khen đúng, đó là bạn của ta; còn những kẻ nịnh bợ ta chính làkẻ thù của ta vậy”. Thầy – Bạn – Kẻ thù, các khoảng cách rất nhỏ. Cẩn tắc vô ưu!

Có một tư tưởng hay trong sách Luận Ngữ của Khổng Tử (551-479 trước CN) đáng để chúng ta cùng suy tư: “Tam nhân đồng hành, tất hữu ngã sư yên; trạch kỳ thiện giả nhi tùng chi, kỳ bất thiện giả nhi cải chi – Ba người cùng đi, có một người là thầy ta; còn các khuyết điểm của họ, hãy lấy đó làm gương mà hoàn thiện chính mình”.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết chân thành đón nhận những ý kiến xây dựng của mọi người, dù họ già hay trẻ, để con có thể rút kinh nghiệm mà cố gắng hoàn thiện dần dần. Xin tha thứ tội-nhân-con, lạy Chúa, và ban tràn đầy Thần Khí Chúa để làm con nên mới từng ngày. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

(*) Bộ Sử Ký của sử gia lỗi lạc Tư Mã Thiên (135-86 trước công nguyên) gồm hơn 130 thiên, ghi lại giai đoạn lịch sử từ năm 2600 đến năm 86 trước công nguyên.

Về mục lục

 

 

CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Những bài Tin mừng trong 5 tuần Chúa nhật vừa qua được trích trong chương 6 Tin mừng thánh Gioan, có chủ đề là Bánh Hằng Sống. Chương 6 bắt đầu với phép lạ Chúa Giê-su biến 5 chiếc bánh và 2 con cá ra nhiều để nuôi đám đông dân chúng theo Ngài. Sau đó Chúa nói với họ Chúa muốn ban cho họ một loại thức ăn đặc biệt có sự sống đời đời, đó là Bánh Hằng Sống, là chính Ngài. Chúa nhật vừa qua, chúng ta nghe Chúa nhấn mạnh “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống.” Đám đông dân chúng nghe Chúa nói những lời như thế, trong đó có một số môn đệ đã từng đi theo và tin Chúa, đã phản ứng và phản đối cho rằng chói tai, khó nghe, không thể chấp nhận được và họ đã bỏ đi. Và chúng ta thấy, Chúa đã không chạy theo nài nỉ gọi những môn đệ bỏ đi trở lại để đính chính lại “họ đã nghe lầm” hay đó chỉ là “biểu hiệu” mà thôi. Chúa biết họ nghe và hiểu lời Chúa nói rõ ràng và minh bạch, và do đó Chúa để họ ra đi. Sau đó, Chúa quay lại hỏi các môn đệ còn ở lại “Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?” Simon Phêrô đại diện cho nhóm 12 thưa “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.”

Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta thấy ngày nay cũng có rất nhiều môn đệ của Chúa bỏ ra đi vì họ nghĩ rằng sứ điệp lời Chúa dạy khó nghe, chói tai quá không thể chấp nhận qua bình diện lý luận, và nhất là không phù hợp với cuộc sống của họ. Họ có sự sống và có lối sống riêng của chính họ không cần đến lời Chúa ban sự sống. Hôm nay trong một xã hội có xu hướng đặt nặng vật chất tiền bạc, chú trọng vào chủ nghĩa cá nhân, tiêu thụ và ích kỷ, tất cả mọi người Ki-tô hữu chúng ta được mời gọi lập lại lời tuyên xưng của thánh Phê-rô với Chúa “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời” để chúng ta có một đức tin vững chắc vào Chúa Giê-su là Bánh Hằng Sống và có sự sống đời đời. Và để có một lời tuyên xưng có nội dung thật sự, thì các bài Kinh thánh hôm nay cung cấp cho chúng ta những yếu tố quan trọng. Một trong những yếu tố quan trọng là chúng ta phải có sự lựa chọn, quyết định khôn ngoan theo thánh ý Chúa, chứ không theo sự khôn ngoan của thế gian.    

Chúng ta thấy trong bài đọc I hôm nay, sau khi vào Đất hứa, ông Giô-suê đã trở thành người lãnh đạo thay thế Môi-sen. Ông nhận thấy cuộc sống của dân chúng dần dần xa lìa Thiên Chúa, nhiều người đã phản bội và đi thờ thần ngoại bang, cho nên ông đã triệu tập dân chúng lại tại Sikem, để lập một giao ước, buộc dân chúng phải quyết định dứt khoát, lựa chọn một là thờ phượng một Thiên Chúa hai là thờ phượng các thần ngoại bang. Và như chúng ta vừa nghe, họ đã đồng thanh hứa trung thành và chỉ thờ một Thiên Chúa, Người đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai cập mà thôi. Không biết họ có thành tâm hay chỉ ngoài môi miệng, nhưng lịch sử Do thái cho chúng ta biết những thế hệ con cái, cháu chắt của họ đã phản bội, không còn nhiệt tình trung thành với Chúa nữa.

Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta đang sống trong một quốc gia tự do và không bị kiềm chế hay áp lực, cho nên chúng ta có tự do quyết định cho chính mình, cho gia đình một cách sống, hay chọn những gì ưa thích. Chúng ta biết những sự quyết định hay lựa chọn này sẽ định hướng và đánh giá cuộc đời của mình. Mỗi quyết định hay lựa chọn của chúng ta hôm nay đều có những ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta hiện tại hay trong tương lai, và có những ảnh hưởng đến đời sống gia đình, con cái và cháu chắt chúng ta. Có những lựa chọn mà chúng ta cảm thấy khó khăn, thiệt thòi hay phải hy sinh hiện tại, nhưng lại đem đến những điều tốt đẹp và lợi ích trong tương lại, hay ngược lại, có những lựa chọn đem đến cho chúng ta sự thoải mái, ưa thích hiện tại, nhưng có thể sẽ có những hậu quả xấu ở tương lai, đem lại những đau khổ và hối hận. Chúng ta biết, ngoài cuộc sống vật chất, chúng ta còn có đời sống đức tin, và Chúa cũng cho chúng ta sự tự do để chúng ta lựa chọn và quyết định tin theo Chúa và sống lời Chúa, hay ngược lại, không tin, không sống lời Chúa. Như chúng ta thấy, Chúa không nài nỉ, cưỡng bách hay áp lực những người không chấp nhận và phản đối lời Chúa phán là chói tai, khó nghe và bỏ ra đi, quay trở lại, vì họ không thành tâm, và tin vào lời Chúa. Vì vậy, là những Ki-tô hữu, chúng ta phải suy nghĩ và thận trọng, cũng như thành tâm lắng nghe những lời Chúa dạy bảo và hướng dẫn.

Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô đề cập đến hôn nhân gia đình, một vấn đề rất khó khăn và gai góc hiện nay vì ly dị và sống chung tự do. Thánh Phao-lô đã so sánh đời sống hôn nhân gia đình vợ chồng như sự liên kết giữa Chúa Giê-su Ki-tô và Giáo hội, và khuyên các đôi vợ chồng một khi đã quyết định chọn nhau làm bạn đời, thì phải suốt đời trung thành với giao ước đó, phải biết hy sinh cho nhau, để giao ước đó đem đến kết quả là yêu thương, hạnh phúc và sự hòa thuận trong gia đình. Vợ chồng phải bảo vệ giao ước hôn nhân bằng sự chung thủy, tôn trọng, chu toàn bổn phận làm vợ, làm chồng, nhất là bổn phận đức tin cho con cái. Chúng ta bận rộn và dành nhiều thời giờ cho công việc làm ăn, kiếm tiền, lo cho đời sống vật chất, nhưng là Ki-tô hữu và nếu chúng ta quyết định và chọn Chúa, chúng ta cũng phải quyết định chú tâm vào việc chu toàn bổn phận đời sống đức tin cho gia đình, nhất là cho con cái. Tôi kêu gọi ông bà anh chị em để tâm tham gia, cộng tác với các giáo lý viên, thày cô và những người hy sinh tình nguyện làm mọi công việc trong chương trình giáo lý và Việt ngữ, và làm những gương sáng tốt lành, để giúp con cái của ông bà anh chị em biết giáo lý, hiểu Lời Chúa và yêu mến Chúa hơn.

Ông bà anh chị em thân mến. Tất cả chúng ta đã quyết định chọn tin theo Chúa, đó là lý do chúng ta hiện diện trong Thánh lễ sáng hôm nay. Như thánh Phê-rô, chúng ta cùng tuyên xưng “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.” Chúng ta tin thật và chắn chắn Chúa Giê-su là Đấng cứu thế và là Bánh Hằng Sống từ trời xuống, hiện diện trong Bí tích Thánh thể. Xin Chúa Giê-su Thánh Thể ban ơn, thêm sức cho chúng ta, vượt qua mọi khó khăn và luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh, và luôn có những quyết định, chọn lựa khôn ngoan theo thánh ý và đẹp lòng Chúa, đưa đến cho chúng ta bằng an và hạnh phúc đời này và đời sau.

Về mục lục

 

 

MẦU NHIỆM GIÊSU

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Đức Giêsu là một thực tại. Ngài hiện hữu như một sự kiện lịch sử. Ngài là người không dễ hiểu tuy dù người ta biết cha mẹ và dòng tộc Ngài. Ngài đã có những lời mà người đương thời không hiểu được, nhưng qua đó những người tin vào Ngài biết rằng Ngài có nguồn gốc thần linh: Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.

  1. Lời nói của Đức Giêsu khó hiểu

“Mình Ta là thật của ăn, máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, sẽ được sống đời đời”. Làm sao chấp nhận được câu nói này, khi người ta biết Ngài từ nhỏ đã sống ở Nadarét, khi người ta biết cha mẹ Ngài là Yuse và Maria! Ngài không được học hành gì, không có gì trổi trang hơn người khác khi sống tại Nadarét. Không thể chấp nhận được lời nói này của Ngài, đó là chuyện thường tình. Kể cả một số môn đệ, những người đã từng thán phục lời giảng của Ngài trước đó, cũng không thể chấp nhận lời này: “lời chi sống sượng thế, ai nghe cho nổi”. Họ đã bỏ đi, không muốn làm môn đệ của Ngài nữa.

Đức Giêsu nói với nhóm 12: cả các anh nữa, các anh có muốn bỏ đi không? Phêrô được một ơn riêng nên trả lời: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đi theo ai. Thầy có lời ban sự sống đời đời. Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa”. Để chấp nhận lời của Đức Giêsu về chính Ngài, con người phải có ơn đặc biệt từ trên, vì những gì Ngài nói vượt trên cái bình thường. Đức Giêsu cũng biết điều này: “Không ai đến được với Ta, trừ phi được Cha Ta ban ơn đó”. Ngài cũng biết những gì Ngài nói không phải chuyện “thuộc hạ giới”.

Những biểu lộ bên ngoài diễn tả điều gì sâu kín bên trong. Lời nói diễn tả nội tâm và bản tính mỗi người. Đức Giêsu không chỉ là một con người; qua lời Ngài, người ta nhận ra còn cái gì rất đặc biệt nơi Ngài. Làm sao lý giải những gì Đức Giêsu nói về chính Ngài, khi những lời này cho thấy như thể Ngài còn hơn là một con người? Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội, thế mà Ngài lại nói: “Tội con đã được tha” (Mc.2, 7); Abraham là ông tổ của cả dân Do Thái, thế mà Đức Giêsu lại nói: “trước khi có Abraham, Ta là Ta” (Ga.8, 58); Thiên Chúa là Đấng vượt trên tất cả, thế mà có lúc Đức Giêsu lại nói: “Ta và Cha Ta là một” (Ga.10, 30). Nếu không phải là người mất trí, thì ắt hẳn còn một điều gì đó mà người ta chưa hiểu về con người Đức Giêsu.

2. Đức Giêsu là một sự kiện khó lý giải

Biến cố Đức Giêsu phục sinh, giúp những người thân thiết với Đức Giêsu, cụ thể là các tông đồ, hiểu hơn về Đức Giêsu. Nếu Ngài thuộc loại gian dối, phạm thượng, thì Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài. Nếu Ngài được phục sinh, ắt hẳn những gì Ngài nói về Ngài phải là sự thật. Vậy Đức Giêsu là ai? Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa như thế nào? Đức Giêsu là một vấn đề cho con người thời đó, và cho cả con người thời nay nữa.

Với những người đơn thuần nghĩ Ngài là người phạm thượng, cái án tử hình dành cho Ngài thật là chính đáng. Nhưng biến cố phục sinh cho thấy cách nghĩ như vậy là không thỏa đáng và sai lầm. Vậy Ngài là ai? Các môn đệ thân tín, nhóm 12, có câu trả lời về người thầy thân yêu của họ. Ngài là tiên tri và còn hơn một tiên tri, Ngài là Đấng Kitô và còn hơn một Đấng Kitô, Ngài là con Thiên Chúa và còn hơn là con Thiên Chúa như những người công chính từng được gọi là con Thiên Chúa. Vậy Ngài là ai?

Tin Mừng Gioan diễn tả Ngài là Lời đã thành xác phàm (Ga.1, 14). Một số người diễn tả Ngài là con Thiên Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt. Đức Giêsu cũng thắc mắc về điều người ta nói về Ngài: “người ta bảo Con Người là ai?” Đức Giêsu có vẻ hài lòng với câu trả lời của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Tuy nhiên, điều này cũng không rõ ràng lắm với con người ngày nay, vì có nhiều Đức Kitô, nghĩa là nhiều người được xức dầu, nhiều người là Đấng Thiên Sai, chẳng hạn Môsê, Đavít. Cũng có nhiều người được gọi là con Thiên Chúa, chẳng hạn các thiên thần, những người công chính, các vị vua. Công Đồng Chung Nicea sau này (năm 325) xác định, Ngài là con đồng bản tính với Thiên Chúa. Công Đồng Chung Chalcedoine xác định Ngài có hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính con người, Ngài thực sự là người và thực sự là Thiên Chúa. Công Đồng Chung Epheso xác định Ngài là một ngôi vị Thiên Chúa trong hai bản tính. Dù thế nào chăng nữa, những tín điều về Đức Giêsu Kitô của Hội Thánh sau này, là để giúp các tín hữu hiểu đúng những mặc khải đã được tỏ lộ cho các tông đồ. Đức tin của Giáo Hội tựa trên nền tảng các tông đồ. Đức tin của các Kitô hữu, là đức tin tông truyền.

3. Mở lòng đón nhận sự kiện Giêsu Kitô

“Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”. Không thể hiểu lời này, vì xưa nay chưa có lương thực nào cho con người sự sống vĩnh cửu. Vậy làm sao có thể chấp nhận lời nói này! Hơn nữa, con người Giêsu cũng mong manh như bao người, vậy Giêsu lấy gì để bảo đảm cho lời nói của Ngài là đáng tin, là sự thật?

Đức Giêsu là một sự kiện, một biến cố, và là một mầu nhiệm. Những từ ngữ và lý giải, là để hiểu đúng và hiểu hơn về Đức Giêsu Kitô. Người ta chưa hiểu hết về Ngài, người ta đang cố gắng hiểu và diễn tả về Ngài. Có thể, mỗi một diễn tả giúp con người hiểu hơn về mầu nhiệm Giêsu; và có thể, cũng che khuất Ngài dưới một khía cạnh nào đó. Một điều đáng mừng là ngày nay người ta vẫn còn đang truy tìm về Đức Giêsu Kitô, người ta đang cố gắng diễn tả về Đức Giêsu Kitô với hy vọng giúp con người ngày nay hiểu và chấp nhận Đức Giêsu Kitô hơn. Tất cả những điều này cho thấy, Thánh Thần Thiên Chúa vẫn đang hoạt động nơi con người ngày hôm nay một cách rất sống động.

Xin cho con người ngày nay biết mở lòng và đón nhận mầu nhiệm Giêsu Kitô, và xin cho mầu nhiệm Giêsu Kitô soi sáng mầu nhiệm con người, giúp con người sống an bình và hạnh phúc trên đường trần gian này.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Bạn có câu hỏi hoặc thao thức gì về Đức Giêsu?
  2. Đức Giêsu có ảnh hưởng nhiều trên đời bạn không? Xin bạn cho biết điều đó.

Về mục lục

 

 

LỜI HẰNG SỐNG

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Sau khi ông Môisen qua đời, ông Joshua, con của ông Nun, lên kế vị dẫn dân Do-thái vượt qua sông Jordan vào miền Đất Hứa. Toàn dân và gia đình ông Joshua đến trước Thiên Chúa ở giữa công đường, ông Joshua gợi ý cho dân chọn lựa tôn thờ Thiên Chúa hay tôn thờ các thần dân ngoại:Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người E-mô-ri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Thiên Chúa (Jos 24, 15). Dân chúng và gia đình ông Joshua đã chọn Thiên Chúa làm phần gia nghiệp. Ông Joshua đã trở thành người lãnh đạo tín trung và can đảm dẫn đưa dân vào miền đất chảy sữa và mật như lời đã hứa.

Dân Do-thái đã chọn đi theo Chúa tiến vào miền Đất Hứa nhưng rồi chẳng được bao lâu, dân chúng quên lời đã thề hứa. Họ bỏ Chúa, chạy theo các thú vui trần thế, tôn thờ các tà thần và sống theo thói tục của dân ngoại. Chúa phạt tội lỗi của họ, nhưng rồi Chúa lại tha thứ. Lịch sử cứu độ cứ thế lập đi lập lại với hết dòng dõi này sang dòng dõi khác. Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn đợi chờ. Qua các thử thách, Thiên Chúa hé mở những mầu nhiệm cao siêu trong cuộc sống bình thường. Từ những biến cố xảy ra hằng ngày, Thiên Chúa lại mở thêm những cánh cửa để dẫn con dân đi tìm về nguồn yêu thương. Không có một sự cố nào xảy ra mà không ghi dấu ấn tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa. Con đường cứu độ là con đường tình yêu và tha thứ. Yêu thương là ban tặng và dâng hiến. Thiên Chúa trao cho nhân loại bánh hằng sống, chính là Con Một của Thiên Chúa.

Sau khi Chúa Giêsu đã mạc khải về bánh ban sư sống bởi trời là thịt và máu Chúa, có nhiều người khó chịu về giáo lý này. Họ nói rằng: Lời này chói tai qúa! Ai nghe được. Chúa Giêsu biết rõ lòng họ nhưng Chúa không rút lại lời đã nói. Chúa không ngại để họ được tự do ra đi. Ngay cả các tông đồ, Chúa đã hỏi: Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không? Phêrô thưa: Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai. Chúa không muốn mị dân để làm vừa lòng mọi người. Chúa cho chúng ta được tự do chọn lựa thái độ. Chúng ta không thể đi nước đôi theo kiểu bắt cá hai tay. Tông đồ Phêrô đại diện cho anh em tuyên xưng niềm tin một cách xác tín: Thầy mới có lời ban sự sống đời đời.

Thái độ của Chúa Giêsu khác biệt thái độ của nhiều nhà lãnh đạo. Các lãnh tụ thế gian muốn mình trở thành số một, có quyền hành và muốn được người khác phục vụ. Người cầm quyền dùng nhiều thủ đoạn tìm vinh quang và thu gom cho mình mọi thứ ở trần gian. Họ thường dùng những lời hứa suông vượt trên khả năng và quyền hạn của họ để bảo đảm sự an toàn cho người khác. Họ muốn giới hạn tự do và ngay cả quyền thiêng liêng của con người để phục vụ cho chính sách và đường lối chính trị của phe nhóm họ. Trái lại, Chúa Giêsu không tìm vinh quang cho chính mình. Ngài qui mọi vinh quang và danh dự về Chúa Cha.

Khi Chúa chữa lành cho người phung hủi. Chúa nói với anh: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết (Mc 1, 44). Chúa chối từ sự tôn vinh của người đời. Khi Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng ăn no nê, họ muốn tôn Chúa làm vua, Chúa đã từ chối. Chúa Giêsu từ trời hạ sinh làm người, nhưng Chúa lại chọn con đường phục vụ từ dưới thấp đi lên. Chúa khiêm hạ trong phục vụ. Chúa cúi xuống rửa chân cho các tông đồ. Khi Chúa xua đuổi qủy ám ra khỏi người đàn ông Gerasene, ông ta muốn ở lại với Chúa: Nhưng Chúa không cho phép, Người bảo: “Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào (Mc 5, 19). Chúa mời gọi mọi người đi theo Chúa để được lãnh nhận ơn cứu độ, nhưng Chúa không ép buộc hay cưỡng bức. Chúa để họ được hoàn toàn tự do lựa chọn.

Chúa Giêsu là thủ lãnh, là chủ chiên tốt lành và là Chúa đầy lòng xót thương. Chúa đã thí mạng sống vì đàn chiên. Trong vườn Cây Dầu, trước lúc bị bắt trói và dẫn đi, Chúa đã yêu cầu quân lính cho các tông đồ được tự do.Đức Giêsu nói: “Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi (Ga 18, 8). Chúa còn có những sứ mệnh khác cho các tông đồ. Các Ngài sẽ nên nhân chứng cho sự đau khổ, sự chết và sự sống lại của Thầy. Chúa không hứa một cuộc sống sung túc, đầy đủ, an bình và hưởng lạc, nhưng là con đường thánh giá có nhiều chông gai. Chúa đáp lời môn đệ muốn đi theo: Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu (Lc 9, 58).

Lời Chúa là thần trí và là sự sống. Tác giả thơ Do-thái đã viết: Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử (Dt 1, 1-2). Qua Thánh Tử Giêsu, Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta về tình yêu của ơn cứu độ. Lời của Chúa Giêsu là lời hằng sống. Lời Chúa có uy quyền tác động biến đổi và có hiệu qủa ngay: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy (Ga 6, 56). Chúa Giêsu đã từng chữa lành các bệnh nhân qua lời của Ngài.Người bảo anh bại tay: “Anh giơ tay ra! ” Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường (Mc 3, 5). Khi Chúa Giêsu đang ngủ trên tàu gặp sóng gió:Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi! ” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ (Mc 4, 39). Thánh Phêrô chỉ cho chúng tabiết rằng Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.

Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Êphêsô đã khuyên dạy chúng ta: Anh em hay phục tùng nhau trong sự kính sợ Thiên Chúa (Eph 5, 21). Phaolô dùng hình ảnh của Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội để nói về việc vợ chồng phục tùng lẫn nhau trong đời sống hôn nhân gia đình:Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy (Eph 5, 25). Giáo Hội luôn gắn kết với Chúa Kitô là đầu. Lời Chúa là kim chỉ nam và là nguồn sống của Giáo Hội. Thánh Kinh và Thánh Truyền là hai nguồn bảo chứng giúp Giáo Hội tồn tại.Giáo Hội tin tưởng vào quyền năng thánh hóa qua lời hằng sống:Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống (Eph 5, 26).

Chúng ta lắng nghe, học hiểu, nhận biết và thực hành lời Chúa. Lời Chúa là lời quyền năng giúp chúng ta biến đổi nội tâm. Chúng ta cần học hỏi để có những kiến thức về đạo, nhưng điều quan trọng là tri và hành. Giống như chúng ta cầm được tấm bản đồ, chúng ta học biết các vị thế và nơi chốn nhưng chúng ta chỉ ngồi một chỗ thì sẽ chẳng bao giờ tới nơi. Lời của Chúa Giêsu mở cửa tâm hồn dẫn chúng ta đến hạnh phúc. Thực thi lời Chúa là chúng ta đang đi trên con đường chính thật. Chúng ta không thể đốt giai đoạn, mà hãy suy niệm và sống lời Chúa trong từng giây phút và qua từng cách ăn nết ở trong cuộc sống hằng ngày. Dấu chỉ của người môn đệ của Chúa là:Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau (Ga 13, 35).

Lạy Chúa, bỏ Chúa, chúng con biết theo ai. Chỉ có Chúa là Đấng Cứu Độ và là nguồn an lạc cho đời chúng con. Chúng con xin chọn Chúa làm gia nghiệp và là nơi chúng con nương náu ẩn thân. Chúng con xin chúc tụng và ngợi khen danh Chúa đến muôn ngàn đời.

Về mục lục

 

CHÚA MỚI CÓ LỜI BAN SỰ SỐNG

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Có nhiều bạn trẻ đặt vấn đề : Tại sao người Công giáo kết hôn với người ngoại giáo lại yêu cầu họ phải theo đạo mới được kết hôn ? Tại sao mình không theo đạo của họ ?

Người ta bảo rằng : Yêu nhau thì yêu cả nước bước đường đi. Yêu nhau không những chọn nhau, thuộc về nhau, nhưng người ta còn chọn cả niềm tin tôn giáo của nhau. Người Công Giáo tin rằng đạo của mình vượt trội hơn tất cả tôn giáo khác vì đạo của mình do chính Thiên Chúa mặc khải và chỉ cho biết : Thiên Chúa là Cha và Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế. Chính Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta đường đi và còn đồng hành với mỗi người trên hành trình đạt hạnh phúc đời đời. Ai tin và thực hành theo lời của Chúa thì sẽ được sống muôn đời. Vì thế, người Công Giáo không thể bỏ Chúa để chọn một tôn giáo khác. Đó cũng là điều Phêrô và các tông đồ đã nhận ra, đã tin và đã tuyên xưng : Bỏ Thầy con biết theo ai, vì Thầy mới có lời ban sự sống đời đời.

Tuy nhiên trong thực tế, nhiều người Công Giáo không ý thức đủ về sự cao quý của niềm tin mình. Họ chấp nhận một thứ cào bằng tôn giáo khi cho rằng : “Đạo nào cũng là đạo, đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành”. Dẫu rằng, đạo nào cũng dạy làm việc tốt, dạy ăn ngay ở lành, nhưng không thể đánh đồng : “Đạo nào cũng giống đạo nào”. Các đạo khác chỉ là những chỉ dạy về luân lý, tức là những điều phải tránh và những việc phải làm. Đạo Công giáo không chỉ như thế, cũng không chỉ là cố gắng của con người, nhưng đạo Công giáo còn dạy về một Thiên Chúa là Cha yêu thương. Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Cứu độ, chúng ta được mời gọi sống thân tình với Thiên Chúa như với người cha, sống với Chúa Giêsu như với người Thầy, người anh và người bạn. Đây là những niềm tin mà không có một tôn giáo nào có được.

Khác với Phật giáo và các tôn giáo khác, Đức Phật không bao giờ nhận mình là thần linh, và cũng không chỉ cho người khác về một thần linh nào. Chúa Giêsu đến để chỉ cho chúng ta biết về Thiên Chúa và còn tỏ cho biết Ngài chính là Thiên Chúa, đến từ Chúa Cha, Đấng Tạo dựng và cứu độ. Ngài có quyền năng ban sự sống và nắm giữ mọi mối dây sinh tử của cả vũ trụ và mọi loài. Ai tin và thực hành Lời Ngài thì có sự sống đời đời.

Các môn đệ và những người Do Thái ngày xưa bị giằng co bởi nhiều triết thuyết và nhiều tôn giáo của các dân tộc chung quanh. Mặc dù tin một Thiên Chúa Duy Nhất, nhưng họ lại bị lôi kéo bởi các tập tục của dân ngoại, bị cám dỗ chạy theo những tôn giáo dễ dãi. Vì thế, khi nghe Chúa Giêsu nói về bánh là chính máu thịt của Ngài, nói đến việc phải ăn và uống máu của Ngài, nhiều môn đệ đã không chấp nhận và bỏ đi. Họ lấy làm khó chịu về giáo lý của Chúa Giêsu, họ cảm thấy chướng tai về điều đó.

Như chúng ta đã suy niệm tuần trước, Người Do Thái không được phép đụng đến máu của súc vật, huống nữa là máu của con người. Họ chỉ được ăn một số con vật, nay Chúa lại nói ăn thịt của Ngài. Chúa Giêsu đã giải thích thêm và cho thấy, nếu không được Thần Khí của Thiên Chúa soi sáng, thì con người không thể hiểu được. Nếu chỉ nhìn Đức Giêsu là con bà Maria thì cũng không thể hiểu được, nhưng phải tin nhận Ngài là Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến. Vì chỉ chỉ có Thiên Chúa và từ nơi Thiên Chúa mà đến, Chúa Giêsu mới có thể đem đến sự sống cho nhân loại được. Có được đức tin này, đó là một ân huệ của Thiên Chúa. Như thế, đức tin là một ân huệ, là quà tặng của Thiên Chúa, chỉ những ai mở lòng và sẵn sàng đón nhận thì mới có thể lãnh nhận được.

Sau khi Chúa Giêsu cho thấy sự khác biệt giữa giáo lý của Ngài với các giáo thuyết khác, Chúa để cho mọi người tự do chọn lựa. Có những môn đệ dù đã theo Ngài một thời gian, nhưng cuối cùng đã bỏ cuộc vì không tin. Chúa cũng muốn sát hạch lại niềm tin của các tông đồ khi nói với các ông : Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi sao ? Nhưng Simon Phêrô đã thay cho các anh em tuyên xưng niềm tin của mình : Bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai, vì chỉ Thầy mới có lời ban sự sống đời đời. Chúng con đã tin và nhận biết rằng, chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Tuyên xưng Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Phêrô đã muốn nói rằng, chúng con tin Thầy chính là Thiên Chúa.

Tin và sống chết với niềm tin của mình luôn là một chọn lựa quyết liệt và dứt khoát. Trong niềm tin không thể có nước đôi, không đánh đồng, không thỏa thuận, trái lại, phải là một chọn lựa dứt khoát. Ngày xưa biết lòng dân hay thay đổi, biết dân Israel dễ bị lôi kéo bởi các tôn giáo khác, nên ông Giosuê sau khi đưa dân vào đất hứa, đã đòi dân Israel phải công khai nói lên chọn lựa niềm tin của mình. Ông quy tụ toàn dân lại tại Sikhem và đặt ra cho họ một chọn lựa : Nếu anh em không bằng lòng thờ phượng Thiên Chúa, thì hôm nay, anh em có quyền chọn các thần mà thờ, còn tôi và gia đình tôi sẽ phụng sự một mình Đức Chúa.

Dân Israel đã công khai nói lên sự chọn lựa của mình : Chúng tôi không hề có ý bỏ Thiên Chúa để phụng thờ các thần khác, vì chính Đức Chúa là Đấng đã đưa chúng tôi và cha ông chúng tôi ra khỏi đất Aicập…Chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa và Người là Thiên Chúa của chúng tôi.

Thưa các bạn, trong ngày lãnh Bí tích rửa tội, và đặc biệt trong ngày Thêm sức, chúng ta cũng đã thề hứa từ bỏ mọi tà thần và những quyến rũ của ma quỷ để tin thờ một mình Thiên Chúa mà thôi. Tuy nhiên trong thực tế, có chắc rằng chúng ta chọn một mình Thiên Chúa hay còn chọn thêm các thứ thần linh và quyến rũ của ma quỷ nữa ?

Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa và Lời Ngài là lời ban sự sống, song nhiều người đã không muốn lắng nghe Lời Ngài, không muốn đón nhận những giáo huấn của Ngài. Tin rằng Lời Chúa là Tin Mừng, nhưng nhiều Kitô hữu đã không thực sự tìm thấy niềm vui và sức sống nơi Lời của Chúa, vì họ không chủ tâm đọc, suy gẫm không lắng nghe và không thực hành. Nhiều người khác lại chỉ dùng Lời Chúa như vật trang trí cho mình, lấy Lời Chúa để biện minh cho hành động của mình thay vì phải uốn mình theo Lời của Chúa. Chính vì thế mà Lời Chúa đã không đi vào được tâm hồn, không chi phối được đời sống của họ.

Nhiều người xưng mình là Kitô hữu, tức là người có Chúa Kitô, nhưng gặp khó khăn thử thách, họ không tìm đến sự hướng dẫn của Chúa Kitô, trái lại, họ tìm kiếm sự hướng dẫn của các thầy bói và tin kiêng những đều vớ vẩn. Là người tin Chúa, nhưng nhiều người lại vẫn thực hành đời sống theo kiểu dân ngoại, vì họ không hiểu biết gì về giáo lý và lời dạy của Chúa. Không chỉ sai lạc trong niềm tin, trong cách sống, nhiều Kitô hữu đã không còn chọn một mình Thiên Chúa là Chúa duy nhất. Họ không còn dành cho Thiên Chúa ưu tiên tuyệt đối trong cuộc đời, họ chọn tiền bạc, của cải vật chất và đặt Chúa xuống hàng tùy phụ, coi việc tôn thờ Thiên Chúa như việc làm thêm.

Điều đó chúng ta có thể nhìn thấy rất rõ nơi đời sống gia đình. Nhiều cặp vợ chồng đã không còn trung thành với lề luật của Thiên Chúa, họ chọn những giải pháp dễ dãi để giải quyết khó khăn thử thách. Nhiều người cậy dựa vào quyền lực thế gian để giải quyết những ràng buộc của giới luật Thiên Chúa. Vì thế mà ngày càng có nhiều gia đình Công Giáo đưa nhau ra tòa để giải gỡ hôn nhân. Hành đông như thế là họ đã công khai phá bỏ luật và lời dạy của Thiên Chúa, từ chối Lời ban sự sống của Ngài.

Việc chọn lựa Thiên Chúa, tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu và hoàn toàn đặt cuộc đời theo sự chỉ dạy của Chúa đang là một thách thức với nhiều bạn trẻ. Nhiều người trẻ đã tin bạn bè hơn cha mẹ, tin vào bài báo hơn tin vào Lời Thiên Chúa, tin vào khoa học công nghệ hơn tin vào mạc khải của Thiên Chúa. Chính vì thế nhiều người đang bị lầm lẫn, đang mất phương hướng sống cho cuộc đời.

Xin Chúa cho chúng ta mỗi ngày sống là mỗi ngày chúng ta tái khẳng định lòng trung thành tuyệt đối vào Thiên Chúa và vào Tin Mừng của Ngài. Amen.

Về mục lục

 

 

THẦY MỚI CÓ NHỮNG LỜI

ĐEM LẠI SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI

Lm. Đan Vinh – HHTM

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG : Ga 6,54a.60-69

(54a) Khi nghe Đức Giêsu tuyên bố : “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời”, (60) nhiều môn đệ của Người liền nói : “Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi ?” (61) Nhưng Đức Giêsu tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Người bảo các ông : “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư ? (62) Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao ? (63) Thần Khí mới lam cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là Sự Sống. (64) Nhưng trong anh em có những kẻ không tin”. Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. (65) Người nói tiếp : “Vì thế, Thầy đã bảo anh em : Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”. (66) Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa. (67) Vậy Đức Giêsu hỏi Nhóm 12 : “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao ?” (68) Ông Si-mon Phê-rô liền đáp : “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. (69) Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng : Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.

  1. Ý CHÍNH :

Sau khi nghe Đức Giêsu giảng về Bánh Hằng Sống, tức là bí tích Thánh Thể mà Người sẽ ban, thì thính giả chia thành hai phe : Một số khá đông, trong đó có cả các môn đệ của Người, cho rằng lời ấy chói tai, không thể chấp nhận được và đã bỏ không còn theo Người nữa (c. 66). Riêng Nhóm 12, khi được hỏi thì Si-mon Phê-rô đã đại diện Nhóm tuyên xưng đức tin : “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” (c. 68).

  1. CHÚ THÍCH :

C 54a.60 : + Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu Tôi thì được sống muôn đời : “Thịt và Máu” Đức Giêsu là Bánh Thánh Thể sẽ được Người ban trong bữa tiệc Vượt Qua (x Mt 26,26). Do đó Thịt và Máu Đức Giêsu nói đây chính là Thánh Thể của Người, sẽ trải qua cuộc khổ nạn và phục sinh, như một hy lễ đền tội để ban sự sống cho trần gian. + Nhiều môn đệ của Người : Môn đệ là những người nhận Đức Giêsu làm Thầy (Ráp-bi), nghe và thực hành Lời Chúa, tích cực cộng tác với Người thi hành sứ vụ tông đồ. Đức Giêsu có hai nhóm môn đệ là nhóm bảy mươi hai (x. Lc 10,1) và Nhóm mười hai (x Ga 6,66). + “Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi ?” : Khi nghe Đức Giêsu nói sẽ lấy Thịt Máu mình cho người ta ăn uống, thì các môn đệ cũng như đám đông dân Do Thái không chấp nhận. Phần vì không ai xẻ thịt mình ra cho người khác ăn, hay lấy máu mình cho người khác uống ! Đàng khác, Luật Mô-sê cấm ăn máu huyết, vì máu được coi là sinh khí tụ lại, chỉ được dành riêng cho Đức Chúa là chủ tể của sự sống. Luật Mô-sê qui định : “Các ngươi không được ăn máu huyết của bất cứ xác thịt nào, vì mạng sống của mọi xác thịt là máu của nó. Bất cứ ai ăn máu huyết sẽ bị khai trừ” (x. Lv 17,14).

C 61-62 : + Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư ? : Ba điều người Do Thái và môn đệ xầm xì không chấp nhận : Một là Đức Giêsu tự nhận mình là Bánh hằng sống, đang khi cha ông họ xưa dù đã ăn Man-na mà vẫn phải chết (x. Ga 6,49). Hai là Người tuyên bố mình từ trời mà đến, đang khi họ biết rõ tông tích của Người (x Ga 6,42). Ba là Người khẳng định : “Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi thật là của uống” (Ga 6,55), đang khi luật Mô-sê cấm uống máu và ăn thịt các con vật chết ngạt, vì còn có máu trong thịt (x. Lv 17,10). + Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao ? : Đức Giêsu cho các môn đệ bằng chứng để tin Người là Đấng Thiên Sai và tin lời Người giảng là sự thật. Bằng chứng ấy là Người sẽ từ cõi chết sống lại và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha (x. Ga 3,13), đúng như thị kiến về vai trò và sứ mệnh của Con Người trong sách Ngôn Sứ Đa-ni-en (x. Đn 7,13).

C 63-64) : + Thần khí : Là một từ ngữ mang nhiều ý nghĩa như sau : Một là gió : Có đặc tính vô hình (x Ga 3,8). Gió có khi trở thành bão để Đức Chúa trút cơn lôi đình hủy diệt những kẻ gian ác (x. Ed 13,13). Hai là hơi thở : Tuy yếu ớt, nhưng lại là sức mạnh nâng đỡ và là điều kiện giúp thân xác sống động. Con người sẽ chết khi không còn hơi thở do Thiên Chúa phú ban (x. St 2,7; 6,3). Ba là linh hồn : Bao lâu Thần khí còn ở với con người, nó biến xác thịt bất động thành sống động, Thần Khí ấy gọi là linh hồn (x. St 2,7). Chết là khi con người trút hơi thở trả linh hồn về cho Thiên Chúa (x. Tv 31,6 ; Lc 23,46). Bốn là một đặc tình của Thiên Chúa : “Thiên Chúa là Thần Khí” (Ga 4,24) nên người ta phải thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và Sự Thật (x. Ga 4,24). + Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì ! : Việc tạo dựng con người đã được sách Sáng Thế thuật lại như sau : “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2,7). Như vậy xác thịt chỉ là bụi đất, không thể sống động nếu không được Thiiên Chúa phú ban thần khí gọi là linh hồn. Chính thần khí ấy mới làm cho con người sống động. Khi thân xác ngừng thở là lúc thần khí xuất ra khỏi thân xác, và thân xác ấy trở thành xác chết, nên chẳng còn ích gì ! + Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là Sự Sống : Lời Chúa chính là Thần Khí thiêng liêng, là Lời phát xuất từ Thiên Chúa, nhằm mặc khải các mầu nhiệm và các việc làm của Thiên Chúa cho loài người (x. Xh 20,2), các giới răn và các điều sắp xảy đến (x. St 15,13-16). Lời Chúa sẽ ban Sự Sống đời đời cho con người (x. Ga 6,68), nếu họ biết lắng nghe (x. Mt 13,23), tìm hiểu và xin vâng (x. Lc 1,34.38), tuân giữ (x. Lc 8,15), và nhất là đem ra thực hành (x. Lc 6,47.49). + Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người : Ngay từ đầu, Đức Giêsu đã có cái nhìn tiên tri và thấy trước sự bất tín của Giu-đa (x. Mt 26,14-16). Tin mừng Gio-an viết như sau : “Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói “Không phải tất cả anh em đều sạch” (Ga 13,11).

C 65-66 : + Không ai đến với Thầy được nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho : Đức tin là một ơn do Thiên Chúa ban cho loài người, để họ tin Đức Giêsu là “Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa Hằng Sống” (x. Mt 16,16), lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy để được vào Nước Trời và sẽ được sống muôn đời (x Ga 6,44.47). + Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa : Lý do nhiều môn đệ bỏ Đức Giêsu là do họ không tin Người là Đấng Thiên Sai (x. Ga 6,29.40), không tin Người là Bánh Trường Sinh từ trời mà đến (x. Ga 6,32-38), không chấp nhận lời tuyên bố Người sẽ lấy Thịt mình mà cho họ ăn (x. Ga 6,52). + Nhóm Mười Hai : Đức Giêsu đã lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn (x. Mc 3,13) Sau khi cầu nguyện suốt đêm, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ (x. Lc 6,12-13). Nhóm Mười Hai này tượng trưng cho mười hai chi tộc Ít-ra-en Mới là Hội Thánh. Sau này các ông sẽ được ngồi trên mười hai tòa, mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en (x. Mt 19,28). Các ông sẽ được sự sống đời đời (x Mt 19,29), được Người ban “quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10,1; Lc 9,1), “Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân” (Lc 9,2).

C 67-69 : + Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao ? : Trước mặc khải về bí tích Thánh Thể, Đức Giêsu đòi Nhóm Mười Hai phải tỏ thái độ dứt khoát : Tin hay không tin, thể hiện qua việc tự do chọn ở lại với Thầy hay bỏ đi. + Ông Si-mon Phê-rô liền đáp : Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” : Dù chưa hiểu hết ý nghĩa của Lời Chúa, nhưng Si-mon vẫn đại diện Nhóm 12 chọn ở lại làm môn đệ Thầy và khẳng định niềm tin Lời Thầy là sự thật và sẽ mang lại sự sống đời đời cho những ai đón nhận (x. Ga 5,24). + “Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” : Trước đó, Si-mon đã tuyên xưng : “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Ở đây, Si-mon lại công nhận Đức Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (x Ga 6,69) giống như sứ thần Gap-ri-en khi truyền tin đã cho Đức Ma-ri-a biết về trẻ Giêsu : “Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ là thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35).

  1. CÂU HỎI : 1) Tại sao dân Do thái và một số khá đông môn đệ đã bỏ không đi theo Đức Giêsu nữa ? 2) Môn đệ là những ai và Đức Giêsu có bao nhiêu môn đệ ? Tông đồ là ai và khác với môn đệ thế nào ? 3) Người Do thái và các môn đệ lấy làm gai chướng không chấp nhận ba điều nào của Đức Giêsu ? 4) Đức Giêsu đưa ra bằng chứng nào cho thấy Người có quyền nói ra những điều mầu nhiệm ấy ? 5) Trong Kinh thánh, thần khí mang bốn ý nghĩa nào ? 6) Đức Giêsu đã nói gì về thần khí và xác thịt nơi mỗi con người ? 7) Tại sao Đức Giêsu lại nói Lời Người chính là Thần khí và là Sự sống ? 8) Đức Giêsu biết rõ ai trong Nhóm Mười Hai là người không tin và sẽ phản nộp Người ? 9) Đức Giêsu chó biết đức Tin phát xuất từ đâu ? Ta phải làm gì để giúp người khác tin vào các mầu nhiệm được mặc khải ? 10) Lý do nào khiến nhiều môn đệ đã bỏ không còn theo Đức Giêsu ? 11) Nhóm 12 Tông đồ do Đức Giêsu tuyển chọn từ Nhóm nào ? Nhóm Tông đồ được Người hứa ban các quyền lợi nào và phải chu toàn sứ mệnh gì ? 12) Si-mon Phê-rô đại diện Nhóm Mười Hai trả lời thế nào khi được Đức Giêsu hòi có muốn bỏ đi hay không ? Ý nghĩa của câu trả lời đó thế nào ? 13) Si-mon đã tuyên xưng Đức Giêsu là ai ?

 II.  SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA : Ông Si-mon Phê-rô liền đáp : “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (x. Ga 6,68) :
  2. CÂU CHUYỆN : CHỌN TIN THEO CHÚA :

Bài đọc một trong sách Gio-su-ê là một bản tường thuật mang nhiều ý nghĩa quan trọng. Vào khoảng năm 1200 trước Công Nguyên, Dân Do Thái đã được Mô-sê dẫn đi ngang qua sa mạc trong 40 năm và đã đến được bờ sông Giô-đan, giáp ranh giới xứ Ca-na-an là Miền Đất Thiên Chúa đã hứa ban cho Áp-ra-ham và dòng dõi ông đến muôn đời. Sau đó, Mô-sê trao quyền cho Gio-su-ê lãnh đạo dân tiếp tục đánh chiếm Hứa Địa Ca-na-an. Được Đức Chúa hỗ trợ, dân Ít-ra-en đã chiếm được miền đất này. Cuối cùng, Gio-su-ê đã triệu tập các chi tộc Ít-ra-en và các đầu mục trong Đại Hội tại Si-khem. Ông cho dân được tự do chọn lựa : Hoặc là tôn thờ yêu mến Một Đức Chúa duy nhất, hoặc tin theo các tà thần của chư dân. Dân được tự do chấp nhận hay từ chối Lề Luật, được chọn trung thành hay chống lại Giao Ước mà họ đã ký với Đức Chúa tại núi Khô-rép vùng Si-nai… Bấy giờ toàn dân thưa lại rằng : “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác ! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-Cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc mà chúng tôi đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người E-mo-ri” (x Gs 24,14-28).

  1. THẢO LUẬN : 1) Người ta thường bị khủng hoảng đức tin là do những nguyên nhân nào ? 2) Một tín hữu bị khủng hoảng về đức Tin sẽ biểu lộ qua những thái độ và hành vi nào ? 3) Chúng ta phải làm gì để giúp một người đang bị khủng hoảng đức Tin sớm lấy lại đức Tin vào Chúa và Hội Thánh ?
  2. SUY NIỆM :

1) Tự do chọn “tin hay không tin”:

Như dân Ít-ra-en xưa, ngày nay mỗi tín hữu chúng ta cũng có quyền tự do chọn tin hay không tin vào Đức Giêsu để đức tin có giá trị giúp đón nhận ơn cứu độ của Chúa. Khi chịu phép Thánh Tẩy, các dự tòng cũng phải công khai chọn thái độ từ bỏ ma quỉ tội lỗi và tuyên xưng đức tin vào các chân lý đức tin như Hội Thánh dạy, trước khi được chủ sự ban bí tích đổ nước trên đầu hoặc dìm mình trong giếng nước rửa tội để được Thánh Thần tái sinh làm con Thiên Chúa.

Trong đời sống thường ngày, các tín hữu chúng ta cũng cần khẳng định đức tin như dân Ít-ra-en xưa đã khẳng định niềm tin vào Đức Chúa như sau: “Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Đức Chúa, mà tôn thờ các tà thần của dân ngoại”. Sự chọn lựa tin theo Chúa đòi người tín hữu không ngừng hồi tâm sám hối để thanh luyện đức tin của mình.

2) Cần dứt khóat chọn tin theo Chúa Giêsu:

Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng đòi Nhóm Mười Hai Tông đồ phải dứt khoát lập trường trước sự thật về bí tích Thánh Thể do Người mặc khải: “Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi thật là của uống !”. Trước mầu nhiệm này, nhiều môn đệ đã phản đối và rút lui không còn đi theo Người nữa. Riêng ông Phê-rô khi được hỏi đã đại diện Nhóm Mười Hai để tuyên xưng đức tin: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Qua câu nói này, ông Phêrô đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin dù chưa hiểu rõ nội dung đức tin vào mầu nhiệm bí tích Thánh Thể. Ông chỉ dựa vào thế giá của Thầy để tin lời Thầy dạy về bí tích này cũng như về các chân lý đức tin khác.

Ngày hôm nay, Chúa Giêsu cũng hỏi mỗi người chúng ta khẳng định lập trường có trung thành tin theo Chúa hay không như vậy. Chúng ta có dám chọn ở lại với Thầy đang khi nhiều bạn bè khác đã bỏ Chúa qua việc bỏ dự lễ Chúa Nhật, hành xử theo ý riêng của mình chứ dựa vào lời Chúa và lề luật Hội Thánh nữa ? Chúng ta có dám trung thành với Chúa và với tuân giữ các chuẩn mực đạo đức đang khi nhiều bạn bè đã chọn lối sống dễ dãi theo tính xác thịt tội lỗi, chọn làm các điều phi pháp để kiếm được tiền bạc bất chính, chọn chối bỏ Chúa trong lý lịch để được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi và để có được địa vị xã hội ? Có lẽ phần đông chúng ta đã chọn thái độ lập lờ im lặng. Phải chăng thái độ đó đồng nghĩa với thái đô của ông Giuđa, đã được Tin Mừng Gioan hôm nay nói thêm: “Quả thật ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người” (Ga 6,64b). Tuy trong thâm tâm Giuđa đã không còn tin vào Thầy và đã rắp tâm phản bội Thầy, nhưng thực tế ông ta vẫn ở lại trong Nhóm Mười Hai để chờ cơ hội thuận tiện sẽ bán nộp Thầy ! (x. Ga 13,21-27; Mt 26,14-16).

3) Đức tin vào bí tích Thánh Thể dựa trên tin vào Lời Chúa :

Tông đồ Phê-rô tuyên xưng đức tin không phải do ông đã hiểu được mầu nhiệm bí tích Thánh Thể, nhưng chỉ vì tin “Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Ông tin Thầy là Đấng đã từng nhân bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no; Đã từng đi trên mặt biển và chỉ cần phán một lời là dẹp yên sóng gió biển khơi; Đã từng xua trừ ma quỷ ra khỏi nhiều người bị ám; Đã từng đặt tay chữa lành nhiều bệnh nhân và phán một lời là phục sinh kẻ chết… Chính nhờ đức tin vào quyền năng của Thầy Giêsu, mà Phê-rô và Nhóm Mười Hai đã tin cả những điều xem ra khó nghe, khó hiểu và khó chấp nhận về bí tích Thánh Thể:“Ai ăn thịt và uống máu Tôi sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,54a).

4) Cần làm gì để gia tăng đức tin vào bí tích Thánh Thể? :

Đây là một mầu nhiệm đức tin, vượt trên sự hiểu biết khả giác của lòai người, nên để tin vào bí tích này, mỗi tín hữu chúng ta cần có ba điều kiện như sau :

Một là phải thành tâm lắng nghe và suy niệm Lời Chúa như lời thánh Phaolô: “Có đức Tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố Lời Đức Kitô” (Rm 10,17). Do đó, để tin vào mầu nhiệm trong bí tích Thánh Thể, chúng ta cần lắng nghe Lời Chúa khi tham dự thánh lễ hoặc dự các buổi họp nhóm học sống Lời Chúa, rồi còn phải “suy niệm Lời Chúa trong lòng” noi gương Đức Ma-ri-a xưa (x Lc 2,51).

Hai là phải xác tín vào Lời Chúa Giêsu noi gương ông Phêrô trong Tin mừng hôm nay:“Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai ? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng : Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).

Ba là phải ý thức đức tin là ơn Chúa ban như lời Đức Giêsu: “Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6,65). Do đó, để tin vào mầu nhiệm Chúa Giêsu hiện diện trong bí tích Thánh Thể, chúng ta phải năng cầu xin Chúa Giêsu tăng thêm đức tin cho mình, như người cha có đứa con bị quỷ ám đã thưa với Đức Giêsu:“Tôi tin ! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi” (Mc 9,24).

  1. LỜI CẦU :

LẠY CHÚA GIÊSU. Nhiều lần khi xin các ơn phần xác lâu ngày chưa được nhậm lời, con đã nản lòng thất vọng rồi Chúa, bỏ dự lễ và không còn tin tưởng cầu xin Chúa nữa. Tin mừng hôm nay cho thấy: Chúa đã ngán ngẩm trước thái độ vụ lợi của đám đông dân chúng và các môn đệ. Có lẽ hôm nay Chúa cũng đang ngán ngẩm khi thấy con chỉ lo tìm kiếm lợi lộc tiền bạc phần xác, và dửng dưng những lơị ích thiêng liêng phần hồn. Xin giúp con “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).

Lạy Chúa. Mỗi lần tham dự thánh lễ hay chầu Thánh Thể, xin cho con luôn xác tín vào Lời Chúa để tin vững vàng Chúa đang hiến thân dưới hình bánh rượu trên bàn thờ, dù các giác quan của con không cảm nhận được. Nhờ tin vào Lời Chúa mà con sẽ siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ sốt sắng, để có sự sống thần linh của Chúa, là bảo đảm cho cuộc sống vĩnh hằng đời sau, như lời Chúa hứa trong Tin Mừng hôm nay: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống, để ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời…. Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6,51.54).

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.

Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục