Lời Chúa Năm B Các bài suy niệm Chúa Nhật 2 Thường niên Năm B

Các bài suy niệm Chúa Nhật 2 Thường niên Năm B

869

CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN_B

Lời Chúa: 1Sm 3,3b-10.19;  1Cr 6,13c-15a.17-20;  Ga 1,35-42

———

Mục lục

  1. Chúa tìm ta – Ta tìm Chúa (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  2. Trợ Lý Đắc Lực (Lm Jos DĐH, Gp. Xuân Lộc)
  3. Vâng Lời Chúa Sẽ Được Hạnh Phúc(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)
  4. Được Chúa kêu gọi  (Jorathe Nắng Tím)
  5. Để nên giống Chúa  (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
  6. Tưởng có nhưng không có (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
  7. Môn đệ tiền phong  (Lm. Vũ Đình Tường)
  8. Đây là Chiên Thiên Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
  9. Các anh tìm gì thế? (Lm. Giuse Lê Danh Tường)
  10. Chiên Thiên Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
  11. Khắc dấu tình  (Trầm Thiên Thu)
  12. Đích thực là gặp gỡ (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  13. Công trình vì Chúa hay vì con?  (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
  14. Gặp gỡ và ở lại  (Thiên San, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
  15. Lạy Chúa, xin hãy phán vì con đang lắng tai nghe (Lm. Xuân Hy Vọng)
  16. Mời gọi  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

 

Mục lục (2018)

1. Gặp Chúa trong đời  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Hành trình ơn gọi  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Truyền giáo trong thế giới ảo  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Sứ mạng truyền giáo của chúng ta  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

5. Đi theo Chúa  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

6. Thầy ở đâu ?  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

7. Lối nhìn của Chúa  (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)

8. Thưa Thầy, Thầy ở đâu ? (Anna Cỏ May,  MTG.Thủ Đức)

9. Huyền nhiệm ơn gọi (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

10. Hãy đến mà xem  (Lm. Trần Việt Hùng)

11. Ba bước tiếp cận Chúa Giêsu  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

12. Nhạy bén với tiếng gọi của Chúa  (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)

13. Ở lại với Chúa  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

14. Giới thiệu Chúa cho mọi người  (JM. Lam Thy, ĐVD)

15. Suy niệm Chúa Nhật 2 Thường niên_B  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)

16. Nghề mai mối

17. Đổi đời   (Trầm Thiên Thu)

18. Lắng nghe tiếng Chúa gọi (Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)

19. Họ đến và ở lại với Người (Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)

20. Được kêu gọi  (P.Trần Đình Phan Tiến)

21. Chúa Nhật 2 Thường niên_B  (Lm. Antôn)

22. Nên giống Thầy  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

23. Các anh tìm gì thế?  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

24. Cái thủa ban đầu lưu luyến ấy  (Lm. Giuse Nguyễn)

25. Huyền nhiệm ơn gọi. (Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)

26. Vai trò trung gian  (Lm. Anthony Trung Thành)

27. Suy niệm chú giải Chúa Nhật 2 Thường niên_B  (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

28. Thân xác con người thật tuyệt hảo  (Lm. Bosco Dương Trung Tín)

29. Được gọi để trở nên bạn của Chúa  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

30. Cái giá phải trả để là môn đệ Chúa  (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD)

31. Tin tưởng  (Lm. Vũ Đình Tường)

32. Chu toàn sứ mệnh giới thiệu Chúa cho tha nhân  (Lm. Đan Vinh)

 

CHÚA TÌM TA – TA TÌM CHÚA

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Có người so sánh lịch sử Cứu độ như một thiên tình sử giữa Thiên Chúa và con người. Mối tình này cũng có những lúc mặn nồng, cũng có khi phai nhạt. Mối tình này pha lẫn yêu thương thắm thiết và những giận dỗi hờn ghen. Kinh Thánh là cuốn sách ghi lại mối tình thân thương đó. Tuy vậy, nếu Thiên Chúa bao dung quảng đại và yêu thương vô bờ, thì con người lại nhỏ nhen thấp hèn và tội lỗi bất xứng. Dù thế nào đi nữa, Thiên Chúa vẫn không ngừng tìm kiếm con người và con người cũng miệt mài tìm kiếm Chúa. Vì thế, chúng ta có thể khăng định: hành trình con người và hành trình Đức tin là những nỗ lực khôn nguôi để tìm kiếm Chúa. Và, thật kỳ lạ, chính Chúa cũng đang tìm kiếm chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải nhận ra Ngài và lắng nghe lời Ngài giáo huấn.

Con người tự nhiên có khuynh hướng tìm kiếm Chúa, như cây cỏ hướng về ánh mặt trời, như sông suối xuôi về nguồn cội. Thánh Augustinô đã thốt lên: “Chúa đãdựng nênchúngcon cho Chúatâm hồnchúng con cònmãi băn khoănkhắc khoải cho đến khi được nghỉyêntrong Chúa (Tự thú, I,1,1). Không gặp được Chúa, con người còn khắc khoải chờ mong và chưa tìm được sự an bình thực sự. Có muôn nẻo đường tìm kiếm Chúa. Người ta tìm Chúa nơi sức mạnh của thiên nhiên vũ trụ, nơi trật tự xoay vần của tứ thời bát tiết, nơi những triết lý cao siêu hay những tác phẩm nghệ thuật. Tuy vậy, những điều vừa được liệt kê chỉ phản ánh vẻ đẹp của Chúa hay quyền năng của Ngài. Cần phải gặp gỡ Chúa bằng lý trí và con tim. Lý trí tôn nhận Chúa là Chúa muôn loài. Con tim yêu mến Đấng là Tình yêu trọn vẹn.

Tin Mừng Thánh Gioan kể lại, hai môn đệ của ông Gioan Tẩy giả nghe thày mình giới thiệu về Đức Giêsu, liền đi theo. Khi Chúa Giêsu hỏi các ông: “Các anh tìm gì? », thì các ông lại trả lời bằng một câu hỏi khác: “Thưa Thày, Thày ở đâu?”. Câu hỏi này vừa thay cho câu trả lời: “Chúng tôi muốn tìm Thày”, vừa diễn tả một cuộc tìm kiếm. Khi ở lại đàm đạo với Chúa, các ông nhận ra Người là Đấng Messia. Cuộc tìm kiếm của các ông đã có kết quả. Các ông sẵn sàng rời ông Gioan Tẩy giả để đi theo Đấng Messia. Không những thế, các ông còn giới thiệu những người khác đến với Chúa Giêsu. Ông Anrê đã giới thiệu em mình là Simon, sau này là Phêrô. Ông Simon đã nhiệt thành đến với Chúa và nhận Người là tôn sư.

Nếu con người nỗ lực khôn nguôi tìm kiếm Chúa, thì chính Thiên Chúa cũng đi tìm kiếm con người. Bởi lẽ Thiên Chúa là Đấng vô hình và thiêng liêng cao cả, chỉ nguyên nỗ lực từ phía con người mà thôi thì sẽ rơi vào bế tắc. Lịch sử Cứu độ chứng minh, nhiều lần Thiên Chúa có sáng kiến ra tay cứu giúp và cải hoá con người. Cậu bé Samuel đang phục vụ tại Đền thờ Silô. Sớm chiều quen với ánh nến và hương trầm. Một đêm kia, Chúa gọi cậu. Ở tuổi của cậu, chưa thể phân biệt được lời gọi của Chúa hay lời gọi của con người. Với hướng dẫn của thày Tư tế Hêli, cậu Samuel đã thưa với Chúa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe”. Tác giả sách Sanuel kể lại: từ ngày đó, cậu bé Samuel chuyên cần lắng nghe lời Chúa và không để cho một lời nào ra vô hiệu. Cậu đã được gặp gỡ Chúa và được Ngài cho biết ý định của Ngài cũng như những điều Ngài sắp làm đối với dân Israel. Vâng, Thiên Chúa đã chủ động tìm kiếm con người và ngỏ lời với họ. Đó cũng là điều Ngài thường làm trong lịch sử.

Tin vào Chúa chính là gặp gỡ Ngài. Đức Giáo Hoàng Bênêđitô đề nghị một định nghĩa về Đức Tin như sau: “Tin là cuộc gặp gỡ thân tình, cá vị với Chúa. Đây không phải là cuộc gặp gỡ với một sự vật hay một sự kiện, là cuộc gặp gỡ với một Đấng, một Ai đó, một Con Người đang hiện diện giữa chúng ta” (Thông điệp Thiên Chúa là Tình yêu, số 1). Cuộc gặp gỡ với Chúa được thực hiện bằng lời cầu nguyện và chuyên tâm lắng nghe Lời Chúa. Bởi khi cầu nguyện là chúng ta tâm sự với Chúa; khi nghe Lời Chúa là lúc Ngài nói với chúng ta. Cầu nguyện là mối tâm giao, là sự trao đổi thân mật, giãi bày tấm lòng trước nhan Chúa. Khi cầu nguyện, chúng ta mở con tim để lắng nghe Lời Chúa và sẵn sàng thưa với Chúa như cậu bé Samuel trong đền thờ Silô: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”. Nhờ cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa mà chúng ta được gặp Chúa trong đời, mặc dù còn nhiều ồn ào, bon chen và toan tính.

Một khi gặp gỡ Chúa, cuộc đời của chúng ta phải được canh tân biến đổi. Qua cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Chúa, được thể hiện nhờ Bí tích Thanh Tẩy, “chúng ta được hiến thánh trong Chúa Giêsu Kitô, được kêu gọi làm dân thánh, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh Chúa của chúng ta, Đức Giêsu là Chúa của họ và cũng là Chúa của chúng ta” (Bài đọc II). Thánh Phaolô đã diễn tả vinh dự lớn lao của những người đã được thanh tẩy. Họ trở nên thành viên của một gia đình vĩ đại, bao trùm và hiện diện trên toàn cõi địa cầu. Trong Giáo Hội của Chúa Kitô, không còn phân biệt chủng tộc hay ngôn ngữ, nhưng tất cả đều trở nên con cái Chúa, có Thiên Chúa là Cha.

Để thực sự gặp gỡ Chúa, người tín hữu cần có đời sống nội tâm sâu xa. Bởi lẽ cuộc sống ồn ào bon chen và đầy tham vọng dễ làm chúng ta quên Chúa. Hãy tìm những giây phút lắng đọng tâm hồn để gặp gỡ Chúa, để nghe Ngài khuyên nhủ và giáo huấn chúng ta. Chắc chắn những giây phút này sẽ đem lại cho chúng ta sự ngọt ngào nội tâm, cùng với niềm vui và hạnh phúc trong cuộc đời. Như hai môn đệ đầu tiên, một khi cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa, chúng ta có thể giới thiệu Người cho những người xung quanh.

Về mục lục

TRỢ LÝ ĐẮC LỰC

Tuần 2 TN-B: Ga 1, 35-42

Lm Jos DĐH, Gp. Xuân Lộc

Tất cả những ai thành người, thành danh, nhất định phải được chăm sóc, phải được phản ánh sự tốt lành từ cha mẹ ông bà chu đáo nhất. Cây tốt sinh trái tốt. (Mt 7, 17). Không ai nổi tiếng, thành đạt, do tình cờ, may mắn; biết đi rồi mới biết chạy, đó là quy luật. Thomas Edison định nghĩa: thiên tài chỉ có 1% năng khiếu bẩm sinh, còn 99% là do khổ luyện. Tất cả những thầy dạy toàn tâm, toàn ý, đều xứng đáng được các học trò trân trọng như cha mẹ, dù sự nghiệp trồng người không hệ tại việc báo đền. Cha mẹ, thầy dạy, xã hội vẫn xem các ngài là người đạo diễn, gián tiếp làm nên những “tác phẩm” để đời. Gioan, người thầy tuyệt vời, nhận biết được Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần, lại có khả năng diễn tả cho các học trò hiểu và tin: “đây là Chiên Thiên Chúa, hai môn đệ nghe ông nói liền đi theo Đức Giêsu”.

Gioan có đúng là người hùng không, ông thu hút được đám đông, được các học trò là do thiên thời địa lợi ? Gioan đã nói tôi không phải là Elia, không phải là ngôn sứ, tôi chỉ là tiếng hô nơi hoang địa, là người dọn đường cho Đấng đang đến, sẽ đến, cứu độ nhân loại. Khi thấy Đức Giêsu từ xa xa, Gioan đã linh cảm đúng, ông giới thiệu chính xác về Đấng mà ông và muôn dân hằng mong đợi, ông làm tốt vai trò chỉ đường cho các môn đệ của ông với Thầy Giêsu. Trong tương quan thầy trò, bằng gương sáng đức tin, Gioan sống mực thước, theo cách nói hôm nay: cán bộ đi trước làng nước theo sau. Trong tình liên đới với Đấng ông tin thờ, Gioan làm tốt sứ mạng tiền hô, ông là một trợ lý đắc lực để “Tiếng và Lời” vang vọng khắp cùng thế giới. Nét đẹp của tình yêu, bí mật của hạnh phúc, sẽ được mở ra, khi có sự gắn kết của “ý hợp tâm đầu”.

Người trợ lý đắc lực có phải là người nắm bắt được tình hình xã hội, mang lại cho chủ nhiều kết quả, niềm vui ? Được sinh ra từ ông bà Giacaria người công chính, Gioan phản ánh được tính mực thước: có tâm có đức, có trách nhiệm với bản thân, gia đình và cộng đồng. Được thôi thúc bởi tình yêu, ông hô to và nói lớn, hướng dẫn mọi người dọn tâm hồn đón Chúa, ông không thể im lặng khi nhận biết Đức Giêsu đã đến, và chỉ một câu đơn giản: “Đây Chiên Thiên Chúa”, ông mãn nguyện khi được gặp, được thấy Đấng cứu độ. Người trợ lý đắc lực không phải là làm được việc lớn cho chủ nhân, mà là người biết hài lòng với việc chủ giao. Người cùng chí hướng, người có chung một lý tưởng: hoàn thiện mình, loan báo tình thương ơn cứu độ. Người trợ lý tốt lành luôn hạnh phúc và không bao giờ nói tôi hết trách nhiệm, tôi đã hoàn thành sứ mạng.

Gioan có mỉm cười khi trao gởi hai học trò nơi Thầy Giêsu không, hẳn là có, ông rất vui, mới cảm nhận chính xác Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, ông làm tốt sứ mạng giới thiệu, dù không được nghe lời cám ơn. Vâng, người trợ lý đắc lực không nghĩ đến chuyện báo đáp, thắng thua, được mất, chỉ với mục đích trung thành với chủ. Cuộc chia tay, gặp gỡ, giữa thầy trò Gioan, và việc tiếp nhận môn đệ của Đức Giêsu, có vẻ rời rạc, thao thức dấn thân như bị bỏ lửng ! Đúng, mọi người phải đọc: sứ mạng Gioan chưa dừng lại, tinh thần phục vụ của ngôn sứ còn tiếp diễn, việc thâu nhận đệ tử, nơi Thầy Giêsu mới ở giai đoạn huấn luyện. Chỉ một câu: “các ngươi tìm gì”, “hãy đến mà xem”, đã xua tan mọi ngờ vực, nối kết tình người, tình thầy trò, sát gần hơn, thân thiện hơn.

Người xưa có câu: bạn chưa đạt được sự hoàn hảo trong tình yêu, đừng buồn, điều cần hơn trong tương quan yêu thương là sự chân thật. Tình yêu của vị Tiền hô sống động mãi, ông là đấng trung gian giới thiệu mọi người với Đức Giêsu. Tình yêu Đức Giêsu rõ ràng cụ thể bởi được kết nối với Thiên Chúa là Cha, và các môn đệ Đức Giêsu tiếp tục truyền thống liên đới hiệp thông. Đức Giêsu ý thức sứ mạng là Thầy, là Chúa, bằng tình yêu thương, chảy tràn đến các môn đệ, đến người tín hữu, ở trong Đức Giêsu sẽ dồi dào sức sống, sẽ gặt hái niềm vui ơn cứu độ. “Hãy đến mà xem”, hạnh phúc không tự nhiên đến, không phải là hên xui, hạnh phúc là do ta biết sử dụng lý trí và ý chí của mình, đúng nhất, chuẩn nhất. Đức Giêsu không hứa hẹn một cuộc sống ổn định, giầu sang, nghèo hèn, ở đời này, Ngài vẫn cho chúng ta cơ hội: “hãy đến mà xem”.

Mỗi người kitô hữu, chúng ta đang là trợ lý đắc lực của gia đình, đang là chứng nhân quan trọng của Đức Giêsu, chính lời nói, việc làm, sẽ là câu trả lời cho hậu thế “các ngươi tìm gì” ! Kinh nghiệm của người xưa: cuộc sống muôn đời vẫn đẹp, chỉ có cái ta ảo tưởng mới biến cuộc đời thành bể khổ mà thôi ! Chúng ta hôm nay không phải hỏi “thưa Thầy, Thầy ở đâu”, nhưng ai muốn làm môn đệ Đức Giêsu cũng phải “đến mà xem”, gặp Thầy, hiểu Thầy, và sống tinh thần của người trợ lý đắc lực: vì yêu. Đức Giêsu đang hỏi: “bạn tìm gì” ? Ngài mời gọi chúng ta hãy là một người có ích cho gia đình, cho xã hội, cho hậu thế: người có chí thì nên, nhà có nền thì vững. Đức Giêsu là Thầy dạy, là Thiên Chúa làm người, Ngài còn là người bạn đồng hành với chúng ta lúc vui, lúc buồn, “hãy đến mà xem”, “hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”

Về mục lục

VÂNG LỜI CHÚA SẼ ĐƯỢC HẠNH PHÚC

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần II Thường Niên, năm B này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa điều khiển hết mọi loài trên trời dưới đất, xin Chúa rủ thương chấp nhận lời Dân Chúa khẩn cầu mà ban cho thời đại chúng ta được bình an.

Chúa là Đấng điều khiển hết mọi loài, vì thế, nếu chúng ta muốn được bình an hạnh phúc, thì chúng ta phải tuân theo sự hướng dẫn của Người. Bài đọc một của giờ Kinh Sách, được trích từ sách Đệ Nhị Luật, cho thấy: Dân tuân phục Đức Chúa qua ông Môsê và những người đứng đầu chi tộc. Ông Môsê đã kêu gọi Dân: Hãy nghe người nhỏ cũng như người lớn; đừng sợ ai, vì xét xử là việc của Thiên Chúa, bởi vì, Đức Chúa là Thần các thần, là Thiên Chúa vĩ đại, dũng mãnh, khả úy. Người là Đấng không thiên vị ai và không nhận quà hối lộ.

Trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Inhaxiô Antiôkhia đã kêu gọi các tín hữu Êphêxô tuân phục và sống hòa hợp với Đức Giám Mục và với hàng Linh Mục, bởi vì, chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được ơn để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hợp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau.

Trong bài đọc một của Thánh Lễ, Samunen đã thưa cùng Đức Chúa: Lạy Đức Chúa, xin Ngài hãy phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng tai nghe. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 39, vịnh gia đã cầu xin: Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Ngài. Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi, con liền thưa: Này con xin đến!

 Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô giúp chúng ta ý thức rằng: thân xác của chúng ta thuộc về thân thể của Đức Kitô, cho nên, chúng ta phải dùng thân xác mà phụng sự Thiên Chúa. Thánh nhân nói: Anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em.

Câu Tung Hô Tin Mừng mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia, nghĩa là Đấng Kitô, ân sủng và sự thật thì nhờ Người mà có. Đón nhận ân sủng và sự thật của Đức Kitô, chúng ta sẽ được bình an và hạnh phúc, bởi vì, ân sủng và sự thật của Người sẽ giải phóng chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi và sự chết, tin theo Người chúng ta sẽ được hưởng ơn cứu độ của Người.

Trong bài Tin Mừng, thánh Gioan tường thuật lại việc hai môn đệ đầu tiên đã đến xem chỗ Đức Giêsu ở, và ở lại với Người. Sau khi “đến mà xem”, ông Anrê về dẫn em mình là ông Simon đến gặp Đức Giêsu. Thử hỏi có ai đã từng được đụng chạm đến ân sủng và sự thật của Đức Kitô; thử hỏi có tình yêu nào: mà người được yêu, lại không cảm thấy: có nhu cầu, cần phải nói cho người khác biết về người mình yêu?

Thiên Chúa là Đấng bá chủ muôn loài muôn vật và chúng ta phải có thái độ quy phục Người, như lời Ca Nhập Lễ hôm nay: Lạy Chúa, toàn trái đất phải quỳ lạy tôn thờ, và đàn ca mừng Chúa, đàn ca mừng Thánh Danh, lạy Chúa Trời cao cả. Thiên Chúa muốn dùng các trung gian của Người mà điều khiển mọi loài: Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử (Hr 1,1-2).

Đức Giêsu nói: Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Ðấng đã sai Thầy (Lc 10,16). Qua các bài đọc và các yếu tố đi kèm theo của Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta quy hướng về Thiên Chúa là Đấng điều khiển hết mọi loài trên trời dưới đất, chúng ta phải vâng nghe theo sự hướng dẫn của Người để thời đại chúng ta được bình an hạnh phúc. Ước gì chúng ta xác tín điều thánh Phaolô đã dạy trong bài đọc hai của ngày lễ hôm nay: chúng ta không còn thuộc về mình nữa, chúng ta thuộc về Đức Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta. Nếu chúng ta thật sự tin tưởng, tín thác vào Người, chắc chắn, cuộc đời của chúng ta sẽ được bình an hạnh phúc, như lời Ca Hiệp Lễ mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay: Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc, chén của con chan chứa rượu nồng.

 Về mục lục

ĐƯỢC CHÚA KÊU GỌI

Jorathe Nắng Tím

Khởi đầu Mùa Thường Niên, các bài đọc phụng vụ xoay quanh chủ đề “Đức Giêsu kêu gọi những cộng sự viên đầu tiên”, là các Tông Đồ tương lai của Ngài.

Như những người đứng đầu các tổ chức, đoàn thể cần có bên mình những cộng sự viên thân tín, trung thành và đắc lực để khởi động chương trình, thực hiện đường hướng, khai triển chủ trương, tiến hành kế hoạch, Đức Giêsu cũng cần và đã tìm cho mình một nhóm cộng sự viên để cùng Ngài loan báo Nước Thiên Chúa, rao giảng Tin Mừng cứu độ, như sứ vụ được Chúa Cha trao phó.

Theo Tin Mừng Gioan của chúa nhật này thì Đức Giêsu đã không trực tiếp gọi  hai anh em ngư phủ có tên Anrê và Simon và hai anh em ruột khác là Giacôbê và Gioan cũng làm nghề đánh cá, khi “Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê” (Mc 1,16), nhưng Gioan Tiền Hô đã giới thiệu Đức Giêsu cho hai anh em Anrê và Simon vốn là môn đệ của ông, khi ông đang đứng với họ, và “thấy Đức Giêsu đi ngang qua” (Ga 1,35-36).

Điều rất ấn tượng ở đây là thọat nghe Gioan giới thiệu “Đây là Chiên Thiên Chúa”, hai ông Anrê và Simon đã không do dự, ngần ngại, nhưng “liền đi theo Đức Giêsu” (Ga 1,37). Và khi Đức Giêsu quay lại thấy hai ông lẽo đẽo đi theo mình, thì hỏi : “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp : “Thưa Rápbi (nghiã là thưa Thầy), Thầy ở đâu? ”. Người bảo họ : “Đến mà xem!. Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (Ga 1,38-39).

Qủa thực, thánh sử Gioan vừa kể cho chúng ta nghe câu chuyện  gặp gỡ của một tình yêu thuộc dạng “sấm sét” giữa Đức Giêsu và hai anh em ông Anrê, Simon, và tình yêu sấm sét ấy đã  không khác những “tiếng sét ái tình” thi thoảng xẩy ra trong đời thường làm hai người nam nữ chỉ mới thoạt nhìn, thoáng gặp đã “say nắng, phải lòng”, yêu nhau đắm đuối cuồng nhiệt.

Là tình yêu sấm sét, bởi chỉ thoáng thấy Đức Giêsu đi ngang qua, hai ông Anrê, Simon đã náo nức, nôn nao muốn đi theo Ngài ngay, như lời đề nghị của Gioan Tiền Hô, và không chờ thầy mình dứt lời giới thiệu về Đức Giêsu, hai ông đã khấp khởi nhanh chóng rời bỏ Gioan đi theo Đức Giêsu, dù Ngài chưa biểu lộ đồng tình, đồng ý. Bằng chứng là khi “quay lại, Đức Giêsu mới thấy các ông đi theo mình” (Ga 1,38), và hỏi : “Các anh tìm gì thế?”

Là tiếng sét ái tình, hai ông đã không trả lời câu hỏi của Đức Giêsu, nhưng đáp lại bằng đặt cho Ngài một câu hỏi  khác chỉ dành cho người đã yêu, đang yêu : “Thầy ở đâu? ”, bởi các ông đâu cần tìm gì hay tìm ai nữa, vì đã được gặp Đức Giêsu, đối tượng lý tưởng của tình yêu, Đấng chỉ trong một giây ngắn ngủi đã chiếm trọn trái tim và cuộc đời các ông.

Không trả lời thẳng câu hỏi của Đức Giêsu là cách tỏ tình trực tiếp, tế nhị, và sâu sắc của hai ông với Ngài, bởi chỉ những người yêu nhau da diết, nồng nàn mới hỏi thăm, tìm đến “nơi ăn chốn ở” của nhau, vì nhớ nhau, và để được ở với nhau, chung nhau một đời sống. Và tình yêu sấm sét ấy đã được Đức Giêsu ân tình, qủang đại và cởi mở đáp lại khi trìu mến bảo hai ông : “Đến mà xem!”.

Như hai anh em Anrê và Simon là những tông đồ đầu tiên được tình yêu Đức Giêsu chiếm hữu và thúc đẩy ngay phút đầu gặp gỡ, chúng ta cũng sẽ được Đức Giêsu quay lại nhìn và hỏi han, mời gọi, nếu chúng ta thành tâm và kiên nhẫn đi tìm Ngài, vì Ngài không bỏ quên, từ chối ai, cũng không dửng dưng lạnh lùng trước bất cứ người nào ngỏ lời yêu mến và muốn đi theo Ngài.

Như hai anh em Anrê, Simon đã gặp được Đức Giêsu, Lẽ Sống và Gia Nghiệp đời mình, vì nghe lời Gioan Tiền Hô, chúng ta cũng cần những người khôn ngoan hướng dẫn, dìu dắt, giới thiệu, bởi Thiên Chúa cần con người để cứu độ con người, và muốn mọi người biết đồng hành với nhau trên hành trình đi tìm Ngài.

Và như Gioan Tiền Hô đã không giữ cho mình hai môn đệ Anrê, Simon, nhưng vui vẻ giới thiệu Đức Giêsu cho các môn đệ của mình, và sẵn lòng để họ bỏ mình đi theo Ngài, đúng vai trò Tiền Hô, và sứ vụ “dọn đường, chuẩn bị cho Thiên Chúa đến”, với ý thức và tâm nguyện : “Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi” (Ga 1,30), “tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1,27), và như thế, “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi” (Ga 3,30), chúng ta cũng cần biết từ bỏ mình, quên mình, xóa mình cho vinh danh Chúa.

Xin Chúa cho chúng ta tình yêu nồng nàn như tình yêu “sấm sét” của hai tông đồ Anrê, Simon, và lòng khiêm tốn sâu thẳm của Gioan Tẩy Giả, vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế, bởi chỉ với tình yêu cháy bỏng, quyết liệt và trái tim khiêm nhường, chúng ta mới được Chúa biến đổi để  trở thành những cộng sự viên trung tín, và đắc lực của Đức Giêsu trên cánh đồng truyền giáo.

Về mục lục

ĐỂ NÊN GIỐNG CHÚA

Bông hồng nhỏ

 “Làm sao để nên giống Chúa?”. Câu hỏi của chị đã giúp ta nhìn lại mối tương quan của mình với Thầy Giêsu. Là môn đệ của Thầy, ta ao ước được trở nên giống Thầy mỗi ngày một hơn. Chị đã nhắn nhủ ta hãy luôn lắng nghe và thi hành lời Chúa Giêsu: hãy nghe, hãy nhìn xem cách Thầy Giêsu đã sống, hãy làm như Thầy đã làm. Muốn trở nên giống ai, ta phải đem lòng yêu mến người đó. Muốn yêu mến ai, ta phải dành thời gian để ở lại với họ, cùng trò chuyện thân tình để hiểu biết về nhau, làm sao để mối tương quan giữa đôi bên ngày càng thêm đậm đà thắm thiết. Trong mối tình với Chúa, ta luôn được yêu rất nhiều. Ngài luôn là người đi bước trước.

Hôm nay, ông Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ của mình: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Rapbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?” Người bảo họ: “Hãy đến mà xem”. Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười ( Ga 1, 35-39). Mỗi ngày, trong Thánh lễ, ta cũng được giới thiệu về “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Người đã bày tỏ cho ta thấy tình yêu lớn lao mà Người dành cho ta, một tình yêu xuất phát từ Thiên Chúa. Không phải vì ta đã yêu mến Thiên Chúa để được Người đáp lại nhưng chính Người đã tự hiến vì yêu ta. Đúng như lời Thánh Gioan đã khẳng định: “Tình yêu cốt ở điều này, không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4, 10). Ta là ai để được Thiên Chúa yêu thương? Ta không phải là người xứng đáng để được yêu thương nhưng Thiên Chúa đã yêu thương ta với một tình yêu tròn đầy và duy nhất. Cảm nhận tình yêu của Chúa, ta hạnh phúc đón lấy tình yêu của Người, đón nhận chính Tình Yêu vào trong tâm hồn. Ta nghe được lời Người mời gọi: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4, 21). Muốn trở nên giống Chúa Giêsu, ta hãy yêu thương anh em mình như Chúa đã yêu thương ta.

Ông Anrê đã ở lại với Thầy Giêsu, đã đón nhận tình yêu của Thầy. Sau khi trở về, ông đã mau mắn giới thiệu Đấng Mêsia với em mình. Tin Mừng thuật lại: “Trước hết, ông gặp em mình là ông Simôn và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia, (nghĩa là Đấng Kitô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu” (Ga 1, 41-42). Ông hạnh phúc khi được gặp Đấng Mêsia, ông cũng muốn chia sẻ cho em niềm hạnh phúc ấy, bởi vì ông rất yêu thương em. Sau khi gặp Chúa, ta có mang Chúa đến với người khác không? Được đón Chúa vào lòng, được ở với Chúa rồi, ta có làm cho người khác nhận ra Chúa nơi mình không? Chỉ khi yêu thương, ta mới có thể diễn tả khuôn mặt của Thiên Chúa- Đấng là Tình yêu đang hiện diện trong ta. Tình yêu làm cho ta có khả năng mở ra với người khác và đến với họ, chia sẻ với họ niềm hạnh phúc mà mình đang có.

Mỗi ngày, ta hãy nhìn sâu vào lòng mình để thấy được khát khao muốn ở lại với Chúa. Những giờ thờ thượng sẽ luôn là một điểm hẹn tuyệt vời mà ta luôn mong chờ. Ở lại với Thầy Giêsu, ta sẽ lắng nghe Lời Thầy dạy dỗ. Hãy đọc thật chậm rãi từng câu Tin Mừng, và hãy lắng nghe thật kỹ từng lời ấy. Đó là Lời mà Chúa đang nói với ta.

Lạy Chúa! Cảm tạ Chúa đã yêu thương con trước. Tình yêu Ngài dành cho con thật lớn lao, cao vời. Cảm tạ Chúa đã ban cho con có một trái tim biết yêu thương và dạy con biết yêu người anh em. Con nhận ra tình yêu trong con có nhiều lúc còn mờ nhạt, chưa đủ mãnh liệt để vượt thắng sự ích kỷ của con người tự nhiên trong con. Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, xin đốt lòng con yêu mến Chúa! Để khi yêu Chúa, con cũng biết yêu thương anh em mình: yêu thương bằng trái tim, bằng đôi tay, ánh mắt, cử chỉ, lời nói… và trọn cả con người con. Amen.

Về mục lục

TƯỞNG CÓ NHƯNG KHÔNG CÓ

Anna Cỏ may

Ngày nay truyền thông phát triển, dường như con người dễ dàng tìm thấy được điều mình muốn. Chỉ cần kết nối Internet, con người có thể bước đến mọi nơi trên thế giới dù họ vẫn đang ở nhà. Tuy nhiên, không phải cái gì con người cũng có thể tìm thấy được nhờ truyền thông. Có rất nhiều điều họ cần phải nghe, phải đi tìm và phải gặp được, chẳng hạn như tình yêu, niềm vui của trao ban và gặp gỡ… Con người phải đi đâu mới tìm thấy được tình yêu nơi đâu? Ai đếm và ở lại trong Thiên Chúa thì sẽ gặp được tình yêu vì Thiên Chúa là tình yêu (x. 1Ga 4,16).

Thánh sử Gioan đã thuật lại rằng: Ông Gioan Tẩy Giả thấy Đức Giêsu đi ngang qua liền lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1, 36). Hai môn đệ của ông vừa nghe thầy giới thiệu liền đi theo Đức Giêsu. Thấy hai môn đệ ông Gioan đi theo mình, Đức Giêsu nói: “Các ông tìm gì thế?”. Các ông trả lời: “Thưa Rápbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?”. Người bảo họ: “Hãy đến mà xem!” (Ga 1, 38-39). Hai môn đệ đã nói lên được niềm khao khát của mình với Đấng mà các ông đi theo. Và họ được toại nguyện. Họ đến tận nơi và ở lại với Người. Họ đã no thỏa sự khao khát trong lòng. Họ trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, lòng tràn đầy niềm vui và sự bình an. Một trong hai môn đệ là ông Anrê hớn hở trở về và nói với em mình là Simôn Phêrô: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (Ga 1, 41), và ông đã dẫn em mình đến với Ngài.

Chúng ta cứ nghĩ rằng cái gì chúng ta cũng có thể tìm được nhờ truyền thông. Nhưng không, chúng ta muốn có tình yêu đích thực, muốn là con Thiên Chúa, muốn có hạnh phúc đích thực, muốn có sự bình an trong tâm hồn, chúng ta cần lắng nghe Lời Chúa và đi tìm Ngài trong Bí tích Thánh Thể. Có thế, chúng ta mới được Ngài ở lại và ở với Ngài, mới no thỏa nỗi khao khát đang tìm kiếm.

Bài hát “Có Chúa là có tất cả” của nữ tu Têrêsa đã cho thấy món quà vô giá mà mỗi người cần tìm kiếm. Như vậy, để có Chúa, chúng ta hãy rời khỏi lối suy nghĩ, quan điểm lệ thuộc truyền thông kỹ thuật số. Đó chỉ là phương tiện giúp chúng ta kết nối với người thân và giúp chúng ta thi hành sứ mạng Chúa trao. Đã không ít người bị lệ thuộc vào truyền thông mà quên đi trách nhiệm của mình. Bên cạnh đó, cũng không ít bạn trẻ đã chiều theo đam mê đến nỗi bỏ cả ăn cùng giấc ngủ để “lướt” Facebook. Ước gì mỗi người chúng ta nhận ra tình trạng của mình và can đảm bắt đầu lại từ đầu, với tình yêu Thiên Chúa.

Lạy Chúa, chúng con xin lỗi Chúa về tất cả mọi sự. Chúng con không tự sức mình thoát ra khỏi những cám dỗ của thế gian. Xin Chúa hằng luôn nâng đỡ tiếp sức cho chúng con, để chúng con vượt qua mọi cám dỗ của thế gian, buông bỏ tất cả và đặt Chúa là niềm vui duy nhất của cuộc đời mình. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Chúa chúng con. Amen.

Về mục lục

MÔN ĐỆ TIỀN PHONG

Lm Vũđình Tường

Thánh Gioan Tẩy Giả nhìn thấy Đức Kitô đi ngang, ông liền giới thiệu Ngài với môn đệ mình. Trong số các môn đệ hiện diện có hai vị tiên phong trong việc theo chân Đức Kitô. Đức Kitô thấy họ đang tiến về phía mình, Ngài lên tiếng hỏi ‘Các bạn tìm gì thế?’ Họ đáp: Thưa, Thầy ở đâu? Đức Kitô nói với họ: Đến mà xem Gn 1,38. Hai vị theo chân Đức Kitô và ở lại với Ngài ngày hôm đó. Lời mời gọi vắn gọn, vỏn vẹn có ba chữ, trong đó có hai từ hoạt động. Từ ‘đến’ và ‘xem’ thường được diễn tả là động từ.

Không dấn thân thì không thể đến. Như thế đến tham dự điều gì chính là dấn thân làm công việc đó. Trong trường hợp này, hai ông đến xem nơi Đức Kitô ở. Đến nơi, các ông nhận ra không có gì để xem, bởi có lần chính Đức Kitô nói: ‘Chim trời có tổ, thú vật có hang, Con Người không chốn dựa đầu’ Mat 8,20. Không đền đài, không biệt thự, không nhà cao, vườn rộng, không của cải vật chất. Thiên Chúa dựng nên đất trời. Là Thiên Chúa Đức Kitô làm chủ toàn thể vũ trụ; là ‘Con Người’ trần thế Đức Kitô không của, không tài sản. Điều Đức Kitô làm chủ là điều mắt thường không thể nhìn thấy. Muốn thấy phải nhìn bằng con mắt đức tin. Mà con mắt đức tin đòi phải có niềm tin vào Đức Kitô thì mới có thể nhìn thấy tình yêu vô bờ bến Ngài dành cho nhân loại.

Đến mà xem. Điều gây ảnh hưởng mạnh trong tâm hồn người xem thường là những gì lần đầu tiên nhìn thấy. Nhìn thấy gì? Thưa Anrê nhìn thấy lối sống đơn sơ, thanh bần nơi Đức Kitô. Ông vừa kinh ngạc, vừa thán phục. Kinh ngạc và thán phục bởi Đức Kitô đặt giá trị tinh thần vượt lên trên mọi giá trị vật chất. Người không ‘ tôn thờ ‘ vật chất thường quí món quà tinh thần. Bởi không có gì để coi nên Đức Kitô ban cho các ông món quà khác. Món quà tinh thần. Đó là nghe Đức Kitô rao giảng. Bài đọc cho biết các ông ở lại với Ngài trọn ngày hôm đó. Nghệ thuật lắng nghe chính là tinh thần cởi mở, và điều đó dẫn đến quyết định. Tin hay không tin, theo hay không theo. Phúc âm thuật lại một môn đệ Gioan trở thành môn đệ Đức Kitô, người đó là Anrê. Sau này, Đức Kitô tuyên bố nhận biết Ngài và tin theo Ngài chính là món quà tinh thần cao quí, là quà tặng Chúa ban, bởi ‘Thầy bảo thật anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe’ Mt 13,17. Anrê nhận ra điều đó ngay lúc nhìn thấy nơi Đức Kitô sống.

Chúng ta được mời gọi trở thành môn đệ Đức Kitô khi chúng ta lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Cha mẹ và thân nhân cùng giúp chúng ta trở thành con cái Chúa, bởi họ biết điều đó là điều tốt lành, cần làm. Đó là hành động yêu thương. Tặng cho con cái món quà tình yêu đến từ Thiên Chúa. Vì yêu con cái và yêu Thiên Chúa nên dâng hiến con mình cho Thiên Chúa. Chúng ta lớn lên trong đức tin ấy. Sống phụng thờ Chúa, sống yêu thương tha nhân, thực hành điều Chúa dậy. Thiên Chúa là mục đích tối hậu của đời ta.

Hai môn đệ Gioan ở lại với Đức Kitô ngày hôm đó. Lắng nghe Đức Kitô nguyên ngày là hiện thực. Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm khi gặp lại người thân có thế nói chuyện cả buổi, lan man hết chuyện này đến chuyện khác, chuyện gia đình, chuyện xóm ngõ, chuyện mới, chuyện xưa, cứ thế lan man. Hết giờ thì có, hết chuyện thì không. Anrê càng nghe Đức Kitô càng thích, càng thán phục. Ông về nói với anh mình là Phêrô và giới thiệu Phêrô với Đức Kitô. Sau này cả hai trở thành môn đệ đầu tiên, tông đồ đầu tiên của Đức Kitô. Gặp gỡ Đức Kitô, Anrê trở thành nhà truyền giáo mà ông không bao giờ nghĩ đến, nhưng việc giới thiệu Phêrô với Đức Kitô là việc rao giảng Tin Mừng mà Anrê là người môn đệ đầu tiên làm công việc rao giảng đó.

Chúng ta được mời gọi ‘đến mà xem’. Chúng ta xin tinh thần lắng nghe giáo huấn Đức Kitô với tinh thần cởi mở, con tim hân hoan đón nhận Lời Chúa.

Về mục lục

ĐÂY LÀ CHIÊN THIÊN CHÚA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Nếu Chúa nhật lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, lời Chúa mời gọi chúng ta sống sao cho xứng đáng làm con Thiên Chúa, thì Chúa nhật này, lời Chúa mời gọi chúng ta đặt mình vào vị trí của nhóm môn đệ Gioan Tẩy Giả, nhất là của chính Gioan để thấy được kế hoạch của Thiên Chúa đối với nhân loại.

Tin Mừng hôm nay trình bày Gioan Tẩy Giả thật đúng với sứ mạng của ông là chỉ cho mọi người biết Đấng Cứu Thế : Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1, 35). “Chúa Giêsu đang đi và Gioan nói”, là một hành động diễn tả sự liên tục giữa Giao ước cũ với Giao ước mới, vì Gioan Tẩy Giả đã không nói về chính mình, lời của ông được rút ra từ Cựu Ước đan vào nhau để làm sáng tỏ các mầu nhiềm. Năm Phụng vụ mới bắt đầu, Gioan Tẩy Giả thấy sự huy hoàng rực rỡ của Giao Ước mới đang ló rạng thì giới thiệu cho môn sinh : “Đây là Chiên Thiên Chúa”(Ga 1, 35).

Đây là Chiên Thiên Chúa

Gioan Tẩy Giả khẳng định, Chúa Giêsu là Chiên duy nhất chết thay cho đoàn chiên là nhân loại chúng ta. Không những thế, Người còn phục hồi tất cả những người sống trên trần gian này và cứu chuộc mang về cho Thiên Chúa Cha. Một người chết thay cho toàn dân, để tất cả vâng phục Thiên Chúa; chỉ một mình Người đã chịu chết để cứu chuộc muôn người… Thật thế, con người đã trở nên hư hỏng, sống trong tội lỗi và đây là lý do tại sao Chúa Cha đã cho Con của Ngài tới làm giá chuộc tội cho toàn dân ( Ga 3,16 ), vì Người là đầu và tất cả mọi sự ở trong Người. Để tất cả chúng ta sống trong Người, Người đã vui lòng chịu chết và hiến tế vì chúng ta, Người đã chết thay cho chúng ta, và sống lại vì chúng ta. Người là Chiên thật xóa bỏ tội trần gian.

Gioan là mẫu người tìm Chúa và giới thiệu Chúa

Gioan Tẩy Giả là một tiên tri, biết nhận ra Thiên Chúa giữa loài người. Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa mặc khải trong xác phàm, Lời làm người để cứu chuộc nhân loại. Gioan là tiếng, ông là người lồng tiếng truyền đi sứ điệp mà ông đã được ủy thác. Sứ điệp Gioan truyền là một công thức tuyệt đẹp và độc đáo, được lặp đi lặp lại ở tất cả các Bí tích Thánh Thể, được thể hiện dưới ánh mắt thân mật và yêu thương nhất của Thiên Chúa : “Đây là Chiên Thiên Chúa”(Ga 1, 35). Đây sự tuyển chọn Abraham và giao ước với nhà Đavid, đây là người Tôi Tớ đau khổ và là Chiên Vượt Qua. Đây là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi. Đây là Con Thiên Chúa.

Gioan không nói như là tiếng vọng của tiên tri Isaia, nhưng ông đã viết lời tiên tri một lần nữa và tham gia việc thực hiện lời hứa. Ông đã sống đến cùng ơn gọi của mình là chỉ cho mọi người biết Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa.

Noi gương Gioan sống chứng nhân

Con người tìm Thiên Chúa, Thiên Chúa đáp trả, con người lại tiếp tục giới thiệu Chúa cho tha nhân, nên câu hỏi :”Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” (Ga 1, 38). là câu hỏi mà hai anh em nhà Anrê và Simon Phêrô sau khi được thầy Gioan giới thiệu đã hỏi Chúa. Khuynh hướng tự nhiên nơi tâm hồn con người là đi tìm Chúa, và Thiên Chúa luôn luôn mau mắn đáp trả, mời gọi con người đến gặp Người: “Hãy đến mà xem” (Ga 1, 39)..

Hai chàng thanh niên hỏi, rồi một câu trả lời có tính cách như là một lời mời gọi. Khi nghe những lời chỉ dẫn đó, hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả liền theo Chúa Giêsu. Phải chăng đây là một biến cố đầy ý nghĩa? Khi Chúa Giêsu hỏi : “Các ngươi tìm gì?” (Ga 1, 38) thì hai môn đệ trả lời cũng bằng một câu hỏi: “Thưa Thầy, thầy ở đâu?” (Ga 1, 38). Và Chúa Giêsu trả lời : “Hãy đến mà xem”. Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười (Ga 1, 39). Họ trở thành những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Đến lượt Anrê, Anrê lại dẫn anh mình là Simon Phêrô đến với Chúa Giêsu.

Khi trình bày lại cuộc gặp gỡ nầy với Chúa Giêsu, phụng vụ ngày hôm nay muốn chứng tỏ điều trọng nhất trong đời sống chúng ta. Hỏi là kết quả của cuộc kiếm tìm. Con người đi tìm Thiên Chúa. Con người, tận trong thâm tâm, hiểu rằng cuộc kiếm tìm này là định luật nội tại của cuộc sống. Con người đi tìm đường đi trong thế giới hữu hình, và qua thế giới hữu hình, con người đi tìm cái vô hình trong cuộc hành trình thiêng liêng của mình.

Mượn lời vịnh gia, mỗi người trong chúng ta có thể thân thưa với Chúa : “Lạy Chúa, con đi tìm nhan thánh Chúa; xin đừng ẩn mặt xa con” (Tv 27. 26, 8-9). Mỗi người trong chúng ta có một lịch sử cá nhân riêng và mang trong mình khát vọng muốn thấy nhan Thiên Chúa, một ước vọng mà người ta cảm thấy cùng với việc khám phá thế giới tạo vật.

Chúng ta hỏi Chúa : “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” (Ga 1, 38). Giáo Hội trả lời cho chúng ta mỗi ngày rằng: Chúa Kitô hiện diện trong bí tích Thánh Thể, bí tích của sự chết và sống lại, trong và nhờ bí tích này, chúng ta nhận ra Thiên Chúa sống động trong lịch sử con người.

Câu trả lời cho câu hỏi: “Thưa Thầy, thầy ở đâu?” Còn cần phải được nghe như sau : Thầy ở trong tất cả mọi người được cứu chuộc. Ðúng vậy, Chúa Kitô, Ðấng có những lời ban sự sống đời đời, Ðấng là “Ðầu của Dân mới và phổ quát của tất cả những con cái của Thiên Chúa” (LG số 13), hiện diện trong dân Người. Gioan đã làm chứng và giải thích về sự nhận biết và tôn thờ cũng như đón nhận Lời để thông phần vinh quan với Lời; hành động đức tin biến chúng ta thành người tôi tớ hợp nhất với người môn đệ dưới chân Thánh Giá : “Đây là Chiên Thiên Chúa “(Ga 1, 35). Đến lượt chúng ta, là thành phần của Giáo hội, thành phần sống động và có trách nhiệm, hãy là những đồ đệ và là những chứng nhân của Chúa Kitô, Ðấng mạc khải Thiên Chúa Cha. Hãy sống trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần, Ðấng ban sự sống. Amen.

Về mục lục

CÁC ANH TÌM GÌ THẾ?

Lm. Giuse Lê Danh Tường

Chưa bao giờ nhân loại đứng trước nhiều lựa chọn như ngày hôm nay, dễ dàng tìm kiếm như ngày hôm nay. Giữa một khối lượng thông tin khổng lồ, con người dường như bị chìm đắm trong thế giới thông tin. Chắc chắn không phải tất cả mọi thông tin đều có lợi cho mỗi người. Tìm kiếm rồi sở hữu cái đúng cái tốt thì giúp mình triển nở. Và ngược lại, tìm kiếm và thủ đắc cái xấu, cái độc thì làm cho ta bị băng hoại. Các bài đọc Sách thánh trong Chúa nhật II thường niên B đưa ta đến thái độ cần phải có trên con đường ta đi tìm kiếm giữa cuộc sống hôm nay.

Tâm hồn ta đang hướng về đâu

Bài đọc thứ nhất trích từ sách Samuel (1Sm 3, 3b-10.19) kể về câu chuyện Thiên Chúa gọi Samuel. Trong đêm tối, Thiên Chúa đã cất tiếng gọi Samuel; thế nhưng Samuel đã không nhận ra tiếng Chúa; Cậu tưởng tiếng của thầy Eli. Tiếng Chúa liên tục kêu gọi bên tai cậu nhưng cậu chỉ nghĩ đến thầy Eli mà thôi. Cậu nghe thấy tiếng Chúa nhưng lại nghĩ đến thầy mình. Vì chỉ nghĩ đến thầy, chỉ biết có thầy nên cậu không nghe được tiếng Chúa.

Quả thực, lòng ta hướng về điều gì thì ta sẽ dễ dàng nhận ra điều ấy hơn; và thậm chí ta còn đồng hoá những thứ khác với điều ta đang quan tâm. Người ta thường nói: bác sỹ thì nhìn đâu cũng thấy bệnh; cảnh sát nhìn đâu cũng thấy tội phạm; doanh nhân nhìn đâu cũng thấy lợi nhuận; người đang yêu thì nhìn đâu cũng thấy người mình yêu… Bởi khi ấy, tâm hồn ta hướng chiều về đối tượng và bị đối tượng ấy chiếm hết cả tâm hồn mình.

Giữa một xã hội bôn ba ngược xuôi tìm kiếm: người thì đi tìm tiền; người thì đi tìm tình; người đi tìm danh; người lo kiếm chữ; kẻ lo tìm nhà. Tất cả đang nháo nhác đi tìm. Vậy nên chẳng lạ gì khi cỗ máy tìm kiếm Google đã trở nên công ty hàng đầu trên thế giới chỉ sau ít năm thành lập. Nếu bạn quan tâm tới điều gì, bạn sẽ bị lôi cuốn vào con đường tìm kiếm cái đó. Thậm chí, thế giới điện toán internet sẽ quẳng vào xung quanh bạn toàn là những thứ bạn đang quan tâm.

Chính các môn đệ trong bài Tin Mừng của Chúa nhật này cũng đi tìm kiếm. Thế nhưng chỉ khi Đức Giêsu hỏi các ông “Các anh tìm gì?” (Ga 1,38) thì các ông mới thực sự đối diện với thực tại lòng mình.

Thái độ cần có

Đối diện với câu hỏi của Chúa Giêsu, các môn đệ đã tìm lại được thái độ căn bản của cuộc tìm kiếm: “Lạy Thầy, Thầy ở đâu”. Các ông đã không còn khơi khơi chạy theo dư luận, tìm kiếm giá trị trần gian. Các môn đệ đã muốn tìm gặp chính Thiên Chúa.

Chính thái độ khẳng định sự tìm kiếm Thiên Chúa trong cuộc đời đã dẫn đưa các môn đệ đến gặp Chúa, ở với Chúa, cảm nghiệm về Chúa. Thái độ khát khao tìm kiếm Thiên Chúa sẽ giúp con người nhận ra khuôn mặt của Thiên Chúa giữa đủ mọi màu sắc của cuộc sống, nhận ra được tiếng nói của Thiên Chúa giữa muôn vàn cung điệu.

Bài đọc thứ hai được trích trong thư thánh Phaolô gửi tín hữu thành Corinto (1 Cr 6, 13c-15a, 17-20). Thánh Phaolô đã bàn giải về thái độ tìm kiếm ấy càng rõ rệt hơn. Cũng là thân xác con người, nhưng nếu bạn chỉ tìm kiếm sự vui thú xác thịt, chỉ thoả mãn dục vọng thì bạn chỉ thấy nơi thân xác con người là sự dâm ô. Trái lại, với thái độ luôn tìm kiếm Thiên Chúa, Thánh nhân đã nhận ra thân xác chính là đền thờ của Chúa Kitô; Ngài nhận ra uy quyền của Thiên Chúa và lời mời gọi nên thánh trong chính thân xác của mình.

Tìm kiếm Thiên Chúa, nền tảng của cuộc sống

Gặp được Thiên Chúa là bạn có tất cả. Có thể bạn phải tìm kiếm của cải trần gian, miếng cơm manh áo để đảm bảo cho đời sống này; nhưng bạn đừng quên chính Thiên Chúa đã tạo dựng nên bạn và mọi thứ trên trần gian này. Có thể bạn đang tìm kiếm sự ổn định đời sống gia đình, chuẩn bị cho tương lai; nhưng bạn đừng quên Thiên Chúa là nguồn cội và là cùng đích bạn tìm về. Chỉ nơi Ngài bạn mới có nguồn bình an hạnh phúc đích thực trường cửu. Có thể bạn đang tìm kiếm người bạn đời tri âm tri kỷ; nhưng bạn đừng quên chính Thiên Chúa đã đến để tìm cách ở cùng bạn, chia sẻ vui buồn với bạn.

Chính khi bạn gặp gỡ Thiên Chúa là bạn gặp lại được chính mình. Chính ở nơi Thiên Chúa bạn mới thấy mình không phải là kẻ vô danh nhưng là con Thiên Chúa; bạn thấy cuộc đời có ý nghĩa này đưa bạn vào đời sống vĩnh cửu chứ không phải nó qua đi rồi hết; bạn mới thấy giá trị của lao nhọc và khổ đau, thấy giá trị của sự cố gắng vươn lên trong cuộc sống của bạn; và bạn mới thấy được mình cần phải vượt ra khỏi vũng lầy của tội lỗi, của chán trường; bạn mới biết thanh lọc những giá trị trong cuộc sống.

Trong buổi tiếp kiến với hơn 9000 khách hành hương ngày 17 tháng 9 năm 2008, Đức Giáo Hoàng Bênêdictô đã khẳng định: “Tìm kiếm Thiên Chúa là nền tảng của mọi nền văn hoá”.

Nếu thực sự khát khao và lên đường đi tìm kiếm Thiên Chúa, chắc chắn bạn sẽ gặp Ngài. Bởi chính Ngài đang tìm kiếm bạn, đang chờ đợi bạn.

Lạy Chúa Giêsu, xin khơi lên trong con lòng khao khát Chúa như xưa Chúa đã khơi lên trong lòng các môn đệ. Xin cho con được ở lại với Ngài để con được xác tín sự hiện diện của Ngài trong con. Xin dẫn con đi và xin kéo con về mỗi khi con lang thang lạc bước trên đường tìm kiếm Nước Trời.

Về mục lục

CHIÊN THIÊN CHÚA

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Trong mỗi Thánh lễ, vị chủ tế nâng cao Mình Máu Thánh Chúa Giêsu và giới thiệu với cộng đoàn: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian”, ngài lặp lại lời Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu với môn đệ: “Hôm ấy, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình liền nói : Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian”.

Danh hiệu Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian bao trùm từ đầu đến cuối sách Tin Mừng thứ tư mà tột đỉnh là cuộc tôn vinh Chúa Giêsu trên thập giá và trong ánh sáng phục sinh.

  1. Con Chiên Thiên Chúa

Người Do Thái có tục sát tế chiên trên bàn thờ để thờ phượng, cảm tạ Thiên Chúa, để xin ơn và để đền tội. Tục lệ này bắt nguồn từ thời Abel, con trai thứ của Ađam. “Aben làm nghề chăn chiên” (St 4,2) nên để thờ phượng và tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa, “Aben dâng những con đầu lòng của bầy chiên cùng với mỡ của chúng” lên Ngài (St 4,4).

Đến thời dân Do Thái vượt qua Biển Đỏ, Môsê ra lệnh cho mỗi nhà người Do Thái phải sát tế một con chiên, bôi máu lên khung cửa (x.Xh 12,2-7). Đêm ấy, tất cả những nhà trên đất nước Ai cập không có máu chiên nơi khung cửa đều bị chết đứa con trai đầu lòng (x.Xh12,29-30). Chỉ có người Do Thái nhờ máu chiên trên khung cửa mà không bị như thế. Từ đó, việc sát tế chiên mang thêm ý nghĩa: chiên chết thay người.

Về sau, tại đền thờ, các tư tế Do Thái đều sát tế mỗi ngày hai con chiên làm của lễ toàn thiêu: sáng sớm một con, chập tối một con, để dâng lên Thiên Chúa làm của lễ đền tội cho dân (Xh 29,38-46). Đúng ra ai phạm tội thì chính người ấy bị phạt, mà phạm đến Thiên Chúa thì chỉ có hình phạt chết mới xứng đáng. Nhưng Thiên Chúa nhân lành không muốn con người phải chết: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ed 18,23). Luật công bằng đòi hỏi tội phải đền; nên để con người còn được sống mà ăn năn hối cải, Thiên Chúa chấp nhận cho con người lấy chiên đền mạng. Như vậy chiên bị sát tế là để chết thay cho con người lẽ ra phải chết vì tội lỗi mình.

Các tiên tri trước Gioan đã nói về người tôi tớ kỳ diệu của Thiên Chúa một ngày kia sẽ chịu đau khổ và chết như một con chiên. Isaia mô tả : “Người đã bị đối xử tàn tệ, nhưng đã khiêm tốn chịu đựng, như một con chiên sắp bị đưa tới lò sát sinh. Người không hề thốt ra một lời. Người bị bắt, bị tuyên án, và vị dẫn tới chỗ chết… Người đã phải chết vì tội lỗi chúng ta”(Is 53,7-8); “Người đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi”(Is 53,6-7.12).Những lời của tiên tri Giêrêmia cũng rất phù hợp với con người Chúa Giêsu : “Tôi giống như con chiên trung tín bị đem đi giết, và tôi không hề biết họ đang trù tính những điều độc ác chống lại tôi”(Gr 11,19).

  1. Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa” bị sát tế để cứu nhân loại

Theo lẽ thường, gọi Đức Giêsu là chiên thì quả là xúc phạm. Nhưng để cứu chuộc nhân loại, theo kế hoạch cứu chuộc của Thiên Chúa, Đức Giêsu phải bị giết chết để đền tội thay cho con người, tương tự như những con chiên bị sát tế trong đền thờ để chết thay cho người tội lỗi. Gioan đã thấy trước số phận tương lai của Đức Giêsu như thế nên giới thiệu cho mọi người: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian”. Đức Giêsu đã trở thành chiên hy sinh: “Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta”(1Cr 5,7). Sách Khải Huyền cũng dùng đến 27 lần từ “Con Chiên” để chỉ về Đức Giêsu, thánh Gioan còn xác quyết: Đức Kitô đã chịu chết vì tội lỗi chúng ta.

Thánh Phaolô viết: “Nếu máu các con dê, con bò còn thánh hóa được con người, làm cho họ trở nên trong sạch, thì máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy” (Dt 9,13-14). Hiệu lực đến nỗi Ngài chỉ cần chết một lần là đủ xóa được tội lỗi toàn nhân loại: “Chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ’ (Dt 10,10), vì Ngài là “Con Chiên vẹn toàn, không tỳ vết” (1Pr 1,19), nhất là vì Ngài cũng chính là Thiên Chúa, nên giá trị cứu chuộc của Ngài là vô cùng. “Máu của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu trời còn mạnh thế hơn cả máu Aben” (Dt 12,24). “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,20). Đặc tính của con chiên là sự ngây thơ, hiền lành, nhẫn nhục, trong sạch. Đó là những đức tính quý báu của Đức Giêsu Kitô, con chiên không tì vết.

  1. Đấng xóa bỏ tội trần gian.

Khi Đức Giêsu đang đến, Gioan Tẩy Giả đã chỉ vào Đức Giêsu và nói : “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29). Giới thiệu như thế, Gioan đã cùng một lúc chỉ ra hai thực tại lớn lao về Đức Giêsu: Ngài là Chiên của Thiên Chúa, đồng thời Ngài cũng là Đấng xóa bỏ tội trần gian.

Khi gọi Đức Giêsu là “Chiên của Thiên Chúa”, Gioan xác nhận Đức Giêsu là Đấng vô tội và thánh thiện. Khi nói Đức Giêsu là “Đấng xóa tội trần gian”, Gioan chỉ cho mọi người thấy Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, Đấng Messia, là “tôi tớ đau khổ của Giavê” như tiên tri Isaia đã từng nói đến trong Cựu ước.

Hai thực tại này gắn liền với nhau nơi con người và sứ mạng của Đức Giêsu. Chính vì là con chiên vô tội của Thiên Chúa nên Đức Giêsu mới có thể xóa tội của thế gian. Như con chiên được dùng làm của lễ đền tội trong Cựu ước phải chịu sát tế, Đức Giêsu cũng phải chịu đau khổ và chịu chết để trở nên của lễ hy sinh đền tội cho nhân lọai. Con chiên hiến tế của Cựu ước chỉ là hình bóng và dấu hiệu của Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”, Đấng duy nhất thực sự xóa tội cho con người, Đấng duy nhất đem lại ơn cứu độ cho hân loại.Chỉ có Con Chiên thanh sạch và hiền lành, Con Chiên bị sát tế mà không một lời thở than, mới đền thay được tội lỗi. Chỉ có Đấng vô tội, mới có thể chết thay cho các tội nhân.

Đức Giêsu xóa tội của thế gian bằng cách gánh vào mình Ngài tội lỗi của tất cả nhân lọai, từ tội của nguyên tổ Ađam cho đến tội của người sau hết của nhân lọai. Với cuộc khổ nạn và cái chết đau thương tủi nhục trên thập giá, Ngài đã đền thay tội lỗi của tất cả nhân loại. Từ nay nhân loại đã được giao hòa với Thiên Chúa, được sống trong ân tình của Ngài và cửa thiên đàng đã được mở lại cho tất cả mọi người.

Mặc dù chúng ta là người tội lỗi, nhưng đã được rửa bằng Máu của Con Chiên Thiên Chúa, và được tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể.

Người tín hữu thường được gọi là “con chiên của Chúa”. Danh hiệu đó ngầm chứa một lời cầu chúc: Mong cho người tín hữu được xếp vào loại “chiên” trong ngày phán xét. Ðược đứng bên hữu Vua Thẩm Phán. Ðược vào hưởng vinh quang trong nước Chúa. Nhưng danh hiệu đó phải chăng cũng gợi lên một ước mong. Ước mong người tín hữu sống theo gương của Chiên Thiên Chúa. Uớc mong những chiên con nối gót theo chiên mẹ đầu đàn đi vào con đường hiền lành khiêm nhường. Ước mong đoàn chiên tự hiến đời mình như một của lễ dâng lên Thiên Chúa. Và ước mong đoàn chiên gánh lấy số phận của người khác, để yêu thương, đoàn kết, liên đới, chia sẻ với anh em tất cả mọi niềm vui nỗi buồn của họ.

Về mục lục

KHẮC DẤU TÌNH

Trầm Thiên Thu

Rabindranath Tagore nói: “Yêu thương là hiện thực duy nhất và nó không chỉ là một tình cảm. Đó là chân lý tối thượng nằm tại tâm của Tạo Hóa.” Đó là Ông Trời, là Đấng tạo nên mọi sự, nói gọn lại là Tạo Hóa hay Tạo Vật, chính là Thiên Chúa; còn mọi vật được tạo ra là thụ tạo, trong các thụ tạo có con người chúng ta.

Thiên Chúa là tình yêu, các thụ tạo được Ngài dựng nên cũng xuất phát từ tình yêu, nghĩa là Ngài đã khắc dấu yêu thương trong mọi người, không là dấu vết như vẽ hoặc viết, mà là dấu khắc sâu, vì thế chúng ta không thể không yêu thương nhau.

Cả xã hội và Giáo Hội đều mang tính cộng đồng, tức là sống chung, cụ thể và đơn giản nhất là gia đình – giống như “tế bào gốc” của xã hội và Giáo Hội. Đời sống chung rất cần tình yêu thương, yêu thương đòi hỏi mỗi người phải biết lắng nghe, có lắng nghe nhau mới có thể hiểu nhau và cùng nhau thực hiện điều ước nguyện của Thầy Chí Thánh Giêsu trong Vườn Dầu ngày xưa: “Xin cho họ nên một.” Tính chất “nên một” được Chúa Giêsu đề cập ba lần. (x. Ga 17:1-24) Điều đó chứng tỏ tính chất đặc biệt lắm, cần thiết lắm, bởi vì đó là tính hiệp nhất của Chúa Ba Ngôi – Đấng Tam Vị Nhất Thể.

Không chỉ NGHE mà phải LẮNG NGHE. Lắng nghe là một nghệ thuật, bởi vì còn phải biết cách nghe. William Arthur Ward (1921-1994) nhận định: “Trước khi nói, hãy lắng nghe; trước khi viết, hãy suy nghĩ; trước khi chi tiêu, hãy kiếm được; trước khi đầu tư, hãy tìm hiểu; trước khi phê phán, hãy chờ đợi; trước khi cầu nguyện, hãy tha thứ; trước khi bỏ cuộc, hãy thử làm; trước khi nghỉ hưu, hãy tiết kiệm; trước khi chết, hãy cho đi.” Điều cuối cùng thật là đặc biệt: “Trước khi chết, hãy cho đi.”

Hai động thái “lắng nghe” và “thấu hiểu” có một khoảng cách nhất định, và cũng có các mức độ khác nhau, thậm chí có người vẫn nghe vì không điếc, thế nhưng lại không hiểu. (x. Lc 8:10) Chúa Giêsu đã nhắc nhở nhiều lần: “Ai có tai thì nghe.” (Mt 11:15; Mt 13:9; Mt 13:43; Mc 4:9; Mc 4:23; Mc 7:16; Lc 8:8; Lc 14:35; Kh 13:9) Ý Ngài muốn là phải lắng nghe và phải thấu hiểu.

Liên quan vấn đề này, trình thuật 1 Sm 3:3-10 cho biết câu chuyện nổi tiếng về việc lắng nghe và của ngôn sứ Samuel. Chuyện xảy ra vào một đêm nọ, ông Êli đang ngủ, mà mắt ông thì mờ, ông không còn thấy rõ nữa. Đèn của Thiên Chúa chưa tắt và Samuel đang ngủ trong đền thờ Đức Chúa, nơi có đặt Hòm Bia Thiên Chúa. Bất ngờ, Đức Chúa gọi Samuel. Cậu tưởng ông Êli gọi nên chạy đến và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con.” Ông cho biết rằng ông không gọi và bảo cậu cứ về ngủ đi. Cậu đi ngủ, rồi lại có tiếng gọi lần nữa. Samuel lại dậy và đến với ông Êli, nhưng ông vẫn bảo là không gọi cậu. Và cậu lại về chỗ ngủ của mình.

Còn trẻ người nên Samuel chưa biết Đức Chúa, và lời Đức Chúa chưa được mặc khải cho cậu. Cậu nằm ngủ, và rồi lại có tiếng gọi lần thứ ba. Cậu lại dậy và đến với ông Êli. Bấy giờ ông Êli hiểu là Đức Chúa gọi cậu nên ông dặn Samuel rằng hễ có ai gọi thì thưa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” Samuel về ngủ, và Đức Chúa lại đến, đứng đó và gọi như những lần trước: “Samuel! Samuel!” Cậu liền thưa: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” (1 Sm 3:10)

Một câu nói tuyệt vời, được trích dẫn nhiều mỗi khi đề cập việc làm theo Ý Chúa. Thi hành mau mắn và vui vẻ chứ không miễn cưỡng, bất đắc dĩ. Thiên Chúa ban cho chúng ta quyền tự do hoàn toàn, Ngài không ép buộc ai làm bất cứ điều gì, dù là việc nhỏ bé, vì thế Ngài luôn đề cao sự tự nguyện, hành động vì yêu mến. Vì đã lắng nghe, thấu hiểu, và mau mắn làm theo Ý Chúa, nên Samuel được Thiên Chúa bảo vệ: “Samuel lớn lên. Đức Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu.” (1 Sm 3:19) Thật diễm phúc cho Samuel!

Cái gì cũng có nguyên lý. Sự diễm phúc không là tình trạng ngẫu nhiên hay tự nhiên, mà là động thái “có điều kiện” với sự tự nguyện: Tổ phụ Ápraham đã hoàn toàn tuân phục khi quyết định rời bỏ quê hương để đến Đất Hứa mặc dù ông không biết đó là đâu, ông cũng không hề ngần ngại sát tế chính con trai độc nhất, không có con nối dõi thì làm sao dòng dõi đông đúc như sao trên trời? Ông không hề thắc mắc hoặc đặt vấn đề. Đức Maria cũng diễm phúc vì lời “xin vâng” vô điều kiện, mặc dù Đức Maria ngạc nhiên lắm. Lắng nghe – thấu hiểu – hành động, đó là “chuỗi liên kết” như một tam-giác-đều bất biến, trong đó tiềm ẩn và mặc nhiên có tảng đá góc tường của tòa nhà nhân đức: Khiêm nhường.

Con người chúng ta luôn có sự mâu thuẫn: Muốn người khác lắng nghe mình nhưng mình lại không muốn lắng nghe người khác. Nguyên nhân là tính ích kỷ, vì “cái tôi” lớn quá, cứ tưởng mình là “bách khoa tự điển” có mọi thứ về mọi lĩnh vực. Thậm chí cả với Thiên Chúa mà chúng ta cũng dám làm vậy. Chúng ta thực sự uống thuốc liều nên mới to gan như vậy. Oan ức ư? Không hề! Chúng ta luôn xin Ngài lắng nghe mình, (Tv 30:11; Tv 51:3; Tv 55:2; Tv 77:2; Tv 86:6; Tv 88:3; Tv 141:1; Tv 143:1) nhưng hiếm khi chúng ta nhận lỗi (Tv 51:5) hoặc lắng nghe tiếng Chúa, (Tv 85:9) nhất là khi ý Chúa khác với ý mình. Sự giằng co quyết liệt lắm.

Người ta đúc kết: “Đời là bể khổ.” Có thể chưa đủ kinh nghiệm nhưng ai cũng biết điều đó. Thế nên chúng ta luôn phải cầu xin lòng thương xót của Thiên Chúa: “Tôi đã hết lòng trông đợi Chúa, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu.” (Tv 40:2) Và rồi niềm vui không thể giấu kín: “Chúa cho miệng tôi hát bài ca mới, bài ca tụng Thiên Chúa chúng ta. Thấy thế, nhiều người sẽ kính sợ và tin tưởng vào Chúa.” (Tv 40:4) Tuy nhiên, chúng ta lại dễ “ngủ quên trong chiến thắng,” chẳng khác chín người vô ơn bạc nghĩa trong trường hợp “mười người phong hủi.” (Lc 17:11-21) Người biết Chúa thì làm ngơ, qua cầu rút ván, người không biết Chúa thì lại biết trở lại để tạ ơn. Thật là xấu hổ cho tín nhân!

Thiên Chúa không thích lễ vật lỉnh kỉnh, nghi thức rườm rà. Ngài không đòi chi cũng chẳng cần gì, nhưng Ngài chỉ muốn một điều là chúng ta PHẢI sẵn sàng và mau mắn: “Này con xin đến! Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con.” (Tv 40:7-9) Ai càng thu nhỏ mình thì càng được Ngài thương xót. Thánh Vịnh gia xác định: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh.” (Tv 40:10) Thế thì thật tuyệt vời!

Thánh Elizabeth Ăn năn Seton (1774-1821) quyết tâm làm ba điều: “Tôi muốn công việc hằng ngày của tôi là làm theo ý Chúa; tôi làm điều đó theo cách Ngài muốn; tôi làm điều đó vì đó là ý Chúa.” Ước gì mỗi chúng ta cũng có thể quyết tâm như vậy.

Trên thế gian này chẳng có gì vĩnh cửu, bởi vì mọi sự đều có lúc, có thời, có hạn. (x. Gv 3:1-8) Ngay cả sự sống và sự tự do của chúng ta cũng vậy, tới một lúc nào đó sẽ không còn. Thánh Phaolô nói: “Tôi được phép làm mọi sự, nhưng không phải mọi sự đều có ích. Tôi được phép làm mọi sự, nhưng tôi sẽ không để sự gì làm chủ được tôi.” (1 Cr 6:12) Thật không dễ để có thể nhận thức và tự chủ được như vậy, chứng tỏ phải có sự giằng co rất mãnh liệt. Thánh nhân giải thích cụ thể: “Thức ăn dành cho bụng, và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ huỷ diệt cả cái này lẫn cái kia. Nhưng thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác. Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại. Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao? Tôi lại lấy phần thân thể của Đức Kitô mà làm phần thân thể của người kỹ nữ sao? Không đời nào!” (1 Cr 6:13-15)

Có lẽ chưa cần nói đến vấn đề tinh thần, bởi vì các vật chúng ta đang sở hữu cũng không thuộc về chúng ta mãi mãi: tiền bạc, nhà cửa, xe cộ,… Những thứ chúng ta gọi là “của mình,” tức là mình sở hữu nó, nhưng chúng có thể lại thuộc về người khác. Thật vậy, chúng ta sở hữu chúng vì chúng ta có quyền quản lý chúng, nhưng nó không thuộc quyền sở hữu của chúng ta vĩnh viễn. Phũ phàng, thất vọng, buồn bã. Nuối tiếc. Con người là thế. Và còn hơn thế nữa: Sự sống chúng ta đang có mà rồi cũng chẳng giữ được. Tất cả thuộc về Chúa – Đấng tạo dựng muôn loài, muôn vật.

Với “khái niệm” đó, Thánh Phaolô khuyên: “Ai đã kết hợp với Chúa thì nên một tinh thần với Người. Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình. Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.” (1 Cr 6:17-20) Thân xác đủ thứ nhơ nhớp, nói ra mà thấy ngượng miệng, nhưng chính cái nhơ nhớp hèn hạ đó lại được Thiên Chúa dùng làm Đền Thờ để Ngài ngự vào – thiêng liêng và cụ thể là Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta là “đền thờ” thì chúng ta phải nỗ lực thực thi Thánh Ý Ngài. Đó là điều tất yếu!

Tất cả đều NHỜ Ngài, VỚI Ngài và TRONG Ngài. Tất cả mọi sự đều phải được quy về Ngài. Ước gì mỗi chúng ta đều biết xác định rạch ròi: “Tuân theo thánh ý Ngài, con vui sướng hơn là được tiền rừng bạc bể.” (Tv 119:14) Tâm niệm được như vậy thì không còn phải quan ngại. An tâm và thanh thản tín thác vào Thiên Chúa.

Trình thuật Ga 1:35-42 cho biết rằng khi ông Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông và thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa.” Nghe vậy, hai môn đệ kia liền đi theo Đức Giêsu. Ngài quay lại, thấy các ông đi thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Người bảo họ: “Đến mà xem.” Họ đã đến xem chỗ Ngài ở, và ở lại với Ngài ngày hôm ấy. Chắc hẳn nơi ở của Chúa Giêsu giản dị lắm, khó nghèo lắm, nhưng họ vẫn theo Ngài. Cái “thấy” của họ là sự vĩ đại của Ngài nên họ sẵn sàng đi theo Ngài, vì họ đã thấy, đã hiểu, và thực sự tin.

Thời điểm lúc đó khoảng giờ thứ mười. Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simôn và cho biết đã gặp Đấng Mêsia. Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Nhìn ông Simôn, Đức Giêsu nói: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha.” Thánh sử Gioan giải thích rằng chữ Kêpha có nghĩa là Đá, đồng nghĩa với tên Phêrô.

Chỉ là dân chài lưới, nhưng hẳn là lão ngư Phêrô có ấn tượng lắm, chắc hẳn tướng mạo như ông phải có gì đó đặc biệt, vì Thầy Giêsu thấu suốt cả tâm địa của ông là người bộc trực, nóng tính nhưng tốt bụng, được việc. Và Ngài “chấm” ngay. Chắc chắn Chúa Giêsu biết trước ông sẽ nhát đảm khi gặp sự cố, tất nhiên tội chối Thầy lớn lắm, không chỉ chối một lần mà chối tới ba lần, nhưng cũng chỉ là “chuyện nhỏ” mà thôi. Chúa Giêsu luôn thương xót và như để cho ông có cơ hội “bù lỗ” bằng ba lần tuyên xưng: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết rõ con yêu mến Thầy!” (Ga 21:15-18) Từ đó, lão ngư Phêrô trở thành giáo hoàng tiên khởi của Giáo Hội lữ hành.

Kinh Thánh ch biết rằng chúng ta nghĩ tưởng gì thì Chúa đã thấu suốt từ xa, miệng lưỡi chúng ta chưa thốt nên lời thì Ngài đã am tường hết. (Tv 139:2 & 4) Chắc chắn không ai tránh khỏi Ngài, nhưng đặc biệt là Thiên Chúa nói với mỗi tín nhân: “Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về, đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi: ngươi là của riêng Ta!” (Is 43:1) Và Ngài xác định: “Hãy xem, Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta.” (Is 49:16)

Chúng ta đang có những cái khởi đầu: Năm mới Phụng Vụ, Mùa Thường Niên, Mùa Xuân. Những cái mới khiến con người lo lắng nhiều về tương lai, nhất là khi cuộc sống càng càng ngày càng khó khăn và trong cơn đại dịch còn gây quan ngại với biến chủng mới còn nguy hiểm hơn chủng cũ. Nhưng là tín nhân, chúng ta xin phó thác cho Thiên Chúa, vì Ngài đã “khắc dấu tình” bằng lời hứa: “Chính Ta biết các kế hoạch Ta định làm cho các ngươi, kế hoạch thịnh vượng, chứ không phải tai ương, để các ngươi có một tương lai và một niềm hy vọng.” (Gr 29:11) Và đây là dấu ấn đặc biệt nhất: “Chính Ta, chính Ta đây là Đức Chúa, ngoài Ta ra, chẳng có ai cứu độ.” (Is 43:11)

Nếu khước từ Thiên Chúa, chắc chắn chúng ta chẳng làm được gì – dù là điều đơn giản nhất, cụ thể là con người đang hoang mang trước “sức mạnh” của con virus li ti mang tên corona.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết đón nhận mọi điều trái ý hằng ngày như món quà yêu thương Ngài dành phần cho chúng con theo sự quan phòng và tiền định mầu nhiệm của Ngài, xin dạy chúng con biết những quyết định của Ngài (Tv 119:108) để chúng con thực hiện. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

ĐÍCH THỰC LÀ GẶP GỠ

Lm. Jos DĐH.

Triết lý nhà Phật cho rằng: nếu không nợ nhau, làm sao gặp gỡ ! Tiền nhân ta cũng góp thêm kinh nghiệm: ngàn chữ duyên không bằng một chữ nợ, tình lỡ rồi, trách gì nợ với duyên. Cụ Nguyễn Du thì nói: người đâu gặp gỡ làm chi, trăm năm biết có duyên gì hay không ? Ngổn ngang trăm mối bên lòng, nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình. Có phải những cặp đôi “trai tài gái sắc”, sẽ dệt nên tích truyện đẹp ? Phải chăng bậc hiền tài cho dẫu có âm thầm hay sôi nổi, đều đáng được hậu thế vinh danh, dù thời điểm đó khắc nghiệt nhiều ít, xã hội ghi nhận sự kiện anh hùng tạo thời thế không hề sai. Gặp bậc quân tử, gặp đại gia, gặp thần tượng, có thể ta gặt hái được kiến thức, được kinh nghiệm làm kinh tế, nhưng gặp được niềm vui, hạnh phúc, mới là trọng tâm, là cùng đích đời người ?

Cuộc gặp gỡ giữa thầy trò Gioan và Đức Giêsu giống như chuyện tình cờ, nhưng vẫn để lại trong hậu thế nhiều suy nghĩ về Đấng giầu lòng thương xót đang ở giữa nhân loại, Đấng không ngần ngại gọi mọi người là anh chị em, là môn đệ. Ca dao tục ngữ có câu: công anh bắt tép nuôi cò, cò ăn cò béo cò dò lên cây, quả thật là thê thảm, nếu người ta chỉ hiểu về Gioan theo cảm tính trần tục. Về phương diện siêu nhiên, Gioan biết và nói hết sức tự tin: “đây Chiên Thiên Chúa…”, ông tiền hô, sống tốt sứ mạng dọn đường, chỉ đường, dù tâm tư ông có vui buồn, nhớ thương, khi phải chia tay các học trò của ông. Cuộc gặp hôm đó, có chút thay đổi với những kẻ chài lưới, và từng bước các ông thật sự được lịch sử ghi tên các ông vào số các học trò “tầm cỡ” của Đức Giêsu.

Ngày hôm nay, chúng ta hiểu thế nào là gặp gỡ đích thực, chắc không phải là gặp đại gia, gặp nguyên thủ quốc gia, gặp bậc thần tiên, gặp người giầu kiến thức, ít ra thì nhiều người vẫn giữ quan điểm: giầu tiền giầu của thì lo, giầu tình giầu nghĩa mới cho là giầu. Với sự trân trọng, Đức Giêsu không đặt vấn đề lý lịch, không dò hỏi quá khứ, cũng chẳng quan tâm bạn giầu nghèo, kiến thức ít hay nhiều, Ngài mở lời: “các anh tìm gì” ? Cảm giác chung của người đọc, người nghe, về lần đầu gặp gỡ giữa Đức Giêsu và hai chàng trai vừa vô duyên vừa thiếu phúc đức, quá đơn giản và tẻ nhạt trong đối đáp: “Rabi”, “hãy đến mà xem” !

Đích thực là lần gặp gỡ để đời, đích thực họ tìm gặp được Vị Thầy “trên cả tuyệt vời”, đúng như lời giới thiệu và chứng thực của Vị tiền hô: “phần tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi giây dầy cho Người”. Chúng ta không được nghe, không được tường thuật rõ về cuộc trò chuyện, không biết các ông đã xem xét nơi ở của Thầy Giêsu thế nào, chỉ biết rằng họ đã sớm trở thành sứ giả việc loan báo tin vui, tin mừng. “Ông gặp Simon anh mình trước hết và nói với anh: chúng tôi đã gặp Đấng Mesia, nghĩa là Đấng Kitô, và ông dẫn anh mình đến gặp Đức Giêsu”. Ngoài xã hội họ nói: tiếng lành đồn xa, rồi lần tìm, gặp gỡ, có thể họ thành công. Trong Đức Giêsu, ta cần phải nghe được lời mời gọi: “bạn tìm gì”, và hãy mau đáp trả ân tình đó, “hãy đến mà xem”, rồi phải qua thời gian biến đổi, mới tới hạnh phúc.

Sinh ra làm người, dù có địa vị sang hèn, dù mức độ hiểu biết giới hạn, Đức Giêsu vẫn cho chúng ta cơ hội để gặp, để nghe, để quyết tâm “đến mà xem”, để hồn an xác mạnh và ta có thể nói: “đích thực là gặp gỡ”. Dù sao thì sống ở đời: ta biết xấu hổ trước mọi người là một cảm xúc tốt, nhưng tốt hơn hết là biết xấu hổ trước lương tâm của mình. Dù sao đi nữa, biết tìm gặp và đến với Thầy Giêsu đã là tốt rồi, nhưng ta không để Ngài sửa chữa tâm tính, không chấp nhận để Ngài biến đổi, hẳn không ai công nhận ta “đã gặp Thầy Giêsu”. Đích thực là gặp gỡ, hẳn sẽ còn nhắc nhớ chúng ta về thông điệp của Đức Giêsu: hãy cầu nguyện, hãy đến mà xem, hầu ta biết chọn lựa và sống tốt trước bổn phận làm người và làm con Chúa.

Ngày hôm nay, người ta vẫn đưa ra những lập luận rất kêu: quyết đoán là tính cách của những người phụ nam phụ nữ năng động, bởi vì quyết định nào cũng quý hơn là người không dám quyết định bất cứ việc gì, dù là nhỏ bé. Ngày hôm nay, nhiều người đã cầu nguyện, đã tin và đã hiểu: tình yêu nơi Đức Giêsu là tình yêu không tính toán, Ngài vẫn đang gọi các nam thanh nữ tú, người già người trẻ, không phân biệt bằng cấp sang hèn, cơ hội làm vườn nho ở trong tay mỗi người. Tình yêu mà người ta cho đi, hiến dâng công sức tiền của, chính là tình hiệp thông với Đức Giêsu là Thầy, là Chúa, Ngài sẽ dẫn dường chỉ lối ta đi cùng tận của niềm vui và bình an. Nếu ta thành công, nếu ta chiến thắng được cái tôi của mình, ta không cần giải thích, nếu đích thực ta gặp Thầy Giêsu, ta cũng không cần phải thanh minh hay tự cao tự đại gì nữa, vì Thầy sẽ biến đổi tâm tính của ta nên xứng hợp với tình yêu của Ngài. Amen.

Về mục lục

CÔNG TRÌNH VÌ CHÚA HAY VÌ CON?

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Một giáo sư tại đại học đã ra một câu hỏi trắc nghiệm cho 37 học sinh với câu hỏi:
Ngày lễ giáng sinh là ngày gì?

Lần lượt được các em trả lời là ngày đi chơi, là ngày đi xem hang đá, xem cây thông, xem đèn sao lấp lánh, nhưng không một em nào nói đúng được trọng tâm ngày lễ giáng sinh. Cuối cùng vị giáo sư đó nói: ngày lễ giáng sinh là ngày Chúa sinh ra đời và ở cùng chúng ta.

Dường như ngày lễ Chúa giáng sinh đã bị chúng ta giản lượt thành lễ “giáng sinh” không có Chúa. Ở các con phố hay công viên người ta làm những cây thông thật đẹp để trang trí và chụp hình. Ở những quán ăn hay quán Cà phê người ta quấn dây đèn và trang trí thêm dây thông để tạo bàu khí ấm cùng cho mùa đông tuyết rơi.

Ở các nhà thờ ngày xưa người ta làm các hang đá thật lớn, thật đẹp để mọi người đi xem hang đá. Có khi Chúa thật nhỏ nhưng hang đá thì thật hoành tránh. . . Dần dần càng ngày với tâm lý “Con gà tức nhau tiếng gáy” là sự đua đòi, làm để thể hiện sự tài năng và giầu có của mình. Những năm gần đây người ta lại đua nhau làm ngôi sao chổi với lập trình cả hàng ngàn kiểu chạy lập lèo xanh đỏ. Xứ sau luôn phải làm to và siêu sao hơn xứ trước.
Và hôm nay thì sự biến thế đi quá xa khi nhiều xứ đạo bỏ hàng trăm triệu để đầu tư cho những ngôi sao chổi lập lèo, thậm chí hàng tỉ đồng cho một cây thông vĩ đại, và biết bao cung đường với hang động cả 1 cây số chỉ mục đích giúp cho người trẻ có nơi vui chơi và check in chụp hình!

 “Con gà tức nhau tiếng gáy” hình như  đang đi vào trong những sinh hoạt tôn giáo để đánh bóng tên tuổi mình. Giáng sinh là dịp để mọi người ca tụng cha xứ này, giáo xứ nọ hoành tráng, còn ý nghĩa thực của ngày Con Thiên Chúa giáng trần đang lu mờ trước những công trình vĩ đại của con người. gay trên các thiệp giáng sinh chỉ thấy dòng chữ “Chúc mừng Giáng sinh”. Người đời cố tình bỏ chữ Chúa giáng sinh và người có đạo vẫn mừng giánng sinh không có Chúa. Thế nên, ngày Chúa giáng sinh ta chỉ thấy cái tôi của ai đó được tôn vinh còn Thiên Chúa cũng vẫn lạc loài ở một nơi nhỏ bé âm thầm ít ai biết đến?

Tôi nhớ có một bài hát sinh hoạt với lời nhắc như thế này: “Hãy quên đi cái tôi để mang Chúa đi vào đời”. Xem ra để mang Chúa vào đời phải quên đi cái tôi của riêng mình để sống cho Thiên Chúa. Xem ra để mang Chúa vào đời phải từ bỏ tham vọng của cái tôi ích kỷ để Chúa được lớn lên trong đời sống chứng nhân của chúng ta. Vì ở đời ai cũng thích danh vọng. Ai cũng mong cho mình được nổi tiếng, được trở thành ân nhân của xã hội. Những con người ham danh thường tìm vinh quang về mình. Thích được tán thưởng. Thích được biết ơn. Và  được khao danh giữa đời.

Thánh Gioan Baotixita đã sống quên đi cái tôi của mình. Ngài được nhiều người yêu mến và tôn vinh. Nhưng ngài đã không nhận phần vinh dự về mình, khi ngài nói: “Có Đấng đến sau tôi. Ngài cao trọng hơn tôi. Tôi không đáng cởi dây giầy cho Người”. Ngài đã từng mong ước cho đời sống chứng nhân của ngài luôn “nhỏ bé để Chúa được lớn lên”. Ngài chỉ muốn những việc ngài làm sẽ dẫn người khác đến với Chúa.

Phúc âm kể rằng khi đang ở cùng với các môn đệ thì bất chợt thấy Chúa Giê-su. Gioan đã giới thiệu cho các môn đệ về danh tính của Đấng Messia. Đây mới chính là Chiên Thiên Chúa. Đây mới xứng đáng là Thầy mà các ngươi cần đi theo. Ngài sẵn lòng để các môn đệ ra đi. Ngài biết phận mình chỉ là kẻ dọn đường cho Đấng Cứu Tinh nhân trần.

Ước gì ở đời có nhiều tâm hồn quảng đại sẵn lòng dấn thân làm chứng cho tin mừng của Chúa nhưng vẫn luôn khiêm tốn và ẩn mình đi. Dấn thân một cách vô vị lợi. Dấn thân một cách quên mình. Dấn thân để tôn vinh Thiên Chúa, chứ không tôn vinh bản thân. Dấn thân để làm vinh quang Thiên Chúa, chứ không làm thật to, thật hoàng tráng để mình được tâng bốc tán dương. Ước gì chúng ta luôn nhỏ bé, khiêm tốn, đừng đề cao mình quá đáng, đừng tìm cách tán dương mình mù quáng. Hãy để những công việc mình làm cho danh Chúa được cả sáng.

Lạy Chúa, ở đời ai cũng thích được tán dương, được khen thưởng, được đề cao giữa mọi người. Chính vì vậy mà cuộc đời không thiếu những thị phi, những bất công. . . Xin cho chúng con luôn khiêm tốn, bé nhỏ để Chúa được lớn lên trong cuộc đời chúng con. Amen

Về mục lục

GẶP GỠ VÀ Ở LẠI

Thiên San

Thiên Chúa gọi chúng ta qua nhiều cách. Có thể là qua trung gian người này, người kia, qua một biến cố hay qua Lời của Người. Ơn gọi của ta khởi sự từ tình yêu bao la và sự chọn lựa tự do của Thiên Chúa. Ơn gọi được nới đến ở đây không bó buộc trong ơn gọi linh mục hay tu sĩ nhưng được mở rộng ra trong ơn gọi làm con Chúa. Không phải bởi ta tài giỏi, nhiều ưu điểm nhưng đơn thuần chỉ là vì tình yêu nhưng không của Ngài. Hôm nay, Chúa Giêsu cũng mời gọi mỗi người chúng ta như xưa Ngài đã mời gọi hai môn đệ đi theo Ngài: “Đến mà xem” (Ga 1, 39). Chúng ta cũng hãy đến xem và ở lại với Người. Ngài sẵn sàng đón tiếp chúng ta.

Chúng ta rất dễ bị lầm tưởng rằng, chính chúng ta là người chủ động theo Chúa. Nhưng như lời Đức Giêsu khẳng định:“Không phải anh em đã chọn thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em (Ga 15, 16). Theo Chúa là một hành trình đáp trả lời mời gọi yêu thương Chúa dành cho ta. Theo Chúa là đến và ở lại với Người, để Người sai đi nơi nào Người muốn. Điều này thật sự quan trọng. Vì chỉ khi dành thời gian, đến và ở lại với Người, ta mới có kinh nghiệm, có được tương quan cá vị với Ngài. Cũng nhờ đó, ta nhận ra Chúa là ai trong cuộc đời ta và ta là ai trong cuộc đời này.

Tin Mừng kể lại, sau khi đến xem và ở lại với Người ngày hôm ấy, việc đầu tiên Anrê làm là tìm đến với Simon em mình: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (Ga 1, 41) và rồi dẫn em mình đến với Đức Giêsu. Cuộc đời của chúng ta cũng phải là những cuộc gặp gỡ không ngừng với “Đấng ấy”. Đức cha Lambert de la Motte, Đấng Sáng lập dòng Mến Thánh Giá có dạy: “Để gia tăng đời sống thiêng liêng, không có phương thế nào hữu hiệu bằng sự đối thoại thường xuyên với Thiên Chúa và lòng trung thành luôn mãi với tác động của ân sủng Ngài” (x. Tuyển tập bút tích của Đức cha Lambert de la Motte, Thư gửi cha Halle,20).

Để đối thoại với một ai đó, ta cần đi đến một cuộc gặp gỡ. Hội thánh thật sự khôn ngoan khi kêu mời con cái mình năng tham dự thánh lễ, cử hành Phụng vụ Lời Chúa, giờ kinh, đặc biệt là lãnh nhận các Bí tích. Đó là những phương thế giúp ta gặp gỡ Chúa mỗi ngày. Nhờ đó, ta có được tương quan cá vị với Ngài. Sở dĩ Anrê nói được rằng: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” là vì ông đã có kinh nghiệm gặp gỡ Ngài (Ga 1, 41). Nếu muốn có kinh nghiệm đó, chúng ta cần dành thời gian đến và ở lại bên Ngài. Mặt khác, chúng ta phải có sự khao khát gặp gỡ Ngài, nhận ra sự quan trọng của cuộc gặp gỡ. Nhưng thử hỏi, bấy lâu nay, ta đã và đang đến với Chúa bằng tâm tình, thái độ nào? Cuộc sống bận rộn thường dễ làm cho ta cảm thấy phiền, căng thẳng khi phải tham dự thánh lễ, giờ kinh, cầu nguyện. Có khi, ta dễ cảm thấy bị mất giờ vì những việc đó.

Thiên Chúa luôn sẵn sàng đón tiếp ta. Ta hãy đến và ở lại với Ngài qua Con Một yêu dấu là Đức Giêsu. Qua những cuộc gặp gỡ, Ngài sẽ cho ta biết phải làm gì, nói gì. Hơn hết, đến với Ngài cuộc sống của ta sẽ đổi mới, sẽ khác. Như Simon được Chúa đổi tên thành Phêrô, ta cũng sẽ được Ngài biến đổi nên tốt hơn nếu ta thật sự nghiêm túc và khao khát gặp gỡ Ngài. Ngay từ bây giờ, ta hãy dành ưu tiên cho việc gặp gỡ và ở lại với Ngài.

Về mục lục

LẠY CHÚA, XIN HÃY PHÁN VÌ CON ĐANG LẮNG TAI NGHE

Lm. Xuân Hy Vọng

Ngày kia, có một chị giáo dân rất năng động, đầy nhiệt huyết đến gặp Cha xứ sau giờ lễ sáng. Vừa thấy Cha, chị liền chào và đi ngay vào điều chị ấy muốn hỏi.
Thưa Cha, con cầu nguyện biết bao nhiêu lần, nhưng con chưa bao giờ cảm nghiệm được việc Chúa đáp lời con!?
Cha xứ mỉm cười, hỏi lại chị:
Thế chị cầu nguyện thế nào?
Dạ, sau khi cảm tạ Chúa, con đi ngay vào vấn đề…và cứ thế con cứ nói chuyện với Chúa thao thao bất tuyệt, hàn thuyên với Ngài như chưa bao giờ được hàn thuyên, đại loại là vậy đấy Cha!!!
Dĩ nhiên, câu chuyện trên chưa kết thúc, và có thể còn dài lê thê, vài trường thiên đoạn tình nữa cơ. Thế nhưng, thưa quý ông bà anh chị em, chúng ta có thể dừng câu chuyện ấy, và hướng nhìn về gương cầu nguyện, đáp lời và lắng nghe của tiên tri Sa-mu-en trong bài đọc I hôm nay. Sa-mu-en cảm nghiệm, nghe lời Chúa gọi ông ít nhất ba lần. Làm sao Sa-mu-en lại nghe được tiếng đáp lời của Chúa, mà chị giáo dân trẻ kia lại không thể nghe dù chỉ một lần Chúa nói chuyện với chị? Thiết nghĩ, đây cũng là câu trả lời của vị linh mục trong câu chuyện trên: chị nói chuyện với Chúa thao thao bất tuyệt, thế thì làm gì mà chị có thời giờ để nghe Chúa nói chuyện, mặc dù Chúa cũng tha thiết ước mong hàn thuyên đôi điều với chị!
Và khi nghe được tiếng Chúa mời gọi trong cung lòng sâu thẳm tâm hồn, Sa-mu-en đã không chút do dự, dâng toàn tâm trí của ông cho Chúa, và hướng cả con người mọn hèn của ông lên cùng Chúa, hầu chú tâm lắng nghe điều Chúa muốn nhắn gửi ông “Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe” (1Sm 3, 10). Kinh nghiệm từ đời sống cầu nguyện cho chúng ta biết rằng: Thiên Chúa nói chuyện và lắng nghe chúng ta, tương ứng với hành động của chúng ta: lắng nghe và nói chuyện với Người. Một cuộc đàm thoại thân tình, một cuộc hội ngộ, đối thoại của hai con tim!
Thứ đến, tiên tri Sa-mu-en cũng để lại cho ta gương sống tín thác khi cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa “Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang nghe” (1Sm 3, 10). Ông không van nài, xin Chúa hãy nói những điều mà ông muốn nghe, những điều làm thoả trí toại lòng của ông, nhưng ông xin Chúa cứ phán bảo những gì Chúa muốn thổ lộ và thực hiện nơi ông. Trong khi cầu nguyện, mỗi lúc tham dự Thánh lễ, lắng nghe bài giảng của vị chủ tế, chúng ta thường có xu hướng chỉ thích nghe những điều chúng ta muốn, những điều thuận với ý riêng, kế hoạch, đề án của chúng ta; mà chúng ta quên một điều tối quan trọng, đó là: Lời Chúa sống động như con dao hai lưỡi, đánh động tâm can chúng ta dẫu rằng chúng ta không muốn mở đôi tai, mở tâm hồn để đón nhận!!! Chỉ có tâm hồn luôn mở rộng, mới có thể vui tươi đón nhận bất cứ điều gì mà Chúa muốn nhắn bảo, gửi đến cho chúng ta. Và chỉ trong tâm tình tin tưởng và tín thác như vậy, chúng ta mới có thể ‘ở lại với Chúa’ (x. Ga 1, 39) như các môn đệ của Gio-an Tẩy Giả đã làm trong bài Tin Mừng ngày hôm nay. Được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giê-su ‘Đây Chiên Thiên Chúa’ (x. Ga 1, 36), các ông ước ao muốn biết, tận mắt chứng kiến chỗ của Chúa Giê-su, và sau khi đến xem thì các ông đã ở lại với Người. Thái độ, hành vi ‘ở lại’ trong Tin Mừng Gio-an có một ý nghĩa rất sâu sắc. Không chỉ đơn thuần là cử chỉ ở cùng, hàn thuyên, tâm sự với ai đó thôi, mà con ước ao kết hiệp mật thiết, trở nên đồng hình đồng dạng với người đó nữa. Trong trường hợp này, các môn đệ ước ao được trở nên một với Chúa Giê-su qua cách ăn ở, cách sống, lối suy nghĩ, cách đối nhân xử thế, v.v…Như thế, nơi các ông luôn chan chứa niềm vui bất tận vì cũng được Người ở cùng, và Chúa Cha đồng hành với các ông như câu khẳng định của Chúa Giê-su ‘ai ở trong Thầy, thì Thầy ở trong người ấy, và Cha Thầy cũng ở trong người ấy’ (x. Ga 14, 23). Điều này cũng xác thực nơi tiên tri Sa-mu-en. Sau khi, ông tín thác, dâng hiến hoàn toàn cho Chúa và lắng nghe làm theo Lời Người, thì ông ‘ở lại’ và ‘lớn lên’ trong Chúa “…Sa-mu-en ngày càng lớn lên. Chúa hằng ở cùng cậu, và cậu không để rơi mất lời nào của Chúa” (1Sm 3, 19).
Trong đời sống đức tin, và cuộc sống thường nhật của chúng ta, Thiên Chúa cũng ước mong ta chuyện trò với Người, và Ngài mong mỏi chúng ta biết lắng nghe Lời của Ngài, một sứ điệp tình yêu mang lại niềm hạnh phúc vô biên, và giải thoát chúng ta khỏi những lo toan, mệt nhọc chán chường của tâm thể thần lực con người; để rồi chúng ta có thể ‘ở lại trong Chúa’ và ‘ở lại với anh chị em’.
Lạy Chúa giàu lòng xót thương, xin đoái đến chúng con là những kẻ yếu đuối, dễ ngã xa, tách lìa khỏi tình yêu bao dung của Người và lòng yêu thương của anh chị em. Xin ban cho chúng con một trái tim luôn biết rộng mở, lắng nghe thấu đáo, chấp nhận hoàn toàn chương trình của Chúa trong cuộc đời của mỗi người chúng con.

Đáp tiếng Chúa gọi mời
Sa-mu-en cất lời:
“Xin Ngài hãy phán dạy,
Con chú tâm nghe Lời”
Khi con còn trong nôi
Nghe tiếng ru à ơi
Đến lúc con thành người
Vẫn nhớ Lời Hằng Sống. Amen!

Về mục lục

MỜI GỌI

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Thánh Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Chúa Giêsu với các môn đệ: Đây là Chiên Thiên Chúa. Lời giới thiệu thật đơn giản. Hai môn đệ đi theo Chúa. Họ muốn tìm hiểu về cuộc sống của Chúa. Chúa mời: Hãy đến mà xem. Chúng ta không biết họ đã xem thấy gì. Nơi Chúa cư ngụ có lẽ rất đơn sơ và nghèo khó. Họ ở lại với Chúa ngày hôm đó. Hai môn đệ đã gặp Chúa và nhận ra Ngài chính là Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô. Từ đó họ gọi nhau tìm đến với Chúa, Anrê mời Phêrô đến gặp Chúa. Khởi đầu Giáo Hội Chúa ở trần gian chỉ giản dị như thế. Chúa bắt đầu qui tụ các môn đệ. Ngài chọn và gọi các môn đệ từ những người ngư phủ. Ngư phủ không được học hỏi nhiều ở trường lớp. Họ không có địa vị chức quyền trong xã hội. Họ không phải là những người giầu có sang trọng. Chúa gọi họ là những người bình thường để thi hành những công việc phi thường.
Ơn gọi là một mầu nhiệm. Như xưa, ông Encana và bà Anna đã cầu xin cùng Chúa và Chúa đã ban cho hai ông bà được một người con tên là Samuel. Ông bà hứa sẽ dâng đứa con cho Chúa. Ngay khi tuổi còn trẻ, Samuel đã ở trong đền thờ Chúa, nơi đặt Hòm Bia Thiên Chúa. Chúa đã gọi Samuel trong giấc ngủ. Cậu đáp lại “Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe”. Samuel đã lắng nghe và đáp lời Chúa suốt cuộc đời. Ông sống trong ơn nghĩa của Chúa và thực thi các huấn lệnh của Ngài.
Chúa gọi Phaolô theo cách thức riêng biệt. Phaolô từng bách hại và đánh phá Giáo Hội, Chúa đã chọn ông trở thành tông đồ Dân Ngoại. Thư của Thánh Phaolô gởi cho tín hữu Côrintô đã nhắc nhở mọi Kitô hữu rằng thân xác của chúng ta là chi thể và là đền thờ của Chúa. Nhờ công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu trên thập giá, chúng ta được chung hưởng sự sống mới nơi Đức Kitô. Khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, mỗi người chúng ta được tháp nhập vào Nhiệm Thể của Chúa Kitô. Chúng ta trở nên chi thể của Đức Kitô được thông phần vào các chức vụ tư tế, tiên tri và vương đế đến cõi sống muôn đời. Thánh Phaolô dạy: Thân xác không phải vì dâm dật, những kẻ tà dâm thì phạm tội trong thân xác mình. Một đòi hỏi vượt thắng những khát vọng bản năng.
Chúng ta có thể suy tư về ơn gọi của chính mình. Chúa gọi mỗi người theo ơn gọi bậc sống riêng trong những hoàn cảnh khác nhau. Ơn gọi nào cũng là ơn gọi thánh. Nên thánh trong bậc gia đình. Nên thánh trong bậc độc thân. Nên thánh trong ơn gọi tu trì. Có những ơn gọi tu Dòng, giữ ba lời khấn: Khó nghèo, Khiết tịnh và Vâng lời. Có những ơn gọi hiến dâng trong bậc tu Triều phục vụ tha nhân nơi xứ đạo, cộng đồng. Có những ơn gọi hiến thánh tại thế trong đời sống truyền giáo. Mỗi người tự lắng nghe tiếng Chúa để đáp lời: Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng nghe. Biết lắng nghe là một khởi đầu tốt. Tiếng Chúa thì thầm qua mọi biến cố của cuộc đời. Cần có sự thinh lặng và tịnh tâm để nhận biết tiếng Chúa.
Lời thánh Phaolô gởi tín hữu Côrintô luôn nhắc nhở mỗi người chúng ta “Hãy tôn vinh Thiên Chúa trong thân xác chúng ta”, vì chúng ta đã được mua chuộc bằng giá rất lớn. Trong bất cứ ơn gọi nào, chúng ta đều phải cố gắng phấn đấu không ngừng. Chúng ta không thể cậy dựa vào sự hiểu biết khôn ngoan hay sức riêng mình, mà hãy luôn cậy trông vào ơn Chúa giúp vì “ Ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10,12). Đường theo Chúa còn dài và cuộc sống còn nhiều chông gai, chúng ta cần có những thời gian tĩnh lặng để lắng nghe tiếng Chúa. Lắng nghe lời Chúa qua Kinh Thánh, sự giảng dạy của Giáo hội, cầu nguyện, việc nhận lãnh các Bí Tích và qua những lời chỉ dạy khôn ngoan của các vị linh hướng.
Chúa mời gọi mỗi người: Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào (Is 55,1). Chúa ban ơn dồi dào cho chúng ta một cách nhưng không. Mỗi người đã lãnh nhận biết bao ơn lộc của Chúa. Xin cho nguồn ơn thánh của Chúa biến đổi tâm hồn chúng ta nên quảng đại và dám dấn thân làm nhân chứng cho Chúa trên mọi nẻo đường.

Về mục lục

 

GẶP CHÚA TRONG ĐỜI

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Đức Giáo Hoàng Bênêđitô đã đề nghị một định nghĩa về Đức Tin như sau: “Tin là cuộc gặp gỡ thân tình, cá vị với Chúa. Đây không phải là cuộc gặp gỡ với một sự vật hay một sự kiện, là cuộc gặp gỡ với một Đấng, một Ai đó, một Con Người đang hiện diện giữa chúng ta” (Thông điệp Thiên Chúa là Tình yêu, số 1). Cuộc gặp gỡ với Chúa được thực hiện bằng lời cầu nguyện và chuyên tâm lắng nghe Lời Chúa. Bởi khi cầu nguyện là chúng ta tâm sự với Chúa; khi nghe Lời Chúa là lúc Ngài nói với chúng ta. Cầu nguyện là mối tâm giao, là sự trao đổi thân mật, giãi bày tấm lòng trước nhan Chúa. Khi cầu nguyện, chúng ta mở con tim để lắng nghe Lời Chúa và sẵn sàng thưa với Chúa như cậu bé Samuel trong đền thờ Silô: “Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”. Nhờ cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa mà chúng ta được gặp Chúa trong đời, mặc dù còn nhiều ồn ào, bon chen và toan tính.
 
Gặp Chúa trong đời, đó cũng là mục đích của đời sống Kitô hữu. Cuộc gặp gỡ này còn được gọi là “đời sống nội tâm”, tức là sự gắn bó giữa tâm hồn ta với Chúa. Sự gắn bó này vừa thân tình, vừa bền vững và cá biệt, tức là riêng tư chứ không phải chạy theo phong trào. Những ai nhận mình là tín hữu, mà không gặp gỡ Chúa trong đời, thì đức tin của họ còn mơ hồ và chỉ dừng lại ở lý thuyết. Tác giả Tin Mừng thứ bốn kể lại cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa hai môn đệ và Chúa Giêsu. Các ông đã ở lại với Chúa ngày hôm ấy. Cuộc gặp gỡ đầu tiên ấy vừa thân tình vừa sâu lắng, đến nỗi hôm sau, các ông có thể khẳng định với người thân của mình: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a“. Chắc hẳn trong cuộc gặp gỡ thân tình này, Chúa Giêsu đã mặc khải cho hai ông nhiều điều quan trọng, giúp các ông mở trí để nhận ra Người chính là Đấng muôn dân mong đợi. Các ông đã hoàn toàn “tâm phục, khẩu phục”, để rồi sau này, các ông trung thành theo Chúa, chấp nhận sống chết với Thày mình. Cuộc gặp gỡ ấy đã tạo nên nơi các ông sự gắn bó, lòng trung thành và tâm tình mến yêu. Nếu chúng ta đọc tiếp Tin Mừng Thánh Gioan, chúng ta sẽ thấy một chuỗi những chứng từ mang tính “dây chuyền”, có nghĩa là những ai đã gặp Chúa Giêsu, đều thuyết phục người thân của mình để họ tin Chúa. Anrê, một trong hai môn đệ đầu tiên đến gặp Chúa Giêsu, đã về kể lại cho anh mình là Phêrô. Philiphê, sau khi gặp Chúa, đã về kể lại cho Nathanaen và dẫn ông tới gặp Chúa. Hai mươi thế kỷ đã qua, Giáo Hội của Chúa được lan rộng đến mọi miền thế giới, cũng là nhờ những Kitô hữu đã nhiệt thành “kể lại” cho mọi người về kinh nghiệm gặp gỡ Chúa. Họ cũng chia sẻ niềm hạnh phúc của người tín hữu khi đặt trọn niềm tin nơi Ngài.
 
Khẳng định “đã gặp gỡ Chúa” là một cảm nghiệm sâu xa về sự hiện diện của Người. Đó cũng là kinh nghiệm của một đức tin chắn chắn, đến từ tâm tình lắng nghe lời giáo huấn của Chúa. “Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe!” là tâm tình của cậu bé Samuen trong đền thờ tại Silô (Bài đọc I). Tác giả của cuốn sách mang tên ông đã kể lại với chúng ta: “Samuen lớn lên. Đức Chúa ở với cậu và cậu không để một lời nào của Người ra vô hiệu”. Nhờ việc sẵn sàng thực thi những lời Chúa dạy, sau này, Samuen trở thành một vị ngôn sứ trung thành và là cố vấn cho vua Saun, vị vua đầu tiên trong lịch sử Israen. 
 
Chúa nhật thứ hai của mùa Thường niên, Phụng vụ kêu gọi chúng ta hãy gặp gỡ Chúa Giêsu để nhận ra nơi Người là Đấng Cứu độ trần gian. Làm sao để mỗi người tín hữu  có thể khẳng định với thế giới hôm nay rằng: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a”?. Lời khẳng định ấy không chỉ là ngôn từ, nhưng còn là lối sống thấm đượm tinh thần Phúc âm. Hôm nay, nhân loại vẫn đang khao khát Đấng Mê-si-a. Người là Thiên Chúa, Đấng có thể lấp đầy những khát vọng sâu xa của con người. Thực ra, Người đang hiện diện vô hình và thiêng liêng giữa chúng ta. Nếu mỗi người Kitô hữu đều có thể khẳng định: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” như hai môn đệ Anrê và Gioan, thì xã hội hôm nay sẽ có rất nhiều người tin Chúa. Điều đáng tiếc là nhiều người mang danh Kitô hữu mà sống trái ngược với danh xưng ấy. Vì thế, họ làm cho hình ảnh Giáo Hội của Chúa bị biến dạng và tạo cớ cho những người không cùng tôn giáo với chúng ta hiểu sai về dung mạo của Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và là Cha nhân hậu.
 
Muốn khẳng định Chúa hiện diện trong cuộc đời, điều quan trọng đầu tiên là thánh hóa bản thân. Thánh Phaolô đã đưa ra những lời khuyên rất thiết thực qua lời nhắn nhủ các tín hữu Côrinhtô: Thân xác chúng ta là Đền thờ của Chúa Thánh Thần. Anh em hãy tôn vinh Chúa nơi thân xác anh em. Thánh nhân khuyên mọi người hãy tránh xa những hành động dâm dật ô uế, để cuộc đời và tâm hồn được thanh thản (x.Bài đọc II). Hành trình nên thánh khởi đi từ những cố gắng cụ thể, ngay chính trong thân xác mình, để rồi chính con người cá nhân của chúng ta được biến đổi, nên giống Đức Giêsu, Đấng vô tội, tinh tuyền và thánh thiện.
 
Gặp Chúa trong đời, đó là đích điểm của đời sống Kitô hữu. Đó cũng là kết quả của những cố gắng hy sinh. Bởi lẽ, Chúa chỉ tỏ mình cho những ai có tâm hồn trong sạch và một trái tim rộng mở chân thành. Được gặp Chúa, tâm hồn chúng ta sẽ bình an, cuộc đời này sẽ chan chứa niềm vui và hạnh phúc, Nước Trời sẽ khởi đầu từ đây.

Về mục lục

.

HÀNH TRÌNH ƠN GỌI

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Các bài sách thánh hôm nay đều nói về ơn gọi. Ơn gọi của Samuel thật lạ lùng. Còn ơn gọi của Anrê và Gioan diễn ra nhẹ nhàng hơn. Tuy nhiên, dù mạnh mẽ lạ lùng hay nhẹ nhàng bình thường, hành trình ơn gọi nào cũng trải qua bốn giai đoạn.

1- Giai đoạn thứ nhất: Chúa kêu gọi.

Việc Chúa kêu gọi không xảy ra tức khắc trong một lần, nhưng diễn tiến tuần tự, chậm rãi với mức độ tăng dần, tuỳ sự đón nhận của người nghe.

Thoạt tiên là một lời kêu gọi nhẹ nhàng qua một thiên hướng, một ước nguyện của người thân, một gương mẫu, một thần tượng. Ở Samuel, đó là ước nguyện của bà mẹ muốn tạ ơn Chúa. Ở Anrê và Gioan, đó là thiên hướng đi tìm lý tưởng.

Sau đó, Chúa có thể dùng các trung gian dẫn ta đến với Chúa. Trong trường hợp Samuel, người trung gian là thày cả Hêli. Còn trong trường hợp Anrê và Gioan, thánh Gioan Baotixita đã làm trung gian đưa hai môn đệ đến với Đức Giêsu.

2- Giai đoạn hai: Ta đáp trả.

Nếu ta trung thành đáp trả mỗi khi nghe tiếng Chúa kêu gọi, Chúa sẽ tiếp tục gọi ta đi vào những đoạn đường mới, mỗi lúc một khó khăn hơn. Tiếng Chúa mời gọi mỗi lúc một mãnh liệt hơn, đòi hỏi ta phải trả lời mỗi lúc một dứt khoát hơn. Cho đến một thời điểm quyết định, Chúa sẽ đưa ra lời mời gọi cuối cùng đòi ta trọn vẹn dấn thân lên đường theo Chúa. Với Samuel, việc Chúa ba lần cất tiếng gọi chứng tỏ Chúa tha thiết muốn tuyển chọn ông. Với Anrê và Gioan, việc Đức Giêsu mời hai ông đến chỗ Ngài ở đã khiến hai ông phải dứt khoát với quá khứ để bắt đầu một giai đoạn mới.

3- Giai đoạn ba: Sống thân mật với Chúa.

Tuyệt đỉnh của ơn gọi không phải là làm việc cho Chúa, nhưng là sống thân mật với Chúa. Chúa không kêu gọi ta theo một chủ thuyết nhưng kêu gọi ta theo Chúa. Ta đến với Chúa không phải để học những bài học lý thuyết nhưng để tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống của Chúa là sự sống thần linh nâng ta lên hưởng nếm sự ngọt ngào của tình Cha – Con thắm thiết. Sự sống của Chúa là tình yêu đưa ta vào hạnh phúc của người biết mình được yêu thương.

Trong tình yêu Thiên Chúa, tâm hồn ta được gột rửa sạch mọi tội lỗi.

Trong tình yêu Thiên Chúa, trái tim ta trở nên dịu dàng, hiền hoà rộng mở để tha thứ và đón nhận mọi người.

Hạnh phúc sống trong tình yêu Thiên Chúa lớn lao đến độ biến đổi toàn bộ cuộc đời ta. Ai đã một lần nếm cảm sẽ không còn mơ ước điều gì khác nữa.

Sau khi được tiếp xúc thân mật với Chúa, trọn cuộc đời Samuel hoàn toàn dâng hiến cho Chúa. Sau một buổi chiều thân mật sống với Đức Giêsu, hai tông đồ Anrê và Gioan gắn bó với Người, cho đến chết vì Người.

4- Giai đoạn bốn: Làm chứng cho tình yêu Chúa.

Cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa rồi, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là ra đi làm chứng về tình yêu đó. Giống như dòng suối sung mãn tràn xuống thành thác, tâm hồn tràn đầy tình yêu sẽ cất lên thành lời ca tụng, giới thiệu tình yêu Thiên Chúa cho mọi người.

Sau khi gặp Đức Giêsu, Anrê vội vã đi tìm em là Phêrô để dẫn đến giới thiệu với Người. Từ đó, Anrê theo Đức Giêsu cho đến cuối đời. Ông đã đem chính mạng sống làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Ông đã đổ máu ra để chứng thực tình yêu ấy. Ông dám khước từ cuộc sống trần gian vì ông đã biết đến hạnh phúc đích thực trong tình yêu Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi đến sống thân mật với Người trong tình Cha-Con thắm thiết.

Lời Chúa vang lên khi ta chịu phép Rửa tội.

Lời Chúa tiếp tục mời gọi ta khi ta lãnh nhận các bí tích, khi ta nghe sách thánh, khi ta học giáo lý, khi ta tĩnh tâm, nghe giảng.

Lời Chúa lúc thì nhẹ nhàng thoang thoảng, khi thì mãnh liệt thiết tha. Nhiều lúc ta tưởng đến nhà thờ vào ngày Chủ nhật là đã đáp lại tiếng Chúa mời gọi, nhưng không phải. Chúa không mời gọi ta chỉ đi lễ như trả nợ. Chúa muốn ta thực sự gặp gỡ Người, tiếp xúc thân mật với Người, sống thân thiết với Người trong tình con thảo.

Hành trình đức tin của người Kitô hữu là một hành trình đi về với Chúa. Sau bao nhiêu năm giữ đạo, tôi đã đi đến đâu? Tôi đã thực sự gặp được Chúa chưa? Tôi đã tiến đến gần Chúa chưa? Hay là tôi mới ở khởi điểm? Hãy đến, Chúa đang mời gọi ta. Chúa đang chờ đợi ta. Chúa đang mở rộng vòng tay, mở rộng trái tim để đón ta đến sống trong tình yêu của Người. Tình yêu ấy là hạnh phúc muôn đời của ta.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Có khi nào bạn nghe thấy tiếng Chúa mời gọi không?

2- Bạn đã quảng đại đáp lại tiếng Chúa mời gọi chưa?

3- Có bao giờ bạn cảm nghiệm được tình yêu của Chúa chưa?

Về mục lục

.

TRUYỀN GIÁO TRONG THẾ GIỚI ẢO

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền 

Ngày nay không ai phủ nhận sự tích cực của công nghệ thông tin. Con người ngày nay đang tận dụng rất nhiều về công nghệ để giải quyết công việc hằng ngày. Với thời đại hôm nay chỉ cần ngồi một chỗ là có thể làm được mọi thứ từ làm việc đến mua sắm, học tập, giải trí… Đặc biệt là công nghệ đã giúp con người giải quyết tốt các vấn đề việc làm nhờ sự phát triển đa phương tiện.

Tuy nhiên mặt tiêu cực của công nghệ thông tin cũng đưa con người vào một lối sống mới mà người ta gọi là “sống ảo”.Sống ảo là sống không thực với hiện tại, luôn có những suy nghĩ, ý tưởng dựa vào những gì xa vời mà internet mang lại. Với thế giới ảo này người ta cũng dễ phạm tội từ việc bêu xấu, đả kích nhau, lừa tiền, lừa tình . . . dẫn đến phạm pháp giết người cướp của tràn lan.

Theo số lượng thống kê mới đây nhất của Facebook thì Việt Nam có khoảng 30 triệu người dùng thường xuyên trên Facebook, và con số này còn tăng trưởng mỗi ngày. Như vậy với dân số hơn 90 triệu dân thì 1/3 dân số Việt Nam biết đến mạng xã hội Facebook.

Dù facebook có mặt tốt mặt xấu nhưng thực tế trong thế giới ảo đó hiện đang có số lượng người tham gia rất nhiều. Là người ky-tô hữu chúng ta có bao giờ nghĩ mình phải là gạch nối cho những con người trong thế giới đó biết Thiên Chúa, hiểu Thiên Chúa và sống gắn bó với Thiên Chúa hay không? 

Thiết nghĩ đây là cánh đồng truyền mà Chúa đang nhắc nhở chúng ta nếu không nhanh tay gặt hái thì chim trời sẽ tha đi hết. Nếu người ky-tô hữu chúng ta không tận dụng những công nghệ hiện đại để tiếp cận với cánh đồng truyền giáo mênh mông này thì ma qủy sẽ cướp đi biết bao linh hồn. Ngày xưa các nhà truyền giáo phải lặn lội cả hàng tháng trời để tới những vùng sâu vùng xa mong tiếp cận với những người chưa biết Chúa để nói về Chúa cho họ. Ngày nay chúng ta chỉ cần một nút nhấn có thể gởi một thông điệp về Chúa cho hàng ngàn con người trong một giây. Tại sao chúng ta không tận dụng cơ hội giới thiệu Chúa cho anh em đang khi chúng ta có khả năng để giới thiệu Chúa?

Thánh Gioan Tẩy Giả đã luôn tận dùng mọi thời cơ để giới thiệu Đấng Cứu Thế đến cho mọi người. Gioan đã giới thiệu Chúa cho hàng ngàn người đang đứng bên ông nơi hoang địa hay nơi sông Giordan. Ông tận dụng thời cơ để nói về Chúa cho các môn đệ của mình, cho bà con láng giềng của mình, và cho cả dân tộc của ông. 

Thiên Chúa là Đấng quyền năng, Ngài có thể tự tỏ mình ra cho nhân loại. Ngài không cần sự trợ giúp của con người. Thế nhưng, Ngài đã không tự biểu dương mình. Ngài cần người giới thiệu. Ngài muốn con người là nhịp cầu cho Ngài đến với nhân loại. Nếu con người cảm nghiệm tình yêu ngọt ngào từ Ngài thì hãy giới thiệu tình yêu ấy cho nhiều người khác. Nếu con người cảm thấy tình yêu quan phòng kỳ diệu của Ngài thì hãy tuyên xưng Ngài cho thế trần. Đây là bổn phận của lòng biết ơn. Đây là cách chúng ta tỏ bày lòng biết ơn của mình với Đấng tạo thành khi đã nhận ơn của Ngài.

Ước gì chúng ta biết noi gương bắt chước thánh Gioan luôn nói về Chúa trong mọi hoàn cảnh. Trong hoang địa hay đường phố. Nơi người thân hay người xa lạ. Hãy tận dụng mọi hoàn cảnh Chúa ban để làm chứng nhân cho tình yêu của Chúa. Nhất là trong thời đại công nghệ thông tin khi mà một lượng người rất lớn đang sống ảo thì một sứ điệp về Chúa rất cần được chúng ta loan tải trên trang cá nhân của chúng ta. Một hành vi tưởng chừng như nhỏ nhoi nhưng chúng ta tin rằng Chúa sẽ làm điều kỳ diệu qua những nỗ lực của chúng ta. Một hành vi tưởng như dã tràng xe cát biển đông nhưng với quyền năng Chúa sẽ cứu rỗi được nhiều linh hồn. Điều quan yếu là ta đã biết tận dụng phương tiện truyền thông hiện đại để nói về Chúa cho con người hôm nay. Amen

Về mục lục

.

SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO CỦA CHÚNG TA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Tin Mừng Lễ Hiển Linh, Lễ của Ánh Sáng cho chúng ta biết, Ba Nhà Đạo Sĩ đã nhìn thấy “ngôi sao của Người” (Mt 2, 2), ngôi sao vừa “ló dạng” (c. 2,9), Ngôi sao Giêsu. Mùa Thường Niên mới bắt đầu, Gioan Tẩy Giả thấy sự huy hoàng rực rỡ của Ánh sao, hay của Giao Ước mới đang ló rạng thì giới thiệu cho môn sinh mình rằng : “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1, 35). Chúng ta cùng nhau suy niệm phương cách Gioan giúp các môn đệ của ông nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, từ đó rút ra bài học về ơn gọi truyền giáo của mình.

Hai môn đệ Gioan đến hỏi Chúa Giêsu : “Thưa Thầy, Thầy có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn đợi ai khác?” Đấng phải đến, theo niềm tin của người Dothái là chính Đấng Cứu Thế, Đấng họ hằng mong đợi theo ngôn sứ Malakia tiên báo: “Hãy dọn đường Chúa” (Ml 3,1).

Gioan được sai đến để làm Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế. Ông đã nhận ra Người bên giòng sông Giorđan, đã giới thiệu cho dân chúng rằng Người là : “Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga 1,29).

Khi sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu, hẳn Gioan không phải là người không biết đến vai trò và sứ vụ của Chúa Giêsu, bởi vì khi ngài còn được tự do, chưa phải ngồi tù, chính Gioan nhận ra Chúa Giêsu ngay từ khi còn trong lòng mẹ, bằng chứng là Gioan đã nhảy mừng lên vì vui sướng khi được Đức Maria đến thăm mẹ mình là bà Elisabét. Gioan cũng thấy cùng với Đức Giêsu, Chúa Thánh Thần xuất hiện dưới hình chim bồ câu đậu xuống trên trên vai Chúa Giêsu và có tiếng từ trời vọng xuống để làm chứng cho Đấng từ trời mà đến :”Con là Con yêu dấu của Cha ; Con đẹp lòng Cha” (Mc 1,11); và cũng chính ông đã loan báo về Đấng đến sau mình : “Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần (Mc 1,8). Vì uy quyền và chức vụ của Đấng ấy là Con Đấng Tối Cao, khiến ông không đáng cúi xuống cởi giây dày cho Người; sau cùng, Gioan tuyên bố : “Đây là chiên Thiên Chúa“.

Đây là chiên Thiên Chúa“, lời này được cất lên từ miệng ông Gioan khi thấy Chúa Giêsu từ sông Giorđan bước lên : Chúa Giêsu đi ngang qua, lúc ấy chừng 4 giờ chiều. Gioan và ông Anrê, hai thanh niên con nhà chài lưới, nghe lời giới thiệu của thầy mình liền cất bước đi theo Chúa Giêsu, “Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy” (Ga 1,39). Người quay lại hỏi hai thanh niên, “Các ngươi tìm gì?” (Ga 1,38). Họ ngạc nhiên trước câu hỏi của Chúa, họ trả lời: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Người bảo họ, “Hãy đến, và các ngươi sẽ thấy” (Ga 1,39). Cả hai cùng đến, và họ đã trở thành các môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Đúng là gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình, gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh. Chưa dừng lại ở đó, Anrê thấy mình biến đổi, và được đầy tràn hạnh phúc, ông đã chạy về tìm người anh kể cho anh biết, “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêssia” (Ga 1,41). Và ông đưa anh mình đến với Chúa Giêsu. “Chúa Chúa Giêsu nhìn Simon và nói : “Ngươi là Simon, con ông Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Đá” (Ga 1,42).

Phêrô! Simon, là Đá ư? Không ai trong số họ được chuẩn bị để hiểu những lời này. Họ không biết rằng Chúa Giêsu đã đến để xây dựng Giáo hội của Chúa bằng những viên đá sống động. Người đã chọn hai môn đệ đầu tiên là Gioan và Anrê, và đặt Simon là đá để xây Hội Thánh của Người.

Trong lịch sử cứu độ, thánh Gioan Baotixita được xem như là nhân vật lớn cuối cùng của thời Cựu Ước và là nhân vật đầu tiên của Tân Ước. Ông là nhịp cầu nối giữa Giao ước cũ với Giao ước mới, là đèn đối với Mặt Trời, tiếng nói với Lời, phù rể đối với Chàng Rể, người cao trọng nhất trong số những người sinh bởi đàn bà với Trưởng Tử mọi loài thọ sinh, người nhảy mừng trong dạ mẹ với Đấng được thờ lạy ngay khi còn trong lòng mẹ, người tiền hô hiện tại và tương lai với Đấng vừa xuất hiện và sẽ xuất hiện, ông có sứ mệnh rất quan trọng là giới thiệu Đức Giêsu cho dân chúng.

Như Gioan trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta phải làm gì để thi hành ơn gọi truyền giáo của mình? Bằng lời rao giảng chăng? Chưa đủ, bằng đời sống đạo, đời sống bác ái chăng? Hơn thế nữa, trong thế giới hôm nay, chúng ta cần đưa mọi người đến với Chúa Giêsu, để họ nhận biết Chúa là Đấng quyền năng, giàu lòng thương xót, nhân từ, hết mực thứ và là Đấng Cứu Độ duy nhất. Người đến để mang tình yêu, sự sống và hạnh phúc cho con người. Từ đó nẩy sinh đức tin trong mọi người, biến họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu.

Trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta noi gương hai môn đệ của Gioan, những người đầu tiên đã theo Chúa và ở lại với Chúa, đi vào trong tương quan thân tình với Chúa để Chúa trực tiếp hướng dẫn, sau này làm chứng cho Chúa.

Noi gương Gioan Tẩy Giả, chúng ta sẵn sàng lui vào hậu trường để Chúa Giêsu được lớn lên và can đảm giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác để họ tin theo và thi hành ơn gọi truyền giáo của mình. Amen.

Về mục lục

.

ĐI THEO CHÚA

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Chúa Giêsu khi kêu gọi các môn đệ và thiết lập Nhóm Mười hai, Ngài luôn có cái nhìn của Ngài. Tin Mừng cho hay Chúa Giêsu đã cầu nguyện lâu giờ, Ngài đã trò chuyện thân mật với Thiên Chúa Cha và rồi Ngài tuyển chọn các môn đệ đầu tiên.

Gioan Tẩy Giả đã nhận ra Chúa, gặp gỡ Chúa. Tuy nhiên, Gioan đã không ích kỷ, không giữ riêng cho mình, Ngài đã chỉ cho các môn đệ của mình và nhiều người khác biết Đức Giêsu Kitô. Gioan Tẩy Giả khi giới thiệu Đức Giêsu Kitô cho Anrê, chính ông này lại giới thiệu cho Simon là anh của mình và họ đều đi theo Chúa Giêsu. Xem ra mọi cuộc gặp gỡ của những người được Chúa chọn cũng xẩy ra như vậy. Trở về thời Cựu Ước, chúng ta cũng nhận ra Thiên Chúa gọi ai là hoàn toàn do ý của Ngài.Thiên Chúa gọi Abraham, Môsê, Isaia, Samuel là do lòng thương xót của Ngài.Vâng, mỗi cuộc gặp gỡ trong cuộc sống là dấu chỉ của Tin Mừng, mỗi cuộc gặp gỡ hằng ngày là lời mời gặp chính Đức Giêsu. Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu gặp gỡ Chúa trong những công việc nhỏ của cuộc sống, Ngài thấy Chúa nơi chị em, nơi sự khó chịu mà chị em gây ra cho mình. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô gặp Chúa nơi các bạn trẻ và ngược lại các bạn trẻ nhận ra Chúa nơi Ngài. Mẹ Têrêsa Calcutta nhận ra Chúa nơi những người nghèo, nơi những người hấp hối, nơi những cô gái lỡ lầm vv…

Các môn đệ là những người đáp trả lại lời mời gọi của Chúa Giêsu.Do đó, khi được giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa, hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả đã đến xem nơi Đức Giêsu ở, họ đã cảm nghiệm Đấng là Con Chiên Thiên Chúa là thế nào! Các môn đệ đã chứng kiến cách sống, sự hãm mình, gương sáng, những lời nói vàng ngọc chân thực của Chúa và thấy những phép lạ Chúa làm cho tha nhân. Các Ngài đã cảm nghiệm sâu xa Lòng Thương Xót của Chúa đối với mọi lớp dân nghèo. Chúa đã tiếp xức với mọi thành phần xã hội, Ngài cho các môn đệ hiểu thấu tình thương của Ngài, qua đó, Ngài dạy các môn đệ về Tình thương, Lòng Thương Xót của Ngài đối với con người. Các môn đệ đã đi vào mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu, Thầy của mình. Càng sống các môn đệ càng nhận ra sự nhân từ, lòng quảng đại của Thầy Giêsu :” Đến để chiên được sống và sống dồi dào “ ( Ga 10, 10 ).Mối tương giao thân tình, mật thiết giữa Chúa Giêsu và các môn đệ càng làm cho các Ngài nhận ra Con người của Chúa Giêsu:” Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống “. Chính tình yêu vô vị lợi, tình yêu tự hiến, nhưng không đã nối kết Chúa Giêsu với các môn đệ.

Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã viết :” Khi đôi mắt của Chúa đã nhìn ai, người đó không thể nào cưỡng lại được “.Câu nói thật cao sâu, thâm thúy. Bởi vì, khi Chúa đã chiếm đoạt ai người ấy không thể rời Ngài được. Thánh nữ đã gặp Chúa ở mọi người, ở mọi công việc dù nhỏ bé nhất vì Thánh nhân đã sống sâu thẳm mối tình cao sâu với Chúa. Còn thánh Augustinô một Vị thánh đã cảm nghiệm thế nào về tình Chúa thương ngài, nên ngài đã thốt lên :” Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con và lòng con khắc khoải cho tới khi tâm hồn con được an nghỉ trong Chúa”. Thánh Augustinô quả thật đã sống cảm nghiệm tình thương cao vời của Chúa và luôn muốn sống trong tình yêu của Ngài.

Mỗi Kitô đều được mời gọi sống với Chúa, ở lại với Ngài. Sống và ở lại với Chúa có nghĩa là được sống thân tình, sống trong sự kết hợp thâm sâu với Ngài. Sống mật thiết với Chúa, người Kitô hữu và chúng ta được chia sẻ sự sống thần linh của Ngài. Tuy nhiên, muốn được sống trong sự thân mật, chí tình với Chúa, chúng ta và mọi người phải lắng nghe lời của Chúa và thực hành những điều Ngài truyền cho chúng ta.

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta chia sẻ đức tin của chúng ta cho những người khác.Tại sao chúng ta được Chúa cho chúng ta ơn nhận biết Ngài, tin và đi theo, ở lại với Ngài. Chúng ta đã tin vào Ngài, tại sao chung ta không mau mắn chia sẻ đức tin chúng ta đang thụ đắc cho những người khác để họ cũng nhận ra Chúa Giêsu , tin và đi theo Ngài.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy dạy chúng con và hãy cho chúng con biết ở trên trái đất này, trên thế giới này, chúng con là đôi tay của Chúa, chúng con là nụ cười, là tiếng nói của Chúa, là con tim quảng đại của Chúa.Amen.

Gợi ý để chia sẻ :

1. Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu ai cho Chúa Giêsu ?
2. Chiên Thiên Chúa nghĩa là gì ?
3. Người Do Thái quan niệm thế nào về Chiên Thiên Chúa ?
4. Có lúc nào Ông,Bà, Anh chị em giới thiệu Đức Kitô cho người khác ? Bằng cách nào ?
5. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã cảm nghiệm thế nào về Chúa ?

Về mục lục

.

THẦY Ở ĐÂU ?

Lm. Giuse Hoàng Kim Toan

Con người có chất liệu để suy tư và lý luận nhờ có ký ức. Một ký ức sống động sau suy tư và lý luận dẫn đến một nhận thức rõ ràng, và sau đó hành động quyết theo đuổi. Hai môn đệ đầu tiên đi theo Chúa là kết quả của ký ức này, và ở lại với Chúa ngày hôm ấy.

Ký ức được ghi dấu nơi người thầy.

Hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả đã tiếp nhận từ nơi thầy của mình những dấu ấn qua thời gian cùng sống ẩn dật. Những năm tháng đó không được Thánh Kinh trình thuật lại, nhưng thời ẩn dật của Gioan Tẩy Giả cùng các môn đệ cho thấy, đó là những năm tháng chờ đợi Đấng Cứu Thế xuất hiện công khai.

Từ niềm mong đợi Đấng Cứu Thế được các tiên tri tường thuật và với kinh nghiệm của Gioan Tẩy Giả, các môn đệ đã có một ký ức sống động về Đấng mà họ chờ đợi.

Điều này có thể hiểu về những ký ức trong thời thơ ấu và suốt thời trai trẻ trải qua những kinh nghiệm sống đức tin của ông bà cha mẹ, của trường lớp giáo lý, các bài giảng trong Thánh lễ. Mặc dầu tưởng như chẳng có gì ảnh hưởng lắm vì vô số điều khác của đời sống thường nhật làm nhạt nhòa đời sống đức tin. Đến khi, một biến cố lớn xảy ra, ký ức tưởng như bị xao nhãng kia, chợt thức dậy mạnh mẽ trở thành ký ức sống động, thúc đẩy nhận ra Đấng Giải Thoát đang hiện diện trước mặt.

Câu hỏi lớn trong cuộc đời.

Khi Gioan Tẩy Giả giới thiệu về Chúa Giêsu: “Đây Đấng Cứu Độ trần gian”, các môn đệ Gioan muốn tìm hiểu và đi theo. Hành động đi theo và tìm hiểu dường như đã được tích tụ một năng lực sẵn sàng để khỏa lấp mọi câu hỏi bế tắc trong cuộc đời.

Đi tìm ý nghĩa trong cuộc sống con người cũng giống thế. Sau khi tưởng như những giáo lý về tin – cậy – mến đã tắt ngúm dưới những bộn bề mưu sinh trong cuộc sống. Khi khá giả, mọi sự đâu vào đấy, vẫn thấy lòng vẫn trống trải vì thiếu ý nghĩa cuộc đời, bắt đầu khao khát điều gì khác hơn.

Khắc khoải đến khi được giới thiệu “Đấng Cứu Độ trần gian” là Đấng làm cho cuộc đời trở nên ý nghĩa, ký ức trỗi dậy và dẫn đến hành động đi theo và tìm kiếm. Thánh Augustine đã kinh nghiệm về ký ức sống động trỗi dậy này, sau những năm tháng ngủ quên trong ân sủng: “Chúa đã dựng nên chúng con để hướng về Chúa, và tâm hồn chúng con không nghỉ ngơi cho đến khi nghỉ yên trong Chúa”.

Không chỉ người Công Giáo mới có khao khát này, nếu ta cũng đọc thấy ở nơi thi hào R. Tagore: “Suốt ngày vì sống trong chợ đời đông đúc, hai tay tôi đầy lợi tức bán buôn, xin cho tôi luôn luôn cảm thấy là chửa kiếm được gì – đừng để tôi quên dù quên giây lát, mà xin để tôi gánh chịu buồn này day dứt trong những giấc mơ hay những giờ thao thức, người ơi.” (Bài 79, tập Lời Dâng, R. Tagore, Đỗ Khánh Hoan dịch)

Thầy ở đâu?

Tìm kiếm Chúa là để hồi tâm, sống lại ký ức lâu năm bỏ quên, hối tiếc về những gì đã qua và quyết tâm hơn để gặp gỡ.

Thầy ở đâu? Một câu hỏi có thể rất bình thường nhưng trong khung cảnh này lại rất quan trọng. Ở đâu trong tâm hồn của người hỏi, hay ở đâu trong hành trình khát mong tìm kiếm. Cả hai câu hỏi đều ảnh hưởng đến đời sống của con người.

Người ở đâu trong tâm hồn tôi mà tôi vẫn cảm thấy trống trải và cô đơn? Người ở đâu, khi tôi không có chỗ cho Người trú ngụ? Câu hỏi trở về với lòng mình hằng ngày con người vẫn tự vấn.

Người ở đâu chưa gặp thấy, do con người đi tìm Chúa ở nơi không có Người. Người ở đâu khi con người ước muốn thực sự đi tìm kiếm như hai môn đệ của Gioan.

Đến mà xem!

Câu trả lời của Chúa cho con người khao khát cứ hãy đến xem và chứng nghiệm. Đã có một kinh nghiệm trong lời cầu nguyện của dân Do Thái đúc kết lại trong Thánh Vịnh: “Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao” (Tv 33, 9a). Thánh vịnh 33 gợi nhắc bao nhiêu ký ức của con người đã lâm vào bao tình trạng đói nghèo, lầm than, tội lỗi và đã được cứu thoát.

Kinh nghiệm của bản thân về Đấng cứu độ trần gian không còn là cách chung chung mà cần được rõ ràng nơi bản thân chứng nghiệm. Điều này Chúa Giê su cũng đã nói với Phêrô: “Simon, Simon, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho con, để con khỏi mất đức tin. Phần con, một khi đã trở lại, thì hãy làm cho các anh em con nên vững mạnh (Luc 22,31-32).

Chứng nghiệm qua đời sống bất toàn của mình để việc tìm về với Chúa sẽ là một kinh nghiệm chắc chắn vừa được chữa lành vừa được nên mạnh sức. Thánh Phaolô

Ngài chia sẻ: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối. Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi.10 Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cor 12, 9 – 10).

Đến mà xem! Là lời mời gọi của Chúa mọi lúc trong cuộc sống, đừng sợ đáp lại lời Người.

Ở lại ngày hôm ấy, câu nói rất đơn giản nhưng lại là bì quyết hạnh phúc khi tìm thấy ý nghĩa trong cuộc đời. Xin Chúa cho chúng con ở lại với Chúa, Chúa nhé!.

Về mục lục

.

LỐI NHÌN CỦA CHÚA

Bông hồng nhỏ

– Tai nạn bà con ơi! Có tai nạn. Có tai nạn.

Cứ thế người ta túa nhau đến quây thành vòng quanh người bị nạn. Có nhiều người xem: người rùng mình kinh hãi, người lắc đầu rồi bỏ đi; có người cố chen vào xem chỉ vì tò mò, có người lại muốn trở thành người đưa tin nhanh nhất trên facebook, và cũng có người đã can đảm bế nạn nhân đến bệnh viện.

Thượng Đế ban cho con người có đôi mắt để ngắm xem mọi sự nhưng không phải ai nhìn cũng sẽ thấy, thấy để rồi con tim lên tiếng. Hôm nay, khi thấy Chúa Giêsu đi qua, ông Gioan đã giới thiệu Người cho hai môn đệ: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (Ga 1, 36 b). Nghe thấy thế, hai môn đệ liền đi theo Người. Họ đã bày tỏ ước muốn được biết chỗ Thầy ở. Thầy Giêsu còn ban cho họ một đặc ân lớn lao hơn là đã mời họ “đến mà xem”. Các ông đã đến xem và ở lại với Người ngày hôm ấy. Ở lại với ai là bày tỏ lòng quý mến người ấy. Các ông đã được diễm phúc ở với Thầy. Chính khao khát từ một trái tim chân thành của các ông đã mang lại cho các ông một niềm hạnh phúc vô bờ bến. Ông Anrê đã muốn chia sẻ ngay hạnh phúc ấy với em mình là Simon. Ông Simon đã theo chân anh mình đến gặp Thầy Giêsu. Vừa trông thấy ông, Thầy Giêsu đã chúc lành và đổi tên cho ông. Từ nay Simon sẽ được người ta gọi là Kêpha. (x. Ga 1, 39- 42).

Ông Gioan có biết trước thái độ của các môn đệ khi được gặp Đấng là Chiên Thiên Chúa không? Ông có bất ngờ khi họ đã theo chân Đức Giêsu kể từ ngày hôm ấy? Họ trở thành những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu. Ông Gioan đã rất vui mừng khi các môn đệ của mình trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Bởi ông vẫn hằng trông mong để “Người được lớn lên còn tôi phải nhỏ lại”. Trong ước muốn tận cùng và mãnh liệt ấy, ông vui mừng trước niềm vui của chú rể. (x. Ga 3, 29-39). Bởi trước sau, ông vẫn luôn ý thức mình chỉ là một tiếng hô trong hoang địa, một người dọn đường cho Chúa đến. Được trở thành một người môn đệ của Đức Giêsu, ta đã có một tâm hồn khao khát mãnh liệt được biết chỗ Thầy ở và biết Thầy là ai chưa? Các môn đệ đã đến và xem chỗ Thầy ở và đã ở lại với Thầy ngày hôm ấy. Đôi mắt của họ bây giờ vẫn chưa thật sự được biết rõ về Đấng mình muốn bước theo. Chỉ “ở với” Thầy thôi thì chưa đủ. Các ông ở với Thầy đó nhưng tâm hồn vẫn ôm ấp những ước muốn của chính mình, những tâm hồn ấy chưa hiểu được khát khao cháy bỏng của Thầy đâu. Đường theo Thầy vẫn lắm những gian nan khi tâm hồn người môn đệ chưa chung hướng với Thầy, chưa hiểu Thầy. Chỉ khi người môn đệ sống trong Thầy rồi, họ mới thật sự nhận biết Thầy là ai, mới sống chết vì Thầy.

Lạy Chúa Giêsu rất yêu mến! Chúa đã ban cho con có đôi mắt để ngắm nhìn mọi vẻ đẹp của vũ trụ. Xin đặt trái tim Chúa vào đôi mắt con để con biết nhìn lối nhìn của Chúa. Xin cho con được ở với Chúa luôn để con được sống trong Chúa mãi. Chúa biết tâm hồn con còn những góc tối mà con chưa dám đối diện. Xin Chúa chiếu vào tâm hồn con ánh sáng của Chúa để con dám nhìn và thấy rõ những gì đang xảy ra cho chính con. Ước mong sao khi nhìn vào tha nhân, con cũng thấy vẻ đẹp của chính Chúa nơi họ. Amen.

Về mục lục

.

THƯA THẦY, THẦY Ở ĐÂU ?

Anna Cỏ May

Bé trai hỏi bố:

– Bố ơi, siêu thị BIG C ở đâu hả bố?

– Con hỏi làm gì?

– Con nghe các bạn nói ở đó có chương trình khuyến mãi nhiều đồ chơi lắm bố ạ!

– Vậy, con có muốn đi không?

– Dạ có.

Thế là hai cha con cùng đi siêu thị. Đến nơi, cậu bé chạy thật nhanh vào quầy đồ chơi. Trông cậu bé rất khoái chí với mấy đồ chơi điện tử.

– Về thôi con.

– Ba ơi chơi chút nữa đi!

 Rồi cậu mải mê chơi không thiết gì ăn uống nữa. Chỉ nghe các bạn nói mà cậu liền nói với ba và được đi đến đó.

Cũng nhờ lời nói, lời giới thiệu của ông Gioan về Chúa Giêsu mà các môn đệ đã theo Chúa Giêsu. Họ bỏ người thầy bấy lâu nay được học hỏi và biết được nhiều điều trong cuộc sống. Thế nhưng, điều ấy lại là niềm vui của ông Gioan. Các ông đi theo Chúa Giêsu ở phía sau. Chúa Giêsu đi đâu là họ đi đó. Với quyền năng của Chúa Giêsu, nên Ngài nhận biết được có người đang đi theo mình. Ngài quay lại hỏi các ông câu hỏi thật tế nhị: “Các ông tìm gì thế?” (Ga1, 38). Ngài quay lại thì thấy các ông có những hành động có vẻ như đang tìm kiếm gì đó, nên Ngài mới hỏi vậy. Điều này, một phần nào đó cho chúng ta thấy các môn đệ âm thầm đi theo Chúa Giêsu, không muốn cho Ngài biết. Nhưng khi Ngài quay lại hỏi, thì các ông đã can đảm hỏi lại Ngài: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Ngài trả lời: “Hãy đến mà xem”(Ga1, 39). Và các ông đã đến xem chỗ ở và ở lại với Ngài ngày hôm ấy. Thiên Chúa chỉ mặc khải cho những ai hết dạ đi tìm Ngài. Chính các môn đệ đã có sự khao khát về Ngài. Nhờ thế, các ông đã được mặc khải cho họ biết về Ngài. Vì thế, ông Anrê khi trở về, lòng hân hoan mà nói với em mình là Simon: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia?”. Nhờ lời giới thiệu của ông Gioan cùng lòng khao khát tìm kiếm, ông đã theo – đến – xem chỗ ở của Ngài. Xem chưa đủ, ông còn ở lại với Ngài suốt ngày hôm ấy. Trong thời gian ở đó, ông được nhận biết về Chúa Giêsu.

Lời mời gọi của Chúa Giêsu vẫn đang vang lên mọi người: “Hãy đến mà xem”. Chúng ta thường nói với các em nhỏ: “Nhà thờ là nơi chốn thánh thiêng, các em phải nghiêm trang”. Chính khi ý thức như vậy, chúng ta sẽ kho khát để đến với Chúa mỗi ngày.  Thánh lễ mà chúng ta tham dự  hôm nay là bao nhiêu phút? Chúng ta có ở lại với Chúa thật sự không? Mỗi chúng ta tự tìm cho mình một câu trả lời.

Ông Anrê đã nghe, đến xem và ở lại, nhờ thế ông đã xác tín và thêm niềm tin vào Chúa Giêsu. Còn ông Simon, từ đây sẽ được gọi bằng một tên mới, tên gắn liền với sứ mạng mà Đức Giêsu trao phó. Lạy Chúa! Xin cho chúng con ơn biết lắng nghe, đến và ở lại với Chúa mỗi ngày; cùng biết chia sẻ và rao giảng về Chúa cho mọi người xung quanh.

Lạy Chúa, tìm kiếm Chúa là hành trình mà mỗi người chúng con luôn khao khát mỗi ngày. Tuy nhiên, hành trình tìm Chúa của chúng con còn rất nhiều gian truân vì sự yếu đuối của bản thân cũng như những nghịch cảnh của cuộc sống đôi lúc làm chúng con muốn buông xuôi. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, xin Chúa giúp chúng con không ngừng tìm kiếm Chúa. Bởi chúng con tin rằng, chỉ có Chúa mới là nguồn bình an và hạnh phúc đích thực cho cuộc sống hiện tại và mãi mãi của chúng con. Amen.

Về mục lục

.

HUYỀN NHIỆM ƠN GỌI

Lm. GB. Trần Văn Hào

Mầu nhiệm ơn gọi

Có một nhà du khảo nọ đi lạc vào giữa sa mạc mênh mông, chung quanh chỉ toàn cát nóng. Cơn khát dâng lên tột cùng khiến anh ta dần kiệt sức vì không có nước để uống. Cuối cùng, người đàn ông nọ vấp phải một cành cây khô và ngã sấp mặt xuống đất. Suy kiệt vì khát, anh ta nằm bất động trong chán nản tuyệt vọng và chờ chết. Bỗng nhiên, trong lúc tưởng như vô vọng hoàn tòan, người đàn ông nọ áp sát tai vào mặt đất và nghe được một thứ âm thanh nho nhỏ rất kỳ diệu từ xa vọng lại. Đó là tiếng róc rách của một dòng nước đang chảy. Trong tĩnh lặng, anh ta đã nghe được tiếng suối reo. Thu hết tàn lực cuối cùng, người đàn ông kia lần mò tìm đến dòng nước và đã được cứu sống một cách lạ lùng.

Cũng như nhà du khảo lạc bước giữa sa mạc khô cháy, hôm nay chúng ta cũng được mời gọi đi vào sa mạc của tâm hồn để lắng nghe tiếng Chúa mời gọi. Trong tĩnh lặng giữa đêm khuya, Samuel đã nghe được tiếng Chúa ngỏ trao. Giữa buổi chiều thanh vắng bên bờ hồ Galilê, Anrê và Simon cũng nghe được tiếng Đức Giêsu gọi mời. Sống trong một thế giới ồn ào ngày hôm nay với biết bao bầm dập và cay đắng, chúng ta cũng cần biến tâm hồn mình thành một sa mạc vắng lặng hầu có thể nghe được tiếng Chúa nói và mau mắn trỗi dậy bước theo Ngài.

‘Lạy Chúa, xin hãy nói vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe’

Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta nghe lại trình thuật về ơn gọi của Samuel. Chúa gọi ông giữa đêm khuya thanh vắng, nhưng ông ngơ ngác chẳng hiểu gì. Lúc đó, Samuel chỉ là một cậu bé cỏn con, giúp việc cho thầy cả Eli trong đền thờ. Nhưng may mắn, theo lời chỉ dạy của vị tôn sư đáng kính, sau khi nghe tiếng Chúa gọi lần thứ tư, Samuel đã đáp lại : “Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”. Đây là điệp khúc mà Giáo hội vẫn cất lên trong các giờ kinh phụng vụ. Lời đáp trả ấy cũng thường được các khấn sinh lập lại khi được xướng tên trước lúc tiến lên đọc lời tuyên khấn. Đáp trả lời gọi mời của Thiên Chúa là một hành vi đức tin, diễn bày tâm thức của một con người luôn biết đắm chìm trong Chúa và lắng nghe tiếng nói của Ngài. Chúa vẫn nói với chúng ta trong mọi biến cố của cuộc sống đời thường, khi thành công cũng như khi thất bại, lúc hoan vui ngập tràn cũng như khi chìm ngập trong biết bao bầm bập và cay đắng. Để nghe được tiếng Chúa nói, chúng ta phải tập sống tĩnh lặng từ trong nội tâm, biết trút bỏ mọi lo toan, mọi bươn chải hay những chộn rộn của cuộc sống, cho dầu chúng ta vướng bận biết bao công việc đa đoan thường ngày. Chúng ta phải can đảm bịt tai lại trước những cuốn hút ầm ĩ của tiền bạc, của những toan tính ích kỷ, hay của những hận thù ghen ghét đang sục sôi nơi tâm hồn. Hình ảnh của cậu bé Samuel là hình mẫu để chúng ta học hỏi và bắt chước hầu có thể tiến sâu vào lộ trình ơn gọi và đến với Chúa.

Đến để gặp gỡ và ở lại với Chúa

Cũng vậy, trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan kể lại câu chuyện Chúa gọi Simon và Anrê, hai môn đệ đầu tiên, bên bờ hồ Galilê. Hai ông chưa biết Đức Giêsu là ai. Song, khi được Gioan tiền hô giới thiệu, các ông đã đến, đã gặp được Chúa và lưu lại với Ngài.  ‘Hãy đến và xem’ (Come and See). Đó là lời gọi mời của Chúa Giêsu. Các ông đã đến và đã tiếp cận với Đấng mà các các ông chưa hề biết trước. Có thể động cơ ban đầu nơi các ông chỉ là sự tò mò, nhưng hai ông đã chủ động, đã đích thân đến gặp Đấng mà Gioan tiền hô giới thiệu. Các ông đã ‘xem thấy’ Đức Giêsu, không phải chỉ là một sự trải nghiệm bằng thể lý với đôi mắt của thân xác, nhưng hai môn đệ đã xem thấy Đức Giêsu bằng con mắt đức tin, một trải nghiệm vượt xa những lý luận tự nhiên nơi đầu óc con người. Điều quan trọng nhất, là hai ông đã ở lại với Đức Giêsu và dần đi vào trong sự hiệp thông trọn vẹn với Ngài. Đây là mô hình về mầu nhiệm ơn gọi cho mỗi người chúng ta ngày hôm nay, qua sự gặp gỡ và trải nghiệm sâu xa mang chiều kích linh thánh.

Sống ơn gọi Kitô hữu

Trong Giáo hội có nhiều loại hình ơn gọi. Có người được Chúa mời gọi để trở nên linh mục. Có người theo đuổi cuộc sống thánh hiến tu sĩ. Nhưng đại đa số chúng ta sống ơn gọi giữa đời như những giáo dân bình thường. Tuy nhiên, tất cả các loại hình ơn gọi này đều có một mẫu số chung, là bước theo Chúa Giêsu để trở nên môn sinh của Ngài. Điều cốt lõi và quan trọng nhất để sống hoàn thiện ơn gọi, chính là việc chúng ta đến và ở lại với Chúa như hai tông đồ Simon và Anrê. Chỉ khi nào lưu ngụ trong Chúa, chúng ta mới có thể đi sâu vào thế giới của huyền nhiệm và dần dần khám phá ra chân trời vĩ đại, rộng mở từ nơi trái tim yêu thương của Ngài. Chúa Giêsu đã kêu gọi những người học trò đầu tiên và dần dần huấn luyện các ông trở nên những ngư phủ chuyên chài lưới người. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn luôn vang vọng lời mời gọi, ngỏ trao đến tất cả chúng ta ‘Hãy đến và xem’. Muốn đi đến, chúng ta phải mạnh dạn đứng lên và dấn bước, phải can đảm từ bỏ những gì chúng ta đang cố đeo bám, như tiền bạc hoặc những danh vọng trần thế. Muốn ‘xem’ để biết Đức Giêsu là ai, chúng ta phải mở to con mắt tâm hồn, phải trải lòng mình ra để Chúa Thánh Thần tác động. Những người Do Thái ngày xưa, đặc biệt các đầu mục và nhóm Pharisêu cũng ‘xem’ thấy rất nhiều điều lạ lùng Đức Giêsu đã làm, nhưng họ ‘xem’ mà không ‘thấy’, nhìn mà không hiểu, bởi vì cho dù con mắt thể xác của họ đã mở toang, nhưng con mắt tâm hồn nơi họ vẫn mãi bị bịt kín.

Một nữ tu đã gặp mẹ Thánh Têrêsa Calcutta và nói : “Thưa Mẹ, con cảm thấy như Chúa đang mời gọi con đi tu để dấn thân phục vụ các trẻ em bất hạnh tại các trại mồ côi hoặc tại các khu ổ chuột”. Mẹ Têrêsa liền trả lời: “Không phải thế, chúng ta chỉ có một ơn gọi duy nhất, là hãy đến với Chúa Giêsu và ở lại với Ngài. Cứ đến với Chúa, rồi Ngài sẽ dạy cho con biết con phải làm gì”.

Kết luận

Ngày 13/09/1978, trong một buổi nói chuyện với các đôi tân hôn, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã kể lại một giai thoại. Tại trường Đại học Sorbonne bên Pháp có một giáo sư khá nổi tiếng tên là Frederich. Ông có một người bạn rất thân thiết là linh mục Lacordaire. Một bữa kia, vị linh mục nói với người bạn của Ngài : “Này anh bạn, anh là một con người tuyệt vời. Anh có tâm hồn đạo đức lẫn trí thông minh sắc xảo. Nếu anh đi tu làm linh mục anh sẽ giúp ích cho Giáo hội rất nhiều”. Một thời gian sau, vị Linh mục nghe tin anh bạn của mình sắp sửa kết hôn. Ngài thất vọng và nói với anh ta : “Bạn điên hay sao mà đi lấy vợ. Tại sao anh lại tự nguyện đeo một cái gông vào cổ của chính mình”.  Hai năm sau, Cha Lacordaire đến Rôma và vào triều yết Đức Thánh Cha Piô IX. Đức Thánh Cha thân mật tiếp kiến và nói đùa với Cha Lacordaire : “Cha dạy giáo lý có vẻ lạc giáo đấy. Giáo hội dạy rằng Chúa Giêsu đã thiết lập 7 Bí Tích, nhưng cha lại dạy rằng, Chúa Giêsu thiết lập chỉ có 6 Bí Tích cộng thêm một cái gông để đeo vào cổ.”

Đời sống hôn nhân gia đình cũng là một ơn gọi cao quý để giúp chúng ta nên thánh khi sống giữa đời. Để sống sung mãn ơn gọi này, chúng ta hãy bắt chước Samuel luôn biết lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, nhất là bắt chước hai môn đệ đầu tiên để đến với Chúa và lưu lại với Ngài.

Về mục lục

.

HÃY ĐẾN MÀ XEM

Lm. Trần Việt Hùng
 

Khởi đầu sứ mệnh trần gian,

Dõi theo từng bước, hỏi han tìm về.

Gio-an môn đệ cận kề,

Rời thầy theo Chúa, lời thề trung kiên.

Bước đi theo Chúa nhân hiền,

Đến xem tận mắt, một miền trống quang.

Không nhà không cửa không hang,

Nghèo sơ nghèo xác, trong làng đơn sơ.

Môn đồ nhận biết không ngờ,

Ki-tô Cứu Thế, vô bờ kính tôn.

Ngôi Lời nhập thể càn khôn,

Tin mừng rao giảng, cứu hồn thế nhân.

Si-mon, nghĩa Đá, dự phần,

Tông đồ Chúa chọn, cận thân bên Ngài.

An-rê theo Chúa miệt mài,

Anh em môn đệ, lưới chài thần dân.

 Hai anh em Phêrô và Anrê là những người đầu tiên theo Chúa Giêsu. Sau khi Gioan Tẩy Giả giới thiệu:“Đây là Chiên Thiên Chúa”, hai môn đệ liền rời Thầy của mình và đi theo Chúa. Thật là đơn giản. Chúa hỏi: “Các ngươi tìm gì” và “Hãy đến mà xem”. Họ đã nhận ra Chúa chính là Đấng Messiah.   

Chúng ta cần học hỏi mỗi ngày. Muốn học thì phải hỏi. Muốn hiểu biết thì phải thắc mắc và phải tìm kiếm. Chính những thắc mắc của cuộc sống đã giúp con người phát triển. Các môn đệ muốn biết Chúa các ngài đã đi tìm và hỏi han. Chúa đã mở đường cho các ngài tìm về nguồn sự thật. Hai môn đệ nhận ra Chúa chính là Đấng Kitô và họ đã mau mắn dẫn dắt người khác đến tìm gặp Chúa.   

Mỗi người chúng ta đã lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Chúng ta có bổn phận tiến dẫn người khác đến với Chúa. Câu truyện của một cụ già mới vào nhập viện. Sau khi đã nhập phòng và sắp xếp xong xuôi mọi sự, một cô y tá đến hỏi: Ông thuộc tôn giáo nào? Ông cụ nhìn cô và nói: Tôi rất vui khi cô hỏi tôi. Tôi luôn muốn là một người công giáo nhưng chưa từng có ai hỏi tôi.   

Biết đặt câu hỏi là đã có một nửa câu trả lời. Có nhiều người cả đời cũng không bao giờ thắc mắc: Làm sao có trời đất và vũ trụ vạn vật? Có biết bao người không bao giờ hỏi: Sự sống là gì và sự sống từ đâu mà có? Hoặc cùng đích của sự sống là gì?  Biết rằng càng hỏi chúng ta càng thấy con người chúng ta thật giới hạn. Giới hạn về cả tri thức lẫn thể xác.

Muốn biết Chúa thì hãy đến và xem. Hãy đến bất cứ nơi nào và nhìn ngắm xem sự chuyển vận của vũ trụ vạn vật và con người. Chúng ta sẽ nhận ra sự hiện diện và yêu thương của Thiên Chúa. Đến và xem cộng đồng Kitô Hữu, chúng ta sẽ nhận ra sự hiện diện của Chúa ở giữa họ. Đến và xem nơi hang lừa máng cỏ hay trên thập giá khổ hình. Nơi đó, Chúa đã hạ thân và thí thân để cứu độ chúng ta.   

Ước chi mỗi người hãy là nhân chứng cho Chúa giữa dòng đời. Chúng ta tiếp tục giới thiệu Chúa cho những người chung quanh.

Về mục lục

.

BA BƯỚC TIẾP CẬN CHÚA GIÊSU

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Nhiều người thiện chí đã được trở thành môn đệ Chúa Giê-su nhờ trải qua ba giai đoạn sau đây:

Gặp gỡ Chúa Giê-su- Chiêm ngắm Chúa Giê-su- Ở lại với Chúa Giê-su.  

Giai đoạn thứ nhất: Gặp gỡ Chúa Giê-su

Khi “Ông Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giê-su đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa.” Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo để gặp gỡ Đức Giê-su (Ga 1, 37). Gặp gỡ Chúa Giê-su, là bước đầu cần thiết để trở thành môn đệ.  

Giai đoạn hai: chiêm ngắm Chúa Giê-su

Bấy giờ Đức Giê-su quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: “Các anh tìm gì thế? ” Họ đáp: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu? “Ngài bảo họ: “Đến mà xem” (Ga 1, 39). Trăm lần nghe không bằng một lần thấy. Có nhìn thấy, có chiêm ngắm Chúa Giê-su thì mới có thể hiểu biết Ngài sâu xa hơn.  

Giai đoạn ba: Ở lại với Chúa Giê-su

Thánh sử Gio-an thuật tiếp: “Họ đã đến xem chỗ Ngài ở, và ở lại với Ngài ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (Ga 1, 39).

Ở lại với Chúa Giê-su là điều kiện thiết yếu để hiểu biết, yêu mến và trở nên môn đệ Ngài, thế nên, theo Tin mừng Mác-cô, lúc khởi đầu sứ vụ, “Chúa Giê-su lên núi và gọi đến với Ngài những kẻ Ngài muốn. Và các ông đến với Ngài. Ngài lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Ngài và để Ngài sai các ông đi rao giảng” (Mc 3, 13-14).  

Theo Đạo Công giáo không phải là đi theo một tổ chức, là gia nhập một hiệp hội, một đảng phái, cũng không phải là theo một chủ nghĩa hay một học thuyết… nhưng chủ yếu là đi theo một nhân vật độc đáo là Chúa Giê-su và qua Ngài đến với Thiên Chúa Cha.

Qua tông huấn Lời Chúa, Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô nhắc nhở chúng ta: “Đời sống ki-tô hữu có đặc tính chủ yếu là gặp gỡ Chúa Giê-su, Đấng hằng kêu gọi ta bước theo Ngài” (Tông Huấn Verbum Domini, số 72)

Vậy thì điều quan trọng hàng đầu để trở thành môn đệ Chúa là thực hiện ba bước tiếp cận với Chúa Giê-su trên đây, đó là gặp gỡ Chúa Giê-su, chiêm ngắm Chúa Giê-su và ở lại với Chúa Giê-su.

Tất cả các môn đệ của Chúa Giê-su ngày xưa đều đã kinh qua ba giai đoạn tiếp cận này nên đã trở thành những môn đệ thực thụ, những tông đồ nhiệt huyết của Chúa Giê-su.

Và ba bước tiếp cận “gặp gỡ – chiêm ngắm – ở lại” cũng là đường lối Chúa Giê-su sử dụng để đào tạo bao người trở thành những môn đệ thân tín, những tông đồ nhiệt huyết của Ngài.  

Vậy thì hôm nay, nếu chúng ta muốn thực sự trở nên môn đệ Chúa, thì không còn chọn lựa nào khác ngoài ba bước tiếp cận nói trên.

Nói cách cụ thể,

“Gặp gỡ – chiêm ngắm – ở lại” với Chúa Giê-su là đến gặp Ngài trong Kinh thánh, đặc biệt là trong Tân Ước, là chuyên chăm học hỏi Kinh thánh, vì như thánh Giê-rô-ni-mô dạy: “Không biết Kinh thánh là không biết Chúa Giê-su.”

“Gặp gỡ – chiêm ngắm – ở lại” với Chúa Giê-su là đến gặp Ngài trong các cử hành Phụng vụ, vì như lời Giáo Hội dạy: “Chính Chúa Giê-su hiện diện trong Lời của Ngài vì chính Ngài nói khi người ta đọc Kinh thánh trong Giáo hội” (Tông huấn Lời Chúa số 52).

“Gặp gỡ – chiêm ngắm – ở lại” với Chúa Giê-su là siêng năng tham dự Thánh lễ và đón rước Mình Máu thánh Ngài để được trở nên đồng huyết nhục với Chúa Giê-su và được thông phần vào sự sống của Ngài.

Ngoài ra, chúng ta cần phải thường xuyên “gặp gỡ – chiêm ngắm – ở lại” với Chúa Giê-su ngay trong tâm hồn mình, bằng cách tạo ra những khoảnh khắc vắng lặng nội tâm, để gặp Chúa và kết hợp với Chúa ngay trong tâm hồn, ngay trong cuộc sống của chúng ta.  

Lạy Chúa Giê-su,

Chúng con sẵn sàng dành nhiều thời giờ để lo cho những nhu cầu vật chất và đáp ứng những đòi hỏi của đam mê thế tục nhưng rất tiếc nuối khi phải dành ra mươi phút mỗi ngày để gặp gỡ và suy niệm Lời Chúa.

Chúng con sẵn sàng hao tốn nhiều công sức để gặp gỡ và trở nên người thân tín của các đại gia và những người quyền quý để mưu tìm lợi ích vật chất cho mình mà không muốn dành ra mươi phút mỗi ngày để tiếp cận với Chúa hầu trở nên môn đệ thân tín của Ngài.

Xin cho chúng con hiểu rằng dành thời giờ để gặp gỡ – chiêm ngắm và ở lại với Chúa mỗi ngày là phương thế tốt nhất mang lại cho chúng con hạnh phúc đời này và sự sống vĩnh cửu mai sau.

Về mục lục

.

NHẠY BÉN VỚI TIẾNG GỌI CỦA CHÚA

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Có một vị bề trên kia khi muốn cho môn sinh của mình tập sống đức nghèo khó, ngài không chỉ giảng dạy, mà hơn thế nữa, một hôm, ngài dẫn các môn sinh đi thăm một cha xứ ở ngay tại trung tâm thành phố. Khi đến nơi, các học trò rất ngỡ ngàng vì một linh mục trẻ trung trạc gần 50 tuổi, sống trong một giáo xứ quá nhỏ hẹp. Cả nhà thờ lẫn nhà xứ gói gọn trong khoảng 100 mét vuông. Phòng của ngài ở gồm sách vở, đồ dùng cá nhân và chỗ nằm vỏn vẹn khoảng 12 mét vuông. Khi tiếp cha bề trên và các môn sinh đi cùng, vị linh mục ấy tỏ ra vui vẻ và thật hạnh phúc với cuộc sống hiện tại.

Khi trực tiếp mục sở nơi ở của vị linh mục này, các môn sinh rất khâm phục ngài với đời sống đơn sơ giản dị! Hơn nữa, các môn sinh ấy khám phá ra nét đẹp tuyệt vời của một con người có Chúa và niềm vui Tin Mừng.

Khi về nhà, ai nấy xôn xao chia sẻ với nhau và rất cảm kích thái độ từ bỏ trong an vui của vị linh mục này khi theo Chúa trên con đường dâng hiến.

  1. Các ông đã đến xem và ở lại với Đức Giêsu

Cách đây hơn 2000 năm, cũng có một người đã dùng phương pháp này để giáo dục môn sinh của mình, người đó chính là Gioan Tẩy Giả mà bài Tin Mừng hôm nay đề cập đến.

Tác giả Tin Mừng kể: vào thời điểm Đức Giêsu đi rao giảng Tin Mừng, Gioan cũng có một số đông đồ đệ đi theo mình. Uy tín của Gioan ngày càng được nhiều người biết đến. Riêng với các môn sinh thì rất nể phục và thượng tôn ông. Tuy nhiên, Gioan đã ý thức vai trò và sứ mạng của mình là dọn đường, là chuẩn bị lòng dân đón chờ Đấng Cứu Tinh. Vì thế, đã có lần ông nói: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa” (Ga 1,23).

Khi xác định vị trí và ơn gọi của mình là tiền hô, là người dọn đường, là người dẫn chương trình, nên khi thấy các môn sinh của mình có xu hướng tôn vinh, Gioan Tẩy Giả đã nhường lại sân khấu cho nhân vật chính là Đức Giêsu, Đấng là đường, là sự thật, là sự sống.

Chính vì lý do này mà Gioan đã không ngần ngại khi giới thiệu Đức Giêsu là: “Chiên Thiên Chúa” cho các môn đệ.

Khi nghe thấy thế, môn đệ của Gioan đã đi theo và lên tiếng hỏi Đức Giêsu: “Thầy ở đâu?”. 

Cùng lộ trình tư tưởng với Gioan, nên Đức Giêsu cũng không ngần ngại nói với các ông: “Hãy đến mà xem”.

Thế là Đức Giêsu và các môn đệ của Gioan về nơi Ngài ở để các ông tận mắt mục kích nơi sinh sống và được nghe thêm những lời Đức Giêsu nói, thấy tận mắt những việc Đức Giêsu làm và nhất là hiểu sâu xa tâm tư của Vị Tôn Sư đầy lòng nhân hậu.

Quả thật, họ đã nghiệm được Đấng Cứu Thế với một trái tim luôn cảm và thấu từng nỗi đau, luôn rung động và chung nhịp đập với từng người bất hạnh và cùng đinh của xã hội, để nâng đỡ, ủi an.

Khi thấy được vị Thầy tuyệt vời như vậy, các ông đã khám phá ra Đức Giêsu chính là đối tượng đích thực của lòng trí mà bấy lâu nay họ đang tìm.

  1. Mẫu mực cho một ơn gọi

Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và các môn đệ của Gioan là mẫu mực cho mọi ơn gọi của chúng ta ngày nay.

Khi nói về ơn gọi, chúng ta có hai ơn gọi căn bản, đó là: đi tu hoặc lập gia đình. Hai ơn gọi này, trước mặt Chúa đều có giá trị tuyệt đối. Hai ơn gọi này đều được mời gọi bước theo Đức Giêsu, để trở thành môn đệ và trở nên giống Ngài vì lời mời gọi hướng tới sự thánh thiện được dành cho hết mọi người.

Dựa trên bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy hành trình của một ơn gọi được thực hiện dưới 4 bước sau:

–       Chúa gọi

Để xác định một ơn gọi đúng nghĩa, đó là phải khởi đi từ chính Chúa. Có những người được gọi ngay từ khi còn nhỏ; lại có người được gọi lúc đã trưa hay về chiều hoặc đêm tối…. Có những người được gọi cách cụ thể, rõ rệt, mãnh liệt. Lại có người được gọi rất nhẹ nhàng, êm đềm. Có người được gọi qua một trung gian hay một biến cố….

Điều này chúng ta thấy nơi các bài đọc hôm nay: chẳng hạn như trường hợp Chúa gọi Samuen. Ơn gọi của Samuen được khởi đi từ ước muốn tạ ơn nơi bà mẹ. Bà muốn dâng đứa con thân yêu nhất của mình để tạ ơn Chúa. Ước muốn này được chắp cánh khi có thày cả Hêli làm trung gian. Còn nơi Anrê và Gioan, ngoài trung gian là Gioan Tẩy Giả, các ông còn đi tìm Chúa để thỏa mãn lòng khát khao chân lý, lẽ sống, hạnh phúc. Tất cả những điều đó, Chúa đã ghi nhận sự thiện chí và ý ngay lành nơi các ông, nên Ngài đã gọi các ông để các ông trở thành môn đệ.

–       Ta đáp trả

Nếu người gọi mà không có người thưa thì không thể trở thành một ơn gọi được. Như thế, Chúa gọi, ta đáp trả mới hiện sinh một ơn gọi mới.

Khi ta nghe thấy tiếng Chúa gọi, ta đáp trả bằng trọn trái tim, lúc đó, Chúa sẽ dẫn ta đi trên một con đường mới.

Tuy nhiên, con đường mới ấy không hứa hẹn cho ta được an nhàn thư thái như bao người suy nghĩ, mà con đường ấy đòi hỏi ta phải hy sinh hơn và phải vượt qua nhiều khó khăn mới đạt được hạnh phúc viên mãn ở cuối con đường. Muốn được như thế, chúng ta phải nhạy bén như Samuen: “Lạy Chúa xin hãy phán, này tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”, hay như hai môn đệ của Gioan đã quyết định bỏ lại sau lưng tất cả để đến và ở lại cũng như đi theo Đức Giêsu.

–       Ở lại với Chúa

Ở lại với Chúa là một hành động mang tính quyết liệt. Nó xác định rõ nét cuộc đời của ta từ nay thuộc về Chúa để trở nên giống Chúa trong mọi hành vi và lời nói. Ở lại với Chúa cũng là mang trong mình trái tim và tâm tư của Ngài để xót thương anh chị em mình.

Như vậy, ở lại với Chúa không phải là mong được làm công việc của Chúa, cũng chẳng mong được học một số lý thuyết trừu tượng, cũng chẳng hề có ý định thỏa mãn một nhu cầu tự nhiên nào, mà điều cao trọng hơn, đó là sống thân mật với Chúa, để trong ta có Chúa và trong Chúa có ta.

–       Sống đời chứng nhân

Khi đã đi vào mối tương quan riêng tư với Chúa, chúng ta chắc chắn sẽ có một kinh nghiệm về Thiên Chúa nơi cuộc đời mình, khiến không ai và không có gì có thể tách ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa.

Khi đã nghiệm thấu tình yêu của Thiên Chúa như vậy, chúng ta cũng không có gì khác hơn, đó là giống như Anrê, ông đã hối hả tìm gặp em mình là Phêrô và dẫn đến giới thiệu cho Đức Giêsu.

  1. Nhìn lại ơn gọi của chính chúng ta

Trong cuộc đời của mỗi người, Chúa cũng đã gọi chúng ta nhiều lần.

Ngài gọi chúng ta qua Bí tích Rửa Tội cũng như các Bí tích khác; qua Lời Chúa; qua Giáo Lý; giáo Huấn của Giáo Hội; qua các đấng bậc; những bài giảng; hay qua người này, người kia; hoặc qua các biến cố, sự kiện….

Khi xác định như thế, ta thấy Chúa không ngừng kêu gọi chúng ta đi theo Ngài, cùng mang trong mình tâm tư của Ngài để được hạnh phúc và chia sẻ hạnh phúc ấy cho người khác.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đã biết bao lần Chúa mời gọi ta sống chân chính, ngay thẳng. Đã biết bao lần Chúa mời gọi ta làm chứng cho sự thật, xây dựng sự hiệp nhất, khước từ những điều xấu. Đã biết bao lần Chúa mời gọi ta yêu thương người nghèo, người đau khổ, người thấp cổ bé họng. Biết bao lần Chúa mời gọi ta cảm thông với người tội lỗi và yêu thương họ…. Nhưng cũng biết bao lần chúng ta đã không nhạy bén như Samuen hay như các Tông đồ, vì thế, Chúa vẫn cứ gọi mà chúng ta chẳng khác gì: “Nước đổ lá khoai” khiến cho thánh ý Chúa và ơn gọi không được nên trọn.

Mong sao mỗi người chúng ta hãy sống tâm tình như Samuen, Anrê, Gioan và Phêrô, đó là nhạy bén và mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa để được ở và sống với Chúa. Đồng thời sẵn sàng chia sẻ tình yêu và hạnh phúc khi có Chúa ở cùng cho chị em chung quanh. Amen.

Về mục lục

.

Ở LẠI VỚI CHÚA

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Trên các chương trình tivi đều có mục quảng cáo. Sản phẩm quảng cáo thì cái gì cũng nhất, cái gì cũng đẹp cũng bền. Thông tin quảng cáo đã tác động mỗi ngày nhiều lần vào người xem tạo nên một ấn tượng mạnh. Từ đó trong tiềm thức, khách hàng sẽ tìm mua sản phẩm ấy. Quảng cáo là giới thiệu những gì là độc đáo nhất. Mục đích của giới thiệu là để biết nhau. Nhờ sách vở, báo chí, tivi, internet… chúng ta có thể nắm bắt đầy đủ thông tin về các vùng miền trên thế giới. Tuy nhiên người ta vẫn muốn đi đến tận nơi để chính mình mắt thấy tai nghe. Muốn giới thiệu một người thì phải biết về người đó, tuỳ theo mối liên hệ giữa hai người mà mức độ biết nhau nhiều hay ít. Nếu không biết rõ về một người thì có thể giới thiệu sai về người ấy.

Trong Phúc Âm có đề cập đến việc giới thiệu. Có ba lời giới thiệu tiêu biểu. Chúa Cha giới thiệu Chúa Kitô: “Đây là con Ta yêu dấu,làm đẹp Ta mọi đàng” ( Mt 4,17). Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha: “Ai thầy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9). Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Kitô: “ Đây là Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xóa tội trần gian” ; “Người đến sau tôi nhưng quyền thế hơn tôi vì có trươc tôi …Ngài làm phép rửa trong Thánh Thần” (x.Ga 1,29-34). Trong khi toàn miền Giêrusalem và Giuđêa đang coi Gioan như thần tượng, thì chỉ vì để giới thiệu Chúa Kitô, Gioan đã từ giã sự nổi danh của mình và lặng lẽ rút lui. Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha bằng cách nói cho người nghe hãy nhìn vào chính Ngài. Gioan giới thiệu Chúa Kitô bằng cách nói cho người nghe đừng nhìn vào mình,nhưng nhìn thẳng vào Chúa. Đây là cách giới thiệu chính xác nhất khi một người muốn giới thiệu cho người khác về Thiên Chúa.

Phúc Âm hôm nay kể câu chuyện: “Thấy Đức Kitô đi ngang qua, ông lên tiếng nói: đây là Chiên Thiên Chúa. Hai môn đệ nghe ông nói liền đi theo Đức Kitô” (Ga 1,36-37). Bấy giờ Gioan rất nổi tiếng. Những người Do thái ở Giêrusalem cử các Thầy Tư tế và Lêvi đến hỏi xem liệu ông có phải là Đức Kitô, là Êlia hoặc ngôn sứ không? (Ga 1,19-23). Gioan trả lời trung thực: “Không! Tôi không phải là Đức Kitô” (Ga 1,20). Ông chỉ nhận mình là tiếng kêu trong hoang địa (1,23). Đức Kitô là Đấng đến sau ông, cao trọng hơn ông vì có trước ông (1,30). Đấng ấy được Thánh Thần xức dầu (1,33), và sẽ rửa mọi người trong Thánh Thần và lửa (1,33; Mt 3,11). Đấng ấy cao trọng đến nỗi ông không đáng cởi dây giày cho Ngài (1,27). Nhiệm vụ của ông là làm cho mọi người và cả các môn đệ của ông hiểu đươc điều đó. Gioan mong ước khi có dịp sẽ giới thiệu cho các môn đệ về vị Thầy đích thực mà họ cần phải theo. Bởi thế, khi thấy Chúa Giêsu đi ngang qua, Gioan liền lên tiếng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hiểu ý thầy, hai môn đề liền đi theo Chúa Giêsu trong hân hoan. Thay vì nuối tiếc, Gioan đã hạnh phúc hối dục họ lên đường. Nếu hai môn đệ không muốn theo Chúa mà cứ nấn ná ở lại với Gioan thì giáo dục tôn giáo của Gioan đã thất bại. Nếu hai môn sinh cứ đòi ở lại với Gioan là dấu chứng Gioan chỉ nói về mình, gây ảnh hưởng cho mình. Lên đường theo Chúa như một khám phá mới của hai môn sinh là kết quả thành công của Gioan trong sứ mạng làm người dọn đường cho Chúa.

Chúa Giêsu quay lại và hỏi: Các anh tìm gì thế? Hai môn đệ đã không đi “tìm gì” mà là tìm một Con Người. Họ đi tìm Đức Kitô. Họ mang nặng nổi khát khao đi tìm một trái tim, một vị thầy. “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Câu hỏi ấy là câu hỏi muốn hiểu, muốn tìm đến và muốn ở lại với Thầy. Chúa Giêsu không trả lời là Ngài ở nơi này nơi kia và cũng không mời họ đến thăm chơi. Chúa nói “hãy đến mà xem” rồi sẽ biết. “Đến mà xem” là lời mời gọi đi vào cuộc gặp gỡ thân thiết. Trăm nghe không bằng mắt thấy “cứ đến mà xem” cũng là câu nói Philipphê thuyết phục Nathanael (Ga 1,46). Thánh sử Gioan kết thúc câu chuyện các môn đệ đầu tiên của Đức Kitô bằng hình ảnh: “Họ đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người” (1,39).

Chỗ ở của Chúa Giêsu có gì hấp dẫn mà giữ chân các ông ở lại? Đầy đủ tiện nghi và sung túc chăng? Chắc chắn là không rồi, vì Chúa đã từng nói: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,20). Rày đây mai đó nên nơi Chúa ở là “khách sạn ngàn sao”, chẳng có gì hấp dẫn như biệt thự hay khách sạn mấy sao. Sự hấp dẫn các môn đệ chính là con người Chúa Giêsu. Chính cuộc sống và lời giảng dạy của Ngài đã hấp dẫn họ và họ nhận ra Ngài là Đấng Messia, Đấng Cứu Thế, vị Thầy mà họ đáng theo. Chúa đã mời họ “đến mà xem” để họ có thời gian bên Chúa, biết được những gì Chúa muốn cho họ biết về Ngài. Cuộc gặp gỡ đã để lại một ấn tượng sâu đậm, rất có thể là một sự kiện đổi đời, đến nỗi nhiều năm sau đó, Gioan vẫn còn nhớ khoảnh khắc đó, ngài viết: “Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười (bốn giờ chiều)”.

Chúa kêu gọi các môn đệ, trước hết để họ “ở lại với Ngài” trong bầu khí huynh đệ thân tình (x. Ga 1,35-39). “Ở lại với Ngài” nên hết lòng tin tưởng, cậy trông, yêu mến và học hỏi giáo huấn cũng như đời sống của Chúa. “Ở lại với Ngài” nên có những cuộc gặp gỡ tiếp xúc giữa cá nhân mình với Chúa, lắng nghe Lời Chúa và đón nhận sức sống của Chúa thông ban giúp cho mình được biến đổi trở nên “đồng hình đồng dạng” với Chúa. Từ đó Chúa mới sai họ đi thi hành sứ vụ. Yêu thương nhau là một dấu chỉ, là chứng từ cốt yếu, là đòi hỏi tiên quyết và đồng thời cũng là điều kiện cơ bản của người môn đệ Chúa: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).

Đi tìm con người Đức Kitô là theo Ngài, thuộc về Ngài, ở với Ngài. Các môn đệ vui mừng hân hoan, họ muốn chia sẻ với người thân yêu nên khi trở về, Anrê gặp em là Simon, nói với em về Đấng mà mình đã gặp và dẫn em đến diện kiến Chúa. Simon được Chúa đổi tên thành Phêrô. Trên đá tảng Phêrô, Chúa xây Hội Thánh và cửa hỏa ngục sẽ không thắng được. Một cuộc gặp gỡ. Một tình yêu có thể làm đảo lộn cả một cuộc đời. Khám phá ra tình yêu Thiên Chúa trong đời mình quả là một biến cố vô cùng quan trọng. Trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa, những ai đã gặp Người đều thay đổi dần cuộc đời mình.

Gioan Tẩy Giả là mẫu mực cho người tông đồ hôm nay. Giới thiệu Chúa, còn mình thì lặng lẽ rút lui để Chúa lớn lên. Bổn phận giới thiệu Chúa cho người khác là một ân sủng được trao ban. Thiên Chúa là tình yêu. Vậy lời giới thiệu trung thực nhất phải là lời ca ngợi về một Thiên Chúa tình thương. Để nói về tình thương, chúng ta phải có kinh nghiệm về tình thương. Cách chuyển thông chính xác nhất tình thương của Thiên Chúa là bản thân mỗi người yêu tha nhân với tấm lòng chân thành của mình.

Lời giới thiệu của Gioan Tẩy giả về Chúa Kitô rất ngắn. Điều đó nhắn nhủ rằng: Để giới thiệu về Chúa, chưa chắc đã cần nói nhiều. Vì nói nhiều chưa chắc đã là nói hay. Nói hay mà không đúng thì chỉ làm người nghe lạc lối. Để giới thiệu về Chúa cần nói đúng và sống điều mình rao giảng. Dung mạo đúng nhất của Thiên Chúa là tình yêu thương “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nổi ban Con Một của Ngài” (Ga 3,16) và tình yêu thương ấy là “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).

Để giới thiệu Chúa, tôi phải biết Chúa. Bài học đầu tiên của các môn đệ là “ở lại với Chúa”. Chỉ khi sống với Chúa mới biết Chúa. Vì thế, để giới thiệu về Chúa, phải biết Chúa. Để biết Chúa, chỉ có con đường duy nhất là sống với Chúa. Sống với Chúa chính là chuyên chăm học hỏi, suy niệm Lời Chúa và chiêm nghiệm trước Thánh Thể mỗi ngày để trở nên người giới thiệu Chúa cách trung thực và chính xác cho người khác.

Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy sự từ bỏ của Gioan và hai môn đệ mà xét lại bản thân. Con đang giới thiệu Chúa hay dùng Chúa để mình được lợi. Con đang theo Chúa hay chỉ theo người của Chúa. Xin cho con luôn chọn Chúa qua những chọn lựa nhỏ bé nhiều lần trong ngày để Chúa chiếm trọn cuộc sống con và để con thông hiệp vào cuộc sống Chúa nhờ đó con được ở lại với Chúa.

Và Lạy Chúa, xin ở lại với con, vì con yếu đuối, con cần Chúa đỡ nâng mỗi ngày trong đời con. Không có Chúa, con đâu còn nồng nhiệt hăng say. Xin ở lại với con vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa và không đòi phần thưởng nào khác ngoài việc được yêu Chúa hơn. Amen.

Về mục lục

.

GIỚI THIỆU CHÚA CHO MỌI NGƯỜI

JM. Lam Thy

Bài Tin Mừng hôm nay (CN II/TN-B – Ga 1, 35-42) trình thuật Thánh Gio-an Tẩy Giả giới thiệu Đức Giê-su Ki-tô cho mọi người (cách riêng cho các môn đệ của ngài): “Ông Gio-an đang đứng với 2 người môn đệ của ông. Thấy Đức Giê-su đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Hai người môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giê-su.” Một trong hai môn đệ ấy là An-rê, anh ông Si-mon (Phê-rô). Sau khi An-rê gặp Đức Giê-su, ngài liền nói với em mình: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô), rồi ông dẫn em mình đến giới thiệu với Đức Ki-tô.

Nói đến An-rê, là nói đến người đã thấy, đã tin và đã làm chứng cho Đấng Cứu Độ. An-rê là môn đệ của thánh Gio-an Tẩy Giả. Ông đã được thầy của mình giới thiệu về Đức Ki-tô. Và tiếp liền theo đó, An-rê đã liên tục làm chứng nhân sống cho Đấng mà ngài đã thấy và đã tin. Có thể là rất nhiều lần, nhưng Thánh Kinh chỉ ghi lại 3 lần nổi bật nhất:

* Lần thứ nhất, khi nghe thầy mình là thánh Gio-an Tẩy Giả giới thiệu “Đây là Chiên Thiên Chúa”, thì ngay lập tức, An-rê cùng với một môn đệ khác của thánh Gio-an liền đi theo Đức Giê-su, rồi về giới thiệu với em mình là Si-mon Phê-rô và dẫn tới với Đức Ki-tô.

* Lần thứ hai là dịp Đức Giê-su hoá bánh ra nhiều lần thứ nhất: Thấy rất đông dân chúng đến với mình, Đức Ki-tô liền hỏi thử ông Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Trong khi Phi-líp-phê còn đang lúng túng, thì An-rê đã mau mắn thưa với Người: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” Không ai (kể cả Phi-lip-phê và An-rê) có thể ngờ chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá nhỏ, đã giúp tới 5.000 người (không kể đàn bà và trẻ con) được ăn no nê, mà còn dư tới 12 thúng đầy những miếng bánh vụn người ta ăn còn lại (Ga 6, 5-13).

* Lần thứ ba, khi Đức Giê-su trở lại Giê-ru-sa-lem lần cuối, có mấy người Hy Lạp đến xin gặp Người. An-rê lại giới thiệu họ với Đức Ki-tô. Chắc chắn Đức Ki-tô đã rất hài lòng về An-rê, bởi vì sau đó chính Người đã nói: “phần Ta, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta.” (Ga 12, 32).

Rõ ràng là An-rê có một niềm tin rất vững vàng khi được gặp Chúa, nhưng còn hơn thế nữa, vì thánh nhân đã biết biến niềm tin đó thành hành động. Nếu chỉ tin suông, tin một cách chung chung “ai sao tôi vậy”, thì ai cũng có thể làm được; nhưng thánh An-rê Tông đồ đã không như thế, mà ngài đã sống đức tin một cách rất cụ thể: làm chứng nhân sống để giới thiệu cho mọi người biết Người mà mình đã thấy và đã tin: Đức Giê-su Thiên Chúa. Tông Huấn Lời Chúa “Verbum Domini” (số 18) đã khẳng định: “Trọn lịch sử cứu rỗi đã lần hồi chứng minh cho mối liên kết sâu xa giữa Lời Chúa và đức tin, một đức tin vốn phát xuất từ cuộc gặp gỡ với Chúa Ki-tô.” Thánh An-rê đã gặp gỡ Chúa Ki-tô mà Người chính là Ngôi Lời nhập thể, là Lời Chúa đích thực, nên có thể nói đức tin của thánh nhân là một “Đức tin đến từ điều nghe được, và điều nghe được đến từ Lời Chúa Ki-tô” (Rm 10, 17).

Phải nói một điều Lời Chúa được ban cho những tín hữu là những chứng tá linh hứng của mạc khải; cùng với truyền thống sống động của Giáo hội, nó cấu thành qui luật tối cao của đức tin. Trường hợp thánh An-rê vì đã tin, nên thánh nhân đã rất nhiệt thành giới thiệu Chúa Ki-tô cho người em là Simon bằng những lời lẽ chân tình: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô). Simon được An-rê đưa đến gặp Đức Ki-tô và ngay lập tức được Người đổi tên là Kê-pha (tức là Phê-rô). Sự đổi tên này chứng tỏ Đức Giê-su đã chọn Phê-rô làm viên “Đá Tảng góc tường” xây dựng Hội Thánh (tức Giám mục Rô-ma – Giáo hoàng đầu tiên của Giáo hội). Không những chỉ giới thiệu với anh em ruột hoặc cùng là môn đệ của Thánh Gio-an Tẩy Giả, Thánh An-rê còn nhiệt thành giới thiệu Chúa cho mọi người gặp gỡ trên đường thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng.

Giới thiệu Chúa với mọi người cũng chính là truyền giáo một cách cụ thể và thiết thực, để rồi từ chính việc rao giảng Lời Chúa đã phát sinh ra đức tin, nhờ đó, người tín hữu đồng tâm nhất trí với chân lý đã được mạc khải và hoàn toàn tín thác vào Chúa Ki-tô. Quả thật “đức tin mang dáng dấp một cuộc gặp gỡ với Đấng ta tín thác trọn đời ta cho Người” (Tông huấn “Verbum Domini”, số 18). Vậy thì tại sao người Ki-tô hữu chúng ta lại không mở rộng trái tim, mở rộng cửa lòng ra đón tiếp để được gặp gỡ Đức Ki-tô? Khi đã được gặp gỡ Đức Ki-tô như thánh An-rê, chắc chắn một điều chúng ta sẽ có một đức tin vững mạnh, mà “Đức tin là hy vọng” (Thông điệp Đức Tin là Hy vọng “Spe Salvi”, số 2), nên khi chúng ta tin và phó thác đời mình trong tay Chúa, chúng ta sẽ tràn trề hy vọng được nhận ơn Cứu Rỗi của Đấng mà chúng ta đã tin. Một cách cụ thể, chúng ta tin và chúng ta hành động, bởi “đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2, 17).

Nhìn thẳng vào trường hợp thánh An-rê, có thể rút ra kết luận: hành vi đức tin của người tín hữu cùng một lúc vừa có tính bản thân vừa có tính Giáo hội. Nói một cách dễ hiểu thì hành vi đức tin của chúng ta cùng một lúc có 2 chiều kích: chiều kích cá vị (riêng bản thân mình) và chiều kích cộng đồng (chung cả Giáo hội). Cụ thể hơn nữa, vì đối tuợng mà chúng ta tin là Thiên Chúa Tình Yêu nên khi chúng ta “nhận về” đức tin thì chúng ta cũng phải “cho đi” (chia sẻ) đức tin ấy cho anh em. Vâng, “đức tin không phải là thành tựu của các cá nhân cô lập; nó không phải là một hành vi mà ai đó có thể tự mình diễn xuất, mà đúng hơn, nó là một điều cần được tiếp nhận bằng cách đi vào hiệp thông Giáo hội, một hiệp thông chuyển giao ơn phúc Thiên Chúa.” (Thông điệp Ánh Sáng Đức Tin “Lumen Fidei”, số 41).

Ôi! Lạy Chúa! Xin ban đức tin cho chúng con để chúng con có thể noi gương thánh An-rê Tông đồ, luôn sẵn sàng đến với anh em – nhất là những anh em đang gặp thử thách trong sức khoẻ hay trong đời sống – để cùng nhau chia sẻ đức tin mà mình đã coi là nguồn sống duy nhất của mọi Ki-tô hữu. Lạy Mẹ Maria! Mẹ là “Mẹ Lời Chúa” và cũng là “Mẹ đức tin”! Cúi xin Mẹ dạy chúng con hai tiếng “xin vâng” như Mẹ đã thực hiện trong suốt cuộc đời của Mẹ nơi trần thế, để chúng con luôn biết “lắng nghe và suy nghĩ trong lòng” Lời Chúa, ngõ hầu chúng con có thể giới thiệu Lời Chúa cho mọi người như thánh An-rê Tông đồ thủa xưa. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

Thiên Chúa luôn kêu gọi và muốn con người cộng tác trong công trình cứu độ. Đó là chủ đề của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay.

Thiên Chúa quyền phép vô cùng, làm được mọi sự. Nhưng Ngài không muốn làm một mình, mà luôn kêu gọi con người cộng tác với Ngài.

– Khởi đầu lịch sử cứu độ, Thiên Chúa chọn ông Abraham làm cho ông trở nên cha của mọi dân tộc đông đúc. Từ dòng đời này phát sinh Đấng Cứu Thế.

– Để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của đế quốc Ai Cập, Thiên Chúa đã chọn Môisen lãnh đạo dân Do Thái.

– Để có một lãnh tụ dẫn dắt dân Ngài, Thiên Chúa đã chọn kẻ nhỏ nhất, yếu đuối nhất. Đó là cậu bé Đavít.

– Để cho lời hứa ban Đấng Cứu Thế được thực hiện, Thiên Chúa đã chọn Đức Maria, một thiếu nữ vô danh miền Nazaret.

– Để tiếp tục công việc loan báo Tin mừng và cứu độ trần gian, Chúa đã chọn 12 tông đồ, 72 môn đệ.

Thiên Chúa luôn kêu gọi và muốn con người cộng tác với Ngài trong việc cứu độ nhân thế. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay chứng minh rất rõ chân lý trên:

Thiên Chúa chọn và gọi Samuel để ông thay thế thầy cả Heli. Ngài gọi ông 3 lần và Samuel đã thưa: “Xin Ngài cứ phán, tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”.

Thế là Samuel đã trở thành thủ lĩnh dân Do Thái.

Bài Tin mừng ghi lại biến cố Chúa Giêsu gọi và chọn 3 tông đồ đầu tiên là Gioan, Anrê và Phêrô. Các tông đồ đi theo Chúa, đến gặp gỡ Chúa và ở lại với Người. Chính Chúa Giêsu đã gọi họ đích danh: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha”.

Ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu khởi đi từ việc đến gặp gỡ Chúa Giêsu. Đi theo Chúa Giêsu hay gặp gỡ Chúa Giêsu là bước đầu cần thiết để trở thành môn đệ. Gặp gỡ gắn bó với Chúa Giêsu là mục đích tối hậu của người môn đệ (Ga 1,37). Sau đó những công việc mục vụ và rao giảng sẽ là thành quả của việc gặp gỡ này.

Từ việc gặp gỡ “đến mà xem” tới việc ở lại với Người. Trăm lần nghe không bằng một lần thấy; ở lại với Người để thấy, để hiểu, để yêu mến và noi gương sống như Người.

Gặp gỡ Đức Kitô trong cuộc sống của mình, rồi phải giới thiệu Chúa đến với tha nhân qua việc chu toàn bổn phận mà Chúa trao phó. Đó là bổn phận, sứ mạng của người môn đệ Chúa Kitô và người kitô hữu.

Theo đạo Công Giáo không phải đi theo một tổ chức hay gia nhập một đảng phái… nhưng là đi theo một nhân vật độc đáo là Đức Giêsu và qua Chúa Giêsu đến với Chúa Cha.

Qua Tông Huấn Lời Chúa, Đức Giáo Hoàng Benêđictô XVI nhắc nhở chúng ta: “Đời sống Kitô hữu có đặc tính chủ yếu là gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng hằng kêu gọi chúng ta bước theo Ngài” (Verbum Domini số 72).

Làm cách nào chúng ta có thể gặp gỡ Đức Giêsu trong cuộc sống hôm nay?

– Gặp gỡ Chúa trong thánh kinh, trong lời của Người, học hỏi, suy niệm lời Chúa. Thánh Giêrônimô dạy: “Không biết Kinh thánh là không biết Đức Giêsu”.

– Cao điểm của cuộc gặp gỡ Đức Giêsu là thánh lễ. Vì thánh lễ là trung tâm đời sống Giáo hội và đời sống Kitô hữu. Tông huấn Verbum Domini số 52 dạy: “Chính Chúa Giêsu đã hiện diện trong lời của Người, vì chính Người nói khi ta đọc kinh thánh trong Giáo hội”.

– Gặp gỡ Đức Giêsu qua việc cầu nguyện và suy niệm lời Chúa hằng ngày.

– Gặp gỡ Đức Giêsu một cách cụ thể qua việc bác ái, giúp đỡ những người nghèo khổ… “Cho anh em một chút nước lạnh, là cho chính Chúa”.

Ngày xưa Chúa kêu gọi Samuel, các tông đồ Gioan, Anrê, Phêrô… Ngày nay Chúa cũng kêu gọi mỗi người chúng ta làm môn đệ để đem Tin mừng cho anh em. Chúng ta hãy mau mắn, quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa như các môn đệ, như Samuel xưa: “Lạy Chúa, xin hãy phán, này tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”.

Về mục lục

.

NGHỀ MAI MỐI

Ngày xưa, chuyện cưới xin ở Việt Nam thường lệ thuộc vào “ông mai bà mối”. Vì thế, “mai mối” được xem như một nghề. Nếu kết quả tốt, thì “ông mai bà mối” được hưởng cái “đầu heo”. Thực vậy, khi nhà trai muốn kiếm vợ cho con, họ rất cần người mai mối. Họ nhờ vả “ông mai bà mối” kiếm cho họ một cô con dâu như ý. Nhiều gia đình có con gái đến tuổi cập kê mà chưa kiếm ra chồng, thì họ cũng nhờ đến “ông mai bà mối”. Sở trường của người mai mối, là phải thật dẻo mồm dẻo miệng. Điều dở cũng phải nói thành hay. Như thế, mới hy vọng kết mối tơ duyên cho đôi bạn. Điều đặc biệt của các “ông mai bà mối”, là họ thường đóng vai trò con thoi. Họ đi đi lại lại giữa hai gia đình. Nhiệm vụ của họ là giới thiệu cho hai gia đình quen biết nhau, đốc thúc hai bên gặp gỡ nhau, thăm viếng nhau, làm quen nhau, rồi đề nghị đám hỏi, đám cưới. Theo dòng thời gian, với cuộc sống hiện đại, khi các mối quan hệ càng ngày càng mở rộng, thì xem ra các bạn trẻ dễ dàng tìm được người bạn đời ưng ý hơn. Nhưng trên thực tế, chuyện mai mối vẫn đang diễn ra hàng ngày. Chỉ có hình thức mai mối là khác. Hiện tượng mai mối cũng khác. Ông mai bà mối cũng khác ngày xưa. Ngày nay “ông mai bà mối” có thể là một người bạn, người anh, người chị, người em; thậm chí có khi chỉ là chiếc điện thoại, hay cái máy vi tính, cũng thành mai mối tình duyên. 

Thiên Chúa rất muốn đến với con người. Nhưng Ngài cũng rất cần ông mai bà mối. Thiên Chúa cần một ai đó nhiệt tâm, giới thiệu tình yêu của Ngài cho con người. Thiên Chúa cần “ông mai bà mối” nói thật hay, sống thật tốt, để giới thiệu Chúa cho mọi người. Cụ thể, hôm nay, trong phạm vi Giáo xứ của mình, Thiên Chúa cũng đang cần ta “làm mai làm mối”, để giới thiệu Chúa cho những người chung quanh. Vậy ta hãy nói về tình yêu của Chúa. Hãy mạnh dạn giới thiệu Chúa cho mọi người. Ngày xưa, các nhà truyền giáo đã làm nghề “mai mối”, để giới thiệu Chúa cho tổ tiên chúng ta. Hôm nay đến lượt mỗi người chúng ta. Mình có bổn phận làm “ông mai bà mối” cho anh em, cho bạn bè của mình. Thánh Gioan Tẩy Giả cũng từng là “ông mai” cho Đấng Cứu Thế. Gioan đã giới thiệu Chúa cho hàng ngàn người đang đứng bên ông. Gioan tận dụng thời cơ để “làm mai” Chúa cho các môn đệ của ông, cho bà con láng giềng và cho cả dân tộc của ông. 

Tuy Thiên Chúa là Đấng quyền năng, Ngài có thể tự tỏ mình cho nhân loại, không cần sự trợ giúp của con người. Ngài không cần ai “làm mai làm mối”. Nhưng Thiên Chúa không làm như thế. Ngài không tự biểu dương mình. Ngài rất cần người “làm mai”, rất cần người giới thiệu. Ngài muốn con người là nhịp cầu, để cho Ngài đến với nhân loại. Vậy, nếu ta đã cảm nhận được tình yêu quan phòng kỳ diệu của Chúa trong cuộc đời mình, thì ta hãy “làm mai” tình yêu kì diệu ấy cho mọi người. Đó là cách ta bày tỏ lòng biết ơn Chúa. Thế nên, không phải chỉ có Gioan mới được Chúa mời gọi làm người “mai mối” cho Ngài đến với nhân loại. Không phải chỉ có Gioan mới có khả năng làm chứng cho Thiên Chúa, mà tất cả những ai mang danh Kitô hữu. Qua Bí tích Rửa tội, ta được mời gọi làm chứng cho Chúa. Làm chứng bằng lời nói và hành động. Vậy, ta hãy mạnh dạn nói về Chúa. Hãy chia sẻ niềm vui được làm con Chúa cho mọi người. 

Ước gì ta biết noi gương thánh Gioan: luôn nói về Chúa trong mọi hoàn cảnh. Dù ở hoang địa hay ngoài đường phố, thậm chí cả trong ngục tù. Hãy tận dụng mọi hoàn cảnh Chúa ban, để làm chứng cho tình yêu Chúa bằng cuộc sống của chính mình.

AVE MARIA

Về mục lục

.

ĐỔI ĐỜI

Trầm Thiên Thu

Sau khi những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng, người ta đến kể lại cho Chúa Giêsu nghe. Nhưng Ngài thản nhiên nói với họ: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ CHẾT HẾT y như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối thì các ông cũng sẽ CHẾT HẾT y như vậy” (Lc 13:2-5).

Mặc dù Chúa Giêsu không hề dùng chữ “đổi đời” nhưng ý Ngài muốn chúng ta đổi đời, tức là Ngài muốn chúng ta biến đổi (thay đổi, canh tân) để nên thánh. Muốn vậy thì phải từ bỏ ý riêng mà chấp nhận theo ý Chúa, nếu không chấp nhận thì không thể vâng lời – tuân phục. Lô-gích lạ lùng quá! Quả thật, tuân phục Thánh Ý Chúa là điều vô cùng quan trọng trong đời sống Kitô hữu, chính Đức Maria đã tiên phong nêu gương nhân đức này qua lời “xin vâng” khi được Sứ thần Gabriel truyền tin (x. Lc 1:38). Quá trình tìm kiếm và nhận biết Ý Chúa là điều không dễ, chấp nhận và hành động theo Ý Chúa lại càng khó hơn. Trong cuộc sống, không ai lại không muốn theo ý mình, thậm chí nhiều khi người ta còn muốn biến Ý Chúa theo ý mình. Thế nên, việc bỏ ý riêng mà hoàn toàn tuân phục Ý Chúa là điều rất quan trọng.

Có nhiều dạng biến đổi – đơn giản nhất là thay chiếc áo, và “cao cấp” hơn là từ bỏ một thói quen, nhưng dạng đặc biệt nhất là Sự Chết. Ngưỡng-Sinh-Tử là “khoảng” thực sự kỳ diệu nên được gọi là “mầu nhiệm sự chết” như Thánh Phaolô xác định: “Không phải tất cả chúng ta sẽ chết, nhưng tất cả chúng ta sẽ được biến đổi” (1 Cr 15:51).

CHÂN THÀNH LẮNG NGHE

Cuộc sống luôn có những hệ lụy hợp lý, tương tự một tam đoạn luận (*). Muốn tìm kiếm và nhận biết Ý Chúa thì trước tiên phải biết lắng nghe, đặc biệt là lắng nghe tiếng Chúa – điều Thiên Chúa mặc khải. Kinh Thánh cho biết: Một đêm nọ, Chúa gọi Samuel, mà cậu cứ tưởng ông Êli gọi nên vội chạy đến bên ông, nhưng ông Êli bảo ông không gọi. Cậu lại đi ngủ. Chúa lại gọi Samuel lần nữa. Samuel lại dậy, đến với ông Êli, nhưng ông Êli xác định là ông không hề gọi cậu. Lúc đó Samuel chưa nhận biết Chúa, vì “lời Đức Chúa chưa được mặc khải cho cậu” (1 Sm 3:7).

Sau đó, Đức Chúa lại gọi Samuel lần thứ ba. Cậu lại dậy và đến với ông Êli. Bấy giờ ông Êli hiểu là Đức Chúa gọi nên nói Samuel cứ đi ngủ, và dặn rằng hễ nghe gọi thì thưa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:9). Samuel đi ngủ. Đức Chúa đến, đứng đó và gọi như những lần trước: “Samuel! Samuel!”. Samuel liền thưa: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:10). Động thái mau mắn của Samuel là bài học và là điều cần thiết đối với mỗi chúng ta, vì Chúa gọi là việc của Chúa, hợp tác hay không là việc của chúng ta. Samuel đã lắng nghe, đã nhận biết tiếng Chúa và đã tích cực hợp tác, do đó “Đức Chúa ở với Samuel và Ngài không để cho một lời nào của Ngài ra vô hiệu” (1 Sm 3:19). Tuyệt vời!

Tuy là Đấng chí thánh và cao cả, nhưng Thiên Chúa không xa cách mà rất gần gũi chúng ta. Phần chúng ta là phải đáp lại Ngài để có thể vui mừng và hãnh diện nói được như Thánh Vịnh gia: “Tôi đã hết lòng trông đợi Chúa, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu” (Tv 40:2). Thiên Chúa thật giản dị và rất bình dân, Ngài không đòi hỏi gì vì Ngài có tất cả: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi” (Tv 40:7). Ngài chỉ muốn chúng ta thành tâm yêu mến Ngài. Và thật lạ, ngay cả khi chúng ta ca tụng Ngài thì cũng chẳng thêm gì cho Ngài mà chỉ thêm ích lợi cho chính chúng ta, và Ngài chỉ cần chúng ta mau mắn đáp lại bằng cách nói ngay: “Này con xin đến! Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con” (Tv 40:28-9). Một khi nhận biết Ngài rồi thì chúng ta phải “loan truyền đức công chính của Ngài” và không được “ngậm miệng làm thinh” (x. Tv 40:10). Vô tri bất mộ – không biết thì không mến, nhưng biết rồi thì không thể không hành động.

Cuộc đời có thuận lý và cũng có nghịch lý, cả phương diện xã hội lẫn tinh thần. Những người dám sống theo Ý Chúa thì thường bị ghen ghét. Thánh Phaolô đã từng cảnh báo: “Khi phải xét xử những việc đời này, anh em lại đặt những người mà Hội Thánh coi nhẹ làm quan toà! Tôi nói thế cho anh chị em phải xấu hổ. Anh chị em đã kiện cáo nhau thì chớ, lại còn đem nhau ra trước toà những người không có đức tin! Dù sao, nguyên việc anh em kiện cáo nhau đã là một thất bại cho anh chị em rồi” (1 Cr 6:4-7). Người sống theo Ý Chúa thì luôn cố gắng bảo vệ công lý, kiến tạo hòa bình và tôn trọng nhân quyền. Không thể nói rằng sống theo Ý Chúa mà lại ăn ở bất công, bóc lột, ức hiếp đồng loại, như vậy chỉ là bất chính. Chắc chắn “những kẻ bất chính sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp” (1 Cr 6:9). Tuy nhiên, cũng nên cảnh giác vì cổ nhân nói: “Tâm phẫn xí, tắc bất đắc kỳ chính”. Cơn giận cũng khiến người ta hóa bất chính. Thật lạ lùng và cũng thật đáng sợ!

QUYẾT TÂM HÀNH ĐỘNG

Lắng nghe không dễ thực hiện, hành động lại càng khó hơn. Vì chúng ta là “người xấu” (Lc 11:13) nên dễ “nhìn xuống” mà khó “nhìn lên”, bởi vì “tinh thần thì hăng say nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:41; Mc 14:38). Thật là khốn nạn quá! Thánh Phaolô liệt kê một số “bất chính” điển hình: “Những kẻ dâm đãng, thờ ngẫu tượng, ngoại tình, truỵ lạc, kê gian, trộm cướp, tham lam, say sưa rượu chè, quen chửi bới, sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp” (1 Cr 6:9-10). Trước mặt Thiên Chúa, ai cũng là tội nhân khốn kiếp, “nhưng chúng ta đã được tẩy rửa, được thánh hoá, được nên công chính nhờ danh Chúa Giêsu Kitô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta!” (x. 1 Cr 6:11). Đó là niềm hạnh phúc lớn lao lắm!

Thánh Phaolô tâm sự: “Tôi được phép làm mọi sự, nhưng không phải mọi sự đều có ích. Tôi được phép làm mọi sự, nhưng tôi sẽ không để sự gì làm chủ được tôi” (1 Cr 6:12). Tham ăn tham uống là ngoại tại, nhưng lại có hệ lụy với nội tại: “Thức ăn dành cho bụng, và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ huỷ diệt cả cái này lẫn cái kia. Nhưng thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác” (1 Cr 6:13). Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại, chính Ngài cũng sẽ dùng quyền năng mà làm cho chúng ta sống lại, thân xác chúng ta là chi thể của Đức Kitô, vì thế chúng ta phải có trách nhiệm với thân xác của mình. Có sự liên đới giữa ngoại tại và nội tại, giữa thể lý và tinh thần.

Về phần thể lý, Thánh Phaolô nói: “Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình” (1 Cr 6:18). Không chỉ vậy, thân xác còn là “Đền Thờ của Chúa Thánh Thần” (1 Cr 6:19), Thánh Thần đó là Thánh Thần do chính Thiên Chúa đã ban tặng. Chúng ta không còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy chúng ta (x. 1 Cr 6:20). Vì vậy, chúng ta có bổn phận phải tôn vinh Thiên Chúa ngay nơi thân xác của mình.

Trình thuật Ga 1:35-42 kể rằng khi ông Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ, ông chợt nhìn thấy Đức Giêsu đi ngang qua thì ông liền lên tiếng: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Nghe ông Gioan nói vậy, hai môn đệ của ông Gioan liền đi theo Đức Giêsu, không hề so đo chi ráo trọi. Chắc hẳn họ đã nhận ra Chúa Giêsu là ai nên họ sẵn sàng đi theo Ngài. Động thái “mau mắn theo Chúa” là điều luôn cần thiết trong cuộc sống. Sau đó, Đức Giêsu quay lại và thấy các ông đi theo mình nên Ngài hỏi: “Các anh tìm gì thế?”. Họ đáp: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Ngài không trả lời rõ ràng mà lại bảo họ: “Đến mà xem!”. Họ cũng không thắc mắc và liền đến xem chỗ Chúa Giêsu cư ngụ, và họ ở lại với Ngài ngày hôm ấy. Họ nhận biết Chúa nên họ luôn nghe lời Ngài dạy bảo. Đó là hệ lụy tất yếu của động thái nhận biết và tin tưởng.

Một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu đó là ông Anrê, anh của ông Simôn Phêrô. Ông Anrê gặp em mình là ông Simôn và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (nghĩa là Đấng Kitô, Đấng Thiên sai). Rồi ông dẫn em trai đến gặp Đức Giêsu. Lúc đó, Đức Giêsu nhìn ông Simôn và nói: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” – Kêpha tức là Phêrô, nghĩa là Đá.

Cuộc đời có nhiều dạng thay đổi, thậm chí có khi là thay tên đổi họ. Chúa Giêsu đã đặt tên mới cho ông Simôn và biến đổi cuộc đời ông. Cái tên có thể ảnh hưởng cả cuộc đời, thay tên đổi họ cũng có nghĩa là cuộc đời sang trang mới. Những người tuân phục Ý Chúa cũng sẽ sớm trở thành “con người mới”, và có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2:20). Khi thực sự nhận biết Chúa, người ta sẽ can đảm theo Ngài và sẵn sàng tuân phục Ngài, tức là luôn làm theo giáo huấn của Ngài.

Đó là hệ lụy tất yếu trong quá trình biến đổi, “thay tên, đổi họ” vì họ không còn thuộc về thế gian mà thuộc về Thiên Chúa. Thật vậy, “Thiên Chúa không thiên vị người nào. Hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào cũng đều được Ngài tiếp nhận” (Cv 10:34-35). Được Ngài tiếp nhận tức là được trở nên con cái, tất nhiên con cái cũng có trách nhiệm và bổn phận riêng.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con nhận biết Ngài để có thể lắng nghe và tuân phục Ngài, đồng thời luôn can đảm từ bỏ ý riêng mà hành động theo Thánh Ý Ngài mọi nơi và mọi lúc. Xin biến đổi con theo sự quan phòng và tiền định của Ngài, làm cho con trở nên khí cụ bình an của Ngài để minh chứng Lòng Thương Xót vô biên của Ngài. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

(*) Tam đoạn luận [syllogism] là hình thức suy luận diễn dịch gồm 3 mệnh đề: tiền đề lớn, tiền đề nhỏ, và kết luận. Ví dụ: Mọi người đều phải chết, tôi là người, vậy tôi cũng phải chết. Kết luận của tam đoạn luận có giá trị chặt chẽ, vì nó là một kết quả tất yếu, không thể chối bỏ nếu đã thừa nhận tiền đề. Nếu tiền đề đúng, kết luận phải đúng. Nếu tiền đề không đúng, kết luận không thể đúng, nhưng vẫn hợp lý.

Về mục lục

.

LẮNG NGHE TIẾNG CHÚA GỌI

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

Sau Mùa Giáng Sinh, Phụng vụ của Hội Thánh triển khai những hoa trái của mầu nhiệm Nhập Thể là mầu nhiệm Ngôi Lời đã sinh ra làm người và ở giữa loài người để đem hạnh phúc cho mọi người. Một trong những hoa trái ấy là nhiều người được Thiên Chúa mời cộng tác với Người trong công trình cứu chuộc. Thế nhưng muốn nhận ra lời mời của Chúa thì phải biết lắng nghe lời hay tiếng Chúa.

Các bài Sách Thánh của Chúa Nhật II Thường Niên hôm nay tập trung vào ơn gọi mà Thiên Chúa dành cho Sa-mu-en, Gio-an, An-rê và Phê-rô và tất cả các Ki-tô hữu. Mọi người chúng ta đều được Thiên Chúa gọi và chọn làm ngôn sứ của Thiên Chúa và làm môn đệ của Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa làm người. Thiên Chúa không chỉ gọi chúng ta một lần, mà Người gọi chúng ta nhiều lần, trong mỗi ngày, mỗi giờ. Vì thế việc lắng nghe tiếng Chúa gọi là vô cùng quan trọng. Có nghe được tiếng Chúa gọi, chúng ta mới có thể đáp lại tiếng gọi ấy một cách tương xứng.

II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

2.1 Trong bài đọc 1 (1 Sm 3,3b-10.19): Thiên Chúa gọi ông Sa-mu-en.

(3) Sa-mu-en đang ngủ trong đền thờ Đức Chúa, nơi có đặt Hòm Bia Thiên Chúa. (4) Đức Chúa gọi Sa-mu-en. Cậu thưa: “Dạ, con đây!” (5) Rồi chạy lại với ông Ê-li và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con.” Ông bảo: “Thầy không gọi con đâu. Con về ngủ đi.” Cậu bèn đi ngủ. (6) Đức Chúa lại gọi Sa-mu-en lần nữa. Sa-mu-en dậy, đến với ông Ê-li và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con.” Ông bảo: “Thầy không gọi con đâu, con ạ. Con về ngủ đi.” (7) Bấy giờ Sa-mu-en chưa biết Đức Chúa, và lời Đức Chúa chưa được mặc khải cho cậu. (8) Đức Chúa lại gọi Sa-mu-en lần thứ ba. Cậu dậy, đến với ông Ê-li và thưa: “Dạ, con đây, thầy gọi con.” Bấy giờ ông Ê-li hiểu là Đức Chúa gọi cậu bé. (9) Ông Ê-li nói với Sa-mu-en: “Con về ngủ đi, và hễ có ai gọi con thì con thưa: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” Sa-mu-en về ngủ ở chỗ của mình. (10) Đức Chúa đến, đứng đó và gọi như những lần trước: “Sa-mu-en ! Sa-mu-en !” Sa-mu-en thưa: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” (19) Sa-mu-en lớn lên. Đức Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu.

2.2 Trong bài đọc 2 (1 Cr 6,13c-15a.17-20): Ý nghĩa của thân xác con người.

(13) Thưa anh em, thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác. (14) Thiên Chúa đã làm cho Chúa Ki-tô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại. (15) Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao? (17) Ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người. (18) Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình. (19) Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, (20) vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.

2.3 Trong bài Tin Mừng (Ga 1,35-42): Các môn đệ đầu tiên.

(35) Hôm sau, ông Gio-an lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. (36) Thấy Đức Giê-su đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa.” (37) Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giê-su. (38) Đức Giê-su quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: “Các anh tìm gì thế ?” Họ đáp: “Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu ?” (39) Người bảo họ: “Đến mà xem.” Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười.

(40) Ông An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô, là một trong hai người đã nghe ông Gio-an nói và đi theo Đức Giê-su. (41) Trước hết, ông gặp em mình là ông Si-môn và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô). (42) Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giê-su. Đức Giê-su nhìn ông Si-môn và nói: “Anh là Si-môn, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha” (tức là Phê-rô).

III. KHÁM PHÁ DUNG MẠO VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

3.1 Dung mạo của Thiên Chúa trong ba bài Sách Thánh:

1) Thiên Chúa mà Sách Sa-mu-en quyển thứ nhất (1 Sm 3,3b-10.19) tường thuật là một Đấng Thiên Chúa đã thân hành đến gặp cậu bé Sa-mu-en ban đêm trong khi cậu ngủ và gọi cậu bé nhiều lần, cho đến khi cậu hiểu ra rằng đó là tiếng gọi của Thiên Chúa và có lời đáp trả thỏa đáng: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe!” Dĩ nhiên là ngôn sứ Ê-li có vai trò rất quan trọng trong việc giúp Sa-mu-en nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa và biết đáp trả tiếng gọi ấy một cách đẹp lòng Thiên Chúa.

2) Thiên Chúa mà Thánh Phao-lô (1 Cr 6,13c-15a.17-20) muốn cho tín hữu Cô-rin-tô và hết thẩy các tín hữu nhận biết là một Đấng Thiên Chúa đã làm cho Đức Giê-su trỗi dậy từ cõi chết và cũng sẽ làm cho tất cả mọi người sống lại. Vì thế Thiên Chúa có quyền làm chủ cả hồn cả xác chúng ta, vì Người “đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em” và đã làm cho chúng ta trở nên đền thờ của Thiên Chúa. Do đó cả hổn cả xác chúng ta không còn thuộc về chúng ta nữa mà đã thuộc trọn về Thiên Chúa đã là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần. Chúng ta chỉ có thể dùng thân xác mình mà phụng sự Thiên Chúa chứ không được dùng thân xác mà gian dâm vì gian dâm là tội nặng vừa xúc phạm đến chính mình vừa xúc phạm đến Thiên Chúa.

3) Thiên Chúa mà Thánh Gio-an (Ga 1,35-42) muốn giới thiệu với thế giới là Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng được Gio-an Tiền Hô giới thiệu với hai môn đệ thân tín (nhất) của ông là An-rê và Gio-an. Gio-an Tiền Hô giới thiệu Đức Giê-su là “Chiên Thiên Chúa” hàm ý muốn nói: Đức Giê-su Na-da-rét là Đấng có sứ mạng hiến dâng mình làm của lễ toàn thiêu để cứu chuộc nhân loại. Người bắt đầu thực hiện sứ mạng ấy bằng việc chiêu mộ các môn đệ. An-rê và Gio-an là hai môn đệ đầu tiên. Kế đến là Si-mon được anh mình là An-rê đem đến giới thiệu với Đức Giê-su và đã được Chúa Giê-su chấp nhận và đổi tên cho ông thành Phê-rô (nghĩa là Đá).

3.2 Sứ điệp của Lời Chúa trong ba bài Sách Thánh:

Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là Thiên Chúa mời gọi mỗi người chúng ta làm ngôn sứ và làm môn đệ và trông đợi ở mỗi người chúng ta lời đáp trả tương xứng.

Thiên Chúa muốn chúng ta nhận ra Người, nghe thấy tiếng gọi của Người (trong tâm hồn và cuộc sống của chúng ta) mà đáp trả bằng cách bước theo Người, thi hành sứ mạng Người giao phó như Sa-mu-en, Gio-an, An-rê và Phê-rô.

IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY

4.1 Sống với Chúa như con cái sống với cha mẹ, như đệ tử sống với Thầy, như kẻ được gọi và được chọn với Đấng gọi và chọn: Sống các mối tương quan trên trong tâm tình yêu mến, kính trọng và gắn bó mật thiết.

4.2 Thực thi sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là nhận ra tiếng Chúa gọi và đáp lại tiếng gọi ấy như Sa-mu-en: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.”

Để nghe được tiếng Chúa, chúng ta cần

(a) tỉnh thức,

(b) thinh lặng nội tâm, vì Thiên Chúa chỉ nói trong thinh lặng như Chân Phước Tê-rê-xa thành Cal-cut-ta đã nhắn nhủ.

(c) khả năng phân biệt và chọn lựa lời mời gọi của Thiên Chúa và từ khước lời mời gọi của tạo vật hay của bản thân mình tức lời mời gọi của dục vọng, của cải, quyền lực và vinh hoa trần thế.

– Thực thi sứ điệp của Lời Chúa hôm nay còn là tin vào lời giới thiệu của Gio-an Tẩy Giả và của các ngôn sứ xưa và nay mà tìm đến và ở lại với Chúa Giê-su là “Chiên Thiên Chúa” như An-rê và Gio-an: “Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy.”

Để gặp gỡ và ở lại với Chúa Giê-su, chúng ta cần

(a) một tấm lòng đơn sơ, khát khao,

(b) sự nhẫn nại và

(c) chấp nhận cuộc phiêu lưu mà Thiên Chúa dành cho mỗi chúng ta.

V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH

[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]

5.1 «Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho hết mọi người trên thế gian để họ biết lắng nghe Lời Chúa mà sống lương thiện và đạo đức xứng danh con người là tạo vật đã được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Người.

X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.2 «Sa-mu-en thưa: “Dạ, con đây!» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi người biết đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa như cậu bé Sa-mu-en.

X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.3 «Các anh tìm gì thế? – Thưa Thầy, Thầy ở đâu? – Đến mà xem – Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, có được mối tương quan và sự hiểu biết riêng tư, thân mật và sâu đậm với Thiên Chúa!

X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.

5.4 «Thưa anh em, thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho các bạn trẻ công giáo cũng như không công giáo, để họ biết quý trọng, giữ gìn và bảo vệ thân xác mình cho xứng danh là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần.

X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.

Về mục lục

.

HỌ ĐẾN VÀ Ở LẠI VỚI NGƯỜI

Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện

Được công bố trong khung cảnh những ngày bắt đầu chu kỳ Thường Niên, bài Tin Mừng hôm nay (Ga 1,35-42) nêu bật sự bắt đầu một giai đoạn mới với sự xuất hiện của Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên bước theo Người.

Mở đầu bài Tin Mừng, chúng ta gặp một sự xác định thời điểm mới trong trình thuật của sách Tin Mừng thứ tư: “Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông” (c.35). Đó là ngày thứ ba kể từ sự kiện người Do Thái cử người đến chất vấn ông Gioan rằng ông là ai (1,19tt). Ông Gioan lại đang đứng ở chỗ của ngày hôm trước. Đó là cách tác giả ngầm nói với chúng ta về một tình trạng tĩnh, không tiến triển. Và quả thực, trong đoạn văn này không có bất cứ một động từ nào diễn tả sự di chuyển của ông Gioan. Nhưng sứ mạng của ông chưa kết thúc, cho đến khi nào Đức Giêsu bắt đầu sứ mạng của Người. Một khi Đức Giêsu đi ngang qua ông và tiến đi tiếp (trong hành trình sứ vụ của Người), thì ông sẽ không còn xuất hiện ở chỗ đó nữa, vì sứ mạng của ông đã kết thúc. Còn bây giờ, ông vẫn đang đứng đó. Bên cạnh ông là hai người trong nhóm môn đệ của ông. Họ đã nghe ông giảng dạy và đã nhận phép rửa của ông. Tác giả Tin Mừng đã không ghi “hai môn đệ” mà ghi là “hai người trong nhóm môn đệ”, chứng tỏ đã có cả một nhóm đông người đón nhận lời giảng dạy và phép rửa của ông Gioan. Vậy cùng với ông Gioan, hai người môn đệ này của ông đang đứng đó trong tư thế chờ đợi. Nhưng có một sự khác biệt: ông Gioan đã biết Đấng Mêsia (1,29) còn họ thì chưa.

“Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa” (c.36). Ở đây có một chi tiết nhỏ nhưng rất đáng chú ý: ngày hôm trước, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình (1,29), còn hôm nay, vẫn đứng đó, ông lại “thấy Đức Giêsu đi ngang qua”. Quả thật, đúng như lời ông nói: “Người đến sau tôi, nhưng trổi vượt hơn tôi” (c.15), bây giờ ông đã ở phía sau rồi. Đó là thời khắc của một sự thay đổi quan trọng, thời điểm chấm dứt vai trò của vị tiền hô, vì Đấng ông loan báo đã bắt đầu hoạt động của Người rồi. Vào thời khắc quan trọng đó, ông Gioan công bố trước mặt hai môn đệ của ông: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Ông nói cho họ biết Đức Giêsu là Đấng Mêsia, Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian (xem c.29). Ông chỉ cho họ thấy một cách cụ thể nội dung mà sự mong chờ của phép rửa do ông thực hiện đang hướng đến.

“Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu” (c.38). “Đi theo Đức Giêsu” là một thuật ngữ được áp dụng cho các môn đệ của Đức Giêsu (1,43; 8,12; 10,4; 12,26; 13,36; 21,19). Hai người môn đệ của ông Gioan, như thế, đã quyết định sẽ trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Họ đã lập tức lấy quyết định dứt khoát. Sự dứt khoát và lập tức này cho thấy họ đã hiểu sứ điệp của ông Gioan. Ông Gioan đương nhiên không hề phản đối quyết định của hai môn đệ, trái lại, có lẽ ông rất vui mừng trước quyết định đó. Vì ông biết Đức Giêsu mới là Chú Rể, như lời ông nói: “Chính anh em làm chứng cho thầy là thầy đã nói: “Tôi đây không phải là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (3,28-30).

Vậy hai môn đệ đi theo Đức Giêsu. Trong im lặng. Tức là trong sự chờ đợi. Cuộc tìm kiếm của họ đã được bắt đầu với việc họ rời ông Gioan và đi theo Đức Giêsu, nhưng chưa đạt đến đích nếu không có sáng kiến của Đức Giêsu. Biết rằng họ đang đi theo mình, Đức Giêsu quay lại và hỏi họ. Người ân cần quan tâm đến khát vọng và sự tìm kiếm chân thành và tốt lành của con người. Người hỏi họ: “Các anh tìm gì thế?” (c.38a).Đức Giêsu muốn biết họ tìm cái gì nơi Người, họ chờ đợi gì nơi Người, họ nghĩ Người có thể làm gì cho họ.

Họ đáp: “Thưa Rabbi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?” (c.38). Hai môn đệ gọi Đức Giêsu bằng một tước hiệu đầy kính trọng, và là cách gọi cho thấy họ ý thức rằng Người có thể ban cho họ những giáo huấn giá trị, rằng Người có thể cho họ biết những điều họ chưa biết. Họ vốn là môn đệ ông Gioan, nhưng đó chỉ là một hoàn cảnh tạm bợ, hoàn cảnh của sự trông chờ Đấng mà chính ông Gioan loan báo là đang đến.

Đương thời, mối tương quan tôn sư – môn đệ không chỉ là tương quan giữa người truyền và người nhận kiến thức, mà còn là và chính yếu là một cách sống. Môn đệ lấy cách sống của tôn sư làm chuẩn mực cho mình. Chính vì thế, trong ước muốn làm môn đệ của Đức Giêsu, hai người đồ đệ này muốn biết Người sống ở đâu. Chắc chắn đó phải là một nơi chốn (và tình cảnh cũng như cách thức sống) khác với của ông Gioan (mà họ đã từng biết). Kèm với lời hỏi “Thầy ở đâu?”, như thế, là một lời thưa với Đức Giêsu về quyết định của họ rời xa vị tôn sư của giai đoạn cũ để đến sống dưới ảnh hưởng của Người. Quyết định này hoàn tất sự đoạn tuyệt mà phép rửa bằng nước do ông Gioan cử hành là biểu tượng. Đồng thời, câu hỏi đó cũng có giá trị của một lời xin Đức Giêsu nhận họ làm môn đệ của Người.

“Người bảo họ: “Đến mà xem” (c.39a). Đức Giêsu trả lời trực tiếp cho lời xin gián tiếp trong lời hỏi của các ông. Người đưa ra một lời mời gọi rằng chính họ hãy đến để trải nghiệm một cách cụ thể và thực tế cuộc sống chung với Người trong tư cách là đồ đệ của Người. Khi đó, họ sẽ có thể tìm ra câu trả lời cho câu hỏi của họ. Rõ ràng là để trở thành môn đệ của Đức Giêsu, trước hết, cần phải bước vào trong vùng sự sống của Người, nơi Người đang sống.

“Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (c.39b). Họ đã bước vào vùng của sự sống, trải nghiệm về ân nghĩa và sự thật trong đó (1,14). Trải nghiệm trực tiếp đó đã giúp họ đi đến quyết định cuối cùng là ở lại với Đức Giêsu. Trong Ga, đây là hai môn đệ đầu tiên đến nơi Đức Giêsu sống. Như thế là bắt đầu xuất hiện cộng đoàn mới, cộng đoàn Mêsia, cộng đoàn những kẻ sẽ có thể nói: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật “(c.14). Rõ ràng đây là một thời khắc quan trọng.

“Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười”. Theo cách tính của chúng ta ngày nay là khoảng bốn giờ chiều. Theo cách tính của người Do Thái, đó là thời điểm cuối ngày và chuẩn bị bước sang ngày mới, vốn bắt đầu vào khoảng 6 giờ chiều của chúng ta. Ngày cũ sắp chấm dứt. Ngày mới sắp xuất hiện. Khi ngày mới bắt đầu cũng là lúc đánh dấu sự chấm dứt của dân cũ và sự khởi đầu của dân mới. Dân cũ đã sắp chấm dứt vai trò của mình, và đó là lúc Đức Giêsu bắt đầu gây dựng nhóm của Người.

“Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước tiên, ông gặp em mình là ông Simôn và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (nghĩa là Đấng Kitô)” (cc.40-41). Trải nghiệm của ông Anrê với Đức Giêsu đã lập tức gây nên nơi ông cái ý thức về tính cách khẩn thiết phải làm cho những người khác biết về Người. Trước tiên, ông tìm gặp và loan báo cho em trai mình. Nói “ trước tiên” tức là ông không chỉ giới thiệu với ông Simôn mà thôi, nhưng còn với rất nhiều người khác nữa. Ông Simôn đã không được nghe ông Gioan giới thiệu về Đức Giêsu, và ông chưa đi theo Người. Ông Anrê báo tin cho ông Simôn bằng một công thức khá đặc biệt: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (nghĩa là Đấng Kitô)”. Chắc chắn ông Simôn là một trong số những người đang tha thiết với niềm mong chờ Đấng Mêsia mà ông Gioan đã loan báo ở 1,27. Khi nói với Simôn rằng các ông đã gặp Đấng Mêsia, là ông Anrê loan báo cho ông Simôn biết sự chờ đợi đó đã kết thúc, Đấng Mêsia đang hiện diện rồi.

Quan niệm về “Đấng Mêsia” của ông Anrê lúc này cần được giải thích trong quy chiếu về hai sự kiện: lời công bố của ông Gioan (“Đây là Chiên Thiên Chúa” ở c.36) và lời giải thích của tác giả Ga (“nghĩa là Đấng Kitô”). Với ẩn dụ Con Chiên, ông Anrê hiểu Đức Giêsu là Đấng Mêsia trong tư cách Đấng thực hiện cuộc Vượt Qua mới, Đấng sẽ dùng cái chết của mình mà giải thoát dân Người khỏi sự chết. Người sẽ khai mở một giao ước mới,thay thế các thiết chế của giao ước cũ đã bị vượt quá. Quan niệm “ Đấng Kitô” quy chiếu về mầu nhiệm Thần Khí ngự xuống trên Đức Giêsu (1,32) và Người chính là Đấng làm phép rửa trong Thần Khí (c.33). Ông Anrê đã được trải nghiệm về tình yêu, ân sủng và sự thật nơi Đức Giêsu, và ông loan báo điều đó cho ông Simôn, em trai mình.

Ông Anrê đã nhấn mạnh trải nghiệm quan trọng đó không phải như một trải nghiệm cá nhân đơn độc, mà là trải nghiệm của cộng đoàn các đồ đệ. Ông nói “Chúng tôi đã gặp”. Trải nghiệm về Đấng Mêsia luôn luôn là một trải nghiệm mang chiều kích cộng đoàn.

“Rồi ông Anrê dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simôn và nói: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” (tức là Phêrô)” (c.42). Ông Simôn không có sáng kiến tự mình đến với Đức Giêsu. Ông thụ động để cho ông Anrê dẫn đến. Chúng ta cũng không thấy ông bình luận bất cứ câu nào về lời giới thiệu của ông Anrê. Ông không nói một lời nào trong toàn bộ trình thuật này.

Đức Giêsu nhìn ông Simôn. Đây chắc chắn không phải là một cái nhìn bình thường hay thoáng qua. Trước đây, ông Gioan cũng đã nhìn Đức Giêsu và rồi tuyên bố “Đây là Chiên Thiên Chúa” (c.36). Cái nhìn của Chúa Giêsu đối với ông Simôn lúc này cũng tương tự như vậy. Người nhìn ông, rồi tuyên bố: “Anh là…”. Vì thế, đó không phải là một cái nhìn tuyển chọn, mà là cái nhìn thẩm thấu, cái nhìn để nhận định.

Đức Giêsu xác định ông Simôn là “con ông Gioan”, và tác giả Ga đặt mạo từ trước hạn từ “con”. Điều này gây khó khăn cho cách hiểu rằng thân phụ của ông Simôn có tên là Gioan, vì ngay ở câu 41 tác giả vừa nói rõ Simôn là em trai của Anrê (tức không thể là con trai duy nhất của ông Gioan được). Đàng khác, danh xưng Gioan từ đầu đến đây được dùng để gọi ông Gioan Tẩy Giả (cc.35.40). Vì vậy, nhiều người chấp nhận cách hiểu rằng ông Simôn một đàng thuộc về phong trào của ông Gioan Tẩy Giả, một đàng khác, ông chưa hề được nghe chứng từ của ông Gioan về Đức Giêsu, cũng chưa hề đi theo Đức Giêsu như hai người môn đệ kia.

Rồi Đức Giêsu tuyên bố rằng ông Simôn sẽ được gọi là Kêpha. Tác giả Ga là tác giả sách Tin Mừng duy nhất ghi tên Aram của ông Simôn là Kêpha, một têngọi khá phổ biến trong tiếng Aram, và có nghĩa là đá, tương tự như tên gọi Petros trong tiếng Hy Lạp. Tác giả Ga không hề nói rằng Đức Giêsu đổi tên cho ông Simôn thành Phêrô. Trong Ga, không bao giờ Đức Giêsu gọi nhân vật này là Phêrô; chỉ có tác giả Ga mới gọi ông là Simôn Phêrô trong một số trường hợp (thí dụ: 1,40; 6,6.68…).

Cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với ông Simôn ở đây là một cuộc gặp gỡ rất đặc biệt. Đức Giêsu không chủ động gặp ông hay bắt chuyện với ông, cũng không kêu mời ông đi theo Người. Về phần mình, ông Simôn hoàn toàn thụ động, và cuối cùng, ông cũng chẳng ngỏ lời xin làm môn đệ của Đức Giêsu. Rồi sau khi đã gặp Đức Giêsu, ông Simôn chẳng hề giới thiệu Người với bất cứ ai, khác hẳn ông Anrê là anh trai của ông. Người môn đệ đầu tiên mà Đức Giêsu chủ động kêu gọi, trong Ga, ngay sau đoạn Tin Mừng mà chúng ta suy niệm hôm nay, chính là ông Philípphê (1,43). Phải đến cuối sách, ở chương 21, sau khi ông Simôn đã ba lần tuyên bố về tình yêu của ông đối với Đức Giêsu, chúng ta mới thấy Đức Giêsu ngỏ lời với ông như Người ngỏ với ông Philípphê ngay từ giây phút đầu gặp gỡ.

Rất nhiều khi trong cuộc đời, chúng ta thấy mình được may mắn và hăng hái như ông Anrê. Nhưng cũng rất nhiều khi chúng ta thấy mình giống như ông Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay vậy… Nhưng chính nhân vật có vẻ thụ động, chẳng có gì hấp dẫn và xuất hiện trong một tình cảnh chẳng có gì nổi bật này, lại là petros, nghĩa là tảng đá…

Về mục lục

.

ĐƯỢC KÊU GỌI

P . Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn lời Chúa hôm nay ( Ga1, 35 – 42), Chúa Nhật II thường niên, trước Mùa Chay, cho chúng ta một chủ đề về “ơn kêu gọi”.

Bài đọc I hôm nay (1 Sm 3, 3b -10. 19) trình thuật việc Chúa gọi Samuel, đoạn Lời Chúa nầy luôn gắn liền với ơn kêu gọi, cụ thể ơn gọi tu trì, tức bước theo sát Chúa Giêsu trên con đường rao giảng Tin Mừng, đồng thời là “con đường Thập giá”. Vì, muốn đến vinh quang phải bước qua Thập Gía.

Theo đó, Chúa gọi Samuel đến bốn lần, ba lần trước ông đều chưa nhận ra, đến lần thứ tư, thầy cả Hê-ly nhận ra và căn dặn ông, nếu :”Nghe tiếng gọi nữa, thì hãy thưa: Lạy Chúa nầy con đây”.

Vâng, biết đáp lại Tiếng Chúa gọi, nhiều khi không phải dễ, được gọi trực tiếp hoặc gián tiếp, là đều không phải dễ dàng nhận ra. Như vậy, chúng ta thấy chi tiết nầy đáng cho những ai muốn nhận ra Tiếng Chúa gọi cần nhờ đến người “ có kinh nghiệm”.

Tin Mừng hôm nay  (Ga 1, 35 -42), cho chúng ta  ba ý chính :

  • Một là: Thánh Gioan Tiền Hô giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ của mình.
  • Hai là: Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên.
  • Ba là : Chúa Giêsu đặt tên cho thánh Phê-rô.

Như vậy, hai người trong số môn đệ của Gioan Tiền Hô là An-rê đã chủ động đến gặp Chúa Giêsu sau khi nghe Gioan Tiền Hô giới thiệu Đức Kitô, còn một người khác thì không trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Hôm sau, thì ông An-rê đã giới thiệu em mình cho Chúa Giêsu, là ông Si-mon, nghĩa là Kê-pha, thì được Chúa Giêsu đặt tên là : Phê-rô, nghĩa là ” ĐÁ”.

Vâng, từ đây Phê-rô sẽ là nhân vật đáng chú ý nhất, hăng hái nhất, nhiệt thành nhất, “lo sợ nhất”, chối bỏ Thầy trước nhất.

Nhưng, Chúa Giêsu vẫn tin tưởng giao phó  con thuyền Hội Thánh cho ông. Như vậy, cho thấy sức người và ân sủng siêu nhiên có một khoảng cách nhất định. Sức người không làm gì được, nhưng ân sủng thì vô biên. Con người thì mỏng giòn, nhưng , ân sủng thì kiên vững.

Theo đó, chúng ta thấy “ tình nghĩa Thầy trò”, giữa Chúa Giêsu và Phê-rô có một sự nâng đỡ siêu nhiên gắn bó. Chúa Giêsu yêu thương Phê-rô, dù ông bất toàn, mỏng giòn dễ vỡ, nhưng Chúa giêsu thật yêu thương người môn đệ vốn hăng hái, nhưng không biết điều mình nói và làm.

Vậy, điều quan trọng trong đoạn lời Chúa hôm nay là gì ? Há chẳng phải là “ nhân vật Phê-rô” sao ?!

Thiên Chúa kêu gọi và tuyển dụng là Thiên Chúa trung tín không thay đổi, “yêu thương đến cùng”, là yêu thương tron vẹn, sự chung thủy nơi tình yêu của Thiên Chúa đối với phàm nhân là bất biến. Phàm nhân phản bội Thiên Chúa thì có, nhưng , Thiên Chúa không bao giờ phản bội người đời. Đoan Lời Chúa hôm nay cho chúng ta điều ấy.

Chúng ta thấy, Thiên Chúa là nguồn sống, sự sống vĩnh hằng và bất biến, nhưng, đã trao ban cho con người một cách thủy chung ,son sắt như vậy, thì ai tách rời được. Vâng, cảm nghiệm được như thế, thánh Phao-lô đã nói : “ Không gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Kitô- Giêsu, dù cho thiên thần, âm phủ, hay những thứ gì đó… Không , không gì có thể tách tôi ra khỏi lòng mến Thiên Chúa trong Đức Kitô- Giêsu”.

Vâng, nối bước các ngài , những vị thánh thời nay, cũng vậy, trong năm 2017 vừa qua, người ta thống kê được 10 gương mặt tiêu biểu trong Giáo Hội Công giáo đã “chết vì tình yêu Thiên Chúa” trong Đức Kitô. Trong đó, có một vị linh mục người Ý, thuộc dòng Sa-lê-giêng, được mệnh danh là “ Thiên thần của những người cùi” tại Trung Hoa.

Cha đã từ bỏ đất nước của mình, gia đình, bạn hữu, anh em cùng dòng, để đáp lại lời mời gọi của các Đức Giám mục Trung Hoa, truyền giáo và lo cho người cùi tại đất nước xa xôi nầy.

Nhưng , đến năm 1950, cha bị nhà cầm quyền Cộng sản trục xuất ra khỏi Trung Hoa, nhưng cha lánh nạn sang Hồng-kông và tiếp tục với sứ mạng của mình đối với những người bạn cùi cho đến chết, thọ đến 102 tuổi. Di sản cha để lại cho người cùi nơi cha phục vụ thật lớn lao, bằng chứng nơi việc làm của cha không áp lực nào có thể phủ nhận được.Thật là một “gương chiếu sáng” như Ngôi Sao Hiển Linh.

Đến đây, chúng ta nhớ lại, tại Việt Nam cũng có một vị Tông Đồ người cùi, vị nầy chính là Đức cha Casseigner, hy vọng một ngày gần đây ngài được Giáo Hội nhìn nhận nhân đức anh hùng của ngài một cách hiển dương.

Theo đó, “ Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước và ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv, 118, 105) là như vậy.

Các thánh là những người được gọi và đáp trả cách anh dũng tiếng Chúa kêu mời. Sông theo Lời Chúa và trung kiên với Ngài không phải chiều theo sự giả trá của thế nhân, mà là trung kiên vững bước theo Lời Chúa dạy, dù gian nguy, hiểm trở.  Sống ngược lại với Lời Chúa là cạm bẫy satan.

Lạy Chúa Giêsu, Người là Đường, là Chân Lý , và là Tình Yêu. Xin soi dẫn con đi trong đường lối Chúa./. Amen

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Antôn

Có một câu truyện dụ ngôn được kể lại như sau. Trong một khu rừng có ba cây gỗ quí trẻ trung và xanh tươi mọc và sống cạnh nhau. Ba cây này thường tâm sự chia sẻ với nhau về những ước mơ và hy vọng trong cuộc sống tương lai của mình.  Một cây hy vọng sẽ được xử dụng trong một lâu đài để vẻ đẹp, chất lượng và đường gân thân cây của mình được nhiều người sang trọng và quyền quí chiêm ngưỡng và khen ngợi. Cây thứ hai hy vọng sẽ được xử dụng để đóng một chiếc du thuyền sang trọng được mọi người chú ý khi ghé ngang những hải cảng đặc biệt. Cây thứ ba cũng hy vọng sẽ được xử dụng vào một kiến trúc cao quí nơi công cộng để mọi người chiêm ngưỡng.

Cuộc đời tương lai của 3 cây gỗ quí này đã xảy ra như sau.  Cây thứ nhất được cắt xuống và một phần được đóng thành một cái máng thức ăn cho thú vật trong một hang đá.  Cây thứ hai cũng được cắt xuống và một phần thân cây dùng để đóng một chiếc thuyền đơn sơ đậu tại bờ sông trong khu vực thành Ga-li-lê-a.  Cây thứ bà cuối cùng cũng được cắt xuống và một phần làm thành đòn ngang của cây thập tự để treo người tử tội tại ngọn đồi Gôn-gô-ta.

Ông bà anh chị em thân mến.  Ba cây gỗ quí trên có những mơ ước và hy vọng của chính mình khi còn trẻ, nhưng khi lớn lên được sử dụng vào mục đích khác cho riêng mỗi một cây.  Ý nghĩa của câu truyện là khuyên chúng ta hãy sẵn sàng, hy sinh và vui mừng để cho Thiên Chúa xử dụng cuộc sống Ki-tô hữu của chúng ta để thông phần vào chương trình cứu chuộc, cũng như mở mang và xây dựng Nước Chúa theo dự tính và thánh ý của Người.  Và đó cũng là sứ vụ và ước mơ cao cả của cuộc đời mỗi người Ki-tô hữu chúng ta sống nơi trần thế này.  Nếu cuộc sống Kitô hữu của chúng ta không chứa đựng ý nghĩa đó và không được Chúa xử dụng, hay chúng ta cố tình ngăn cản, giới hạn, thu hẹp khả năng và giá trị của mình hay cố tình tránh né thì cuộc sống của chúng ta trở nên vô nghĩa, vô giá trị và vô phúc.

Trong các bài Kinh thánh hôm nay cho chúng ta biết mỗi một người chúng ta được Chúa gọi và trao cho một sứ vụ riêng, và chúng ta không biết Thiên Chúa gọi chúng ta bằng cách nào, như thế nào và khi nào.  Trong bài đọc 1, Chúa gọi Sa-mu-en lúc nửa đêm nhưng anh không biết và không hiểu, phải nhờ đến tiên tri Ê-li giúp cắt nghĩa và phải đáp trả như thế nào.  Sau khi được chỉ dẫn, Samuen đã khiêm tốn đáp trả lại một cách chân thành, sốt sắng và quảng đại. Cuộc đời của Samuen đã thay đổi và vì vậy cuộc sống dân riêng Chúa cũng thay đổi từ ngày đó cho tới mấy trăm năm sau, vì sau đó Samuen đã thành lập và dẫn dắt dân Do thái, cũng như đã sức dầu tấn phong 2 vị vua đầu tiên của nước Do thái.  

Trong bài Tin mừng, An-rê và một môn đệ khác đã nghe tiếng của Gioan giới thiệu về Chúa Giê-su và sau đó đã đáp trả lại lời mời của Chúa Giê-su “Hãy đến mà xem” đi theo Người.  Hôm sau, Phê-rô cũng nhận lời mời của An-rê đến gặp Chúa Giê-su.  Lời mời gọi và đáp trả của các môn đệ không có tính cách “kịch nghệ” như của Samuen.  Rất hiếm khi chúng ta được Chúa gọi tên lúc nửa đêm như Samuen.  Thông thường Chúa mời gọi chúng ta qua người khác, qua một người thánh thiện như Gioan Tiền hô hay qua một người bạn, một thân nhân.  Nếu chúng ta trả lời khi Chúa gọi thì cuộc sống của chúng ta sẽ không còn như hiện tại mà sẽ thay đổi. Vì vậy nhiều người tránh né cầu nguyện trong thinh lặng, bởi vì họ có thể sẽ nghe lời Chúa nói với họ điều họ không muốn nghe, vì họ đang sống trong sự thoải mái. Họ cảm thấy thoải mái với cuộc sống hiện tại và không muốn thay đổi.

Tôi còn nhớ khi Chúa gọi tôi trở thành linh mục, tôi đã nghĩ và hy vọng đó là điều không phải là sự thật. Tôi mong ước có một cuộc sống như một người bình thường, sẽ có một gia đình và một ngày nào sau đó sẽ có con cái.  Nhưng bằng cách này hay cách khác, Chúa đặt để ý tưởng trở thành linh mục trong trí óc tôi. Có lẽ đó là lý do tại sao tôi rất thích nghe câu truyện ơn gọi của Samuen.  Chúa cứ “dai dẳng” kêu mời tôi cho đến lúc cuối cùng tôi phải thưa với Chúa “Lạy Chúa, xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang nghe.”  Tôi vui mừng đáp trả lại hai tiếng “Xin Vâng.”  Tôi biết từ chối cuộc sống hôn nhân gia đình thỉnh thoảng cũng cảm thấy rất khó khăn, nhưng cuộc sống hôn nhân vợ chồng cũng có lúc rất khó khăn.  Tôi phải thú nhận tôi rất vui mừng và bằng lòng với cuộc sống linh mục để cho bạn nào đang suy nghĩ về thiên chức linh mục biết điều đó.

Một điều đáng cho chúng ta chú ý là Samuen đã nhận được sự chỉ bảo của Ê-li để nhận ra tiếng gọi của Chúa.  Các môn đệ cũng đã nhận được sự chỉ dẫn của Gioan Tẩy giả để nhận ra Chúa Giê-su.  Thỉnh thoảng chúng ta nghĩ và cảm thấy Chúa muốn nói với chúng ta điều gì, hay Chúa muốn chúng ta làm điều gì, nhưng chúng ta không hiểu rõ hay không chắc chắn.  Điều đó có thể không phải là điều to lớn như đi tu làm linh mục hay tu sĩ nan nữ, (những người già hiện diện thì không thể đi tu được nữa rồi! Muộn rồi!) mà có thể chỉ là hy sinh tình nguyện giúp đỡ một công việc gì đó; hay hãy siêng năng cầu nguyện hơn; tham dự Thánh lễ thường xuyên và sốt sắng hơn; hay hãy bác ái, quảng đại hơn; hay hãy sống tốt lành, thánh thiện hơn; hay sống ngay thẳng, công bằng hơn.  Chúng ta có thể tự hỏi: “Có phải đó là điều Chúa muốn nói với chúng ta, hay muốn chúng ta làm không?”  Điều tốt nhất là chúng ta hãy đến với người nào chúng ta tin tưởng, người sáng suốt hay một người đạo đức thánh thiện, có cuộc sống Ki-tô hữu chính đáng.  Chúa thực sự liên hệ với chúng ta qua người khác.  Điều này chúng ta nhận thấy thường xảy ra trong Kinh thánh và trong các Bí tích.  Chúa chạm và nói với chúng ta qua người khác.

Chúa hiện diện với chúng ta trong Thánh lễ này như thánh Phao-lô nhắc nhở chúng ta trong bài đọc hai, bởi vì chúng ta là những chi thể trong Thân -Thể -Chúa-Ki-Tô, và là Đền-Thờ-Chúa -Thánh -Thần.  Chúa hiện diện với chúng ta qua câu kinh, lời hát, cũng như qua Lời Chúa và Thánh Thể.  Và Chúa kêu gọi tất cả chúng ta trở nên thánh thiện và sống mật thiết hơn với Chúa, để chúng ta luôn được sống trong vui mừng, an bình, hy vọng và ơn sủng của Chúa.

Về mục lục

.

NÊN GIỐNG THẦY

Lm. Jos. DĐH.

Nhờ khôn ngoan, người ta biết tìm cho mình một chỗ dựa chắc chắn, nhờ có tính toán, cân nhắc, nhiều người tránh được những rủi ro đáng tiếc, hoặc nhờ cư xử tốt trong các tương quan, người ta gặt hái thành quả tốt đẹp như mơ: thiên thời địa lợi nhân hoà. Không phải tự nhiên mà thiên hạ nói tới những kẻ “dở hơi” theo cách mỉa mai gọi là nửa ông nửa thằng, ngựa non háu đá, cũng phải va vấp nhiều, người ta mới đủ trưởng thành mà tâm đắc lời răn dạy của tiền nhân: tránh voi chẳng xấu mặt nào. Trải qua năm tháng, nhiều người nghiệm ra rằng, dù khôn, dù khéo, hay đã cẩn thận, chẳng ai có thể tự hoàn thiện mình, cho dù đã từng té ngã và tự đứng dạy, họ cũng phải thừa nhận như câu thành ngữ: không thầy đố mày làm nên.

Sống trên đời, mơ ước đạt được hạnh phúc với nhiều nỗ lực tìm kiếm phấn đấu ở hiện tại, thiết tưởng đó không phải là chuyện lạ. Thực tế hơn, ai không cần có bạn, có thầy, vừa để giảm bớt cô đơn, vừa để học hỏi, chia vui sẻ buồn, nhằm giải toả ưu tư về cuộc sống đầy hứa hẹn ở phía trước. Gioan nhất định phải hiểu mình, hiểu học trò, hiểu thời điểm hết sức thuận lợi cho tương lai của những đệ tử đang theo ông, và chỉ một lời giới thiệu: “đây Chiên Thiên Chúa”, tất cả đã gặp được niềm vui thật. Gioan vui vì ông hoàn tất sứ mạng người dọn đường, các học trò vui vì từ nay chính thức họ được gọi Đấng Thiên Sai là Thầy,  Đức Giêsu vui vì hôm đó đã thu nhận được các đệ tử cùng lên đường…

Tâm trạng của mỗi chúng ta hôm nay: vui buồn, chán nản, hy vọng, … theo tự nhiên, ai cũng có cơ hội trải nghiệm như thế nào là tìm thầy, kiếm bạn, ít ra thì cũng ước mơ thành người tốt. Ở trong nhà, con cái được giáo dục cho biết: con hơn cha, nhà có phúc ; ngoài xã hội, mỗi người được ý thức để hiểu quê hương, đất nước, rất linh thiêng, chúng ta phải có trách nhiệm vun đắp, xây dựng. Hôm nay, không phải Đức Giêsu chỉ gọi một số đại diện làm môn đệ, Ngài đang gọi chúng ta hãy trở nên người tốt, trở nên giống cha mẹ thầy cô, trở nên giống Đấng đã yêu thương, Đấng đã chết đi cho tội lỗi nhân loại và sống lại để đưa con người tới sự sống vinh quang.

12 học trò thân tín đã từng bước tiến lên sát với đỉnh trọn lành, người môn đệ được biến đổi nên giống Thầy Giêsu lâu mau, nhanh chậm, rất ư kỳ lạ chẳng theo quy luật nào. Song nếu biết sống yêu thương như Thầy đã yêu, người ta sẽ hiểu nhờ nhận nhiều thì sẽ cho đi nhiều. Thầy yêu trò, học trò thao thức tập luyện hầu nên giống thầy, đó có phải là quy luật không, chỉ khi có “tình ngay, tình thật”, người ta mới lý giải được ý nghĩa của tình thầy trò. Từ lời quả quyết: “đây Chiên Thiên Chúa”, từ vẻ thẹn thùng bỡ ngỡ: “thưa Thầy, Thầy ở đâu” ? Và cũng phải khởi đi từ tình yêu, những tâm hồn chân thành ấy đã được thức tỉnh hãy đến gần hơn nữa, hãy tự tin với lời vắn gọn: “cứ đến mà xem”.

Xưa nay gì cũng vậy, người môn đệ không phải chỉ nghe Thầy Giêsu gọi, chọn, mà rất cần phải minh chứng như thế nào là sống lời mời gọi của Đấng hằng yêu thương. Người môn đệ khi được nghe, thì cần phải được hiểu tỏ tường, để rồi sẽ biết sống như Thầy đã sống, sẽ yêu như Thầy đã yêu, và sẽ nên giống Thầy bằng cung cách phục vụ trong hân hoan. Tại sao cha ông chúng ta biết chia sẻ kinh nghiệm cho con cháu: trăm nghe không bằng một thấy ? Đâu phải vô tình mà người ta phát hiện ra: con người có tổ có tông, như cây có cội như nước có nguồn. Lời Chúa Giêsu: “các ngươi tìm gì ?”, hẳn sẽ không còn là câu hỏi một vài thanh niên đang lơ mơ về Đấng Thiên Sai đang ban phát tình yêu cứu độ. Hôm nay đây, niềm vui Thiên Chúa là Đấng yêu thương, sẽ còn biến đổi tất cả những ai thao thức trở nên môn đệ theo Đức Kitô.

Trong truyện cổ “Gà đại bàng” có kể sau trận thiên tai dữ dội, một chú gà được sinh ra và lớn lên trong gia đình gà. Một hôm đang bới tìm mồi, gà đại bàng ngước mắt lên nhìn thấy sự “vĩ đại” bao trùm cả một khung trời, nó được cả họ nhà gà giải thích đó là loại chim đại bàng, còn chúng ta chỉ là loài gà thôi. Thế rồi, chú gà đại bàng mỗi lúc một thao thức, phải chăng ta cũng là chim đại bàng mà ta không biết ? Dù lời mời gọi nhắc nhớ chú gà đại bàng rất mơ hồ, nhưng chú vẫn cố gắng vỗ cánh và nhảy lên không trung trước sự chê cười của gia đình gà. Sau thời gian dài thao luyện, cố gắng, cuối cùng, chú gà đại bàng đã thực sự cất cánh bay lên bầu trời, chú chính là chim đại bàng trước sự ngỡ ngàng của đàn gà dưới đất.

Được gọi theo Thầy Giêsu, biết lên đường cùng Thầy, đã là khôn ngoan rồi, khám phá ra nét đẹp trong tình Thầy Giêsu sẽ giá trị biết bao, nhưng nếu không nên giống Thầy thì đâu đáng được gọi là môn đệ, là người đang duy trì và xây dựng niềm tin kitô giáo. Biết nhìn nhận thân phận giới hạn của mình được yêu thương, được gọi chọn trở nên Con Thiên Chúa là điều tốt, nếu mỗi người biết khiêm tốn để Chúa dẫn dắt, biến đổi mỗi lúc một nên giống Chúa thì sẽ hạnh phúc biết chừng nào. Chúng ta hãy tự tin nhìn lên thập giá Chúa mỗi ngày mà học hỏi cách sống quảng đại, tha thứ và yêu thương anh chị em mình như Thầy Giêsu đã chết và sống lại vì tình yêu thương cứu độ nhân loại chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

CÁC ANH TÌM GÌ THẾ?

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

 Nhiều nhà chú giải Kinh Thánh cho rằng, tông đồ Gio-an, tác giả cuốn Tin Mừng thứ tư đã phỏng theo Sáng Thế Ký mô tả cuộc sáng thế phân bổ trong thời gian bảy ngày để nói về cuộc gặp gỡ và khám phá con người Đức Giê-su cũng trong bảy ngày (số bảy là con số hoàn hảo chăng?) (Xem các câu 1:29.35.43 và 2:1). Tuần lễ khám phá khởi đầu bằng một khảng định của Gio-an Tẩy Giả: “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (1:26) tương tự như sự hỗn mang của vũ trụ lúc khởi thủy. Trong tuần lễ ấy Gio-an Tẩy Giả sẽ là người đầu tiên khám phá Đức Giê-su; sau đó đến lượt các ông Gio-an, An-rê và Si-mon, Phi-lip-phê và Na-tha-na-en. Ngày cuối của ‘tuần lễ khám phá’ chính là ngày tiệc cưới tại Ca-na khi ‘Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên… và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người’ (2:11). Đúng là ngày sung mãn, ngày nghỉ ngơi của cả một công trình vĩ đại, và vĩ đại thay việc khám phá ra dung mạo của Thiên Chúa hiện diện giữa trần gian!

Có thể nào cuộc gặp gỡ và khám phá Đức Giê-su lại được coi là quan trọng tới thế sao?

Đúng là như thế và phải là như thế, nhất là đối với môn đệ Gio-an; vì nhiều năm tháng sau, cà khi đã về già, ông vẫn còn nhớ như in tới từng chi tiết cuộc gặp gỡ và tìm hiểu đầu tiên, ‘lúc đó vào khoảng giờ thứ mười’ của ngày thứ ba (hôm sau c. 35) của tuần lễ khám phá. Và nếu quả thực là như thế thì các chi tiết của lời thoại cũng như hành động trong cuộc gặp gỡ này cũng được ghi lại cách rất chính xác và mang đầy ý nghĩa.

–         Các anh tìm gì thế?

Câu nói đầu tiên của Đức Giê-su được tác giả Gio-an ghi nhận trong sách Tin Mừng của ông cũng thật kỳ lạ. Lẽ ra khi phát hiện ra hai môn đệ của Gio-an Tẩy Giả đang đi theo mình, câu hỏi tự nhiên phải là, ‘các anh đang tìm ai vậy?’ Đó phải chăng chính là điều hai môn đệ đang muốn biết sau lời giới thiệu của Gio-an Tẩy Giả ‘Đây là Chiên Thiên Chúa!’ Hai ông muốn biết thêm về nhân vật bí ẩn ‘đang đứng giữa các ông mà không ai hay biết’. Câu hỏi của Đức Giê-su đòi các ông phải nhìn việc khám phá Con Người từ một góc cạnh hoàn toàn khác. Biết Đức Giê-su là ai sẽ chỉ là lý thuyết và chẳng đưa tới đâu nếu không xuất phát từ một khát vọng thâm sâu tự chính cõi lòng mỗi người; tôi tìm hiểu một người theo mức độ người đó có liên quan gì tới tôi. Nhiều người (kể cả không phải là Ki-tô hữu) tra cứu học hỏi về Đức Giê-su, nhưng chỉ có Ki-tô hữu mới biết được Người là Đấng Cứu Độ của chính bản thân mình. Phải chăng đức tin hệ tại chính ở việc ‘tìm kiếm’ này hơn là ở sự ‘hiểu biết’ kia?

–         Thưa Thầy, Thầy ở đâu? – Hãy  đến mà xem – Họ đã đến, xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy.

Cả câu hỏi lẫn câu trả lời, và sự việc diễn ra sau đó trong cuộc gặp gỡ đầu tiên đều không có chút gì là tri thức, là trừu tượng, là giải thích rườm rà, đơn giản chúng chỉ xoay quanh một trải nghiệm. Thường tình thì người môn đệ phải lấy việc học tập nghiên cứu học thuyết của sư phụ là chính, phải tìm tòi hiểu biết tinh thần, đường hướng trước khi chấp nhận đi theo Người. Đàng này Gio-an cho biết tất cả những gì họ thỏa thuận với Giê-su chỉ là có được với nhau một chia sẻ sống, một trải nghiệm thân mật và một tiếp xúc cá nhân. Thế thì ta phải gọi điều này là gỉ đây? Hạn từ ‘môn đệ’ (discipulus) không đủ để diễn tả nội dung này. Sau này Đức Giê-su sẽ còn triển khải rông hơn bằng nhiều kiểu nói rất khác thường như: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh emAnh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy… Để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta…” (Ga 15: 4.9; 17:21). Đối với Gio-an, giờ phút trở thành môn đệ không phải là lúc được nghe thầy Giê-su gọi “Các anh hãy theo tôi…” (Mc 1:17), mà là chính là lúc đi vào trải nghiệm sống động này, ‘Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười’, ông còn ghi nhớ rất rõ!

Đối với chúng ta cũng phải như vậy thôi, nếu chưa có, nếu không đi được vào trải nghiệm cá nhân ‘ở lại trong tình thương’, ta chưa thể là một Ki-tô hữu thực thụ, chứ đừng nói tới một linh mục hay tu sĩ. Và nếu giây phút cử hành Thánh Lễ và Rước Lễ chính là lúc trải nghiệm này được sống cách sinh động và thâm sâu nhất, thời hơn bất cứ lúc nào khác, đó chính là phút giây ta trở thành ‘người môn đệ’ đúng nghĩa nhất!

Tuy nhiên tôi dứt khoát cần phải xác tín và thực hành điều này!

Lạy Thiên Chúa Cứu Độ, lẽ ra con phải sẵn sàng đánh đổi mọi hiểu biết tri thức con có về Chúa để có lấy một chút trải nghiệm kết hiệp, nhưng con vẫn chưa dám làm thế. Lý do thâm sâu là tại con vẫn chưa hề dám trả lời cách trung thực và khiêm tốn câu Chúa đã hỏi: ‘các anh tìm gì thế?’ Xin cho con tới với Chúa trong ý thức ngày càng sâu hơn về thân phận yếu hèn cần tới ơn cứu độ, để con ‘đến và nghiệm thấy’ Chúa chính là thầy thuốc đầy từ tâm và nhân ái sẵn sàng tha thứ và xót thương mà con đang rất cần. A-men.

Về mục lục

.

CÁI THỦA BAN ĐẦU LƯU LUYẾN ẤY

Lm. Giuse Nguyễn

Những ai đã từng trải qua lứa tuổi học trò, có lẽ không bao giờ quên được hai câu thơ trong bài thơ “Lời than thở của nàng Mỹ Thuật” của nhà thơ Thế Lữ: “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, ngàn năm đâu dễ mấy ai quên”. Vâng, có những cái thưở ban đầu mà cho đến ngàn năm người ta không thể quên được. “Thuở ban đầu” là cách nói hoa mỹ của nhà thơ Thế Lữ thôi, chứ thực ra, thuở ban đầu chính là giây phút, là biến cố, là sự kiện làm cho người ta không thể quên. Đó cũng chính là kiểu nói của Nguyễn Du trong Truyện Kiều về lần đầu gặp gỡ giữa Kim Trọng và Thúy Kiều: “Người đâu gặp gỡ làm chi, trăm năm biết có duyên gì hay không?”. Ai trong chúng ta cũng có những “Cái thuở ban đầu”, nhưng không biết có lưu luyến đến ngàn năm hay không? Vì thường thì thuở ban đầu của chúng ta chỉ là cảm xúc bên ngoài chứ chưa phải là cảm nghiệm thánh thiêng bên trong. Cảm xúc bên ngoài thì sẽ qua đi, kiểu như: “Lần đầu gặp em, tinh tú quay cuồng”; vì là cảm xúc bên ngoài, nên chúng ta cũng đã từng nghe câu hat: “Tôi đã lầm đưa em về đây”. Còn cảm nghiệm thánh thiêng thì xuất phát từ bên trên và bên trong. Bên trên là từ sự thánh thiêng tuyệt vời và quyền năng vô biên của Chúa mà không có bất cứ một thứ tình cảm nào ở trần gian này có thể so sánh được. Bên trong là từ sâu thẳm tâm hồn của mỗi người. Cuộc gặp gỡ thánh thiêng này không cần phải diễn tả bằng những danh từ hoa mỹ, nhưng chỉ đơn giản là: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia”. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta về những cuộc gặp gỡ thánh thiêng như thế đó.

PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

Bài Đọc I: 1Sm 3, 3b-10.19

Lẽ ra 2 người con trai của thầy cả Êli mới là những người nối nghiệp cha mình để lãnh đạo tinh thần cho dân Israel, nhưng vì chúng nó xấu xa, tệ hại, không kính sợ Đức Chúa và lợi dụng chức vụ để làm đủ thứ chuyện phạm thượng nên Thiên Chúa đã quyết định bỏ chúng và chọn một người khác thay thế là Samuel. Samuel được dâng vào đền thờ ngay từ nhỏ cho Êli hướng dẫn. Một hôm khi cậu đang ngủ, Thiên Chúa gọi: “Samuel, Samuel”. Cậu tưởng là thầy mình gọi nên chạy đến với Êli. 3 lần như vậy, Êli với kinh nghiệm của một tư tế, ông biết chắc đó là tiếng Chúa gọi nên đã hướng dẫn cho Samuel biết phải làm gì. Lần thứ 4, Thiên Chúa lại gọi. Lần này, được sự hướng dẫn của thầy mình, Samuel đã biết trả lời: “Lạy Chúa xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe”. Đó là “cái thuở ban đầu” của Samuel. Thưở ban đầu này đã để lại dấu ấn chẳng những cho bản thân ông, mà còn để lại cho những thế hệ sau này như là gương mẫu của việc gặp gỡ Chúa, vì đó là cuộc gặp gỡ bằng cảm nghiệm linh thánh.

Tin Mừng: Ga 1, 35-42

Bài Tin Mừng kể lại cho chúng ta 2 cuộc gặp gỡ tuy ngắn ngủi nhưng đúng nghĩa. Cuộc gặp gỡ thứ nhất là giữa Đức Giêsu và 2 môn đệ của Gioan Tẩy giả là Gioan và Anrê. Cuộc gặp gỡ thứ hai là giữa Đức Giêsu và Simon Phêrô qua sự giới thiệu của Anrê. Đây là những cuộc gặp gỡ thánh thiêng vì nó có đủ những yếu tố: ở lại với Chúa, có kinh nghiệm về Chúa và nói về Chúa bằng chính kinh nghiệm của mình.

GẶP GỠ CHÚA

Như vậy gặp gỡ Chúa thực sự không phải là cảm xúc lưu luyến của thuở ban đầu, nhưng phải là ở lại với Chúa, có kinh nghiệm về Chúa và nói về Chúa cho người khác bằng chính kinh nghiệm của mình.

Ở lại với Chúa

“Ở lại” trong Tin mừng chỉ sự gắn bó trọn vẹn vào Chúa. Vì vậy gặp gỡ Chúa thực sự đòi hỏi  phải gắn bó trọn vẹn vào Chúa như các môn đệ: cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm việc, cùng sinh hoạt với Chúa. Dĩ nhiên ngày hôm nay Chúa không còn hiện diện một cách hữu hình như thời các môn đệ để chúng ta gắn bó với Chúa bằng xương bằng thịt. Nhưng chúng ta vẫn có thể gắn bó với Chúa trong mọi sinh hoạt của mình nếu chúng ta biết hướng lòng về Chúa. Một cách cụ thể nhất của việc sống gắn bó với Chúa là tha thiết với bí tích Thánh Thể qua việc tham dự thánh lễ, rước lễ và Chầu Thánh Thể.

Ngày trước trong những lúc bắt đạo, giáo dân khao khát thánh lễ đến nỗi các Linh Mục phải trốn chui trốn nhũi để dâng thánh lễ cho giáo dân của mình. Còn ngày hôm nay khi các Linh Mục có điều kiện để dâng thánh lễ thì giáo dân lại không còn tha thiết để tham dự thánh lễ nữa. Tất cả những lý do đều vì chúng ta chưa tha thiết đủ với Chúa.

Việc ở lại với Chúa được Giáo hội khuyến khích trong những năm Gia đình này là cả nhà cùng nhau đọc kinh, thờ phượng Chúa. Có những gia đình biết việc đọc kinh hôm là tốt đẹp và có thể thực hiện, nhưng vì còn ngại ngùng nên họ chưa mạnh dạn làm. Tại sao chúng ta lại mắc cỡ với một việc tốt? Cứ mạnh dạn để khởi sự giờ kinh hôm chung trong gia đình, chắc chắn mọi người sẽ cảm nhận được những ơn ích thiêng liêng trong gia đình, trong khu xóm và cả họ đạo của mình.

Có kinh nghiệm về Chúa

Kế đến, gặp gỡ Chúa thực sự là phải có kinh nghiệm về Chúa. Có nghĩa là chúng ta phải cảm nghiệm được sự ngọt ngào, cảm nghiệm được sự an ủi, dạy dỗ của Chúa khi đến với Ngài. Điều này nhắc nhở chúng ta về thái độ đến với Chúa như một thói quen, làm những việc đạo đức như một cái máy, cho xong, cho qua vậy thôi mà không hề có một tâm tình nào đọng lại. Nhiều khi chúng ta nghĩ rằng đến với Chúa là để xin Chúa điều này điều nọ, nhưng điều quan trọng nhất khi đến với Chúa là để sống gắn bó với Chúa, tìm được sự bình an sâu thẳm trong tâm hồn, dù cuộc sống chúng ta vẫn còn những điều không như ý muốn, vẫn còn những đau khổ, vẫn còn những đau thương chồng chất…

Nói về Chúa

Lòng bác ái đòi hỏi chúng ta phải san sẻ những gì mình có cho người khác. Còn gì cao quý bằng khi chúng ta chia sẻ cho người khác những cảm nghiệm về Chúa. Nhân vật được nhắc đến nhiều nhất trên các phương tiện truyền thông trong những ngày qua là tân Hoa Hậu Hoàn Vũ Việt Nam 2018, cô gái dân tộc Êđê: H’Hen Niê. Cô đã có những lời chia sẻ sau khi đăng quang như sau: “Muốn thành công cần bình tĩnh, tự tin. Hen nghĩ, mọi điều tôi làm đều có Chúa dẫn đường. Tôi theo đạo Chúa từ nhỏ. Tôi xin theo ý muốn của Chúa chứ không phải ý muốn riêng của mình. Nếu xin theo ý mình là rất ích kỷ và muốn mọi thứ theo ý mình”. Đó là nói về Chúa cho người khác bằng chính cảm nghiệm của riêng mình. Nếu có ai hỏi tôi về Chúa, tôi sẽ nói gì về Ngài?

Phụng vụ lời Chúa ngày hôm nay cho chúng ta một sự thật: Chúa là Đấng quyền năng, nơi Ngài có sức mạnh làm cho những người gặp gỡ Ngài có thể thay đổi. Thế nhưng để gặp gỡ Chúa thực sự, cuộc gặp gỡ khiến “ngàn năm nào dễ mấy ai quên”, chúng ta phải ở lại với Chúa, có kinh nghiệm về Chúa và nói về Chúa cho người khác. Trong những ngày cuối năm này, nhiều người lo nghĩ về chuyện sắm sửa ngày Tết, lo nghĩ đến việc đi chơi, đến chuyện cờ bạc… chúng ta cũng đừng quên lo lắng về chuyện sống gắn bó với Chúa, nhất là phải ưu tiên cho việc đạo đức trong những ngày họp mặt gia đình. Chúng ta hãy đặt cho gia đình mình một chỉ tiêu: xong việc đạo đức muốn làm gì thì làm.

Xin ơn Chúa giúp để chúng ta biết sửa đổi hầu trong năm mới này chúng ta có được sự đổi mới trong đời sống đạo để chúng ta được gặp gỡ Chúa thực sự trong cuộc sống của mình.  

Về mục lục

.

HUYỀN NHIỆM ƠN GỌI.

Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu

Ơn gọi là một huyền nhiệm. Nó khởi nguồn từ Thiên Chúa, chứ không phải từ loài người. Thiên Chúa lên tiếng gọi và con người đáp trả. Các bài đọc Lời Chúa trong ngày Chúa nhật hôm nay nói về ơn gọi của Samuel, ơn gọi của các môn đệ đầu tiên của Chúa Giê-su (Gioan, An-rê và Phê-rô) và qua đó nói về ơn gọi của người Ki-tô hữu chúng ta.

  1. Ơn gọi của Samuen

Samuel là cậu bé được Đức Chúa cho sinh ra để cất nỗi nhục của người mẹ Anna trước mặt người đời. Giữ đúng lời khấn hứa với Đức Chúa, bà Anna cho cậu giúp việc thày cả Ê-li. Cậu ngủ trong Đền thờ. Đức Chúa gọi cậu 4 lần trong giấc ngủ. Ba lần đầu, cậu tưởng là thày Ê-li gọi, nên chạy đến với thày và thưa: “Dạ, con đây, thày gọi con”. Nhưng thày Ê-li bảo: “Thày không gọi con đâu. Con về ngủ đi”.

Chạy đi chạy lại như thế đến lần thứ 3, thày Ê-li hiểu là Đức Chúa đã gọi Samuel, nên bảo cậu rằng: “Con về ngủ đi và hễ có ai gọi con thì con thưa: ‘Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe”.

Vâng lời thày Ê-li, Samuel về ngủ ở chỗ của mình. Đức Chúa đến, đứng đó và gọi (lần thứ 4) như những lần trước: Samuel! Samuel! Samuel thưa: “Xin Ngài phán vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe”.

Samuel lớn lên. Đức Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu.

Đó là tiến trình ơn gọi làm ngôn sứ của Samuel được mô tả trong bài đọc 1 (x. 1Sm 3,3-10.19). Tiến trình này cho thấy, nếu không có sự chỉ dạy của thày Ê-li, Samuel khó hòng mà nhận ra được Đức Chúa gọi mình.

  1. Ơn gọi của những môn đệ đầu tiên

Đó là các ông Gioan, An-rê và Phê-rô.

Gioan và Anrê đi theo Chúa qua lời giới thiệu, gợi ý của Gioan Tẩy giả: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian”.

Phêrô đi theo Chúa nhờ sự giới thiệu của anh mình là Anrê: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia”.

Mỗi người mỗi hoàn cảnh, mỗi ơn gọi mỗi cuộc đời, không ai giống ai. Kẻ thì được thầy mình giới thiệu, người thì được anh mình giới thiệu, kẻ khác nữa thì được bạn bè giới thiệu.v.v. Tất cả đều trở thành những kỷ niệm đáng nhớ không thể nào quên trong tâm trí người môn đệ: Chúa gọi tôi trong hoàn cảnh này hoàn cảnh nọ. Chúa gọi tôi vào giờ này. Chúa gọi tôi ở chỗ này chỗ kia.v.v.

Gioan tông đồ người trong cuộc đã từng chẳng ghi thế này sao: “Khi ấy, ông và Anrê đang đứng ngoài bãi biển cùng với thày Gioan Tẩy Giả, thấy Chúa Giêsu đi ngang qua, Gioan Tẩy Giả liền chỉ: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Các ông liền bỏ Gioan Tẩy Giả lại đó mà đi theo Chúa Giêsu.

Thấy có kẻ theo mình, Chúa Giêsu quay lại bảo: “Các anh tìm gì thế? Các ông bèn đánh bạo hỏi: “Thưa Thày, Thày ở đâu”?

Chúa Giêsu mời gọi: “Hãy đến mà xem”. Các ông đã đến xem chỗ Chúa ở và ở lại với Chúa ngày hôm ấy. Lúc ấy vào khoảng giờ thứ mười”.

Thật là ấn tượng! Không thể nào quên! Nhưng Phêrô cũng ấn tượng không kém. Dù Phêrô được Chúa gọi sau Gioan và Anrê, nhưng Chúa đã đổi tên cho ông: “Anh Simon, con ông Gioan, từ nay anh sẽ được gọi là Phêrô, nghĩa là đá tảng”.

Giây phút ấn tượng ấy là giây phút lịch sử, làm đảo lộn đời các ông, biến các ông trở thành người môn đệ Chúa, cùng ăn cùng ở với Chúa, cùng chung chia sứ mạng và thân phận với Chúa. Đó là sứ mạng loan báo Tin Mừng và thân phận của người tôi tớ đau khổ theo thánh ý Chúa Cha hầu cứu chuộc nhân loại.

  1. Ơn gọi của người Ki-tô hữu

Chúng ta các kitô hữu ngày nay cũng được Chúa kêu gọi. Chúa gọi ta vào đời. Chúa gọi ta làm con cái Chúa và Hội thánh trong đời sống hôn nhân gia đình hay đời sống tu trì.

Hành trình ơn gọi của Samuel và các Tông đồ có nhiều ấn tượng đáng ghi nhớ, thì hành trình ơn gọi của ta cũng vậy.

Chúa đã chọn gọi Samuel và các Tông đồ trong những hoàn cảnh và môi trường nhất định thì Chúa cũng chọn gọi ta trong những hoàn cảnh và môi trường nhất định nào đó.

Chúa đã chọn gọi Samuel và các Tông đồ qua các trung gian, thì Chúa cũng chọn gọi mỗi người chúng ta qua các trung gian như ông bà, cha mẹ, thày cô, bạn bè…v.v. Nhưng điều quan trọng là ta đã sống ơn Chúa gọi như thế nào ?

Thánh Phao-lô trong bài đọc 2, ngài nói rất hay về ơn gọi của chúng ta và qua đó ngài cũng dạy chúng ta phải sống ơn gọi như thế nào cho xứng đáng: “Thưa anh em, thân xác con người không phải để gian dâm mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác”.

“Anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô và là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần sao? Ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người. Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình. Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (x.1Cr 6,13-15.17-20).

Lạy Chúa, Chúa đã cho con vào đời trong ơn gọi làm người và làm con cái Chúa. Xin ban ơn thêm sức cho con để con luôn sống xứng đáng với ơn Chúa kêu gọi giữa cuộc đời này, hầu mai ngày con được ở cùng Chúa trong Nước Trời vĩnh cửu. Amen.

Về mục lục

.

VAI TRÒ TRUNG GIAN

Lm. Anthony Trung Thành

.

Vai trò người làm trung gian để nối kết con người với Thiên Chúa và Thiên Chúa với con người bao giờ cũng hết sức cần thiết. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy điều đó. Bài đọc I, kể lại ơn gọi của Samuel: Từ nhỏ, Samuel ở lại trong đền Silô để giúp việc cho Thầy Hêli. Vào một đêm nọ, khi Samuel đang ngủ bên cạnh hòm bia Giao ước thì Thiên Chúa đã gọi Samuel ba lần. Hai lần đầu, cậu tưởng là Thầy Hêli gọi, nên cậu đến trình diện. Nhưng sau đó, Thầy Hêli cho biết là tiếng Chúa gọi, nên lần thứ ba Samuel đã mau mắn đáp trả lại rằng: “Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe.”(1Sm 3,9). Thế rồi, Samuel được Chúa chọn thay thế thầy Hêli, làm thủ lãnh dân Do thái.

Bài Tin mừng hôm nay được thánh Gioan tường thuật lại việc các môn đệ đầu tiên gặp gỡ và đi theo Đức Giêsu chính là nhờ vai trò trung gian của Thánh Gioan Tẩy Giả. Tin mừng cho biết: Khi thấy Đức Giêsu đi qua, Thánh Gioan Tẩy Giả nhìn về phía Người và giới thiệu với Anrê và Gioan rằng: “Đây là chiên Thiên Chúa.” (Ga 1,36). Thế rồi, hai môn đệ đã đi theo Đức Giêsu, đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Sau thời gian đó, hai ông đã trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Khi trở về nhà, Anrê lại làm trung gian giới thiệu Đức Giêsu cho em mình là Simon: “Chúng tôi đã gặp Ðấng Messia, nghĩa là Ðấng Kitô”(Ga 1,41). Sau đó, Anrê dẫn Simon tới gặp Đức Giêsu và được Người đổi tên cho Simon là Kêpha, nghĩa là Đá (x. Ga 1,42).

Như vậy, nhờ thầy Hêli mà Samuel nhận ra tiếng Chúa gọi, nhờ Thánh Gioan Tẩy Giả mà Anrê và Gioan đã trở thành môn đệ của Đức Giêsu và nhờ Anrê mà Simon tin theo Đức Giêsu và trở thành Kêpha, tức là Đá. Cho nên, Thánh Gioan Tẩy Giả trở thành trung gian nối kết giữa Anrê và Gioan với Đức Giêsu, còn Anrê trở thành trung gian nối kết giữa Phêrô với Đức Giêsu. Và cứ như thế, nhờ trung gian của các Tông đồ, các môn đệ, các kitô hữu đầu tiên và của Giáo hội suốt hai ngàn năm qua mà vô số người ngoại giáo trở thành kitô hữu.

Ngày hôm nay, để cho con người gặp gỡ Thiên Chúa và Thiên Chúa gặp gỡ con người cũng cần có những vai trò trung gian.

Trước hết, vai trò trung gian trong ơn gọi linh mục và tu sĩ. Samuel đã nhờ Thầy Hêli mà gặp được Chúa, trở thành lãnh tụ của dân Do Thái. Để trở thành linh mục, tu sĩ cũng cần có những người làm trung gian. Đó chính là cha mẹ, người thân, bạn bè, thầy cô giáo lý viên, cha xứ, cha đỡ đầu, những người bảo trợ…Chính nhờ gương sáng của các vị này mà nhiều bạn trẻ đã có chí hướng đi tu làm linh mục hay tu sĩ. Sống trong một đất nước nghèo như ở Việt Nam chúng ta thì sự nâng đỡ về vật chất cho các ứng sinh tu sĩ và linh mục tương lai là điều hết sức cần thiết. Vì thế, có thể nói đa số các linh mục tu sĩ trưởng thành như hôm nay có một phần đóng góp không nhỏ của những người trung gian như: cha xứ, cha đỡ đầu, người bảo trợ.

Thứ đến, vai trò trung gian trong việc giúp người tội lỗi trở về với Chúa. Qua dụ ngôn con chiên lạc, người đàn bà đánh mất đồng bạc, chúng ta thấy Đức Giêsu chú trọng đến việc “đi tìm”. Người chủ chăn đi tìm con chiên lạc. Người đàn bà đi tìm đồng bạc đã đánh mất. Chúng ta cũng phải trở thành người trung gian đi tìm “các con chiên lạc” hay “đồng tiền bị đánh mất”. Đó là những người kitô hữu nhưng sống đạo khô khan, sa vào các tệ nạn, phạm tội nặng hay thậm chí họ không còn sống đạo nữa. Họ có thể là cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, bạn bè của chúng ta. Chúng ta có thể giúp họ trở về với Chúa bằng lời cầu nguyện, bằng gương sáng, bằng sự khuyên bảo, dẫn dắt họ đến với các linh mục, đến với bí tích Giao hòa. Đó là trách nhiệm tái truyền giáo của chúng ta.

Thứ ba, người kitô hữu làm trung gian để giúp người ngoại giáo trở thành người kitô hữu. Thánh Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Đức Giêsu cho Anrê và Gioan. Anrê đã giới thiệu Đức Giêsu cho Simon. Suốt 2000 năm qua, Giáo hội không ngừng giới thiệu Đức Giêsu cho muôn dân. Thế nhưng con số kitô hữu trên thế giới vẫn còn là thiểu số. Tại Việt Nam, người Công Giáo chỉ chiếm khoảng 10%. Vì vậy, vai trò trung gian của người kitô hữu vẫn luôn quan trọng và cấp bách. Chúng ta có thể rao giảng về Chúa cho họ, chúng ta có thể cầu nguyện cho họ, nhưng hiệu quả hơn cả đó chính là làm gương sáng bằng chính đời sống bác ái yêu thương. Đó chính là trách nhiệm truyền giáo của chúng ta.

Nhưng để chu toàn vai trò trung gian giữa con người với Thiên Chúa và Thiên Chúa với con người thì người làm trung gian cần phải dành nhiều thời gian để: gặp gỡ Chúa, ở lại với Chúa như Anrê và Gioan; lắng nghe tiếng Chúa như Samuel. Chúng ta có thể gặp gỡ Chúa, ở lại với Chúa qua đời sống cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích nhất là Bí tích Thánh Thể. Chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa qua việc đọc và suy gẫm Lời Chúa, qua Giáo huấn của Giáo hội, qua sự khuyên dạy của Bề trên như Cha xứ, cha mẹ hay những người khôn ngoan. Chúng ta cũng có thể lắng nghe tiếng Chúa nhắc bảo qua lương tâm.

Mặt khác, người trung gian cần phải có một đời sống mẫu mực, nghĩa là phải có Chúa trong mình thì mới có thể đem Chúa đến với tha nhân, vì “không ai cho cái mình không có”. Để có Chúa trong mình, cần phải xa tránh tội lỗi. Trong bài đọc II hôm nay, Thánh Phaolô mời gọi các tín hữu Cônrintô, khi đã chịu Phép Rửa tội là đã trở nên đền thờ Chúa Thánh Thần nên họ không được phạm tội tà dâm, vì như vậy sẽ làm ô uế thân xác. Ngài nói: “Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình. Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.” (1 Cr 18-20). Lời mời gọi các tín hữu Côrintô cũng là lời mời gọi mọi người chúng ta hôm nay. Ngày hôm nay do ảnh hưởng bởi sách báo, phim ảnh, internet nên con người lại càng dễ bị cám dỗ phạm tội dâm dục hơn. Vì thế, để tránh được tội này cần phải thường xuyên cầu nguyện xin Chúa trợ giúp, đồng thời cần phải xa tránh các dịp tội bằng cách quyết tâm không đọc sách báo xấu, không vào các trang mạng xấu, không xem phim ảnh dâm ô và xa tránh những nơi ảnh hưởng đến đức trong sạch.

Xin cho tất cả mọi người kitô hữu chúng ta biết xa tránh tội lỗi nhất là tội dâm ô, để sống thánh thiện, xứng đáng làm cầu nối cho tha nhân đến với với Chúa. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Bài Đọc I và Tin Mừng cùng đề cập đến mầu nhiệm ”ơn gọi”. Thiên Chúa kêu gọi một cách dứt khoát, bởi vì Ngài nhìn thấu tận cõi lòng sâu kín của con người.

1Sm 3: 3b-10, 19

Bài Đọc I, trích từ sách Sa-mu-en quyển thứ nhất, thuật lại chuyện tích về”ơn gọi”của con trẻ Sa-mu-en. Thần Khí Thiên Chúa sẽ ở với em mọi ngày suốt cuộc đời của em.

Ga 1: 35-42

Tin Mừng Gioan thuật lại chuyện các môn đệ lần đầu tiên gặp gỡ Đức Giê-su. Ngài đưa mắt nhìn dứt khoát trên Phê-rô, vị thủ lãnh Giáo Hội tương lai của Ngài.

1Cr 6: 13c-15a, 17-20

Trong thư thứ nhất gởi các tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô gợi lên phẩm giá của thân xác là chi thể của Đức Ki-tô và là đền thờ của Chúa Thánh Thần.

BÀI ĐỌC I (1Sm 3: 3b-10, 19)

Ngôn sứ Sa-mu-en là một trong những nhân vật Cưu Ước hấp dẫn. Cuộc chào đời của ông tiên vàn là một “dấu chỉ”.

  1. Đứa con của lời khẩn nguyện

Mẹ ông là bà An-na, một trong hai người vợ của ông En-ca-na quê thành Ra-ma-tha-gim. Đây vẫn còn thời đại đa thê vào thế kỷ XI trước Công Nguyên. Tuy nhiên, chỉ những bậc vị vọng và giàu có mới có thể có nhiều vợ. Chúng ta ghi nhận rằng hai sách Sa-mu-en và hai sách Các Vua không cho thấy bất kỳ trường hợp đa thê nào khác ngoài trường hợp hy hữu này. “Một vợ một chồng” là thể chế gia đình thường hằng nhất ở Ít-ra-en. Bà Pơ-nin-na có nhiều con trong khi bà An-na không có một đứa con nào. Vì thế, bà An-na rất khổ tâm và cảm thấy bà Pơ-nin-na như đối thủ đang chọc tức mình để hạ nhục mình.

Chồng bà yêu quý bà và chiều chuộng bà: “An-na, sao em khóc? Sao em không chịu ăn? Sao lòng em rầu rĩ vậy? Đối với em, anh lại không hơn mười đứa trai sao?”(1Sm 1: 8). Tuy nhiên, bà An-na vẫn không nguôi nỗi phiền muộn nên rấp tâm khấn hứa cùng Đức Chúa.

Vào dịp đại lễ hằng năm, bà cùng gia đình hành hương lên thánh địa Xi-lô. Ở đó, bà khấn hứa với Đức Chúa rằng nếu Ngài ban cho bà một đứa con trai, bà xin dâng hiến trọn cuộc đời cậu để phụng sự Ngài. Khi con trẻ sinh ra, bà giữ trọn lời khấn nguyện. Vào lúc con trẻ lớn khôn, bà dẫn đứa bé lên đền thánh Xi-lô và trao gởi con mình cho thầy cả Ê-li. Vào ngày đó, bà dâng hy lễ lên Đức Chúa và hát bài hoan ca. Đây là bài “Magnificat” đầu tiên mà Đức Ma-ri-a sẽ đón nhận nguồn cảm hứng.

  1. Ơn gọi

Kể từ đó, cậu bé Sa-mu-en phụng sự Đức Chúa bên cạnh thầy cả Ê-li. Nhưng Đức Chúa có những dự định lớn lao hơn đối với đứa trẻ này và rất sớm Ngài khai lòng mở trí cho cậu hiểu. Đây là câu chuyện về ơn gọi mà chúng ta đọc vào ngày lễ hôm nay.

Ơn gọi của trẻ Sa-mu-en vén mở khoa sư phạm của Thiên Chúa. Trước hết, Thiên Chúa kêu gọi những kẻ bé mọn và những người yếu đuối để thi hành những ý định của Ngài. Thứ nữa, chính Ngài luôn luôn đề xuất sáng kiến. Thiên Chúa đã kêu gọi ông Mô-sê trong hoang địa theo cùng một cách thức như thế (Sh 3: 1-6) và sau này Ngài cũng sẽ kêu gọi ngôn sứ I-sai-a ở trong Đền Thánh Giê-ru-sa-lem theo cùng cách thức vậy (Is 6: 1-12).

Thiên Chúa ba lần đánh thức cậu trong khi cậu ngủ say trong trạng thái hồn nhiên vô tư lự. Ngài “khẽ đánh thức” cậu, vì thế cậu tỉnh dậy mà không chút sợ hải. Bản văn nói với chúng ta: “Bấy giờ Sa-mu-en chưa biết Chúa, và Chúa chưa mặc khải Lời Người cho cậu”. Suốt cuộc đời mình, “Chúa ở với cậu, và Người thực hiện mọi lời Người đã phán với cậu, không sót lời nào”. Sa-mu-en là vị Thủ Lãnh cuối cùng của dân Ít-ra-en, nhưng là một vị Thủ Lãnh vĩ đại nhất.

BÀI ĐỌC II (1Cr 6: 13c-15a, 17-20)

Thánh Phao-lô viết bức thư này từ Ê-phê-xô, chắc hẳn vào mùa xuân 55, gởi cho giáo đoàn Cô-rin-tô mà thánh nhân đã thiết lập. Tuy nhiên, cộng đoàn này gặp phải nhiều vấn đề. Thánh nhân vừa mới nhận được những thông tin về đạo lý thật đáng lo ngại. Vì thế, thánh nhân ra sức giáo huấn họ. Trong bức thư này, chúng ta gặp thấy những quan điểm thần học cao vời của thánh nhân.

Đoạn trích hôm nay đề cập đến những vấn đề thân xác theo những viễn cảnh Ki-tô giáo. Để hiểu được những lời khuyên bảo của thánh nhân, chúng ta phải đặt những lời khuyên này vào trong bối cảnh của thời đại thành phố Cô-rin-tô.

  1. Bối cảnh thành phố Cô-rin-tô

Cô-rin-tô là một thành phố mới; thành phố xưa đã bị phá hủy vào thời đế quốc Rô-ma chinh phục vào năm 146 trước Công Nguyên. Hoàng đế Xê-da đã phục hưng thành phố này và thiết lập một thuộc địa Rô-ma vào năm 44 trước Công Nguyên. Thành phố hoàn toàn được xây dựng lại và sớm lấy lại vị thế của mình là thủ phủ thương mại.

Với hai thương cảng, một ở phía đông (biển Ê-gê), và một ở phía tây (biển I-o-ni), giữa đường từ Châu Á đến Rô-ma, thành phố này hưởng được một hoàn cảnh ưu đãi. Với số lượng phu khuân vác, thợ thủ công, hàng hóa phong phú, nhiều ngân hàng, thành phố tứ xứ này tạo nên một vùng đất thuận tiện cho việc phát triển các tệ nạn: óc con buôn, nạn hám lợi và cuộc sống xa hoa. Ngoài ra, ở đây còn có cuộc sống sa đọa do bối cảnh tế tự xa xưa còn được lưu truyền lại. Vào thuở xa xưa, thành phố đã phụng thờ nữ thần tình ái và sinh sản. Có đám đông nữ tư tế phụ trách việc tế tự này. Đây là một hình thức trụy lạc thánh, tự nguồn gốc được coi như nghi thức sinh sản và hành vi lôi kéo ân phúc của nữ thần. Thành phố Cô-rin-tô chắc chắn không là thành phố đức hạnh.

  1. Sự mới mẽ của Ki-tô giáo

Thế giới ngoại giáo có những nhà luân lý của họ, họ tố cáo cuộc sống phóng túng và đề cao sự khổ chế của thân xác nhân danh chủ nghĩa nhân bản cao vời hay nhân cách lý tưởng. Thánh Phao-lô đem lại cho luân lý Ki-tô giáo một chiều kích hoàn toàn khác: tội lỗi tác hại đến “những mối quan hệ giữa con người và Thiên Chúa”. Người ta dể thấy điều này ở nơi cách thức sử dụng thân xác của mình. Để sống đức độ, thánh nhân công bố: “Thân xác con người không phải để gian dâm, nhưng để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác”.

  1. Ba luận chứng

Thánh nhân xây dựng lời công bố này trên ba luận chứng vững chắc tựa như “kiềng ba chân”. Luận chứng thứ nhất gây ấn tượng nhất và cũng mới mẽ nhất trong lịch sử tư tưởng: “thân xác của chúng ta sẽ được sống lại”. Luận chứng thứ hai được gợi ý cách ngắn gọn: “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là chi thể của Đức Ki-tô sao?” Đây là một trong những đề tài chủ đạo và tâm đắc đối với thánh nhân mà ngài sẽ nhắc lại ở nơi các thư khác. Luận chứng thứ ba dẫn chúng ta lên đến một bình diện không kém cao vời: “Ai đã kết hợp với Chúa thì nên một tinh thần với Người”. Được kết hợp với Đức Ki-tô, qua cầu nguyện, Thánh Thể, tận hiến… chúng ta không còn ý muốn nào khác ngoài ý muốn của Chúa.

Đặt nền tảng trên ba luận chứng trên, thánh Phao-lô đẩy đến cực điểm lời lên án chống lại tội gian dâm: tội duy nhất làm ô uế chính thân xác của mình. Thánh nhân nêu bật sự tương phản giữa việc kết hợp với Chúa nhờ đó chúng ta được nâng cao lên đến mức hiệp nhất “tinh thần” với Ngài và những kết hợp thấp hèn đánh mất phẩm giá của thân xác.

  1. Thân xác chúng ta là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần

Tiếp đó, thánh nhân khai triển Bí Tích Thánh Tẩy Ki-tô giáo: thân xác chúng ta đã trở nên Đền Thờ của Chúa Thánh Thần, vì thế, không còn thuộc về chúng ta nữa. Dâng hiến thân xác của mình cho một thần linh nào khác là tội thờ ngẫu tượng (đây cũng là đề tài trong thư gởi cho các tín hữu Ga-lát và thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-xô).

  1. Giá máu cứu chuộc của Đức Giê-su

Lời ghi nhận cuối cùng được diễn tả đầy cảm xúc:”Thiên Chúa đã trả giá rất đắt mà chuộc lấy anh em”. Đức Ki-tô đã không khinh chê thân xác bởi vì Ngài đã mặc lấy một thân xác như chúng ta. Thân xác này, Đức Ki tô đã hiến dâng để bị tra tấn và bị đóng đinh vào thập giá, ngõ hầu, nhờ hy tế này, chúng ta được dự phần vào sự sống thần linh của Ngài. Chúng ta không được làm tổn hại đến thiên ân mà Ngài đã phải trả bằng một giá rất đắt như thế. Vì thế, câu kết luận tất yếu phải có là:”Anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em”.

Trong đoạn văn đậm đặc đạo lý này, thánh nhân chỉ gợi ý, bắt đầu với ơn Phục Sinh và kết thúc với ơn Cứu Chuộc, hai thái cực bất khả phân này của khoa thần học thánh Phao-lô.

TIN MỪNG (Ga 1: 35-42)

Bài Đọc I tường thuật ơn gọi của cậu bé Sa-mu-en, cậu được thánh hiến cho Thiên Chúa ngay từ lúc còn niên thiếu. Tin Mừng Gioan trình bày hoàn cảnh ơn gọi của các môn đệ đầu tiên của Đức Giê-su. Tâm hồn của họ đã được Gioan Tẩy Giả chuẩn bị rồi.

  1. Thời gian: ngày thứ ba

Hoạt cảnh được định vị ở bên bờ sông Gio-đan hay trong vùng phụ cận. Đức Giê-su trở lại từ hoang địa. Theo diễn tiến thời gian của “tuần lễ khai mạc”, hoạt cảnh này được định vị vào ngày thứ ba. Diễn ngữ thời gian: “vào ngày thứ ba” thật có ý nghĩa: nó gợi lên biến cố Phục Sinh tương lai. Chính vào buổi chiều thứ ba Phục Sinh, các Tông Đồ, sau khi đã phân tán và ẩn náo, quy tụ lại, nghĩa là Giáo Hội được khai sinh. Vì thế, việc khai sinh Giáo Hội ẩn hiện trong câu chuyện này. Ơn gọi của ba môn đệ đầu tiên trong đó có Phê-rô, vì thế, Giáo Hội được ươm mầm rồi. Chính đó là lý do tại sao thánh ký đặt việc Chúa Giê-su đổi tên ông Si-mon thành “Kê-pha” ngay từ cuộc gặp gỡ lần đầu.

  1. Tước hiệu”Chiên Thiên Chúa”

Hoạt cảnh rất sống động và tự nhiên. Gioan Tẩy Giả đang nói chuyện với hai môn đệ của mình. Khi thấy Đức Giê-su đi ngang qua, ông chỉ Ngài cho hai môn đệ dưới tước hiệu “Chiên Thiên Chúa”. Tước hiệu này muốn nói lên điều gì?

2.1 – Chiên Vượt Qua

Đối với người Ki-tô hữu, mà thánh ký viết sách Tin Mừng này cho họ, tước hiệu này gợi lên Hy Tế Vượt Qua của Đức Giê-su, Ngài bị kết án tử vào đúng thời điểm chiên Vượt Qua bị sát tế ở tại sân Đền Thờ (Ga 19: 14). Ngoài ra, các bản văn Kinh Thánh đã mô tả “Người Tôi Trung” bị nhục mạ, bị ngược đãi thậm tệ, chẳng mở miệng oán than, “như chiên bị đem đi làm thịt” (Is 53: 7). Chúng ta biết các Tông Đồ đã trải qua biết bao khó khăn mới có thể chấp nhận ý tưởng về Đấng Mê-si-a chịu đau khổ và bị đóng đinh!

Rõ ràng, đây không thể là quan niệm của vị Tiền Hô khi gọi Đức Giê-su dưới tước hiệu Chiên Thiên Chúa. Xem ra đối với Gioan Tẩy Giả, “Chiên Thiên Chúa” là hình ảnh của sự tinh tuyền và thánh thiện. Đấng mà Gioan Tẩy Giả đã thấy “Thần Khí ngự xuống trên Ngài” (Ga 1: 32) chính là Đức Giê-su đang đi ngang qua họ. Ngài tựa như “Chiên Vượt Qua” mà Luật đòi buộc “không tì vết”.

2.2 – Chiên Khải Hoàn

Mặt khác, vài bản văn thuộc trào lưu khải huyền Do thái đã gợi ra Đấng Mê-si-a sắp đến như một con chiên yếu đuối (không phải Thiên Chúa thường sử dụng những người bé nhỏ và yếu đuối để thực hiện những dự định vĩ đại của Ngài sao?), nhưng ở nơi con chiên này Thiên Chúa ban sức mạnh và quyền năng, vì thế, đây sẽ là con chiên khải hoàn. Trong sách Khải Huyền của mình, thánh ký lấy lại hình ảnh “Chiên Khải Hoàn” được liên kết với hình ảnh “Chiên bị sát tế”. Cả hai hình ảnh này diễn tả chỉ một nhân vật: Đức Giê-su Ki-tô.

Vì thế, như thường thấy trong Tin Mừng thứ tư, tước hiệu “Chiên Thiên Chúa” giả thiết nhiều mức độ đọc và hiểu khác nhau.

  1. Các nhân vật

Chúng ta biết rất rõ các nhân vật của hoạt cảnh này. Tuy nhiên, thái độ của mỗi nhân vật đáng cho chúng ta gẫm suy.

3.1 – Gioan Tẩy Giả

Trước hết, Gioan Tẩy Giả là một nhân vật đáng được ngưỡng mộ. Ông biết Đấng Mê-si-a có mặt ở đó. Ông mời gọi các môn đệ của mình đến gặp Ngài. Ông sẵn sàng nhường các môn đệ thân tín của mình cho Đức Giê-su. Ông có thể đi theo Đấng mà ông tiên cảm sự cao cả của Ngài. Nhưng không, sứ mạng của ông chính là chuẩn bị các tâm hồn, niềm vui của ông chính là mặc khải cho người khác nhận ra Chúa Giê-su: “Tôi đây không phải là Đức Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn” (Ga 3: 28-29). Ông gieo nhưng Đức Giê-su gặt.

3.2 – Ba môn đệ

Ông An-rê, một môn đệ giấu tên mà truyền thống sau này nhận dạng là Gioan, tác giả Tin Mừng thứ tư này, và ông Phê-rô là em của ông An-rê, ba người này làm gì ở trong hoang địa miền Giu-đa này? Họ là những ngư phủ đến từ biển hồ Ti-bê-ri-a để nghe Gioan Tẩy Giả rao giảng, vì danh tiếng của ông đã vang dội đến tận nơi họ đang sinh sống. Lời kêu gọi sám hối của Gioan Tẩy Giả rất nghiêm khắc, nhưng chắc chắn đã chinh phục bầu nhiệt huyết của ba ngư phủ trẻ tuổi này. Từ khi vị Tiền Hô chỉ cho họ “Chiên Thiên Chúa”, họ không chút ngần ngại bám theo Đức Giê-su. Như vậy, đây là cuộc gặp gỡ đầu tiên của họ với Đức Giê-su. Đoạn, họ trở về miền Ga-li-lê tiếp tục công việc chài lưới của mình. Tuy nhiên, ơn gọi của họ sẽ chín mùi; và rồi một ngày kia, trước tiếng gọi bất ngờ của Ngài: “Hãy theo tôi”, “họ rời bỏ tất cả mà theo Ngài”. Đó là lần ra đi theo đuổi ơn gọi của mình một cách dứt khoát.

3.3 – Đức Giê-su

Trong đoạn Tin Mừng này, thánh Gioan phác họa đôi nét đầu tiên và ghi lại vài lời đầu tiên của Đức Giê-su.

Chính Đức Giê-su có sáng kiến bắt chuyện với hai chàng thanh niên đang dò dẫm bước đi theo sau Ngài – và sau này cũng sẽ là như vậy khi Ngài mời gọi họ làm môn đệ của Ngài. Khi thấy hai người đi theo mình, Chúa Giê-su quay lại và hỏi: “Các anh tìm gì thế?”; họ đáp: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”. Vào thời đó, người ta thường gặp thấy một nhóm nhỏ môn đệ thụ huấn với một tôn sư thường sống chung dưới mái nhà của thầy. Câu trả lời của Đức Giê-su thật giản dị nhưng gợi lên sự tò mò ở nơi họ: “Đến mà xem”. Thế là”họ đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người ngày hôm ấy”. Nhưng thánh ký không nói cho biết chính xác nơi ở của Ngài, bởi vì trong cuộc đời công khai, Đức Giê-su không bao giờ có một mái nhà để trú ngụ. Thánh ký không nói cho chúng ta biết bất cứ điều gì về nơi ở của Ngài, cũng không cho chúng ta biết bất cứ điều gì về cuộc chuyện trò đầu tiên của Ngài với hai người môn đệ này. Tuy nhiên tác động của cuộc gặp gỡ đầu tiên này ghi dấu ấn không thể xóa nhòa trong tâm khảm của họ qua tiếng kêu của ông An-rê khi gặp em mình là Phê-rô: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a”.

Từ giây phút này, thánh ký giữ mãi kỷ niệm sống động này, vì thời gian đã trôi qua rất lâu sau đó, ấy vậy, ông không thể nào quên giây phút tuyệt vời này: “Đó là vào khoảng giờ thứ mười”(tức bốn giờ chiều). Đây là chi tiết của một chứng nhân nhưng cũng là chữ ký của người bạn đồng hành giấu tên của ông An-rê, tức là Tông Đồ Gioan, tác giả sách Tin Mừng mang tên ông.

  1. Hai cái nhìn

 Chắc chắn ấn tượng chúng ta có khi đọc bản văn này đó là câu chuyện bắt đầu và kết thúc trên một cái nhìn. Cái nhìn đầu tiên là cái nhìn của Gioan Tẩy Giả, cái nhìn của một vị ngôn sứ nhận ra Đấng Mê-si-a, nhưng không biết chính xác Đấng ấy sẽ như thế nào. Và cái nhìn của Đức Giê-su trên Phê-rô, cái nhìn thấu suốt đến tận cõi tâm can, cái nhìn xa trông rộng đến tận tương lai, và từ đó xác định sự chọn lựa của mình. Sẽ còn có những cái nhìn khác của Đức Giê-su trên Phê-rô… Thánh ký sẽ khai triển cái nhìn của Đức Giê-su một cách sâu xa trong Tin Mừng của mình.

Về mục lục

.

THÂN XÁC CON NGƯỜI THẬT TUYỆT HẢO

 Lm. Bosco Dương Trung Tín

Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em”   (1Cor 6,20).

Ngày nay theo sự nghiên cứu của khoa học, nhất là khoa cơ thể học, cho ta thấy sự tuyệt hảo của thân xác con người. Thân xác đó như là một cỗ máy, chạy suốt từ lúc tượng thai cho đến lúc ta tắt thở. Những gì ta có lúc trưởng thành bây giờ thì đã có ngay từ lúc thụ thai rồi. Mọi sự đã có ở lúc đó, chỉ chờ thời gian phát triển cho đến lúc trưởng thành.

Thân xác con người có đầu, 5 giác quan, tay chân và nội tạng.

Cái đầu là quan trọng nhất. Nơi đó có óc, có não để ta suy nghĩ, tính toán và quyết định mọi sự.

Với 5 giác quan, ta cảm biết mọi sự. Với con mắt, thị giác – nó được ví như của sổ của căn nhà, để từ đó, ta có thể nhìn thấy mọi cảnh vật xung quanh ta. Nó như chiếc máy chụp hình, chụp hết tất cả và ghi vào bộ nhớ ở não.

Với đôi tai, thính giác – ta nghe được mọi tiếng động xa gần.

Với cái mũi, khứu giác – ta ngửi và phân biệt được mùi thơm hay mùi không thơm. Và còn có một chức năng quan trọng nữa là hít thở không khí, lấy khí ô-xy và thải ra khí cạc-bô-níc.

Với cái miệng ta có thể ăn, uống để lấy chất bổ nuôi toàn bộ cơ thể. Nó còn có chức năng để nói nữa. Một bộ phận không thể thiếu là cái lưỡi, Vị giác. Không có lưỡi ta sẽ không ăn, không uống và không nói được.

Với xúc giác, ta có thể cảm nhận được những gì từ bên ngoài chạm vào da thịt ta.

Với đôi bàn tay ta có để làm cái này, làm cái kia. Với đôi chân ta đi, ta chạy, ta nhảy.

Ngoài ra với nội tạng, nào là tim gan, phèo phổi, bao tử, lá lách, ruột già, ruột non…..hàng tỉ mạch máu li ti, hàng tỉ dây thần kinh đi khắp cơ thể,…..Các cơ quan này làm việc không ngơi nghỉ. Nó mà nghỉ thì ta cũng “ngủm” luôn. Đó là chưa nói tới bộ phận sinh sản. Nó còn tuyệt vời trên cả tuyệt vời nữa.

Con người với hình thể bên ngoài, thật là đẹp: đẹp trai, đẹp gái. Trai thì khôi ngô, tuấn tú; Gái thì xinh đẹp, dễ thương. Nam thì Hoa Vương; Nữ thì Hoa Hậu. Nam thì vạm vỡ, sáu múi; Nữ thì ba vòng, đồi núi nhấp nhô, vòng nào cũng hấp dẫn. Mỗi người mỗi vẻ; dù cho có già đi nữa vẫn đẹp như thường, gọi là đẹp lão. Còn cái tâm thì chưa biết; cái tâm có đẹp hay không còn phải do con người cố gắng học hỏi và luyện tập trong suốt quá trình mình sống trên trần gian này.

Bởi đó mà Thánh Phao-lô khuyên ta “Hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác” ta là vậy. Vì nó tuyệt vời quá! Hấp dẫn quá ! Tuyệt trần quá ! Trên đời này có gì đẹp bằng “ Tòa Nhà thiên nhiên” đó không. Tòa Nhà mà thi hào Nguyễn Du đã mô tả: “Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên”. Ai cũng đẹp hết, ai cũng đầy đủ các bộ phận như nhau mà. Mỗi người đều là tác phẩm của Thiên Chúa, không có phiên bản thứ hai trên thế gian này. Đừng có ai tự ti hay mặc cảm về chính mình. Hãy chấp nhận thân xác mình và đón nhận như món quà của Thiên Chúa và hằng tôn vinh Thiên Chúa, vì đã ban cho ta một thân hình như thế.

Ai đã tạo dựng nên thân xác ta đấy? Cha mẹ ta ? Không. Cha mẹ ta không chế tạo nên thân xác ta, chính Thiên Chúa đã tạo dựng thân xác chúng ta như vậy. Cha mẹ ta chỉ cộng tác với Chúa trong việc truyền sinh, cũng như chăm sóc nuôi dưỡng ta thôi, chứ không làm ra ta.

Để “Tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác” ta, ta phải dùng “Thân xác ta mà tôn vinh Thiên Chúa”. Bằng cách nào ?

Với cái đầu, ta phải biết dùng mà suy nghĩ cho kỹ trước khi làm; tính toán cho chính xác trước khi quyết định và nhất là biết học hỏi sự khôn ngoan; điều hay lẽ phải. Một điều không thể thiếu đó là biết suy gẫm Lời Chúa, để ta biết được chân lý, biết được ý Chúa, biết được sự khôn ngoan của Chúa và cư xử hay làm việc cho thánh thiện, tốt lành.

Với cái miệng, ta ăn uống cho điều độ, để bảo đảm sức khỏe và ta dùng cái miệng mà ca tụng vinh quang Chúa, khi gặp những vẻ đẹp. Ta tạ ơn Chúa, khi gặp những điều tốt lành và biết nói những điều hay lẽ thật.

Với đôi tai, ta hãy dùng mà nghe Lời Chúa: “Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ đang lắng tai nghe”(1Sm 3,10). Ngoài ra, ta còn phải biết lắng nghe những lời góp ý, dạy bảo của người khác.

Với đôi tay, ta luôn sẵn sàng sắn tay áo lên để làm việc, cũng như nhiệt thành giúp đỡ người khác.

Với đôi chân, ta không quản ngại gian khó, để đi đây đi đó, đem tình thương đến cho mọi người.

Đặc biệt ta phải giữ gìn đôi mắt. Đôi mắt quí lắm. “Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn” mà. Nơi đôi mắt người ta nhìn thấy mọi sự cũng như thấy cả tâm hồn nữa. “Giầu đôi con mắt, khó đôi bàn tay”. Ai có đôi mắt sáng thì giàu; ai không có tay thì nghèo. Không có tay thì khó biết bao, chẳng làm gì được hết; có đôi mắt mờ thì khổ biết mấy, chẳng thấy rõ gì hết, nhìn “Gà” cứ tưởng “Quốc”.Có đôi mắt sáng ta sẽ nhìn thấy rõ mọi sự, trắng là trắng, đen là đen; việc tốt, việc xấu; người tốt, người xấu, để ta có nhiều kinh nghiệm mà sống cho phải đạo. Thà tốn tiền mua dầu, đóng tiền điện còn hơn phải mua kính mà đeo.

Tôn trọng và gìn giữ thân xác cũng là một cách ta tôn vinh Thiên Chúa.

Ta không những tôn trọng và gìn giữ thân xác của ta, mà ta còn phải tôn trọng thân xác của người khác nữa. Tại sao ? Vì thân xác của ta hay người khác là Đền Thờ của Chúa, là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần, nghĩa là nơi thân xác đó, có Thiên Chúa hiện diện. Thân xác đó có chứa đựng một linh hồn bất tử và thân xác đó sẽ được sống lại trong ngày sau hết. Thân xác đó đã được Đức Giê-su Ki-tô đổ máu ra để cứu chuộc.

Trong ý nghĩ đó ta mới hiểu câu nói của thánh Gio-an, khi nói về Đức Giê-su: “Đây là Chiên Thiên Chúa”(x.Ga 1,36). Nghĩa là nơi thân xác của Đức Giê-su, có thần tính của Ngôi Hai Thiên Chúa. Thân xác của Đức Giê-su là Chiên Vượt Qua, được hiến dâng để cứu độ thân xác và linh hồn con người. Ta tôn thờ Thân Xác Đức Ki-tô, vì đó là Thân Xác Thánh, Thân Xác đã được phục sinh. Ta tôn thờ Thân Xác của Đức Ki-tô trên thập giá cũng như trong bí tích Thánh Thể.

Ta hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi Thân Xác của Đức Ki-tô, vì nhờ Thân Xác đó mà ta được hưởng ơn cứu độ; được hưởng lòng từ bi thương xót của Chúa.

Ta hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác người khác, bằng cách tôn trọng, vì thân xác đó đã được Đức Giê-su cứu chuộc. Ta tôn trọng khi họ còn sống cũng như lúc qua đời. Đừng bao giờ khinh chê thân xác, cũng như đừng bao giờ chà đạp lên thân xác và nhân phẩm của người khác.

Và nhất là ta hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác ta, đừng bao giờ chê ghét hay không bằng lòng với thân xác mình, nhưng biết giữ gìn và trân trọng.

Ta giữ gìn cho thân xác ta khỏe mạnh, cường tráng. Ta trân trọng thân xác ta vì nhờ thân xác mà ta sống. Thân xác đó là quà tặng của Chúa cũng như là di sản của cha mẹ ta. Ta cũng phải biết dùng thân xác ta mà tôn vinh Thiên Chúa nữa. Ta sẽ nên thánh nên thiện ở đời này và ngày sau được sống lại mà hưởng phúc trên thiên đàng mãi mãi.

Vậy ta hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác ta và dùng thân xác ta mà tôn vinh Thiên Chúa: Thiên Chúa muôn năm !!!!!!

Về mục lục

.

ĐƯỢC GỌI ĐỂ TRỞ NÊN BẠN CỦA CHÚA

 Lm.Giuse Đỗ Đức Trí 

Trải qua cuộc sống đạt đến đỉnh cao của thành công, danh vọng thời trẻ, Philippe Murlryne – một trung vệ nổi tiếng của các đội bóng Manchester United, đã vắng mặt một thời gian dài. Sau đó, mọi người hết sức bất ngờ vì anh chuyển qua một con đường hoàn toàn khác. Anh trở thành linh mục dòng Đaminh, được phong chức tại ngôi nhà thờ mà ngày còn nhỏ anh thường tham dự Thánh lễ. Cha chia sẻ: Khi đang ở đỉnh cao sự nghiệp cầu thủ, thay vì thỏa mãn với mọi sự đang có thì trong tôi lại luôn bị dằn vặt suy nghĩ: Tại sao tôi không thấy hạnh phúc? Tại sao tôi không thấy mãn nguyện? Trái lại, tôi cảm thấy buồn chán vì có cái gì đó luôn không đủ, mặc dù lúc đó tôi không thiếu sự gì, tiền bạc, ăn chơi, sắm xe đắt tiền… nhưng chẳng vật chất nào có thể mang lại cảm giác thỏa mãn hoàn toàn cho tôi. Thế là tôi chuyển sang tìm kiếm câu trả lời ở tôn giáo. Cuối cùng, nhờ nền tảng đức tin, tôi biết được lý do cho những thắc mắc không lời giải. Chúng ta được Thiên Chúa tạo ra trên cõi đời vì những điều sâu xa hơn là những thứ tôi đang có. Tôi đã quyết định tìm hiểu ơn gọi nơi dòng Đaminh và nay tôi đã là một linh mục.

Lịch sử cho thấy có rất nhiều những chàng trai, những cô gái đang tuổi thanh xuân, đang ở đỉnh cao danh vọng và có cả những người đang có nhiều quyền lực, tiền bạc… nhưng họ vẫn khao khát tìm kiếm một điều gì đó cao hơn, xa hơn. Cuối cùng, họ nhận ra được tiếng mời gọi của Thiên Chúa và sẵn sàng đáp trả để trở nên bạn hữu của Chúa, trở nên cộng tác viên của Ngài, tiếp nối sứ mạng yêu thương phục vụ của Ngài.

Lời Chúa hôm nay kể về những chàng trai trẻ trong Kinh Thánh đã nhận ra tiếng mời gọi từ Thiên Chúa, đã đáp lại bằng việc bước theo Chúa, trở nên bạn hữu và dám sống chết vì Chúa. Gioan Tiền hô bấy giờ đang rất nổi tiếng, Anre và Gioan (sau này là Gioan tông đồ) là đồ đệ của ông. Ba Thầy trò đang trò chuyện với nhau. Lúc đó, Chúa Giêsu đi ngang qua, Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu cho hai học trò của mình: Đây là Chiên Thiên Chúa. Hai môn đệ này đã bỏ thầy Gioan ở lại để đi theo Chúa Giêsu. Việc trở thành môn đệ của Gioan lúc đó thật là hãnh diện, tuy nhiên, hai môn đệ này có lẽ đã cảm thấy trong lòng bị thôi thúc tìm kiếm một con đường khác cao hơn mà Gioan Tiền hô không đáp ứng được. Vì thế, khi vừa nghe giới thiệu về Thầy Giêsu, hai môn đệ này đã lặng lẽ bước theo Ngài.

Thấy được lòng khao khát tìm kiếm chân lý và thiện chí của hai chàng trai này, Chúa Giêsu đã chủ động quay lại và mở lời với họ: Các anh tìm gì? Hỏi như thế, Chúa Giêu muốn hai chàng trai nói lên khao khát từ trong thâm tâm của mình. Hai chàng đã nói lên ước mong của mình. Họ không đi tìm kiếm một triết lý hoặc những lý thuyết, nhưng sâu xa hơn, họ muốn tìm kiếm một tương quan với Chúa Giêsu. Vì thế, họ trả lời: Thưa Thầy, Thầy ở đâu? Tức là, họ tìm kiếm một chỗ, nơi có Chúa cư ngụ. Hiểu được khát khao sâu xa của họ, Chúa Giêsu đã mở lời và mở lòng ra với họ, Ngài mời hai chàng trai: Hãy đến mà xem. Hai chàng trai đã đến, đã xem chỗ Người ở và đã ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. 

Tác giả kể lại bước đi trong ơn gọi của mình khi nhấn mạnh từng nhịp một: Họ đã đến, đã xem, đã ở lại với Người. Hành trình ba bước này chính là hành trình ơn gọi theo Chúa của hai chàng trai và cũng là của tất cả những ai muốn làm bạn thân với Chúa. Họ đã đến, có nghĩa là phải có một quyết định dứt khoát trước lời mời gọi của Chúa, dám bước đến với Chúa. Bước đến với Chúa để xem những việc Chúa làm, để nghe những lời Chúa nói, để thấy được những đòi hỏi, yêu cầu của Chúa. Xem không chỉ là quan sát như một khán giả, nhưng tác giả dùng từ “xem” ở đây muốn nói đến một niềm tin trọn vẹn đặt nơi Chúa, cùng chia sẻ thao thức với Chúa là làm cho Tin Mừng và tình thương của Chúa được lan tỏa đến mọi người. Sau cùng là “ở lại với Chúa”, ở bên Chúa, ở với Chúa, chuyện trò tâm sự, lắng nghe và đón nhận sự dạy bảo, huấn luyện của Chúa. Ở lại với Chúa để có kinh nghiệm tiếp xúc, đụng chạm đến Chúa một cách riêng tư, cá biệt, có một xác tín cụ thể về sự hiện diện và đón nhận được sức mạnh của Chúa thông chuyển cho mình. Hai chàng trai trong câu chuyện đã không bao giờ quên được những giờ phút được gặp, được ở với Chúa như thế. Khi kể câu chuyện này sau nhiều chục năm, Gioan vẫn nhớ như in giờ phút được hạnh phúc ở bên Chúa, ông ghi rõ: Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười.

Câu chuyện cho thấy sau cuộc gặp gỡ, ở lại với Chúa hôm đó, hai chàng trai đã được biến đổi hoàn toàn, họ không thể giấu được niềm vui, hạnh phúc về những gì đã nhận được và những ấn tượng về Thầy Giêsu. Vì thế, ngay khi về đến nhà, ông Anre đã gặp em mình là Simon để nói về Chúa Giêsu cho em. Ông không thể giải thích hết bằng lời những gì ông đã cảm nghiệm trong cuộc gặp gỡ với Thầy Giêsu. Ông nói với Simon: Chúng tôi đã gặp Đấng Mesia. Rồi ông dẫn em mình đến gặp Chúa Giêsu. Lời giới thiệu cho thấy sau một ngày ở với Chúa Giêsu, Anre và Gioan đã tin Chúa Giêsu là Đấng Mesia có nghĩa là Đấng Cứu Thế mà Thiên Chúa đã hứa. Ông đã đưa Simon đến gặp Chúa Giêsu để cho em mình cũng được xem, được ở lại và được có kinh nghiệm về việc gặp gỡ với Chúa Giêsu. Mặc dù Thánh Gioan không kể chi tiết về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Simon, nhưng kết thúc câu chuyện với một câu ngắn gọn: Chúa Giêsu nhìn thấy Simon thì đã đổi tên cho ông: Simon con ông Gioana, từ nay, anh sẽ được gọi là Kepha, là Phêrô. Điều đó có nghĩa là trong cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Simon, Chúa đã biến đổi ông thành một con người mới, với một sứ mạng mới bằng việc đổi tên ông, thay đổi hoàn toàn con người của ông. 

Như vậy, khi chọn, gọi những người trẻ bước theo Chúa để trở thành những cộng tác viên của mình, Chúa Giêsu không đòi một điều kiện nào đặc biệt. Chúa chỉ cần nơi họ sự thiện chí và lòng quảng đại. Những người được Chúa gọi, không phải vì khả năng, cũng không phải vì những kế hoạch nào riêng của họ, nhưng điều Chúa muốn trước tiên khi gọi những người trẻ này, là muốn họ đến với Chúaxem và suy gẫm những lời Chúa nói, những việc Chúa làm và điều quan trọng hơn là ở lại với Chúa.

Có nhiều bạn trẻ đặt vấn đề: Làm thế nào để biết rằng Chúa gọi tôi sống đời làm bạn với Chúa? Câu chuyện cậu bé Samuel trong bài đọc một cho thấy cách Chúa gọi một người theo Chúa. Samuel là đứa con cầu tự, được sinh ra khi cha mẹ đã già. Ngay từ nhỏ, cậu được cha mẹ dâng hiến cho Thiên Chúa, cha mẹ cậu khát khao đem con lên đền thờ để nó được phục vụ trong đền thờ của Chúa. Điều đó cho thấy, cha mẹ và gia đình là vườn ươm trồng ơn gọi tu trì, tận hiến. Cha mẹ phải là những người quảng đại và mong muốn cho con mình được dâng hiến cho Chúa, gieo vào tâm hồn con mình khao khát phục vụ Chúa.

Chúa có nhiều cách để gọi, nhưng Chúa thường gọi qua trung gian của một ai đó. Trường hợp của Gioan và Anre, Chúa dùng Gioan Tiền hô; trường hợp của Simon, Chúa dùng người anh là Anre đưa em đến với Chúa. Cậu bé Samuel, Chúa dùng thầy thượng tế Heli để gọi cậu bé. Cậu ngủ trong đền thờ và nhiều lần nghe tiếng gọi nhưng không biết là ai. Cậu chạy đến với thầy thượng tế và thưa: Thưa thầy, thầy gọi con. Đến lần thứ ba, thầy Heli biết là Chúa gọi cậu bé, nên nói với cậu: Nếu con còn nghe gọi, thì hãy thưa: Lậy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe. 

Cậu bé Samuel đã làm như thầy Heli dạy, đã nghe được tiếng Chúa nói và sau này, cậu trở thành một ngôn sứ lớn trong Israel. Như vậy, yếu tố sau cùng và rất quan trọng, đó là sự sẵn sàng lắng nghe và đáp trả tiếng Chúa như Samuel: Lậy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe. Khi có thái độ sẵn sàng quảng đại, ta sẽ nghe được tiếng Chúa nói với chúng ta.

Giữa những ồn ào của cuộc sống, của các loại âm thanh, Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta, cách riêng các bạn trẻ hãy đến, hãy xem và hãy ở lại với Chúa để có thể cảm nhận được tình thương và sự thao thức của Chúa. Chúa muốn mời chúng ta chia sẻ với Ngài trong sứ mạng cứu độ thế giới. Xin cho chúng ta và các bạn trẻ có được tâm hồn quảng đại để đáp lại lời mời gọi của Chúa, đến và ở lại với Chúa mỗi ngày nơi Bí tích Thánh Thể để được Chúa huấn luyện, biến đổi và sai chúng ta đi vào cuộc sống này, làm cho Tin Mừng và tình thương của Chúa lan tỏa đến mọi người. Amen. 

Về mục lục

.

CÁI GIÁ PHẢI TRẢ ĐỂ LÀ MÔN ĐỆ CHÚA

Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh

Đọc những bài đọc Chúa Nhật hôm nay, đặc biệt lời Chúa kêu goi Samuel, Anrê và em ông, tôi đã nhớ đến một điều mà Dietrich Bonhoeffer, vị mục sư Tin lành Lutheran người Đức đã viết trong nhà tù Đức Quốc Xã: “Chỉ có sống một cách thoải mái, không dè dặt băn khoăn về những bổn phận, những khó khăn, những thành công hay thất bại, những trải nghiệm hay những xáo trộn của cuộc đời mới có thể làm cho người ta trở thành một con người và một Kitô hữu thực sự”. Bonhoeffer đã trải nghiệm một cách cay đắng điều mà ông gọi là “Cái Giá Phải Trả Đề Là Môn Đệ Chúa”. 

THÒI ĐẠI MỚI CỦA SAMUEL

Tiên tri Samuel, ông An Rê và Simon Phêro đã trải qua cái giá này trong chính cuộc đời của các ông. Chúng ta thử coi lại câu chuyện Chúa kêu gọi Samuel. Đây là câu chuyện khá cảm động. Lời kêu gọi rất sống động của Chúa đã cho chúng ta một khuôn mẫu phải theo trong cuộc sống hàng ngày. Eli thì đã già, mắt thì gần mù, không còn trông thấy gì nữa. Các con trai ông lúc đó là những thầy cả ở trong đền thờ, thì lại chẳng còn tin vào Chúa nữa. Thời đại của họ coi như gần tàn, nên Chúa đã kêu gọi Samuel để bắt đầu một thời đại mới.

Samuel cần giúp đỡ để ý thức được tiếng Chúa gọi mìnhh. Sự khôn ngoan của Eli và tình bạn với một người trẻ lúc đó quả rất cần thiết để Samuel có thể nhận ra tiếng Chúa gọi. Khi Samuel nhận ra là Chúa đã gọi mình thì ông đã trở thành nhà tiên tri vĩ đại biết được ý Chúa muốn dân Người phải làm những công việc có tính chính trị xã hội và tôn giáo.

CHÚA NÓI, TA NGHE hay TA NÓI,  CHÚA NGHE ?

Khi chúng ta đến quì gối trước mặt Chúa để lắng nghe tiếng Chúa nói thì lời cầu khẩn thắm thiết từ đáy lòng của chúng ta sẽ phải là: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy nói, tôi tớ Chúa đang lắng nghe.” Nhưng phải chăng tiếng kêu van đó lại thường đổi thành: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy lắng nghe, tôi tớ Chúa đang nói đây!” 

NHỮNG TIẾN TRÌNH LẮNG NGHE

Trong kỳ Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới năm 2008 bàn về “Lời Chúa trong cuộc sống và sứ mạng của Giáo Hội”, Giám mục Luis Antonio Tagle thuộc giáo phận Imus ở Phi Luật Tân, đã đưa ra một tiến trình lắng nghe rất đặc biệt. Giám mục trình bày bố cục của sự lắng nghe lời Chúa để giúp con người đạt tới đời sống thực. Ngài nói:

-“Lắng nghe là một việc quan trọng. Giáo Hội cần phải đào tạo những người biết nghe lời Chúa. Nhưng việc lắng nghe không thể chỉ chuyển đạt bằng lời giảng dạy mà còn cần phải có môi trường để lắng nghe.”

Giám mục Tagle đề nghị ba điểm để phát triển cách nghe:

  1. Lắng nghe trong niềm tinnghĩa là phải mở rộng lòng mình để đón nhận lời Chúa, để lời Chúa thấm nhuần trong ta hầu biến cải chúng ta rồi đem ra thực hành. Cách thức này tương đương với đức vâng lời trong niềm tin. Học tập lắng nghe liên hệ đến tạo lập đức tin
  1. Thiếu lắng nghe, những biến cố ở đời sẽ đưa tới những hậu quả thảm hại, sẽ gây ra những sung đột trong gia đình, những khác biệt giữa thế hệ này với thế hệ nọ, quốc gia này với quốc gia kia, giữa bạo động, chiến tranh và hòa bình. Con người thường bị đóng khung trong môi trường độc thoại, hững hờ, ồn ào, cố chấp và ích kỷ. Do đó, Giáo Hội cần phải cung ứng môi trường đối thoại, mọi người biết nể trọng nhau, có tinh thần hỗ tương hầu giúp nhau thăng tiến.
  2. Thiên Chúa phán và Giáo Hội là tôi tớ, lấy tiếng nói của mình làm Lời Chúa.Nhưng Thiên Chúa không chỉ nói mà thôi, Ngài cũng lắng nghe, nhất là lắng nghe những người công chính, góa bụa, mồ côi, những kẻ bị áp bức truy nã và nghèo hèn không có tiếng nói. Giáo Hội phải học tập cách lắng nghe của Thiên Chúa và phải dùng tiếng nói của Chúa thay cho tiếng nói của những người không có tiếng nói.

HÃY ĐẾN MÀ COI

Trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã khởi sự câu hỏi trước. Câu Ngài hỏi các môn đệ hàm chứa một thắc mắc: “Các ông đang tìm kiếm cái gì ?”(Ga 1: 38). Đây không phải là một câu hỏi đơn giản, mà là cả một vấn nạn thâm sâu về tôn giáo và thần học. Chúa hỏi tiếp:

      -“Tại sao các ông quay nhìn về ta để tìm câu trả lời?”

      -“Thưa Thầy –các môn đệ trả lời- Thầy đang ở đâu?” (c. 38)

Động từ “sống”, “ở lại”, “trú ngụ”, “trọ”, “ở”, “nghỉ” có tất cả tới 40 lần trong Tin Mừng Gioan. Đó là một động từ diễn tả rất rõ ràng ý nghĩa thần học của thánh Gioan về hai chữ “trú ngụ”.

Các môn đệ không phải chỉ quan tâm đến chuyện đêm nay Chúa sẽ ngủ ở đâu, mà thực ra còn muốn hỏi Chúa là “Chúa sống ở đâu”.  Chúa hiểu ý các ông nên đã trả lời:

-“Hãy đến mà coi.” (c. 39).

Hai tiếng “đến” và “coi” đã trải dài xuyên suốt Tin Mừng Gioan. Đối với Chúa Giêsu, tiếng “hãy đến” được dùng để diễn tả niềm tin vào Chúa (Ga 5: 40; 6: 35,37,45; 7:37). Đối với ông Gioan, tiếng “hãy coi” có nghĩa là hãy nhìn kỹ chúa Giêsu để có được một nhận thức thực và chính xác mà tin vào Người.

CÁC MÔN ĐỆ ĐÃ TIN VÀO CHÚA  

Các môn đệ bắt đầu cuộc sống môn đệ khi đi theo Chúa để coi xem Chúa ở lại đâu, và “các ông cũng ở lại với Chúa ngày hôm đó”(Ga 1:39). Các ông đã đáp ứng lời mời gọi của Chúa và tin, các ông đã khám phá ra cuộc sống của Chúa là gì, và họ đã “ở lại” với Chúa. Các ông bắt đầu sống trong Chúa và Chúa ở trong các ông. Sau khi ông An Rê đã  hiểu biết chín chắn và chính xác Chúa Giêsu là ai thì ông đã “đi kiếm anh mình” là Simon Phêro và “dẫn đến với Chúa”. (Ga 1:41-42). Tất cả những kinh nghiệm này sẽ được hoàn thành khi các môn đệ nhìn thấy sự vinh quang khải hoàn của Chúa trên thập giá.

CHÚA GỌI CHÚNG TA VÌ LỢI ÍCH CỦA THA NHÂN

Cái gì có thể giúp chúng ta học hỏi được ở những bài đọc hôm nay về lời Chúa gọi? Chúa không bao giờ mời gọi chúng ta vì lợi ích của chúng ta, nhưng vì lợi ích cho tha nhân. Chúa đã kêu gọi dân Israel vì lợi ích của những kẻ chưa nhận biết Chúa ở chung quanh họ, những dân ngoại. Chúa gọi những Kitô hữu vì lợi ích của cả toàn thế giới.

Để được mời gọi, chúng ta không cần phải hoàn hảo, nhưng đòi hỏi phải trung thành và biết lắng nghe. Samuel và các tiên tri của Israel, dân thuyền chài ở Galile và ngay cả những người thu thuế mà Chúa Giêsu đã gọi, chắc chắn là họ được gọi không phải vì họ có đủ điều kiện hay đã làm được những việc trọng đại. Thánh Phalo đã nói là Chúa Giêsu đã mời gọi những kẻ “điên khùng” làm cho những người khôn ngoan phải xấu hổ. Đó là một kiểu kêu gọi rất linh động có thể thích hợp với tất cả mọi đáp ứng của chúng ta. Chúng ta sẽ hoàn toàn đổi mới, bởi lẽ Chúa đã gọi chúng ta, đã yêu chúng ta, biến đổi chúng ta và làm cho chúng ta trở nên giống Chúa. Chúa đã gọi chúng ta, chúng ta không có chọn lựa nào khác ngoài việc kêu gọi mọi người đi theo Chúa.

 ĐÔI LỜI KẾT

Chúng ta đã được gọi để thoát ra khỏi cuộc sống bình thưòng của chúng ta, khỏi những thất bại trong đời sống hàng ngày của chúng ta thế nào?  Mục đích mới của chúng ta là gì khi chúng ta bước theo con đường Chúa gọi? Qua ai và làm thế nào để chúng ta có thể tiếp nhận được tiếng Chúa gọi? Trong quá khứ hay gần đây chúng ta có kêu gọi được ai trở lại với Chúa không? Hay chúng ta không những đã chẳng kêu gọi được ai mà ngược lại đã làm nhiều người, vì chúng ta mà xa rời Chúa?

Chúa đã gọi tôi, tôi có trách nhiệm kêu gọi mọi người về với Chúa, dù có gặp gian nan khổ ải. Đó là cái giá phải trả để là môn đệ Chúa. Thánh Phêro, thánh Phaolo đều chết treo trên thập giá như thày mình là Chúa Giêsu Kito đã chết trên thập giá. Gần 200 thánh tử đạo Việt Nam đã chịu bao nhiêu cực hình, hy sinh mạng sống mình vì lời Chúa gọi; một TGM Nguyễn Kim Điền, một cha chính Gioan Lasan Nguyễn văn Vinh của Hanoi và biết bao linh mục, tu sĩ, giáo dân anh hùng khác đã hiên ngang tuyên xưng danh Chúa để rồi phải chết trong những trại tù cực hình khốn khổ của csVN đã thực sự trả cái giá để là môn đệ Chúa.

Gian nan, khốn khổ, cơ cực, thánh giá….Chắc chắn không phải là an thân, nhàn hạ, bổng lộc, chức quyền và hưởng thụ.

Về mục lục

.

TIN TƯỞNG

Lm Vũđình Tường

Tin tưởng là điều cần thiết trong cuộc sống. Bởi thiếu tin tưởng sẽ không đạt được điều mong muốn. Thiếu tin tưởng sẽ không học được và cũng không thể cộng tác chung, cùng làm việc với người khác nên thiếu tin tưởng là sống trong cô đơn, nghèo nàn tình người.Con người tin tưởng nhau là điều quan trọng. Còn một nguồn tin tưởng giúp con người tin tưởng nhau vô điều kiện đó chính là nguồn ân sủng Thiên Chúa ban tặng cho con người để họ học hỏi đặt tin tưởng nơi người anh em và đặt tin tưởng nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa tin tưởng con người nên ban cho con người sự sống đời này và còn hứa ban cho sự sống trường sinh. Thiên Chúa tin tưởng ta nên mời gọi ta cộng tác vào chương trình cứu độ nhân loại mà chính Đức Kitô Con Một Chúa xuống trần gian chung sống với nhân loại, mở đầu chương trình cứu rỗi nhân loại. Các bài đọc hôm nay có chung một chủ đề đó là tin tưởng. Trước hết cha mẹ của Samuel tin tưởng Eli nên trao phó con mình cho Eli coi sóc. Samuel tin vào cha mẹ và đến sống cùng Eli và lắng nghe, vâng lời Eli hướng dẫn. Giữa đêm khuya Samuel nghe tiếng gọi cậu tưởng thầy Eli gọi nên đến cùng Eli. Sau ba lần như thế Eli nghiệm ra tiếng Chúa kêu gọi Samuel và hướng dẫn Samuel cách đáp lại tiếng gọi. Lần thứ tư nghe tiếng gọi Samuel lên tiếng đúng theo điều Eli dặn bảo, cậu thưa ‘Xin Ngài phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe’. Samuel đặt trọn niềm tin vào thầy mình là Eli và cũng đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa từ đó cậu sống theo hướng dẫn của Thần Khi và lớn lên trong ơn nghĩa Chúa trung thành với Chúa suốt đời phục vụ dân Chúa. Một bằng chứng khác của tin tưởng là lời đáp trong thánh vịnh hôm nay nói lên niềm tin tưởng phó thác.

Này con xin đến để làm theo í Chúa.

Những ai đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa mới có thể đáp trả như thế bởi câu đáp trả trên cho thấy người đó không sống cho mình nhưng sống cho Chúa và người đó biết rõ mục đích đời họ là phục vụ dân Chúa. Phục vụ Chúa hết tâm tình, một niềm phó thác, thân xác, tâm trí và linh hồn với mục đích duy nhất là làm cho Danh Chúa cả sáng trước muôn dân. Bước sang phần Tân Ước người đọc gặp ngay thánh Phêrô trong thư gởi tín hữu Côrintô, thánh nhân nhắc nhở chúng ta được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh Chúa vì thế hãy gìn giữ thân xác cho trong sáng, xứng đáng làm Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Bởi thân xác ta là Đền Thờ Chúa Thánh Thần, được Thiên Chúa ban cho, nên chúng ta không làm chủ thân xác mà chính là nhận quà tặng Thiên Chúa trao ban để chúng ta hưởng dùng và coi sóc, bảo vệ thân thể. Lí luận cho rằng ‘Cơ thể tôi, tôi làm chủ và toàn quyền tự do xử dụng theo í riêng’ không phải là cách lí luận, tin tuởng của các Kitô hữu. Tôi không tạo dựng nên cơ thể tôi mà tôi chỉ xử dụng vì thế nói là tôi toàn quyền làm chủ thân xác là thiếu thực tế. Toàn quyền xử dụng thân xác làm điều tốt là điều đáng khen, đáng khuyến khích nhưng lợi dụng thân xác, lạm dụng thân xác, làm điều sai có hại, ngay cả coi thường thân xác mình và thân xác anh em là phạm tội đến đền thờ Chúa Thánh Thần. Thực tế cho biết con người không hoàn toàn làm chủ thân xác mình và thân xác không phải lúc nào cũng chiều theo hay lắng nghe lời ta hướng dẫn. Con người và tiến bộ khoa học hoàn toàn thất bại, không thể làm chủ nhiều con bệnh, không thể giữ cho người ta trẻ mãi và càng không thể xác định mức độ thông minh, tài năng, trí nhớ tốt như người đó mong muốn. Điều này cho biết con người không hoàn toàn làm chủ những gì thưộc về mình. Thánh Phaolô nhắc nhở ta không làm chủ thân xác nên luôn nhớ dâng lời tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài ban cho món quà vô cùng quí giá là sự sống đời này và sự sống trường sinh.

Phúc âm nhắc việc thánh Gioan Tiền Hô dùng thân xác Chúa ban, trọn đời phó thác tin tưởng, phục vụ Đức Kitô. Ông giới thiệu Đức Kitô cho môn đệ ông và khuyến khích họ gặp Đức Kitô mong được Ngài nhận làm tông đồ. Bởi làm được điều đó là ông đã hoàn thành nhiệm vụ đi trước mở đường; hoàn thành nhiệm vụ làm tiếng hô trong samạc bởi tiếng hô đó có người đáp trả. Những môn đệ Đức Kitô tin theo và trọn niềm phó thác đời mình cho Đức Kitô. Các ngài trung thành tin tưởng Đức Kitô đổ đến giọt máu cuối cùng đề làm chứng lòng thành, tín trung.

Tin tưởng giúp ta mở ra chân trời mới đón nhận hướng dẫn chỉ bảo để thay đổi. Học sinh tin tưởng vào thầy giáo sẽ học giỏi hơn. Chính quyền nào gây được tin tưởng nơi đại chúng chính quyền đó làm được nhiều việc tốt và làm cho xã hội lành mạnh. Cha mẹ gây được tin tưởng nơi con cái gia đình hạnh phúc, yên vui. Cha mẹ dậy con đặt niềm tin nơi cha mẹ ngay khi chúng còn là trẻ thơ, cha mẹ cũng hướng dẫn chúng tin tưởng vào Thiên Chúa. Đây là việc làm tốt lành cần khuyến khích nhau làm việc tốt.

Về mục lục

.

CHU TOÀN SỨ MỆNH GIỚI THIỆU CHÚA CHO THA NHÂN

Lm. Đan Vinh – Hiệp Hội Thánh Mẫu

1) Tin mừng Gio-an đã thuật lại việc ông An-rê đã giới thiệu em là Si-mon với Đức Giê-su như sau: An-rê là anh của Si-mon Phê-rô, ông đã được thầy là Gio-an Tẩy giả giới thiệu Đức Giê-su với ông. Ông đã đi theo Đức Giê-su đến nơi Người ở và ở lại với Người ngày hôm đó. Sau khi đã tin Người là Đấng Thiên Sai, An-rê liền đi gặp em là Si-mon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (Ga.1,41), rồi dẫn em đến gặp Đức Giê-su. Đức Giê-su nhìn Si-mon và nói: “Anh là Si-mon, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha” nghĩa là Đá. Ngày nay Chúa Giê-su cũng muốn chúng ta giới thiệu Người với những ai chưa nhận biết, để họ tin và được hưởng ơn cứu độ của Người.

2) Vào một ngày nọ, một ông cụ khoảng 70 tuổi được đưa vào phòng cấp cứu tại một bệnh viện tư trong thành phố. Ông đang trong tình trạng suy tim và khó thở do bệnh thấp khớp thời kỳ cuối. Sau khi đã được bác sĩ chích thuốc trợ tim và cho uống thuốc giảm đau, ông cụ đã tỉnh táo hơn. Bấy giờ một y tá đến bên hỏi ông mấy câu để điền vào tờ phiếu nhập viện. Khi cô y tá hỏi: “Ông quý trọng tôn giáo nào nhất?” thì vẻ mặt ông cụ rạng rỡ hẳn lên. Ông đã tâm sự với cô y tá rằng: “Từ trước đến nay tôi cứ ước mong có ai hỏi tôi về tôn giáo, và mãi đến hôm nay cô là người đầu tiên hỏi tôi câu ấy. Thực ra từ nhỏ tới lớn tôi chưa theo đạo nào. Còn bây giờ thì tôi muốn theo đạo Công Giáo. Lý do là vì cách đây mười năm, khi tôi còn đi lại bình thường, mỗi sáng sớm tôi đều chạy đến công viên gần nhà tập dưỡng sinh. Tại đó tôi đã làm quen với một ông bạn công giáo. Chúng tôi thường ngồi trao đổi hàng giờ về các vấn đề thời sự quốc tế trên đài truyền hình hay báo chí, trong đó có vấn đề tôn giáo. Nhờ vậy tôi đã hiểu về đạo công giáo và tự nhiên tôi muốn theo đạo này. Tuy nhiên, do gặp cản trở từ phía gia đình nên tôi chưa làm theo ý nguyện được. Đàng khác tôi cũng ngại bày tỏ ý muốn trực tiếp với ông bạn của tôi. Rồi khi ông ta đi xuất cảnh, thì tôi mất liên lạc do không biết địa chỉ của ông. Từ đó, tôi ước mong có một người công giáo nào khác giúp tôi theo đạo. Tuy nhiên, dù đã gặp nhiều người công giáo, nhưng tôi chẳng thấy có ai sẵn sàng trao đổi về đạo giống như ông bạn cũ của tôi. Gần đây, bệnh thấp khớp ngày một nặng hơn. Tôi nghĩ mình sẽ chẳng còn sống được bao lâu và càng mong sớm hoàn thành tâm nguyện là được theo đạo công giáo. Hôm nay tôi rất vui khi nghe cô hỏi về tôn giáo. Bây giờ, ước nguyện duy nhất của tôi là gặp một linh mục để xin gia nhập đạo công giáo”. Sau đó, cô y tá người công giáo này đã mời một linh mục đến dạy đạo và ban phép Rửa Tội trước khi ông cụ nhắm mắt lìa đời. Ông đã ra đi trong an bình thanh thản, vì giờ đây cái chết không còn là đi vào chốn vô định, nhưng là một cuộc hành trình lên trời để gặp Thiên Chúa là Cha của ông.

3) Một vấn nạn được đặt ra là: Tại sao có nhiều tín hữu công giáo lại có thái độ thờ ơ, không nhiệt thành giới thiệu Chúa cho người thân và bạn bè để họ cũng được ơn cứu độ giống như mình ?  

– Có thể do họ nghĩ việc loan báo Tin Mừng là nhiệm vụ của các linh mục, mà chưa ý thức đó cũng là trách nhiệm của mọi tín hữu. Thực vậy, do đã được chịu phép rửa tội và Thêm Sức, họ được trở nên con Thiên Chúa và môn đệ Đức Giê-su, nên cũng có sứ mệnh làm chứng cho Người như lời Chúa phán với các môn đệ trước khi lên trời: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20). “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8b).

– Có thể do họ chưa ý thức giá trị của thức ăn tinh thần là Lời Chúa, nên chỉ biết lo tìm kiếm cơm ăn áo mặc vật chất, đang khi Chúa dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).

– Có thể do họ mang mặc cảm tự ti về vốn liếng giáo lý Thánh kinh ít ỏi của mình, nên không dám mạnh dạn đề cập về đức tin tôn giáo với những người không cùng tín ngưỡng.

– Nhưng lý do chính yếu là do thiếu lòng tin yêu Chúa, do chưa được tái sinh bởi Thánh Thần, nên họ không thiết tha với sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Nếu có lòng tin yêu Chúa thật sự, thì chắc mỗi người chúng ta sẽ nhiệt tình giới thiệu Chúa như thánh Phao-lô đã viết : “Tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5,14); “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16); Từ nay “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20).  

4) Lạy Chúa Giê-su. Qua bài Tin Mừng hôm nay Chúa muốn chúng con làm chứng cho Chúa cụ thể bằng đôi tay sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho những người nghèo đói; Chúa nhờ trái tim của chúng con để yêu thương tha nhân, nhất là những người đau khổ bất hạnh; Chúa nhờ miệng lưỡi của chúng con để giới thiệu Chúa cho những người chưa nhận biết Chúa. Ước gì chúng con nên khí cụ bình an của Chúa, để xây dựng hòa bình và tích cực góp phần kiến tạo Trời Mới Đất Mới, bắt đầu từ gia đình, đến khu xóm và môi trường chúng con đang sống.- Amen.

Về mục lục

.