Lời Chúa Năm A Các bài suy niệm Chúa Nhật 6 Phục Sinh_ A

Các bài suy niệm Chúa Nhật 6 Phục Sinh_ A

CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH – Năm A

Lời Chúa: Cv. 8, 5-8. 14-17; 1Pr. 3, 15-18; Ga. 14, 15-21

———

Mục lục

  1. Thầy Sẽ Không Để Anh Em Mồ Côi (Thiên San, MTG. Thủ Đức)
  2. Thế Là Tình Là Yêu (Lm. Jos, DĐH, Gp. Xuân Lộc)
  3. Ơn Ta đủ cho con  (Lm. Jos.Tạ Duy Tuyền)
  4. Thầy ở cùng anh em (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
  5. Được Thầy yêu mến  (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
  6. Yêu mến trong Thần Khí (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
  7. Chia sẻ niềm vui (Lm. Vũ Đình Tường)
  8. Hoạt động của Chúa Thánh Thần trong mầu nhiệm Phục sinh (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
  9. Yêu mến và tuân giữ  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
  10. Thánh Thần Đấng Bảo trợ đến từ Thiên Chúa  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
  11. Thần Khí Chúa  (Trầm Thiên Thu)
  12. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 6 Phục sinh_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

 

Mục lục

1. Nhân danh Chúa Giêsu Phục sinh  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Sự sống mới  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Yêu mến Thầy, thì hãy giữ các giới răn  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

4. Người yêu mến  (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)

5. Cậy trông  (Lm. Trần Việt Hùng)

6. Giới luật yêu thương  (Lm. Tôma Nguyễn Hoàng Phượng)

7. Yêu và giữ luật  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

8. Giáo hội Công giáo và Tông truyền  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

9. Suy niệm Chúa Nhật 6 Phục sinh_A  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

10. Nếu nói yêu Thầy mà không giữ lời Thầy là mâu thuẫn (Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)

11. Thần Khí yêu thương  (Trầm Thiên Thu)

12. Thánh Thần – Đấng Bảo Trợ (JM. Lam Thy, ĐVD)

13. Hứa ban Thánh Thần (P. Trần Đình Phan Tiến)

14. Nếu con  (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)

15. Anh còn nợ em  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

16. Lời Chúa căn dặn  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

17. Yêu mến và giữ lời  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

18. Tình yêu đích thật và tình yêu giả dối  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

19. Hiệp nhất trong tình yêu (AM. Trần Binh An)

20. Vững lòng tin yêu  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

21. Đấng Phù Trợ là Thánh Thần của Thiên Chúa  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

22. Suy niệm Chúa Nhật VI Phục sinh. Năm A  (Lm. Anthony Trung Thành)

23. Thầy không để anh em mồ côi  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

24. Ai mới thực sự yêu mến Chúa (Lm. Đan Vinh – HHTM)

25. Câu trả lời cho niềm hy vọng  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Nghĩa)

26. Một cuộc sống mới (Lm. Giuse Nguyễn)

27. Yêu và giữ lời  (Huệ Minh)

28. Chúa Thánh Thần là hy vọng và là trạng sư (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh)

29. Chúa Nhật 6 Phục sinh_A  (Lm. Antôn)

 

.

THẦY SẼ KHÔNG ĐỂ ANH EM MỒ CÔI

Thiên San, MTG. Thủ Đức

Tình yêu là thứ gia vị rất quan trọng, nó cho cuộc sống thêm đậm đà, ý nghĩa. Khi yêu nhau, người ta muốn gần nhau hơn trong tương quan, trong sự hiện diện, và nhất là nên một với nhau. Tình yêu dạy ta biết nghĩ cho nhau, hy sinh vì nhau. Khi chuẩn bị về cùng Cha, Đức Giêsu đã bày tỏ tình yêu của mình cho các môn đệ. Người báo trước cho họ biết những gì sắp xảy ra, những điều cần phải làm. Người cũng không quên xin Chúa Cha ban Đấng Bảo Trợ, là Thần Khí sự thật cho các môn đệ. Các ông sẽ không bị mồ côi (x. Ga 14, 15-21). Người cũng mời gọi các ông yêu mến Người qua việc tuân giữ các điều răn của Người.

“Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14, 15). Đức Giêsu mở ra cho các môn đệ cách yêu mến Người. Yêu thương không chỉ trên môi miệng, cảm xúc nhưng yêu thương được cụ thể hóa trong từng hành động. Nghĩa là yêu thương là cái gì đó rất cụ thể. Chúa Giêsu nói rõ điều này cho các môn đệ của Người: “Nếu yêu mến- sẽ giữ các giới răn”. Theo Thầy bấy lâu, chắc hẳn các môn đệ phải biết các giới răn của Thầy là gì. Chung quy lại thì giới răn của Thầy Giêsu được gói gọn trong một chữ “yêu”. “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12); Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau (Ga 15, 17). Điều giúp các môn đệ tiếp tục thi hành sứ mạng Chúa trao chính là để cho tình yêu Chúa soi dẫn và giúp họ biết học cách yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương.

Đức Giêsu hứa với các môn đệ rằng Người sẽ xin Chúa Cha ban Đấng Bảo Trợ đến với các ông. Chính Người là Thần Khí sự thật sẽ ở cùng các ông, ở giữa và ở trong các ông. Thật vậy, nếu không có Thần Khí sự thật hướng dẫn, các môn đệ sẽ rất khó để có thể đứng vững, thực thi sứ mạng Chúa trao. Lật lại dòng lịch sử, chúng ta sẽ có thể nhìn thấy hoạt động của Chúa Thánh Thần thật phong phú và sống động dường nào. Những cuộc bách hại dữ dội, những cuộc ly khai hay cả những cuộc nội chiến xảy ra, Hội Thánh của Chúa vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Biết bao hình thức tu trì được Chúa Thánh Thần gợi hứng, biết bao tấm lòng quảng đại đáp lại lời mời gọi yêu thương của Chúa. Có Chúa Thánh Thần, chúng ta không sợ lạc đường, không sợ bị mồ côi. Những gì Chúa Thánh Thần thực hiện nơi Hội thánh và nơi mỗi người chúng ta còn hơn thế nữa. Tình yêu của Chúa Giêsu không dừng lại ở đó.

Chúa Giêsu đã không để cho các môn đệ của mình phải mồ côi. “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống” (Ga 14, 19). Thật vậy, thế gian đã chẳng thấy Chúa Giêsu hiện diện kể từ khi Ngài về cùng Cha, nhưng các môn đệ của Chúa lại được diễm phúc nhìn thấy Ngài. Chúa Giêsu sau khi phục sinh đã nhiều lần tỏ mình ra cho các môn đệ được thấy. Sau khi về trời, Người cũng ban Thánh Thần đầy tràn cho các ông trong ngày lễ Ngũ tuần. Nhờ Thánh Thần của Đức Giêsu phục sinh, các môn đệ hăm hở ra đi rao giảng Tin Mừng. Hôm nay, là thế hệ con cháu, chúng ta không nhìn thấy Chúa bằng mắt thường nhưng nhờ ơn Thánh Thần Chúa, với đôi mắt đức tin, chúng ta tin nhận, yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể. Đối với thế gian, có thể điều đó thật khó hiểu, nhưng đối với con cái Chúa thì đó quả là một ân huệ lớn lao. Nhờ Chúa Thánh Thần hướng dẫn mà chúng ta xác tín vào sự hiện diện khiêm cung của Chúa Giêsu Thánh Thể nơi nhà tạm bé nhỏ. Quả thực, chỉ có những ai được đức tin soi dẫn, được Chúa Thánh Thần ban ơn mới có khả năng nhìn thấy những điều mắt thường không thể thấy. Nơi nhà tạm bé nhỏ, Chúa Giêsu Thánh Thể vẫn hiện diện rất âm thầm với chúng ta. Người ở trong ta, nên một với ta mỗi khi ta rước Người vào lòng. Bởi đó, cho đến nay, chúng ta đã chẳng bao giờ bị mồ côi.

Mối giây liên kết giữa Chúa Giêsu và từng người chúng ta càng trở nên khăng khít hơn mỗi khi chúng ta rước Chúa vào lòng, và mỗi khi ta đem lời Chúa ra thực hành. Chúng ta không chỉ liên kết với Chúa Giê su cách khăng khít mà qua Chúa Giêsu và nhờ Chúa Giêsu, chúng ta được Chúa Cha yêu mến. Lại nữa, khi mỗi người trong chúng ta được nên một với Chúa, chúng ta cũng được nên một với nhau. Bởi Chúa Giêsu Thánh Thể hiện diện trong anh, trong chị, trong mỗi người chúng ta là một. Người không bị chia năm xẻ bảy nhưng người liên kết mỗi người trong chúng ta với nhau. Có Chúa hiện diện, đồng hành, hướng dẫn, chúng ta không mồ côi bao giờ nhưng có thêm nhiều anh chị em hơn. Để sợi giây liên kết ấy được bền chặt và để không ai bị mồ côi, chúng ta hãy cùng nhau sống giới răn yêu thương như Chúa truyền dạy và sống trong sự hướng dẫn của Đấng Bảo Trợ.

Về mục lục

THẾ LÀ TÌNH LÀ YÊU

Ga 14, 15-21

Lm. Jos. DĐH, GP. Xuân Lộc

Có những thứ mờ mờ ảo ảo bất chợt tới, Xuân Diệu đã làm cho thứ mờ ảo đó sáng rõ hơn bằng hai chữ “Vì Sao”: làm sao cắt nghĩa được tình yêu, có nghĩa gì đâu, một buổi chiều, nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt, bằng mây nhẹ nhẹ, gió hiu hiu. Tình yêu không mầu không mùi, có chăng chúng được quy ước là trái tim nóng bỏng, là quả táo thơm. Ấy vậy, từ các bạn trẻ, giới cao niên, người tu hành, tất cả đều vui thích được yêu thương, được mộ mến, và hạnh phúc sẽ trào tràn khi được sống chết vì yêu vì tình. Cha ông chúng ta thật lãng mạn, như vừa để khích lệ con cháu hãy tự tin sống, vừa để lưu ý, hãy thận trọng, hãy tìm cho mình một đối tượng phù hợp: nồi nào úp vung nấy, nam thanh phải lấy được nữ tú, anh hùng phải cưới được mỹ nhân.

Đức Giêsu hé mở cánh cửa thành công, hạnh phúc, còn gọi là chìa khoá mở ra các vấn nạn nơi cuộc sống khi tình liên đới, tình hiệp thông, hoà quyện với tình Chúa, tình người. Từ ghế học trò, từ thực tế trường đời, đã xuất hiện bài học: một cái đầu tỉnh táo, một trái tim trung thực, một tâm hồn khiêm tốn, đó là ba người dẫn đường tốt nhất vượt thời gian, tới đích. Yêu mến Thầy, tuân giữ lời Thầy, là điều kiện được lập đi lập lại cho những ai nghe và sống giáo huấn Thầy Giêsu. Yêu cha mến mẹ, tuân thủ lời quân sư chỉ dạy, đâu phải để lấy tiếng thơm: con ngoan, trò giỏi. Yêu mến Chúa, thực hành điều Chúa dạy, là phương thế hữu hiệu, để Thánh Thần làm cho tình yêu sống động hơn, trước hoàn cảnh của mỗi người, nơi hiện tại, tương lai. Người thành công sẽ không sợ thất bại, người đủ bình an hạnh phúc, không sợ khổ đau, người yêu mến Chúa và tha nhân, là người môn đệ Đức Giêsu có đầy tràn tình yêu Thánh Thần.

Được sinh ra làm người, làm con Chúa, đó là tình, cùng nhau cầu nguyện, cùng giúp nhau sống ý Chúa, chu toàn bổn phận, gọi là yêu là thương. Yêu mến Thầy, tuân giữ lời Thầy, đó là tình yêu, là điều kỳ diệu để tình Thầy hiện diện luôn mãi: “Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho các con Đấng Phù Trợ khác, Ngài sẽ ở với các con luôn mãi”. Biết bao người trẻ đang nói: tình chỉ đẹp khi còn dang dở, tình đáng sợ là khi tình đã vẹn câu thề. Yêu thì khổ, không yêu thì lỗ. Có yêu thì nói là yêu, không yêu thì nói một điều cho xong. Khổ và lỗ, có và không, đó là một khía cạnh khác của tình yêu, là hệ quả của mối tình “chín ép”, là cuộc tình tàn bởi chỉ yêu bằng môi miệng, thiếu hành động, không dám hy sinh. Tình mà không chín mùi, là tình vội vã, tình mù quáng, yêu mà thiếu chân thật, thuỷ chung, chỉ là giả tạo, là lợi dụng.

Thế là tình, thế là yêu: “Thầy không bỏ các con mồ côi, Thầy sẽ đến với các con và các con sẽ vui mừng”. Hẳn, các học trò Đức Giêsu và chúng ta hôm nay đều sợ cô đơn, sợ lý thuyết, trừu tượng, cũng vì vậy mà có câu: thà rằng cô đơn vì không ai yêu, còn hơn yêu ai đó mà vẫn cô đơn. Đức Giêsu vẫn đang mời gọi: hãy sử dụng sự tự do của mình, hãy chứng minh mối tình đẹp nhất không phải là tình trong mơ, đừng yêu bằng mắt, hãy yêu bằng tâm hồn. Nếu tình xảy đến như “tiếng sét”, nếu yêu thương như chén trà, ly rượu nồng, tình yêu ấy sẽ sớm qua đi như hơi men, như giấc ngủ say. Thế là tình, thế là yêu, thế là “một ít nữa, thế gian sẽ không thấy Thầy, phần các con, các con thấy Thầy, vì Thầy sống, các con cũng sẽ sống”. Lời thành thật thì không đẹp, lời đẹp thì mấy khi thành thật !

Ba mươi năm chuẩn bị tại Nararét, rồi ba năm rao giảng, thực thi sứ mạng yêu thương, vâng phục thánh ý Chúa Cha, Đức Giêsu đã chịu đau khổ thập giá, chịu chết vì tội lỗi nhân loại. Mỗi người kitô hữu, có cả một đời người để nghe, để thực hành giáo huấn yêu thương của Đức Giêsu, có thể là 80 năm, 90 năm, để trở thành môn đệ Đức Kitô, trong tương quan tình yêu Ba Ngôi. Yêu mến Thầy, tuân giữ lời Thầy, kết hiệp với tình yêu của Thầy, là hiểu Thầy và sống giáo huấn của Thầy cách xứng hợp nhất. Học trò Đức Giêsu, môn đệ Đức Giêsu, có phải là mỗi chúng ta hay không ? Nếu chỉ dừng việc yêu thương trên môi miệng, đều là lý thuyết, bất xứng ! Thực ra, những ai tín thác trong tình yêu Giêsu, luôn có Thánh Thần hướng dẫn, người ấy hoàn tất việc yêu mến đúng và đẹp hơn.

Người ta có kể truyện ngụ ngôn hai mẹ con Vịt Trời như sau: vào mùa đông giá rét, vịt mẹ cõng vịt con bay về hướng nam để tránh gió bão. Vịt mẹ hỏi: hiện tại mẹ cõng con, nhưng mai này mẹ già, con có cõng mẹ để bay trú rét không ? Vịt con gật gù đáp: mẹ à, con e rằng lúc đó con sẽ cõng con của con ! Vịt mẹ không buồn, mà hết sức vui vì nhận ra con của mình đã khôn lớn, trưởng thành rồi. Con cõng con của con là hợp lý, đúng, thế là tình, thế là yêu. Tình yêu thương có ở trong con, con sẽ hiểu tại sao phải sống yêu, sống thương, tại sao sống ở đời phải có tình, có lý. Mẹ già, mẹ sẽ chết, đó là quy luật, nhưng tình liên đới hiệp thông, con phải tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp đó. Thế là tình, thế là yêu, sẽ còn là tác động cần thiết để nối kết tình yêu Giêsu, dù chỉ sống một lần, nếu sống đúng, sống đẹp, yêu trọn vẹn như Thầy Giêsu đã yêu, thì bạn chỉ một lần sống là đủ. Đấng phục sinh vẫn luôn hiện diện, nhắc nhớ mỗi người hãy yêu mến Thầy, tuân giữ lời Thầy, kẻ ấy sẽ thấy điều kỳ diệu của tình yêu Ba Ngôi nơi cuộc sống của mình. Amen.

Về mục lục

ƠN TA ĐỦ CHO CON

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

Xưa rất trọng chữ tín, họ hiểu rằng : ‘Một lần bất tín, vạn lần bất tin’, nên thường dạy con cháu: ‘Nói lời phải giữ lấy lời, đừng như con bướm đậu rồi lại bay’. Chữ Tín trong cuộc sống không chỉ là sự tôn trọng dành cho người khác mà đó còn là tôn trọng danh dự của chính bản thân mình. Khi ai đó không trọng chữ tín thì nhân cách người đó cũng bị hạ xuống thấp.

Nhưng đáng tiếc, với lối sống hiện sinh hôm nay đã có quá nhiều người sẵn sàng bán rẻ danh dự và nhân phẩm của mình khi không giữ chữ tín trong cuộc sống. Vợ chồng bất tín với nhau nên vẫn đầy rãy những vụ đánh ghen và  tệ hơn là đem nhau ra toà chia tay. Xã hội không có chữ tín nên đầy thị phi của lừa gạt, gian dối, buôn gian bán lận khiến con người chẳng dám tin ai!

Trong số những mẫu gương về chữ tín hiện đại người ta thường nói đến tỷ phú Lý Gia Thành. Ông đặt chữ tín trong mọi hoàn cảnh cuộc đời. Năm 1996, vị tỷ phú Hồng Kông đã gặp một biến cố lớn khi con trai của ông là Lý Trạch Cự bị một nhóm tội phạm bắt cóc đòi tiền chuộc. Chúng dặn ông không được phép báo cảnh sát, nếu không sẽ ngay lập tức xử lý con tin và Lý Gia Thành đã đồng ý.

Ngay khi bọn bắt cóc tới, chúng lùng sục khắp nơi vì nghi ngờ có cảnh sát đang ẩn núp xung quanh. Nhưng Lý Gia Thành chỉ nói: ‘Cả cuộc đời kinh doanh của tôi chẳng có thành tựu gì lớn, ngoại trừ chữ Tín trong từng lời nói của mình.’ Rồi ông để mặc bọn bắt cóc tìm kiếm khắp một vòng quanh nhà, mở cửa tất cả các phòng để tự kiểm chứng không có bóng dáng cảnh sát nào gần đây.

Bấy giờ, bọn bắt cóc yêu cầu 2 tỷ đô la Hồng Kông làm tiền chuộc. Lý Gia Thành chỉ có thể gấp rút chuẩn bị một nửa số tiền đó từ ngân hàng và hứa sẽ chuyển nốt một nửa còn lại đến tận tay bọn họ sau 2 ngày. Lúc đầu, đám bắt cóc còn bán tín bán nghi, nhưng sự thật sau đó đã chứng minh rằng, dù con trai đã trở về, vị tỷ phú Hồng Kông vẫn giữ đúng lời hứa và chuyển cho họ 1 tỷ đô la còn lại.

Khi được hỏi tại sao lại hành động như vậy, Lý Gia Thành đã khẳng định: ‘Chữ Tín là sinh mệnh thứ hai, một khi đã mất đi thì dù có đánh đổi bao nhiêu tiền bạc và công sức cũng không thể lấy lại được. Do đó, tôi đã bằng lòng điều gì, thì nhất định tôi sẽ thực hiện điều đó đến cùng.’ Đó chính là bản lĩnh giúp cho người đàn ông này xây dựng nên cả gia tài và sự nghiệp từ hai bàn tay trắng. Nó đại biểu cho một phần đạo đức, một phần nhân phẩm không thể thiếu của mỗi con người.

Cuộc đời ky-tô hữu chúng ta Chúa cũng đòi hỏi sống chữ tín với Chúa. Dù giữa cuộc đời đầy cám dỗ nhưng người tín hữu vẫn phải trung thành sống theo lời dạy của Chúa.  Đây là điều mà Chúa Giê-su trước khi về Trời đã căn dặn chúng ta: “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hãy giữ lời Thầy”. Như thế, tuân giữ giới răn Chúa là dấu chỉ cho lòng yêu mến Chúa. Tuân giữ giới răn Chúa còn là dấu chỉ sự trung tín và chu toàn bổn phận của Chúa giữa thế gian. Không thể nói rằng mình yêu mến Chúa mà lại không dám thực thi lời Chúa. Nếu chúng ta nói yêu mến Chúa mà không dám sống đạo và giữ đạo, đó chỉ là sự giả tạo vì Chúa đã từng trách rằng: “Dân này chỉ thờ Ta bằng môi bằng miệng mà lòng chúng lại xa cách Ta”. Tuân hứa giới răn Chúa không chỉ dừng lại trên môi miệng mà còn là một dấn thân để ý Chúa được thể diện trong cuộc đời chúng ta. Như Chúa Giê-su, ngài đã vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự. Người ky-tô hữu cũng phải vâng phục theo giáo huấn của Chúa, cho dẫu có phải chịu thiệt thòi, mất mát hay phải hy sinh cả tính mạng vì lòng yêu mến Chúa.

Nhìn vào thế gian hôm nay với bao nhiêu cám dỗ mời mọc, bao nhiêu cạm bẫy rình chờ, khiến đức tin của chúng ta đã nhiều lần chao đảo, muốn buông xuôi theo cám dỗ của tiền tài, danh vọng và thú vui thể xác. Giữa một thế giới có quá nhiều cám dỗ hưởng thụ, làm sao chúng ta có thể trung thành với Chúa? Có lẽ vì nguyên nhân đó, mà Chúa Giê-su đã hứa ở cùng chúng ta, đồng thời, ngài còn ban Thần Khí đến cho chúng ta. Ngài sẽ an ủi khi chúng ta gặp u buồn. Ngài sẽ soi sáng khi lòng trí chúng ta gặp hoang mang, lo lắng. Ngài sẽ nâng đỡ khi bước đường chúng ta gặp gian nan. Ngài sẽ ban sức mạnh khi chúng ta cần sức mạnh để vượt qua cám dỗ tội lỗi và làm lại cuộc đời. Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết để chúng ta hoàn thành sứ mạng cuộc đời như một tôi tớ trung tín và khôn ngoan, vì Chúa đã hứa hằng: “Ơn Ta đủ cho người và quyền năng Ta hiển trị nơi sự yếu hèn của con”
Nguyện xin Chúa Ky-tô Phục sinh luôn đồng hành với chúng ta và chúc lành cho cuộc đời chúng ta luôn bình an để chúng ta mãi trung thành với Chúa. Amen

Về mục lục

THẦY Ở CÙNG ANH EM

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Có bao lần ngụp lặn trong những lo âu, buồn chán, đau khổ, bi ai, thất vọng… ta có thể biết đến lời hứa của Chúa: “Thầy ở với anh em” để ra khỏi những muộn phiền trong đời sống, hay ta cứ ở lỳ trong đó tìm lối giải thoát ngoài Chúa. Ta không thấy Chúa ở bên đời ta, không cùng Chúa để chính Chúa mới là Đấng giải thoát với cố gắng của ta.

Đau khổ, muộn phiền lấp đầy ngoài Chúa, ta tìm những thú vui khác để lấp đầy: mua sắm, đổ lỗi, tìm khoái lạc thể xác, những thứ thuốc an thần… Ngoài Chúa, ta tìm lồi thoát, nhưng càng có giải pháp ngoài Chúa, ta lại vấp phải nỗi buồn khác chồng chất thêm. Ngoài Chúa, ta vẫn cứ hoài mệt mỏi với những cố gắng tự thân, rồi buông trôi. Ngoài Chúa, ta đi tìm lời an ủi, khích lệ từ người thân chung quanh, nhưng cũng gặp phải nhiều lời gièm pha, chỉ trích và thêm lời chế giễu, bôi nhọ, xem thường. Ta rút lui với mình ta cũng nỗi buồn dẫn ta đến trầm cảm, tự kỷ, hay tìm đến những chất kích thích, ảo giác. Trong nhiều đau khổ của ta thường đến từ việc thương “cái tôi” của ta lớn quá. Tự xem mình là trọng tâm quan trọng hơn người khác, luôn hình dung, đặt điều, suy diễn những điều không thực sự diễn ra. Giống như một người ghen tuông, lúc nào cũng tưởng tượng người bạn đường phản bội, với những cảnh tượng ghê gớm, khoét sâu vào lòng của mình những đau đớn.

Có một nguyên tắc, Thánh Gioan kim khẩu nói rằng: “không ai có thể làm mình tổn thương, đau khổ, nếu mình không tự gây ra cho mình”. Nguyên nhân đau khổ do chính mình gây nên bởi chính “cái tôi” ích kỷ của mình. Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn, người khôn xây nhà trên đá, kẻ dại xây nhà mình trên cát. Người dại xây nhà mình trên những điều bấp bênh, nhẹ dạ, đồi bại, giận hờn, thù oán, vong thân, sẽ lãnh lấy hậu quả trên những nền tảng ấy. Ngay cả việc tự trách mình quá đáng cũng cần tiếp cận với việc biết tha thứ cho mình để đứng dậy làm lại những gì mới mẻ , tốt lành. Nếu cứ nghiền ngẫm và nghe dư luận phê phán mình thì chẳng bao giờ ra khỏi muộn phiền, đau khổ.

Như ông Gióp là một con người vững mạnh giữa những đau khổ tự nhiên kéo đến và cũng chẳng phải chịu những đau khổ từ những lời gièm pha chung quanh. Ông ý thức bản thân của mình, có đó rồi mất đó, ông nghiệm thấy điều Chúa ban cho rồi Chúa lấy lại cũng tùy thuộc vào Chúa. Lòng trông cậy của ông nơi Chúa có một điều rất đặc biệt, đó là kinh nghiệm về Thiên Chúa giữa đau khổ của mình: “Trước kia con chỉ biết Người qua người ta nói lại; bây giờ chính mắt con chứng kiến. Vì thế, điều con nói ra xin rút lại, con sấp mình hối lỗi, ăn năn” (Giop 42, 5). Ông nhận ra mình chỉ là cát bụi, không thể ngang hàng tranh luận cùng Thiên Chúa. Tất cả đều do sự tốt lành của Chúa, Người thử thách để ta được lớn lên trong phẩm cách làm người.

Thầy ở với anh em.

Ý thức việc “Chúa sống trong tôi” như Thánh Phaolô biểu hiện trong đời sống của ngài: “Ai sẽ tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Ðức Kitô? Phải chăng là gian truân, bĩ cực, bắt bớ, đói khát, trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo ư?  Như đã viết: Vì Người chúng tôi bị sát phạt suốt ngày, chúng tôi bị kể như chiên lò sát. Nhưng trên các điều ấy hết thảy, chúng ta toàn thắng, nhờ Ðấng đã yêu mến chúng ta.” (Rm 8, 35 – 37).

Dù ta chưa biết Chúa nhiều như những nhà Thánh Kinh, hay thần học gia, hoặc những bậc tu hành đạo đức; nhưng với một đức tìn, niềm trông cậy và một lòng yêu mến, đơn sơ chân thành thôi, ta cũng nghiệm thấy tình thương của Chúa dành cho ta trong mọi nơi mọi lúc. Người vẫn ở bên ta như một người bạn thân thiết, hiểu rõ ta và luôn trợ giúp ta mọi mặt trên đường đời. Luôn cầu xin Chúa ban thêm niềm tin cho ta, để lòng trông cậy được thêm lên và lòng mến yêu được gia tăng. Một thời gian đặc biệt nào đó Chúa ban cho, ta cũng lại thưa lên: “không có gì tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô”.

Thầy vẫn ở với anh chị em. Người đang sống và luôn sống. Xin Chúa Thánh Thần trợ giúp chúng con khi niềm tin yếu kém, khi sức mạnh tinh thần lụn bại, khi lòng yêu mến nhạt dần.

Về mục lục

ĐƯỢC THẦY YÊU MẾN

Bông hồng nhỏ

          Ai trong chúng ta cũng đều được Chúa Giêsu hết mực yêu thương. Người đã tự nguyện hiến dâng chính mình, chịu đóng đinh và chết trên cây thập giá để cứu chuộc chúng ta. Thánh Phêrô đã viết trong một lá thư của ngài rằng: Chính Đức Kitô đã chịu chết một lần vì tội lỗi -Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương- hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh (1.Pr 3, 18). Vốn dĩ là  một kẻ bất lương nhưng đã được Thiên Chúa thương xót, tôi phải làm gì để đáp lại tình yêu bao la mà Thiên Chúa đã dành cho tôi?

          Đây là lời Chúa Giêsu đã ngỏ với tôi: “Nếu con yêu mến Thầy, con sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho con một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với con luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” (x.Ga 14, 15-17a). Tôi nhận thấy tình yêu Chúa trong tôi ngày càng được đong đầy. Đó không chỉ là tình yêu tôi đã dành cho Chúa nhiều hơn, nhưng hơn hết là tình yêu Chúa dành cho tôi mỗi ngày một nhiều hơn. Không phải hôm qua Chúa yêu tôi ít hơn hôm nay, nhưng là hôm nay Chúa cho tôi cảm nhận được nhiều hơn tình yêu Ngài dành cho tôi. Ngài dành cho tôi một tình yêu duy nhất, tình yêu trước sau như một. Điều làm tôi hạnh phúc là tôi được chính Thần Khí của Thiên Chúa làm cho sống. Tôi nhận thấy trái tim mình mỗi lần biết yêu như Chúa đã yêu thì nó được mở rộng ra. Đó là khi tôi đón nhận và cầu nguyện cho một người mà tôi ít thiện cảm, tìm kiếm và ghi nhận điều tốt đẹp nơi người đã ghét bỏ tôi, tôi cầu nguyện và dâng một việc làm hy sinh âm thầm là dấu để tôi tập bỏ mình, bỏ ý riêng và bỏ cái tôi ích kỷ. Khi tôi yêu thương người khác như Chúa đã yêu thương tôi thì tôi cảm nhận được một sự bình an lặng lẽ trong tâm hồn. Đã nhiều lần tôi tự hỏi: “Sao người ta lại bắt tôi phải khắc phục hậu quả do lỗi của chính họ?” Tôi nhận thấy một ánh sáng chiếu soi trong tâm hồn tôi. Có một câu hỏi khác đến trong tâm trí tôi: “Tại sao Chúa Giêsu lại phải chết vì tội lỗi của chính tôi?” Tôi thấy xấu hổ cho chính mình. Chúa Giêsu đã đón nhận tôi, yêu thương tôi ngay khi tôi còn là một kẻ bất lương. Vậy mà tôi lại không đón nhận người khác như Chúa đã đón nhận tôi ư!

          Chúa Giêsu đã nhờ Thần Khí mà phục sinh vinh hiển. Ai sống trong Thần Khí thì cũng sẽ được sống sự sống mới. Thần Khí làm cho tôi nên giống Chúa Giêsu. Người làm cho tôi nhớ lại mọi điều Chúa Giêsu đã dạy tôi, nhớ lại những kinh nghiệm được Chúa sửa dạy, được đón nhận tình yêu của Chúa; Người giúp tôi tăng thêm niềm tin yêu và phó thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Người luôn luôn thức tỉnh tôi, cho tôi sức mạnh và sự can đảm để đi theo con đường hẹp của Phúc Âm. Người hối thúc tôi đáp trả lời mời gọi của Chúa Giêsu, quay trở về cùng Thiên Chúa sau mỗi lần sa ngã. Người đốt lòng tôi yêu mến Chúa Giêsu và cảm nhận lòng thương xót của Thiên Chúa. Tôi luôn là một người môn đệ được Chúa yêu.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã yêu con và không ngừng yêu thương con. Mỗi ngày, xin ban xuống trên con Thần Khí tình yêu của Chúa, để Người dạy con yêu Chúa và yêu người anh em. Mỗi lần con yêu thương như Chúa mời gọi là mỗi lần con cảm nhận rõ hơn tình yêu Chúa dành cho con. Chính khi con sống giới răn yêu thương là khi con được Chúa yêu mến và được Chúa tỏ mình ra. Amen.

Về mục lục

YÊU MẾN TRONG THẦN KHÍ

Anna Cỏ May

Trong thư thứ nhất của Thánh Gioan có viết: “Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” (1Ga 2,16). Chúa Giêsu cũng tự mình nói với các môn đệ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14,16). Ngài là Đấng Bảo Trợ cho các môn đệ và cho mọi người. Khi Ngài đi về với Chúa Cha, Ngài xin Chúa Cha ban Đấng Bảo Trợ khác cho các môn đệ. Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy cũng chẳng biết Người. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng vô hình, chỉ những ai có lòng khao khát tìm kiếm mới được nhận thấy.

Tuy nhiên trước những lời ấy, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ về lòng yêu mến được thực hiện như thế nào. Ngài nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14,15). Thước đo về lòng yêu mến của Chúa Giêsu không dựa trên số lượng, cân nặng của vật chất hay lời nói mà ở hành động, hành động ấy là tuân giữ các điều răn của Ngài. Vì chỉ khi các môn đệ có lòng yêu mến, đồng nghĩa họ có lòng tin nơi Thầy. Khi có lòng tin vào Thầy, Thần Khí mới sẽ đến ở giữa và ở trong tâm hồn các ông. Thần Khí xuất phát từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu mà đến với họ. Thần Khí sẽ giúp họ không còn sợ hãi hay mồ côi nữa, vì họ thấy Thầy trong chính họ (x. Ga 14,20).

Mỗi người Kitô hữu chúng ta đang được tiếp nối cuộc sống từ các môn đệ là sống trong Thần Khí khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội và Bí tích Thêm Sức. Nhưng chúng ta có ý thức điều đó không? Chúng ta đã để cho mình sống trong tình yêu của Thiên Chúa không? Chúng ta có là người đang yêu mến Chúa hay chỉ yêu Chúa bằng cách thức chúng ta muốn? Đối với Chúa Giêsu, ai có và giữ các điều răn của Ngài, người ấy mới là kẻ yêu mến Ngài. Ai yêu mến Ngài thì sẽ được hưởng tình yêu của Chúa Cha và được Ngài yêu thương bằng việc Ngài tỏ mình ra cho người đó (x. Ga 14,21). Thánh Gioan cũng khẳng định: “Qủa thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người” (1Ga 5,3). Vì những lời của Chúa Giêsu là ý của Chúa Cha. Chúa Cha và Chúa Giêsu là một (x. Ga 10,30).

Lạy Chúa Giêsu! Chúng con cảm tạ Chúa đã không ngừng yêu thương chúng con. Ngài không để chúng con mồ côi nhưng luôn hiện diện với chúng con. Xin cho chúng con nhận ra tình yêu của Ngài và sẵn sàng tuân giữ các điều răn của Ngài trong sự soi dẫn của Thần Khí mới. Nhờ đó, chúng con được sống mật thiết trong tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.

Về mục lục

CHIA SẺ NIỀM VUI

Lm Vũđình Tường

Cá nhân vui mừng khi đạt được thành quả tốt đẹp sau bao năm tháng khổ tâm luyện tập. Niềm vui này được thân nhân, thân hữu và ngay cả các công dân khác mừng vui chung. Là thành viên của cộng đoàn Dân Chúa, Kitô hữu cùng đồng hành với các thành viên khác trong mọi vui buồn của cuộc sống. Đức Kitô là đầu, là thủ lãnh của cộng đoàn Dân Chúa. Ngài là nguồn sống, nguồn vui vô tận chung cho tất cả các Kitô hữu. Ngài tự nguyện gánh vác mọi tội lỗi và chết thay cho tha nhân. Qua Ngài, tha nhân nhận ơn trường sinh do Ngài ban. Kitô hữu cũng vui mừng đón nhận ơn đặc biệt Ngài ban, ơn lạ đó chính là Thánh Thần Chúa. Nếu Đức Kitô không hướng dẫn, Kitô hữu không thể biết có Thánh Thần Chúa. Kitô hữu vui mừng vì chính Đức Kitô xin Chúa Cha ban Thánh Thần Chúa cho các Kitô hữu. Điều Đức Kitô xin, Chúa Cha không bao giờ từ chối. Đức Kitô cho biết,Thánh Thần Chúa ngự trị thế giới nhưng thế giới không biết Ngài (Gn 14,17). Không biết bởi không nghe giáo huấn của Đức Kitô. Thánh Thần Chúa là nguồn tình yêu. Bởi từ chối thờ kính, yêu mến Đức Kitô, và không thương tha nhân nên không nhận biết Thánh Thần Chúa. Ơn đặc biệt Đức Kitô ban dành riêng cho những ai thành tâm yêu mến và tuân giữ giới răn yêu thương của Đức Kitô.

Trên thập giá, khi Đức Kitô lên tiếng ‘Lậy Cha, Con phó linh hồn Con tay Cha'( Lk 23,46). Người ta hiểu câu trên chính là câu nói cuối đời của Đức Kitô. Câu nói chấp nhận đầu hàng, chịu chết trước sức mạnh của quân La Mã. Kitô hữu hiểu Đức Kitô nói câu trên không mang í nghĩa đầu hàng, chấp nhận thất bại mà chính là tuyên ngôn của toàn thắng. Thứ nhất Đức Kitô chiến thắng sức mạnh của ma quỷ xuất hiện dưới hình thức cám dỗ, tội lỗi, để con người trở thành nô lệ cho cha quỷ. Thứ hai, Đức Kitô tiêu diệt sự sợ hãi do thần chết mang lại. Thần chết không còn độc quyền thống trị con người, nó bị Đức Kitô tiêu diệt khi Ngài sống lại từ cõi chết. Thứ ba, trước mặt quân lính La Mã và kẻ chống đối Đức Kitô, Ngài công khai tuyên bố họ có thể đóng đinh thân xác Ngài vào thập giá, nhưng hoàn toàn bất lực trước linh hồn Đức Kitô. Linh hồn Ngài thuộc về Chúa Cha và linh hồn đó tự do đi về cùng Chúa Cha. Quân lính và sức mạnh quân La mã không có khả năng kiểm soát, kiềm chế. Hiểu theo í nghĩa trên thì cái chết của Đức Kitô không phải là đầu hàng, không phải là kết thúc mà chính là khởi đầu cuộc sống mới. Cuộc sống toàn thiện, toàn mĩ trong nước Chúa. Xin phó linh hồn trong tay Chúa Cha chính là tuyên ngôn của sự sống mới, khởi đầu từ thập giá. Quả thực, Đức Kitô đã sống lại sau ba ngày an táng trong mộ. Ngài sống lại từ cõi chết, hiện ra và ở với các tông đồ một thời gian trước khi Thăng Thiên, về cùng Chúa Cha.

Đức Kitô về trời và ban Thánh Thần Chúa xuống trên các tông đồ, các Kitô hữu. Trái đất đầy ơn Thánh Thần Chúa. Ngoài Thánh Thần,

a/ Đấng tác tạo, chúng ta biết ở chương đầu của sách Sáng Thế Kí;

b/ còn có Thánh Thần Đức Kitô, trở về cùng Chúa Cha.

c/ Kitô hữu còn biết thêm về Thánh Thần của Đức Kitô Phục Sinh sau khi Ngài sống lại từ cõi chết.

d/ Cuối cùng Kitô hữu còn có Đấng Bảo Trợ Đức Kitô ban. Đấng Bảo Trợ không thay thế Đức Kitô nhưng làm công việc Đức Kitô khơi mào nơi trần thế. Đấng Bảo Trợ cùng đồng hành với các Kitô hữu để hướng dẫn, đào sâu và khai sáng những điều Đức Kitô hướng dẫn. Đấng Bảo Trợ làm sống lại giáo huấn của Đức Kitô trong tâm hồn các Kitô hữu. Đấng Bảo Trợ ban sức sống mãnh liệt sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội Chúa nơi trần gian. Đấng Bảo Trợ tiếp tục đổi mới sức sống của Kitô hữu nơi trần thế. Đức Kitô về cùng Chúa Cha là tin vui cho Kitô hữu.

Thứ nhất, Đức Kitô làm trọn lời Hứa ban Đấng Bảo Trợ ở cùng Kitô hữu cho đến tận thế.

Thứ hai, Kitô hữu sống đời sống mới, đời sống được hướng dẫn và bảo trợ bởi Đấng Bảo Trợ.

Thứ ba, Đấng Bảo Trợ cùng đồng hành, ban sức mạnh, giúp kitô hữu trên đường lữ hành về nhà Cha. Thế hệ Kitô hữu tin theo Đức Kitô sau ngày Ngài về trời không thua thiệt thế hệ Kitô hữu tiên khởi bởi Kitô hữu của các thế hệ sau được Đấng Bảo Trợ hướng dẫn, chị dậy như chính Đức Kitô dậy. Qua Đấng Bảo Trợ Kitô hữu nhận biết Đức Kitô và Chúa Cha.

‘Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến ngưới ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy’. Gn 14,21.

Đấng Bảo Trợ khai sáng tâm trí Kitô hữu để họ yêu mến Đức Kitô hết tâm tình, và do đó ở cùng Đức Kitô và Ngài ở trong họ. Kitô hữu tôn thờ Thiên Chúa, không phải từ xa. Thiên Chúa đó ở rất gần, ngay trong tâm hồn, ngay trong tim họ. Kitô hữu không tôn thờ Đức Kitô đã chết ghi trong sử sách, mà tôn thờ Đức Kitô Phục Sinh, Đức Kitô sống đời sống mới, uy nghi, danh dự, hiện đang ngự bên hữu Chúa Cha, hiện đang sống trong tâm hồn các kitô hữu. Qua hành động bác ái, yêu thương và tha thứ, người ta nhận biết chúng ta là môn Đệ Đức Kitô Phục Sinh. Đấng liên kết Kitô hữu với Chúa Cha và với Thánh Thần Chúa, Đấng Bảo Trợ. Đó là niềm tin của các Kitô hữu.

Về mục lục

HOẠT ĐỘNG CỦA CHÚA THÁNH THẦN

TRONG MẦU NHIỆM PHỤC SINH

        Lm. Đa-minh Trần đình Nhi 

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Cv 8:5-8, 14-17;  1 Pr 3:15-18;  Ga 14:15-21)

          Vị lãnh đạo tài ba là người nhìn xa trông rộng, biết chuẩn bị cho tương lai.  Đây là điểm rõ ràng nhất khi chúng ta suy niệm về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nhờ cuộc Thương khó và Phục Sinh của Chúa Giê-su, rồi tiếp nối qua hành động của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội.  Chúng ta đã có năm tuần lễ để chiêm niệm ý nghĩa mầu nhiệm Phục Sinh.  Bắt đầu hôm nay Phụng vụ Lời Chúa đưa ta đến với những đề tài về Chúa Thánh Thần.  Lời Chúa trước hết trình bày sinh hoạt của Chúa Thánh Thần trong việc tông đồ Phi-líp-phê rao giảng Tin Mừng tại Sa-ma-ri (bài đọc 1).  Tiếp theo là thư thứ nhất của thánh Phê-rô  nhắc nhở tín hữu hãy “ăn ở ngay thẳng trong Đức Ki-tô” để trả lời cho những kẻ chất vấn họ về niềm hy vọng được sống lại, vì chính Thánh Thần đã làm cho thân xác Đức Ki-tô được sống lại cũng sẽ cho ta được sống lại (bài đọc 2).  Sau cùng qua lời tâm sự với các tông đồ, Chúa Giê-su đã hứa xin Chúa Cha ban cho họ một “Đấng Bảo Trợ” là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn sống trong họ và liên kết họ với Người và với Thiên Chúa Cha (bài Tin Mừng).

  1. Chúa Thánh Thần hoạt động trong Giáo Hội sau khi Chúa Ki-tô sống lại.  Có một điều thích thú là Phụng vụ Lời Chúa từ sau lễ Phục Sinh luôn trích sách Công vụ làm bài đọc 1 thay vì trích Cựu Ước.  Như ta đã biết, sách Công vụ là “Tin Mừng của Chúa Thánh Thần”, giống như sách Phúc Âm là Tin Mừng của Chúa Giê-su Ki-tô.  Sách thuật lại sinh hoạt của Giáo Hội sơ khai trong sức mạnh và dẫn dắt của Thánh Thần.  Đoạn Công vụ hôm nay kể lại hoạt động tông đồ của Phi-líp-phê.  Vậy Chúa Thánh Thần đã làm gì qua tông đồ Phi-líp-phê?   Nhờ bàn tay ngài, Chúa đã thực hiện “những dấu lạ”!  Những dấu lạ ấy là:  các thần ô uế vừa kêu lớn tiếng vừa xuất khỏi nhiều người, những kẻ tê bại và tàn tật được chữa lành.  Dân chúng Sa-ma-ri không những chứng kiến những dấu lạ, mà nhất là họ đã “một lòng chú ý đến những điều ông Phi-líp-phê rao giảng”.  Đúng vậy, Chúa Thánh Thần đã dùng tông đồ Phi-líp-phê để loan truyền sứ mệnh cứu độ của Chúa Giê-su cho dân chúng Sa-ma-ri.  Họ đã đón nhận lời giảng và chịu phép rửa nhân danh Chúa Giê-su.  Sau cùng từ Giê-ru-sa-lem, các tông đồ Phê-rô và Gio-an đã đích thân đến với họ, “đặt tay trên họ và họ nhận được Thánh Thần”.
  2. Chúa Thánh Thần hoạt động trong tâm hồn các Ki-tô hữu.  Chúng ta nhận biết những hoạt động tích cực của Chúa Thánh Thần trong công cuộc rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội.  Nhưng hoạt động của Người cũng rõ ràng trong tâm hồn tín hữu nữa.  Đây là điều thánh Phê-rô khẳng định trong thư của ngài.  Ngài đã sớm nhận ra mối hiểm nguy cho đức tin của tín hữu khi họ “bị phỉ báng, vu khống và chất vấn về niềm hy vọng” của họ.  Vậy họ hy vọng điều gì?  Nhiều người đã hạch hỏi Ki-tô hữu:  Các anh các chị sống đức tin Ki-tô giáo vì hy vọng sẽ được sống lại trong ngày sau hết.  Vậy hy vọng ấy có thực không hay chỉ là điều hão huyền?  Do đó, để củng cố đức tin và niềm hy vọng của Ki-tô hữu, thánh Phê-rô đã nói đến vai trò của Thánh Thần.  Sở dĩ chúng ta “ăn ở ngay thẳng trong Đức Ki-tô, chịu khổ vì làm việc lành theo ý Thiên Chúa” là vì ta hy vọng sẽ cùng được sống lại với Đức Ki-tô để hưởng phúc đời đời.  Vậy Đấng bảo đảm rằng hy vọng của ta không phải là hão huyền chính là Chúa Thánh Thần, Đấng đã làm cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết.  Điều này thánh Phao-lô cũng đã quả quyết:  “Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8:11).
  3. Chúa Giê-su hứa ban Thánh Thần làm Đấng Bảo Trợ cho chúng ta.  Chúng ta đã nhận biết hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ của toàn thể Giáo Hội cũng như tâm hồn mỗi người chúng ta.  Nhưng trước khi ngự đến trong ngày lễ Ngũ Tuần thì Đấng Bảo Trợ ấy đã được Chúa Giê-su hứa ban:  “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”.  Chúa Thánh Thần được sai tới để “đến ở với anh em luôn mãi”.  Đúng thế, mục đích Thánh Thần đến ở với chúng ta là để giúp ta yêu mến Chúa Giê-su và tuân giữ các điều răn của Người.  Người đến với ta để khởi sự một đời sống mới theo các điều răn của Chúa Giê-su, một đời sống mà “thế gian không thể đón nhận”.  Rõ ràng sống theo Thần Khí của Chúa Ki-tô là đi ngược lại với lối sống của thế gian!  Do đó, Chúa Giê-su hứa ban cho ta Thánh Thần của Người là để Người “ở trong” chúng ta như sức sống và sức mạnh giúp ta kiên trì thực hành các điều răn của Người.  Nói khác đi, Chúa Thánh Thần ở trong tâm hồn ta chính là cách thức Chúa Giê-su Phục Sinh “ở lại” trong ta, để giúp ta tiếp tục con đường cứu độ Người đã mở ra cho ta và đưa ta đến với Thiên Chúa Cha vậy!

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Thánh Phê-rô là người đầy kinh nghiệm về hoạt động của Chúa Thánh Thần khi ngài luôn kết hợp với Chúa Giê-su.  Ngài đã từng sống gắn bó với Chúa Giê-su, giờ đây nhờ Chúa Thánh Thần ngài tiếp tục ở lại trong Chúa Giê-su để hoàn tất sứ mệnh tông đồ.  Ngài đã “nhận lãnh” Thánh Thần của Chúa Ki-tô như sức mạnh nâng đỡ Người.  Chúng ta cũng đã nhận lãnh cùng một Thánh Thần ấy!

Về mục lục

YÊU MẾN VÀ TUÂN GIỮ

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Những lời tâm huyết của Chúa Giêsu được thánh Gioan ghi chép lại trong hai chương 13 và 14, cuối cùng Chúa đúc kết trong một lời khuyên ân cần : “Ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy“.                                           

Có câu chuyện “Cậu Bé Thủy Thủ” giàu ý nghĩa minh họa :

Cậu bé Louis, 15 tuổi, học nghề thuỷ thủ trên một chiếc tàu buôn. Một hôm, trời mưa to gió lớn làm cho các thuỷ thủ lạnh cóng và rét run. Viên thuyền trưởng đem rượu Whisky ra cho các thuỷ thủ uống để chống lạnh. Ông cũng đem rượu cho cậu bé Louis, nhưng cậu từ chối không uống. Viên thuyền trưởng ép cậu phải uống kẻo bị lạnh, nhưng Louis vẫn một mực từ chối. Vì tự ái, viên thuyền trưởng bắt cậu ra sàn tàu đứng ôm cột buồm suốt đêm.Sáng hôm sau, khi điểm tâm xong, viên thuyền trưởng mới chợt nhớ ra cậu bé Louis. Mọi người chạy lên sàn tàu thì thấy cậu bé đã ngất xỉu dưới chân cột buồm.Sau khi sưởi ấm và làm cho cậu bé tỉnh, viên thuyền trưởng mới dịu dàng hỏi : “Tại sao cháu lại cố chấp như thế ?”. Cậu bé trả lời : “Thưa ông, vì trước khi chết, mẹ cháu dạy cháu đừng bao giờ uống rượu. Và cháu đã hứa với mẹ điều ấy”. Viên thuyền trưởng ngạc nhiên hỏi : “Tại sao ?”. Cậu bé ngậm ngùi kể lại : “Cha cháu say sưa tối ngày vì rượu. Mỗi lần say, ông về đánh đập mẹ cháu, lấy đồ đạc trong nhà bán để uống rựơu. Mẹ cháu buồn quá sinh bệnh rồi chết. Cháu rất thương mẹ cháu. Xin ông đừng bắt cháu làm ngược lại những gì mẹ cháu đã dạy bảo”. Viên thuyền trưởng cảm động ôm lấy cậu bé và nói : “Con xứng đáng là con của ta, ta sẽ truyền nghề cho con”.

Cậu bé Louis vì thương mẹ nên đã vâng giữ lời mẹ dạy. Cậu vâng nghe lời mẹ vì yêu mến mẹ.

Tình yêu của mỗi tín hữu dành cho Chúa sẽ được thẩm định bằng việc tuân giữ Lời của Ngài. Tình yêu ấy được minh chứng bằng cuộc sống tốt lành hàng ngày.

“Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời Thầy”. Lòng yêu mến của mỗi tín hữu đối với Chúa chỉ có giá trị khi đi đôi với việc làm là “vâng giữ lời Chúa”.

Khi thực thi ý Chúa, người tín hữu nhận lãnh được tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa : “Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Câu nói này của Chúa Giêsu hướng chúng ta đến mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi và nhất là ơn huệ Thánh Thần: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”.Thánh Thần được ban chính là để làm chúng ta nhớ lại lời của Chúa Giêsu; như thế, chính khi chúng ta nhớ, hiểu và cảm nếm Lời Chúa trong cầu nguyện, trong thời gian tĩnh tâm, trong thánh lễ hằng ngày; khi để cho Lời Chúa trở thành lương thực, sự sống mỗi ngày của mình thì chúng ta đang chan hòa ơn Thánh Linh. Ba Ngôi Thiên Chúa ở trong chúng ta, như thế tâm hồn mỗi người xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa, một đền thờ thiêng liêng, thánh thiện, tốt đẹp, yêu thương, luôn thể hiện tình yêu Thiên Chúa đến với mọi người.

Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy“. Giữ lời của Thầy là chứng tỏ lòng thương mến của mình đối với Thầy. Lời cốt lõi của Thầy là các con hãy tuân giữ và thực thi giới răn yêu thương.

Cội nguồn của dòng sông tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu tuôn chảy đến nhân loại.Tình yêu là nguồn sự sống, là động lực chính yếu của cuộc đời và sau hết tình yêu cũng là cứu cánh của cuộc đời: Vạn sự đã do Tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về Tình yêu và đi vào trong Tình yêu (R.Tagore)

Chính tình yêu Thiên Chúa đã gọi chúng ta vào trường đời để dạy chúng ta sống yêu thương. Chính tình yêu Thiên Chúa đã cứu sống chúng ta. Và chính nhờ tình yêu ấy mà chúng ta được sống viên mãn.Thiên Chúa là dòng sông ân sủng. Khi kết hiệp với Người, ân sủng tuôn đổ vào linh hồn, làm cho chúng ta được sống và sống sung mãn. Ân sủng thấm nhập nội tâm, uốn nắn tình cảm, củng cố ý chí, sinh ra những hoa trái thiêng liêng trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Nhờ kết hiệp mật thiết với Chúa, chúng ta được sống sự sống của Người, nói lời nói của Người, hành động theo gương của Người, phán đoán theo chuẩn mực của Người, nhìn con người và sự việc bằng cặp mắt của Người, yêu thương bằng trái tim của Người. Khi sự kết hiệp đã đến mức hoàn hảo, chính Người hành động qua chúng ta và vì thế, những hoa trái sẽ vô cùng phong phú.

Những người yêu mến Chúa thì luôn biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành.

Trong truyện thánh Tử đạo Martinô Thọ có chép:

“Ông Thọ là người rất đạo đức. Vì được tín nhiệm, ông làm việc thu thuế trong một thời gian rồi xin nghỉ vì thấy có nhiều cheo leo khó công minh luôn mãi được. Ông khuyên các con cứ đúng luật Chúa mà làm chứ đừng phạm tội vì muốn đẹp lòng người khác…. Ông làm việc rất siêng năng và cũng rất rộng rãi với người nghèo khó: không bao giờ ông để họ ra về mà không cho của gì ăn. Nếu con cái đi vắng, ông mời người ăn xin cùng ngồi ăn cơm chung, nếu con cái ở nhà, ông bắt chúng chia cơm cho họ”. Thánh Martinô Thọ đã tuân giữ giới răn Chúa dạy là mến Chúa yêu người, sống công bằng bác ái. Ngài quả là người yêu mến Chúa thật và đã đáng được Chúa trọng thưởng hạnh phúc đời đời.

Đức Maria là mẫu gương yêu mến và tuân giữ Lời Chúa.

Một người phụ nữ nghe Chúa giảng dạy, bà nghe say mê. Với tính nhạy cảm của một người nữ, bà cảm nghiệm niềm hạnh phúc của người mẹ có một người con tuyệt vời như Chúa Giêsu. Giữa đám đông, bà bày tỏ niềm thán phục Chúa, bà tán dương Mẹ Maria là “người mẹ có phúc đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú mớm”. Đáp lại lời tán dương ấy, Chúa nói đến hạnh phúc cho ai nghe và giữ lời Thiên Chúa: “Bà ơi, đúng hơn phải nói rằng: phúc thay kẻ biết lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa”. Người phụ nữ kia đã tán dương Đức Mẹ là có phúc vì Mẹ có các vinh dự làm Mẹ của một người con tài ba kỳ diệu là Chúa Giêsu. Đây mới chỉ là vinh dự trần gian. Mẹ Maria còn có một hạnh phúc lớn lao hơn là “nghe và giữ lời Thiên Chúa”. Khi biết lắng nghe, đón nhận và giữ lời Thiên Chúa thì thiên đàng đã ở trong người ấy, vinh phúc đời đời ở trong người ấy, Thiên Chúa ở trong người ấy. Đó là vinh phúc của Mẹ Maria. Bởi đó, Chúa nói với người phụ nữ kia, không chỉ dừng lại nơi lời khen Mẹ Maria có phúc vì đã có vinh dự cưu mang, nuôi dưỡng một người con tuyệt vời, mà cần hướng đến ý nghĩa cao cả hơn. Phúc thay cho ai biết lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa. Đó là hạnh phúc cao quý nhất của Đức Mẹ.

Vào ngày Thiên Thần Gabriel đến truyền tin, Đức Mẹ đã đứng trước một mầu nhiệm lạ lùng. Mẹ cưu mang con Thiên Chúa. Mẹ suy nghĩ và trao đổi. Mẹ biết đây là thánh ý của Thiên Chúa. Mẹ đáp trả lời “Xin Vâng”. Mẹ đã lắng nghe, Mẹ đã tin và chấp nhận dấn thân. Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể trong lòng Mẹ. Chính Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa đang đến với nhân loại và trở nên Emmanuel.

Ngày kia, Chúa đang rao giảng, có người tin cho Chúa biết: “có Mẹ và anh em Thầy đang chờ gặp Thầy”. Chúa nói ngay với họ: “Ai là Mẹ tôi, ai là anh em tôi? Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa, người đó là anh chị em tôi, là mẹ tôi”.

Tại tiệc cưới Cana, Mẹ xin Chúa giúp đỡ gia đình tân hôn đang hết rượu. Với một lời đề nghị tế nhị: “Con ơi, họ hết rượu rồi”. Chúa đáp lại như một lời từ chối: “Thưa bà, việc đó liên can chi đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”. Mẹ tin nơi tình thương của Chúa. Chúa sẽ làm những gì tốt nhất, đẹp nhất cho con người. Vì thế, Mẹ dặn dò người giúp vịêc: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.

Trong cuộc thương khó của Chúa, Mẹ đau đớn và luôn vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Dưới chân thập giá, Mẹ hiệp thông trọn vẹn trong lễ tế hiến dâng với con…

Lạy Chúa, chúng con nhận ra một cách rất hữu hiệu để được Chúa yêu mến là chúng con tuân giữ giới răn yêu thương của Chúa. Xin cho chúng con xác tín rằng tình yêu của chúng con đối với Chúa phải được thể hiện ra bằng việc yêu thương tha nhân, cụ thể là yêu những người trong gia đình con, những người cùng làm việc với con trong xí nghiệp công ty, những người hàng xóm, những bạn bè con gặp gỡ hằng ngày. Xin giúp chúng con yêu họ cụ thể bằng sự quan tâm đến những niềm vui hay nỗi đau khổ của họ, đồng thời sẵn sàng hy sinh để giúp họ hạnh phúc hơn.

Lạy Chúa, trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng con tin có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở, yêu thương nâng đỡ. Chúng con nhìn lên Mẹ như vị thầy lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. Xin cho chúng con luôn vững lòng cậy trông với niềm tin yêu như Mẹ là mẫu gương cho chúng con. Amen.

Về mục lục

THÁNH THẦN ĐẤNG BẢO TRỢ ĐẾN TỪ THIÊN CHÚA

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Nhìn vào Giáo Hội sơ khai, chúng ta không khỏi ngạc nhiên về sức sống mãnh liệt nơi các tín hữu. Từ mười hai tông đồ, gốc thuyền chài nhà quê, kém cỏi, đã được Thánh Thần sử dụng và biến các ông trở nên những con người miệt mài với sứ vụ loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho thế giới và biến đổi hoàn toàn bộ mặt thế giới. Nhìn vào Giáo Hội, đặc biệt trong thời gian dịch bệnh này, chúng ta có thể thấy sự hoạt động mạnh mẽ của Chúa Thánh Thần qua các sáng kiến mục vụ của Giáo Hội từ Giáo Hoàng cho đến các linh mục, các giáo xứ và giáo dân nhằm phục vụ dân Chúa và mọi người. Thánh Thần Đấng Bảo Trợ mà Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội vẫn không ngừng hoạt động cách mạnh mẽ, giúp Giáo Hội có thể thích ứng và đáp ứng cho việc phục vụ nhân loại trong thời đại mới này, nhằm đưa mọi người về với Thiên Chúa.

Trong đoạn Tin Mừng vừa nghe, Chúa Giêsu, trước khi chia tay với các môn đệ, Ngài hứa sẽ ban Thánh Thần xuống trên các tông đồ: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật…” Nói với các môn đệ về Đấng Bảo Trợ, Chúa Giêsu đã mạc khải cho các ông về Chúa Thánh Thần, Đấng được Chúa Cha sai đến để ở với các môn đệ luôn mãi. “Ngài là Thần khí của sư thật.” Ngài sẽ giúp các tông đồ của Chúa sống và làm chứng cho sự thật là chính Thiên Chúa. Những ai yêu mến sự thật, sống theo sự thật, thì sẽ đón nhận được Thần Khí Sự Thật, là đón nhận được chính Thiên Chúa. Trái lại, thế gian và ma quỷ thuộc về bóng tối, gian dối, chúng chống lại Thiên Chúa, từ chối ánh sáng và sự thật vì thế, thế gian không thể đón nhận được Thần Khí của sự thật. Chúa Giêsu còn giải thích thêm về sự hiện diện và hoạt động của Thánh Thần như một sức mạnh từ bên trong, đốt nóng tâm hồn và hướng dẫn mọi hoạt động của người tín hữu: “Người luôn ở giữa anh em và luôn ở trong anh em.” “Thánh Thần ở giữa anh em”, có nghĩa là Ngài sẽ là điểm quy tụ và liên kết mọi môn đệ của Chúa nên đồng tâm hiệp ý với nhau trong một đức tin và lòng mến. “Ngài ở trong anh em”, có nghĩa là Thánh Thần sẽ là nguồn động lực thúc đẩy và hướng dẫn người tín hữu đi theo đúng con đường Tin Mừng của Chúa Kitô.

“Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy, nhưng anh em sẽ thấy Thầy vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống… Thầy ở trong Cha, anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em.” Với những lời này Chúa Giêsu cũng báo trước về việc Ngài sẽ thay đổi cách hiện diện với các môn đệ. Ngài sẽ không còn hiện diện cách thể lý với các môn đệ nữa, nhưng Ngài sẽ hiện diện bằng tình yêu, bằng sức sống của Ngài nhờ quyền năng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Cách hiện diện mới của Chúa Giêsu là một sự hiện diện gần gũi, mật thiết còn hơn hiện diện bằng xương thịt. Chúa Giêsu đã diễn tả sự mật thiết đó bằng từ “ở trong”: “Thầy ở trong Cha, anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em.” Chúa Giêsu sẽ ở trong các môn đệ, nên một với các ông bằng quyền năng của Thánh Thần như một nguồn sức mạnh, nguồn năng lượng và là người dẫn đường giúp các tông đồ sống, hoạt động và đi theo sự hướng dẫn của Ngài.
Chính nhờ sự hiện diện của Thánh Thần trong tâm hồn, các tông đồ đã ra khỏi sự chật hẹp của căn phòng tiệc ly để đem Tin Mừng Phục Sinh đến với muôn dân. Những chương đầu của sách Công Vụ Tông Đồ, kể về hoạt động truyền giáo, xây dựng giáo đoàn của Phêrô và Phaolô. Hai ông trở nên như biểu tượng của Giáo Hội, như hiện thân của chính Chúa Kitô nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần hoạt động trong các ông. Chúa Thánh Thần còn hoạt động trong các cộng đoàn tín hữu sơ khai, giúp họ sống trong bầu khí huynh đệ, yêu thương và một lòng một ý với nhau trong việc tham dự thánh lễ, cầu nguyện và làm việc bác ái. Đoạn sách hôm nay lại kể về hoạt động truyền giáo của tông đồ Philipphê, người đã từng xin với Chúa Giêsu: “Lạy Thầy xin tỏ cho chúng con thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con. Chúa Giêsu đả trả lời ông: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Con không tin Thầy ở trong Cha và Cha ở trong thầy ư?” Tông đồ Philipphê quả thật đã được ở trong Chúa Giêsu và Chúa Giêsu ở trong ông, vì thế ông đã miệt mài rao giảng cho dân vùng Samaria về Chúa Giêsu: “Đám đông một lòng chú ý đến những điều ông Philipphê giảng bởi được nghe và chứng kiến những dấu lạ ông làm.” Nhân danh Chúa Giêsu, Philipphê làm nhiều dấu lạ như trừ quỷ, chữa lành bệnh tật khiến cho người dân trong thành rất vui mừng. Khi nghe biết dân Samaria đã tin vào Tin Mừng, ông Phêrô và Gioan đã đến với họ. Đến nơi, hai ông đã đặt tay, cầu nguyện cho họ để họ đón nhận được Thánh Thần, làm cho họ trở nên một cộng đoàn Giáo Hội.
Trong bài đọc hai, thánh Phêrô quả quyết cho chúng ta, Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống. Chúa Thánh Thần đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì cũng chính Ngài sẽ ban cho những người tin vào Chúa Phục Sinh sức sống của Ngài, giúp mở lòng đón nhận Đức Giêsu đến ở trong chúng ta. Một khi có Chúa Kitô ngự trong tâm hồn, cùng sống và hoạt động với mỗi người, chúng ta sẽ mạnh dạn, can đảm làm chứng về Chúa Phục Sinh cho mọi người chung quanh. Thánh Phêrô nhắn nhủ chúng ta: “Hãy tôn Người là Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em. Nhưng phải trả lời cách hiền hòa và với lòng kính trọng.” Thánh Phêrô còn nói thêm: “Anh em hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ báng anh em vì anh em sống ngay thẳng… họ phải xấu hổ vì những điều họ đã vu khống.”
Thưa quý OBACE, Đấng bảo Trợ là Chúa Thánh Thần đã được Chúa Giêsu xin với Chúa Cha và Thiên Chúa đã ban tặng cho thế giới. Đấng Bảo Trợ đã và còn đang hoạt động trong Giáo Hội, trong thế giới và nơi mỗi tâm hồn con người. Tuy nhiên, vì Ngài là Đấng Bảo Trợ, Ngài chỉ có thể trợ giúp những ai khiêm tốn, sẵn sàng cậy nhờ đến Ngài và để cho Ngài hoạt động. Một khi ngoan ngoãn phó thác cho sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Thần sẽ ban sức mạnh cả thể xác và tinh thần giúp chúng ta có thể đương đầu với khó khăn thử thách cũng như những tấn công của thế gian, ma quỷ. Trái lại, Đấng Bảo Trợ sẽ không thể hoạt động nơi những tâm hồn kiêu căng cậy dựa vào sức riêng mình mà loại trừ Ngài ra khỏi tâm hồn.
Đấng Bảo Trợ sẽ trợ giúp chúng ta trong đời sống đức tin, biến chúng ta trở thành những học trò dễ bảo của Thánh Thần, Ngài sẽ giúp chúng ta gặp được Đức Giêsu Phục Sinh và làm cho Chúa Phục Sinh ở lại trong tâm hồn chúng ta. Thánh Thần sẽ biến chúng ta nên những thụ tạo mới, Ngài sẽ thanh luyện lòng trí và con người để chúng ta yêu mến gắn bó với Chúa Phục Sinh và trở nên những người làm chứng về Chúa Giêsu cho thế giới chung quanh.
Chúng ta đang sống trong thế giới hiện đại, sức ép của công việc, kinh tế đang đè nặng trên mỗi người. Trách nhiệm và bổn phận làm chồng, làm vợ, làm cha mẹ và làm con đang đòi hỏi chúng ta rất nhiều, khiến cho nhiều người đang cảm thấy mệt mỏi trong đời sống gia đình, trong công việc. Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, Ngài sẽ trợ giúp chúng ta sức mạnh, niềm vui và sự hăng say phấn khởi để chúng ta có thể chu toàn bổn phận của mình cách vuông tròn. Đừng ngại ngần để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn và đừng từ chối Ngài, nhưng sẵn sàng vâng theo sự soi sáng của Ngài chúng ta sẽ được sống trong sức mạnh của Ngài và đạt được hạnh phúc đích thực.
Đấng Bảo Trợ là Sức Mạnh, là Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, xin Ngài ban sức mạnh và sự khôn ngoan của Ngài trên chúng ta, giúp chúng ta có sức mạnh chống trả lại sự ươn hèn và cám dỗ của ma quỷ; đủ khôn ngoan sống theo sự hướng dẫn của Chúa, để có thể được ở với Chúa và ở trong Chúa là hạnh phúc đời đời. Amen.

Về mục lục

THẦN KHÍ CHÚA

Trầm Thiên Thu

Thánh Gioan xác định: “Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí.” (Ga 3:6) Cũng như gió, người ta có thể cảm nhận nhưng không thể thấy hoặc sờ được: “Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy.” (Ga 3:8) Thật là kỳ diệu!

Gió thổi mát mọi người, không phân biệt ai – dù hiền nhân hay ác nhân, dù hữu thần hay vô thần. Đó là yêu thương, là đức mến, là đức ái, và cũng là lòng thương xót. Đạo Công giáo là “đạo yêu thương” vì “Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:8 và 16) Do đó, đức mến luôn quan trọng và cần thiết, bởi vì ở trên Nước Trời vẫn còn đức mến – dù không còn đức tin và đức cậy. (x. 1 Cr 13:13)

Như dạng mặc định được “cài đặt” sẵn, không thể chỉnh sửa: “Đời là bể khổ.” Vì thế, con người luôn cần yêu thương – yêu và được yêu. Cuộc sống không có tình yêu thương thì cũng như trái đất không có ánh mặt trời. “Vô tri bất mộ” là điều tất yếu. Không biết thì không mến, thậm chí còn có thể ghét, nhưng khi đã biết thì người ta cảm thấy mến. Lẽ thường ở đời là thế. Tuy nhiên, trước khi BIẾT thì phải MUỐN BIẾT, muốn biết thì mới cố gắng TÌM HIỂU, nhưng phải tìm hiểu kỹ lưỡng, thấu đáo, không thể hời hợt hoặc gặp chăng hay chớ. Một khi đã biết rõ rồi thì sẽ nảy sinh lòng yêu mến, và có thể say đắm – gọi là si tình (một dạng “điên” nhẹ). Mà đã yêu mến tức là đã thực sự tin tưởng. Mối liên kết rất lô-gích. Các thánh cũng đã “điên” nên mới yêu mến Chúa đến nỗi bỏ mọi sự – kể cả mạng sống. Điên thật!

Không thể không điên. Vì Thánh Phaolô bảo: “Ai không yêu mến Chúa thì là đồ khốn kiếp!” (1 Cr 16:22) Nhưng mến Chúa thì phải yêu người. Đó là điều quan trọng, là hệ lụy tất yếu. Thánh Gioan phân tích: “Nếu ai nói ‘tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy.” (1 Ga 4:20) Về vấn đề này, Thánh Sibyllina Pavia “mở rộng” thêm: “Ai không yêu mến anh em thì không thể trở thành anh dũng tử đạo.” Có tình yêu thì người ta có thể làm được mọi sự, kể điều lớn lao, đúng như Thánh Augustinô xác định: “Cứ yêu thật đi rồi muốn làm gì thì làm.” Với kinh nghiệm hoang đàng, thánh nhân đã nuối tiếc: “Con yêu Chúa quá muộn màng, ôi vẻ đẹp rất xưa mà rất mới!” (Tự Thuật, số 10 & 27) Còn Mẹ Thánh Teresa Calcutta giải thích: “Bạn không thể thấy Chúa Giêsu trong người nghèo nếu bạn không thấy Ngài trong Thánh Thể.” Ôi, một chuỗi yêu thương kỳ diệu biết bao!

Kinh Thánh kể lại sự thật lạ lùng: “Ông Philípphê xuống một thành miền Samari và rao giảng Đức Kitô cho dân cư ở đó. Đám đông một lòng chú ý đến những điều ông Philípphê giảng, bởi được nghe đồn và được chứng kiến những dấu lạ ông làm.” (Cv 8:5-6) Họ không chỉ nghe đồn mà còn chứng kiến các dấu lạ do ông Philípphê đã thực hiện. Vì họ đã biết nên họ không thể làm ngơ, không thể không chú ý. Thật vậy, “các thần ô uế vừa kêu lớn tiếng vừa xuất khỏi nhiều người trong số những kẻ bị chúng ám, nhiều người tê bại và tàn tật được chữa lành. Trong thành, người ta rất vui mừng.” (Cv 8:7-8) Đó là chính Thiên Chúa hành động nơi ông Philípphê.

Ngày ấy, các tông đồ ở Giêrusalem nghe biết dân miền Samari đã đón nhận lời Thiên Chúa, các ông đã cử ông Phêrô và ông Gioan đến với họ. Khi đến nơi, hai ông cầu nguyện cho họ để họ nhận được Thánh Thần. Kinh Thánh cho biết: “Vì Thánh Thần chưa ngự xuống một ai trong nhóm họ: họ mới chỉ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ hai ông đặt tay trên họ, và họ nhận được Thánh Thần.” (Cv 8:16-17) Đó là Bí tích Thêm sức, loại bí tích cho chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần viên mãn. Nhờ Ngài mà chúng ta can đảm hành động, dám nói về sự thiện, đặc biệt là nói về Thiên Chúa.

Xưa nay chúng ta quen nói “bảy ơn Chúa Thánh Thần” – khôn ngoan, hiểu biết, lo liệu, sức mạnh, thông minh, đạo đức, và kính sợ Chúa. Đó là cách nói của Kinh Thánh, vì số 7 là con số kỳ diệu của Kinh Thánh, thực ra Chúa Thánh Thần không chỉ “đóng khung” trong 7 ơn đó, mà là tất cả các ơn. Thật hạnh phúc được nhận biết Thiên Chúa, được yêu mến Ngài, và được lãnh nhận Chúa Thánh Thần: “Bình an cho anh em.” (Lc 24:36; Ga 20:19; Ga 20:20; Ga 20:26) Chắc chắn ai cũng cần bình an, muốn bình an thì phải có Chúa Thánh Thần.

Người ta không thể trì hoãn cái sự sung sướng đó, dù chỉ một giây, chắc chắn là vậy. Thế nên Thánh Vịnh gia đã phải thốt lên: “Cả trái đất, hãy tung hô Thiên Chúa, đàn hát lên mừng Danh Thánh rạng ngời, nào dâng lời ca tụng tôn vinh!” (Tv 66:1-2) Hòa chung niềm vui đó, chúng ta cũng hãy thưa cùng Thiên Chúa: “Vĩ đại thay, sự nghiệp của Ngài! Trước thần lực uy hùng, địch thù khúm núm. Toàn trái đất phải quỳ lạy tôn thờ, và đàn ca mừng Chúa, đàn ca mừng Thánh Danh. Đến mà xem công trình của Thiên Chúa: hành động của Người đối với phàm nhân thật đáng kinh đáng sợ!” (Tv 66:3-5) Giữa cuộc đời nhiêu khê này, chúng ta luôn được Chúa Giêsu động viên: “Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14:27)

Thiên Chúa toàn năng, chính Ngài “làm cho biển khơi hoá đất liền và dân Người đi bộ qua sông, việc Người làm đó khiến ta hoan hỷ. Chúa uy dũng hiển trị muôn đời; đôi mắt Người theo dõi chư dân, quân làm phản chớ có hòng nổi dậy!” (Tv 66:6-7) Lịch sử đã và đang chứng tỏ như vậy, không một thần linh nào có thể làm được các vĩ công như Thiên Chúa của chúng ta. Đó là niềm tin xác thực, không mơ hồ hoặc ảo tưởng.

Thực sự là một hồng ân cao cả đối với chúng ta khi nhận biết Ngài, yêu mến Ngài và tôn thờ Ngài, vì Ngài đã yêu thương chúng ta trước (1 Ga 4:19) và yêu thương chúng ta đến cùng (Ga 13:1) – dù chúng ta chỉ là lũ tội nhân, là bọn bất lương. Và rồi vì thương xót kiếp khốn cùng của chúng ta, Chúa Cha đã bắt Con Một Yêu Dấu phải chết thay chúng ta, dù Người Con van xin nhưng Ngài vẫn “làm ngơ” chỉ vì muốn cứu độ chúng ta. Ơn cứu tử này quá lớn. Thật vậy, chính Ngài chọn chúng ta từ trước khi vũ trụ được tạo thành chứ không phải chúng ta chọn Ngài. (Ep 1:4) Tuy nhiên, ai từ chối Ngài là do mình tự chọn.

Thật tuyệt vời, vì Thiên Chúa của chúng ta tuyệt đối, vĩ đại, duy nhất, hết lòng bảo vệ chúng ta: “Chúa ấp ủ, Chúa lo dưỡng dục, luôn giữ gìn, chẳng khác nào con ngươi mắt Chúa.” (Đnl 32:10) Không chỉ vậy, tình thương đó còn được đóng ấn tín bằng lời “thề độc” này: “Kẻ nào động đến các ngươi là động đến con ngươi mắt Ta.” (Dcr 2:12) Ôi, lạy Chúa! Thực sự chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi, và cũng chẳng bao giờ hiểu thấu. Vì thế, tự mình phải mau mắn và hãnh diện chia sẻ niềm vui đó với người khác: “Xin chúc tụng Thiên Chúa đã chẳng bác lời thỉnh nguyện tôi dâng, lại cũng không dứt nghĩa đoạn tình.” (Tv 66:20) Thật vậy, “muôn ngàn đời Ngài vẫn trọn tình thương.” (1 Sb 16:34 và 41; 2 Sb 5:13; 2 Sb 7:3 và 6; 2 Sb 20:21; Er 3:11; 1 Mcb 4:24; Tv 100:5; Tv 106:1; Tv 107:1; Tv 118:1-4 và 29; Tv 136:1-26)

Với thành ý nhắn nhủ, Thánh Phêrô nói: “Đức Kitô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em. Nhưng phải trả lời cách hiền hoà và với sự kính trọng. Hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ báng anh em vì anh em ăn ở ngay thẳng trong Đức Kitô, chính họ phải xấu hổ vì những điều họ vu khống.” (1 Pr 3:15-16) Tại sao phải giữ “thẳng” mà không thể du di “cong” một chút? Giáo hoàng tiên khởi giải thích: “Bởi lẽ THÀ chịu khổ vì làm việc lành, nếu đó là ý của Thiên Chúa, CÒN HƠN là vì làm điều ác. Chính Đức Kitô đã chịu chết một lần vì tội lỗi – Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương – hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh.” (1 Pr 3:17-18) Rất rõ ràng. Cũng chính lòng mến đó được Chúa Thánh Thần không ngừng tác động.

Trong Việt ngữ, danh từ “chuỗi” thật hay, nói lên sự liên kết nối tiếp liên tục. Chuỗi tình yêu thương là chuỗi yêu mến, là chuỗi lòng thương xót, như Chúa Giêsu đã nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy.” (Ga 14:15) Từ hệ lụy đó lại có mối liên kết khác: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em.” (Ga 14:16-17) Giữa chúng ta luôn có Chúa Thánh Thần, cũng luôn có Chúa Giêsu. (x. Mt 28:20) Và tất nhiên cũng có cả Chúa Cha nữa. Trên cả tuyệt vời!

Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã hứa chắc: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em.” (Ga 14:18) Nhưng rồi Ngài bảo: “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống. Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em.” (Ga 14:18-20) Ôi chao, răng mà khó hiểu rứa tề? Nhưng không phải vậy, cứ bình tĩnh. Đó là Ngài muốn đưa chúng ta tới đức ái trọn vẹn, nhờ biết yêu mến mà chúng ta khả dĩ lãnh nhận Chúa Thánh Thần một cách viên mãn để đủ can đảm làm chứng về Thiên Chúa – Đấng Sự Thật, Ánh Sáng Thật, Sự Sống Thật, Con Đường Thật. Đó là hạnh phúc đích thực của mỗi tín nhân.

Về “chuỗi” yêu mến, Chúa Giêsu dẫn chứng rạch ròi: “Ai CÓ và GIỮ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.” (Ga 14:21) Ngài tỏ mình cho mỗi người mỗi cách, mỗi người được nhận biết theo cách riêng, không ai giống ai, nhưng vẫn là MỘT Thiên-Chúa-Ba-Ngôi duy nhất. Nếu chưa hiểu và chưa cảm nhận, Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho, với điều kiện là phải thành tâm thiện chí tìm kiếm Thiên Chúa.

Thánh Gioan định nghĩa ngắn gọn mà sâu sắc và trọn vẹn: “Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:8 và 16) Vì thế, ai yêu mến Ngài thì tuân giữ Luật Ngài, luật đó là Luật Yêu, yêu Chúa thì phải yêu người. Hoàn toàn lô-gích. Yêu Chúa không khó bằng yêu người, chỉ cần thực hành “chuỗi yêu” trong 1 Cr 13 thì cũng cảm thấy “toát mồ hôi” rồi, vì yêu không thể nói suông mà phải thể hiện bằng hành động, thể hiện qua từng động thái nhỏ. Vả lại, tha nhân là huynh đệ của chúng ta và là những người có Thiên Chúa trong lòng – ngay cả những người tự xưng là vô thần. Ai sống yêu mến thì mới được lãnh nhận Thần Khí Sự Thật của Thiên Chúa – đó là Thánh Linh, là Chúa Thánh Thần, là Đấng Kiến Tạo Hòa Bình, là Đấng An Ủi, là Đấng Bảo Trợ,…

Ngày xưa, khi chọn Bơxanên, con của Uri, con của Khua, thuộc chi tộc Giuđa, Thiên Chúa đã hứa với ông Môsê: “Ta sẽ ban cho nó dồi dào Thần Khí của Thiên Chúa để nó thành người khéo tay, giỏi giang và lành nghề mà làm mọi công việc, để nó nghĩ ra những tác phẩm nghệ thuật làm bằng vàng, bạc hay đồng, mài ngọc đính áo, chạm gỗ và thực hiện mọi công việc.” (Xh 31:3-5) Điều gì Thiên Chúa đã hứa thì chắc chắn không bao giờ sai. Ước gì mỗi chúng ta cũng được lãnh nhận Thần Khí Chúa để làm vinh danh Chúa bằng chính khả năng riêng mà chúng ta lãnh nhận từ nơi Ngài. Đừng quên rằng chúng ta luôn phải “hết dạ tri ân.” (Cl 3:15)

Ơn Chúa chan hòa nhưng đôi khi chúng ta giả nai hoặc làm ngơ nên quên nói lời cảm ơn đối với Thiên Chúa (và cả với tha nhân nữa). Trong cơn đại nạn corona, có câu chuyện lưu truyền trên internet, mặc dù chưa kiểm chứng được tính xác thực, nhưng nội dung của nó rất đáng để chúng ta phải suy ngẫm.

Chuyện kể rằng: Một ông lão 93 tuổi người Ý phải nhập viện vì nhiễm bệnh, rồi sức khỏe cải thiện tốt, ông được thông báo cần thanh toán chi phí sử dụng máy trợ thở. Ông lão bỗng nhiên bật khóc, bác sĩ khuyên ông đừng khóc vì tờ hóa đơn. Nhưng ông lão trả lời: “Không phải tôi khóc vì tờ hóa đơn, tôi có thể thanh toán đầy đủ. Tôi khóc vì tôi đã hít thở bầu không khí của Thượng Đế 93 năm rồi mà chưa từng phải trả một đồng nào, còn sử dụng máy trợ thở một ngày ở bệnh viện phải trả 5.000F. Anh có biết tôi đã nợ Thượng Đế bao nhiêu tiền rồi không? Trước đây tôi chưa từng cảm ơn ngài vì điều ấy.”

Còn chúng ta, phải chăng chúng ta nên suy ngẫm về trận ôn dịch này từ góc độ mà bình thường chúng ta vẫn hay xem nhẹ? Hơi thở của chúng ta là không khí, là thần khí, liên quan Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu xác định: “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì.” (Ga 6:63a) Và Lời Chúa cũng chính là “thần khí và sự sống.” (Ga 6:63b)

Lạy Thiên Chúa hằng sống, xin ban Thần Khí Sự Thật cho chúng con, xin khởi Lửa Mến trong chúng con, để chúng con biết truyền cảm hứng yêu thương tới tha nhân, xin giúp chúng con sống xứng đáng và được hưởng Giá Máu cứu độ của Đức Giêsu Kitô. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH_A

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Lễ Ngũ Tuần, một biến cố quan trọng của Giáo Hội, sắp đến gần; vì thế, Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VI Phục Sinh loan báo Chúa Thánh Thần, Thần Chân Lý.

Cv 8: 5-8; 14-17

Sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật dân Sa-ma-ri trở lại đạo và lần đầu tiên kể ra bí tích Thêm Sức: thánh Phê-rô và thánh Gioan đến đặt tay trên những người đã chịu phép Rửa để họ được đón nhận Chúa Thánh Thần.

1Pr 3: 15-18                                                      

Bài Đọc II, tiếp tục trích thư thứ nhất của thánh Phê-rô, nêu lên hy tế của Đức Giê-su, chết cho tội lỗi chúng ta, nhưng Thánh Thần đã phục sinh Ngài.

Ga 14: 15-21

Tin Mừng là đoạn trích dẫn diễn từ Cáo Biệt mà Đức Ki-tô ngỏ lời với các môn đệ Ngài, vào buổi chiều Tiệc Ly: Ngài hứa sai Đấng Bảo Trợ, Thánh Thần Chân Lý đến ở với họ luôn mãi.

BÀI ĐỌC I (Cv 8: 5-8, 14-17)

Sau việc thiết lập bảy cộng tác viên, cuộc bách hại đã bất ngờ giáng xuống cộng đoàn Ki-tô hữu non trẻ tại Giê-ru-sa-lem. Khởi điểm là lời rao giảng của thánh Tê-pha-nô, một trong bảy cộng tác viên. Lời rao giảng táo bạo của thánh nhân khiến Thượng Hội Đồng phẩn nộ. Họ xúi dục dân chúng ném đá thánh Tê-pha-nô cho đến chết.

Nhiều môn đệ trốn chạy, nhất là những Ki-tô hữu theo văn hóa Hy lạp bị nhắm đến đặc biệt hơn. Trên con đường trốn chạy, đi đến đâu, họ đều làm chứng về Đức Ki-tô Phục Sinh đến đó: “Vậy những người phải tản mác khắp nơi loan báo Lời Chúa” (8: 4). Thế là Lời Chúa được loan truyền rộng rãi vượt ra bên ngoài thành đô Giê-ru-sa-lem. Chính trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, họ trở thành những nhà truyền bá Tin Mừng.

1. Công việc truyền giáo của phó tế Phi-líp-phê

Sau khi sơ tán khỏi Giê-ru-sa-lem, Phi-líp-phê, một trong bảy cộng tác viên, “xuống một thành miền Sa-ma-ri và rao giảng Đức Kitô cho dân chúng ở đó”. Tác giả không nói với chúng ta thành nào. Cuộc truyền giáo luôn luôn đạt được kết quả mỹ mãn. Dân chúng chú ý đến lời rao giảng của ông và bị lôi cuốn bởi những phép lạ ông thực hiện nên theo đạo rất đông. Như Đức Ki-tô và nhân danh Ngài, Phi-líp-phê thực hiện nhiều “phép lạ”. Chúng ta ghi nhận rằng thánh Luca nói về việc chữa lành “những người bị bại liệt”, một từ ngữ chuyên môn, chứ không là những người bại liệt, một từ ngữ bình dân – cũng vậy, trong Tin Mừng của mình, thánh ký luôn luôn dùng thuật ngữ này, bởi vì thánh Lu-ca là thầy thuốc. Đây là một tiểu tiết mang lấy chữ ký của ngài.

“Trong thành, người ta rất vui mừng”. Đây cũng là một ghi nhận rất tiêu biểu của thánh Lu-ca. Những kẻ bệnh hoạn tật nguyền được chữa lành, cả thành đều tràn ngập niềm vui thiên sai mà các ngôn sứ đã loan báo từ xưa. Niềm tin vào Đức Giê-su Phục Sinh không những đã làm cho họ phấn chấn, mà ngay cả thân xác của họ cũng được phục hồi sức khoẻ.

2. Dân Sa-ma-ri đón nhận phép Thêm Sức

Sách Công Vụ nói đến hai lần: “Các Tông Đồ vẫn ở Giê-ru-sa-lem” (8: 1, 14) để nhấn mạnh rằng trong lúc bách hại, không một Tông Đồ nào rời bỏ Thành Thánh. Khi nghe biết dân Sa-ma-ri trở lại đạo, thánh Phê-rô và thánh Gioan đến tận nơi. Chúng ta đã thấy rồi, hai vị Tông Đồ này thường hoạt động cùng nhau.

Những ai đã chịu phép Thánh Tẩy, hai Tông Đồ đặt tay trên họ để Thánh Thần ngự xuống trên họ. Đó là cử chỉ bí tích mà sau này chúng ta gọi “Bí Tích Thêm Sức”, bí tích này hoàn thiện bí tích Thánh Tẩy bằng việc đặt tay ban Thánh Thần. Chỉ duy các Tông Đồ, những người kế vị Đức Giê-su, mới có đủ thẩm quyền ban Thánh Thần. Thế là biến cố ngày Ngũ Tuần một lần nữa được tái diễn ở một nơi khác ngoài Giê-ru-sa-lem, và cứ như thế ở bất cứ nơi nào mà Lời Chúa có dịp tràn đến.

BÀI ĐỌC II (1Pr 3 : 15-18)

Vào Chúa Nhật VI Phục Sinh này, Bài Đọc II tiếp tục trích dẫn thư thứ nhất của thánh Phê-rô gởi những Ki-tô hữu miền Tiểu Á. Đoạn trích này dọi chiếu vài tia sáng trên những thử thách mà họ phải chịu. Thánh Phê-rô an ủi và khích lệ họ. Họ phải chịu phỉ báng, vu khống, bị điệu ra trước tòa, bị trách cứ vì cách sống mới của họ, vân vân. Đây là những cuộc bách hại địa phương hoặc do những anh em đồng đạo Do thái trước đây của họ hay do đồng bào ngoại giáo trước đây của họ.

1. Hãy tôn kính Đức Kitô làm Chúa trong lòng anh em

Thánh Phê-rô khuyên nhủ họ. Lời mở đầu : “Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến. Đức Ki-tô là Đấng Thánh, hãy tôn kính Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em” (1Pr 3: 14-15) gợi hứng từ bản văn của Is 8: 12-13, trong đó ngôn sứ I-sai-a xưa kia ngỏ lời với Giê-ru-sa-lem bị đe dọa và với vua A-khát sợ hãi và xao xuyến. Hoàn cảnh bấy giờ xem ra tương tự. Những người bị bách hại đừng khiếp sợ kẻ thù của họ. Họ không có bận lòng nào khác ngoài việc làm đẹp lòng Thiên Chúa.

2. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời

Sau khi khuyên nhủ một cách khái quát, thánh Phê-rô khuyên nhủ sát với thực tế hơn: “Hãy trả lời cho bất cứ ai chất vấn anh em về niềm hy vọng của anh em”. Thánh nhân ám chỉ đến việc họ bị chất vấn trước thế quyền cũng như giáo quyền và khuyên họ hãy bênh vực niềm tin của họ, hãy biện minh niềm hy vọng của họ đối diện với những kẻ không tin.

Đây là lần đầu tiên thánh Phê-rô ban một lời khuyên như vậy cho thấy những hoàn cảnh khó khăn mà các Ki-tô hữu phải trải qua. Sau này trong những cuộc bách hại lớn lao như cuộc bách hại của hoàng đế Domitien (81-96) khắp Đế Quốc, lời khuyên nhủ như thế sẽ mặc lấy tính chất bi thảm.

Tiếp đó, trở lại chủ đề chạy xuyên suốt bức thư: “Phúc cho những ai bị bách hại vì công chính”, thánh nhân viết: “bởi lẽ thà chịu khổ vì làm việc lành còn hơn là vì làm điều ác”. Sau cùng, thánh Phê-rô một lần nữa viện dẫn Đức Giê-su như mẫu gương: Đức Giê-su, Đấng Công Chính đã chết cho những kẻ bất lương, nhưng Ngài đã chiến thắng sự chết, đó là nền tảng niềm hy vọng của chúng ta.

Niềm an ủi mà vị thủ lãnh Giáo Hội muốn đem đến cho các cộng đoàn Ki-tô hữu miền Tiểu Á bị đối xử bất công, cốt ở nơi lời giáo huấn căn bản này: Đức kiên nhẫn trong những trăm chiều thử thách dẫn họ đến cùng một vận mệnh vinh quang như vận mệnh của Đức Ki-tô.

TIN MỪNG (Ga 14: 15-21)

Chúng ta tiếp tục diễn từ Cáo Biệt của Đức Giê-su cho các môn đệ Ngài. Thấy họ xao xuyến trước lời loan báo về cái chết sắp đến của Ngài, Đức Giê-su nói với họ những lời an ủi và hứa với họ Ngài sẽ trở lại tìm họ để họ nên một với Ngài luôn mãi trong mối thâm tình với Cha Ngài (Chúa Nhật vừa qua). Chúa Giê-su lại còn hứa Ngài sẽ sai phái Chúa Thánh Thần đến ở với họ, đây là đối tượng của đoạn Tin Mừng Chúa Nhật này.

1. Trung tín trong tình yêu

Trước khi hứa sai Thánh Thần đến ở với họ, Đức Giê-su đòi hỏi họ hãy tuân giữ các điều răn của Ngài như bằng chứng tình yêu của họ đối với Ngài.

Chúng ta lưu ý rằng Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ Ngài theo cùng một mức độ như Đức Chúa đòi hỏi dân Do thái khi Người ban Lề Luật của Người cho họ. Chỉ duy mình Thiên Chúa mới có thể đòi hỏi con người phải yêu mến Ngài như vậy. Đây là cách thức Đức Giê-su bày tỏ chân tính thần linh của Ngài. Nhưng Đức Giê-su nhấn mạnh việc tuân giữ trong tình yêu: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”. Đức Giê-su đòi hỏi họ yêu mến con người của Ngài chứ không là Lề Luật. Tất cả điểm nhấn của Ki-tô giáo đều tập trung vào luật mới mà Đức Ki-tô ban: không áp đặt từ bên ngoài, nhưng là hành vi thắm đẩm tình yêu, vì thế kêu gọi đi vào trong mối tương giao tình yêu với Thiên Chúa.

Trong Tin Mừng Gioan, tình yêu đi đôi với hiểu biết và thực hành những điều răn (14: 15; 14: 21). Sự hiểu biết được nêu lên ở đây không đơn giản là tri thức, nhưng trào dâng từ cuộc sống xuất phát từ kinh nghiệm cụ thể. Đây là một sự hiểu biết thực tiển nẩy sinh từ cõi lòng sâu thẳm nhất. Đó là lý do tại sao, trong Tin Mừng Gioan, có mối gắn kết bền chặc giữa yêu mến, hiểu biết và tuân giữ các điều răn.

Bản chất tình yêu là muốn được sống cùng nhau, nên một với người mình yêu, không muốn xa lìa nhau. Khi người ta yêu nhau, người ta “đồng cảm” với nhau, người ta “biết” điều gì làm vui lòng người mình yêu mà không có bất kỳ ép buộc bên ngoài nào, người ta ra sức thực hiện bất cứ điều gì làm vui lòng người mình yêu, chu toàn ý muốn của người mình yêu. Tuân giữ là cách thức cụ thể thể hiện ra bên ngoài điều mình nghĩ, điều mình yêu. Đây là điều Đức Giê-su đã làm đối với Cha của Ngài (15: 10), người môn đệ cũng sẽ làm như vậy, bởi vì người ấy “đồ lại” cuộc sống của mình trên cuộc sống của Đức Ki-tô, sống cuộc sống của Đức Ki-tô, Đấng hiện diện ở cõi sâu thẳm của người môn đệ.

2. Đấng Bảo Trợ khác

Đối với những người bạn chí thiết của Ngài, nghĩa là những người thực sự yêu mến Ngài và bày tỏ tấm lòng yêu mến Ngài bằng việc tuân giữ các giới răn của Ngài, Đức Giê-su sẽ xin Cha Ngài sai Thánh Thần đến ở với họ luôn mãi: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến với anh em luôn mãi”.

Qua từ ngữ đơn giản “Đấng Bảo Trợ khác” này, Đức Giê-su định nghĩa cả sứ mạng của Ngài lẫn sứ mạng của Chúa Thánh Thần. Ngài đã đến để là Đấng Bảo Trợ của chúng ta, chứ không là quan tòa của chúng ta, như thánh Gioan viết trong thư thứ nhất của mình: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính” (1Ga 2: 1-2). Chúa Thánh Thần được gọi là “Đấng Bảo Trợ khác” vì Ngài sẽ tiếp tục công việc này; Ngài sẽ phù trợ chúng ta và “ở với chúng ta luôn mãi”“Đấng Bảo Trợ” là từ ngữ pháp lý, nên dịch là “trạng sư” mới đúng, vì trong Tin Mừng thứ tư diễn ra một phiên tòa giữa Đức Giê-su và thế gian. Trong Tin Mừng Gioan, từ ngữ “thế gian” mặc ý nghĩa tiêu cực, tức thế giới gian tà nằm dưới quyền thống trị của Xa-tan. Vì thế, thế gian không thể đón nhận Chúa Thánh Thần, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Đó là tất cả tấm thảm kịch của sự cứng lòng tin.

3. Thần Khí Sự Thật

Đấng Bảo Trợ khác này cũng được gọi Thần Khí Sự Thật (15: 26) đối lập với thế gian dối trá. Ngài ban phát sự thật và dẫn các môn đệ đến sự thật. Trong Tin Mừng Gioan, sự thật không là một phẩm chất luân lý, nhưng là một định nghĩa thậm chí về bản tính Thiên Chúa: Thiên Chúa là Sự Thật. Sự thật này được phơi bày ở nơi Đức Giê-su Ki-tô, Ngài cũng là sự thật, và sứ mạng của Ngài chính là bày tỏ sự thật cho con người, nghĩa là ban cho họ ơn cứu độ. Có nhiều cách nói, nhưng có chung một nghĩa: “sống trong sự thật” hay “sống trong Thiên Chúa”, hoặc “được cứu độ”.

Đấng Bảo Trợ khác này cũng là Thần Khí Sự Thật bởi vì Ngài là Một trong Ba Ngôi Thiên Chúa, chỉ mình Ngài mới có thể cho các môn đệ biết chân tính của Đức Giê-su, mới có thể giúp cho các ông thật sự sống trong mối hiệp thông đích thật với Chúa Con và Chúa Cha. Thánh Thần của Đấng Phục Sinh mà Đức Giê-su sẽ ban cho các môn đệ để dẫn dắt họ vào trong sự thật toàn diện (hay ơn cứu độ trọn vẹn). Như vậy, các môn đệ sẽ có thể hiểu cụ thể con người và sứ mạng của Đức Giê-su, và hiện tại hóa ơn cứu độ của Ngài vào trong cuộc sống thường ngày của họ.

3. “Thầy sẽ không để anh em mồ côi”

Từ “mồ côi” là lời nói trìu mến, được Đức Giê-su dùng rất nhiều lần, trong suốt diễn từ Cáo Biệt của Ngài: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy”.

Đoạn, cung giọng ngôn sứ lại được vang lên: Đức Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Phần các con, các con sẽ thấy Thầy, vì Thầy sống và các con cũng sẽ sống”. Thành quả Phục Sinh của Ngài sẽ là ân ban sự sống, sự sống Thiên Chúa mà Đức Giê-su sẽ ban phát một cách sung mãn.

“Vào ngày đó”: đây là cách nói của Cựu Ước. Chữ “ngày” chỉ một thời kỳ, thường nhất thời cánh chung. “Thời cánh chung” được kể ở đây khởi sự từ biến cố Phục Sinh. Lúc đó, các môn đệ sẽ kinh nghiệm sự hiện diện của Đấng Phục Sinh ở nơi họ, sự hiện diện của một thế giới mới, sự hiện diện của Thần Khí trong một mối hiệp thông sâu thẳm tròn đầy tình yêu.

Về mục lục

 

NHÂN DANH CHÚA GIÊSU PHỤC SINH

Gm Giuse Vũ Văn Thiên
.
Từ thuở sơ khai của Giáo Hội, trọng tâm lời giảng dạy của các tông đồ chỉ xoay quanh sự kiện Chúa Giêsu đã chết, đã sống lại và nay đang hiện diện giữa cộng đoàn những người tin. Các ông rao giảng điều này với niềm xác tín, và sẵn sàng lấy mạng sống của mình để chứng minh cho lời rao giảng của mình. Cũng như Chúa Giêsu thành Nagiarét khi còn sống trên trần gian đã làm những phép lạ để chứng minh quyền năng thiên linh của Người, các tông đồ cũng làm được những phép lạ để chứng minh điều các ông loan báo. Tuy vậy, nếu Chúa Giêsu làm những phép lạ bởi vì Người là Thiên Chúa, thì các tông đồ lại làm những phép lạ nhờ nhân danh Chúa Giêsu. Các ông đều xác tín một điều, các ông chỉ là dụng cụ của Chúa. Những điều kỳ diệu mà các ông có thể làm được là nhờ Đấng Phục Sinh đang hiện diện. Lời giảng dạy đầy xác tín của các tông đồ đã làm cho cộng đoàn tín hữu phát triển nhanh chóng, lan rộng sang cả những miền “ngoại giáo”. Tại Samaria, tông đồ Philipphê đã rao giảng và làm nhiều phép lạ, chữa nhiều chứng bệnh nan y khác nhau. Tác giả sách Công vụ Tông đồ đã diễn tả giai đoạn khởi đầu của Giáo Hội  rất lạc quan, vui tươi, hướng tới một viễn cảnh tốt đẹp (Bài đọc I).
 
Hai ngàn năm đã qua kể từ biến cố Phục sinh, cộng đoàn tín hữu, tức là Giáo Hội vẫn luôn tin rằng Đấng Phục sinh đang hiện diện và hoạt động. Cùng với Thánh Thần, Người đã hướng dẫn soi sáng và gìn giữ Giáo Hội trước phong ba bão táp của trần gian. Trong lời di ngôn của Chúa Giêsu vào cuối bữa Tiệc ly, Người đã kêu gọi các ông hãy tín thác nơi Chúa. Người cũng hứa sẽ không để các ông mồ côi. Chính Người sẽ ở với họ và ở giữa họ, mặc dù cách thế hiện diện của Người mang tính thiêng liêng vô hình. Cùng với Đấng Phục sinh, Thần Chân lý, tức là Ngôi Ba Thiên Chúa là ân ban của Chúa Cha, đến để ở cùng các môn đệ. Vai trò của Thần Chân lý là hướng dẫn Giáo Hội luôn đi theo sự thật, để rồi, giữa một cuộc đời đầy gian dối mưu mô mà vẫn luôn vững vàng. Nhân danh Chúa Giêsu, Giáo Hội vẫn đang làm những “phép lạ”, như những cánh tay nối dài của Đấng Phục sinh để đem tình thương cho người nghèo, bảo vệ người cô thế cô thân và nói lên tiếng nói chính nghĩa của mình.
 
Chuẩn bị mừng lễ Chúa Giêsu lên trời, chúng ta lại tiếp tục được nghe những lời căn dặn thân tình của Người dành cho các môn đệ: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ lời Thầy”. Tình mến dành cho Chúa và nỗ lực cố gắng để thực thi Lời Người có tương quan biện chứng với nhau. Trong bối cảnh ngày nay, có nhiều người mến Chúa nhưng chỉ là lòng mến ngoài môi miệng và ngôn từ. Khi gặp thử thách gian nan, lòng mến giả tạo sẽ như một lớp sơn bị nước mưa cuốn trôi. Lòng mến đích thực không nhằm tìm kiếm những vụ lợi, nhưng yêu mến Chúa vì Chúa tốt lành, vì Chúa là Cha, là Đấng tác tạo nên chúng ta. Đương nhiên, khi cầu nguyện, người tín hữu vẫn có thể cầu xin bình an, may mắn, sức khỏe, của cải, con cái vì đó là những lời cầu xin chính đáng. Người có lòng mến Chúa đích thực vẫn an vui và cậy trông khi gặp thử thách. Giữa những đau thương, họ vẫn nhận ra tình yêu của Ngài, và luôn một niềm trung tín cậy trông.
 
Ở mọi nơi và mọi thời, Giáo Hội luôn hành động nhân danh Chúa Giêsu Phục sinh. Trong quá khứ, có những lúc Giáo Hội tự quy chiếu về mình như đích điểm và trung tâm. Những lúc ấy, Giáo Hội chuốc lấy mọi thất bại, vì đã lấn át vị trí của Chúa để tôn vinh chính mình. Giáo Hội là ai nếu không phải là mỗi người tín hữu chúng ta? Vì thế, chúng ta phải phản chiếu hình ảnh Chúa Giêsu trong đời sống của mình, để rồi, qua những hành vi cử chỉ của chúng ta, mọi người nhận ra Đấng Phục sinh đang hiện diện. Qua lối sống tốt lành, khiêm tốn, chúng ta có thể “sẵn sàng trả lời thỏa mãn cho mọi kẻ hỏi lý do của niềm hy vọng” (Bài đọc II). Có biết bao câu hỏi đang được đặt ra liên quan đến sự hiện hữu của Chúa cũng như mục đích tối hậu của con người. Không thiếu những người còn mang đầy thành kiến với đức tin Kitô giáo. Có thể họ đã có lần chứng kiến những việc làm không tốt của người Công giáo, hoặc có thể hình ảnh về Giáo Hội nơi họ bị biến dạng, vì họ nghe tuyên truyền đến từ phía những người thù ghét Giáo Hội. Một cuộc sống yêu thương sẽ góp phần xóa đi những thành kiến ấy, đồng thời xây dựng mối thân thiện chan hòa, cùng hướng về Thiên Chúa là Cha chung của cả nhân loại.
 
Vinh dự của người tín hữu là được ở trong Chúa Giêsu và cùng với Người ở trong Chúa Cha. Khi được ở trong Chúa Cha, chúng ta tuy còn sống dưới thế mà đã được hưởng hạnh phúc Nước Trời. Một khi ở trong Chúa Giêsu, Chúa sẽ tỏ mình ra cho chúng ta, tức là chúng ta sẽ nhận biết Người và cảm nhận rõ nét hơn sự hiện diện của Người trong cuộc sống. Hãy sống và hành động nhân danh Chúa Giêsu, bắt chước Người như một khuôn mẫu hoàn hảo, để được nên đồng hình đồng dạng với Người.
.

.

SỰ SỐNG MỚI

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Nếu các Tin mừng Matthêu, Marcô và Luca mời gọi ta vào Vương quốc Thiên Chúa, thì Tin Mừng Gioan mời gọi ta vào tình yêu Chúa Giêsu Kitô. Thánh Gioan là người sống sau cùng. Sau khi đã nghiền ngẫm tất cả cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, thánh nhân nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu chúa Giêsu Kitô, là kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô, là sống sự sống của Thiên Chúa.

Tình yêu đó không phải là thứ tình yêu mơ mộng lãng mạn nhưng là một tình yêu sàng suốt của lý trí.Tình yêu đó không phải là chuyện đuổi bướm, hái hoa, rung động, xúc cảm, nhưng là một tình yêu với những việc làm cụ thể. Việc làm cụ thể đó là tuân giữ những điều Chúa Giêsu truyền dạy.

Đó chính là bí quyết Chúa Giêsu truyền lại cho các môn đệ, trước khi người giã từ các ông để đi vào thế giới đức tin. Từ nay để gặp gỡ Người, để yêu mến Người, để sống với Người, cần phải có đức tin và tình yêu.

Tin và Yêu là đôi mắt giúp ta nhìn thấy những sự thực siêu nhiên. Người không tin và không yêu sẽ không nhìn thấy như lời Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay: “Thầy ban cho anh em Thần chân lý, Đấng mà thế gian không thể đón nhận được vì thế gian không thấy và không biết Người”. Cũng như kiến thức ý khoa là khả năng chuyên môn giúp người bác sĩ nhận dạng được các loại vi trùng, định đúng được bệnh trạng của bệnh nhân; hoặc như kiến thức về thảo mộc củanhà thực vật học giúp họ nhận dạng phân loại và biết rõ đặc tính của những loải cây cỏ, tin và yêu cũng phải là khả năng chuyên môn giúp người môn đệ Chúa nhận ra những sự thực siêu nhiên, nhìn thấy, nhận biết và đón nhận Thiên Chúa.

Tin và Yêu, như vậy, là con đường dẫn đưa ta tới gặp gỡ Thiên Chúa.

Với đức tin và tình yêu, người môn đệ Chúa không còn thấy Thiên Chúa là một Đấng xa vời, mơ hồ, nhưng là một Đấng gần gũi, rất thật. Với đức tin và tình yêu ta sẽ gặp được Đức Chúa Cha, Đấng thương yêu, luôn chăm sóc cho ta, luôn mời gọi ta, luôn muốn ấp ủ ta, luôn muốn tha thứ cho ta.

Với đức tin và tình yêu, ta sẽ gặp được Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, trong Sách Thánh, trong những lời giáo huấn của Giáo hội và trong những anh em sống quanh ta.

Với đức tin và tình yêu, ta sẽ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Thánh Thần khi Người đốt lên trong tim ta ngọn lửa yêu mến, khi Người thúc đẩy ta dẫn thân phục vụ, khi Người soi sáng cho ta những sáng kiến trong những hoạt động mới.

Nhưng quan trọng nhất là: Tin và Yêu là hai cánh cửa mở vào sự sống thần linh. Tin và Yêu không chỉ cho ta nhìn thấy Chúa, gặp gỡ Chúa mà còn cho ta được tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống đó là hiệp thông, như lời Chúa Giêsu nói: “Ai có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến”.

Chúa Cha ở trong Chúa Con và như Chúa Con ở trong Chúa Cha, ta sẽ được ở trong sự sống mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi và thật kỳ diệu, Ba Ngôi đến ở trong ta. Ở trong người nào tức là được người ấy yêu thương. Hiệp thông trong yêu thương là một thái độ cởi mở: mở tâm hồn ra để cho đi và nhận lãnh sự sống. Nhờ Tin và Yêu, ta mở lòng ra đón nhận Thiên Chúa, sự sống mới, sự sống sung mãn, sự sống vĩnh cửu.

Đúng như lời Chúa Giêsu nói: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi”. Ai nhắm mắt đức tin, sẽ không nhìn thấy Chúa, sẽ trở thành mồ côi. Ai đóng cửa tình yêu, sẽ không gặp được Chúa, sẽ sống trong cô độc. Nhưng người môn đệ Chúa, nhờ có đức tin và tình yêu sẽ gặp được Thiên Chúa Ba Ngôi. Và như thế việc ta đi của Chúa Giêsu không những không thiệt hại mà còn ích lợi cho ta. Sự ra đi của Người dẫn ta đi đến kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi trong sự sung mãn, sự sống dồi dào.

Nhưng để đạt tới điều Chúa Giêsu đã hứa, ta hãy nhớ lại một lần nữa lời Người căn dặn: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các giới răn của Thầy”. Đức tin được thể hiện bằng tình yêu. Tình yêu được chứng minh qua hành động. Đó là chìa khoá của đời sống Kitô hữu.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Theo bạn, tình yêu mến Chúa là những tình cảm bồng bột hay những việc làm cụ thể theo lý trí?

2- Có bao giờ bạn cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống không?

3- Bạn có cố gắng làm chứng cho người khác về sự hiện diện của Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện và bác ái của bạn không?

Về mục lục

.

YÊU MẾN THẦY, THÌ HÃY GIỮ CÁC GIỚI RĂN

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Khi đến « giờ Chúa Giêsu qua khỏi thế gian này để về cùng Đức Chúa Cha »  (Ga 13, 1) . Người đã dành cho các môn đệ những lời tâm huyết đầy tình Thầy trò. « Tối hôm trước ngày chịu khổ hình ». Chúng ta dễ hình dung ra thái độ nội tâm và đoán được sự lo lắng của các môn đệ trước giờ Thầy đi chịu chết.

Thực ra, nguyên những lời của Chúa Giêsu đã thể hiện mối lo sợ rồi. Người nói sẽ không để các môn đệ mồ côi, rõ ràng Người gợi lên nỗi buồn Thầy trò phải chia ly.

Câu hỏi đặt ra : ở trung tâm của mùa Phục sinh thật là vui, sao lại gợi lên những giờ đen tối chất chứa nỗi buồn ? Trước ngày lễ Ngũ Tuần, nghĩa là trước khi loan báo Tin Mừng cho Muôn Dân, tại sao lại cho chúng ta chứng kiến sự sợ hãi của các môn đệ ? Có lẽ vì bản văn giới thiệu Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Vấn nạn vẫn còn đó. Chúng ta hãy cố gắng từng bước theo di ngôn của Chúa Giêsu.

« Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy » (Ga 14, 15). Lời di chúc này thật không đơn giản, có ý nói : các con yêu mến Thầy thế là đủ, vì nếu yêu mến tức khắc giới răn của Thầy sẽ được tuân giữ, có nghĩa là : khi yêu mến Chúa Giêsu, người ta sẽ tuân giữ các giới răn Chúa để lại là yêu mến Người. Có thế hiểu cách khác : nếu các con yêu mến Thầy, điều đó chứng tỏ rằng các con tôn trọng các giới răn Thầy truyền. Tôn trọng các giới răn là thể hiện lòng mến nên tuân giữ.

Lời của Chúa Giêsu nêu lên tương quan giữa các giới răn với tình yêu dành cho mình, nên Người kết luận : « Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy » (Ga 14, 21). Và Người cam kết : « Thầy sẽ xin Cha ». Nói thế là Người chịu trách nhiệp về những việc Người làm. Một cách chắc chắn và bảo đảm là ;  nếu Chúa Giêsu bênh đỡ chúng ta, chúng ta còn sợ hãi gì ?

Chúa Giêsu xin Cha điều gì ? Người xin Cha « ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác » (Ga 14, 16). Khi nói Đấng Phù Trợ khác, Chúa Giêsu chứng tỏ sự lo lắng bảo vệ các môn đệ, và cho thấy Người là một Đấng Phù Trợ. Đó là lý do tại sao Người nói đến một « Đấng Phù Trợ khác ». Lời cầu xin của Chúa Giêsu còn ngụ ý nói rằng vụ án của Chúa qua đi sẽ tiếp đến một vụ án khác là chính các môn đệ bị kết án vì niềm tin của họ vào Chúa Giêsu bị đóng đinh và sống lại. Chúng ta hãy để ý đến thuật ngữ Đấng Bầu Chữa, Trạng Sư, hay Đấng An Ủi. Trong ngành tư pháp Do thái, vị luật sư hỗ trợ thân chủ của mình và tư vấn, vì khi bào chữa cho thân chủ là lúc luật sư cố gắng bảo vệ chính mình. Điều này ám chỉ về Chúa Thánh Thần. Ngài nâng đỡ các môn đệ trong hành động cũng như lời nói, « Chúa Thánh Thần sẽ dạy các con mọi sự » (Ga 14, 26).

Nhưng làm thế nào để biết được Ngài, đón nhận Ngài hay đơn giản là để thấy được Thần Chân Lý ? Khỏi phải lo, vì « thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết được Ngài » (Ga 14, 17). Chúa Giêsu thêm « còn các con, các con biết Ngài » (Ga 14, 17). Vậy là chúng ta an tâm. Nhưng điều đó có giúp chúng ta bám chặt vào Chúa Thánh Thần hơn không ? Chưa chắc. Chúng ta biết Ngài là Đấng Phù Trợ và cũng biết rõ Ngài chưa được đón nhận, vì Chúa Giêsu nói về tương lai là sẽ xin Cha : « Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi » (Ga 14, 16). Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần đã được biết đến : « Còn các con, các con biết Ngài, vì Ngài sẽ ở nơi các con và ở trong các con » (Ga 14, 17). Ngài không chỉ được Chúa Cha ban cho chúng ta, mà Ngài còn ở trong chúng ta. Rõ ràng Chúa Giêsu không tự mâu thuẫn và không nói những gì là không thể. Thậm chí còn rất thú vị khi cầu nguyện cùng Cha để xin Cha ban Thánh Thần của Ngài xuống. Ngày Lễ Ngũ Tuần sắp tới sẽ là ngày Chúa Thánh Thần từ Đức Chúa Cha do Chúa Con xin mà đến và chúng ta lãnh nhận qua Chúa Con, lần nữa và một lần nữa.

Các môn đệ sợ bị bỏ rơi, tức là mồ côi. Chúa Giêsu tìm cách giúp các ông an tâm khi nói : « Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi, Thầy sẽ đến với các con ». Chúa Giêsu không đến với họ trong tư cách là Cha, vì Người là Con trong mối quan hệ với Cha. Trước lúc chia tay, nỗi lo sợ bao trùm lên các môn đệ, vì họ không biết sống như những người con ; họ biết mình mỏng giòn yếu đuối hay lo sợ về bí ẩn của cuộc đời. Nên Chúa Giêsu hứa ban Thần Chân Lý, Đấng làm cho cho họ trở nên những người con. « Trong ngày đó, các con sẽ hiểu biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con » (Ga 14, 18). Trong ngày đó, là ngày Chúa Thánh Thần xuống trên các ông, ở với và trong các ôn mãi mãi, bằng sự hiện diện vô hình, sự sống làm con được phục hồi. Họ sẽ đón nhận hoa quả ơn cứu độ là Chúa Thánh Thần và họ sẽ nếm trước niềm vui cứu rỗi là làm conThiên Chúa.

Chúa Giêsu kết luận : « Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy. Và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy sẽ yêu nó, và sẽ tỏ mình ra cho nó» (Ga 14, 21). Chỉ sợ hãi khi tách mình ra khỏi Chúa con và không nhận  biết tình yêu của Chúa Cha. Vậy, khi tuân giữ giới răn và lệnh Chúa truyền, các môn đệ được tham dự vào tình nghĩa tử với Chúa Cha. Chính Chúa Cha đến với con người trong Đức Giêsu và khi sai Thánh Thần xuống. Vai trò của Chúa Thánh Thần là giúp các môn đệ trở nên những chứng nhân cho lời Chúa Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con nài xin Chúa xin Chúa Cha cử Chúa Thánh Thần đến với chúng con, và ở trên chúng con như đã ở với các môn đệ Chúa, những người sống nhờ Thánh Thần Chúa và vui mừng nhận biết chỉ có Chúa là ơn cứu độ chúng con : chúng con hướng về Chúa Cha và thưa rằng « Abba, Lạy Cha » .

Về mục lục

.

NGƯỜI YÊU MẾN

Bông Hồng Nhỏ

Tình yêu làm cho chúng ta lớn lên, giúp chúng ta có thể vượt qua mọi trở ngại trong cuộc sống. Có một tình yêu đẹp quả là một hạnh phúc lớn lao của con người. Khi tình yêu nơi ta bám rễ sâu và đủ trưởng thành, dù gặp sóng gió hiểm nguy cũng không sờn lòng nản chí, chẳng hề thoái lui và bỏ cuộc nhưng luôn tiến lên phía trước, thủy chung và son sắt tấm lòng.

Một chiều, ta bước đi miệt mài. Ghé vào quán nước, ta tìm hương trà ngày xưa cho thỏa nỗi nhớ mong. Tình cờ ta gặp một người bạn cũ. Hai người tâm sự rồi bạn mở lòng chia sẻ về sự khó bạn đang gặp. Chẳng là… bạn bị tình phụ. Quá đau đớn, vùng vẫy mà chẳng thể nào thoát ra được. Người ta bỏ bạn để đi theo một mối tình khác, còn trái tim bạn vẫn đầy ắp những hình ảnh tuyệt đẹp về họ. Ta ngồi đó, lặng lẽ lắng nghe, chia sẻ bằng ánh mắt cảm thông và thấu hiểu dù chẳng nói được những lời khuyên khôn ngoan.

Ta bước về trong bóng tối chập choạng. Lời Thầy từ đâu lại vang vọng trong tâm: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy.” (Ga 14, 15). Ta bước đi, lòng không thôi khắc khoải về Lời ấy. Lời ấy đánh động trái tim ta khiến cho tâm trí ta hướng mắt vào hồn mình để dò xét. Tình yêu ta dành cho Thầy bấy lâu nhạt quá. Hóa ra, ta cũng chẳng hơn gì người đàn ông phụ tình kia. Ta cũng bỏ rơi Thầy từng ngày trong vô tâm, ta hỡ hững dù Thầy vẫn ở kề bên.

Có bao giờ Thầy để cho ta mồ côi đâu. Chỉ là vì ta quá mải mê với những sự trần thế mà bỏ quên Thầy. Thầy vẫn chờ đợi ta mãi, chờ hoài và luôn ở đó. Chẳng phải, Thầy đã tự nguyện đón nhận lấy sự khó cho ta được sự bình an và hoan lạc. Thầy đã mang vào thân mình những thương tích để ta được lành lặn. Thầy yêu ta đến cùng. Nếu ta yêu Thầy, hẳn ta đã dành cho Thầy chỗ quan trọng nhất trong tâm hồn ta. Có bao giờ, ta tôn Thầy là Chúa ngự trị trong lòng ta như lời khuyên của Thánh Phêrô? Quả thật, thân ta mỏng manh dễ vỡ và tình của ta cũng mong manh quá đỗi.

Nhìn về phía các Thánh, ta thấy lòng khâm phục quá. Ngày xưa, thánh Phêrô cũng từng chối Thầy đến ba lần. Ông chối Thầy trong sự sợ hãi và quá hoang mang. Đức Giêsu phục sinh lại hỏi ông ba lần: “Anh có mến Thầy không?”, một cử chỉ tha thứ. Ông được Thầy tỏ cho một tình yêu quá đỗi tuyệt đẹp. Ông đã vứt bỏ đằng sau những yếu đuối và lầm lỗi của quá khứ để bước trên con đường Thầy dọn sẵn cho ông: chông gai và thử thách, bởi ông là môn đệ của Thầy mà môn đệ thì không hơn Thầy được.

Nếu chỉ nhìn về những lầm lỗi và giới hạn của bản thân để sợ hãi và thoái lui thì ta đã thất bại hoàn toàn. Chúa là Đấng giàu lòng thương xót và Ngài biết rõ sự yếu hèn của ta. Phải rồi, “Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo. (1Ga 4,18). Kinh nghiệm của thánh Gioan dạy ta vượt lên trên sợ hãi. Chính thánh Phêrô cũng như các Tông đồ khác, các ngài đều kinh qua kinh nghiệm vượt lên trên sợ hãi và đón nhận một tình yêu viên mãn của Thầy.

Thiết nghĩ, nếu không có một sức mạnh nội tâm thì làm sao ta có thể vượt qua được mọi trở ngại của cuộc sống. Đường theo Thầy luôn có đó những gian nan và thử thách. Thử thách đến từ chính con người của ta. Bởi vậy Thầy đã chẳng dạy rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. (Mc 8, 34). Tình ta dù chẳng đẹp, thân ta dù yếu đuối, chỉ xin hai chữ “trung kiên” để theo Thầy. Sức mạnh nội tâm được kín múc từ những lần đến kề bên Chúa trong Bí tích Thánh Thể, từ những lần ta trao ban một cử chỉ yêu thương… Chính Chúa Thánh Thần- Đấng Bảo Trợ sẽ thánh hóa và làm mới tâm hồn chúng ta.  Chỉ khi đã bám rễ sâu trong tình yêu, ta mới có thể cảm nhận được mọi hương vị của tình yêu, tình yêu trong ta mới trưởng thành được. “Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.” (Ga 14, 21). Thầy vẫn tỏ mình cho ta mỗi ngày. Nào, ta hãy để hồn mình thật lặng lẽ để lắng nghe tiếng nói của Thầy, cảm nhận sự hiện diện gần gũi và nên một trong tình yêu của Thiên Chúa.

Quỳ trước Thánh Thể, ta dâng lên Thầy người bạn bị tình phụ mà vẫn chờ mong sự trở về của người yêu. Ta cũng dâng lên Thầy những ai đang yêu biết trân trọng mối tình mình đang nắm giữ. Đặc biệt, ta dâng lên Chúa mối tình ta dành cho Thầy. Tự trong tâm hồn, ta đón nhận một điều mới mẻ mà từ trước đến giờ ta đã sống mà nay mới kết thành lời: “Tôi tìm thấy một hình hài yếu đuối trong tôi và tôi tìm thấy một Tình Yêu đã hiến trọn cho tôi.”

Về mục lục

.

CẬY TRÔNG

Lm. Trần Việt Hùng

Trước khi từ giã ra đi,

Chúa thương nhủ bảo, thực thi đôi lời.

Các con yêu mến trong đời,

Giới răn bác ái, là lời Thầy khuyên.

Chúng con tuân giữ luật truyền,

Yêu Thầy kính Chúa, tinh tuyền trí khôn.

Thầy về cùng Chúa chí tôn,

Xin Cha chúc phúc, cho hồn ân thiêng.

Thánh Thần Phù Trợ thiêng liêng,

Người là Chân Lý, ơn riêng chữa lành.

Thế gian chẳng biết Thánh Danh,

Chúng con nhận biết, thực hành yêu thương.

Luật Thầy truyền giữ tỏ tường,

Mến yêu sự thật, mở đường ta đi.

Dù cho cuộc sống khó nguy,

Đồng hành bên Chúa, sợ gì thế gian.

Cuộc đời muôn nỗi gian nan,

Có Thầy yêu mến, chứa chan phúc lành.

Cậy trông phó thác chân thành,

Yêu người mến Chúa, rạng danh sáng ngời.

Chúa Giêsu trước khi từ giã các môn đệ, Ngài đã ưu ái nhắn nhủ và mời gọi các môn đệ hãy yêu thương nhau. Chúa ra đi, nhưng không để các ông mồ côi. Chúa biết khi Ngài rời xa, các tông đồ sẽ buồn phiền. Ngài hứa sẽ ban Thánh Thần đến để thêm sức và dậy dỗ các ông tất cả.

Không buồn sao được khi Chúa từ giã ra đi. Tuy rằng, Chúa chỉ vắng mặt nơi thân xác, nhưng tinh thần Chúa luôn hiện diện bên cạnh. Trước khi ra đi, Chúa đã dậy dỗ các môn đồ cách cặn kẽ. Chúa trao ban quyền năng để phục vụ và xây dựng Giáo Hội. Chúng ta biết các tông đồ là những người chài lưới sống ở vùng quê và ít học. Nhận lãnh trách nhiệm lớn lao trong việc truyền rao tin mừng cứu độ cho muôn dân.

Các tông đồ không thể cậy dựa vào sức mình. Với sự đơn sơ và lòng nhiệt thành, các ngài đã ra đi làm nhân chứng cho Chúa. Mười một trong số 12 tông đồ đã lấy chính máu đào của mình chứng minh niềm tin vào Chúa Kitô sống lại. Các ngài theo chân Chúa, thánh giá vác mỗi ngày. Biết bao chống đối, biết bao gian khổ và biết bao thăng trầm, các ngài đã từng bước vuợt qua và vươn tới.  Không chùn bước khi gặp gian nan thử thách. Nhờ đâu các ngài có được sự can đảm như thế? Đó chính là ơn Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu đã hứa sai đến.

Vai trò Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong buổi sơ khai của Giáo Hội. Lửa yêu mến của Thánh Linh đã rực cháy trong tâm hồn của các tín hữu thời sơ khai. Dầu bị cấm cách, bị thiêu đốt, bị giam cầm, bị bách hại liên tục, các ngài luôn kiên cường làm chứng nhân cho Chúa sống lại. Các ngài đã xứng đáng lãnh nhận triều thiên vinh quang.

Triều thiên phải đổi bằng giá máu. Phải phấn đấu và tín trung cho đến cùng đường. Ai trong chúng ta cũng muốn được hạnh phúc và được đội triều thiên. Truyện kể: Trong giấc mơ, có một bà thấy mình bước vào cửa tiệm và ngạc nhiên thấy Chúa ngồi tại quầy hàng. Bà hỏi: Ở đây Chúa bán những món hàng nào? Chúa trả lời: Có tất cả các món hàng mà con mong muốn. Ngỡ ngàng quá sức! Bà định mua tất cả sự bình an, tình yêu và hạnh phúc. Bà muốn mua cho con cái và cho mọi người nữa. Chúa cười và nói rằng chắc bà hiểu lầm rồi, tiệm này không bán hoa trái mà chỉ bán hạt giống mà thôi.

Chúng ta đã lãnh nhận hạt giống đức tin, đức cậy và đức mến. Chúng ta hãy làm nẩy sinh những hoa quả tốt đẹp trong cuộc sống. Hạt giống có trổ sinh nhân đức hay không, tùy thuộc cuộc sống nơi mỗi người chúng ta. Xin Chúa tràn đổ ơn lành giúp chúng ta sinh hoa kết trái tốt đẹp.

Về mục lục

.

GIỚI LUẬT YÊU THƯƠNG

           Lm Tôma Nguyễn Hoàng Phượng

Ông Hancok, người Mỹ, là một tín hữu đạo hạnh gương mẫu, nhất là nhiệt thành với việc truyền giáo. Vào thế chiến thứ II, gần nhà ông có một trung tâm huấn luyện quân đội. Hàng vạn lính Mỹ trong trại cần tới Tin Mừng Phúc Âm, nhưng viên chỉ huy không cho phép kẻ không phận sự được vào trại. Hancok nghĩ ra một cách để truyền giáo cho họ: Ông bỏ tiền thuê một hãng làm gương soi, ở mặt sau tấm gương ông cho in những lời này của Chúa: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình để những ai tin vào con của Ngài thì không phải chết, nhưng được sống đời đời”. Bên dưới lời Chúa, ông còn in thêm lời chỉ dẫn này: “Bạn muốn nhìn người Thiên Chúa yêu, hãy nhìn ở mặt bên kia tấm gương”.

Thật là ý nghĩa tuyệt vời, khi mỗi người lính nhìn vào tấm gương đều thấy người Thiên Chúa yêu không ai khác mà chính là họ.

Như những người lính kể trên, mỗi người tín hữu chúng ta đều là người được Thiên Chúa yêu.

            – Vì yêu, Chúa dựng nên mỗi người chúng ta.

            – Khi chúng ta tội lỗi, Chúa không bỏ mặc chúng ta rơi vào hố sâu hỏa ngục, lại sai Con Một Ngài xuống thế làm người cứu chuộc nhân loại.

            – Vì yêu chúng ta, khi về trời, Ngài không để chúng ta mồ côi. Về trời rồi, Ngài sai Chúa Thánh Thần đến tiếp tục hướng dẫn ta.

            – Vì yêu con người, Chúa muốn con người được hạnh phcú, muốn được hạnh phúc, Ngài dạy con người phải tuân giữ giới răn của Ngài.

            Khi ban bố 10 giới răn của Chúa cho dân Do thái trên núi Sinai, Chúa sai ông Môisê nói với toàn dân rằng: “Ngươi hãy nói với toàn dân: ngày nào các ngươi tuân giữ giới răn của Ta, ngày đó các ngươi được hạnh phúc. Trái lại, ngày nào các ngươi không tuân giữ giới răn ta nữa, các ngươi sẽ trở thành người bất hạnh”.

            Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay cũng dạy chúng ta: “Nếu các ngươi yêu mến Thầy, thì các ngươi tuân giữ giới răn Thầy”. Giới răn của Chúa Giêsu chính là giới luật yêu thương.

            – Giới răn thứ nhất Chúa dạy: “Hãy yêu mến Chúa hết lòng, hết sức trên hết mọi sự”.

            Thật là bất hạnh cho con người, khi con người thay vì tôn thờ Chúa lại tôn thờ thụ tạo.

            Thật là bất hạnh cho con người, khi con người không giữa ngày Sabbat của Chúa.

            – Giới răn thứ hai Chúa dạy: “Hãy yêu mến anh em như chính mình ngươi”.

            Thật bất hạnh cho con người, khi con người không còn thảo kính cha mẹ.

            Thật bất hạnh cho con người, khi con người không còn tôn trọng nhau. Trái lại, tàn sát, giết chóc, gây chiến tranh.

            – Người mẹ đã từng dạy con: “Con đừng nghịch lửa kẻo phải bỏng, hoặc con đừng chơi dao kẻo đứt tay. Dạy như thế, người mẹ chỉ muốn sự lạnh, sự tốt cho con.

            – Thiên Chúa cũng chỉ vì yêu con người, nên dạy con người: Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hãy yêu anh em như chính mình.

            Bao lâu con người giữ giới răn Chúa sẽ được hạnh phúc. Bao lâu con người không giữ giới răn Chúa sẽ trở thành kẻ bất hạnh.

            Truyền thuyết kể lại: Thánh Gioan tông đồ khi tuổi già sức yếu không đứng lâu giảng dài được nữa. Khi giảng Ngài chỉ khuyên giáo dân: “Anh em hãy mến Chúa, yêu người”. Giáo dân nghe mãi lời giảng ấy nên thưa: “Thưa cha, chúng con biết cha giảng gì rồi, cha đừng nói nữa”. Ngài nói: “Nếu chúng con giữ được lòng mến Chúa yêu người, như thế là giữ trọn luật Chúa rồi!”.

Về mục lục

.

YÊU VÀ GIỮ LUẬT

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Ba năm đi rao giảng cùng với các môn đệ, Chúa Giêsu đã dạy dỗ các môn rất nhiều điều, Ngài đã củng cố niềm tin của các Ngài bằng nhiều phép lạ, đặc biệt bằng gương sáng của chính Ngài…Hôm nay, tromg bữa ăn sau cùng, bữa tiệc ly với các môn đệ.Chúa Giêsu đã bộc bạch hết tâm sự của Ngài, và Ngài đã nói cho các môn đệ những lời tâm huyết, thâm sâu nhất. Ngài căn dặn các môn đệ :” Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy “.

Chúa căn dặn các môn đệ :” Mến Chúa yêu người “. Lời nhắn nhủ, căn dặn của Chúa Giêsu xưa với các môn đệ cũng là lời Chúa muốn mọi Kitô hữu ngày nay tuân giữ. Đạo Công Giáo do Chúa thiết lập là đạo tình thương. Bởi vì, thánh Gioan định nghĩa “ Thiên Chúa là tình yêu “. Yêu thương là chu toàn lề luật. Yêu thương là họa lại chính con người của Chúa. Mục đích cuối cùng của mọi lề luật nhằm giúp con người sống bác ái, quảng đại, xả kỷ đối với nhau. Chính vì thế, càng yêu thương, chúng ta càng chu toàn lề luật. Vì lề luật là để phục vụ con người, chứ không phải con người nô lệ lề luật. Nhưng, cuộc sống không phải ai cũng hiểu được như vậy, có những người đã dùng lề luật để đàn áp con người, có những người luôn dùng lề luật làm thước đo cho người khác, họ quên rằng lề luật trên hết mọi lề luật là yêu thương…Chúng ta nhiều khi cũng rơi vào tình trạng nệ luật: có khi chúng ta giữ luật để được người khác khen, để cho người lớn khen thưởng. Không giữ luật chúng ta sợ bị phạt, sợ bị khiển trách vv…Thái độ ấy và cung cách giữ luật ấy nhiều người mắc phải. Chúa Giêsu không muốn chúng ta giữ luật như thế mà Ngài muốn chúng ta trưởng thành, vững chắc và giữ luật vì tình yêu, chứ không giữ luật không ý thức, máy móc, không trưởng thành vì sợ hãi, vì sợ khiển trách, không được khen thưởng vv…

Lời Chúa hôm nay, giúp chúng ta hiểu rất rõ bởi vì khi xưa trong bữa tiệc ly với các môn đệ, Chúa Giêsu đã trút hết bầu tâm sự của mình, Ngài muốn các môn đệ yêu mến ngài thì phải giữ đạo, thực hành đạo với đức tin trong sáng.Chúa căn dặn các môn đệ cũng đồng thời truyền cho chúng ta tuân giữ” Mến Chúa yêu người “. Chúa ban cho chúng ta đức tin qua bí tích rửa tội.Được đức tin hướng dẫn chúng ta bám chặt lấy Chúa, hoàn toàn phó thác nơi Ngài :” Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa “ .Cuộc sống, sinh mạng của chúng ta hoàn toàn ở trong tay Chúa. Chúng ta tin Ngài, chúng ta sống đức tin. Có đức tin, chúng ta biết đạo, nên chúng ta giữ đạo, sống đạo vì yêu mến Chúa :” Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em phải giữ giới răn của Thầy”. Thực tế, trong đời làm con Chúa hằng ngày, chúng ta bắt gặp rất nhiều mẫu gương giữ đạo, sống đạo anh hùng. Một thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã sống hết mình vì tình yêu :” Trong Giáo Hội, con sẽ là Tình Yêu “. Một nữ thánh Têrêsa thành Calcutta đã sống phục vụ như Đức Giêsu, một thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã sống hết mình để củng cố “ đức tin cho Giáo Hội “ vv…Và còn biết bao nhiêu gương lành của các thánh và những Kitô hữu tốt lành.

Đoạn Tin Mừng này là những lời tạ từ của Chúa Giêsu trước khi Ngài rời bỏ các môn đệ để đi chịu nạn chịu chết. Các môn đệ tin vào Chúa Giêsu, Đấng là Thầy, là Chúa của các Ngài và tin vào Đấng phù trợ, là Thánh Thần mà Chúa Giêsu sẽ gửi đến :” Thầy không để các con mồ côi, Thầy sẽ trở lại với các con “.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn tin tưởng vào tình yêu của Chúa và để chúng con luôn biết sống quảng đại phục vụ anh em.Xin Chúa cho chúng con biết tuân giữ lề luật một cách trưởng thành vì lòng yêu mến Chúa chứ không phải vì sợ phạt, sợ bị khiển trách, sợ bị trù dập. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Chúa Giêsu đã nói những lời tạ từ với các môn đệ ở đâu ?
2.Mến Chúa yêu người là gì ?
3.Giữ đạo và sống đạo khác nhau ra sao ?
4.Chúng ta nên giữ luật thế nào ?
5.Giả hình là sao ?

Về mục lục

.

GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VÀ TÔNG TRUYỀN

Lm. GB. Trần Văn Hào

Tuần trước, qua các bài đọc Lời Chúa, chúng ta đã suy niệm về mầu nhiệm Giáo hội với hai đặc tính: Duy nhất và thánh thiện. Chúa nhật tuần này, chúng  ta có dịp đào sâu thêm về hai phẩm tính khác của Hội thánh,đó là đặc tính Công giáo và đặc tính Tông truyền. Cả bốn thuộc tính nơi Giáo hội mà chúng ta vẫn đọc trong kinh tin Kính đều có một yếu tố căn bản duy nhất, đó là Thánh Thần, hay Thần Khícủa Đấng Phục Sinh và cũng làĐấng hằng làm việc trong Giáo hội.

Giáo hội với Công  giáo tính.

Chúa Giêsu đem ơn cứu độ đến cho mọi người, không phân biệt mầu da,chủng tộc, ngôn ngữ hay văn hóa.Thánh Phaolô đã viết: “Trong Đức Kitô,không còn phân biệt Do Thái hay HyLạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ(Gal 3,28). Vì thế trong Giáo hội,tất cả chúng ta đều được chia sẻ chung một phẩm giá,là được trở nên con cái Thiên Chúa,và được đồng thừa tự với Đức Giêsu. Câu chuyện được thuật lại trong bài đọc 1 minh dẫn về xác tín này. Tác giả sách Tông đồ Công vụ thuật lại giai thoại Tông đồ Philip đã xuống  miền Samari rao giảng và nhiều người ở đó đã tin, đã lãnh nhậnThánh Thần và đã chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu(Cv8,14-17). Samari là vùng đất ngoại giáo.Người DoThái vẫn có mối thù truyền kiếp với cư dân Samari và quyết không độitrời chung với họ. Nhưng Thánh Thần đã tác động, nối kết những dị biệt lại, và hóa giải những xung khắc.Cư dân ở đây đã nghe Philipphê rao giảng về ĐứcKitô kèm theo những phép lạ mà vị tông đồ đã thực hiện. Cuối cùng nhờ Chúa Thánh Thần, họ đã được biến đổi.

Đặc tính Công giáo của mầu nhiệm Giáo hội được hiển thị rõ nét qua biến cố trên.Ngày nay, Giáo hội đã lan rộng đếnkhắpmọimiền trên khắp thế giới.

Giáo hội và tính Tông truyền.

Chúa Giêsu đã thiết lập Giáo hội trên nền tảng các Tông đồ. Trong sách Khải huyền, Thánh Gioan đã thuật lại thị kiến khi Ngài chiêm ngắm Thành Thánh Giê-ru-sa-lem được đặt trên 12 móng có khắc tên 12 Tông đồ của Con Chiên(Kh 21,14). Sau khi sống lại, Chúa Giêsu cũng ban năng quyền tha tội cho các Ngài trong ngày Phục sinh. Trong nhãn quan thần học của Thánh Gioan, sự kiện Chúa Phục sinh – và thiết lập Hội thánh chỉ là một thực tại duy nhất. Cũng tương tự,Thánh Luca mô tả Hội thánh tiên khởi tại Giê-ru-sa-lem luôn quy tụ chung quanh các Tông đồ và  lắng nghe lời dạy dỗ của các Ngài. Trong bài đọc 1 hôm nay,các Tông đồ ở Giê-ru-sa-lem nghe biết dân Samari đã đón nhận lời Chúa,liền cử hai ông Phêrô và Gioan đến với họ. Hai vị tông đồ này là đại biểu Tông đồ đoàn đến đặt tay trên họ để trao ban Thánh Thần.

Hội thánh của Chúa Giêsu không phải là một tổ chức dân sự theokiểu xã hội trần thế, đặt nền tảng trên tính dân chủ. Trái lại,mọi quyền bính được trao ban từ trên, khởi đầu từ Đức Giêsu.Đức Giêsu trao năng quyền cho các Tông đồvà các tông đồ chuyển giao lại cho các Mục tử là các Giám mục để các Ngài coi sóc các cộng đoàn.Trong Giáo hội, không bao giờ có chuyện một Giám mục được dân bầu lên, nhưng chỉ duy nhất một mình Đức Thánh Cha đấng kế vị Thánh Phêrô, mới có thẩm quyền bổ nhiệm Giám mục. Vì vậy, giáo luật quy định rất rõ ràng,bất cứ một vụ phong chức Giám mục nào bất hợp pháp(illicit), tức là không phải do Đức Thánh Cha ủy quyền, thì vị được tấn phong lẫn vị chủ phong đều bị vạ tuyệt thông tiền kết, cho dù bí tích vẫn thành sự(valid). Trong lịch sử Giáo hội, cũng đã từng xảy ra nhiều trường hợp như thế. Hiện nay,việc giải quyết những rắc rối tại Giáo hội Trung quốc vẫn còn khá nan giải, vì việc chọn Giám mục vẫn còn bị chính quyền trực tiếp can thiệp vào.

Tình yêu: thẻ căn cước của mọi tín hữu trong Hội thánh.

Sống trong Giáo hội là nhiệm thể Đức Kitô,mọi Kitô hữu phải mang nơi mình một thẻ căn cước (identity card) chung, đó là sống tình yêu thương. Đây là điều mà Chúa Giêsu đã đề cập đến trong bài Tin mừng hôm nay. Trong diễn từ ly biệt trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ những lời tâm huyết khá dài về điều răn mới, là ‘Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu’. Để khai triển về luật yêu thương này, Chúa Giêsu đã mời gọi các môn sinh đi sâu vào tình yêu giữa Ngài với Chúa Cha như một nguyên mẫu. Đó không phải là những tình cảm hời hợt bên ngoài, nhưng đi sâu vào sự hiệp thông cách trọn vẹn,vì “Ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha Thầy yêu mến”.

Tình yêu là tên gọi của Thiên Chúa, và tình yêu cũng là thuộc tính căn bản của Ngài. Trong thư thứ nhất của Thánh Gioan,vị tông đồ đã xác tín điều này. Giáo hội là nhiệm thể Đức Giêsu,nên sự sống của Giáo hội là sự sống của tình yêu phát nguyên từ nơi Thiên Chúa. Vì thế,Chúa Giêsu đã nêu bật tình yêu thông hiệp giữa Ngài với Chúa Cha như một nguyên mẫu để mời gọi các học trò đi sâu vào cảm thức thánh thiêng, hầu sống sung mãn ơn gọi tình yêu. Bài diễn từ ly biệt của Chúa Giêsu khá dài đã được thánh Gioan thuật lại, nhưng quy tóm về một thực tại duy nhất đó là sống mầu nhiệm yêu thương như một giới răn mới. Đây là quy chuẩn duy nhất để nhận ra những ai là môn đệ của Đức Kitô và là những chi thể trong thân thể mầu nhiệm Ngài,là chính Giáo hội.

Kết luận

Tôi tin Giáo hội duy nhất, thánh thiện,công giáo và tông truyền. Đây là những xác tín mà chúng ta vẫn thường lập lại khi đọc kinh Tin Kính. Sống trong một Giáo hội hữu hình với các cơ cấu hay phẩm trật, tất nhiên chúng ta dễ nhận ra những giới hạn do bản tính mỏng dòn của con người. Nhưng chúng ta vẫn thuộc về Giáo hội vô hình, một thực thể duy nhất, một dân tộc thánh thiện được khai sinh từ Đấng Phục sinh và cũng là đền thờ Giê-ru-sa-lem được xây trên nền móng 12 Tông đồ. Xác tín như thế sẽ làm tăng triển cảm thức thuộc về Giáo hội để chúng ta chung tay góp sức xây dựng nhiệm thể Chúa Giêsu ở trần thế, một cách cụ thể ngay tại Giáo hội địa phương mà chúng ta đang thông dự vào.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH_A

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

“Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy”(Ga 14,21)

Tâm tình của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay là tâm tình của một người sắp ra đi. 

A. Chỉ  còn một ít nữa thế gian sẽ không còn thấy Thầy.(Ga 14,19)

Lời tuyên bố của Chúa quả thực làm cho các môn đệ của Ngài hoang mang. 

Thế nhưng đây mới chỉ là một vế trong sự bộc lộ về tương lai của Chúa chứ chưa phải là tất cả. 

Vế thứ hai quan trọng hơn, an ủi hơn “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi. Thầy sẽ đến với các con. Các con sẽ thấy Thầy vì Thầy vẫn sống và các con cũng sẽ sống”(Ga 14,18) 

Những lời này sẽ được cụ thể hóa sau khi Chúa từ cõi chết sống lại. 

Chắc hẳn anh chị em hãy còn nhớ cách thức sinh hoạt của Chúa sau biến cố Phục Sinh như thế nào. Thánh Phaolô bảo là cuộc sống đó đã được biến đổi. Biến đổi để có thể, nói theo kiểu của cha Teihard de Chardin có mặt “tràn ngập, tràn lan, phủ đầy” khắp nơi một cách cụ thể còn hơn cả lúc Chúa chưa về trời như chính lời Chúa đã xác nhận: “Thầy sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế”. 

Bằng cách nào? 

a/ Trước hết bằng Bí tích Thánh Thể. 

 Với Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu hiện diện tràn lan khắp địa cầu, qua đó con người có thể nhận ra Chúa đang thật gần gũi với mình.

b/ Qua hoạt động của Đấng phù trợ: Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục công viêc mà Chúa Giêsu đã khởi sự. 

c/ Và mỗi khi một cộng đoàn yêu thương được hình thành “Ở đâu có hai ba người họp nhau lại để cầu nguyện thì có Thầy ở giữa” 

B. Vấn đề còn lại là làm sao chúng ta có thể nhận ra được sự có mặt của Chúa trong cuộc đời của chúng ta?

Đây là cách thức chính Chúa đã chỉ cho chúng ta: “Ai đón nhận luật Thầy truyền và giữ các luật đó thì người ấy sẽ là kẻ mến Thầy và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến và Thầy sẻ tỏ mình ra cho người ấy”(Ga 14,21) 

Như vậy là bằng cách sống Lời của Chúa, chúng ta sẽ gặp được Chúa. Chúa sẽ tỏ mình ra cho chúng ta.

Nhà văn hào Léon Toilstoi, có viết lại một câu chuyện rất cảm động về một ông già nhà quê tên là Martin Avdiéitch làm nghề đóng giầy. Bác sống một cuộc đời rất hạnh phúc bên vợ con. Nhưng thật là không may cho bác. Ngoại trừ đứa con trai nhỏ còn tất cả vợ con bác đã bị chết trong một tai nạn bất ngờ. Thật là một đau khổ lớn lao. Tuy đau xót nhưng cũng may là còn một đứa sống sót an ủi bác. Thế nhưng như người đời thường nói: “Họa vô đơn chí”. Đứa con trai duy nhất của bác sau đó lâm bệnh và cuối cùng đã vội bước vào thế giới bên kia. 

Martin tuyệt vọng. Bác trách Thiên Chúa và muốn kết thúc cuộc đời của mình. 

May thay, vào ngày lễ Chúa Thánh Thần năm đó, một người bạn thân trên đường đi hành hương ghé qua thăm. Bác đem câu chuyện đau buồn của gia đình ra kể. Khi nghe xong, người bạn đã nói với bác: 

– Chúng ta không có quyền xét đoán Thiên Chúa về những gì Ngài làm. Ngài đã định cho vợ con anh chết. Còn anh thì anh phải sống và như thế thì tốt hơn. Sở dĩ anh thất vọng và muốn chết như thế là bởi vì anh chỉ muốn sống cho bản thân, cho hạnh phúc riêng tư của anh thôi…..” 

– Vậy thì tại sao người ta phải sống? 

+ Chính cho Thiên Chúa mà người ta phải sống. Khi anh bắt đầu sống cho Ngài, anh sẽ không còn buồn phiền và anh sẽ có sức mạnh để vượt qua tất cả”. 

Martin im lặng một lúc rồi hỏi 

– Làm thế nào để sống cho Thiên Chúa? 

+ À thì chính Chúa đã chỉ. Anh hãy mua một cuốn Thánh Kinh và hãy đọc ở trong đó, anh sẽ biết cách phải sống cho Thiên Chúa thế nào. 

Bác đi mua ngay một cuốn Tân Ước và mỗi ngày bác đọc. Càng đọc, bác càng cảm thấy thấm thía. 

Một buổi tối kia sau khi đọc xong, bác miên man suy nghĩ về những gì mình mới đọc. Suy nghĩ được một lúc thì tự nhiên bác cảm thấy thiu thiu muốn chợp mắt. Vừa thiu thiu muốn chợp mắt đi thì tự nhiên bác nghe thấy như có ai gọi mình: 

– Martin! 

Bác giật mình đứng dậy hỏi thật lớn: 

– Ai đó? 

Và bác nghe như thấy có tiếng bảo: 

– Martin ơi! Ngày mai hãy nhìn ra đường. Ta sẽ đến thăm ngươi. 

Sáng hôm sau bác dậy sớm, chuẩn bị nhà cửa gọn gàng khang trang rồi vừa làm việc vừa ngó ra đường qua tấm cửa kính đã được chùi sạch. 

Mãi mà không thấy ai gõ cửa, mặc dầu có rất nhiều người qua đường. 

Đến khoảng 9 giờ thì bác thấy một người bạn cũ là bác Nicolai. Bác khá già. Không vợ con. Bác phải làm nghề dọn tuyết để tự nuôi sống mình. Thấy bác mệt nhọc mà trời lại quá lạnh. Martin mời bác vào trong nhà, pha trà mời bác Nicôlai dùng. Cả hai sống với nhau những giờ phút thật ấm cúng và đầy tình thương. 

Sau đó Bác Nicôlai từ giã rồi ra đi. Bác Martin tiếp tục công việc nhưng đôi mắt không quên nhìn ra cửa. 

Một người đàn bà còn trẻ, ăn mặc rách rưới ẵm đứa con đi qua. Bác Martin nghe thấy tiếng đứa trẻ khóc và mẹ nó tìm cách dỗ nó nhưng không thành công. Bác vội vàng đứng dậy mở cửa lớn tiếng gọi: 

– Bà kia! Tại sao ẵm con ở ngoài trời lạnh thế? Vào đây…Hãy ngồi gần lò sưởi và cho con bú! 

– Thưa bác cháu không còn sữa vì từ chiều hôm qua đến giờ cháu không có gì ăn. 

Bác Martin đi vào bếp, đem tất cả những gì bác có đưa đến cho người đàn bà. 

Chị kể cho Bác nghe tất cả những sự vất vả chị phải chịu. 

Sau khi đã chuẩn bị đủ đồ lạnh cho hai mẹ con, Bác tiễn hai mẹ con ra đi và không quên dúi vào tay người đàn bà một tờ giấy bạc 20 đồng để khi cần chị có thể dùng. 

Chiều đến một bà già bán táo đi ngang qua. Lưng bà còn đeo theo một bó củi có lẽ bà đã kiếm được ở đâu đó. Tình cờ một thằng bé xuất hiện, lấm la lấm lét chộp lấy một quả táo và định tháo chạy nhưng không may cho nó, bà già đã nhanh tay hơn và nắm được nó. Hai người ở trong một thế phải đấu tranh. 

Martin ra can thiệp. Ông xin bà cho ông được trả tiền quả táo và ông trao quả táo cho thằng bé trước sự ngỡ ngàng của nó. 

Trời đã tối nhưng ông cũng vẫn còn chờ. 

Trong lúc như nửa tỉnh nửa mơ, Bác Martin thấy có người xuất hiện trước mắt. 

  – Bác Martin này, bác có nhận ra tôi không? 

  – Nhưng người là ai vậy?. Bác hỏi. 

Một bóng người vụt qua mắt bác. Đó là bác Nicôlai, người dọn tuyết. 

Và một tiếng khác: “và cũng chính là tôi đây”. Rồi từ góc nhà hiện ra khuôn mặt của bà mẹ và đứa con. Bà mẹ mỉm cười và đứa bé cũng mỉm cười. Rồi hình họ cũng tan biến. 

“Và cũng chính là ta”. Lại một tiếng nói nữa. Đó là bà già bán táo và thằng bé. Cả hai đều cười và rồi cũng biến đi. 

Martin cảm thấy sung sướng. Ông làm dấu thánh giá, đeo kính vào và đọc tiếp đoạn Kinh Thánh ông đang đọc dở dang: “Ta đói, các người đã cho Ta ăn. Ta khát ….” 

Ở cuối trang ông dừng lại thật lâu ở những dòng chữ này: “Những gì các ngươi làm cho một một người bé nhỏ trong các anh em của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25).

Ông tự nghĩ trong lòng: Giấc mơ đã không đánh lừa ông. Và ông đã không lầm khi nghĩ rằng chính Chúa đã đến nhà ông và ông đã được đón tiếp Ngài.

Về mục lục

.

NẾU NÓI YÊU THẦY MÀ KHÔNG GIỮ LỜI THẦY LÀ MÂU THUẪN

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Khi nói đến tình yêu, ai cũng biết nó là một khái niệm trừu tượng, vô hình, không thể nhìn thấy bằng giác quan. Tuy nhiên, nó lại hiện diện trong những gì là hữu hình. Nếu không chấp nhận sự hiện hữu của nó qua hành động thì tình yêu không còn chỗ đứng đúng nghĩa. Cũng thế, tôi không thể yêu một cái gì đó, như bông hoa, con chim… mà trước đó tôi không hề biết gì về nó hay không hề có một khái niệm nào về chúng. Còn khi nói về tình yêu giữa người với người, chúng ta không thể nói tôi yêu người này, người kia mà tôi lại chưa một lần nghe kể, giáp mặt với người đó! Yêu nhau, chẳng lẽ lại bảo tôi yêu trong tư tưởng, tôi yêu trong khái niệm…??? Khi nói về tình yêu, chúng ta không có một định nghĩa nào mang tính chuẩn mực cho mọi tình huống, nhưng chỉ có một điều cụ thể: tình yêu là tổng hợp của cả hồn lẫn xác.

Hôm nay, bài Tin Mừng cho thấy, Đức Giêsu làm một cuộc trắc nghiệm và cũng như một điều kiện để biết được tình yêu của các môn đệ và cũng là của mỗi chúng ta với Ngài đang ở trong tình trạng như thế nào?.

  1. Yêu mến và giữ Lời Chúa

“Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14, 15). Lời nhắn nhủ này mang đượm tình nghĩa Thầy trò và có giá trị thiêng liêng khi mà tình cảnh chia ly sắp xảy ra với Đức Giêsu và các môn sinh trên bình diện tự nhiên để chuyển dần sang khía cạnh siêu nhiên.

Kẻ đi, người ở, biết bao là luyến tiếc, nhớ thương! Tuy nhiên, để hình ảnh của Thầy không bị lu mờ; tinh thần của Thầy không rơi vào quên lãng thì việc làm cho lời của Thầy sống động trong cuộc đời qua hành vi của mình là điều quan trọng. Chính vì thế, Đức Giêsu nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14, 15).

Yêu, giữ và thực hành lời của ai, thì cho dù người đó không còn hiện hữu trên bình diện tự nhiên, thì khí cạnh siêu nhiên họ vẫn sống qua cuộc đời và nơi hành vi của người yêu còn sống. Cũng vậy, khi các môn đệ yêu mến và giữ lời Đức Giêsu truyền dạy, thì các môn đệ trở nên hiện thân của chính vị Thầy mà mình là những người đang tiếp bước.

Quả thật, như một hệ luận, khi lắng nghe và giữ lời của Đức Giêsu, ấy là lúc các môn đệ được đi vào trong trung tâm của tình yêu. Được trở nên những người công chính và Thiên Chúa sẽ công chính hóa những ai yêu mến Lời của Đức Giêsu cách trung thành và đầy lòng mến.

  1. Yêu và hành động

Yêu mến…. thì sẽ thực thi…. phải luôn gắn liền với nhau. Yêu mến Đức Giêsu thì hẳn phải thực thi lệnh truyền của Ngài, mà lệnh truyền đó đã được Đức Giêsu gói trọn trong hai giới răn: “Mến Chúa và yêu người”. Yêu mến Thiên Chúa và thương yêu anh em đồng loại là hai mặt của một tình yêu. Thánh Gioan đã nói rất rõ: “Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối” (1 Ga 2, 4).

Đức Giêsu không chấp nhận một tình yêu trên bình diện lý thuyết, từ chương, hay một thứ tình yêu “cưỡi mây về gió”; hoặc“mông lung”. Vì thế, đã có nhiều lần Đức Giêsu phản đối những kinh sư và người Phrisêu: “Dân này Kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mt 15, 8); hay khi nói về tình yêu giả tạo, hào nhoáng, hình thức, Ngài nói: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Phrisêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế” (Mt 23, 27), bởi vì họ là những người“ngôn hành bất tất”.

Như vậy, Đức Giêsu căn dặn các môn đệ là phải yêu và thực hành tình yêu đó cách chân thật, vô vị lợi, dán chấp nhận hy sinh vì người mình yêu. Tình yêu đó được chính Đức Giêsu đã hành động, đi qua và Ngài đưa ra lời mời gọi: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Yêu như chính thầy là gì, nếu không phải là một tình yêu tự hủy, khiêm tốn, phục vụ và hiến dâng mạng sống vì người mình yêu.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu của người Tôi Trung với Thiên Chúa Cha và chiếu tỏa trên tha nhân trong vai trò là Đấng Cứu Chuộc.

Cùng một con đường, chung cách thể hiện, Đức Giêsu cũng mời gọi các môn đệ tiếp bước trên con đường mà Ngài đã đi, để tình yêu đó được nối dài, sống động và phong phú chứ không phải thứ tình yêu đóng khung, cứng ngắc.

Khi yêu như thế, các môn đệ đi vào trong một quỹ đạo của một tình yêu lớn hơn, được sống trong đó và tận hưởng tình yêu một cách sung mãn:“Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ ra cho người ấy biết Thầy” (Ga 14,21). 

Như vậy, chữ “nếu” không có nghĩa rộng là thích thì làm, không làm cũng chẳng sao. Nhưng chữ “nếu ” mà Đức Giêsu muốn nói ở đây phải hiểu theo nghĩa hẹp, tức là điều kiện thiết yếu, không có không được. Chữ“nếu” ở đây liên kết hai mặt của một tình yêu, nó đóng vai trò trung gian duy nhất để như một điều kiện cần phải có: “yêu Chúa”  “giữ lời Ngài”để từ đó phát sinh hệ luận là “yêu tha nhân như chính Thầy” (x. Ga 13, 34).

Như vậy, Đức Giêsu xác định thật rõ rằng: tình yêu chân chính thì phải được biểu lộ qua hành động. Không thể yêu cách vu vơ, chung chung…

  1. Sống lời dạy của Đức Giêsu trong đời sống kitô hữu

Thánh Giacôbê đã nói: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2, 26). Tin Chúa, đi theo Chúa và yêu mến Chúa thì phải giữ lời và thi hành những gì Ngài truyền dạy. Đây là một điều khó khăn, không dễ. Nó đòi hỏi con người phải cố gắng, phải từ bỏ và phải yêu mến lời thực sự:“Gặp được lời Chúa, con đã nuốt vào, Lời Ngài làm cho con hoan hỷ, làm vui thoả lòng con, vì con được mang danh Ngài” (Gr 15,16).

Sống trong thời buổi ngày nay, chúng ta cần phải trung thành với lời Chúa và can đảm thực thi Lời ấy trong cuộc sống, làm cho lời Chúa trở nên thực sự sống động qua cuộc đời chứng tá của mỗi chúng ta. 

Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta thuộc về Đức Kitô. Trở thành môn đệ của Ngài. Như thế, điều mà Đức Giêsu muốn các môn đệ khi xưa cũng là điều mà Ngài muốn mỗi người chúng ta thi hành.

Thật vậy, chúng ta không thể nói yêu Chúa trên đầu môi chóp lưỡi. Yêu như thế là tình yêu giả tạo. Yêu như thế là chúng ta đang xúc phạm đến bản chất của tình yêu giữa ta với Đức Giêsu. Ca dao tục ngữ Việt Nam có câu:  

“Thương thương nhớ nhớ thương thương,

Nước kia muốn chảy mà mương chẳng đào”. (Ca dao)

Nói yêu, nhưng không khai thông tình yêu đó bằng hành động thì chỉ như là một thứ tình yêu đất đá mà thôi.

Tuy nhiên, trái tim trai cứng, vô cảm này lại quá nhiều trong thời đại chúng ta. Nếu có ai đặt một câu hỏi: “Ông, bà anh chị em có yêu và tin Chúa không?” Có lẽ nhiều người trả lời là “có”, nhưng cũng không ít người khinh thường người hỏi, vì cho rằng câu hỏi đó vớ vẩn! Có đạo mà lại không yêu Chúa thì phải chăng là người dở hơi! Nhưng nếu hỏi tiếp: “Vậy ông bà, anh chị em, giữ đạo hay sống đạo?” Tới đây, chúng ta bắt đầu khựng lại và có lẽ cảm thấy xấu hổ vì nhiều khi niềm tin của chúng ta ở trong chứng minh thư, trong sổ rửa tội, còn ở trong tâm, được thể hiện qua hành động thì ít lắm.

Một Giáo xứ toàn tòng Công Giáo, tức là 100% người theo đạo, nhưng nếu giữ đạo được khoảng 60% là tốt lắm rồi, con sống đạo đúng nghĩa, có lẽ đếm trên đầu ngón tay!

Đây là một thực trạng thật tại Việt Nam chúng ta.

Đến đây, xin được kể một câu chuyện có thật của một vị linh mục đã trọng tuổi, ngài sống ở Mỹ. Sau 50 năm, ngài mới trở về Việt Nam lần đầu, và nhân dịp gặp gỡ chúng tôi, ngài kể: “Cách đây 50 năm, tại đất nước Mỹ, người ta có lòng sùng đạo. Nhà thờ được xây cất rất nhiều, các cuộc rước linh đình, lòng sùng đạo rất tốt. Nhìn chung, tình hình giữ đạo rất giống Việt Nam hiện nay.

Tuy nhiên, vào thời điểm này, sau 50 năm, nhiều nhà thờ đã không còn có người đi lễ nữa. Nhiều dòng tu cũng vắng dần các ơn gọi trẻ. Đã có những nhà thờ và dòng tu phải bán đi vì không có tiền đóng thuế. Các linh mục phải đi theo họ đến những nơi du lịch để giải tội và dâng lễ. Nhiều Chủng Viện gom lại thành một, mà số lượng chủng sinh vẫn chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nếu có ai siêng đi lễ thì đôi khi nhận được những lời dè bửu và cho là bất thường. Những người được coi bình thường là cả đời người ta đến nhà thờ 3 lần: một lần Rửa Tội; lần khác là lễ cưới; và lần cuối cùng là chết. Trong ba lần đó, hai lần thụ động, tức là lúc Rửa Tội và lúc chết, còn một lần chủ động là lễ cưới. Điều đáng nói là dân Mỹ coi đây như là một thủ tục phải có trong đời mà thôi, và họ cho rằng mình thuộc thành phần bình thường”.

Sau đó, ngài đưa ra nhận xét: “Nếu Giáo Hội Việt Nam không coi đó là kinh nghiệm cho chính mình, không tập trú vào việc đào tạo lương tâm, không có những hoạt động phù hợp… nhằm giúp cho con cái mình sống đạo chứ không chỉ giữ đạo, thì tình trạng của Giáo Hội Mỹ cũng là hình ảnh, thực trạng của Giáo Hội chúng ta trong tương lai???”.

Đến đây, xin để lại nơi bạn và tôi câu hỏi: “Bấy lâu nay, chúng ta đã thực sự sống đạo hay chỉ là giữ đạo vì sợ tội, sợ mất linh hồn, sợ mất danh dự, sợ bị mang tiếng…?”; “Phải chăng chúng ta đã, đang an tâm với những thành quả về số lượng, mà quên đi, hay không cú tâm đến chất lượng tâm linh?”. Tưởng cũng nên nói thêm: giữ đạo là điều tốt, nhưng sống đạo mới là người trưởng thành.

Mong sao mỗi chúng ta cố gắng đan kết giữa việc giữ và sống đạo trong đời sống, để:“Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của những người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ”(Thánh Công Đồng Vaticanô II, Hiến chế Gaudium et Spes, số 1).

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một đức tin mạnh mẽ và một lòng mến dồi dào. Khi chúng con nói được rằng chúng con tin vào Chúa và thực thi giới răn của Ngài, thì chúng con biết sống những điều đó bằng một đời sống cụ thể. Ðể cuộc sống của chúng con là một chứng từ sống động cho mọi người nhận biết Chúa. Amen.

Về mục lục

.

THẦN KHÍ YÊU THƯƠNG

Trầm Thiên Thu

Làm người, ai cũng cần một danh nghĩa nào đó, nhưng phải là danh nghĩa chính đáng: “Đã mang tiếng ở trong trời đất – Phải có danh gì với núi sông” (chí sĩ Nguyễn Công Trứ – thi phẩm “Đi Thi Tự Vịnh”). Có danh nghĩa để hành động, hành động vì chính nghĩa, vì công lý, chứ không để đàn áp hoặc chèn ép người yếu thế hơn mình.

Làm người và sống ở đời, đó là một Hồng Ân lớn lao. Đức và Tài đều cần để thực hiện điều tốt lành cho tha nhân. Với Đức và Tài, người ta có thể trở thành quân tử hoặc tiểu nhân, tùy vào “vị trí” của chúng: “Đức hơn Tài là quân tử, Tài hơn Đức là tiểu nhân” (Khổng Tử). Một làn ranh rất mong manh giữa Đức và Tài. “Chữ Tài liền với chữ Tai một vần” (Nguyễn Du)!

Có nhiều loại đức cần phải trau giồi hằng ngày. Riêng người Công giáo lại càng phải trau giồi nhiều hơn. Về đối nhân có rất nhiều nhân đức (chân thành, hòa nhã, bình dị, hòa đồng, nghiêm túc, vui vẻ,…); về đối thần có ba nhân đức: đức tin, đức cậy và đức mến. Đức mến là đức ái, nói đơn giản là lòng yêu thương hoặc lòng thương xót. Đức mến luôn lớn lao và cần thiết, thậm chí quan trọng nhất, vì trên Nước Trời cũng vẫn còn đức mến – không còn đức tin và đức cậy nữa (x. 1 Cr 13:13).

Quả thật là như thế, cuộc đời này không có tình yêu thương thì cũng như cuộc sống không có ánh mặt trời. Vô tri bất mộ. Không biết thì không yêu mến, thậm chí còn có thể ghét, nhưng khi đã biết thì người ta cảm thấy yêu mến. Âu đó cũng là lẽ thường ở đời vậy! Tuy nhiên, trước khi BIẾT thì phải MUỐN BIẾT và TÌM HIỂU cho thấu đáo chứ đừng hời hợt hoặc “nửa vời”. Một khi đã biết rõ rồi thì sẽ nảy sinh lòng yêu mến, và có thể say đắm – si tình. Mà đã yêu mến tức là đã thực sự tin tưởng.

Đạo Chúa mệnh danh là “đạo yêu thương”. Không yêu thương thì đừng nói là theo Chúa. Thánh Phaolô dùng cách nói nặng: “Ai không yêu mến Chúa thì là đồ khốn kiếp!” (1 Cr 16:22). Nhưng mến Chúa thì phải yêu người, vì yêu người là thước đo lòng mến Chúa. Đó là hệ lụy tất yếu. Thánh Gioan phân tích: “Nếu ai nói ‘tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4:20). Về vấn đề này, Thánh Sibyllina Pavia “mở rộng” thêm: “Ai không yêu mến anh em thì không thể trở thành người anh dũng tử đạo”. Có tình yêu thì người ta có thể làm được mọi sự, bất kể nhỏ hay to, đúng như Thánh Augustinô nhận định: “Cứ yêu thật đi rồi muốn làm gì thì làm”. Chính Thánh Augustinô đã từng nuối tiếc: “Con yêu Chúa quá muộn màng, ôi vẻ đẹp rất xưa mà rất mới!” (Tự Thuật, số 10 & 27). Còn Mẹ Thánh Teresa Calcutta xác định: “Bạn không thể thấy Chúa Giêsu trong người nghèo nếu bạn không thấy Ngài trong Thánh Thể”. Ôi, chuỗi yêu thương quá đỗi kỳ diệu!

Vì yêu Chúa – và yêu Chúa qua tha nhân, người ta có thể làm được mọi thứ. Sách Công Vụ kể: “Ông Phi-líp-phê xuống một thành miền Sa-ma-ri và rao giảng Đức Kitô cho dân cư ở đó. Đám đông một lòng chú ý đến những điều ông Phi-líp-phê giảng, bởi được nghe đồn và được chứng kiến những dấu lạ ông làm” (Cv 8:5-6). Họ không chỉ “nghe đồn” mà còn “chứng kiến” các dấu lạ do Tông đồ Phi-líp-phê đã làm. Vì họ đã biết nên họ không thể làm ngơ, không thể không chú ý. Thật vậy, “các thần ô uế vừa kêu lớn tiếng vừa xuất khỏi nhiều người trong số những kẻ bị chúng ám, nhiều người tê bại và tàn tật được chữa lành. Trong thành, người ta rất vui mừng” (Cv 8:7-8).

Thời đó, các Tông đồ ở Giêrusalem nghe biết dân miền Samari đã đón nhận lời Thiên Chúa, các ông đã cử ông Phêrô và ông Gioan đến với họ. Khi đến nơi, hai ông cầu nguyện cho họ để họ nhận được Thánh Thần. Sách Công Vụ cho biết: “Vì Thánh Thần chưa ngự xuống một ai trong nhóm họ: họ mới chỉ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ hai ông đặt tay trên họ, và họ nhận được Thánh Thần” (Cv 8:16-17). Đó là Bí tích Thêm sức, loại bí tích làm cho chúng ta được lãnh nhận Chúa Thánh Thần viên mãn.

Xưa nay chúng ta vẫn quen với cách nói “bảy ơn Chúa Thánh Thần” – gồm các ơn: khôn ngoan, hiểu biết, lo liệu, sức mạnh, thông minh, đạo đức, và kính sợ Chúa. Tuy nhiên,, nên biết rằng đó là cách nói của Kinh Thánh, vì số 7 là con số kỳ diệu của Kinh Thánh, chứ Chúa Thánh Thần không chỉ “đóng khung” trong 7 ơn đó, mà bao gồm các ơn khác. Chúng ta thật hạnh phúc vì được biết Thiên Chúa, được yêu mến Ngài, và được lãnh nhận Chúa Thánh Thần: “Bình an cho anh em” (Lc 24:36; Ga 20:19; Ga 20:20; Ga 20:26).

Chắc chắn rằng không ai có thể trì hoãn cái sự sung sướng đó, dù chỉ một giây. Bởi vậy, Thánh Vịnh gia đã phải thốt lên: “Cả trái đất, hãy tung hô Thiên Chúa, đàn hát lên mừng Danh Thánh rạng ngời, nào dâng lời ca tụng tôn vinh!” (Tv 66:1-2). Tất cả chúng ta hòa chung niềm vui đó, và cũng hãy đồng tâm thân thưa với Thiên Chúa: “Vĩ đại thay, sự nghiệp của Ngài! Trước thần lực uy hùng, địch thù khúm núm. Toàn trái đất phải quỳ lạy tôn thờ, và đàn ca mừng Chúa, đàn ca mừng Thánh Danh. Đến mà xem công trình của Thiên Chúa: hành động của Người đối với phàm nhân thật đáng kinh đáng sợ!” (Tv 66:3-5). Thiên Chúa toàn năng, có Ngài thì người bình thường cũng trở nên phi thường, không có Ngài thì thiên tài cũng “bó tay”, như Chúa Giêsu đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).

Thiên Chúa hằng hữu và toàn năng, tạo thành mọi vật, cũng chính Ngài “làm cho biển khơi hoá đất liền và dân Người đi bộ qua sông, việc Người làm đó khiến ta hoan hỷ. Chúa uy dũng hiển trị muôn đời; đôi mắt Người theo dõi chư dân, quân làm phản chớ có hòng nổi dậy!” (Tv 66:6-7). Lịch sử đã và đang chứng tỏ như vậy, không một thần linh nào có thể làm được các vĩ công như Thiên Chúa của chúng ta.

Thực sự là một hồng ân lớn lao đối với chúng ta khi được biết Ngài, yêu mến Ngài và tôn thờ Ngài, tuyệt vời hơn nữa là Ngài đã yêu thương chúng ta trước (1 Ga 4:19) và yêu thương chúng ta đến cùng (Ga 13:1) – dù chúng ta chỉ là bọn bất lương, là lũ tội nhân khốn nạn. Chỉ là được hiện hữu trên đời này – dù chúng ta có thế nào – cũng đủ để chúng ta phải cảm tạ Ngài suốt cuộc đời mình. Không chỉ vậy, Chúa Cha còn vì thương xót kiếp khốn cùng của chúng ta mà Ngài đã bắt Con Một Yêu Dấu phải chết thay chúng ta, dù Người Con van xin nhưng Ngài vẫn “làm ngơ” chỉ vì Ngài muốn cứu độ chúng ta. Ơn cứu tử này quá lớn! Thật vậy, chính Ngài chọn chúng ta từ trước khi vũ trụ được tạo thành chứ không phải chúng ta chọn Ngài (Ep 1:4).

Phàm ngôn không thể diễn tả nổi. Thật vậy, Thiên Chúa của chúng ta còn hơn cả mức tuyệt vời: “Chúa ấp ủ, Chúa lo dưỡng dục, luôn giữ gìn, chẳng khác nào con ngươi mắt Chúa” (Đnl 32:10). Chính tình yêu thương đó đã được đóng ấn tín bằng “lời thề độc” này: “Kẻ nào động đến các ngươi là động đến con ngươi mắt Ta” (Dcr 2:12). Ôi, lạy Chúa tôi! Thực sự chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi, và cũng chẳng bao giờ hiểu được, vì Ngài yêu thương chúng ta tới cùng nên Ngài cũng bảo vệ chúng ta tới cùng! Vì thế, chúng ta phải mau mắn và hãnh diện chia sẻ niềm vui đó với người khác: “Xin chúc tụng Thiên Chúa đã chẳng bác lời thỉnh nguyện tôi dâng, lại cũng không dứt nghĩa đoạn tình” (Tv 66:20).

Được sống với và cùng chia sẻ vui buồn với Chúa Giêsu, ông Phêrô có kinh nghiệm đầy mình, thế nên ông chân thành nhắn nhủ chúng ta: “Đức Kitô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em. Nhưng phải trả lời cách hiền hoà và với sự kính trọng. Hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ báng anh em vì anh em ăn ở ngay thẳng trong Đức Kitô, chính họ phải xấu hổ vì những điều họ vu khống” (1 Pr 3:15-16). Tại sao phải giữ “thẳng” mà không thể du di “cong” một chút? Theo cách lý giải của ông Phêrô thì thế này: “Bởi lẽ thà chịu khổ vì làm việc lành, nếu đó là ý của Thiên Chúa, còn hơn là vì làm điều ác. Chính Đức Kitô đã chịu chết một lần vì tội lỗi – Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương – hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh” (1 Pr 3:17-18). Rất rõ ràng. Thật thẳng thắn. Và chính tình yêu mến đó đã được Chúa Thánh Thần tác động.

Phải nói rằng danh từ “chuỗi” hay thật đấy. Danh từ này nói lên sự liên kết nối tiếp không ngừng. Chính “chuỗi” tình yêu thương là “chuỗi” yêu mến, là “chuỗi” lòng thương xót, như Chúa Giêsu đã nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14:15). Từ hệ lụy đó lại có mối liên kết khác: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Ga 14:16-17).

Biết mình sắp phải rời thế gian và xa những người thân thiết, Chúa Giêsu đã hứa: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em” (Ga 14:18). Và Ngài nói thẳng luôn: “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống. Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em” (Ga 14:18-20). Ôi chao, “răng mà khó hiểu rứa hỉ”. Ngài nói thẳng thắn và “toạc móng heo” mà vẫn khó hiểu ghê đi! Thế nhưng không phải vậy, đó là Ngài muốn đưa chúng ta tới đức ái trọn vẹn, nhờ biết yêu mến mà chúng ta khả dĩ lãnh nhận Chúa Thánh Thần một cách viên mãn để đủ can đảm làm chứng về Thiên Chúa, Đấng Sự Thật.

Thiên Chúa là tình yêu, trước sau gì cũng là yêu thương. Chúa Giêsu dẫn chứng về “chuỗi” yêu mến: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14:21). Ngài tỏ mình cho mỗi người mỗi cách, mỗi người được nhận biết theo cách riêng, không ai giống ai, nhưng vẫn là MỘT Thiên-Chúa-Ba-Ngôi duy nhất mà thôi: “Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5).

Người-môn-đệ-được-Chúa-yêu định nghĩa ngắn gọn: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 và 16). Vì thế, ai yêu mến Ngài thì tuân giữ Luật Ngài, luật đó là Luật Yêu, và chắc chắn là yêu Chúa thì phải yêu người. Yêu Chúa không khó bằng yêu người, chỉ cần thực hành “chuỗi yêu” trong 1 Cr 13 thì cũng cảm thấy “toát mồ hôi hột” rồi, vì yêu không thể nói suông mà phải thể hiện bằng hành động, thể hiện qua từng động thái nhỏ. Vả lại, tha nhân là huynh đệ của chúng ta và là những người có Thiên Chúa trong lòng – ngay cả những người tự xưng là vô thần. Ai sống yêu mến thì mới được lãnh nhận Thần Khí Sự Thật của Thiên Chúa – đó là Thánh Linh, là Chúa Thánh Thần, là Đấng Kiến Tạo Hòa Bình.

Kinh Thánh Cựu Ước cho biết rằng, khi Thiên Chúa tuyển chọn Bơ-xan-ên, con của U-ri, con của Khua, thuộc chi tộc Giuđa, Ngài đã hứa với ông Môsê: “Ta sẽ ban cho nó dồi dào Thần Khí của Thiên Chúa để nó thành người khéo tay, giỏi giang và lành nghề mà làm mọi công việc, để nó nghĩ ra những tác phẩm nghệ thuật làm bằng vàng, bạc hay đồng, mài ngọc đính áo, chạm gỗ và thực hiện mọi công việc” (Xh 31:3-5). Điều gì Thiên Chúa đã hứa thì chắc chắn không bao giờ sai. Ước gì mỗi chúng ta cũng được lãnh nhận Thần Khí Chúa để làm vinh danh Chúa bằng chính khả năng riêng mà chúng ta đã được lãnh nhận từ Ngài. Nhưng có một điều quan trọng: Đừng quên rằng chúng ta luôn phải “hết dạ tri ân” (Cl 3:15).

Con người sai lầm nên dễ ảo tưởng, thế nên rất cần ơn phân định thần khí để không tin lầm. Thánh Gioan nhắn nhủ: “Anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian” (1 Ga 4:1). Chúa Thánh Thần là Thần Khí Yêu Thương, là Đấng Ngôi Ba nhiệm xuất từ tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con. Hãy cầu xin Ngài, hãy cầu nguyện liên lỉ và không ngừng!

Lạy Thiên Chúa Tình Yêu, xin không ngừng đốt lửa yêu mến trong con để con có thể yêu mến Ngài và chỉ yêu mến Ngài như Ngài hằng mong muốn. Xin ban cho con Thần Khí Yêu Thương để con sống trọn đức ái theo Lòng Thương Xót của Ngài, và xin ban Thần Khí Sự Thật để con thực hiện mọi lệnh truyền theo công lý của Ngài. Xin giúp con biết đại lượng với tha nhân, nhất là những người hèn mọn, vì họ là những người được tạo dựng theo hình ảnh Ngài, bình đẳng với con và cũng được hưởng Giá Máu cứu độ của Đức Giêsu Kitô, Đấng hằng sinh và hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn đời. Amen.

Về mục lục

.

THÁNH THẦN – ĐẤNG BẢO TRỢ

JM. Lam Thy

Bài Tin Mừng hôm nay (CN VI/PS – Ga 14, 15-21) nối tiếp bài Tin Mừng CN V/PS (Ga 14, 1-14). Ở bài Tin Mừng Chúa nhật trước, Đức Giê-su Ki-tô tiên báo Người sẽ trở về cùng Chúa Cha và căn dặn các môn đệ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14, 1-3). Các môn đệ (tiêu biểu là Tô-ma và Phi-lip-phê) vẫn tỏ ra rất hoang mang, lo sợ, không hiểu Thầy về cùng Chúa Cha là như thế nào, bằng con đường nào và nhất là Thầy có còn trở lại với các môn đệ nữa hay không? Đó cũng là tâm lý thông thường của người đời. Và cũng vì thế nên Đức Ki-tô phải trấn an: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi.” (Ga 14, 15-16).

Trong những Lời dạy của Đức Ki-tô, Người luôn luôn nói đến Người là Mục tử nhân lành chăn dắt và bảo vệ đoàn chiên, đồng thời Người còn là “cửa chuồng chiên” để đón nhận, nuôi dưỡng và bảo vệ những con chiên trong ràn chiên của Thiên Chúa. Đón nhận, nuôi dưỡng, chăn dắt và bảo vệ thì chính Người là Đấng Bảo Trợ (bảo vệ, trợ giúp) của đoàn chiên. Vì thế, nay Người phải trở về cùng Chúa Cha, nên Người mới hứa là “sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”. Điều kiện để có được “Đấng Bảo Trợ khác”, ấy là: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14, 15); và chỉ “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14, 21). Nói cách cụ thể, Chúa muốn các môn đệ thể hiện đức tin của mình (yêu Chúa) bằng hành động (tuân giữ các điều răn Chúa dạy). Rõ ràng có một mối liên hệ chặt chẽ giữa lòng yêu mến Chúa và sự tuân giữ các điều răn của Người: Nếu yêu thì sẽ tuân giữ ⇒ Có tuân giữ mới thực là yêu.

Vậy thì các điều răn Chúa dạy là gì? Và giữ các điều răn ấy thế nào để chứng tỏ là mình yêu Chúa thực sự? Các điều răn Chúa dạy thì nhiều lắm, nhưng chung quy chì là một “Điều răn trọng nhất: Mến Chúa yêu người”. Có một thắc mắc như một vấn nạn luôn ám ảnh con người nhưng chẳng ai dám nói ra, đó là: Con yêu Chúa vì Chúa yêu con đến độ hy sinh cả mạng sống mình, nhưng con yêu người thì chẳng hiểu người có yêu con không? Và cũng chính vì thế nên thế giới này không lúc nào yên. Khổ một nỗi là các nhà lãnh đạo quốc gia lúc nào cũng mạnh miệng cổ võ hoà bình trong khi ngòi nổ chiến tranh vẫn âm ỉ ngay tại quốc gia mình. Các nhà đấu tranh chính trị cũng luôn luôn nhân danh hoà bình và công lý để đấu tranh đòi công lý hoà bình bằng bom đạn, bằng những vũ khí giết người tối tân. Rồi thì khủng bố, tàn sát xảy ra nhan nhản khắp nơi cũng nhân danh công lý hoà bình!

Biết rõ được tâm lý con người hay thắc mắc như vậy và khi nói yêu Chúa thì rất mạnh miệng, nhưng nói đến yêu người thì lại ngập ngừng… hãy đợi đấy (!), nên Đức Ki-tô mới dạy: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”, mà điều răn của Thầy là: “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12), cũng bởi vì “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13). Và cái hệ luận tất yếu phải là: Nếu yêu Chúa thì sẽ tuân giữ điều răn của Chúa ⇒ Có tuân giữ điều răn của Chúa mới thực là yêu Chúa hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực. Chỉ có như thế mới có hy vọng Đấng Bảo Trợ khác sẽ đến thanh tẩy và ban hồng ân cùng dũng khí, bởi Người chính là Ðấng Bào Chữa, Ðấng An Ủi, Thần Chân Lý – Người chính là nguồn hồng ân sự sống, sự thật, sự hiệp nhất yêu thương, là Chúa Thánh Thần vậy. Tất cả quy về một điểm chung nhất: Tình Yêu Thiên Chúa.

Thánh sử Gio-an khẳng định: “Thiên Chúa là tình yêu, và hễ ai ở trong tình yêu thì ở trong Chúa, và Chúa ở trong người ấy. Căn cứ vào điều này mà tình yêu đã nên hoàn hảo với chúng ta: đó là chúng ta được mạnh dạn trong ngày phán xét, vì Đức Giê-su thế nào thì chúng ta cũng như vậy ở thế gian này.” (1Ga 4, 16-17). Đó chính là trọng tâm của đức tin Ki-tô Giáo: Hình ảnh con người và con đường của họ khơi nguồn từ hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu. Cái chết khổ nhục của Đức Giê-su Ki-tô trên thập giá là tột đỉnh của Tình Yêu Thiên Chúa, trong đó, Người trao ban chính mình để nâng con người dậy và cứu rỗi họ. Đây là tình yêu ở dạng thức cao nhất. Khi chiêm niệm cạnh sườn bị lưỡi đòng đâm thâu của Chúa Ki-tô, người Ki-tô hữu khám phá ra con đường theo đó cuộc sống và tình yêu của mình phải dõi bước theo: CON ĐƯỜNG GIÊ-SU.

Nói đến Tình Yêu là nói đến trao và nhận. Thiên Chúa Cha trao ban cho con người biết bao ân huệ là vì yêu thương, nhất là khi Người ban chính Con Một là Chúa Giê-su làm giá chuộc muôn người khỏi tội lỗi và sự chết đời đời. Giờ đây đến lượt Đức Giê-su Thiên Chúa hứa ban Chúa Thánh Thần là ân huệ mà “thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết” (Ga 14, 17). Vậy thì người Ki-tô hữu đã nhận và nhận rất nhiều Tình Yêu vô lượng của Thiên Chúa, lẽ nào không biết đáp trả ân tình cao vời khôn ví đó? Mà cách đáp trả duy nhất chỉ có thể là “yêu Chúa hết lòng hết linh hồn hết trí khôn” bằng cách “tuân giữ các điều răn Chúa dạy: Mến Chúa yêu người”.

Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu “Deus Caritas Est” (số 18) đã phân giải tỏ tường: “Tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu tha nhân vì thế là không thể tách rời, chúng hình thành một giới răn duy nhất. Nhưng cả hai sống từ tình yêu của Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước. Nó không còn là vấn đề một “lệnh truyền” áp đặt từ bên ngoài và đòi hỏi một điều bất khả thi nữa, nhưng là một kinh nghiệm yêu đương, tự do cho đi từ bên trong, một tình yêu tự bản chất cần phải được chia sẻ với những người khác. Tình yêu triển nở qua tình yêu. Tình yêu là “thần thánh” vì nó đến từ Thiên Chúa và kết hiệp chúng ta với Thiên Chúa; qua tiến trình hiệp nhất này tình yêu biến chúng ta thành một “chúng tôi”, vượt qua sự chia rẽ của chúng ta và làm cho chúng ta nên một, cho đến khi Thiên Chúa là “tất cả trong mọi sự” (1Cr 15, 28).”

Đức Thánh Cha Phan-xi-cô cũng dạy: “Trong mọi tình huống của con người, ghi dấu bởi sự mong manh, bởi tội lỗi và cái chết, Tin Mừng không chỉ đơn giản là một ngôn từ, nhưng là một chứng từ yêu thương vô điều kiện và tín trung: đó là ra khỏi chính mình để đến gặp gỡ người khác, gần gũi với người bị cuộc sống làm thương tổn, là chia sẻ với người túng thiếu, là ở bên những ai đau yếu, già cả hay bị loại trừ… “Hãy đến và xem!”: Tình yêu thì mạnh hơn, tình yêu làm cho hy vọng nở hoa nơi sa mạc.” (Sứ điệp Phục Sinh Urbi et Orbi 2014). Rõ ràng bao trùm lên tất cả là Tình Yêu, là “tất cả trong mọi sự” đều quy hướng về Thiên Chúa Tình Yêu.

Chính vì Tình Yêu nên Ba Ngôi đã hiệp nhất nên Một Thiên Chúa, đó là mầu nhiệm Ba Ngôi cực thánh. Một Chúa Ba Ngôi đã thể hiện rõ ràng trong Ngôi Lời nhập thể ở tất cả những hoạt động cũng như lời giảng dạy của Người. Điều đó cho thấy Chúa Thánh Thần vẫn luôn luôn hiệp cùng Chúa Cha ở trong Chúa Con vậy. Ngay từ trong Cựu Ước, Chúa Thánh Thần đã là “Lời và Hơi Thở của Thiên Chúa là nguồn gốc của sự hiện hữu và sự sống mọi thụ tạo.” (Tv 33, 6; 104, 30; St 1, 2; 2, 7; Gv 3, 20-21; Xh 37, 10). Sang đến Tân Ước thì Đức Ki-tô luôn dạy dỗ môn đệ về Thần Khí Sự Thật. Không những chỉ là Lời giảng dạy, mà chính Đức Giê-su cũng chịu sự tác động mãnh liệt của Thần Khi (khi Người sinh ra tại hang đá Bê-lem, khi Người chịu phép rửa trên sông Gio-đan, khi Người được Thàn Khí dẫn vào hoang địa để chịu quỷ cám dỗ, khi Người biến hình trên núi Ta-bo, khi cầu nguyện kể cả khi Người tử nạn trên Gôn-gô-tha).

Đó là lý do cho thấy Giáo hội đã tuyên xưng Đấng Bảo Trợ mà Đức Giê-su Ki-tô hứa ban bằng 8 biểu tượng: Nước, Lửa, Xức Dầu, Áng Mây và Ánh Sang, Ấn Tín, Bàn Tay, Ngón tay, Chim Bồ Câu (Giáo Lý HTCG, số 694-701). Tất cả 8 biểu tượng đều thể hiện rõ rệt Tình Yêu Thiên Chúa. Trong ánh sáng Phục Sinh huy hoàng, người Ki-tô hữu hãy cầu xin Đấng Phục Sinh ban ngọn Lửa Mến để sưởi ấm tâm hồn, soi tỏ đường đi, và nhất là hun đúc dũng khí để tiến bước trên đường thực thi sứ vụ “đem Tình Yêu đến cho mọi người, ở mọi nơi, trong mọi lúc”. Hãy tin tưởng và cầu nguyện, vì “Dù bị tội lỗi và cái chết làm biến dạng, con người vẫn “là hình ảnh Thiên Chúa”, là hình ảnh Chúa Con, nhưng “bị tước mất Vinh Quang Thiên Chúa” (Rm 3, 23), không còn “giống Thiên Chúa”. Lời hứa với Áp-ra-ham khai mạc nhiệm cục cứu độ cuối nhiệm cục này, chính Chúa Con sẽ đảm nhận “hình ảnh” (Ga 1, 14; Pl 2, 7) và tái tạo lại nét “giống” Chúa Cha bằng cách hoàn trả cho con người Vinh Quang là Thánh Thần “ban sự sống”. (Giáo lý HTCG, số 705).

Nói tóm lại, Đấng Bảo Trợ mà Đức Giê-su hứa sẽ xin Chúa Cha ban cho các môn đệ chính là Chúa Thánh Thần – ngọn Lửa Mến luôn thắp sáng niềm tin, sưởi ấm tâm hồn, hun đúc dũng khí người Ki-tô hữu trên hành trình thi hành sứ vụ (thực hành các điều răn của Thầy Chí Thánh). Hãy cầu xin với chính Đấng Phục Sinh hằng sẵn sàng ban cho môn đệ: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20, 22), để được Chúa Cha ban Đấng Bảo Trợ đến thanh tẩy tâm hồn, soi sáng trí khôn, canh tân đời sống, gia tăng Lửa Mến, hiệp nhất muôn lòng.

Lạy Chúa! Xưa Chúa đã phán: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến.” (Ga 16, 13). Cúi xin Chúa thương ban Thần Khí soi sáng cho chúng con hiểu được “sự thật toàn vẹn” về Đức Thánh Linh. Ôi! Lạy Chúa Thánh Thần! Xin thắp sáng trong lòng chúng con chứng từ yêu thương vô điều kiện và trung tín – là ngọn Lửa Mến – để chúng con vượt qua “cái tôi vị kỷ”, ra khỏi chính mình mà đến với anh em chúng con, nhất là những người nghèo khó, cô đơn, bệnh tật, già yếu, đặc biệt là những người bị xã hội bỏ rơi trong hoàn cảnh ngặt nghèo. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.

Về mục lục

.

HỨA BAN THÁNH THẦN

P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn trang Tin Mừng hôm nay ( Ga 14, 15 -21) cho chúng ta một “ Chúc Thư “ tiếp theo của Chúa Giêsu, trong phần “ Chúc Thư “ nầy, có thể nói là phần hay nhất, tâm huyết nhất của Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ của Người, từ Gioan chương 14 -17. Ba chương liên tiếp, ghi lại những  “Lời Chúc Thư” của Chúa Giêsu để lại cho các Tông Đồ.

Theo đó, có thể nói trong Đoạn Lời Chúa hôm nay ( Ga 14 , 15 -21) cho chúng ta ba ý chính:

  • Thứ nhất : Điều kiện để được yêu mến Chúa Giêsu .
  • Thứ hai : Hứa ban Thánh Thần
  • Thứ ba : Mạc khải ( Mặc khải ) sự hiệp thông trong Ba Ngôi Thiên Chúa với những ai được kết hợp với Chúa Giêsu.

Như vậy, Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một sự mạc khải trọn vẹn, một niềm tin vững chắc, vì phàm nhân được chính Thiên Chúa cho kết hợp vì tình Ngài yêu thương con người một cách kỳ lạ, được Chúa Giêsu tỏ cho biết.

Vâng, triển khai Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một chiều kích tâm linh sâu sắc, bởi vì không có tình yêu nào chân thật, chân chính, vạn đại cho bằng  “điều “mà  được Thiên Chúa yêu thương, được gọi là “ tình yêu”. Vâng, tình yêu là đề tài muôn thuở, mà phàm nhân không thể đón nhận trọn vẹn tại bất cứ nơi đâu , nếu như Thiên Chúa không trao ban. Vậy, Thiên Chúa đã trao ban một tình yêu duy nhất là Đức Kitô –Giêsu, Con Một thiên Chúa.

Theo đó, điều mà Chúa Giêsu “tâm huyết” cho các môn đệ của Người trong đó có chúng ta là một sự mạc khải trọn vẹn tình yêu duy nhất và vô biên bởi Thiên Chúa là Cha toàn năng, trong tình yêu ấy có một sự hiệp nhất kỳ diệu, siêu nhiên, mầu nhiệm đó là Thiên Chúa Ba Ngôi.

Ba Ngôi Thiên Chúa là Đấng trở nên tự có duy nhất , hằng hữu, vô biên, toàn năng để sinh ra muôn vật trong đó có con người là loài được mang hình ảnh Thiên Chúa ( có hữu hình).

Từ sự vô biên thông ban cho loài thụ tạo một sự ưu ái đặc biệt, mà ta gọi là tình yêu. Tình yêu vô biên không chiếm hữu như tình yêu xác thịt , mà là thông truyền sự sống, thông ban yếu tố Thần linh. Nên chi, theo đó, Lời Chúa là một trong những sự “thông ban“đó. Như vậy, từ câu 16, chính Chúa Giêsu nói : “ Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác, đến ở với an hem luôn mãi” ( c 16).

Vậy ,  “Đấng Bảo Trợ” khác sẽ ở cùng các môn đệ luôn mãi, chính là “Chúa Thánh Thần “. Như vậy, khi Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình nữa, có nghĩa là nơi trần thế , Người đã hoàn tất mầu nhiệm cứu chuộc, thì Chúa Thánh Thần sẽ hiện diện cách cụ thể để điều khiển con thuyền Hội Thánh. Như vậy, ý nghĩa trên không còn xa lạ gì với người Kitô hữu nữa. Bởi vì, xuất phát từ câu Lời Chúa ( Ga 14, 16). Theo đó, đặc điểm Chúa Thánh Thần đến với những ai tìn vào Đức Kitô, và nhờ đó, những ai chưa tin vào Đức Kitô, thì Chúa Thánh Thần chính là “Người nhạc trưởng” sẽ hướng dẫn họ trở thành chứng nhân Tin Mừng Nước Trời.

Vâng, yếu tố kỳ lạ nầy, trải qua bao thế hệ, Lời Hứa ban Thánh Thần của Chúa Giêsu hôm nay cho chúng ta một niềm xác tín vững chắc. Đó là gương các thánh, các ngài không tự mình làm được, nhưng , qua Lời của Chúa Giêsu, các ngài biết “đón nhận “ Chúa Thánh Thần, để Ngài hun đúc tâm can hầu trở nên khí cụ bình an của Chúa. Vâng , điều kiện để yêu mến Chúa Giêsu là tuân giữ các điều răn của Người, nhưng, nếu chúng ta không được ban Chúa Thánh Thần, mặc nhiên, chúng ta khó tuân giữ. Vì , Chúa Thánh Thần hun đúc và làm nên những điều lạ lùng, trải qua lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy có biết bao điều kỳ diệu mà nhân thế không thể làm được, nhưng những người để cho Thánh Thần hướng dẫn có thể làm được mọi sự lạ lung, mà quen gọi là ”thánh”.

Vâng, gần đây nhất, ngay tại Việt Nam nầy, có một vị linh mục vừa qua đời vào ngày 10/05/2017, đó là cha Augustino Nguyễn Viết Chung, một cựu phật tử, có học vị là bác sĩ. Người đã cống hiến cuộc đời còn lại của mình để tìm gặp Chúa và đã gặp được Người ở tuổi 39, sau đó tiếp tục dấn thân vào con đường tu trì, để tiếp tục phục vụ Thiên Chúa qua người nghèo 23 năm và trong Thiên Chức linh mục 14 năm. Vừa kết thúc cuộc hành trình 62 năm tại dương thế. Cuộc đời cha Chung có thể nói là một cuộc đời được chính Chúa Thánh Thần viết lên một hành trình để treo gương , vì những nhân đức có thể nói “anh hùng” của cha là do chính Chúa Thánh Thần tác động. Một luồng gió tự nhiên thổi vào tâm hồn một chàng “sinh viên phật tử”, làm cho nó bùng phát lên một “ngọn lửa siêu nhiên” rực cháy trong linh hồn của một con người muốn bước theo Đức Kitô, để rồi sau đó, muốn dâng hiến trọn vẹn hơn trong đời sống thánh hiến. Và rồi trong hành trình “ngắn ngủi” của đời thánh hiến, cha Chung lại như bị” thiêu đốt” trọn vẹn để trở nên một tông đồ của Chúa Thánh Thần, cuối cùng phần thân xác được trở nên “tro bụi” đích thực . Như vậy, có thể nói, nếu như có “một luồng gió” khác của Chúa Thánh Thần, cha Chung có thể được tuyên thánh, vì cuộc đời cha như một vị thánh. Vâng, theo đó, thánh là những người được “Lửa Thánh Thần “ hun đúc. Mong thay !

Vâng, Lời Chúa hôm nay, chính là Chúa Giêsu muốn “tiết lộ” trọn vẹn sự thông hiệp cho tất cả những ai bước theo Người một chân lý hiệp thông trong Ba Ngôi Thiên Chúa.

Lạy Thiên Chúa, Đấng đã ban Thánh Tử Giêsu cho nhân thế, để Người đến thế gian bày tỏ mầu nhiệm chân lý là Ba Ngôi Thiên Chúa, trong sự hiệp thông Thần Tính cao siêu ấy, Người tỏ cho thế gian biết và cho những ai “TIN” vào Người được hiệp thông trọn vẹn. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị trong sự hiệp nhất Ba Ngôi./. Amen.

Về mục lục

.

NẾU CON

Anna Cỏ May

Làn gió nhẹ lướt nhẹ qua khe cửa sổ. Tiếng ai đó vang lên: “Nếu con nghe lời mẹ thì con đâu bị thi rớt”. Một lời nói chua chát, trách móc của người mẹ về đứa con không chịu vâng lời mẹ. Cô bé thì nhận lấy kết quả không mong muốn. Và từ “nếu” chúng ta còn hay dùng trong giao tiếp, lúc nhờ một ai giúp mình hay một câu nói vui với nhau…

Bài Tin Mừng hôm nay, lời của Chúa Giêsu cho các môn đệ sự ấm áp, thân thiện. Ngài nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”(x. Ga 14,15). Ngài dùng từ ngữ quen thuộc để nói với các môn đệ về sự yêu mến và tình yêu. Ngài diễn tả tình yêu tự do, không có chút trách móc. Một lời nói âu yếm và ẩn sâu sự khao khát của Ngài nơi các môn đệ. Sự khao khát ấy cũng không áp đặt các môn đệ mà cho các ông hoàn toàn tự do lựa chọn và quyết định về tình yêu. Khi chúng ta yêu một ai thì chúng ta luôn lắng nghe và làm theo những lời người mình yêu. Vì thế, Chúa Giêsu nói như vậy cũng để đánh vào tâm lý và thức tỉnh tình yêu trong tâm hồn các môn đệ.

Bầu khí trầm lặng, cõi lòng lâng lâng, các môn đệ chìm đắm trong lời của Chúa Giêsu. Ngài tiếp tục nói về tình yêu, một tình yêu bắt nguồn từ hai phía là chính Ngài và các môn đệ. Tình yêu của Ngài là hy sinh trên thập giá. Tình yêu với lời hứa ban Đấng Bảo Trợ. Ngài cũng không để các môn đệ mồ côi mà luôn ở giữa và ở trong các môn đệ. Đó là một tình yêu luôn tỏ mình ra cho người yêu thấy mọi sự. Tình yêu là từ bỏ và cho đi để người yêu được hạnh phúc. Tình yêu không có giới hạn cũng không có gì ngăn cản được và một tình yêu, yêu hết tất cả. Tình yêu có sự liên kết trong Ba Ngôi Thiên Chúa.

Đối với các môn đệ, Ngài chỉ mong các ông: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy”(x. Ga 14, 21). Cũng lời nói này, Ngài cho các môn đệ biết Ngài sẽ dựa vào điều Ngài nói để xác định ai là kẻ yêu mến Ngài thực sự. Khi các môn đệ thực sự yêu mến Ngài thì các ông sẽ được gia tăng tình yêu của Chúa Cha và được nhìn thấy tất cả mọi sự nơi Ngài.

Ngày hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta nghe để cùng với Giáo Hội thực hiện các điều răn Chúa trao ban cho chúng ta. Những điều răn ấy là điều nào? Mỗi chúng ta hãy nhớ lại và đi tìm cho mình. Bởi vì có đi tìm thì tình yêu của chúng ta đối với Chúa mới thật sự xứng đáng. Tình yêu sẽ sinh động và bền vững nếu chúng ta thực hành các điều răn ấy.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết rõ phận chúng con yêu đuối và chóng quên. Chúng con thích đi tìm và giữ những điều ở thế gian, mà lãng quên các điều răn của Ngài. Xin cho chúng con gia tăng lòng yêu mến, biết tìm kiếm các điều răn của Chúa, gạt bỏ những lo lắng xao xuyến sự đời để chuyên chăm thực thi ý Chúa. Nhờ đó, chúng con được chìm đắm trong tình yêu của Chúa. Amen

Về mục lục

.

ANH CÒN NỢ EM

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Có một bài hát rất nổi tiếng về tình yêu. Đó là bài “Anh còn nợ em”. Bài hát với cung nhạc thật ray rứt như diễn tả tâm hồn ai đó đang vướng bận nợ nần với người mình thương.

“Anh còn nợ em, công viên ghế đá,”
“Công viên ghế đá, lá đổ chiều êm.
Và còn nợ em dòng xưa bến cũ
Dòng xưa bến cũ, con sông êm đềm.”

Ghế đá công viên hay dòng xưa bến cũ chỉ là nơi chốn, thế mà lại là món nợ của tình yêu. Tâm trạng chàng trai dường như đang ray rứt vì đã để lỡ những cuộc hẹn và có khi những hình ảnh thân thương ấy đã vào dĩ vãng khiến chàng trai bần thần, nhớ nhung.
Nhưng theo Kinh Thánh, nợ tình yêu là lẽ thường tình. Ai cũng cần có nhu cầu yêu. Ai cũng có một trái tim để yêu. Nhưng tình yêu thì chẳng bao giờ cùng khiến con người luôn mắc nợ tình yêu vì yêu chưa trọn.
Vì yêu chưa trọn nên vẫn ray rứt về những lần mình chưa làm tròn bổn phận tình yêu. Con tim vẫn bồi hồi về những việc đáng lý phải làm mà mình vẫn chưa làm :

 “Anh còn nợ em, chim về núi nhạn
Trời mờ mưa đêm, trời mờ mưa đêm
Anh còn nợ em nụ hôn vội vàng
nụ hôn vội vàng nắng chói qua song.”

 Xem ra anh chàng rất si tình. Không trả được nợ thì lòng hối hận, mặc cảm tội lỗi vì mình vẫn thiếu một cuộc tình. Anh đã xem tình yêu là bổn phận đến nỗi không chu toàn thì được xem là tội, là nợ của nhau.

 “Anh còn nợ em Con tim bối rối
   Con tim bối rối Anh còn nợ em
Và còn nợ em Cuộc tình đã lỡ..

   Cuộc tình đã lỡ Anh còn nợ em…”

Cái nợ đã trở thành tội khi để lỡ một cuộc tình. Chàng trai sẽ ray rứt mãi vì đã để ai đó đang sầu muộn vì trông mong, thương nhớ người thương. Cái nợ đã trở thành tội khi cuộc tình đã lỡ khiến gặp nhau mà con tim bối rối thẹn thùng, vì phụ bạc lẫn nhau.

Xem ra cuộc tình nào cũng nợ nhau thôi. Càng yêu càng nợ nhau. Nhiều người lầm tưởng rằng kết hôn là hết nợ nhau, là đã làm xong nhiệm vụ rồi có quyền xao nhãng, bỏ rơi nhau. Nhưng đúng ra, kết hôn là ký kết nợ tình của nhau. Họ phải trả nợ nhau suốt đời. Họ phải dành tình yêu cho nhau khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan. Họ phải nợ ân nghĩa vợ chồng cho đến khi tóc bạc răng nong.

Thiên Chúa luôn yêu thế gian. Vì yêu mà Ngài đã dám dốc cạn cuộc đời qua hiến tế trên thập giá. Ngài còn gánh nợ cho thế gian khi chịu chết để đền tội cho thế gian. Ngài đã hy sinh cả tính mạng mình để đem lại hạnh phúc cho người mình yêu. Tình yêu của Ngài không ray rứt vì cuộc tình đã lỡ mà luôn canh cánh bên lòng sự quan tâm, lo lắng, xót thương con người. Ngài tự nguyện nợ tình yêu con người đến nỗi đã yêu là yêu cho đến cùng.

Hôm nay Ngài còn ký một giao ước nợ ân tình với con người qua Đấng bảo trợ mà Ngài sẽ ban để ở cùng chúng ta luôn mãi. Đấng bảo trở ấy sẽ ủi an, nâng đỡ, che chở con người trước mọi khó khăn thử thách. Đấng ấy sẽ an ủi khi chúng ta gặp u buồn. Ngài sẽ soi sáng khi chúng ta gặp bước gian nan. Ngài sẽ ban sức mạnh khi chúng ta cần sức mạnh để vượt qua cám dỗ tội lỗi và làm lại cuộc đời. Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết để chúng ta hoàn thành sứ mạng cuộc đời như một tôi tớ trung tín và khôn ngoan, vì Chúa đã hứa rằng: “Ơn Ta đủ cho con và quyền năng Ta hiển trị nơi sự yếu hèn của con”.

Nguyện xin Chúa Kytô Phục sinh luôn đồng hành với chúng ta và chúc lành cho cuộc đời chúng ta được bình an để chúng ta mãi trung thành với Chúa. Ước gì các đôi vợ chồng cũng đừng để cuộc tình đã lỡ mới nói nợ nhau. Xin hãy vì tình yêu mà quan tâm nâng đỡ nhau và vì ân nghĩa mà trung thủy với nhau trọn đời. Đó là cách mà chúng ta không nợ nhau trong tâm trạng ray rứt, mà là niềm vui vì tự nguyện gánh nợ cho nhau khi dâng hiến cuộc đời mang lại hạnh phúc cho nhau. Amen.

Về mục lục

.

LỜI CHÚA CĂN DẶN

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Khi xa nhau, người ta thường quyến luyến, bịn rịn. Con cái phải xa nhà đi học đi làm, vợ chồng phải xa nhau vì công việc. Lời nhắn nhủ của cha mẹ thường là: con hãy ngoan ngoãn, giữ lời cha mẹ chỉ bảo, cố gắng học hành, nỗ lực làm việc để có một tương lai tốt đẹp, đừng làm mất mặt, chớ phụ lòng hy vọng của cha mẹ nghe con! Vợ chồng sẽ có những lời dặn dò tâm huyết: hãy trung thành và nhớ tới nhau luôn…Khi yêu ai, mến thương ai, người ta luôn lưu giữ những hình ảnh, kỷ niệm và lời nói thân thương của người ấy.

Chúa Giêsu cũng vậy, trước khi về cùng Chúa Cha, Ngài đã căn dặn, khuyên nhủ các môn đệ nhiều lần. Ngài nói hết tâm tình, hết con tim của mình và muốn các môn sinh lưu giữ trong tâm hồn những lời tâm huyết này: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12); “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy“ (Ga 14,15); “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14,21).

1. “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”

Người Kitô hữu là người có Đức Kitô nhờ theo Ngài và yêu mến Ngài. Ai không yêu mến Ngài, không theo Ngài, thì không có Ngài, nên họ không phải là Kitô hữu đích thực. Khi yêu mến Ngài, chúng ta sống trong Ngài: “Anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em”. Người ta chỉ sống trong nhau vì nhau cho nhau khi người ta yêu thương nhau thật sự. Vì thế, chúng ta chỉ sống trong Đức Kitô và được Đức Kitô sống trong ta khi yêu mến Ngài. Yêu mến là giữ lời Ngài “Nếu các con giữ lệnh truyền của Ta thì các con sẽ lưu lại trong lòng mến của Ta” (Ga 15,10).

Nhưng làm sao yêu mến Ngài được khi mà ta không hề thấy Ngài cách hữu hình, không nghe Ngài nói trực tiếp, không động chạm đến Ngài? Chúa cho chúng ta một tiêu chuẩn để dựa vào đó mà biết mình có yêu Ngài hay không: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”. Điều răn của Chúa là gì? Chúa xác định rõ ràng điều răn cốt yếu: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 12,34). Chúa cũng xác định luôn cả mức độ yêu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Như vậy, câu nói “nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” có nghĩa là “nếu anh em yêu mến Thầy, thì anh em phải yêu thương nhau”. Ai yêu thương những người lân cận hay những người chung quanh mình mới là người thật sự yêu mến Thiên Chúa. Nói cách khác, ai không yêu những người gần gũi mình, những người mình gặp gỡ hằng ngày, người ấy không thật sự yêu mến Thiên Chúa. Thánh Gioan đã diễn giải điều này: “Nếu ai nói ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).

2. “Anh em có lòng yêu thương nhau”

Chúa Giêsu còn đưa ra một tiêu chuẩn để nhận ra ai là môn đệ đích thật của Ngài: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 12,35). Tiêu chuẩn này dựa trên tình yêu của người ấy đối với đồng loại, cụ thể là những người gần gũi sống chung quanh họ. Tình yêu cụ thể đối với tha nhân là tính chất đặc trưng nhất của những người theo Chúa Giêsu. Hễ thấy ai có đặc trưng ấy, ta biết người ấy là môn đệ Chúa Giêsu. Ai không có đặc trưng ấy, thì dù có mang danh là môn đệ Ngài, họ cũng chỉ là môn đệ “hữu danh vô thực”, giả hiệu mà thôi. Tình yêu thật sự, tình yêu chân thành thì cần phải có hy sinh, cần có quên mình. “Tình yêu mà không có hy sinh là tình yêu giả. Hy sinh mà không có tình yêu là hy sinh thừa” (ĐGM.Bùi Tuần).

Thánh Gioan sau khi nghiền ngẫm cả cuộc đời về những lời giảng dạy của Thầy Chí Thánh đã nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu Chúa Giêsu Kitô, là kết hiệp với Ngài, là sống sự sống của Ngài.Tình yêu đó là một tình yêu sáng suốt của lý trí. Tình yêu đó là một tình yêu với những việc làm cụ thể. Việc làm cụ thể đó là tuân giữ những điều Chúa Giêsu truyền dạy, là yêu thương nhau.

Từ nay để gặp gỡ Chúa, để yêu mến Chúa, để sống với Chúa, cần phải có đức tin và tình yêu. Tin và Yêu là hai cánh cửa mở vào sự sống thần linh. Tin và Yêu không chỉ cho ta nhìn thấy Chúa, gặp gỡ Chúa mà còn cho ta được tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống đó là hiệp thông, như Chúa Cha ở trong Chúa Con và như Chúa Con ở trong Chúa Cha, ta sẽ được ở trong sự sống mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi và thật kỳ diệu, Ba Ngôi đến ở trong ta như lời Chúa Giêsu nói : “Ngày đó, anh em sẽ biết Thầy ở trong Cha Thầy, Thầy ở trong anh em và anh em ở trong Thầy. Ai có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ cho người ấy biết Thầy”.

3. Gương sáng sống Lời Chúa

Những người yêu mến Chúa là những người biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành.

Trong truyện thánh Tử đạo Martinô Thọ có chép: “Ông Thọ là người rất đạo đức. Vì được tín nhiệm, ông làm việc thu thuế trong một thời gian rồi xin nghỉ vì thấy có nhiều cheo leo khó công minh luôn mãi được. Ông khuyên các con cứ đúng luật Chúa mà làm chứ đừng phạm tội vì muốn đẹp lòng người khác…. Ông làm việc rất siêng năng và cũng rất rộng rãi với người nghèo khó: không bao giờ ông để họ ra về mà không cho của gì ăn. Nếu con cái đi vắng, ông mời người ăn xin cùng ngồi ăn cơm chung, nếu con cái ở nhà, ông bắt chúng xẻ cơm cho họ”. Thánh Martinô Thọ đã tuân giữ giới răn Chúa dạy là mến Chúa yêu người, sống công bằng bác ái. Thánh nhân là người yêu mến Chúa thật sự và xứng đáng được Chúa trọng thưởng hạnh phúc đời đời. Chỉ tình yêu biết trao đi, mới đem lại niềm vui chân thật và lâu bền.

Những ngày qua, các trang web Công Giáo viết nhiều về gương sáng của vị Linh mục “Một bác sĩ Phật tử trở thành Linh mục vì người nghèo, bệnh nhân phong-sida, đã về với Chúa”. Thánh lễ an táng cha Augustinô Nguyễn Viết Chung thuộc Dòng Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn (CM) ngày 13/5/2017, tại nhà thờ giáo xứ Phát Diệm, Sài gòn.

Khi lên 18 tuổi, nhân đọc một bài báo kể về cái chết của Ðức Cha Jean Cassaigne tại trại phong Di linh, cậu Chung cảm thấy cuộc sống đó quá tốt đẹp. Ðức Cha Jean Cassaigne trở thành thần tượng của chàng trai trẻ. Từ đó cậu Chung có ý nguyện học làm bác sĩ để phục vụ bệnh nhân phong như lòng khát khao. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình Phật giáo và là một bác sĩ chuyên khoa Da liễu. Nhờ tin vào Đức Kitô nên vị bác sĩ đã theo Chúa và trở thành linh mục của Chúa vào ngày lễ truyền tin 25.3.2003. Sau ngày lãnh tác vụ linh mục, ngài dấn thân truyền giáo, phục vụ người nghèo, bệnh nhân phong. Vị mục tử không chỉ nặng mà nhiễm cả mùi chiên, máu chiên vào trong người. Nơi thân xác gầy guộc của ngài lại ẩn chứa sức mạnh ơn thánh và một tấm lòng nhân ái bao la. Ngài yêu mến Chúa nơi những con người đau khổ và yêu thương họ như yêu mến Chúa.

Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy! Hãy tuân giữ các lệnh truyền của Thầy! Lệnh truyền lớn nhất là yêu thương như Thầy đã yêu. Chúng ta sẽ nếm được thứ niềm vui khôn tả của thiên quốc ngay trong cuộc sống ở đời này.

Lạy Chúa, con nhận ra một cách rất hữu hiệu để được Chúa yêu mến là con tuân giữ giới răn yêu thương của Chúa. Xin cho con xác tín rằng tình yêu của con đối với Chúa phải được thể hiện ra bằng việc yêu thương tha nhân, cụ thể là yêu những người trong gia đình con, những người cùng làm việc với con trong xí nghiệp công ty, những người hàng xóm, những bạn bè con gặp gỡ hằng ngày. Xin giúp con yêu họ cụ thể bằng sự quan tâm đến những niềm vui hay nỗi đau khổ của họ, đồng thời sẵn sàng hy sinh để giúp họ hạnh phúc hơn. Amen.

Về mục lục

.

YÊU MẾN VÀ GIỮ LỜI

L.m Giuse Hoàng Kim Toan

Tình yêu bao giờ ai cũng muốn không chỉ bằng lời mà còn là hành động, không chỉ là thể xác mà còn cả tâm hồn, không chỉ ở hiện tại chóng qua mà còn cả thời gian lâu dài, không chỉ là tinh thần mà còn cả chiều sâu linh hồn. Một tình yêu ước muốn nhưng cũng là một tình yêu đòi hỏi nhiều hy sinh chết đi nơi chính mình để thuộc về người yêu. Tình yêu như thế rất khó nên cần nhờ ơn Chúa mỗi ngày để hoàn thiện yêu thương, như Chúa dạy yêu mến và giữ Lời.

Với những suy tư của Thánh Augustine, xin được chia sẻ.

Tình yêu ban đầu.

Dạo đầu của tình yêu luôn là những khắc khoải, những ước muốn ở gần, được sẻ chia, được ngỏ lời yêu thương và được đáp lại lòng yêu thương ấy. Tình yêu khi đã được đáp lại, thưở ban đầu qua đi lại rất mau, dường như mỗi người đều muốn đi tìm sự hoàn hảo hơn ngoài người mình yêu. Đó là một khao khát nhưng cũng là một cám dỗ chết người.

Như cơn khát không bao giờ ngơi, con người tự nhiên cũng khát như thế trong mọi chiều kích. Thánh Augustine có một kinh nghiệm: “Chúa vốn ở trong con mà con lại ở ngoài con, và tìm Chúa ở bên ngoài.” Chính vì đi tìm bên ngoài Chúa nên tình yêu con người thường lầm lỗi và đôi khi không lối thoát, gặt hái nhiều đau khổ. Đời sống hôn nhân không còn mặn nồng như ngày đầu yêu nhau.

Cảm nghiệm về tình yêu.

Trong cuộc đời mỗi người, cảm nghiệm về tình yêu xuất phát từ tình bạn cũng cần thiết, bởi những tình bạn ấy cũng cần trong cả giai đoạn hôn nhân để cùng nhau tìm thấy những tình cảm tự nhiên mà trong sáng.

Thánh Augustine tự thuật về tình bạn đó: “”Có nhiều điều khác làm con say mê tâm tình bạn hữu như: chuyện trò cười đùa với nhau và tỏ tình hào hiệp cho nhau; cùng nhau đọc những trang sách hay; đùa giỡn với nhau, tôn trọng lẫn nhau; thỉnh thoảng bất đồng ý kiến với nhau, nhưng không cay cú như thường xảy ra, và chính sự bất đồng ý kiến rất họa hiếm đó càng làm nổi bật sự đồng tâm nhất trí thường xuyên với nhau; dạy bảo và học hỏi lẫn nhau, nhớ mong người vắng mặt, vui vẻ đón tiếp người mới trở về. Từ tâm hồn những kẻ yêu và được yêu lại, các dấu hiệu ấy và các dấu hiệu khác tương tự được biểu lộ qua miệng, lưỡi, con mắt và trăm ngàn cử chỉ rất nhã nhặn khác. Thật là như những ngọn lửa nung nấu tâm hồn làm cho nhiều người hoà hợp nên một” (Tự Thuật).

Tình yêu là sự chín dần.

Tình yêu và thời gian luôn cần song hành với nhau, bởi vì tình yêu cần chín dần trong việc “Yêu mến, hết lòng, hết sức, hết cả trí khôn. Như những trái cây tẩm thuốc để chín ép, chỉ có thể cung cấp cho thị trường, nhìn bắt mắt dễ bán, trao đổi; nhưng lại độc hại cho người sử dụng. Tình yêu không thể như thế, nên tình yêu cần có thời gian, để hiểu nhau hơn, đón nhận và sửa lỗi cho nhau hơn, hy sinh hơn, tha thứ hơn và để yêu thương hơn.

Một tình yêu chín dần, cần đến tình yêu của Chúa, mới có thể tiến xa hơn trong tình yêu nhân loại. Thánh Augustine cầu nguyện với Chúa: ““Xin ban Chúa cho con, lạy Chúa, xin trả Chúa lại cho con. Này con yêu mến Chúa, nếu còn ít, thì chớ gì con yêu mến Chúa nhiều hơn. Con không thể đo lường cho biết tình yêu của con còn thiếu cái gì cho đầy đủ, để đời sống con chạy ôm lấy Chúa, cho đến khi con được ẩn nấp trong mầu nhiệm của nhan thánh Chúa.”

Ngọt ngào của tình yêu.

Vị ngọt của tình yêu khi đã đủ chín mùi, đó là một cảm nghiệm sâu xa trong tình yêu nhân loại: “Sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian”. Con người vẫn yêu, yêu một cách say đắm mà không đi vào chỗ chết người, yêu một cách mặn nồng mà không vồn vã.

Một tình yêu êm đềm như thánh Augustine diễn tả: ““Con yêu cái gì khi con yêu Ngài? Không phải là vẻ đẹp của thân xác, không phải là nét duyên dáng theo thời gian, không phải là sự rực rỡ của ánh sáng đáng yêu cho đôi mắt này; không phải là những giai điệu ngọt ngào của các bài ca có cung giọng trầm bổng; không phải là mùi êm dịu của hương hoa, của thuốc thơm; không phải là manna và mật ong; không phải là những chi thể dễ chịu cho ôm ấp thân xác. Con không yêu tất cả những điều này khi con yêu Thiên Chúa của con. Tuy nhiên khi yêu Chúa, con cũng yêu một ánh sáng, một âm điệu, một mùi hương, một của ăn và một sự ôm ấp trong tình yêu của Chúa …” (Tự Thuật X,6,8)

Tình yêu và giữ Lời

Chính vì tình yêu với Chúa là cùng đích của mọi tình yêu nhân loại, tình yêu đó cần được nuôi dưỡng bằng chính Lời của Chúa. Lời dẫn dắt, Lời chữa lành, Lời khuyến khích, an ủi, Lời ban sức sống. Con người tự mình dẫu biết nhưng vẫn khó giữ Lời của Chúa, nên cần cầu nguyện với Chúa luôn để không ngã lòng.

Thánh Augustine nói: “Hãy yêu mến đi rồi làm gì thì làm”. Chính trong lòng yêu mến này mà Thánh Augustine luôn cầu nguyện: “Chúa đã soi sáng, đã chiếu rọi, đã xua đuổi sự mù lòa của con. Chúa đã tỏa mùi hương của Chúa ra và con đã được hít lấy và đâm ra say mê Chúa. Con đã được nếm Chúa và đâm ra đói khát Chúa; Chúa đã đụng tới con và con ước ao sự bình an của Chúa.”  (Tự Thuật)

Xin cho con luôn khao khát và yêu mến Chúa, khi con yêu mến Chúa con sẽ được kéo theo làm tất cả vì lòng yêu mên Chúa. Con sẽ có những tình bạn tốt đẹp, đời sống đôi bạn của nhiều người sẽ thấy niềm vui, hạnh phúc. Con yêu mến Chúa và yêu mến tất cả những gì Chúa ban.

Về mục lục

.

TÌNH YÊU ĐÍCH THẬT VÀ TÌNH YÊU GIẢ DỐI

Lm. Inhaxiô Trần Ngà 

Muốn xác minh vàng thật hay giả, người ta thường lấy lửa thử vàng. Người ta dùng mỏ đốt của máy khò để phun tia lửa có nhiệt độ cao hơn 1.000 độ vào thỏi vàng. Nếu vàng nóng chảy thành chất lỏng và khi để nguội nó trở lại thành vàng như cũ, thì đó là vàng thật; còn nếu trong quá trình đốt, vàng nóng chảy và bay hơi đi mất thì đó là vàng giả.

Phép thử tình yêu

Những chàng trai, cô gái khôn ngoan không chọn bạn đời cách hấp tấp vội vàng vì sợ chọn lầm người. Các bạn biết cân nhắc xem người mà mình đang nhắm đến, có thật sự yêu thương mình bằng tình yêu chân thật hay chỉ là thứ tình cảm giả dối nhằm trục lợi mà thôi.

Bởi vì một cô gái dễ dàng chấp thuận kết hôn với một chàng trai chỉ vì anh này giàu có; hoặc chàng trai thích lập gia đình với cô gái chỉ vì cha mẹ cô này có địa vị cao trong xã hội và có thể giúp chàng tiến thân… vì thế, trước khi chọn bạn trăm năm, người khôn ngoan phải dùng một phép thử, tức là tìm cách nào đó để xác định xem người mà mình nhắm đến, có thật sự yêu thương mình bằng tình yêu chân thật hay chỉ vì tiền bạc, địa vị, công danh…

Thế là người khôn ngoan biết căn cứ vào một số yếu tố nào đó để biết ai là kẻ yêu thương mình thực sự.

Yếu tố để nhận ra ai thực sự yêu mến Thiên Chúa

Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cho biết Ngài căn cứ vào một yếu tố duy nhất để xác định ai là kẻ yêu mến Ngài thực sự, đó là người thực hành giới răn của Ngài.  

Chúa nói: “Ai vâng giữ các điều răn của Thầy, thì người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14, 21).

Như thế, ai không tuân giữ giới răn Chúa thì bị xem là người chẳng có lòng yêu mến Chúa.

Ngoài ra, những ai tự cho là mình yêu mến Thiên Chúa mà không thể hiện tình yêu ấy bằng cách tuân giữ giới răn của Chúa, thì đó là thứ tình yêu vô bổ, vì người đó chẳng được vào Nước Trời, như lời Chúa Giê-su nói: “Không phải kẻ nói với Ta: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời, nhưng chỉ có những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy… mới được vào mà thôi” (Mt 7, 21).

Phần thưởng dành cho người yêu mến Thiên Chúa

Những ai có lòng mến Chúa được thể hiện qua việc tuân giữ các giới răn Chúa, chủ yếu là luật yêu thương, sẽ được lãnh nhận những hồng phúc vô giá.

Hồng phúc thứ nhất là được Thiên Chúa yêu thương: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14, 21).

Hồng phúc thứ hai là tâm hồn họ trở nên cung điện của ba Ngôi Thiên Chúa, được ba Ngôi Thiên Chúa luôn “ở lại” với mình, như lời Chúa dạy: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” Ga 14, 23).

Và hồng phúc thứ ba là được hưởng hạnh phúc thiên đàng. Trong ngày phán xét, Chúa Giê-su sẽ long trọng ban thưởng hạnh phúc thiên đàng cho người người đó, như lời Ngài phán:

“Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước. Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm… (Mt 25, 34-35).

Lạy Chúa Giê-su,

Thể hiện lòng yêu mến Chúa bằng cách giữ luật yêu thương là điều kiện cần thiết và không thể thiếu để chúng con được Chúa yêu thương, được Chúa ở cùng trong suốt đời này và được hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên quốc.

Xin cho chúng con biết thể hiện lòng yêu mến Chúa bằng cách giữ cho tròn luật yêu thương Chúa dạy để đáng hưởng những phần thưởng vô cùng lớn lao không gì sánh được mà Chúa đã hứa ban.

Về mục lục

.

HIỆP NHẤT TRONG TÌNH YÊU

AM. Trần Bình An

Là cháu nội của Picasso, bà Marina được thừa hưởng 1/5 tài sản của nhà danh họa vào năm 20 tuổi, bao gồm 10.000 trong số 500.000 tác phẩm nghệ thuật đắt giá cùng căn biệt thự nổi tiếng La Californie ở Pháp.

Nhưng cho tới nay, khi đã ở vào tuổi 64, người phụ nữ này vẫn chưa hết ấm ức về những ngày thơ ấu nghèo túng, bị ông nội hắt hủi. Sự oán giận và nỗi khắc khoải đó được khắc họa ít nhiều trong cuốn hồi ký Picasso: Ông nội của tôi xuất bản năm 2001. Trong sách, bà Marina viết ông mình luôn lạnh lùng và xa cách, “khiến những người ở gần phải rơi vào tình cảnh khốn khổ, tuyệt vọng.”

Marina kể rằng bà thậm chí chẳng có tấm hình nào chụp chung với ông nội và chưa bao giờ được chạm vào tác phẩm nào của ông cho tới khi nhận thừa kế. Cha của bà, ông Paulo, là người con đầu tiên mà danh họa Picasso có trong cuộc hôn nhân ngắn ngủi với vũ công ba lê người Nga Olga Khokholova. Gia đình đổ vỡ, Marina và người anh trai Pablito lớn lên trong túng quẫn cùng người mẹ nghiện rượu. “Tôi ít khi thấy cha và tôi không có ông nội” – bà cay đắng.

Sự oán giận đối với ông nội càng gay gắt hơn khi bà Jacqueline Roque, người vợ thứ hai của Picasso, nhất quyết không cho Pablito tới dự lễ tang của đại danh họa vào năm 1973. Chỉ vài ngày sau, Pablito uống thuốc tẩy tự sát. Khi qua đời ở tuổi 91, Picasso không để lại di chúc, dẫn tới một cuộc tranh chấp tài sản căng thẳng trong gia đình. Marina Picasso bất ngờ có tên trong danh sách thừa kế hợp pháp.

“Mọi người nói rằng tôi nên cảm kích. Và tôi thực sự cảm kích nhưng đó là sự thừa kế lạnh lùng chẳng có chút yêu thương.” Bà Marina day dứt. Trong rất nhiều năm sau đó, Marina vẫn úp tranh của ông nội vào tường vì đối với bà, chúng là “những ký ức vô cùng đau buồn.”

Mang nỗi u uất lớn nhưng người phụ nữ gai góc này đã dành cả cuộc đời để thắp lên hy vọng cho những trẻ em thiệt thòi, cũng như những số phận bất hạnh trên thế giới. Bà có 5 người con, trong đó 3 người được nhận nuôi từ Việt Nam. Trên mảnh đất hình chữ S này, bà còn hỗ trợ kinh phí xây dựng một số phòng khám tại Sàigòn, nâng cấp một trại trẻ mồ côi ở quận Gò Vấp, đồng thời xây dựng một trại dưỡng lão…

Ước tính, số tiền thu được từ lần bán tranh sắp tới của bà Marina lên tới 290 triệu USD (hơn 6.000 tỉ đồng) và sẽ tiếp tục đổ vào các hoạt động từ thiện do bà khởi xướng từ hơn 40 năm trước, trong đó có dự án hỗ trợ bệnh viện nhi ở Việt Nam, chăm sóc người già và trẻ em thiệt thòi ở Pháp, Thụy Điển… (Việt Lâm, Thể thao & Văn hóa, Cháu gái Picasso và những ký ức buồn về ông nội )

Hoạ sĩ danh tài Pablo Picasso hoàn toàn không để lại tình yêu cho những người thừa kế, mà chỉ để lại những tác phẩm giá trị và những chua cay, đau khổ. Nay người cháu Marina Picasso muốn sửa chữa lại, biến lòng oán giận thành tình yêu, chia sẻ, bác ái những người bất hạnh. Còn hơn 2000 năm trước, Đức Giêsu để lại cho nhân loại niềm hạnh phúc viên mãn với Tình Yêu, những lời bảo chứng Tình Yêu bền bỉ, cụ thể và viên mãn, qua sự hiệp nhất với Ba Ngôi dành cho những ai tin yêu và tuân giữ Tin Mừng.

Hiệp nhất với Đức Chúa Thánh Thần

“Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy. Và Thầy sẽ xin Cha, và Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi.” Ai tin yêu Đức Giêsu, thì đón nhận, nghe theo và thực hành Tin Mừng, sẽ được Người ban Đức Chúa Thánh Thần đến hộ phù. Bởi vì: “Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an… Ai không có Thần Khí của Ðức Kitô, thì không thuộc về Ðức Kitô.” (Rm 8, 6 & 9)

Hơn nữa:“Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.”(Rm 8, 11)

Hiệp nhất với Đức Chúa Cha

Trong ngày đó, các con sẽ hiểu biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con.”  Khi môn đệ Philipphê xin được thấy Đức Chúa Cha, Đức Giêsu trả lời: “Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ưCác lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Ðấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình.”(Ga 10, 10)

Trả lời cho người Do Thái cho rằng Người lộng ngôn, Đức Giêsu công khai xác nhận:  Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc đó, để các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha.” (Ga 10, 37-38)

Hiệp nhất với Đức Giêsu

“Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy.” Yêu Chúa là hiệp nhất với Đức Giêsu, vì đón nhận và thực hành Lời Chúa một cách trung thành và bền vững, mặc bao khó khăn, bao thách đố, bao chống đối của thế gian.

Vì theo Chúa, dĩ nhiên bị thế gian tẩy chay, ganh ghét và trừ khử: “Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian yêu thích cái gì thuộc về nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em.” (Ga 15, 19)

Như vậy, những ai lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa, Tin Mừng là được hồng phúc kết hiệp chặt chẽ với Ba Ngôi Thiên Chúa. Luôn có Chúa trong mình là hạnh phúc tuyệt đỉnh, viên mãn, vô biên.

“Chúa Ba Ngôi ở trong con, con trở nên đền thờ Chúa, con cũng là của lễ toàn thiêu, con là lời ngợi khen không ngừng, con là đóa hoa muôn sắc dâng lên Chúa.”(Đường Hy Vọng, số 244)

Lạy Chúa Giêsu, khi chúng con nghe và thực hành Tin Mừng là chúng con vinh dự trở nên đền thờ Ba Ngôi Thiên Chúa. Kính xin Chúa cho chúng con xứng đáng cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Chúa luôn.

Khấn xin Mẹ Maria cầu bầu, giúp đỡ, biến đổi cung lòng chúng con trở nên khiêm hạ, vâng phục trong sạch và tin yêu, để có thể kính trọng đón rước Chúa Ba Ngôi đến ngự trị luôn mãi. Amen.

Về mục lục

.

VỮNG LÒNG TIN YÊU

Lm. Jos. DĐH.

Trong tình yêu đôi lứa, người ta luôn trân trọng cụm từ thủy chung, vì để chúng vụt mất, một là cuộc tình sẽ gẫy đổ, hai là mối tình của họ, có như không. Trong quan hệ bạn bè, người ta chỉ có thể gắn kết chặt chẽ với nhau bằng những kinh nghiệm thực tế, được chia sẻ, giúp đỡ nhau tận tình. Cuộc sống phức tạp đâu phải chỉ vì lợi nhuận kinh tế, ngoài tình yêu, tình bạn, còn cả một chuỗi dài những ngờ vực, hiểu chưa đúng về nhau. Kẻ có tiền, người có quyền, các đấng bậc đức độ, có uy tín, các cha mẹ bề trên, luôn chi phối, dù mục tiêu là hạnh phúc, gia đình thuận hòa, ai cũng mong đủ điều kiện chu toàn việc bổn phận được giao. Vợ chồng tin tưởng nhau, anh chị em bạn bè hiểu nhau, nghĩ tốt cho nhau, cha mẹ con cháu biết duy trì tình yêu thương, thầy trò tận tâm chia sẻ giúp nhau, hẳn ai cũng mơ ước cuộc sống của mình có được điều tốt đẹp đó.

Chúa Giêsu hôm nay, Ngài không lấy quyền để áp đặt, sai khiến các học trò, Ngài không lấy đời sống đạo đức nhằm dụ dỗ các ông liều mình xả thân để được gọi là anh hùng cứu nước cứu dân tộc. Danh ngôn cuộc sống chỉ rằng: cho tiền cho bạc không bằng chỉ đàng đi buôn. Cho cá thì phải cho cả cần câu, nếu thực hành được như thế, người nhận, người cho đều thấy sự gần gũi chân thật hết tình, hết mình vì yêu thương. Chúa Giêsu không có ý biến các học trò trở nên những thương gia, cũng chẳng chủ trương nhắn bảo: có thực mới vực được đạo, Ngài cần một điều nơi các ông: “nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ lời Thầy”. Yêu mến là nỗ lực nhằm giúp người ta không cảm thấy mình bị côi cút, tâm hồn phấn chấn hơn, nhờ tự tin mà người ta đủ ý thức mình không phải lẻ bóng đơn côi.

Trong tình nghĩa thầy trò, Chúa Giêsu quả quyết Đấng Phù Trợ là Thần Chân Lý sẽ hiện diện, giúp các ông chu toàn sứ mạng được giao phó, chỉ cần các ông vững lòng tin yêu, sống lời mời gọi của Thầy Giêsu. Tục ngữ có câu: dốt đến đâu, học lâu cũng biết, Chúa Giêsu thì hướng các học trò đến niềm tin và sức mạnh của tình yêu, hoàn toàn không phải do kiên nhẫn hay sức riêng. Các môn đệ giới hạn đủ mọi mặt, tương quan giữa tình thầy trò, tình anh em còn nhiều thiếu sót, giáo huấn của Đức Giêsu các ông chưa hiểu, chưa thể nắm bắt ! Những người học trò ấy, hôm nay lại nghe nói tới sự hiện diện của Thần Chân Lý, khi đặt để các học trò trong tương quan yêu mến, Chúa Giêsu nói: “nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy tuân giữ giới răn của Thầy”. Nếu không yêu, không sống giới luật yêu thương, họ cũng chỉ nghe như vịt nghe sấm mà thôi.

Kinh nghiệm người xưa nói rằng: mất tiền, mất của, không mất, nhưng mất niềm tin, là mất tất cả. Chính sự kết hiệp nên Một trong tình yêu giữa Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, làm nên điều kỳ diệu “chảy tràn” tới các học trò lòng yêu mến, biết tuân giữ giáo huấn của Thầy Giêsu. Ngày hôm nay, người ta đang bằng nhiều phương thế để lập kỷ lục, để được gọi là đẳng cấp, họ cũng nhận ra, vinh quang và danh dự chỉ đến được với người không mất niềm tin, biết tôn trọng kỷ luật bản thân và qui tắc sống. Tất cả mọi danh hiệu, tất cả những gì tồn tại nơi cuộc sống, sẽ không phải là chức tước, bổng lộc, mà chính là niềm tin, dấu chỉ của bình an hạnh phúc.

Người môn đệ của Đức Giêsu hôm nay khi nói tới sự hiện của tình yêu, chúng ta vẫn hiểu đó là tác động của Thánh Thần, là ơn ban của các Bí tích, là mẫu mực của tình cha nghĩa mẹ… Ở trong Đức Giêsu, Ngài sẽ nói “hãy vững lòng tin yêu”, để rồi mọi người hiểu rằng: “Thầy ở trong Cha Thầy, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con”. Nhận biết Đức Giêsu vừa thiêng liêng vừa hữu hình, mỗi người phải trở nên môn đệ, trở nên người biết sống mến yêu, biết thực thi ơn gọi làm công dân Nước Trời. Để được yêu và chia sẻ yêu thương, người ta phải hiểu yêu là gì, Đấng ban phát cho ta tình yêu là ai, và cần có điều kiện nào để tình yêu Giêsu sẽ hiện diện mãi trong cuộc đời ta.

Nhiều người hôm nay cũng đang thắc mắc, tại sao yêu người anh chị em của mình khó quá, trong khi ghét bỏ và nói hành nói xấu, làm hại thanh danh của họ thì dễ hơn ! Thực ra khi ta tự mãn về khả năng hiểu biết của mình, về điều hay điều tốt của mình, lúc đó ta khó lòng nhận ra điểm tốt, nghĩa cử đáng yêu nơi anh chị em mình. Nghịch lý ấy, cha ông chúng ta cùng từng nói: khi yêu củ ấu cũng tròn, khi không yêu thì củ bồ hòn cũng méo. Làm sao ta đủ khiêm tốn để nhận ra sự giới hạn của mình ? ta cần trang bị cho mình những kiến thức gì để đủ nhận ra mọi người đang yêu thương ta ? Chúa Giêsu Ngài vẫn đang nói với chúng ta: “hãy vững lòng tin yêu”, tình yêu sẽ biến đổi được tâm tính của con người, chính tình yêu sẽ thay đổi cách suy nghĩ, và làm cho ta đủ khiêm tốn để đón nhận Thần Chân Lý, để sống giới luật yêu thương. Amen.

Về mục lục

.

ĐẤNG PHÙ TRỢ LÀ THÁNH THẦN CỦA THIÊN CHÚA

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Kinh nghiệm cuộc sống cho thấy, phía sau thành công của một người thường có biết bao sự trợ giúp của những người khác. Các nhà lãnh đạo chính trị hay tôn giáo cũng cần phải có một ban cố vấn trợ giúp các công việc phía sau. Nhiều nhà khoa học hoặc những người thành công, thành danh thì phía sau những thành công ấy là sự trợ giúp của một người bạn, hoặc của chính người vợ, vì mỗi người không thể tự mình làm được tất cả mọi sự.
Chúa Giêsu cũng thấy rằng, tự sức các tông đồ khi được trao một sứ mạng to lớn là làm thay đổi thế giới thì các ông sẽ không thể thực hiện được. Vì thế, trước khi chia tay với các tông đồ, Chúa Giêsu đã hứa sẽ xin với Chúa Cha để Ngài ban cho các tông đồ cũng là cho Giáo Hội một Đấng Bảo Trợ  là Thánh Thần. Đấng Bảo Trợ sẽ dẫn dắt Giáo Hội đi trên con đường của Chúa Giêsu và giúp cho Giáo Hội ngày càng lớn mạnh, vươn mình, tỏa bóng trên thế giới. Từ mười hai con người nhỏ bé tầm thường, nhờ sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần, các ông đã trở nên những con người thay đổi hoàn toàn bộ mặt thế giới này.
1/ Thánh Thần – Đấng Bảo Trợ, giúp các tông đồ và các tín hữu tuân giữ các giới răn của Chúa, tức là giúp họ trung thành với Tin Mừng: Nếu anh em yêu mến Thầy, thì sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin với Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác, để Ngài ở cùng anh em luôn mãi. Các tông đồ y thức mình được trao cho kho tàng Lời Chúa, vì thế, các ông đã gìn giữ nguyên vẹn, đã sống, đã rao giảng và trao truyền lại cho các thế hệ tín hữu.  Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ một sứ mạng hết sức lớn lao và cấp bách: Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Các tông đồ sẽ không thể chu toàn được sứ mạng này bằng sức riêng của mình, nhưng bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Chính các tông đồ ý thức được điều này, nên các ông đã vượt qua sự sợ hãi, vượt qua sự co cụm tại Giêrusalem để tỏa đi muôn nơi.
Đấng Bảo Trợ biến đổi và giúp các tông đồ dần dần hiểu, tin những giới răn và lời Chúa Giêsu dạy. Trước đây đi theo Chúa Giêsu, nghe những lời giảng dạy của Chúa, các tông đồ dường như chỉ để ngoài tai hoặc nghe một cách hờ hững, nên các ông chưa thể hiểu và cũng chưa tin đủ. Vì thế đã nhiều lần Chúa Giêsu khiển trách các ông về thái độ này. Trước đây theo Chúa Giêsu, các ông tìm kiếm danh vọng, địa vị xã hội, nay nhờ sức thúc đẩy của Đấng Bảo Trợ, các ông không còn quan tâm đến bản thân, gia đình hoặc lợi ích cá nhân nữa, nhưng dành trọn cuộc đời cho sứ mạng loan báo Tin Mừng. Trước đây, các ông ngại khó, ngại khổ, sống trong sợ hãi, nay các ông hân hoan đón nhận đau khổ, đòn vọt, tù đày vì Chúa Giêsu.
2/ Sách Công Vụ Tông Đồ đã cho thấy cách rõ ràng sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ cho Giáo Hội. Đoạn sách hôm nay kể về ông Phêrô, Philipphê và Gioan. Philipphê đến thành Samaria, một thành phố vốn bị coi như dân lai tạp về tôn giáo và chủng tộc. Samaria cũng được biết đến như một vùng thờ nhiều thần linh của dân ngoại, vậy mà khi Philipphê vừa tới đó rao giảng, Thánh Thần đã quy tụ họ, làm cho đám đông nên một lòng chú ý nghe những lời giảng của Philipphê. Bóng tối của sự chết, đau khổ, bệnh tật cùng các thần ô uế bị xua trừ, dân Samaria được biến đổi, họ vui mừng hân hoan đón nhận giáo lý mới từ các tông đồ. Nghe tin về sự biến đổi và đón nhận Tin Mừng của dân thành Samaria, Phêrô, với tính cách là thủ lãnh Giáo Hội, và Gioan đã đến với họ. Hai ông đã cầu nguyện, đặt tay trên họ để cho họ được lãnh nhận Thánh Thần. Điều đó cho thấy, Thánh Thần đã cư ngụ đầy tràn trên các tông đồ, và cho các ông quyền tiếp tục nhân danh Chúa Giêsu để trao ban Thánh Thần cho các tín hữu.
3/ Tất cả những lời nói, việc làm và đời sống của các tông đồ đã cho thấy Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ mà Chúa Giêsu đã hứa, nay đang hoạt động mạnh mẽ nơi các ông. Qua các tông đồ, Thánh Thần cũng được ban dồi dào trên các tín hữu và còn ghi một dấu ấn không phai mờ nơi tâm hồn các tín hữu, biến họ trở thành những người vĩnh viễn thuộc về Chúa Kitô.
Thánh Phêrô đã tin vào Chúa Giêsu, đã đón nhận được sức mạnh của Thánh Thần và đã dạy chúng ta: Đức Kitô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm Đấng ngự trị trong lòng anh em. Một khi có Chúa Kitô làm chủ cuộc đời, chúng ta sẽ không còn sợ hãi bất cứ điều gì, cũng không tìm kiếm điều gì khác ngoài Chúa Kitô. Thánh Phêrô đã có kinh nghiệm này và đã dạy chúng ta: Hãy trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm tin của anh em. Hãy cư xử hiền hòa và kính trọng với những người phỉ báng, vu khống, ghét bỏ mình; hãy giữ một lương tâm ngay thẳng trong mọi nơi mọi lúc. Đó cũng là những điều Thánh Phêrô nhân danh Chúa Kitô và dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần đã dạy chúng ta phải thực hiện.
a/ Hãy trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm tin của anh em. Những người tin vào Chúa Giêsu luôn bị người đời ghét bỏ, nghi kỵ, loại trừ, có những người tìm cách xuyên tạc đức tin và giáo lý của chúng ta. Hãy trả lời cho họ không chỉ bằng lời, mà còn bằng chính đời sống và việc làm của chúng ta. Người ta sẽ không thể tin chúng ta là những người Công giáo mà lại có một cuộc sống bê bối, gian tham lừa lọc; người ta không thể tin Hôn nhân Công Giáo là một vợ một chồng, thủy chung cho đến chết, khi những người Công giáo dễ dàng lừa chồng, dối vợ, để cho gia đình mình hoặc con cái bị rạn nứt, đổ vỡ, chia lìa. Chúng ta chỉ có thể trả lời cho những người chất vấn về niềm tin của chúng ta bằng lối sống yêu thương, bác ái, phục vụ.
b/ Cư xử hiền hòa và kính trọng với những người phỉ báng, vu khống. Theo phản ứng tự nhiên, con người dễ dàng nổi giận và phản ứng mạnh mẽ khi bị phỉ báng, vu khống ; nhiều người đã chọn giải pháp ăn miếng trả miếng, trả oán trả thù. Nhưng là những người thuộc về Đức Kitô và thuộc về Thánh Thần, chúng ta phải cư xử hiền hòa, nhân từ, độ lượng với mọi người, kể cả những người vu khống, làm tổn thương mình. Chúng ta được mời gọi sống quảng đại tha thứ và đón nhận người khác, kể cả những người không thích hoặc thù oán với chúng ta. Đồng thời, mỗi người còn phải biết nhìn lại mình và biến mình trở nên dễ thương dễ mến trong mắt người khác, kể cả trong mắt những kẻ thù ghét mình.
c/ Giữ lương tâm ngay thẳng trong mọi nơi mọi lúc. Trong hoàn cảnh xa hội suy thoái về đạo đức, tiếng lương tâm nơi nhiều người đã trở nên yếu ớt hoặc lệch lạc. Chúng ta được mời gọi phải sống và hành động theo tiếng nói của lương tâm và không ngừng huấn luyện lương tâm của mình cho đúng chuẩn. Hãy dùng việc suy niệm Lời Chúa để huấn luyện lương tâm của mình, để cho Tin Mừng cắt tỉa, uốn nắn những chỗ sai lầm, lệch lạc trong lương tâm và giúp cho lương tâm có một độ nhạy bén cần thiết. Chỉ khi thường xuyên được huấn luyện như thế, lương tâm mỗi người mới có đủ khả năng phản ứng theo sự thật và chân lý, mới có khả năng nhắc nhở và chỉ dẫn cho những hành động của con người.
4/  Đấng Bảo Trợ là Chúa Thánh Thần đã được ban cho mỗi người, chỉ có điều là chúng ta đã để cho Ngài hiện diện, hoạt động và tác động trong chúng ta ra sao mà thôi. Ngài không thay thế chúng ta, cũng không làm mất bản chất con người chúng ta, nhưng Ngài sẽ soi sáng, thúc đẩy và ban sức mạnh để chúng ta dám chọn sống theo giới răn lề luật của Thiên Chúa, sống và làm chứng cho sự thật của Tin Mừng. Đấng Bảo Trợ sẽ bảo vệ, hỗ trợ chúng ta khi chúng ta trung thành với ơn gọi làm Kitô hữu để mỗi ngày chúng ta được thanh luyện nên giống Chúa Kitô và là người mang Chúa Kitô trong cuộc sống.
Đức Maria, Đấng đã hoàn toàn xin vâng để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trên cuộc đời của Mẹ, xin Mẹ giúp chúng ta cũng biết noi gương Mẹ để cho Chúa Thánh Thần hoạt động và biến đổi chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH. NĂM A

Lm. Anthony Trung Thành

Vâng lời Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã xuống thế làm người để cứu độ nhân loại. Sau khi sống cuộc đời ẩn dật ở Nazareth, Ngài bắt đầu cuộc sống công khai. Sứ mạng chính của Ngài là rao giảng Tin mừng. Nhưng Ngài biết thời giờ của Ngài ở thế gian không còn được bao lâu, nên cùng lúc rao giảng Tin Mừng, Ngài đã tuyển chọn một số người mà Kinh thánh gọi là Tông đồ để trao cho họ sứ mạng của Ngài. Ngài quan tâm số người này một cách đặc biệt. Trước khi chọn họ, Ngài đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa (x. Lc 6,12-16). Sau những giờ rao giảng cho dân chúng, Ngài thường gặp riêng họ để dặn dò, hoặc giải thích thêm những điều mà họ chưa hiểu. Ngài còn dành thời gian để dạy cho họ về những bài học cao quý của người lãnh đạo, nhất là bài học về tinh thần phục vụ. Ngài nói: “Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mc 10,42-45).

Đặc biệt, trong bữa tiệc ly, Ngài không những “dạy” mà còn “làm gương” cho các ông bằng cử chỉ rửa chân. Sau khi thực hành điều đó, Ngài nói: “Anh em gọi Thầy là ‘Thầy’, là ‘Chúa’, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Ga 13,13-15).

Tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta biết, tuy Ngài sẽ về lại với Chúa Cha, nhưng “Ngài không để cho các ông mồ côi” (Ga 14,18). Thứ nhất, Ngài sẽ ban Đấng Phù Trợ đến. Đấng Phù Trợ đây là Thần Chân Lý, tức là Chúa Thánh Thần, là Thiên Chúa Ngôi Ba sẽ ở với các Tông đồ và Giáo Hội. Thứ hai, tuy Ngài sẽ về với Chúa Cha, không còn hiện diện thực sự như Ngài đã từng hiện diện với các ông trong suốt ba năm qua, nhưng Ngài sẽ ở với các ông, với Giáo Hội mỗi ngày cho đến tận thế bằng Lời của Ngài, bằng các Bí tích và bằng sự hiện diện một cách thiêng liêng. Điều này đã được chứng minh bằng những lần hiện ra sau khi Ngài phục sinh.

Nhưng Đức Giêsu đòi hỏi các Tông đồ là phải yêu mến Ngài. Cũng như trước khi trao sứ vụ Tông đồ trưởng cho Phêrô, Ngài đã muốn ông xác nhận về lòng yêu mến (x. Ga 21,15-19). Vì thế, lòng yêu mến hết sức quan trọng. Thánh Augustinô cũng đã từng nói: “cứ yêu rồi muốn làm gì thì làm”. Nhưng làm thế nào để chứng minh được lòng yêu mến? Đức Giêsu cho biết, lòng yêu mến được thể hiện qua việc thực hiện những lệnh truyền của Ngài, Ngài nói: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy”(Ga 14,15); “Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ yêu mến Thầy”(Ga 14,21).

Như vậy là đã rõ: Yêu mến Đức Giêsu là tuân giữ các luật của Ngài. Hay nói cách khác, kẻ giữ luật Đức Giêsu mới là kẻ yêu mến Ngài. Luật của Ngài là những giáo huấn được ghi lại trong Thánh Kinh và được lưu truyền qua Thánh truyền. Luật của Ngài được tóm lại trong mười điều răn là mến Chúa yêu người.

Các Tông đồ đã yêu mến Đức Giêsu một cách tuyệt đối và vô vị lợi. Bởi vì, các ông đã thực hiện trọn vẹn giới răn của Đức Giêsu. Vì lòng yêu mến Chúa vô vị lợi nên các Ngài đã phục vụ tha nhân hết mình và cuối cùng các Ngài đã lấy cái chết để làm chứng cho lòng yêu mến của các Ngài vào Đức Giêsu. Các bài đọc hôm nay chứng minh cho chúng ta phần nào.

Bài đọc 1, cho chúng ta thấy cách thức các Tông đồ và các thừa tác viên trong hội thánh sơ khai đã thực hiện giới răn của Đức Giêsu, đó là rao giảng, làm phép lạ, trừ quỷ, chữa lành bệnh tật. Sách Công Vụ tường thuật: “Trong những ngày ấy, Philipphê đi xuống một thành thuộc sứ Samaria, rao giảng Ðức Kitô cho họ. Dân chúng chú ý đến những lời Philipphê rao giảng, vì họ cũng nghe biết và xem thấy các phép lạ ngài làm. Quỷ ô uế đã ám nhiều người trong họ, lúc đó kêu lớn tiếng và xuất ra. Nhiều người bất toại và què quặt được chữa lành. Bởi đó cả thành được vui mừng khôn tả”(Cv 8,5-8). Đồng thời, các Tông đồ còn ban Bí tích Thêm sức cho họ: “Khi các Tông đồ ở Giêrusalem nghe tin Samaria đón nhận lời Thiên Chúa, liền gởi Phêrô và Gioan đến với họ. Khi đến nơi, hai ngài cầu nguyện cho họ được nhận lãnh Thánh Thần: vì chưa có ai trong họ được nhận lãnh Thánh Thần, họ mới chỉ được chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ các ngài đặt tay trên họ, và họ nhận lãnh Thánh Thần”(Cv 8,14-17).

Bài đọc II cũng cho chúng ta biết, sau khi thấm nhuần giáo huấn của Thầy Chí Thánh, Thánh Phêrô gửi thư dặn dò các kitô hữu hãy sống niềm tin của mình như thế nào? Đối với Thiên Chúa, Ngài dạy: “Anh em hãy tôn thờ Thiên Chúa trong lòng anh em” (x. 1Pr 3,15). Trước mặt những người lương dân: “hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời thoả mãn cho mọi kẻ hỏi lý do của niềm hy vọng nơi anh em, nhưng phải làm cách hiền từ, kính cẩn, hãy có lương tâm ngay chính, để những kẻ lăng mạ đời sống đạo đức của anh em trong Ðức Kitô, phải hổ thẹn về điều họ gièm pha anh em”(1Pr 3, 15-16). Rồi, Ngài còn nhấn mạnh: “Vì nếu Thiên Chúa muốn, thì thà làm việc thiện mà đau khổ còn hơn là làm điều gian ác”(1Pr 3, 17).

Đó là lòng yêu mến một cách vô vị lợi qua tinh thần giữ luật Chúa của các Tông đồ. Còn đối với mỗi người chúng ta thì sao?

Chúng ta có yêu mến Chúa và yêu tha nhân một cách vô vị lợi không? Hay nói cách khác, chúng ta có tuân giữ luật Chúa, một cách vô vị lợi không? Bởi vì, tình yêu vô vị lợi là tình yêu không so đo tính toán. Tình yêu vô vị lợi là tình yêu quảng đại, vị tha, cho đi, luôn muốn cho người mình yêu được hạnh phúc. Tình yêu vô vị lợi là tình yêu chỉ nghĩ đến Chúa đến tha nhân chứ không nghĩ đến mình. Tình yêu vô vị lợi là tình yêu đòi hỏi phải có sự hy sinh. Pierre l’Ermite đã nói: “Nếu biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất hy sinh vô vị lợi, đó là tình yêu thật.” Đó chính là tình yêu của Đức Giêsu dành cho nhân loại mà chóp đỉnh của tình yêu này là thí mạng sống cho nhân loại. Chính Ngài đã nói: “Không có tình yêu nào lớn bằng tình yêu của người chết cho người yêu” (Ga 15,13). Đó là tình yêu của Cha Maximiliên Kôlbê, chấp nhận chết thay cho người bạn tù vì anh ta còn vợ trẻ con thơ.

Hay chúng ta đang yêu mến Chúa, yêu thương tha nhân bằng một tình yêu vị lợi? Tức là tình yêu ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, tìm hạnh phúc cho mình chứ không nghĩ đến Chúa, đến tha nhân. Thậm chí có khi coi Chúa, coi tha nhân như là phương tiện để phục vụ cho mình. Thực tế, có rất nhiều người đi đạo nhưng không giữ đạo. Họ chỉ chạy đến với Chúa với Giáo Hội khi họ cần cho họ, như khi lãnh nhận bí tích hôn phối, khi đưa xác người thân đến nhà thờ. Có nhiều người nói yêu tha nhân nhưng thực sự chỉ để lợi dụng tha nhân khi cần, vì chưa bao giờ họ muốn cho tha nhân được hạnh phúc.

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa, vì trước khi về trời Chúa đã không để chúng con mồ côi nhưng đã ở lại với chúng con bằng nhiều thể nhiều cách. Xin cho chúng con luôn biết yêu mến Chúa bằng việc tuân giữ giới răn và thực hành lời của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

THẦY KHÔNG ĐỂ ANH EM MỒ CÔI

Lm. Gioan Nguyn Văn Ty

Thú thật nhiều khi lướt qua câu nói này của Đức Giê-su, tôi chỉ coi đó là một lời ví von văn vẻ của một ngưởi, vì biết rằng mình sắp phải ra đi vĩnh viễn nên nói thế để an ủi các môn đệ buồn phiền; thế nhưng toàn bộ mạch văn lại cho thấy Người không coi nhẹ vấn đề như thế, và ngôn từ ‘mồ côi’ Người sử dụng là có chủ đích và mang một nội dung hết sức sâu sắc. Câu nói ‘Thầy sẽ không để anh em mồ côi, Thầy đến cùng anh em!’ xác định trước hết tương quan bền chặt giữa Người với các môn đệ; nó hé mở cho thấy: sự phục sinh của Người sẽ chiến thắng cả sự chia cắt của chết chóc, rồi nữa nó còn cho thấy vai trò đích thực của nhân vật ‘Đấng Bảo Trợ’ sẽ được phái đến.

Thường thì một người được gọi là ‘mồ côi’ khi mất cha hay mất mẹ đẻ, mất những người thân máu mủ mà họ gắn bó lệ thuộc về mọi mặt trong cuộc sống tự nhiên của cuộc đời. Từ ngữ ‘mồ côi’ tự nó diễn tả một mất mát cực kỳ to lớn không gì có thể bù đắp được, cho dầu sau đó có thể sẽ xuất hiện những cha mẹ nuôi hay người đỡ đầu với những tương quan mật thiết và chặt chẽ không hề thua kém.

Đức Giê-su đã nhiều lần đề cập tới mối tương quan thân mật và bền chặt giữa Người với các môn đệ tin vào Người! Người đã từng sử dụng nhiều hình ảnh sống động và cụ thể để diễn tả mối tương quan này như: ‘Mục tử nhân lành hiến mạng sống mình vì đàn chiên’, ‘cành nho phải dính liền với thân cây nho’…; và trên hết Người sử dụng không úp mở hình ảnh của người cha, người mẹ đối với đứa con thơ. Như thế niềm tin Ki-tô hữu không chỉ dừng lại ở việc chấp nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa quyền năng, thậm chí ở việc sống và đem ra thực hành các học thuyết cao đẹp mà Đức Giê-su rao giảng. Niềm tin Ki-tô hữu phải ‘hiện sinh’ (existential faith) hơn nhiều vì nó tác động tới sự hiện hữu sâu xa nhất của con người! Nơi người tín hữu: niềm tin đặt nơi Thiên Chúa phải chiếm vị trí mà cha mẹ đẻ chiếm trong cuộc sống đời thường. Vai trò của Người phải thiết yếu tới độ, nếu thiếu nó, ta sẽ lâm vào tình cảnh của một đứa trẻ mồ côi đáng thương không gì khỏa lấp được. Thực vậy, loài người nói chung và từng con người nói riêng đã thực sự lâm vào tình cảnh côi cút do tội lỗi họ phạm. Họ bơ vơ vất vưởng còn hơn cả ‘bầy chiên không người chăn dắt’, Đức Giê-su đã diễn tả như vậy (Mt 9:36).

Khi đến trần gian, Đức Giê-su đã rao truyền một sứ điệp thực sự độc đáo và căn bản: Thiên Chúa là Cha, một Người Cha đầy từ tâm và hay thương xót! Và không chỉ rao truyền bằng lời giảng dạy, bằng chính cuộc sống và nhất là cái chết của mình, Người đã cụ thể cho thấy Chúa Cha đó là ai và là gì: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14:9). Đứng trước tình cảnh côi cút vất vưởng bơ vơ của con người, Đức Giê-su đã trở thành người bảo trợ – ‘Paraclet’. Các nhà chú giải Kinh Thánh cho biết, từ Hy Lạp ‘Parakletos’là một đặc ngữ của Gio-an, và mang nội dung rất đa dạng; nó có thể được hiểu là người hỗ trợ, kẻ bảo vệ chở che, vị cố vấn trạng sư, đấng bầu chữa trung gian…; tóm lại, Đức Giê-su dùng từ này để diễn đạt vai trò của Người đối với từng người chúng ta trong thân phận côi cút do tội lỗi gây nên: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi, Thầy đến cùng anh em”. Như thế Đức Ki-tô chính là đệ nhất Parakletos, và Người thực hiện chức năng này cách hoàn hảo qua cái chết Thập Giá của Người, một thể hiện cho phép mỗi chúng ta có khả năng đụng chạm tới, cảm nghiệm được cách sinh động nhất thứ tình yêu bao bọc có khả năng vĩnh viễn xua tan mọi mạc cảm bơ vơ côi cút đã tồn tại từ bao đời. Và một khi phải rời bỏ cõi thế để trở về cùng Chúa Cha, Đức Giê-su hứa với các môn đệ rằng, Người sẽ mãi mãi tiếp tục hiện diện qua việc “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”. Như vậy Đức Giê-su chính là ‘Đấng Bảo Trợ’ đệ nhất; Thần Khí được Người phái đến sau sẽ tiếp tục công việc và vai trò bảo trợ mà Người đã khởi đầu; “Đó là Thần Khí sự thật… vì anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em”.  

Nếu sự thực là như thế, thì dầu có sống giữa một thế giới đầy hận thù chia rẽ, Ki-tô hữu hẳn phải cảm thấy mình được ưu đãi hơn hết thảy mọi người! Kể từ ngày lãnh nhận bí tích rửa tội, họ biết mình được bảo trợ cách đặc biệt, không phải chỉ trong việc chống chọi với các thế lực thù nghịch bên ngoài, mà ngay cả bên trong nữa trước tình trạng cô đơn lạnh lẽo của tội lỗi. Họ sẽ không bao giờ còn cảm thấy côi cút và bị ruồng bỏ, ngay cả giữa những yếu đuối và bất toàn, vì đã có Parakletos là Đức Ki-tô và Thần Khí của Người! Và Thần Khí sẽ không ngừng bảo đảm với họ rằng: Parakletos – Ki-tô đó sẽ mãi mãi “ở giữa và ở trong anh em”. Nếu quả đúng như thế thì rỏ ràng các Ki-tô hữu đang sở đắc một Tin Mừng ‘thứ thiệt’ có khả năng tác động sâu xa tới hiện hữu sinh động (active existence) của họ.; điều này chắc chắn phải mang lại cho họ niềm vui bất tận vì luôn cảm thấy mình được yêu thương.

Niềm tin của tôi, cũng như của bất kỳ Ki-tô hữu nào, sẽ không thể thiếu vắng cảm nhận đầy an ủi này! Thế nhưng vấn đề là ở chỗ: tôi đã bao giờ cảm nghiệm thấy điều đó chưa?

Lạy Đấng Bảo Trợ của con là Thần Khí của Đức Ki-tô Giê-su, con cảm tạ Ngài khôn xiết vì đã giải thoát con khỏi mạc cảm mồ côi theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Được biết con có một Người Cha nhân hậu là chính Chúa Cha, một Người Anh sẵn sàng chết để cứu con trong mọi hoàn cảnh, và một Thần Khí an ủi hằng tác động bên trong, con nguyện sống trong niềm hân hoan không bao giờ tàn lụi của Tin Mừng Chúa. Xin cho thật nhiều người được cùng con chia sẻ niềm hạnh phúc lớn lao này. A-men.

Về mục lục

.

AI MỚI THỰC SỰ YÊU MẾN CHÚA

 Lm. Đan Vinh

I.  HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Ga 14,15-21

(15) Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. (16) Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác, đến ở với anh em luôn mãi. (17) Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận. Vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em. (18) Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em. (19) Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống. (20) Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. (21) Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Chúa Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến Người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy”.

  1. Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng hôm nay trích trong bài diễn từ giã biệt của Đức Giê-su trước khi chịu khổ nạn, phục sinh và lên trời với Chúa Cha. Trong thời gian vắng mặt, Đức Giê-su hứa sẽ ban cho các Môn đệ một Đấng Bảo Trợ khác là Chúa Thánh Thần để ở với các ông luôn mãi. Người cũng hứa sẽ không bỏ mặc các ông mồ côi, nhưng sẽ hiện diện bên các ông một cách thiêng liêng. Những ai thực sự yêu mến Người thì phải tuân giữ các giới răn của Người. Ai làm như vậy thì sẽ được Chúa Cha yêu mến và còn được Người bày tỏ sự thật của mình ra cho họ biết.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 15-17: + Nếu anh em yêu mến Thầy…: Đối với Đức Giê-su, tình yêu không chỉ dừng lại ở tình cảm tâm hồn hay cảm xúc thể xác, mà phải được biểu lộ trong hành động vâng phục là tuân giữ các giới răn của Người, cũng như Người đã yêu mến Chúa Cha và luôn tuân giữ các lệnh truyền của Chúa Cha (x. Ga 15,10). + Đấng Bảo Trợ khác: Bảo Trợ tiếng Hy Lạp là Pa-ra-cle-tos, ám chỉ một người được mời đến để làm trạng sư bênh vực và bầu chữa cho bị cáo khi tòa án xét xử. Ở đây Thánh Thần sẽ bầu chữa cho các môn đệ, trong vụ kiện đối với thế gian trước tòa án của Thiên Chúa. Qua đó cho thấy chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người là Chúa Giê-su (x. 1 Tm 2,5), nhưng lại có hai Đấng Bảo Trợ: Một là “Đức Giê-su Ki-tô là Đấng công chính” (x. 1 Ga 2,1), cũng là “Đấng hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta” (x. Dt 7,25); Hai là Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ khác (x. Ga 14,16) là “chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta bằng những tiếng rên siết khôn tả” (x. Rm 8,26). + Đến ở với anh em luôn mãi: Sứ mệnh cứu thế của Đức Giê-su sẽ hoàn tất khi Ngài được tôn vinh (x. Ga 7,39), nghĩa là khi Người tắt thở trên cây thập giá (x. Ga 19,30). Từ đây Người trao ban Thần Khí là Chúa Thánh Thần cho nhân loại để thực hiện một cuộc tạo thành mới. Thời kỳ của Chúa Thánh Thần sẽ kéo dài mãi đến ngày tận thế. + Thần Chân Lý: là Thánh Thần, phát xuất từ Đức Giê-su là chân lý (x. Ga 14,6), Đấng luôn nói sự thật của Chúa Cha (x. Ga 12,49) và sau khi phục sinh đã thổi hơi ban Thần Khí cho các Tông đồ (x. Ga 20,22). Thần Chân Lý đối lập với ma quỷ là cha của sự dối trá (x. Ga 8,44). + Đấng mà thế gian không thể đón nhận: Vì Thánh Thần là Thần Khí thiêng liêng, nên thế gian không thể thấy và không thể đón nhận Người. Thế gian ở đây là các đầu mục của người Do thái, những kẻ kiêu căng, ích kỷ, thù hận, không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai. Họ không biết và không muốn đón nhận Thánh Thần của Người nên họ sẽ bị chết trong tội của mình (x. Ga 8,22-24). + Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em: Các Tông đồ nhờ đức tin sẽ đón nhận Thánh Thần, nên sẽ được Ngài ở cùng và dạy dỗ toàn vẹn sự thật.

– C 18-19: + Thầy sẽ không để anh em mồ côi…: Mồ côi là tình trạng con cái bị mất cha mẹ nên không có người chăm sóc nuôi dưỡng, học trò bị mất thầy nên không được ai dạy dỗ hướng dẫn. Ở đây Đức Giê-su có ý nói rằng: sau khi từ cõi chết sống lại, dù Người không còn ở với các môn đệ như hiện tại, nhưng Người vẫn luôn ở cùng các ông nhờ đức tin và ơn thánh. + Chẳng bao lâu nữa: Người hứa sẽ mau trở lại (x. Ga 16,19.22). + Thế gian sẽ không còn thấy Thầy: Đức Giê-su sắp chịu chết và người đời sẽ không còn thấy Người sau khi Người sống lại, vì từ nay Người không còn hiện diện bằng thân xác nữa. + Anh em được thấy Thầy: Thấy ở đây là bằng đức tin: tin Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa. Nhờ tin, các ông sẽ được tham dự vào sự sống siêu nhiên và kết hiệp mật thiết với Người.

– C 20-21: + Ngày đó: là kiểu nói thường dùng trong Cựu Ước để chỉ ngày Chúa lại đến, tức là ngày cánh chung hay tận thế (x. Is 2,17; 4,1). + Thầy ở trong Cha Thầy và Thầy ở trong anh em: Nhờ vào sự thấy được bằng đức tin như vậy, các môn đệ sẽ khám phá ra đời sống kết hiệp thâm sâu giữa Chúa Cha và Chúa Con (x. Ga 14,11), đồng thời cũng cảm nghiệm được sự liên kết mật thiết giữa họ với Chúa Giê-su Phục Sinh bằng đức tin và ân sủng. + Ai có và giữ các điều răn của Thầy…: Lòng mến Chúa không phải chỉ dừng lại ở tình cảm và lời nói, nhưng phải được thể hiện qua hành động tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa, nhất là sống giới răn yêu thương của Chúa Giê-su (x. Ga 13,34). + Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến…: Câu này không có nghĩa là Thiên Chúa chỉ yêu mến những ai yêu mến Chúa Giê-su, vì Thiên Chúa yêu hết mọi người và yêu họ trước (x. 1 Ga 4,10). Nhưng những ai yêu mến và vâng lời Đức Giê-su thì càng được Thiên Chúa yêu mến hơn, với danh nghĩa họ là nghĩa tử của Đức Giê-su và là chi thể của Đầu Nhiệm Thể là chính Người.

  1. CÂU HỎI:

1) Đức Giê-su đòi người ta thể hiện tình yêu đối với Người thế nào ? 2) Bảo trợ nghĩa là gì ? Loài người chúng ta chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất là ai ? Nhưng chúng ta lại có hai Đấng Bảo Trợ là những Vị nào ? 3) Sứ mệnh cứu thế của Đức Giê-su chấm dứt khi nào ? Sẽ được Đấng nào khác tiếp tục cho đến tận thế ? 4) Thần Chân Lý là ai ? Phát xuất từ Đấng nào ? Đối lập với ai ? 5) Tại sao thế gian không thể đón nhận được Thần Chân Lý ? Các Tông đồ phải làm gì để đón nhận được Ngài ?

II.  SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14,15).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) ĐẠO ĐỨC LÀ TIN CẬY PHÓ THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA:

Sau lễ đăng quang, Đức Piô XI trở về phòng riêng, ngồi vào chiếc ghế của vị tiền nhiệm là Đức Bê-nê-dic-tô XV thì tự nhiên ngài cảm thấy một nỗi lo âu xâm chiếm tâm hồn. Ngài nhìn thấy con đường tương lai thật tăm tối: Một Giáo hội đang bị tấn công mọi mặt. Cuộc thế chiến thứ nhất vừa chấm dứt, nhưng ngòi nổ vẫn còn đang âm ỉ chờ bùng phát lại. Trong lúc chán nản, ngài đã làm công việc duy nhất mà một người lo âu có thể làm, là quì xuống cầu nguyện. Trong lúc cầu nguyện, tay ngài vô tình chạm vào một bức ảnh trên bàn làm việc của đức Bê-nê-dic-tô. Ngài cầm bức ảnh ấy lên xem và ngài cảm thấy nỗi lo sợ trong lòng bỗng tan biến hết. Tâm hồn ngài tràn ngập an bình. Đó là bức ảnh Chúa Giêsu đang truyền cho sóng gió yên lặng. Từ đó, Đức Pi-ô XI luôn để bức ảnh ấy trên bàn và mỗi khi bi lo âu chuyện gì, ngài nhìn vào bức ảnh và cầu xin Chúa Giê-su phán một lời để được sóng yên biển lặng.

Ngày nay Chúa Giêsu luôn ở trong chúng ta và sẽ mang lại sự bình an cho tâm hồn chúng ta. Bởi đó, khi gặp sóng gió, chúng ta hãy bắt chước các môn đệ, chạy đến với Chúa Giê-su và nài xin Người: « Lạy Chúa, xin cứu chúng con, kẻo chúng con chết mất ». Chắc chắn Chúa sẽ ra tay nâng đỡ để chúng ta vượt thắng mọi gian nan và trung thành phụng sự một mình Người.

2) AI LÀ NGƯỜI THỰC SỰ YÊU MẾN THIÊN CHÚA ?:

Một người kia trong khi ngủ đã nằm mơ thấy mình gặp một thiên thần có cánh đang đi bộ xuống phố. Một tay ngài cầm bó đuốc, tay kia cầm một xô nước. Anh ta liền hỏi thiên thần rằng: “Ngài đi xuống phố kia làm chi vậy ?”. Thiên thần đáp: “Ta được sai đến để tìm xem ai là người có đức tin và có lòng mến Chúa thực sự”. Anh ta hỏi tiếp: “Sao Ngài lại phải cầm theo bó đuốc và xô nước ?” Thiên thần đáp: “Ta muốn dùng bó đuốc để thiêu hủy các tòa nhà trên thiên đàng, và dùng xô nước để dập tắt ngọn lửa dưới hỏa ngục”. Anh ta hỏi tiếp: “Nhưng tại sao Ngài lại phải làm như thế ?” Bấy giờ thiên thần trả lời: “Để biết ai thực sự có đức tin và lòng mến Chúa. Một người có đức tin thực sự thì sẽ tuân giữ các giới răn cho dù ta có phá huỷ hy vọng sau này họ sẽ lên thiên đàng và phá hủy nỗi sợ sau này sẽ bị sa hỏa ngục đi nữa”.

3) CHÍNH KHI HIẾN THÂN LÀ KHI ĐƯỢC NHẬN LÃNH:

Bà MA-RI-NA PI-CÁT-SÔ (Marina Picasso) là cháu của họa sĩ nổi tiếng PÁP-LÔ PI-CÁT-SÔ (Pablo Picasso). Trong thời gian từ năm 1973 đến 1975, bà liên tiếp phải chịu nhiều cái tang lớn: Ông nội mất, anh ruột tự tử, cha đột ngột qua đời. Đây thật là những mất mát không thể bù đắp, dù bà đã được thừa kế một gia sản lớn lao. Từ lúc ấy, thay vì ngồi gậm nhấm nỗi đau của mình thì bà dành nhiều thì giờ để chăm sóc những trẻ em mồ côi không người thân thích, những trẻ lang thang bụi đời đang sống vất vưởng ở nơi đầu đường xó chợ. Cũng từ ngày đó bà cảm thấy có sự biến đổi to lớn trong tâm hồn như bà tâm sự: “Nhờ giúp đỡ con em của nước này, mà tôi đã tìm lại được chính mình. Giờ đây tôi cảm thấy mình như sống lại, và tôi muốn phân phát sự sống mới đó cho các em”. Chính nhờ ra khỏi nỗi đau mất mát người thân của mình, để cúi xuống xoa dịu nỗi đau của tha nhân mà bà Ma-ri-na Pi-cát-sô đã như được sống lại về linh hồn. Khi không còn bận tâm lo cho mình để quan tâm chia sẻ nhu cầu của người khác, bà đã nghiệm thấy sự sống nơi bà được nhân lên nhiều lần, như lời kinh Hoa Bình của thánh Phan-xi-cô: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân… Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời…”

4) TÌNH THƯƠNG KHÔNG CÓ TRONG NHỮNG CON NGƯỜI ÍCH KỶ:

Truyện cổ tích Ả Rập kể rằng: Có một người bán thịt nướng rất keo kiệt và khó tính, vì tính khí khó chịu của anh ta nên cửa hàng luôn bị ế ẩm, anh đã làm đủ mọi cách để câu khách nhưng chẳng ai thèm mua. Có một người ăn xin ngồi bên lề đường, thèm thuồng nhìn những miếng thịt nướng treo lủng lẳng, rồi ông móc trong bị ra một khúc bánh mì, lẳng lặng đem hơ nóng trên khói, hy vọng khói thịt sẽ ướp vào miếng bánh. Sau đó, ông ngồi ăn miếng bánh cách ngon lành. Anh chàng bán thịt nhìn thấy, chạy ra túm áo người ăn xin đòi tiền. Người ăn xin phân trần: “Tôi đâu có mua thịt của anh, khói thịt đâu có phải là thịt”. Anh bán thịt quát lên: “Khói thịt cũng thuộc về miếng thịt, ông phải trả tiền cho tôi”. Hai người cãi nhau, không ai chịu ai và đưa nhau đến quan tòa xét xử. Vị quan tòa truyền cho người ăn xin móc ra một đồng tiền cắc và ném xuống nền nhà phát ra tiếng kêu, ông nói: “Đây là giải pháp công bằng nhất, người ăn xin hưởng khói thịt của anh, và anh thì hưởng âm thanh đồng tiền của ông ta. Thế là công bằng nhé”.

Việt Nam chúng ta cũng có câu chuyện về một người cha tham lam ích kỷ, thiếu tình thương con cái. Một hôm ông ta đi đánh dậm ngoài đồng và bắt được mấy con cá mang về nhà. Ông đang ngồi bên bếp than nướng số cá mới bắt được để nhắm rượu. Mùi cá nướng thơm phức khiến đứa con nhỏ thức giấc và khóc đòi được ăn cá nướng. Bà mẹ liền an ủi con: “Nín đi con, để mẹ xem có con cá nào nhỏ, mẹ sẽ xin bố cho con”. Nghe vậy, anh chồng vốn tham ăn và ích kỷ liền quát: “Cho cái gì ? Không có con nào nhỏ cả, con nào cũng đều lớn hết”.

5) LÒNG HIẾU THẢO PHẢI ĐƯỢC BIỂU LỘ QUA SỰ VÂNG LỜI:

Một bé trai theo mẹ vào siêu thị đi sắm đồ. Khi đến cửa hàng quần áo. Trong lúc mẹ đang nói chuyện với cô nhân viên bán hàng, thấy các món hàng quần áo treo trên giây, em liền leo lên lấy làm các món đồ rơi xuống tung tóe. Lúc đầu, người mẹ cầm chặt tay con lại, rồi nhẹ nhàng nói: “Đừng làm như thế nghe con!” Nó cúi đầu ngoan ngoãn đáp: “Dạ vâng, thưa mẹ!” Nhưng một lúc sau, khi mẹ đang bận chọn lựa mặt hàng thì đứa bé lại leo lên làm rơi hàng xuống. Người mẹ vẫn kiên nhẫn nhắc nhở con: “Đừng làm như thế nữa, nghe con!” Nó lại hứa: “Dạ vâng!” Rồi một lúc sau, nó lại chứng nào tật đó làm rớt món hàng xuống khiến cô nhân viên bán hàng nhíu mày tỏ vẻ khó chịu. Lần này, bà mẹ liền nắm chặt tay con, trừng mắt nhìn con, dùng ngón tay trỏ chỉ vào giữa trán nó, và nói bằng một giọng nghiêm khắc: “Đừng bao giờ làm như thế nữa nghe chưa?” Đứa bé hiểu rằng lần này thì nó phải nghe theo mệnh lệnh của mẹ là không được leo lên làm rớt đồ như vậy nữa. Nó nhìn mẹ, miệng mếu như muốn khóc với giọt nước mắt lưng tròng, nó nói: “Mẹ, con thương mẹ mà! Sao mẹ lại không thương con?”. Với nét mặt bình tĩnh, bà mẹ nói với con: “Nếu con thực sự thương mẹ, thì phải vâng lời mẹ, và không được làm trái ý mẹ nữa nghe con!”. Đứa bé liền ngừng khóc cúi đầu nhận lỗi và từ lúc đó đến khi ra khỏi siêu thị, nó không còn dám làm phiền những người chung quanh nữa.

Câu chuyện rất phù hợp với Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14,15).- “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14,21).

  1. SUY NIỆM:

1) ĐẠO ĐỨC LÀ SỐNG TÌNH CON THẢO VỚI THIÊN CHÚA:

– Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta kiểm điểm lại động cơ khiến chúng ta giữ đạo: giữ đạo để được lên thiên đàng và khỏi bị sa hỏa ngục sau này, hay giữ đạo để trở nên con cái ngoan hiền hiếu thảo của Thiên Chúa và nên anh chị em thực sự của mọi người ? Một người giữ đạo chỉ để sau này được lên thiên đàng thường suy nghĩ tính toán như sau: Phạm tội trọng cỡ nào thì mới bị phạt sa hỏa ngục ? Ăn cắp bao nhiêu tiền thì mới là tội trọng ? Phải tha thứ cho người ta mấy lần ? Phải cho người nghèo bao nhiêu tiền để sẽ được Chúa ban thưởng hạnh phúc Thiên đàng đời sau ?…

– Đang khi đó, một người giữ đạo vì lòng yêu mến Chúa sẽ tự nguyện giữ đạo và luôn tự hỏi mình: Ngay lúc này tôi có thể làm gì để giúp đỡ một người qua cơn họan nạn ? Hiện nay ai đang cần được tôi giúp đỡ ? Tôi phải làm gì để nên con thảo với Chúa Cha trên trời ?… Về vấn đề này HE-RI I-MƠ-SÂN (Harry Emerson) đã phát biểu như sau: “Sợ hãi thì đe dọa, còn tình yêu lại gọi mời. Sợ hãi thì cầm tù, còn tình yêu lại giải phóng. Sợ hãi thì chua chát, còn tình yêu lại ngọt ngào. Sợ hãi thì gây ra thương tích, còn tình yêu lại chữa lành. Sợ hãi thì luôn lẩn tránh còn tình yêu lại hiện diện”.

2) LUÔN KẾT HIỆP MẬT THIẾT VỚI CHÚA THÁNH THẦN:

Trong bữa Tiệc Ly, trước khi từ giã các môn đệ chịu khổ nạn, Đức Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha cho các môn đệ và truyền cho các ông phải yêu thương nhau. Ngài đã phác họa cho các ông thấy tương lai đen tối đang chờ đón Thầy trò: “Họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con”. Tuy nhiên, để các ông được yên tâm, không hoang mang, không thất vọng, Ngài đã hứa sẽ ban Chúa Thánh Thần làm Đấng Bảo Trợ khác và hứa sẽ luôn ở với các môn đệ qua câu nói: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi” (Ga 14,18).

Cuộc sống của mỗi người chúng ta giống như mặt biển đầy những sóng gió bão táp là những tội lỗi, những thói hư, những sự lo lắng về tiền bạc vật chất… Tất cả những cơn sóng gió này như muốn nhận chìm chúng ta xuống. Thế nhưng, chúng ta không nên hoảng sợ, vì chúng ta không chiến đấu một mình, mà có Chúa luôn ở trong chúng ta và đồng hành với chúng ta như Người đã hứa: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi” (Ga 14,18).-“Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

3) PHẢI BIỂU LỘ LÒNG MẾN BẰNG HÀNH ĐỘNG:

Thánh Gio-an đã khuyên các tín hữu như sau: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1 Ga 3,18). Lòng mến Chúa không chỉ dừng lại ở tình cảm yêu mến, hay là những việc đạo đức mang tính hình thức bề ngoài như đọc kinh, dự lễ mà thôi. Những việc đó tuy tốt, nhưng chưa đủ chứng tỏ lòng mến Chúa thực sự như lời Chúa Giê-su: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa ! Lạy Chúa !” là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Thánh Gio-an cũng cho biết lòng mến Chúa đích thực phải thể hiện bằng tình thương đối với tha nhân như sau: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa là Đấng họ không trông thấy được” (1 Ga 4,20). Ai yêu thương phục vụ những người đói khát bệnh tật và đau khổ ở đời này thì sẽ được Chúa kể là đã yêu thương và phục vụ chính Người trong ngày phán xét (x. Mt 25,40).

4) LÒNG MẾN CHÚA PHẢI ĐI ĐÔI VỚI YÊU NGƯỜI:

Sau đây là một số việc cụ thể mà người có lòng mến Chúa thực sự phải thi hành:

Luôn biết nghĩ đến người khác, chứ không ích kỷ chỉ biết nghĩ đến mình và gia đình mình như lời Chúa dạy: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12).

Luôn xét đoán ý tốt, ước muốn và cầu nguyện điều tốt cho tha nhân như lời Chúa Giê-su dạy: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán (x. Mt 7,1).

Khiêm tốn sửa lỗi của mình trước khi sửa lỗi cho tha nhân như Chúa dạy: “Hỡi kẻ đạo đức giả ! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em” (x. Mt 7,4).

Đối xử nhân hậu với những kẻ thù ghét bách hại mình, để hóa giải thù hận, biến thù thành bạn như lời Chúa phán: “”Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5,39). “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời. Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (x. Mt 5,44-45).

Tha thứ không phải bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy (x. Mt 18,21), nghĩa là phải luôn tha thứ cho những kẻ xúc phạm đến mình, để đáng được Chúa tha tội cho mình: “Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (x. Mt 6,12).

Quảng đại cho đi hơn nhận lãnh: “Cho thì phúc hơn là nhận” (Cv 20,35).

Năng thăm viếng để an ủi những người đau khổ bệnh tật và giúp đỡ chia sẻ cơm áo vật chất cho những người nghèo đói và cô thế cô thân, săn sóc phục vụ những người yếu đuối bệnh tật… Vì đến ngày phán xét, Chúa sẽ xét xử chúng ta tùy cách chúng ta đã đối xử với những người nghèo khổ gặp phải trong cuộc sống (x. Mt 25,34-40)…

  1. THẢO LUẬN:

Yêu thương bằng việc làm là biết nghĩ đến người khác, xét đoán ý tốt và ước muốn điều tốt cho người mình không ưa, là sẵn sàng chịu đựng và khoan dung tha thứ những sự xúc phạm của kẻ khác đối với mình, là quảng đại cho đi hơn là nhận lãnh, là năng thăm viếng an ủi những người đau khổ và giúp đỡ những người cô đơn, là săn sóc phục vụ những người yếu đuối bệnh tật… Trong những ngày sắp tới bạn sẽ làm gì để thể hiện tình thương cụ thể đối với tha nhân ?

  1. LỜI CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH. Xin ban cho chúng con sự sống của Chúa, sự sống làm cho cuộc đời chúng con mãi mãi xanh tươi. Xin ban cho chúng con sự bình an của Chúa, bình an làm cho chúng con vững tâm khi gặp phải các cơn sóng gió giữa cuộc đời. Xin ban cho chúng con niềm vui của Chúa, niềm vui làm cho khuôn mặt chúng con luôn rạng rỡ tươi vui. Xin ban cho chúng con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần sẽ biến đổi cuộc đời chúng con ngày một trở nên giống Chúa Cha trên trời hơn.

– LẠY CHÚA. Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng con hiểu rằng Chúa muốn chúng con tuân giữ các huấn lệnh vì lòng yêu mến Chúa, hơn là để được ban thưởng hạnh phúc thiên đàng hay không dám phạm tội trọng chỉ vì sợ bị phạt xuống hỏa ngục. Xin giúp chúng con biết mến Chúa bằng việc thực hành giới răn yêu thương tha nhân.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

CÂU TRẢ LỜI CHO NIỀM HY VỌNG

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Thánh Phêrô nhắn nhủ tín hữu ở các xứ: Pontô, Galat, Capadokia, Axia và Bithynia và với chúng ta, những người được Thiên Chúa tuyển chọn là: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em”(1P 3,15). Có thể nói động thái hy vọng là khao khát, là mong chờ điều tốt đẹp nào đó với niềm tin rằng sẽ đạt được. Niềm hy vọng của Kitô hữu chúng ta mà thánh Tông Đồ Cả nói ở đây chính là được hưởng phúc lành vĩnh cửu mà Thiên Chúa hứa ban. Và để đạt phúc lành này thì ngài khuyên bảo phải hiệp nhất nên một với nhau, biết cảm thông, yêu thương nhau như anh chị em, đừng lấy ác báo ác nhưng ăn ở nhân hậu (x.1P 3,8-9). Để thực hiện điều này thánh nhân nhấn mạnh: “hãy tôn Đức Kitô, là Đấng Thánh, làm Chúa ngự trị trong lòng chúng ta”.

“Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy.”(Ga 14,15). Điều răn mà Chúa Kitô truyền dạy đó là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”(Ga 13,34). Mẹ Hội Thánh, cách riêng Hội Thánh Việt Nam căn cứ vào cuộc đời và lời giảng dạy của Chúa Cứu Thế đã cụ thể hóa giới luật tình yêu qua kinh “Mười bốn mối thương người” mà Kitô hữu chúng ta dường như thuộc nằm lòng, nhờ thường đọc trong các ngày Chúa Nhật và các ngày Lễ trọng.

Một sự thật mà chúng ta cần chân nhận, đó là không ít người con cái Chúa vô tình hay vì lý do nào đó mà lãng quên lời căn dặn, đúng hơn là lời khẳng định của Chúa Kitô: “phải làm điều này mà không được bỏ điều kia”(x.Lc 11,42); đừng “gạn  lọc con muỗi mà nuốt chửng cả con lạc đà” (x.Mt 23,23-24), khi họ chỉ thực hiện một vài mối thương người mà thôi hoặc né tránh không thực thi một vài mối thương người này kia.

 Chúng ta cần thẳng thắn nhìn nhận rằng từ tín hữu giáo dân đến hàng mục tử một cách nào đó xem ra đã thực thi những nghĩa cử như “cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt, chôn xác kẻ chết và có thể thêm việc “cho khách đỗ nhà”. Tuy nhiên việc thăm viếng “kẻ tù rạc” và “chuộc kẻ làm tôi” thì hình như đang bị thiếu sót cách này cách khác. Phải chăng nếu không phải là người thân thích thì chúng ta vốn ngại dây dưa với những người đang trong vòng lao lý, cả những người thực sự có tội và cả những người bị kết án cách oan sai, bất công?  Ngày nay không còn chế độ nô lệ như ngày xưa, nhưng tình trạng bị ràng buộc, bị kìm giữ cách bất công vẫn nhan nhãn trước mắt chúng ta. Trên thế giới và ngay trên đất nước chúng ta vẫn còn đó tình trạng rất nhiều người không được sử dụng các quyền căn bản của họ xét như là con người (nhân quyền). Đây cũng là một hình thức nô lệ không hơn không kém.

Chúng ta cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng Kitô hữu chúng ta xem ra ít tắc trách trong việc “lấy lời lành mà khuyên người, an ủi kẻ âu lo, tha kẻ dể ta, nhịn kẻ làm mất lòng ta, cầu cho kẻ sống và kẻ chết”. Thế nhưng việc “mở dạy kẻ mê muội và răn bảo kẻ có tội” thì dường như còn bị hạn chế về cả đối tượng lẫn phạm vi cần điều chỉnh hay sửa sai. Chúng ta, nhất là những vị mục tử vẫn chu toàn việc răn bảo kẻ có tội và mở dạy kẻ mê muội, nhưng thường là mở dạy hay răn bảo những người đồng đạo, những người dưới quyền và cũng thường trong những lãnh vực đạo đức mang luân lý cá nhân hay trong việc tuân giữ các luật buộc như “giữ Lễ Ngày Chúa Nhật, lãnh nhận các bí tích, kiêng việc xác, ăn chay…”. Cần thú nhận rằng những lỗi lầm mang tính công bằng xã hội hoặc những lệch lạc, sai lầm mang tính hệ thống, nhất là khi người lỗi phạm đang nắm quyền cao, vị lớn trong xã hội và cả trong giáo hội thì chúng ta có vẻ như đang xao lãng bổn phận “mở dạy và răn bảo”.

“Phải làm điều này mà không được bỏ qua điều kia”. Xin lặp lại lời của Chúa Kitô để cùng thức tỉnh nhau ra khỏi tình trạng “gạn lọc con muỗi mà nuốt chửng cả con lạc đà”. Yêu thương cách có chọn lọc, cách có tính toán thì không thực sự là yêu thương, và chắc chắn không “như Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta”. Yêu thương một cách có tính toán và chọn lọc như thế thì rất có thể có được sự bình an do thế gian ban tặng và dĩ nhiên cần khẳng định rằng đó không phải là sự bình an mà Chúa Kitô trao ban (x.Ga 15,27).

Xin Thần Khí sự thật đổ đầy tâm hồn Kitô hữu chúng ta để chúng ta biết thế nào là yêu mến Chúa Kitô, thế nào là tôn Đức Kitô làm Chúa ngự trị trong lòng chúng ta, thế nào là làm chứng về niềm hy vọng của chúng ta. Có thể không trọn vẹn và chắc chắn không thể đủ đầy, tuy nhiên điều chúng ta phải cần làm cho xứng với danh môn đệ Chúa Kitô, đó là kiên trì nhẫn nại trong hiền hòa và bao dung thực thi cả “Mười bốn mối thương người”, không xao lãng hay loại bỏ bất cứ mối thương người nào. Đây là câu trả lời có tính thuyết phục nhất cho niềm hy vọng của chúng ta trước bà con lương dân và anh chị em khác đạo và trước cả những người tự nhận là vô thần.

Về mục lục

.

MỘT CUỘC SỐNG MỚI

Lm. Giuse Nguyễn

Các bài đọc lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy được một cuộc sống mới.

  1. Lời Chúa

Cuộc sống mới nhờ mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của Đức Giêsu Kitô. Cuộc sống mới nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần làm cho các Tông đồ thực hiện được những dấu lạ tại thành Samaria của dân ngoại (trừ được các thần ô uế, chữa lành những người tê bại và tàn tật) ; cuộc sống mới làm cho: “Trong thành, người ta rất vui mừng” (Cv 8, 8). Cuộc sống mới của những con người biết nghe Lời Đức Giêsu để sống theo Tin Mừng của Người: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14, 15)…

Như vậy trước đây một số người vẫn sống theo lối sống cũ, lối sống của những người phỉ báng các Kitô hữu, của những người đã sẵn sàng làm những chuyện gian ác, của những người không tin vào Đức Giêsu Kitô (x. 1Pr 3, 15-18).

  1. Cuộc sống mới là gì?

Cuộc sống mới đó không chỉ được ban tặng cho các Tông đồ và những kẻ tin hơn 2.000 năm trước, mà nó là sứ điệp chính yếu trong Tin mừng của Đức Kitô luôn vang vọng trong mọi thời đại, và nhất là trong chính hôm nay, ngay giờ phút này, để mời gọi chúng ta hãy bước vào sự sống mới.

Bước vào sự sống mới không phải là “chui vào bụng mẹ để được sinh ra một lần nữa” như Nicôđêmô suy nghĩ ; hay chết đi để được để được “đầu thai” trong kiếp sống mới… Nhưng là sống cuộc sống riêng của mỗi người trong mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitô.

  1. Những mẫu gương sống cuộc sống mới

a). Ơn gọi của Esmeralda Solis Gonzalez, một cựu hoa hậu Mêhicô

Esmeralda Solis Gonzalez sinh ngày 12/04/1997 tại Valle de Guadalupe, thuộc bang Jalisco, trong một gia đình Công giáo. Vào năm 2016, Esmeralda đã được chọn là hoa hậu của thành phố quê nhà, và là một trong số những người được chọn đến thủ đô Mêhicô thi hoa hậu toàn quốc cùng năm 2016. Nhưng Esmeralda từ bỏ dự tính làm người mẫu và chuyên gia về dinh dưỡng, gia nhập dòng Nữ thừa sai Clara Thánh Thể ở thành Cuernavaca thuộc bang Morelos. Cô đã chia sẻ: “Bạn sẽ không biết gì về đời sống tu trì cho đến khi bạn vào trong tu viện. Cho đến nay, từ một góc nhìn khác, tôi đã có thể thấy thế giới là gì và nó mang lại điều gì cho bạn. Tôi đã rất hạnh phúc với những gì tôi đã có được. Nhưng hạnh phúc đó không thể sánh với hạnh phúc mà Chúa đang đổ tràn đầy trong tâm hồn tôi”

b). Của một số nhà lãnh đạo

Đầu tiên phải nhắc đến lời phát biểu của tổng thống Mỹ Donal Trump tại trường Đại Học Liberty, một Đại học của Thiên Chúa giáo lớn nhất nước Mỹ vào ngày 13/05/2017: “Ở Mỹ, chúng ta không tôn thờ chính quyền, chúng ta tôn thờ Thiên Chúa”. Ông nói thêm: “Đó là lý do tại sao chúng ta tự hào công bố trên đồng tiền của chúng ta, “Trong Chúa chúng ta tin”, và đó là lý do tại sao mỗi khi chúng ta nói lời Tuyên thệ chúng ta hãnh diện tuyên bố rằng chúng ta là một quốc gia, dưới sự cai trị của Thiên Chúa… Và lý do tại sao những người  lãnh đạo của chúng ta trong lễ tuyên thệ nhậm chức đều đặt tay lên quyển  Kinh thánh và nói “xin Thiên Chúa giúp con.”

Kế đến là vị tân Tổng thống trẻ tuổi nhất của nước Pháp Emmanuel Macron, 39 tuổi vừa tuyên thệ nhậm chức hôm 14/05/2017. Ông đã chia sẻ: Tôi chịu phép rửa vào năm 12 tuổi. Đây là lựa chọn của riêng tôi. Tôi chịu phép thánh tẩy khi học ở Trường Providence (Chúa Quan Phòng) của các cha Dòng Tên tại Amiens”. Tân tổng thống Emmanuel Macron nói tiếp: ‘‘Nhờ ơn Chúa, tôi có quyết tâm hội nhập với thế giới. Ngày nay, tôi thường suy nghĩ về bản chất đức tin của tôi. Tương quan của tôi với các vấn đề thiêng liêng tiếp tục nuôi dưỡng các suy nghĩ của tôi.’’. Ông tỏ lòng tôn kính với Đức Thánh Cha Phanxicô, và theo nguồn tin riêng, ông sẽ mời ngài viếng thăm nước Pháp, đất nước được mệnh danh là trưởng nữ của Giáo hội.

Sau cùng là tân Tổng Thống Hàn Quốc, ông Moon Jae-in, trong ngày nhậm chức và chính thức bước vào “Nhà Xanh” là nơi cư trú của các vị Tổng thống Hàn Quốc, đã mới Linh mục đến làm phép dinh Tổng thống. Ông đã chọn bắt đầu vào ở trong Nhà Xanh đúng vào ngày kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, để có ý dâng công việc phục vụ quốc gia của ông dưới sự bảo trợ của Đức Mẹ

Qua những tấm gương cụ thể đó cho chúng ta thấy những con người sống cho sự sống mới, đó là việc đặt hiện tại, tương lai cuộc đời của mình trong bàn tay quan phòng của Chúa. Hay nói cách khác, họ có niềm tin vào Thiên Chúa.

  1. Sống cuộc sống mới trong Năm Gia Đình 2017

Trong Năm Gia Đình 2017 này, qua sứ điệp lời Chúa hôm nay, mời gọi mỗi gia đình hãy sống cuộc sống mới, nghĩa là sống niềm tin cụ thể vào Thiên Chúa.

Trong những ngày qua, các tín hữu trên khắp trên thế giới như sống lại sự kiện tại làng Fatima năm xưa; nhiều họ đạo cũng tổ chức mừng sự kiện 100 năm Đức Mẹ hiện ra ; một vài họ đạo có hiện tượng được gọi là “Đức Mẹ khóc ra máu”… Nhân dịp này nhiều người đã đi hành hương, đã đến tham dự những buổi diễn nguyện, đã tìm đến với những nơi có hiện tượng lạ… nhưng thử hỏi họ có quyết tâm để thực hành “sứ điệp Fatima” qua việc ăn năn đền tội, siêng năng lần hạt Mân Côi và tôn sùng Trái Tim Mẹ, nghĩa là có ý thức đến đời sống đức tin của mình không hay chỉ quan tâm đến dấu lạ?

Tháng Năm mời gọi mỗi gia đình hãy nhắc nhở nhau để lo ăn năn đền tội, cải thiện cuộc sống bằng việc mỗi người hãy từ bỏ những đam mê xấu, cụ thể làm sao để lôi kéo được những người khô khan nguội lạnh đi xưng tội, nhất là cơ hội rước lễ trong mùa Phục Sinh đã gần hết. Những người làm chồng, làm vợ, làm cha mẹ hãy sống đúng với ơn gọi của mình, đừng vì những chuyện riêng tư mà làm gương mù, gương xấu cho con cái mình. Các bạn trẻ cũng hãy tỉnh thức, vì tội lỗi của nhân loại ngày càng gia tăng. Vì thế nếu có việc “Đức Mẹ khóc” thì cũng chỉ vì tội lỗi nhân loại.

Mỗi người, mỗi cộng đoàn và mỗi gia đình hãy tạo điều kiện để việc lần chuỗi Mân Côi được thực hiện một cách dễ dàng, vì chuỗi Mân Côi là sợi dây nối kết tình mẫu tử giữa chúng ta và Mẹ Maria, cũng là cách để tiếp cận với Tin mừng một cách đơn giản nhất.

Việc tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ chính là việc đáp trả lại tình yêu của Mẹ dành cho chúng ta qua việc quan tâm đến ơn cứu độ của chính mình, đừng sống hờ hững với vận mệnh cuộc đời chúng ta, đừng để những đam mê, những giá trị thế gian làm mất đi hạnh phúc đời đời của chúng ta.

Khi mỗi người, mỗi gia đình biết quan tâm đến những việc trên là lúc chúng ta đang sống cuộc sống mới.

Lạy Mẹ Maria xin phù hộ chúng con được hưởng sự sống mới cùng với Mẹ. Amen.

Về mục lục

.

YÊU VÀ GIỮ LỜI

Huệ Minh

Mở lại những trang sách Cựu Ước, ta thấy Đức Chúa với ông Giôsuê, Ngài phán: Đừng sợ, vì Thiên Chúa ở cùng ngươi. Với Ghiđêon, Ngài bảo: Hỡi người dững cảm, Thiên Chúa ở cùng ngươi. Với Maisen, Ngài nói: Ta luôn ở với ngươi. Với Mẹ Maria, thiên thần loan báo: Thiên Chúa ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi phụ nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ. Và ngày hôm nay, với các môn đệ, Ngài đã hứa: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.

Đức Giêsu phục sinh không chỉ hiện ra một đôi lần, Ngài muốn ở mãi bên chúng ta cho đến tận thế. Một sự hiện diện hai chiều, thâm sâu và mới mẻ: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em” (c.20) Một sự hiện diện đem lại sức sống dồi dào: “Vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống” (c.19).

Hẳn ta còn nhớ khi các môn đệ đánh cá ở biển hồ Tibêriade, suốt đêm vất vả mà chẳng bắt được một con cá nào, nhưng vâng lời Chúa, các ông đã thả lưới và lập tức các ông có được một mẻ cá ngoài sự mong muốn của mình. Khi gặp phải sóng gió, nhưng với uy quyền của Chúa, thì lập tức sóng liền yên và biển liền lặng. Giữa tiệc cưới tại Cana, mọi người đang lúng túng vì thiếu rượu, Chúa Giêsu đã làm phép lại cho nước lã biến thành rượu ngon. Giữa hoang địa cằn cỗi, Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, để nuôi sống đám đông dân chúng đang đói mệt. Bà góa thành Naim, cũng như hai chị em Martha và Maria, đang than khóc tuyệt vọng vì người thân yêu của mình không còn nữa, nhưng Chúa đã làm phép lạ cho người đã chết được sống lại, hầu xoa dịu nỗi đớn đau tang tóc.

Cũng như hai môn đệ trên đường đi Emmaus, Chúa ở bên cạnh chúng ta, nhưng chúng ta lại chẳng nhận ra Ngài. Nhất là trong những giây phút buồn sầu và thất vọng, chúng ta cảm thấy Thiên Chúa dường như vắng bóng và chẳng đoái hoài đến những lời chúng ta kêu xin. Nhưng thật ra, đó lại là những giây phút Ngài ở gần chúng ta hơn bao giờ hết.

Chúa Giêsu hứa: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” (cc.16-17a). Đức Giêsu thực hiện vai trò trung gian bên Chúa Cha để Chúa Cha ban Thánh Thần cho những kẻ thuộc về Người, và cộng đoàn những kẻ thuộc về Đức Giêsu sẽ lãnh nhận được Thánh Thần nhờ Người.

Thánh Thần được gọi là Đấng Bảo Trợ. Đấng Bảo Trợ đến sẽ thực hiện một vai trò kép: trong cộng đoàn môn đệ và trong cuộc đối diện của cộng đoàn với thế gian. Bên trong cộng đoàn, Người dạy dỗ các đồ đệ mọi điều và làm cho các đồ đệ nhớ lại mọi điều Đức Giêsu đã truyền dạy (14, 26). Người dẫn họ đến sự thật toàn vẹn (16,13). Người làm chứng về Đức Giêsu trước các mô đệ (15, 26). Người tôn vinh Đức Giêsu và loan báo cho các đồ đệ những gì là của Đức Giêsu (16, 14). Và rồi trong cuộc đối diện của cộng đoàn với thế gian, Người soi sáng hướng dẫn các đồ đệ và làm cho các đồ đệ biết rằng thế gian sai lầm (16,9-11).

Trang Tin Mừng hôm nay trích trong bài diễn từ giã biệt của Chúa Giêsu trước cuộc khổ nạn phục sinh và lên trời với Chúa Cha. Trong thời gian vắng mặt, Chúa Giêsu hứa sẽ ban cho các môn đệ một Đấng Bảo Trợ khác là Chúa Thánh Thần để ở với các ông luôn mãi. Người cũng hứa sẽ không bỏ mặc các ông mồ côi, nhưng sẽ hiện diện bên các ông cách thiêng liêng.

Hơn hai ngàn năm qua, sức sống được Chúa Thánh Thần thông ban cho các môn đệ đã tràn ngập thế giới, đã trở thành lẽ sống của không biết bao nhiêu người. Chính nhờ sức sống ấy mà các tín hữu Kitô tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống và sống đúng ơn gọi làm người của mình. Sống công bình, sống bác ái, sống phục vụ, sống quên mình không phải là độc quyền của người Kitô giáo. Tôn giáo nào cũng đề cao những giá trị ấy; giới răn yêu thương cũng không phải là giới răn riêng của các tín hữu Kitô chúng ta. Thế nhưng Chúa Giêsu đã ban bố giới răn ấy như một giới răn mới mẻ và là riêng của Ngài, bởi vì Ngài ban chính sức sống và tình yêu của Ngài cho các tín hữu để họ yêu thương bằng chính tình yêu của Ngài.

Lời Chúa hôm nay cũng căn dặn chúng ta: “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hãy giữ lời Thầy”. Như thế, tuân giữ giới răn Chúa là dấu chỉ cho lòng yêu mến Chúa. Tuân giữ giới răn Chúa còn là dấu chỉ sự trung tín và chu toàn bổn phận của Chúa giữa thế gian. Không thể nói rằng mình yêu mến Chúa mà lại không dám thực thi lời Chúa. Nếu chúng ta nói yêu mến Chúa mà không dám sống đạo và giữ đạo, đó chỉ là sự giả tạo vì Chúa đã từng trách rằng: “Dân này chỉ thờ Ta bằng môi bằng miệng mà lòng chúng lại xa cách Ta”.

Khi sắp lìa bỏ thế gian và các môn đệ là đoàn con thân tín để về cùng Chúa Cha, Ngài nhắn nhủ họ những lời tâm huyết: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở lại với anh em một ít lâu nữa thôi…. Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm nầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13, 33-35)

Khi yêu ai, chúng ta cảm thấy được những gì làm vui lòng người chúng ta yêu và không có gì cưỡng bức chúng ta tự nhiên làm tất cả để người yêu được vui, được hạnh phúc. Yêu mến Chúa cũng vậy. Yêu mến Chúa là sống theo ý Chúa muốn, là giữ các giới răn của Chúa, là thực thi ý Chúa muốn, là giữ các giới răn của Chúa, là thực thi ý muốn của Chúa trên cuộc sống chúng ta và trên cuộc sống của xã hội loài người.

Chúa Giêsu đã xác định: “Ai giữ các giới răn của Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến. Cha và Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ đến và ở trong người ấy”. Giữ các giới răn là ta ở với Chúa và Chúa ở với ta, là lưu lại trong tình yêu của Chúa. Kitô giáo là đạo của tình yêu: yêu Chúa và yêu người. Tình yêu sẽ chắp cho chúng ta đôi cánh để bay lên cao. Vậy mà có nhiều người lại coi Kitô giáo như những giới răn cấm kỵ và trừng phạt, như những gông cùm tròng vào cổ hay những gánh nặng đèn lên vai. Vì vậy cuộc sống đạo của họ trở thành một bài toán khô khan và nghèo nạn, nhiều khi quá máy móc. Họ bóp méo đạo yêu thương thành đạo sợ hãi. Đạo sợ hãi làm người ta mất nhiệt tình và cởi mở, mất nét vui tươi trên khuôn mặt của những người con cái Thiên Chúa.

Lòng yêu mến Chúa thực đòi ta giữ giới răn của Người. Điều đó rất tự nhiên. Bởi khi yêu nhau, người ta sẵn sàng chấp nhận gian khổ, chấp nhận hy sinh vì nhau. Người ta cũng sẵn sàng làm theo ý của nhau nếu đó là những ý muốn chính đáng. Điều cần nói ở đây là việc ta tuân giữ giới răn của Thiên Chúa chẳng đem lại lợi lộc gì cho Người, nhưng đem lại lợi ích cho chính chúng ta. Bởi lẽ, lề luật của Chúa là một hàng rào cần thiết để bảo vệ ta được an toàn và khỏi rơi xuống vực thẳm tội lỗi. Đồng thời chúng cũng là những bảng chỉ đường giúp ta đi đúng con đường dẫn đến sự sống, đến hạnh phúc. Biết như vậy nhưng dường như ta vẫn cảm thấy khó khăn và ngại ngùng khi phải tuân giữ, phải thực thi các giới răn của Người.

Tuân hứa giới răn Chúa không chỉ dừng lại trên môi miệng mà còn là một dấn thân để ý Chúa được thể diện trong cuộc đời chúng ta. Như Chúa Giêsu, ngài đã vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự. Người Kitô hữu cũng phải vâng phục theo giáo huấn của Chúa, cho dẫu có phải chịu thiệt thòi, mất mát hay phải hy sinh cả tính mạng vì lòng yêu mến Chúa.

Về mục lục

.

CHÚA THÁNH THẦN LÀ HY VỌNG VÀ LÀ TRẠNG SƯ

Bác sĩ Ng Tiến Cảnh

Sáu chương đầu của sách Tông Đồ Công Vụ nói về lịch sử thành lập Giáo Hội tiên khởi ở Jerusalem. Qua bài đọc I (Cv 8:5-8, 14-17) và những câu trong Cv 10: 44-48 & Cv 19:1-6, thánh Luca đã phân biệt bí tích Thanh Tẩy nhân danh Chúa Giesu và sự tiếp nhận chúa Thánh Thần. Trong mỗi trường hợp, có ơn Chúa Thánh Thần đều phải thông qua một trong 12 tông đồ như Phero và Gioan hoặc người đại diện như Phaolo. Đây là cách có vẻ hay nhất mà Luca dùng để diễn tả nhiệm vụ của Giáo Hội trong việc cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Những chỗ khác trong sách Tông Đồ Công Vụ, bí tích Thanh Tẩy và Chúa Thánh Thần lại liên kết mật thiết với nhau (Cv 1:5; 11:16).

Vậy chúng ta học được gì từ cảm nghiệm này? Bản văn của Luca trong Tông Đồ Công Vụ nói rõ ràng tặng phẩm Chúa Thánh Thần không phải là một đặc ân cá nhân. Tuyên xưng Kinh Thánh cũng không đơn thuần là do có óc thông minh hiểu biết, mà là một tiến trình hiểu biết do cảm nghiệm về đức Giesu thành Nazareth, đấng đã chết trên thập giá và phục sinh.  Không một trở ngại nào -dù là bất toàn thể xác, chủng tộc hay địa lý- có thể đặt con người ra ngoài ơn gọi cứu chuộc của Tin Mừng. Thiên Chúa đã tích cực hoàn thành trọn vẹn mục đích của Người vì sứ mạng hoạt động của Giáo Hội (Lc 24:47;Cv 1:8). Chúa Giesu đã để ý đến tất cả những ai có khả năng làm chứng nhân và Người huấn luyện họ, thêm sức mạnh cho họ rồi sai họ đi khắp các nẻo đường để rao truyền Lời Chúa. 

TÔN THỜ ĐỨC KITO LÀ THIÊN CHÚA NGỰ TRONG LÒNG

Bài đọc 2 thư thánh Phero (1Pr 3:15-18) nhắc nhở chúng ta là nhờ đức Kito chịu đau khổ và chịu chết mà người công chính có thể cứu giúp kẻ bất lương (1Pr 3:18); nhờ sự phục sinh, Người lấy lại đời sống mới trong Chúa Thánh Thần rồi thông phần cho các tín hữu qua bí tích thanh tẩy rửa sạch mọi tội lỗi. Như gia đình ông Noah được cứu khỏi cơn hồng thủy thì người Kito hữu cũng được cứu rỗi qua nước của bí tích Thanh Tẩy (1Pr 3:19-22). Từ đó họ không phải sợ hãi như những kẻ tội lỗi nhưng lại vui mừng trong đau khổ vì họ hy vọng trong chúa Kito. Sự vô tư hiền hòa của họ sẽ làm cho những kẻ cáo buộc họ phải thất vọng (1Pr 3:13-16; Mt 10:28; Rm 8:35-39).

Lời thánh Phero nói với Giáo Hội sơ khai hơn 2 ngàn năm xưa nay vẫn còn vang vọng nơi chúng ta: “Hãy tôn thờ đức Kito là Thiên Chúa ở trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng cắt nghĩa cho bất cứ ai hỏi anh em lý do anh em hy vọng, nhưng hãy trả lời một cách hiền hòa và tôn kính với lương tâm trong sáng. Như vậy khi anh em bị người ta phỉ báng, nói xấu vì anh em làm việc thiện trong chúa Kito thì chính họ sẽ bị xấu hổ.” (1Pr 3:15ff) 

Lý do chúng ta hy vọng là gì?  Xin phép nhắc lại một phần bài giảng của Biển Đức XVI trong ngày lễ thánh Phero và Phaolo tông đồ ở Rome hôm 29-6-2009: 

Rất vắn gọn, tôi muốn lưu ý anh chị em về hai xác quyết khác trong thư 1 của thánh Phero liên quan đến chúng ta ở thời đại ngày nay. Trước hết có một câu mà ngày nay chúng ta lại khám phá ra, mà theo căn bản đó các thần học gia thời Trung Cổ hiểu biết bổn phận thần học gia của mình: “Đức Kito là đấng thánh, hãy tôn Người làm Chúa ngự trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng cắt nghĩa cho bất cứ ai yêu cầu lý do mà anh em hy vọng” (3:15). Niềm Tin Kito giáo là Hy Vọng. Nó lót đường cho chúng ta đi tới tương lai. Nó là hy vọng với đầy đủ lý lẽ của nó, một hy vọng mà chúng ta có thể và cần phải cắt nghĩa. Niềm Tin đến từ “Lý Chứng đời đời” đã đi vào thế giới chúng ta và chứng tỏ cho chúng ta là Thiên Chúa thật. Niềm Tin vượt quá khả năng của lý trí của chúng ta, cũng như tình yêu nhìn rõ tỏ mọi sự hơn là đơn thuần thông minh. Nhưng Niềm Tin nói với lý trí và trong cách biện chứng nó cũng phù hợp với lý trí. Nó không trái ngược với lý trí mà còn bổ sung lý trí và vượt quá lý trí để đưa chúng ta đến với Lý Chứng vĩ đại hơn của Thiên Chúa. 

“Là mục tử thời đại, chúng ta có bổn phận trước hết phải hiểu rõ lý do chúng ta tin. Bổn phận chúng ta không chỉ đơn thuần giữ nó như  một truyền thống mà phải nhận biết nó như những giải đáp cho những câu hỏi mà người ta chất vấn chúng ta. Niềm tin đòi hỏi sự cộng tác hữu lý của chúng ta, được ăn sâu và thanh hóa trong việc chia sẻ tình yêu. Nó là một trong những bổn phận của người mục tử, là thấm nhuần niềm tin vào ý nghĩ, khả dĩ có thể biểu lộ lý lẽ chúng ta hy vọng trong những cuộc tranh cãi ở thời đại chúng ta.” 

TÂN TRẠNG SƯ Ở GIỮA CHÚNG TA

Trong Tin Mừng Gioan, ý nghĩa tiếng ‘mất’ trong số các môn đệ thì đã rõ ràng khi đức Giesu chuẩn bị xa lìa họ. Phero hỏi Chúa: “Thầy sẽ đi đâu?” (Ga 13:36) và “Thưa Thầy, tại sao tôi không thể đi theo Thầy ngay bây giờ?” (Ga 13:37). Đến điểm tột cùng này Chúa đã trả lời: “Nếu anh em yêu mến thầy thì anh em sẽ giữ những giới răn của thầy. Và khi thầy xin Cha thầy thì Ngài sẽ ban cho anh em một tân trạng sư là chúa Thánh Thần của sự thật, mà trần gian không biết, nhưng sự hiện diện của ngài ẩn hiện nơi các môn đệ (Ga 14:17). Lúc đó nền tảng của sự tin tưởng của chúng ta sẽ được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. 

Danh từ trạng sư dịch từ tiếng Hy Lạp là “paraclete” có liên quan đến luật pháp, có nghĩa là trạng sư hay luật sư biện hộ. Nó cũng có nghĩa người phát ngôn viên, người trung gian, người an ủi giúp đỡ và bảo trợ, mặc dù không có tiếng nào nói lên được ý nghĩa mà Gioan muốn ám chỉ. Trong Gioan, từ  “paraclete/trạng sư” nghĩa là thầy dạy, chứng nhân cho đức Giesu và là bảo trợ viên của trần gian, người đại diện thường trực của đức Giesu ở trần gian trong khi người về cùng Cha người. 

Đức Giesu chính là trạng sư đầu tiên. (coi 1Ga 2:1), có nghĩa là đấng trung gian ở trên thiên đàng. Trạng sư đến trong cộng đồng Kito giáo là dấu hiệu khởi đầu sứ mạng trần thế thúc đẩy những Kito hữu của Giáo Hội sơ khai vượt quá khỏi giới hạn địa dư của mình đi ra khắp bốn phương trời. Nếu đức Giesu là trạng sư trong khi Người hiên diện ở trần thế, thì chúa Thánh Thần bây giờ là Tân Trạng Sư. Đức Giesu sẽ lại xuất hiện khi Người trở lại. Vị trạng sư này là một người xa lạ nhưng là bảo đảm cho lòng trung thành với chúa Giesu: “ Trạng sư là Chúa Thánh Thần mà Cha thầy sẽ gửi đến nhân danh thầy, sẽ dạy dỗ anh em mọi sự và nhắc nhở anh em  những điều thầy đã nói với anh em” (Ga 14:26). Người còn nói thêm là vị trạng sư này sẽ làm chứng với tư cách thầy, đồng thời cũng làm cho các môn đệ trở thành chứng nhân. Nhờ đoạn văn này, chúng ta nhớ lại sự bất ổn và sợ hãi của các môn đệ nói ở phần khởi đầu của sách công vụ tông đồ. Khi Chúa Thánh Thần đến, họ được soi sáng, can đảm hơn và trở thành chứng nhân một cách can trường và trong sáng.

LÀ HY VỌNG, KHÔNG BÁM CHẶT VÀO QUÁ KHỨ

Trạng sư không chỉ là bảo đảm cho lòng trung thành và can đảm tuyên xưng mà còn là hướng dẫn đi tới tương lai: “ Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi. Khi Thánh Thần Sự Thật đến, Người sẽ hướng dẫn anh em đến sự thật toàn vẹn. Người không tự mình nói điều gì nhưng Người sẽ nói lại cho anh em tất cả những điều Người nghe và báo cho anh em biết những điều sẽ xẩy ra” (Ga 16:12-13). Sự hiện diện và hướng dẫn của Thần Linh Chúa làm cho các tông đồ thêm sức mạnh tiến đến tương lai, sẵn sàng đương đầu với mọi thách đố một cách đầy sáng tạo. Tông đồ đích thực thì trung thành với đức Giesu và sứ điệp của Người, tuy nhiên họ không bị kẹt với quá khứ. Chính Thần Linh Chúa sẽ điều chỉnh họ, giúp họ biết uyển chuyển để thích nghi với mọi hoàn cảnh nhưng luôn luôn một mực trung thành và hy vọng. 

ĐÔI LỜI KẾT: KÝ ỨC SỐNG ĐỘNG CỦA GIÁO HỘI

Tân trạng sư không phải là đại diện được gửi đến để thay thế Chúa Giesu vắng mặt.. Trái lại, để bảo đảm sự hiện diện của Người cũng như của Thiên Chúa Cha. Các ngài “sẽ cùng đến” để trọn lời hứa của đức Giesu, và sẽ ở cùng với Người. Các ngài sẽ không ở với những kẻ không yêu mến Chúa và giữ Lời Người. Trạng sư ở trong mọi người yêu Chúa và giữ các giới răn Chúa, và vì vậy sự hiện diện của Người không bị giới hạn bởi thời gian (Ga 14: 15-17). Trạng sư hiện diện nơi các môn đệ thời nay của chúa Giesu cũng như Người ở với các môn đệ đầu tiên. Không một ai có thể nghĩ rằng đức Giesu đã bỏ rơi Giáo Hội của chúng ta ngày nay. Chúa Giesu vẫn tiếp tục gửi đến cho chúng ta Thần Linh Thiên Chúa sự thật. Chúng ta đã nghe và đọc Tin Mừng: “Đấng mà Thiên Chúa Cha gửi đến cho chúng ta sẽ dạy chúng ta tất cả mọi sự và nhắc nhở chúng ta tất cả mọi điều mà đức Giesu đã nói với chúng ta (c.26). Điều nhắc nhở và gợi nhớ lại được diễn tả một cách tuyệt vời bằng những danh từ mới trong sách Giáo Lý Công Giáo nói về công việc của trạng sư / chúa Thánh Thần: “Chúa Thánh Thần là trí nhớ sống động của Giáo Hội” (c.# 1099) 

Sự xuất hiện của Chúa Thánh Thần là dấu hiệu khởi đầu sứ mạng toàn cầu của người Kito hữu sơ khai vươt biên giới của mình đi đến muôn nơi. Là Kito hữu, con người Giesu Kito là “khởi điểm”của hy vọng và mục đích của chúng ta. Đức Kito đòi hỏi Giáo Hội biến muôn dân trên khắp địa cầu thành môn đệ Chúa.”(Mt 28:19) Để hướng dẫn việc làm trong sứ mạng của Giáo Hội, chúa Kito đã gửi chúa Thánh Thần xuống cho chúng ta. Đức Giesu đã xác định Chúa Thánh Thần là Tân Trạng Sư, là “Thần Linh của Sự Thật”, mà thế gian không biết vì Ngài ẩn dấu sự hiện diện của Ngài trong các môn đệ (Ga 14:17). Lúc đó nền tảng của sự tin tưởng của chúng ta là có Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Đức Giesu đã là trạng sư trong khi Người hiện diện ở trần thế cùng các môn đệ. Chúa Thánh Thần là Tân Trạng Sư, sự hiện diện của Ngài là hướng dẫn Giáo Hội cho đến khi chúa Giesu trở lại lần thứ hai. Vị trạng sư này là một người xa lạ, nhưng là bảo đảm cho lòng trung thành với chúa Giesu: Vị trạng sư là Thần Linh Chúa mà Thiên Chúa Cha sẽ gửi đến cho anh em nhân danh Thầy, sẽ dạy anh em mọi sự và nhắc nhở anh em tất cả những điều mà thầy đã nói với anh em (Ga 14:26). 

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH_A

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.  Khi còn làm linh mục chánh xứ giáo xứ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội tại thành phố Poteau, một trong những thành phố lâu đời và nghèo nhất trong tiểu bang Oklahoma này, tôi đọc được một câu chuyện về một bác sĩ sống và hành nghề trong thành phố này vào những năm của thập niên 30.  Tôi vẫn còn nhớ rất rõ nội dung câu chuyện của bác sĩ này.  Những người dân sống trong vùng này vào lúc đó rất nghèo và không có phương tiện di chuyển, cho nên vị bác sĩ phải lái xe đến những ngôi nhà lụp xụp và nghèo nàn để chữa bệnh.  

Một ngày kia vị bác sĩ phát giác ra chính mình cũng đang mang một chứng bệnh, và khi ông cảm thấy triệu chứng bệnh càng ngày càng trở nên khó chịu hơn, ông ta liền vào một bệnh viện để khám.  Trong bệnh viện, ông được cho biết bị bệnh ung thư và ở trong thời kỳ cuối cùng.  Ngay lúc đó, ông cảm thấy bàng hoàng sửng sốt, nhưng sau đó ông giữ lại được bình tĩnh. Cũng trong lúc đó, tâm hồn và tư tưởng của ông đều hướng về đàn con còn trẻ của mình.  Ông có rất nhiều điều muốn tâm sự với đàn con nhưng bây giờ chúng còn rất trẻ không thể hiểu được những điều ông nói.

Vị bác sĩ liền dùng một máy ghi âm và thu những dòng tâm sự của mình với đàn con vào đó, để sau này khi chúng lớn lên có thể nghe và hiểu tâm sự cũng như những lời trăn trối của ông. Trong máy ghi âm, ông nhắn nhủ các con hãy suy nghĩ và tự hỏi: có sẵn sàng để thức dậy ra khỏi giường trong một đêm lạnh lẽo, lái xe đến nhà một bệnh nhân, biết rằng họ không có tiền trả và họ có thể đợi đến sáng để chữa trị không?  Ông hỏi các con ông: Nếu các con có thể trả lời sẵn sàng làm công việc đó, thì mới ghi danh học ngành y khoa trở thành bác sĩ như ông.

Ông bà anh chị em thân mến. Câu chuyện người bác sĩ vị tha và quảng đại trên mang một sự tương đồng rõ rệt với câu chuyện của Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay.  Như cuộc đời của vị bác sĩ, Chúa Giêsu cũng không có cuộc sống lâu dài.  Trước khi từ giã các môn đệ để chịu chết, tâm tư của Chúa cũng hoàn toàn hướng về các ông.  Người còn rất nhiều điều muốn nói với các ông, nhưng các ông chưa sẵn sàng để hiểu những điều đó.  Chúa Giêsu đã từng nói với các ông:  “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức hiểu nổi.”  Cũng giống như vị bác sĩ, Chúa Giê su đã sửa soạn một phương cách để tiếp tục dạy dỗ và hướng dẫn các môn đệ khi Người đã từ biệt, đó là Chúa Thánh Thần.  Chúa nói với các ông:  “Khi nào Thánh Thần chân lý đến, Người sẽ dẫn anh em đến sự thật toàn vẹn.”

Chúng ta thấy tất cả 3 bài Kinh thánh tuần này đều có một ẩn ý cho chúng ta biết sự xuất hiện của Chúa Thánh Thần, trong ngày lễ Hiện Xuống mà chúng ta sẽ mừng kính 2 tuần nữa.  Bởi vậy, chúng ta cần chú ý và hiểu rõ vai trò của Chúa Thánh Thần trong kế hoạch của Thiên Chúa.  Tất cả chúng ta đều biết vai trò của Thiên Chúa Cha, là Đấng tạo dựng vũ trụ, trời, đất và muôn loài trong đó có con người.  Chúng ta cũng quen thuộc với sứ mệnh của Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đấng cứu chuộc trần gian, nhưng có lẽ nhiều người chúng ta còn hiểu một cách mơ hồ về vai trò của Chúa Thánh Thần.

Kinh thánh cho chúng ta biết Chúa Thánh Thần đã đóng một vai trò quan trọng trong 3 công việc trọng đại trong kế hoạch của Thiên Chúa.  Công việc trọng đại thứ nhất của Chúa Thánh Thần là tham dự vào việc tạo dựng của Thiên Chúa.  Sách Sáng thế trong Cựu Ước cho chúng ta biết trước khi tạo dựng vũ trụ, trời đất và muôn vật, Thánh Thần Chúa đã chuyển động trên mặt nước.  Hay nói một cách khác, Chúa Thánh Thần đã chuẩn bị sẵn sàng mọi sự  cho công việc sáng tạo trần thế của Thiên Chúa. Công việc trọng đại thứ nhì của Chúa Thánh Thần là sự sinh xuống trần của Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa.  Khi Tổng Lãnh Thiên Thần Gabiel hiện ra và báo cho Đức Maria về sự thụ thai Ngôi Hai Thiên Chúa trong lòng bà, đã nói:  “Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ bao phủ bà.”  Nói một cách khác, Chúa Thánh Thần đã ngự trên Đức Maria và sửa soạn cho sự sinh ra của Ngôi Hai Thiên Chúa.  Và công việc trọng đại thứ ba mà Chúa Thánh Thần đã đóng một vai trò quan trọng xảy ra trong ngày Lễ Hiện Xuống, cũng là ngày khai sinh của Giáo hội.  Sách Tông Đồ Công Vụ diễn tả Chúa Thánh Thần chuyển động trên đầu các tông đồ như một luồng gió, thình lình như những ngọn lửa ngự trên họ và biến đổi họ từ những người sợ sệt, yếu đuối, trở thành một nhóm người can đảm làm chứng cho Chúa Giêsu Ki-Tô Phục sinh.  Họ không còn là một nhóm người nghi ngờ mà trở thành những người có lòng xác tín vào Chúa Ki-Tô và liên kết với nhau như những chi thể trong Thân Thể Chúa Ki-Tô. 

Ông bà anh chị em thân mến.  Qua 3 sự kiện trọng đại này, chúng ta nhận biết cùng một Chúa Thánh Thần đã hiện diện và chuẩn bị sự sống cho tạo vật, cho Chúa Giêsu và cho Giáo hội, và ban sự sống của Chúa cho chúng ta khi chúng ta nhận lãnh Bí tích Thánh tẩy. Như vậy, Chúa Thánh Thần như là một sợi dây liên kết chặt chẽ và mật thiết trong kế hoạch và ân sủng của Thiên Chúa, là nguồn ban sự sống thánh thiêng, và đồng thời tạo một sự liên kết mỗi Ki-tô hữu chúng ta với Chúa Giê-su Ki-tô và với nhau, như những chi thể trong Thân Thể Chúa Ki-tô.  Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu cho chúng ta biết: Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy.”  Nghĩa là không thể nói yêu mến Chúa, sống thân mật với Chúa, mà không tuân giữ giới răn Chúa dạy.  Nếu chúng ta tin Chúa thì chúng ta sẽ yêu mến Chúa, và nếu chúng ta yêu mến Chúa thì chúng ta sẽ vui mừng và hy sinh sống giới răn của Chúa.  Chúng ta biết khi không có lòng yêu mến chân thật thì khó mà làm, hoặc có làm thì chỉ vì miễn cưỡng hay không thật lòng.  Muốn được sống trong an bình, ơn sủng và tình yêu Chúa, chúng ta phải thực hành những điều Chúa truyền dạy. Xin Chúa biến đổi chúng ta trở thành những chứng nhân can trường và làm sáng danh Chúa Giê-su Kitô, để bình an, ơn sủng và tình yêu của Chúa luôn hiện diện trong cuộc sống của chúng ta. Và xin Chúa Thánh Thần soi sáng và ban ơn thêm sức để chúng ta xây dựng tình yêu thương hiệp nhất trong Thân Thể Chúa Ki-tô, là Giáo hội và là giáo xứ, và làm sang danh Chúa.   

Về mục lục

.

Exit mobile version