Lời Chúa Năm A Các bài suy niệm Chúa Nhật 26 Thường Niên Năm A

Các bài suy niệm Chúa Nhật 26 Thường Niên Năm A

CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN – A

Lời Chúa: Ed. 18, 25-28; Pl. 2, 1-11; Mt. 21, 28-32

——- 

Mục lục

1. Tình yêu được chứng minh bằng việc làm  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Thật lòng thật tình (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

3. Chữ hiếu nay còn không? (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

4. Vâng và không  (Lm. Thái Nguyên)

5. Từ vâng lời lề luật đến tin vào Đức Giêsu  (Jorathe Nắng Tím)

6. Để không thất hứa  (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

7. Lời nói có hơn việc làm? (Anna Cỏ May, Học viện MTG.Thủ Đức)

8. Chọn lựa  (Thiên San, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

9. Tiếng nói trong ta (Maria Nguyễn Huệ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

10. Việc làm quan trọng hơn lời nói  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

11. Hồi tâm  (Lm. Vũ Đình Tường)

12. Hai phong cách  (Trầm Thiên Thu)

13. Sám hối và tin – Điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa (Lm. Đan Vinh)

14. Thi hành Thánh ý Chúa bằng việc làm  (Lm. Trần Bình Trọng)

15. Nói và làm  (Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)

16. Làm ngay hôm nay  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

17. Ngôn hành bất nhất (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

18. Nhìn với nhãn quan của Chúa  (Lm. Xuân Hy Vọng)

 

Mục lục

1. Thực thi ý Chúa  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Sám hối là khởi điểm (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Người biết hoán cải có chỗ trong Nước Thiên Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

4. Sám hối, quay trở về là con đường dẫn đến ơn Cứu độ (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

5. Vâng lời  (Anna Cỏ May, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

6. Chọn lựa chân thực (Bông Hồng Nhỏ, Tiền Tập sinh MTG.Thủ Đức)

7. Trở về  (Lm. Trần Việt Hùng)

8. Lời nói đi đôi với việc làm  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

9. Suy niệm Chúa Nhật 26 Thường niên_A  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

10. Hành động tốt thắng câu nói hay (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)

11. Nói không và có  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

12. Cãi cha mẹ (Lm. Vũ Đình Tường)

13. Suy niệm Chúa Nhật XXVI Thường niên_A  (Lm. Anthony Trung Thành)

14. Cải thiện cuộc sống (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

15. Thi hành ý Cha  (Phạm Anh, Thanh Tuyển sinh MTG.Thủ Đức)

16. Lời nói đi đôi với việc làm-  (JM. Lam Thy, ĐVD)

17. Hối hận  (Lm. Trịnh Ngọc Danh)

18. Thiên sinh quan (Lm. Bosco Dương Trung Tín)

 

TÌNH YÊU ĐƯỢC CHỨNG MINH BẰNG VIỆC LÀM

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

 Trong cuộc sống cá nhân của mỗi chúng ta, lời nói và việc làm thường có những khoảng cách xa vời, thậm chí có lúc hoàn toàn trái ngược nhau. Những bài diễn thuyết hùng hồn với những mỹ tự bóng bảy nhiều khi chỉ là đồ trang trí cho những tư tưởng rỗng tuếch, nhất là với thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay. Với công nghệ quảng cáo tiếp thị, cái gì cũng nhất thế giới, đồ gì cũng là chất lượng hàng đầu…suy cho cùng, chỉ là sự dối trá. Để chứng minh lời nói của một người có thật hay không, người ta phải kiểm chứng việc làm của người đó. Thiếu việc làm, tình yêu chỉ là chót lưỡi đầu môi và giả tạo.

Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay nói đến một người cha và hai người con. Người cha sai hai con đi làm vườn nho. Hình ảnh vườn nho một lần nữa lại được Đức Giêsu dùng để so sánh với cuộc đời. Chúng ta dễ nhận ra, nơi hình ảnh người cha này là chính Thiên Chúa. Người cha này có hai người con. Một người, khi được cha trao việc thì chối từ, nhưng sau hối hận; người thứ hai mau mắn nhận lời, rồi lại không làm. Kết luận Chúa Giêsu đưa ra là: việc làm và đời sống của một người là tiêu chuẩn lượng giá về nhân cách của người ấy chứ không phải lời nói. Người con thứ nhất tuy từ chối lời đề nghị của cha mình, những đã sớm hối hận và đã đi làm vườn nho cho cha. Người con này được kể là người con hiếu thảo và được cha yêu mến. Trái lại, người con thứ hai khi được trao việc thì nhanh nhảu nhận lời, nhưng rốt cuộc lại không làm gì. Đây là người con chỉ vâng lời và hiếu thảo bằng môi mép, còn trong thực tế thì lười biếng và dối trá.

Hai người con tượng trưng cho hai lối sống, hai trào lưu, hai quan niệm và cũng là hai cách thực hành đời sống Đức Tin của chúng ta. Có thể hai nhân vật ấy đồng thời hiện hữu trong chính con người của mỗi chúng ta, khi chúng ta bị cám dỗ sống giả hình hoặc bất tuân. Thiên Chúa là Cha vẫn luôn mời gọi chúng ta làm điều thiện. Trước lời mời gọi ấy, có những người “miệng nói hay, mà tay không làm”. Trái lại, có những người khước từ rồi sau đó nhận ra lẽ phải và gắng công thực hiện ý Chúa.

Trong bối cảnh xã hội hôm nay, cách thức thực hành Đạo bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tại nhiều nơi và đối với nhiều người, đời sống Đức tin chỉ dừng lại ở những nghi lễ bề ngoài mà ít để ý đến chiều sâu và đời sống nội tâm. Theo lẽ thường tình, một khi hình thức tăng thì nội dung giảm. Khi người ta quá chú trọng đến bề ngoài thì dễ quên bề trong. Tại nhiều nơi, lời kêu gọi học hỏi giáo lý để giúp sống Đạo bị bỏ ngoài tai, thậm chí giáo dân còn “tìm cách bỏ trốn” mỗi khi đến giờ học giáo lý. Hậu quả của việc không học giáo lý là một Đức tin mờ nhạt, một lối giữ đạo nửa vời. Nhiều bạn trẻ đã mất Đức tin khi tiếp cận với nền văn minh và lối sống đô thị.

Lời Chúa hôm nay cũng dạy chúng ta cần thận trọng khi nhận định về tư cách của một người. Chắc hẳn những người có mặt lúc Chúa Giêsu tuyên bố những lời này cảm thấy “sốc”: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Lời tuyên bố của Chúa đảo ngược bậc thang giá trị mà người Do Thái thường dựa vào để nhận định một con người. Thì ra, những người mũ cao áo dài chưa chắc đã là những người thánh thiện. Những người biệt phái và luật sĩ dù khôn ngoan chưa hẳn đã là những người ngay chính. Để nhận định tư cách của họ, còn phải xem đời sống hằng ngày của họ ra sao, họ có thực hành đức công bình mà họ vẫn rao giảng hay không, đó mới là điều quan trọng. Một người có quá khứ tội lỗi, nhưng thành tâm thiện chí ăn năn hối cải, thì họ được Chúa tha thứ. Trong cuộc sống, vì có một quá khứ nghiện ngập, tù đầy khi muốn hoàn lương vẫn gặp phải những thành kiến của những người xung quanh, để rồi những người muốn làm một con người bình thường mà cũng không được. Ngôn sứ Edêkien đã truyền lại lời của Chúa: “Nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu thoát mạng sống mình!”. Vâng, trong cuộc đời, chúng ta còn khắt khe hơn Thiên Chúa trong việc xét đoán anh chị em mình. Những người thu thuế và những cô gái điếm được vào Nước Trời, vì họ đã để cho Lời Chúa thấm nhập và thay đổi cuộc đời tội lỗi của họ. Họ đã can đảm đoạn tuyệt với quá khứ xấu xa, để mặc lấy Đức Giêsu phục sinh, trở nên con người mới, thánh thiện tinh tuyền. Như thế, đối với Chúa, không thể vin vào một quá khứ xa xưa – dù tốt lành – để biện minh cho những lỗi lầm mình đang phạm. Thiên Chúa công minh vô cùng trong xét xử. Ngài vừa công bằng vừa giàu lòng thương xót.

“Hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chỉ vì ganh tỵ hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình”. Đó là lời khuyên của Thánh Phaolô gửi tới cộng đoàn tín hữu Philiphê. Khi nhấn mạnh đến đức khiêm nhường, vị Tông đồ dân ngoại trình bày Đức Giêsu như mẫu mực và lý tưởng của mọi Kitô hữu: Người là Thiên Chúa đã tự huỷ, mặc lấy thân nô lệ, sống như người trần thế vì yêu thương chúng ta (Bài đọc II). Những ai tiến bước theo Chúa Giêsu sẽ đẹp lòng Thiên Chúa Cha

Hãy bớt những lời nói và hãy gia tăng việc làm. Hãy nói ít và nghe nhiều. Hãy học sống thinh lặng để cảm nhận sự hiện diện của Chúa và những điều kỳ diệu Chúa làm quanh ta. Những điều kỳ diệu ấy, ta chỉ có thể cảm nhận bằng Đức tin và tình mến Chúa yêu người.

Về mục lục

THẬT LÒNG THẬT TÌNH

Lm. Jos DĐH.

Nói lộn làm sai, quên trước quên sau, đâu phải chỉ xảy ra nơi các cụ cao niên, chắc chắn tuổi tý, tuổi hợi, minh mẫn thế nào, cũng khó tránh khỏi thiếu sót, sai lầm, nếu gia đình, xã hội, không cảm thông, ở đời này, tìm đâu ra người hạnh phúc ? Biết sai để sửa, có vụng dại mới thấy cần phải rút kinh nghiệm, có thực lòng quyết tâm sống nghiêm túc, không hứa cuội, bình an và tình yêu thật mới không dừng lại ở giấc mơ. Đấng bậc khôn ngoan không thể vô tình mà nói: có thật trong lòng mới quí, nếu giả dối trong tim thì quả là đáng sợ. Cuộc sống trớ trêu, khi không đạt được hạnh phúc như ý, người ta dễ khùng dễ điên bất cứ lúc nào: không được ăn thì đạp đổ, hoặc giận cá chém thớt !

Để cho thấy trò giỏi con ngoan là ai, mỗi người phải chứng minh được thế nào là năng lực, là vâng lời trọng hơn của lễ. Để tình yêu sống động, có tính thuyết phục, giữa việc làm và lời nói của ta không thể dừng lại trên đầu môi trót lưỡi. Câu truyện 2 người con mà Đức Giêsu nói đến hôm nay, phản ánh nỗi trống vắng giữa tình cha con: từ chối rồi lại vâng, gật đầu rồi để đó, rồi lại quên ! Trong tình yêu, 2 từ vâng, dạ, không thể thiếu, trong hành động, lời hứa không thể thay cho việc làm. Sống vu vơ để cha mẹ cười hay khóc, không khó, làm cho cha mẹ hạnh phúc mới là khó, tương tự như trong chuyện tình: mê say một người thì dễ, yêu người đó thật lòng mới khó.

Thực ra thì thật lòng, thật tình, cũng là cách diễn tả hạnh phúc thật mỗi người đang tìm kiếm, mong chờ, khi đã nỗ lực cậy trông, đã gắn bó hết sức với những điều kiện ta đang có. Sống thật lòng, thật tình, nhất định sẽ xoá được những nghi ngờ không đáng xảy ra mà thế gian hay nói tới: nỗi khổ của người vợ là có chồng lười biếng, nỗi khổ của người chồng là có vợ đua đòi. Kinh nghiệm trường đời cho thấy: người chăm chỉ là người có phong cách sống giản dị, luôn nhiệt tâm nhiệt với việc được giao, người có niềm tin vào Đấng họ tin thờ, họ sẽ cảm nhận rõ hơn về sức mạnh và tinh thần lạc quan phục vụ. Người cha sẽ vui biết bao, khi 2 con trai của ông thật lòng, thật tình với việc được giao, gia đình sẽ hạnh phúc, tương quan xã hội sẽ phồn vinh, khi không có cảnh nói trước quên sau, mà mỗi người sẽ biết sống có trách nhiệm.

Người cha thật lòng thật tình với con cháu, đâu phải là điều khó hiểu, người con có nghe, có nhận ra, đi làm, đi lao động, là được chung tay xây dựng một gia đình hạnh phúc có nền tảng, phận làm con phải ý thức được điều đó. Người con thứ nhất, thưa không rồi lại có, người con thứ hai, vâng dạ rồi quên, rồi không làm ! Cơ hội để sửa sai, điều kiện để nhận biết tình yêu thương của cha, 2 người con, và tất cả những ai đang sống vô tâm, vô tình, đều có thể suy xét trở về với tình thương cha mẹ, với Thiên Chúa Đấng ta tin thờ. Việc tin Chúa, sống đạo, sống đức tin hôm nay, đâu còn ai nghĩ là để lấy tiếng khen, sợ cha mẹ buồn, sợ cha xứ và giáo hội không vui, vì vậy, ý thức sống thật với lòng mình, sống thật với lời nói việc làm, quả là cần thiết.

Không cần phải có đầu óc “bác học”, người bình thường thôi cũng đủ hiểu: miệng nói hay mà tay không làm, gật đầu thật nhiều mà tay không lay thử, thì có khác gì nước đổ đầu vịt ? Hứa cho nhiều rồi lại quên, biết nói cao siêu thâm thuý, biết cả tâm tính xấu xa của mình, thế mà không quyết tâm sửa, cuộc đời sẽ ra sao, gia đình, xã hội, rồi sẽ đi về đâu ? Đầu to mà óc như quả nho, hay nhỏ mà có võ, vẫn là những từ ngữ người trẻ hôm nay thích dùng, dù lời không tuỳ mị, cũng có ý nhắc nhớ chăm học, chăm làm, sống thật tình, sống thật lòng, để không ai bị tiếng là đạo hình thức. Nói mà không làm, nói nhiều làm ít, xưa hay nay, xã hội vẫn hiểu đó là căn bệnh: nói một đàng, làm một nẻo, chỉ là phô trương, cưa bom, đốt pháo, … nếu tự mỗi người không quyết tâm sửa, mức độ lây lan sẽ nguy hiểm không phải chỉ nơi gia đình.

Đồng ý rằng: khéo mồm miệng đỡ chân tay, hay làm trời cho, hay lo khó ngủ, tuy nhiên, khôn khéo là cách thế gian diễn tả, sự thật, sống thật, lúc nào, cũng phải được quan tâm, nếu theo Chúa. Thật đáng tiếc, nếu có tật mà không biết, có lỗi mà không sửa, được nhắc bảo vấn đề thiếu sót, mà cố chấp, tuỳ theo mức độ, nguy cơ mất mạng không phải là không xảy ra. Có vâng dạ đấng bậc sinh thành, có kiểm soát được lời ăn tiếng nói, mới hy vọng nhận biết con người thật của mình. Người môn đệ, người tín hữu theo Đức Kitô trọn vẹn nhất, trước hết phải là người không mâu thuẫn giữa lời nói và việc làm, biết thưa vâng, cũng phải biết thực hành ý Chúa. Chỉ dạy con cháu gọi dạ bảo vâng là cần thiết trong các tương quan, thì cũng phải lưu ý ta nên sống thật lòng, thật tình, như là một phần quan trọng của gương sáng cho thế gian, dù là bề trên bề dưới đều phải tuân thủ. Amen.

Về mục lục

CHỮ HIẾU NAY CÒN KHÔNG?

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

Ngày 07/09/2020 trên mạng phát tán đoạn clip bạo hành. Trớ trêu thay là con bạo hành mẹ tại Long An. Người con bất hiếu này lấy cây chổi đánh liên tiếp vào mẹ, đổ rác lên đầu bà cụ và kêu la lớn tiếng: “Mày đừng hành hạ tao. Ăn đi, mày ăn đi, hả họng ăn vô, biến đi, đừng thấy mặt tao”…

Dân mạng xót xa khi hình ảnh cụ bà trong clip chỉ biết ngồi co ro trên giường chịu trận, rồi khóc. Thấy cụ khóc, người phụ nữ xô té ngã xuống giường và chửi lớn: “Mày đừng hành hạ tao, nghe chưa, nghe chưa”…

Đoạn clip được đứa con gái thay vì can ngăn mẹ đừng hành hạ bà, nó lại quay clip và lưu giữ từ 11/2019, để rồi trong ngày ngoại mất ngày 02/09 đem cung cấp clip cho anh họ đăng và từ đó lan tràn trên facebook.
Thật bất hạnh.

Ba thế hệ ruột thịt cùng chung sống dưới một mái nhà, ai cũng tự vận vào mình một nỗi bất hạnh riêng.

Câu chuyện đau lòng trên như muốn gióng lên một hồi chuông báo động về lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ mình. Phải chăng ngày hôm nay, chữ hiếu đang dần bị khô héo? Phải chăng câu ca dao “con cãi cha mẹ trăm đường con hư” đã và đang diễn ra ngày càng nhiều? Phải chăng muốn con có hiếu phải có tiền thì nó mới nhận được sự cưng phụng của chúng?

Có lẽ, nỗi đau lớn nhất của cha mẹ là con cái không vâng lời cha mẹ. Nỗi bất hạnh tột cùng nhất của cha mẹ là con cái bất hiếu và phản loạn đối với công ơn dưỡng dục sinh thành. Kinh nghiệm của cha ông ta vẫn thường nói: “Uốn cây uốn thuở còn non – Dạy con dạy thuở còn thơ”. Con cái cần được dạy cho biết sống vâng lời ngay từ thuở nhỏ, lớn lên mới có hy vọng biết sống theo lời hay lẽ phải. Có những bậc cha mẹ nuông chiều con cái đến độ thay vì dẫn dắt con cái theo ý mình, họ lại luôn chiều theo ý con. Có những bậc cha mẹ quá dễ dãi, thường hay xí xóa những thói hư tật xấu của con, tưởng rằng lớn lên nó tự biết sửa đổi. Có những bậc cha mẹ giáo dục con cái nhưng “ngôn hành bất nhất”, khiến con cái học đòi tính “nói một đàng làm một lẻo”, thất hứa, thất tín với gia đình và với xã hội.

Nỗi lòng của cha mẹ đau khổ vì con cái thế nào, thì nỗi lòng của Thiên Chúa đối với nhân loại cũng vậy. Thiên Chúa sẽ không vui khi thấy con người chối bỏ tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ rất buồn khi con người sống buông mình trong những đam mê thấp hèn mà đánh mất nhân tính của con người. Thiên Chúa sẽ rất đau khổ khi thấy con người bỏ Chúa để tôn thờ thụ tạo thấp hèn hơn con người.

Hôm nay Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn hai người con. Cả hai đều không phải là người con ngoan thực sự. Người con thứ nhất tuy lúc đầu cãi lời cha mẹ nhưng sau hối hận lại đi làm ngay. Người con thứ hai thuộc diện “ba phải”, dạ vâng rồi lại không làm.

Người con đầu là hình ảnh của người ngoại đạo “nhưng tin có Chúa ở trên cao”. Họ làm điều thiện và tránh điều ác vì tin rằng “Ông Trời có mắt”.

Người con đầu cũng là hình ảnh người tội lỗi được ơn trở về cùng Chúa. Họ sám hối và làm lại cuộc đời của mình bằng việc sống và thực thi giới răn của Chúa.

Người con thứ hai có thể là hình ảnh của chính chúng ta. Tuy môi miệng vẫn xưng mình là con cái Thiên Chúa nhưng lại không sống theo giáo huấn của Chúa. Vẫn ngoại tình, trộm cắp, cờ bạc, rượu chè. Sống thiếu công bình và bác ái trong lời nói lẫn hành động. Có những người nói rất hay nhưng lại không thực hiện những điều mình nói. Có những người bề ngoài rất đạo đức nhưng trong lòng lại chất chứa đầy tính gian tham, lừa đảo. . .

Đã có một lần Chúa Giêsu từng nói: “không phải những ai thưa lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời đâu, mà chỉ có những ai biết lắng nghe và thực thi lời Chúa mới xứng đáng hưởng Nước Trời.

Xin Chúa giúp chúng ta biết “ngôn hành như nhất” để lời nói và việc làm của chúng ta luôn đẹp lòng Chúa và đẹp lòng mọi người. Amen

Về mục lục

VÂNG VÀ KHÔNG

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Cuộc sống vàng thau lẫn lộn, rất khó mà phân định đúng đắn nếu dựa vào những tiêu chuẩn và hình thức bên ngoài. Thấy vậy mà không phải vậy. Để phân biệt hai hạng người tốt – xấu; thật – giả, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn: “Hai người con”: Người cha sai hai đứa con đi làm vườn nho. Người con thứ nhất từ chối nhưng sau đó nó hối hận nên lại đi. Người con thứ hai nhận lời ngay nhưng rồi lại không đi.

Ðứa con thứ nhất tượng trưng cho những người thu thuế và tội lỗi,  những người xa lạc và ngoại giáo, những người bị đặt bên lề xã hội và tôn giáo. Ðời sống của họ không đẹp đẽ gì mà còn gây nên một thực trạng đáng buồn cho đời sống xã hội. Thế nhưng chính tội lỗi đã làm cho họ ý thức để sống khiêm tốn, và thực tâm hoán cải trước lời mời gọi sám hối của Gioan. Họ là những người thiếu nhiều hiểu biết về đời sống tôn giáo, nhưng điều Chúa cần nhất là sự mềm mại của con tim để được biến đổi. Rốt cuộc, họ lại là những người tin vào Ðức Giêsu và đón nhận được ơn cứu độ trước nhiều người khác.

Đứa con thứ hai tượng trưng cho các nhà lãnh đạo Do Thái Giáo, những người tự cho mình là đạo đức, và sống công chính theo Lề Luật. Sự chủ quan và ảo tưởng đó đã làm cho họ tự mãn và khép kín, thấy mình không cần sám hối, nhất là việc sám hối đòi phải tin vào Ðức Giêsu. Điều đó làm cho họ sợ phải mất đi địa vị và quyền lợi, sợ phải thay đổi lối sống đạo. Vì thế, họ chỉ thưa “vâng” bằng lời nói, chứ không muốn “vâng” bằng việc làm. Nhưng tiếc thay, “Đức tin không có việc làm là đức tin chết.” (Gc 2, 17). Giá trị đích thực của một con người không phải ở lời nói mà ở việc làm; không phải là lý thuyết mà là hành động; không phải nói cho thật hay mà làm cho thật tốt.

Kể dụ ngôn xong, Chúa Giêsu kết luận:“Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Lời của Ðức Giêsu như một trái bom nổ trước mặt các thượng tế, kinh sư, và nhóm pharisêu. Phải chăng Chúa muốn lời cảnh cáo đó để may ra cảnh tỉnh được những tâm hồn đã khô cứng, vì tự ái và kiêu căng mà không muốn đón nhận chân lý. Dựa vào Lời Chúa, Đức Gioan Phaolô I cũng nói lên rằng:“Trên thiên đàng không thiếu những người thu thuế và gái điếm, nhưng chắc chắn không có kẻ kiêu ngạo”. Phải chăng kẻ kiêu ngạo không còn khả năng sám hối để sống theo Lời Chúa, không còn khả năng để cảm nhận và đón nhận tình yêu?

Dụ ngôn tuy đơn giản và vắn gọn, nhưng cho thấy điều cốt yếu trong việc sống đạo hay sống đức tin: là thực hành Lời Chúa dạy. Vì không phải nói “Lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời” (Mt 7,21). Không thể dựa vào việc chu toàn những nghi lễ bên ngoài hay một số hình thức luật lệ nào đó là xong. Điều quan trọng không phải là có đạo nhưng là có Chúa; không phải giữ đạo mà là sống đạo, không chỉ là tuyên xưng đức tin mà là sống đức tin.

Lời hứa không bao giờ có thể thay thế được việc làm, và lời nói hoa mỹ không bao giờ thay thế được những nghĩa cử. Con đường của Kitô hữu ở chỗ hành động chứ không phải hứa hẹn; ở chỗ thực hiện chứ không phải nói hay. Tuy nhiên, Chúa vẫn muốn chúng ta có một sự vâng phục trọn vẹn từ lời nói đến việc làm, “ngôn hành như nhất” như tiếng “xin vâng” của Đức Maria, với cả đức tin và lòng mến.

Đời sống chúng ta vẫn có sự giằng co giữa “vâng” và “không”, giữa ý mình và ý Chúa, giữa sự vươn lên của tinh thần và ghì xuống của thân xác. Sự giằng co nói lên thân phận yếu đuối của con người, đã từng ngã nghiêng trong cuộc sống, nhưng cũng là một thao thức muốn vượt qua tình trạng của bản thân. Tuổi trẻ là như thế, nhưng luôn có thể hơn thế, bằng sự quảng đại và nhiệt tình dấn thân cho Nước Chúa.

Cầu nguyện

Lạy Chúa!
Trước một thế giới bạo lực và ích kỷ,
nhiều khi chúng con cũng thất chí,
vì thấy cuộc đời sao vô lý,
nên khép kín và tìm chỗ cách ly.

Chúng con có vẻ như đang kết nối,
nhưng thực sự là củng cố “cái tôi”,
cho dù đang phục vụ trong Giáo hội,
nhưng bó hẹp trong nội bộ mà thôi.

Chúng con quên ơn gọi của chính mình,
là đức ái trong gia đình trước hết,
nhưng đồng thời giữa cảnh đời xã hội,
phải dấn thân cho cuộc trần đang trôi nổi,
dám thay đổi theo đường lối của Tin Mừng.

Chúng con cần ra ngoài nhóm bạn thân,
để xây dựng tình bạn hữu với mọi người,
tránh mọi hình thức phân biệt và kỳ thị,
để tìm kiếm công ích và cổ võ công lý,
làm nên những điều cao quí cho nhau.

Xin cho chúng con có tinh thần tham gia,
từ công việc nhà đến công việc giáo xứ,
từ việc cá nhân đến việc của cộng đoàn,
đừng coi mình như người ngoài cuộc,
nhưng thấy mình luôn có trách nhiệm,
sống tình liên đới với tất cả trái tim,
luôn tích cực góp phần trong mọi việc,
từ vấn đề sinh thái đến bảo vệ thiên nhiên,
từ gìn giữ tài nguyên đến môi trường sạch đẹp.

Xin cho chúng con hòa mình vào xã hội,
với sự nhiệt tình, sáng kiến và tự nguyện,
để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn,
thế giới văn minh, công bình và huynh đệ,
chứ không sống theo chủ nghĩa “mặc kệ”,
kẻo trở nên nô lệ cho chính mình.

Xin cho con thấy Đức Kitô đang sống,
đang hoạt động nơi mọi người thiện chí,
để con đem tâm trí mà sáng tạo cho đời,
làm đẹp mới cho bầu trời nhân loại.

Đừng để con bàng quan nhìn cuộc sống,
mà hãy nhập cuộc với tâm thế hiệp thông,
dám sống như Đức Kitô đã từng sống,
trở nên con người như Chúa vẫn ước mong. Amen.

Về mục lục

TỪ VÂNG PHỤC LỀ LUẬT ĐẾN TIN VÀO ĐỨC GIÊSU

Jorathe Nắng Tím 

Tin Mừng Chúa Nhật này tuy tiếp tục nói về vườn nho, nhưng không đặt vấn đề thời gian làm việc, lương bổng, và đặc biệt không gọi “người làm vườn nho” là “công nhân, người làm” nữa, nhưng gọi là “Con”, và trọng tâm của dụ ngôn chính là  hai người con được mời gọi đi làm vườn nho của Cha mình.

Chúng ta thấy cung giọng của Tin Mừng hôm nay hoàn toàn thay đổi khi tương quan Cha – Con, liên đới gia đình thay thế “thứ bậc” ông chủ – người làm công, lời mời thay cho lệnh, tự do thay “giao kèo, hợp đồng”, nên không còn cảnh kèo nhèo, phân bì, khiếu nại tiền công cuối ngày của đám thợ nghĩ mình bị chủ bóc lột, ăn chặn, xử ép bất công.

Hai người con được cha mời gọi đi làm vườn nho, và cả hai hoàn toàn tự do chấp thuận hay từ chối, toàn quyền quyết định đi hay không đi, và việc vào làm vườn nho không mang tính cách của một hình phạt, án khổ sai, hay công việc dành cho tôi tớ, nhưng là vinh dự chỉ dành cho con cái, và trách nhiệm đương nhiên của người thừa kế gia nghiệp.

Người con thứ nhất ban đầu không muốn đi đã thẳng thắn trả lời Cha : “Con không muốn”. Nhưng  anh suy nghĩ lại và hối hận, nên lại đi theo như ý muốn của Cha. Trái ngược với người thứ nhất, con thứ hai đã năng nổ ban đầu, nhưng rồi lại không đi.

Hình ảnh này ngôn sứ Êdêkien đã loan báo khi nói về người công chính và không công chính trong dân Ítraen : Các ngươi lại nói : “Đường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng”. Vậy hỡi nhà Ítraen hãy nghe đây : Phải chăng đưòng lối của Ta không ngay thẳng hay đường lối của các ngươi mới không ngay thẳng? Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình” (Ed 18,25-27).

Ngôn sứ nhấn mạnh : đường lối của Thiên Chúa không sai, nhưng sai là do con người có tự do đã từ chối thực hiện đường lối thánh thiện, tốt đẹp của Thiên Chúa, như người Cha đã mời gọi cả hai con cùng vào vườn nho, nhưng quyết định vào hay không tùy thuộc lựa chọn và quyết định tự do của mỗi người.

Đức Giêsu, trong Tin Mừng Mátthêu, khi đưa ra dụ ngôn “hai người con” đã không chỉ nói chung chung, nhưng trực diện và trực tiếp nói với những kinh sư, Pharisêu, và toàn thể giai cấp lãnh đạo tôn giáo lúc bấy giờ cái sai của họ, vì họ không tin Ngài. Sở dĩ không tin Ngài, vì họ không thể dứt ra khỏi cơ cấu của truyền thống, không thể gỡ mình khỏi ràng buộc của cơ chế lề luật để tâm hồn  mở rộng đón nhận Tin Mừng, trái tim mở cửa đón tiếp Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến. Họ là những người “vị Lề Luật”, sùng bái, tôn thờ Lề Luật nên không ra khỏi não trạng vâng phục Lề Luật cách mù quáng, mà chỉ muốn ở lỳ trong “vòng chi ly, tỉ mỉ của Lề Luật”, nên đã không để Đức Giêsu dẫn vào con đường đức tin, khi từ chối tin Ngài là Con Thiên Chúa.

Chính vì khép kín, lại kiêu căng, ương ngạnh, họ vô tình đánh mất chỗ tốt nhất mang lại nhiều lợi nhuận nhất là chỗ của người có tội, chỗ của những người thu thuế gian tham, chỗ của những cô gái điếm buông thả, lăng loàn, chỗ của phường lưu manh, trộm cướp, nhưng tất cả những người tưởng  bị loại bỏ này đã không từ chối con đường Cứu Độ Thiên Chúa mở ra mời gọi, khi họ đặt niềm tin vào Đức Giêsu, như Đức Giêsu đã qủa quyết : “Tôi bảo thật các ông : những ngưòi thu thuế và những cô gái điếm  vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin” (Mt 21,31-32).

Như thế, then chốt của vấn đề, đáp án của nan đề là tin vào Đức Giêsu, Đấng là “Đường, Sự Thật và Sự Sống”, Đấng mà Gioan Tẩy Giả đã trân trọng loan báo và giới thiệu với đám đông : “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29). Và đó là ý muốn của Thiên Chúa, nên tin Đức Giêsu là Đấng xóa tội, tội lỗi của tội nhân sẽ được Máu Ngài  tẩy xóa, rửa sạch ; tin vào Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ nhân hậu, giầu lòng thương xót, thân phận yếu đuối, tội lụy, bất xứng của người có tội sẽ được thương xót, chữa lành. Cũng vậy, Nước Trời sẽ chỉ dành cho những ai đặt niềm tin vào Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ, nên bất cứ ai, dù tội lỗi nhưng tin vào Ngài chắc chắn sẽ được Ngài cứu độ, và ban phần thưởng thiên đàng.

Vâng, Đức Giêsu  luôn mời gọi chúng ta noi gương Ngài vâng phục trong Tình Yêu “cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cậy thập tự” để từ vâng phục, chúng ta đi đến đức tin, khi tin “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2,8.11), bởi vâng phục mà thiếu tình yêu, dù là vâng phục Lề Luật, chúng ta sẽ như người con thứ hai nhanh nhẩu trả lời Cha “Con đi ngay”, nhưng lại không đi, vì chỉ vâng phục  trong Tình Yêu và với Tình Yêu, chúng ta mới đi đến cùng con đường Thiên Chúa muốn chúng ta đi, mới có thể  thực hiện Ý Muốn của Thiên Chúa khi tin vào Đức Giêsu và tuyên xưng Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.

Về mục lục

ĐỂ KHÔNG THẤT HỨA

Bông hồng nhỏ

Mỗi ngày, khi ngồi nhìn lại chính mình, ta phải đấm ngực vì bao lẫm lỗi. Ta đã hứa hẹn và rồi cũng có khi ta thất hứa. “Thất hứa” là một hòn đá cản lối trong tương quan, ta chẳng muốn bị nó ngáng chân nhưng đã bao lần vì nó mà ta vấp ngã, mất chữ tín với người anh em và với chính Chúa. Hôm nay, Thầy Giêsu mời gọi ta nhìn lại đời sống của chính mình. Ta là ai trong hai người con được cha sai đi làm vườn nho? Làm sao để ta có thể giữ lời hứa?

Lời hứa chỉ thật sự có giá trị khi nó được biến thành hành động cụ thể. Mau mắn đáp lời xin vâng là điều rất tốt nhưng chưa đủ, ta phải sẵn sàng để thi hành bổn phận đến cùng, không lùi bước khi gặp những trở ngại. Cũng có những khi ta lỡ từ chối một công việc nào đó nhưng khi nhìn lại và thấy hối hận, ta hãy can đảm để sửa sai. Có lẽ chẳng có ai muốn mình bị khiển trách như người con thứ: hứa mà không làm, vâng dạ rồi để đó. Người con đầu được cha sai đi làm vườn nho, anh từ chối ngay: “Con không muốn đâu!” (Mt 21, 29). Cuộc sống của ta cũng thế, có rất nhiều điều ta không muốn làm, có khi ta dám từ chối ngay nhưng cũng có khi vì nể nang mà ta hứa hẹn. Có nhiều công việc đòi hỏi ta phải hy sinh nhiều hơn, chịu vất vả hơn, những việc không phù hợp với sở thích của ta, những việc nằm ngoài khả năng của ta, và những khi ta mắc phải “bệnh lười”, vì thế ta từ chối thực hiện những việc được mời gọi. Có khi, ta lỡ từ chối một cơ hội làm việc tốt và có ích cho ta, điều ấy làm ta tiếc nuối. Những giây phút nhìn lại là những giây phút rất quan trọng, bởi nó giúp ta có thể suy nghĩ về những quyết định và hành động của bản thân. Khi nhìn lại, ta sẽ thấy cả những sai lầm của chính mình, nhìn lại để cho tiếng lương tâm lên tiếng. Lắng nghe tiếng lương tâm, ta sẽ tìm lại được điều đã mất bằng cách sám hối và sửa đổi lỗi lầm. Như người con đầu, ta hãy đi làm việc cha mời gọi, đừng ngại ngần vì trước đó ta đã lỡ từ chối. Nếu ta đã hứa mà không thể thực hiện vì một khó khăn nào đó ta gặp phải, yếu tố ấy nằm ngoài dự đoán của ta, hãy trình bày thật rõ sự việc với người có trách nhiệm để được giúp đỡ. Hứa với ai điều gì ta hãy cố gắng giữ lời hứa. Đừng biến mình thành kẻ hay thất hứa, vì nếu ta thất hứa nhiều lần thì làm sao người khác có thể tín nhiệm ta nữa.

Việc sống Lời Chúa không chỉ dựa trên lời nói nhưng phải đẩy đến chỗ hành động. Sống Lời Chúa không hề dễ dàng vì nó đòi hỏi ta phải dâng hiến tự do của bản thân ta. Thiên Chúa cho ta có quyền tự do chọn lựa: tuân phục hay từ chối tuân phục. Những người thu thuế và những cô gái điếm là những người được liệt vào hàng tội lỗi nhưng khi được ông Gioan Tẩy Giả chỉ đường, họ đã sám hối và tin. Họ đã thay đổi đời sống của mình. Chúa Giêsu đã nói với các thượng tế và kỳ mục rằng: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy” ( Mt 21,31b-32). Khi nghe những lời ấy, ta cảm nhận được nỗi buồn của Thầy Giêsu trước thái độ cứng lòng của các thượng tế và kỳ mục. Thiên Chúa là Đấng hằng xót thương ta, Người biết rõ ta vốn yếu đuối và lầm lỗi, Người đang chờ đợi ta sám hối từng ngày. Hãy có lòng khiêm tốn để đến với lòng thương xót của Thiên Chúa, để được Người biến đổi lòng ta.

Lạy Chúa Giêsu! Khi con cứ mãi yếu đuối và lầm lỗi, Người có buồn con không? Mỗi lần con bất lực không thể đứng dậy sau khi vấp ngã, con cứ mãi thất hứa với Người, Người có còn thương con không? Chúa biết con cần Chúa mãi mãi, mãi mãi con cần Chúa. Xin ban ơn cho con biết khiêm tốn nhìn nhận giới hạn của chính mình, biết sám hối sau mỗi lần vấp ngã và biết đặt trọn niềm tin yêu phó thác vào Chúa. Chúa vẫn dành cho con một con đường để trở về, xin Người dẫn con đi trên con đường ấy. Amen.

Về mục lục

LỜI NÓI CÓ HƠN VIỆC LÀM?

Anna Cỏ may  

 Khi yêu nhau, người con gái thường nói ngược lại điều họ mong muốn. Vì thế, có một kết luận rằng: “Con gái nói không là có, con gái nói có là không”. Và rồi trong cuộc sống thường ngày, đâu đó, bản thân chúng ta vẫn có những lời nói như vậy. Chúng ta không muốn làm hay cũng chẳng muốn ăn, nhưng sau đó chúng ta lại đi làm hay đi ăn. Cũng có người miệng luôn một dạ hai vâng khi được trao việc, nhưng sau đó lại không làm hoặc nhờ người khác làm giúp. Bên cạnh đó, có không ít người sống và làm đúng với những gì mình đã nói ra và đã hứa với người khác. Vậy giữa những người này, bạn thuộc tốp người nào?

Hôm nay, Chúa Giêsu kể cho các Thượng tế và Kỳ mục trong dân dụ ngôn “hai người con”. Cả hai người đều được cha sai đi làm vườn nho. Người hỏi họ:  “Trong hai người đó, ai là người thi hành ý muốn của cha?” (x. Mt 21, 31). Khi được cha mời gọi: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho” (Mt 21, 28), người con đầu vì không muốn làm nên anh trả lời thật với cha: “Con không muốn” (Mt 21, 29). Sau đó, anh lại hối hận vì lời mình đã nói với cha nên đã đi làm. Thái độ hối hận rồi đi làm của anh cho thấy anh là một người biết suy nghĩ phản tỉnh, biết khiêm tốn nhận ra lỗi và can đảm sửa lỗi. Anh là người có khả năng làm việc cha giao và hoàn thành tốt. Hơn hết, anh nhận ra bổn phận, trách nhiệm của mình trong gia đình. Còn người con thứ hai, anh nhanh nhẹn đáp lời: “Thưa ngài, con đây!” (Mt 21,30). Nhưng, anh lại không đi làm. Phải chăng, đây là câu cửa miệng hằng ngày của anh nên anh không ý thức đủ khi được cha mời gọi. Anh nhận ra mình không đủ sức để làm hoặc đang vướng vào việc khác chăng? Có thể, anh thấy cha đang cần người làm mà người anh trai đã từ chối nên anh lên tiếng xin vâng. Dầu vậy, anh vẫn bị coi là người con không vâng lời cha. Vì thật sự, anh không đi làm việc đã nhận từ cha. Nếu anh biết đến xin lỗi với cha là anh không thể làm việc cha trao thì anh sẽ không bị cha khiển trách.

Chúa Giêsu mời gọi mỗi người hãy luôn thi hành ý Chúa hơn là chỉ nghe suông, nói suông. Ngài cũng để tâm đến những ai biết nhận lỗi và sửa lỗi. Ngài nói rằng những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Trời trước những người chỉ nói mà không làm (Mt 21,31) vì những người thu thuế và gái điếm có thái độ sám hối và tin vào lời mời gọi của Chúa. Họ biết từ bỏ con đường tội lỗi và bắt đầu lại từ đầu trong tình yêu Chúa. Trong tình yêu Chúa, họ thật sự được trở về vị trí của một người con và được hưởng những gì họ được hưởng (x. Lc 15, 11-32). Thánh Phaolô – người môn đệ theo Chúa cũng đã nói: “Đừng chỉ vâng lời trước mặt, như muốn làm đẹp người ta, nhưng như nô lệ của Đức Kitô, đem cả tâm hồn thi hành ý Chúa” (Ep 6,6).

Lời Chúa hôm nay giúp cho bạn nhận ra điều gì nơi mình? Bạn sẽ thực hiện như thế nào cho chính bản thân mình?

Lạy Chúa! Chúa thấu rõ tâm can con. Xin Chúa cho con biết ý thức trong lời nói của mình và biết thống nhất lời nói và hành động, cùng có tinh thần sám hối trong mọi lỗi lầm. Nhờ đó, con luôn sống theo thánh ý Chúa và xứng đáng là người con hiếu thảo. Amen.

Về mục lục

CHỌN LỰA

Thiên San

Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa. Có những chọn lựa đưa ta đến bình an, vui mừng, hy vọng; nhưng cũng có những lựa chọn khiến ta mất bình an, gây xáo trộn, đổ vỡ ngay trong tâm hồn, trong tương quan. Tại sao vậy? Đó là một cuộc chiến đấu trong ta. Khi chọn lựa theo sự dễ dãi của bản năng, ta khó có thể gặp được an vui, hạnh phúc. Nếu có thì cũng chỉ là giả tạo, mau qua! Ngược lại, khi ta chọn nghe theo tiếng lương tâm, sự thúc đẩy của Thiên Chúa, ta sẽ có được bình an thật, mặc dù ngay khi chọn lựa, ta sẽ gặp phải sự chống đối, mất lòng… Hạnh phúc Nước Trời được xây dựng dựa trên những chọn lựa của lương tâm. Đó là tiếng nói của Tình Yêu và Chân Lý. Thiên Chúa mời gọi ta đáp lời Ngài qua những chọn lựa như vậy.

Thiên Chúa là người cha yêu thương, nhân từ và luôn muốn điều tốt nhất cho ta. Mỗi ngày, Ngài vẫn đến bên và thầm thĩ mời gọi ta: “Này con, hôm nay, con hãy làm vườn nho” (Mt 21,28). Ta tự hỏi, làm việc trong vườn nho là làm những gì? Phải chăng là chu toàn tốt những công việc ta được trao phó? Còn hơn thế nữa! Đó là lời mời gọi ta hãy không ngừng sống yêu thương trong môi trường chúng ta đang hiện diện. Nơi ấy chính là vườn nho và công việc của ta là làm cho tình yêu của Cha được lan tỏa đến với hết mọi người. Đó là một thách đố đòi buộc ta sống “ăn ngay ở lành”, nghe theo tiếng lương tâm, làm ơn cho kẻ ghét ta, đi bước trước đến với tha nhân để gửi trao yêu thương… Thiên Chúa mời gọi ta làm việc trong vườn nho của Ngài với tư cách là một người con. Người con có đủ tự do để nói “có” hoặc “không” trước lời mời gọi của cha mình. Bởi vậy, ta thường nhân danh “tự do” mà không ít lần làm trái ý Cha. Đó là những lần ta chọn làm theo bản năng, ham muốn tự nhiên, lợi ích trước mắt cho bản thân, chạy theo những thú vui giả tạo.

Dân gian có câu: “Thật thà, thẳng thắn thường thua thiệt”. Là con cái Chúa, chúng ta được mời gọi sống theo các giáo huấn của Giáo hội, đặc biệt là qua lời dạy của Đức Giêsu Kitô – Con Một Thiên Chúa. Nhiều lúc, ta bị giằng co giữa hai đàng: một là tiếng nói của bản năng, lợi ích thế gian, hai là tiếng nói của Thiên Chúa qua lương tâm. Có lúc, tiếng nói của bản năng rất mạnh mẽ, cuốn hút còn tiếng nói của lương tâm thì nhẹ nhàng, khó hiểu. Có lúc, cả hai đều mạnh mẽ khiến ta phân vân, và trong ta là “một cuộc chiến đấu cam go”. Như thánh Phaolô từng nói: “Điều tôi muốn thì tôi lại không làm, điều tôi không muốn thì tôi lại làm” (Rm 7,19). Chẳng hạn, trong thi cử, nếu xem tài liệu, điểm ta sẽ cao; còn nếu không xem, ta có thể sẽ bị rớt môn. Hay khi sống giữa một nhóm người chủ trương “lợi nhuận”, bất chấp thủ đoạn, không cần quan tâm đến sức khỏe của người khác, ta có dám đi ngược lại chủ trương đó? Nghĩa là ta chấp nhận mức lợi nhuận thấp, sản xuất hàng hóa sạch, chất lượng, tuân thủ các quy tắc an toàn sức khỏe của mọi người. Khi sống sự công chính, thanh liêm, có thể ta sẽ bị thua thiệt, không giàu có như người khác nhưng đổi lại ta sẽ có được sự bình an đích thực, hạnh phúc Nước Trời đang chờ đợi chúng ta. Và khi sống được như vậy, ta đang xây dựng hạnh phúc cả đời này và đời sau. Đó cũng là một trong những công việc ta cần làm trong vườn nho của Chúa. Lời mời gọi Thiên Chúa dành cho chúng ta là “hôm nay”. Nếu ta đã lỡ từ chối Ngài một điều gì đó, ta hãy hối hận như người con thứ nhất và hãy quay lại thực thi điều Cha muốn. Hơn nữa, “Nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình” (Ed 18,27).

Lạy Cha, chúng con cảm tạ Cha đã luôn yêu thương, tin tưởng và mời gọi chúng con làm việc trong vườn nho của Cha. Xin Cha ban ơn giúp sức để chúng con biết sử dụng tự do Cha ban mà mau mắn đáp lại lời mời gọi của Cha trong từng biến cố lớn nhỏ của cuộc sống. Đồng thời, xin cho chúng con luôn biết ăn năn sám hối trở về cùng Cha sau những lần vấp ngã. Vì chúng con tin rằng Cha luôn chờ đợi để ôm chúng con vào tình yêu của Cha.Amen.

Về mục lục

TIẾNG NÓI TRONG TA

Maria Nguyễn Huệ

Trong mỗi người, ai cũng có kinh nghiệm khi sai lỗi, chúng ta thường cảm thấy áy náy, bứt rứt. Có một tiếng nói luôn vang lên trong ta, nó hối thúc ta suy nghĩ về những lời   nới, hành động ta đã làm.Tuy tiếng nói ấy nhẹ nhàng nhưng âm đi âm lại, dù đã qua một thời gian dài nhưng vẫn tồn tại trong ta cho đến khi ta thực sự suy nghĩ và nhận biết về hành động của mình và lựa chọn lại để nên tốt hơn. Đó là tiếng nói của lương tâm.Thật kỳ diệu! Đó là một hồng ân lớn lao, tuyệt diệu mà Thiên Chúa đã đặt để trong tận đáy lòng mỗi người. Nhưng làm sao để nghe được tiếng nói ấy? Khi nghe được, ta sẽ hành động như thế nào?

Lương tâm là tiếng nói của Thiên Chúa dành cho con người-tiếng nói của thần linh. Để nghe được tiếng nói ấy, ta cần phải thinh lặng, bỏ qua những ồn ào, những bận rộn và những toan tính khác nhau trong con người mình. Trong cuốn sách “Sức mạnh của sự thinh lặng” tác giả có khẳng định: “Thiên Chúa là sự thinh lặng, Ngài nói trong thinh lặng và thinh lặng là điều cần để gặp Ngài”. Nhìn lại trong thinh lặng, chúng ta có thể nhận định rõ điều chúng ta đang chọn, đang làm và điều phải hướng tới với trách nhiệm, bổn phận trong tình yêu. Với kinh nghiệm của người con thứ nhất, ban đầu anh từ chối không đi “nhưng sau đó, anh hối hận nên lại đi” (x. Mt 21, 29). Qua một khoảng thời gian “sau đó” anh đã chọn làm điều tốt hơn. Thời gian “sau đó” là một khoảng lặng. Sau khi trả lời cha, anh đã để cho tâm hồn mình lặng lại và anh đã đáp lại tình yêu của cha qua việc anh đã đi làm vườn nho. Thinh lặng sẽ giúp chúng ta nghe rõ hơn tiếng nói của Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta qua từng lời nói, từng công việc. Chúng ta hãy sống chậm lại, dành thời gian thinh lặng, hít một hơi thật sâu để cảm nhận tiếng nói thần linh đang thầm thĩ với ta.

Khi nghe được tiếng nói ấy, chúng ta hãy mau mắn làm theo. Người con thứ nhất sau khi đã hối hận, anh “lại đi”. Phải chăng anh đã nghe được tiếng nói của tình yêu vang lên trong anh?  Tình yêu ấy là tình yêu của người cha dành cho anh. Thiên Chúa cũng đang mời gọi mỗi người chúng ta: “Hãy đi làm vườn nho cho Ta”.  Làm vườn nho chẳng gì khác hơn là thể hiện tình yêu của Thiên Chúa – làm chứng cho Tin Mừng ngay giữa trần gian này. Với sức riêng của ta, điều ấy thật  khó! Bởi trong chúng ta sẽ luôn xảy ra sự mâu thuẫn, chọn để được lợi ích cá nhân hay hướng đến Thiên Chúa và tha nhân? Trong thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: “Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” (Pl 2,4). Mỗi khi thực hiện như vậy, chúng ta sẽ trở nên  giống Chúa Kitô hơn và được trở nên người con quý mến của Chúa Cha. Vậy chúng ta đừng chần chừ nữa nhưng hay bắt đầu làm vườn nho cho Chúa ngay từ giờ phút này, tại nơi chúng ta đang hiện diện bằng những lời nói, suy nghĩ, những cử chỉ yêu thương.

Lạy Cha! Chúng con đã nhiều lần từ chối lời mời gọi Cha dành cho chúng con. Xin Cha tỏ lòng thương xót cùng giúp chúng con biết hoán cải mỗi ngày. Nhờ việc, chúng con đi vào sự thinh lặng để nghe thấy lời mời gọi của Cha ngay trong tâm hồn, để mỗi ngày chúng con biết sống tâm tình con thảo đối với Cha khi mau mắn vâng nghe và thực thi điều Cha mời gọi. Amen.

Về mục lục

VIỆC LÀM QUAN TRỌNG HƠN LỜI NÓI

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 Chàng thanh niên bước vào siêu thị tìm mua mấy thứ cần dùng, vài phút sau anh nhận ra một phụ nữ lớn tuổi đang chăm chú nhìn mình. Không để tâm nhiều đến ánh mắt ấy, vì anh còn nhiều việc phải làm. Khi đến quầy tính tiền, thấy người đàn bà lúc nãy đang đứng đợi, anh lịch sự nhường cho bà xếp hàng trước. Người phụ nữ cười buồn:

– Xin cảm ơn. Tôi thành thật xin lỗi vì đã làm cho cậu khó chịu. Thú thực, trông cậu rất giống con trai tôi, nó mới qua đời cách đây vài tháng.

Động lòng trắc ẩn trước người phụ nữ đáng thương, chàng trai đáp:

– Cho con chia buồn, con có thể làm gì để giúp má?

Người đàn bà vui hẳn lên:

-Khi còn sống, con trai thường đi sắm đồ chung với má, nếu phải chia tay, bao giờ nó cũng nói: “tạm biệt má.” Con có thể nói như thế để ta vơi nỗi buồn không?

Không cần suy nghĩ, chàng thanh niên trả lời:

– Ồ! Con sẵn sàng làm tất cả để má vui.

Chàng trai giúp người phụ nữ bỏ các món hàng vào túi, trước khi bà bước ra cửa, anh đưa tay chào:

– Tạm biệt má!

Người phụ nữ quay lại cười thật tươi và gật đầu. Khi nhận hóa đơn, anh vô cùng ngạc nhiên vì thấy số tiền phải trả là 1.500.000đ, nên hỏi:

-Xin lỗi, cô có tính nhầm không? Những món hàng tôi mua chỉ đáng giá khoảng 400.000đ.

Nhân viên thâu ngân trả lời:

– Người phụ nữ hồi nãy nói anh là con và sẽ trả tiền cho bà.

Câu chuyện nghe thật buồn! Người đàn bà bịa ra chuyện thương tâm và dùng lời ngon ngọt để lừa dối chàng trai tốt bụng. Những chuyện tương tự như thế vẫn xảy ra hàng ngày trong mọi ngõ ngách cuộc sống hôm nay.

Giữa đời thường, có hai hạng người: nói nhiều hơn làm, hứa hẹn đủ điều, nhưng rồi không làm gì cả; làm nhiều hơn nói, không hứa hẹn, không ba hoa khoác lác, nhưng làm những việc đạo đức, nhân hậu, tốt lành, có khi làm một cách kín đáo. Ai cũng thích hạng người thứ hai vì họ chân thành, lấy việc làm chứng minh lời nói.

***

Trang Tin Mừng hôm nay kể dụ ngôn hai người con nhận cùng một lời mời gọi của cha  và đáp trả với hai thái độ khác nhau.

– Người con thứ nhất: Lúc đầu từ chối, không vâng lời cha. Nhưng sau đó nghĩ lại, nó đi làm vườn nho cho cha. Đứa con này tượng trưng cho các người thu thuế và người tội lỗi.Tuy đã phạm tội, nhưng sau đó đã hồi tâm và tin theo Chúa Giêsu mà quay về với Thiên Chúa.

– Người con thứ hai: Lúc đầu ngoan ngoãn vâng lời cha, nhưng sau đó nó lại không đi làm vườn theo ý cha. Đứa con này có vẻ công chính, tượng trưng cho các Thượng tế Kinh sư và Pharisiêu. Tuy giữ luật Môsê trong từng chi tiết, nhưng họ lại từ chối Gioan Tẩy Giả, người đã đến chỉ đường công chính. “Thưa cha, con đây”: câu trả lời lễ phép của một đứa con ngoan ngoãn hiếu thảo, sẵn sàng vâng nghe lời cha dạy bảo; “Nhưng rồi lại không đi”: đứa con này mới chỉ vâng lời cha bằng môi miệng bề ngoài. Sau đó nó không đi làm vườn nho theo lời cha dạy. Nó có thái độ “ngôn hành bất nhất“, “nói mà không làm“, “nói một đàng mà làm một nẻo”. Một lối sống vụ hình thức bề ngoài. Một thái độ đạo đức giả. Người con thứ hai ám chỉ những Thượng tế, Kinh sư và Pharisiêu. Thời ấy, họ là những bậc vị vọng, họ tự xưng mình là đạo đức, công chính, trong sạch. Thực tế họ rất giả hình. Nói rất hay nhưng không thực thi điều mình nói. Họ nói mà không làm.

Giữa lời nói và việc làm thường có một khoảng cách rất lớn. Nói thì dễ nhưng làm thì khó. Con người dễ rơi vào thói nói nhiều làm ít, hoặc chỉ nói suông mà không làm, hoặc còn tệ hơn nữa khi việc làm mâu thuẫn với lời nói.

  1. Nói và làm, một tiêu chuẩn để xét định đời sống.

Kể dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?”. Họ trả lời: “Người thứ nhất”. Đó là người nói không, nhưng đã hối hận và đi làm việc. Ở đây rõ ràng có hai loại người: nói ít làm nhiều và nói nhiều làm ít.

  • Nói ít làm nhiều.

Nói ít không phải là “ít nói” vốn thường hiểu theo nghĩa tiêu cực bộc lộ một lòng trí tối tăm hay lòng dạ mưu mô. Nói ít cũng chẳng phải là không có gì để nói hay không biết nói gì. Trái lại người nói ít là người biết mình nói gì và cũng là người có khả năng nói nhiều với chính mình bằng ngôn ngữ tư tưởng, với người bằng ngôn ngữ hành động. Chính vì thế họ dễ trở thành những người “làm nhiều”. Những người nói ít làm nhiều thường là những người tốt bụng, nhiệt thành với công việc, chu toàn nhiệm vụ và biết trách nhiệm. Họ không làm phiền người bên cạnh. Họ thích làm tốt cho người khác. Họ không bận tâm đến tiếng chê, chẳng nặng nợ với lời khen. Họ chăm chỉ làm việc và quan tâm tới từng việc làm. Với họ, làm là cách nói tốt nhất.

  • Nói nhiều làm ít.

Có những người nói nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Họ là những người hay nói. Hay nói chưa chắc nói hay nhưng chắc chắn một điều: hay nói là một cánh cửa luôn rộng mở cho những người thích nói hay nói tốt về mình, để làm điều kiện thuận lợi cho việc dèm pha phê bình người khác. Đây là một nguy cơ của việc nói nhiều. Có biết đâu phê bình người khác lại là một cách bộc lộ lòng dạ mình ra. Mang kính đen thì phê bình sao người khác đen quá, giống như lưỡi đắng có bao giờ thấy canh ngọt. (x. Làm nụ hoa trắng, trang 90-91, ĐGM Vũ Duy Thống).

  1. Nói và làm, hai thái độ sống

Sau câu hỏi, Chúa Giêsu tuyên bố một câu nghe thật nhức nhối: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước trời trước các ông”. Các Thượng tế, Kinh sư và Pharisiêu không chịu nghe Lời Chúa, không ăn năn sám hối. Những người thu thuế và gái điếm, khi được mời gọi đã thành tâm sám hối ăn năn.

Có hạng người nói mà không làm và hạng người làm mà không nói.

  • Người nói mà không làm. Họ tự cho là mình đạo đức, nhưng khi Chúa Giêsu rao giảng, họ không những không tin mà còn phê phán chỉ trích những người tin Chúa, chỉ trích chính Chúa đã đón tiếp người tội lỗi.
  • Người không nói nhưng lại làm. Đó là những người thu thuế và những cô gái điếm. Tuy sống tội lỗi, nhưng khi nghe Chúa rao giảng, họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa.
  1. Những bài học

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta hai bài học quan trọng.

  • Việc làm quan trọng hơn lời nói.

Chính việc làm minh chứng lời nói. Chính việc làm mới có sức thuyết phục. Lý thuyết dù có hay có đẹp đến đâu nếu không thực hiện được thì cũng vô ích. Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Nhưng trái lại, có những người nói không hay, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời chúng ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, chúng ta càng mến những người nói ít làm nhiều. Con đường đi từ trái tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Rung động trước nổi khổ của người khác là điều tốt, giúp cho họ bớt khổ là điều tốt hơn. Thánh Gioan khuyên rằng: “Hỡi anh em, đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự” (1Ga 3,18).

Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông. Những Luật sĩ Biệt phái Kinh sư bị lên án dữ dội vì họ giả hình. Họ nói mà không làm. Họ đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng bản thân lại tránh né. Ngày nay cũng vậy, có những bậc cha mẹ dạy con cái phải giữ đạo, phải cầu nguyện, dự lễ, nhưng chính mình lại biếng nhác, không làm gương sáng cho con cái. Chúa đòi hỏi phải thực hành: “Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21). Đức tin phải biểu lộ bằng việc làm mới là đức tin sống động. Thánh Giacôbê dạy: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Tình yêu cũng phải có việc làm. Việc làm minh chứng tình yêu đích thực. Tin yêu Chúa phải được biểu lộ bằng việc làm.

  • Hãy làm một cách khiêm tốn.

Những người Pharisiêu làm gì cũng muốn phô trương. Muốn tỏ ra mình đạo đức, họ đeo lề luật trên trán, trên tay. Ðeo rồi, sợ người khác không nhìn thấy, họ phải “đeo những hộp kinh thật lớn, may những tua áo thật dài” để cho mọi người biết họ yêu mến lề luật, giữ đạo cặn kẽ. Thói phô trương dễ biến thành tự phụ tự mãn, hợm hỉnh. Nên những người Pharisiêu “ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là thầy“.

Khi phê phán người Pharisiêu, Chúa Giêsu muốn cho môn đệ hãy sống đạo trong kín đáo: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. . . Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. . . Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. . . Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Ðấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Ðấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,1-6). Kín đáo làm việc đạo đức là dấu chỉ lòng mến Chúa chân thực. Lòng mến Chúa chân thực sẽ dẫn đến thái độ khiêm tốn, luôn biết kính trọng người khác và luôn biết phục vụ anh em.

Xin Chúa giúp chúng con biết sống “ngôn hành như nhất” để lời nói và việc làm của chúng con luôn đẹp lòng Chúa và mưu ích cho tha nhân. Amen

Về mục lục

HỒI TÂM

Lm Vũđình Tường

Dụ ngôn người cha nói với hai người con đi làm vườn nho là dụ ngôn nói về Thiên Chúa sai Kitô hữu đi làm nhân chứng Tin Mừng. Trong dụ ngôn này nhắc đến hồi tâm, thống hối trở về củng Chúa là điều cần thiết. Hồi tâm bắt đầu bằng việc lắng nghe lời Chúa, từ đó dẫn đến hồi tâm thống hối, ăn năn. Thống hối ăn năn bằng cách từ bỏ nếp sống cũ, bắt đầu nếp sống mới, đặt căn bản trên lời Chúa, yêu thương, tha thứ, giao hoà. Đức Kitô nói với lãnh tụ Đền Thờ vào giới Trưởng Lão về dụ ngôn hai người con. Theo truyền thống chuyện hai người con trong Cựu Ước luôn là những chuyện bi thương, đau khổ. Thí dụ như hai anh em Cain và Abel là chuyện anh em giết nhau. Chuyện Giacóp và Esau là chuyện tranh giành vật chất, thế lực. Chuyện Giuse và các anh ông là chuyện ghen tị. Đức Kitô hỏi các vị lãnh đạo Đền Thờ và giới Trưởng Lão, người con nào làm theo lời cha mình. Trong dụ ngôn này không thấy phân biệt con trưởng hay con thứ mà chỉ nói đến hai con. Cũng không thấy nhắc đến người con thưa không nghe lời cha nên người cha mới sai người con khác. Cả hai đều được sai đi làm vườn nho. Người cha nói với hai con đi làm vườn nho cho ông. Người thứ nhất đáp ‘Thưa Ngài, con sẽ đi’ nhưng anh ta không đi. Người con kia đáp ‘Con không đi’ nhưng sau đó anh ta hồi tâm và đi làm theo í cha. Vậy người con nào làm theo í cha. Tất cả đều đồng í người con hồi tâm đi làm vườn nho là người con làm theo í cha. Về ngôn từ thì người con đáp ‘Thưa Ngài, con sẽ đi’ là người con vâng lời cha. Người con đáp ‘con không đi’ là trái í cha. Về hành động thì người con vâng lời cha là người con hồi tâm thống hối, đi làm vườn nho. Như thế cả hai đều vâng lời: một người vâng lời trên lí thuyết, một người vâng lời trên hành động, thực hành. Hay ngược lại cả hai đều trái í cha. Một trái trên lí thuyết, một trái trên hành động. Theo tinh thần dụ ngôn trên thì vâng lời trên lí thuyết chính là không vâng lời, không có giá trị. Vâng lời trên hành động mới là thực tế, mới chính thực là vâng lời. Chính câu Đức Kitô hỏi nói rõ điều này. Người con nào làm theo í cha? Không phải là nghe mà hành động, thực hành í cha chính là điều Đức Kitô chú trọng đến. Câu trả lời đúng là người con hồi tâm, đi làm vườn nho. Để làm cho rõ nghĩa hơn, Đức Kitô nhắc đến thành quả rao giảng của Gioan Tiền Hô, để rõ người con nào làm theo í cha, người con nào không. Gioan Tiền Hô đi trước mở đường cho Đấng Cứu Thế. Đám đông tin là ông được Thiên Chúa sai đi làm công việc mở đường. Đức Kitô hỏi lãnh tụ Đền Thờ và giới Trưởng Lão: Phép rửa của Gioan đến từ trời hay do loài người? Nếu trả lời đến từ trời, nhóm lãnh tụ Đền Thờ và Trưởng Lão sẽ không thể giải thích tại sao họ không tin lời Gioan rao giảng để thống hối. Nếu trả lời Gioan rao giảng là do con người trần thế, họ sẽ bị đám đông phản đối, và mất sự hỗ trợ từ đám đông. Đức Kitô tiến thêm một bước nữa Ngài nói với họ. Nhóm thu thế, và nhóm mà các ông gọi họ là kẻ tội lỗi, là những người ăn chơi đến nghe Gioan rao giảng và thống hối. Lúc đầu nhóm này lắng nghe lời Chúa nhưng từ chối sống yêu thương, tha thứ. Khi nghe Gioan rao giảng họ ăn năn, thống hối, hồi tâm, xin nhận phép rửa từ Gioan là dấu chỉ của thành tâm thống hối. Lãnh đạo Đền Thờ và giới Trưởng lão, các vị tự nhận là người công chính, là môn đệ của Môisen (Gioan 9,29). Không những các vị từ chối làm theo lời Gioan hướng dẫn, các vị còn hạch sách Đức Kitô. Chất vấn Ngài ai cho phép ông làm như thế? Bởi đâu mà ông dám xử dụng quyền hành như vậy? Mat 21,23. Đức Kitô dùng dụ ngôn hai người con nói cho lãnh tụ Đền Thờ và giới Trưởng Lão biết là quí vị vâng lời Thiên Chúa trên lí thuyết. Quí vị rao giảng lời Chúa cho người khác thực hiện, còn chính quí vị không thực hành điều Thiên Chúa truyền dậy. Quí vị không phục vụ trong khiêm nhường. Quí vị không yêu thương đồng loại. Như thế qúi vị có lối sống của người con thưa với cha mình ‘Thưa Ngài, con sẽ đi’ nhưng trong tâm thì không đi. Nhóm thu thuế và kẻ ăn chơi không vâng lời Thiên Chúa qua lí thuyết, nhưng họ khiêm nhường nhận tội, nhận mình sai và thống hối, trở về cùng Thiên Chúa. Nhóm này đại diện cho người con thưa với cha mình ‘Con không đi’ nhưng sau đó hồi tâm, thành tâm đi làm vườn nho. Thiếu yêu thương đồng loại và thiếu thực thi công bằng, bác ái thì không thể nào biện minh là quí vị làm theo í Thiên Chúa là chủ vườn nho. Chúng ta xin ơn biết sống làm theo í Chúa, yêu Chúa, pục vụ tha nhân.

Về mục lục

HAI PHONG CÁCH

Trầm Thiên Thu

Có rất nhiều loại cặp đối, gọi là “đối” thì phải có ít nhất hai vế – có thể là cụ thể hoặc trừu tượng. Có cái này để biết cái kia, có kẻ dữ để nhận biết người lành – như lúa và cỏ lùng; có màu này để phân biệt màu khác; có người nói nhiều để nhận ra người điềm tĩnh. Người thế này, người thế khác, ngay cả chiếc lá cũng có hai mặt. Mỗi người mỗi vẻ, chúng ta gọi đó là phong cách.

Có những điều tưởng là trái ngược nhau mà lại không đối lập, gọi là “nghịch lý thuận.” Có những trường hợp có vẻ xuôi thuận mà lại đối nghịch, gọi là “thuận lý nghịch.” Cuộc đời phức tạp và có nhiều loại triết lý, biết được điều này lại thấy mình ngu dốt cái khác, thảo nào người ta cứ phải học mãi mà chẳng biết hết.

Nhờ cha mẹ cho đi học mà chúng ta biết trong toán học có tỷ lệ thuận và nghịch. Nếu biết cặp giá trị tương ứng của hai đại lượng tỷ lệ thuận và một giá trị khác của đại lượng này thì có thể tìm được giá trị tương ứng của đại lượng kia. Toán học cũng có quy tắc tam xuất đơn – thuận và nghịch. Quy tắc tam xuất đơn thuận: Nếu A tăng N lần, B tăng N lần (nhân với N). Quy tắc tam xuất đơn nghịch: Nếu A tăng N lần, B giảm N lần (chia cho N).

Chúa Giêsu cũng đề cập tình trạng thuận – nghịch: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán.” (Mt 12:30; Lc 11:23) Dạng đối nghịch tuyệt đối là “tội phạm tới Chúa Thánh Thần,” không được tha cả đời này và đời sau.

Phong cách liên quan tính cách, kể cả phong tục tập quán của vùng miền hoặc dân tộc, thế nên có sự thuận và nghịch giữa những con người với nhau. Ở đây không có ý nói “theo phe” hoặc “chống lại” nhau, mà chỉ có ý đơn giản và bình thường. Tuy không là thù địch, nhưng vẫn có người này “hợp” với người kia hoặc “không hợp” với người nọ, ngay cả anh chị em trong gia đình cũng vậy. Hai người hợp nhau thì dễ nói chuyện, dễ thông cảm, dù không cần nói gì; ngược lại, hai người không hợp nhau thì rất khó nói chuyện và khó thông cảm, khoảng im lặng nặng nề. Nếu đối nghịch nhau thì rất dễ xung đột.

Ngày xưa, dân chúng to gan lớn mật, ăn ngang nói ngược với cả Đấng tạo dựng nên mình: “Đường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng.” (Ed 18:25) Liều lĩnh thật, chẳng kém gì Ông Bà Nguyên Tổ. Đúng là di truyền gen kiêu ngạo. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, đó là điếc không sợ súng, dốt mà kiêu, ngu mà chảnh. Hết nước nói!

Vì thế, Thiên Chúa thẳng thắn đặt vấn đề với họ: “Vậy hỡi nhà Ít-ra-en, hãy nghe đây: Phải chăng đường lối của Ta không ngay thẳng hay đường lối của các ngươi mới không ngay thẳng? Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình. Nó đã thấy và từ bỏ mọi tội phản nghịch nó phạm, thì chắc chắn nó sẽ sống, nó không phải chết.” (Ed 18:26-28) Chắc hẳn Ngài cũng đang chất vấn chúng ta như vậy, và dĩ nhiên chúng ta cũng chẳng biện minh được gì. Đối với nhân loại, cái chết là thất bại lớn nhất, chính tội lỗi khiến con người phải chết, (Rm 5:12; Rm 5:21) chứ Thiên Chúa không bắt chúng ta chết – vì Ngài cực tốt cực lành.

Phàm nhân chẳng đáng chi, bởi vì chỉ là bụi đất, (St 3:19) vậy mà vẫn thách thức Thiên Chúa, thậm chí còn dám nổi loạn, phản động, chống lại Ngài – cụ thể là phạm tội như cơm bữa. Tuy nhiên, Ngài không chấp lũ “đầu đất” như chúng ta, do đó Ngài vẫn luôn nhớ đến và quan tâm, (Tv 8:5) đồng thời còn kiên trì chờ đợi chúng ta hối lỗi: “Đối với các dân tộc khác, Chúa Tể nhẫn nại chờ đợi cho đến khi tội lỗi chúng ngập đầu mới trừng phạt; còn đối với chúng ta, Người không xử như thế.” (2 Mcb 6:14) Quả là Lòng Chúa Thương Xót quá lớn lao, ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta cố chấp thì cùng đường: “Nếu các ngươi không chịu nghe Ta, thì Ta sẽ còn sửa phạt các ngươi gấp bảy lần vì tội lỗi của các ngươi.” (Lv 26:18) Thật đáng sợ, vì như vậy là hết lối thoát.

Ước gì chúng ta biết khôn ngoan như Thánh Vịnh gia: “Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy dỗ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con. Sớm hôm con những cậy trông Ngài, bởi vì Ngài nhân ái.” (Tv 25:4-5) Cầu xin và muốn được Thiên Chúa nhậm lời thì phải biết chân thành sám hối. Đó là điều kiện hoàn toàn có lợi cho chúng ta. Thật vậy, Thiên Chúa lúc nào cũng chờ đợi và luôn sẵn sàng nghe chúng ta thú nhận tội lỗi và van xin chân thành: “Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời. Tuổi xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến, nhưng xin lấy tình thương mà nhớ đến con cùng. Chúa là Đấng nhân từ chính trực, chỉ lối cho tội nhân, dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính, dạy cho biết đường lối của Người.” (Tv 25:9)

Lời hứa là lời đẹp, nhưng phải thật lòng, phải cố gắng chấn chỉnh cách sống, chứ không chỉ hứa suông. Thiên Chúa biết rõ chúng ta có họ hàng với chú Cuội nên dễ hứa lèo. Thế nhưng Ngài không chấp, mà Ngài xem chúng ta có rán sức hết mình hay không. Quả thật, “nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được.” (Tv 130:3) Tuy nhiên, đừng thấy Ngài nhân từ mà làm tới, “được đằng chân lân đằng đầu,” kẻo mà lợi dụng lòng thương xót của Ngài.

Biết mình để khiêm tốn, biết Chúa để yêu mến. Biết sám hối là biết kết nối với Ngài, như cành nho dính vào thân nho. Thánh Phaolô khuyên: “Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng MỘT cảm nghĩ, cùng MỘT lòng mến, cùng MỘT tâm hồn, cùng MỘT ý hướng như nhau.” (Pl 2:1-2) Sống được như vậy là “nên một” theo ý muốn của Đức Kitô. (x. Ga 17:21-23) Và đó là điều tất cả chúng ta phải phấn đấu không ngừng.

Một thế giới đại đồng không có trong xã hội ngày nay, vì thế mà chúng ta phải nỗ lực nhiều hơn. Một lần nọ, ban chấp hành của một hội đoàn Công giáo (TGP Saigon) rủ tôi ăn uống chung, chỉ là để “cho vui” thôi. Tuy nhiên, chỉ sau khoảng 10 phút, tôi thấy người thì “vạch lá tìm sâu,” người thì “bới bèo ra bọ,” họ “căng thẳng” với nhau, tôi thấy bất lợi nên xin ra về. Thật đáng buồn! Bản chất con người luôn đề cao “cái tôi,” vì thế mà rất nguy hiểm, cần phải luôn cố gắng “đè nén” nó. Ngay cả khi chúng ta làm việc gì gọi là “vì Chúa,” thực ra chúng ta vẫn “vì mình” nhiều lắm, chẳng biết Chúa có vinh danh chút nào hay không. Thánh Phaolô đã từng cảnh báo: “Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu.” (Pl 2:3-5) Khó lắm, vì thế luôn phải cố diệt “cái tôi” đáng ghét.

Cố gắng dứt khoát thì làm được. Thánh Phaolô dẫn chứng: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.” (Pl 2:6-9) Điều này được nghe đi nghe lại nhiều lần rồi, nhưng có mấy lần chúng ta “giật mình,” hay chỉ nghe tai này rồi qua tai kia? Quả thật, chúng ta tội lỗi lắm, tội với Chúa và cả với tha nhân nữa.

Đức Giêsu Kitô có tất cả mọi sự, vì Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng Ngài đã tự hạ đến tột cùng, vì thế Ngài xứng đáng được Thiên Chúa Cha siêu tôn: “Khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa.” (Pl 2:10-11) Cứ xét theo lẽ thường của loài người thì cũng thấy hoàn toàn hợp lý.

Qua trình thuậtMt 21:28-32 , Chúa Giêsu đề cập hai con người với hai phong cách trái ngược nhau qua dụ ngôn Hai Người Con. Đây cũng chính là “hai con người” hoặc “hai bộ mặt” trong mỗi chúng ta. Hôm đó, các thượng tế và kỳ mục hỏi vặn Chúa Giêsu về quyền hành. Ngài thản nhiên nói: Một người cha nọ có hai con trai, ông sai người con thứ nhất đi làm vườn nho, nhưng nó nói thẳng là “không đi.” Có thể nó không rảnh hoặc không vâng lời, cãi ngay. Nhưng rồi nó hối hận và đi làm. Ông cũng sai người con thứ hai đi làm, nó chấp nhận ngay, nhưng rồi nó lại không đi. Bằng mặt mà không bằng lòng, bên ngoài tỏ vẻ ngoan hiền nhưng bên trong lại phản động.

Chúa Giêsu hỏi họ rằng đứa nào đã thi hành ý muốn của người cha. Họ trả lời ngay là đứa thứ nhất. Giả sử Ngài trực tiếp hỏi chúng ta thì hẳn là ai cũng có thể trả lời được, không gì khó. Chúa Giêsu nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông.” Ôi chao, nghe “sốc” quá chừng! Thế nhưng đó là thực tế, là sự thật. Ngài biết họ “ngứa óc” nên Ngài nói thẳng: “Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.” Trúng tim đen rồi!

Có lần Chúa Giêsu xác định: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ GIỮ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì KHÔNG GIỮ lời Thầy.” (Ga 14:23-24) Rất rõ ràng và mạch lạc, không khó hiểu, thế nên không ai có thể biện minh vì bất cứ lý do gì. Chữ YÊU ngắn gọn mà hàm súc. Có khi chúng ta là đứa con thứ nhất, có khi chúng ta lại là đứa con thứ hai. Mưa nắng thất thường. Chính “cái tôi” to lớn và dữ dằn lắm, cần phải luôn cảnh giác với nó. Thánh Phaolô cũng đã từng lo sợ: “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại.” (1 Cr 9:27) Nói hay mà làm dở thì thật là khốn!

Ước gì chúng ta luôn biết đè bẹp “cái tôi” và tâm niệm như Thánh Gioan Tẩy Giả: “Chúa phải LỚN lên, còn tôi phải NHỎ đi.” (Ga 3:30) Đó là phong cách tuyệt vời của mỗi tín nhân. Có vậy thì Thiên Chúa mới thực sự vinh danh, và chỉ có Ngài xứng đáng như thế. Tất cả vì danh Ngài, thụ tạo chúng ta không đáng là gì cả, giả sử có làm được gì cho Ngài thì cũng là trách nhiệm và bổn phận mà thôi.

Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin ban cho con được hưởng ân xá của Ngài. “Con đã phạm bao nhiêu tội lỗi? Bao nhiêu lần con đã phản nghịch, đã đắc tội với Ngài, xin cho con được biết.” (G 23:13) Xin giúp con ý thức để biết mình, biết Ngài và biết tha nhân. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

SÁM HỐI VÀ TIN-

ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA

Lm Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mt 21,28-32

(28) Các ông nghĩ sao ? Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho”. (29) Nó đáp: “Con không muốn đâu !” Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. (30) Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: “Thưa ngài, con đi !” nhưng rồi lại không đi. (31) Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha ?” Họ trả lời: “Người thứ nhất”. Đức Giê-su nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. (32) Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy”.

  1. Ý CHÍNH: DỤ NGÔN VỀ HAI NGƯỜI CON

Qua dụ ngôn “Hai người con”, Đức Giê-su muốn gián tiếp cảnh cáo thái độ giả hình của bọn đầu mục Do Thái, và kêu gọi họ hồi tâm sám hối để được ơn cứu độ. Dụ ngôn trình bày thái độ của hai đứa con: Người thứ nhất ám chỉ các người thu thuế và tội lỗi, tuy phạm tội, nhưng đã tin vào Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai. Người con thứ hai ám chỉ các đầu mục dân Do Thái. Tuy họ tuân giữ Luật Mô-sê, nhưng lại không tin Gio-an Tẩy Giả, được Thiên Chúa sai đến để chỉ con đường công chính. Sau cùng Đức Giê-su khẳng định: “Những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 28-29: + Các ông nghĩ sao ?: Đức Giê-su nói với các thượng tế và kỳ mục dân Do Thái tại Giê-ru-sa-lem (x. Mt 21,23-27). Họ đòi Đức Giê-su phải chứng minh nguồn gốc của Người do Thiên Chúa sai đến (23). Để trả lời, Người đòi họ xác định sứ mệnh của Gio-an Tẩy Giả: “Phép rửa của Gio-an do đâu mà có ? Do trời hay do người ta ?”. Nếu họ nhận là do trời, thì tại sao họ lại không tin lời của Gio-an làm chứng về Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai ? + Một người kia có hai con trai: Người kia là cách nói trống ngôi, ám chỉ Thiên Chúa. Hai con trai tượng trưng cho hai thành phần của dân Do Thái là các người tội lỗi và các đầu mục Do thái tự cho mình là công chính. + Người con thứ nhất: ám chỉ các người thu thuế và cô gái điếm. Lúc đầu họ đã không tuân giữ Luật pháp của Thiên Chúa. Nhưng nhờ nghe và tin lời rao giảng của Đức Giê-su mà đã ăn năn sám hối trở thành con ngoan của Thiên Chúa. + Con hãy đi làm vườn nho: Đi làm vườn nho tức là thi hành ý muốn của Thiên Chúa. + Con không muốn đâu: Câu trả lời thể hiện thái độ cự tuyệt ý muốn của cha. Điều này cho thấy những kẻ tội lỗi đã sống trái với thánh ý Thiên Chúa. + Nhưng sau đó nó hối hận, nên lại đi: Ở đây không cho biết lý do tại sao người con thứ nhất hối hận. Chỉ biết rằng nó đã nhận ra lỗi lầm và hồi tâm sám hối để tuân theo ý muốn của cha.

-C 30-31: + Ông đến gặp người thứ hai: Người thứ hai là những kẻ tự hào mình công chính, ám chỉ các đầu mục gồm các thượng tế và kỳ mục dân Do Thái. + Thưa ngài, con đây !: Đây là câu trả lời lễ phép của một đứa con hiếu thảo, sẵn sàng vâng giữ lời cha. + Nhưng rồi lại không đi: Đứa con này mới chỉ vâng lời cha bằng mặt chứ không bằng lòng, nên sau đó nó đã không đi làm vườn nho như ý muốn của cha. Đây là thái độ “ngôn hành bất nhất”, “Nói mà không làm”. Đây cũng là thái độ đạo đức giả của các thượng tế và kỳ lão. Họ giữ Luật Mô-sê từng chi tiết nhưng lại không tin vào Đấng được Thiên Chúa sai đến là Đức Giê-su. + Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người Cha ?: Đặt ra câu hỏi này, Đức Giê-su muốn các đầu mục Do thái đặt mình trước mặt Thiên Chúa. + Những người thu thuế và những cô gái điếm: Đây là hai hạng người bị xã hội Do Thái khinh dể, vì họ không giữ Luật Mô-sê và có đời sống tội lỗi, gây gương xấu cho kẻ khác. + Vào nước Thiên Chúa trước các ông: Những người thu thuế và gái điếm vì biết hối cải mà tin theo Đức Giê-su nên họ sẽ có chỗ trong Nước Thiên Chúa mà Người sắp thiết lập, thay cho các đầu mục là các thượng tế và kỳ mục dân Do Thái.

– C 32: + Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông: Gio-an Tẩy Giả nhờ có lối sống khổ hạnh và sự rao giảng phép rửa thống hối, đã cho dân Do thái biết phải chuẩn bị tâm hồn thế nào để đón Đấng Thiên Sai hầu được trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa. + Mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin: Các thượng tế và kỳ mục Do Thái đã không tin lời Gio-an Tẩy Giả. Ngược lại, các người thu thuế và các cô gái điếm đã đến nghe lời Gio-an rao giảng và đã tin Đức Giê-su. + Còn các ông…: Các đầu mục Do Thái dù đã nhìn thấy lối sống khổ hạnh và được nghe lời Gio-an Tẩy Giả kêu gọi mọi người “ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”, nhưng họ vẫn cứng lòng không tin lời Gio-an, do đó cũng không tin Đức Giê-su, nên họ sẽ không được vào Nước Thiên Chúa do Người thiết lập.

  1. CÂU HỎI:

1) Hai con trai trong dụ ngôn ám chỉ hai hạng người nào trong dân Do thái ? 2) Thái độ đối với Thiên Chúa của hai hạng người này khác nhau thế nào ? 3) Tại sao người thu thuế và gái điếm lại bị dân Do thái khinh dể ? Do đâu mà họ sẽ được vào Nước Thiên Chúa trước các thượng tế và kỳ mục Do thái ? 4) Tại sao các đầu mục Do thái không được gia nhập vào Nước Thiên Chúa do Đức Giê-su thiết lập ?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (21,23).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) AU-GÚT-TI-NÔ – MẪU GƯƠNG SÁM HỐI:

Thánh Au-gút-ti-nô, sinh năm 534, tại Tac-gat, xứ An-giê-ri, Phi Châu, trong một gia đình giàu có, nhưng thiếu đạo đức. Mẹ là bà thánh Mô-ni-ca, một mẫu gương cho các bà mẹ công giáo về việc sống đạo và giáo dục con cái bằng đời sống và bằng lời cầu nguyện nữa… Từ nhỏ, Au-gút-ti-nô có tư chất thông minh khác người, đã được theo học khoa hùng biện tại Cac-tha-ge ; nhưng tại đây ngài đã lây nhiễm các thói hư tật xấu ở đời. Lời dạy dổ của Mẹ, giáo lý đã học đuợc từ nhỏ, Au-gút-ti-nô đã bỏ ngoài tai. Au-gút-ti-nô hầu như đã mất đức tin, ngài còn tin theo lạc thuyết Ma-nê nữa. Ngài hầu như đã trả lời “không” khi được Chúa gọi vào làm vuờn nho cho Chúa. Vì sống trong tội lỗi, nên tâm hồn của Au-gút-ti-nô không được bình an… Sau đó ngài được mời sang Rô-ma để làm giáo sư khoa hùng biện.

Đây cũng là ý Chúa, nhờ đó ngài đuợc giao tiếp thường xuyên với thánh Giám mục Am-bro-si-ô, và cũng từ đây ngài đã trở lại với niềm tin công giáo và đã chấp nhận “đi làm vườn nho cho Chúa”, mặc dù một khoảng thời gian dài đã từ chối lời mời gọi của Chúa.

2) PHẢI GIỮ CHỮ TÍN TRONG LỜI NÓI KHI GIÁO DỤC CON CÁI:

Vợ thầy Tăng Tử từ nhà đi chợ thì đứa con khóc đòi đi theo, bà liền bảo con:

– Con cứ ở nhà đi, rồi về nhà mẹ sẽ làm thịt lợn cho con ăn!

Khi vợ đi chợ về, thầy Tăng Tử liền xuống chuồng bắt lợn làm thịt. Bà vợ liền nói với chồng: “Tôi chỉ nói đùa với nó thôi mà !”. Thầy Tăng Tử liền bảo: “Nói đùa thế nào được ? Đừng khinh trẻ thơ không biết gì. Cha mẹ làm gì nó thường hay bắt chước. Nay mình nói dối nó, chẳng là mình dạy con nói dối ư ?” Tăng Tử nói xong liền làm thịt lợn cho con ăn.

Chỉ vì một lời nói bông đùa của vợ, mà thày Tăng Tử đã phải làm thịt lợn để cho con ăn. Người có nhân cách là như thế đó ! Một lời nói mà không đi đôi với việc làm là một lời nói vô giá trị.

3) SỨC MẠNH CỦA MỘT CÔ GÁI ĐIẾM LÀ CÔNG MINH CHÍNH TRỰC

Một hôm nghe tin về một cô gái điếm tuy tội lỗi, nhưng lại có một quyền năng siêu phàm, vua A-đúc (Ashoka) đã triệu vời cô ta tới và yêu cầu cô hãy thi thố tài năng để xem thực hư tài năng ra sao. Trước mặt nhà vua, các quần thần, các đạo sĩ và đám đông dân chúng đang tụ tập hai bên bờ sông Hằng, cô gái điếm kia đã thi thố tài năng: cô đã ra lệnh cho dòng sông đang chảy cuồn cuộn phải chảy ngược dòng, gây ra những tiếng động ầm ầm long trời lở đất. Đang khi đó, các vị đạo sĩ tuy đã dày công tu luyện nhiều năm và rất am tường Phật pháp lại đành chịu bất lực trước nạn lụt hàng năm, nước sông dâng lên tràn bờ đê, gây ra cảnh lụt lội lớn lao, làm cho nhân dân dọc theo hai bên dòng sông bị lầm than đói khổ ! Nhà vua không thể tin được là một cô gái điếm, được xếp vào hạng tiện dân và tội lỗi lại có sức mạnh siêu phàm như vậy. Bấy giờ vua hỏi cô gái rằng: “Do đâu mà một kẻ tội lỗi ti tiện như ngươi lại làm được việc lớn lao phi thường như thế ?” Cô gái đáp: “Tâu đức vua, đó là nhờ đức hạnh của tiện nữ !”. Đức vua liền cười khẩy và vặn hỏi: “Thế đức hạnh của ngươi ra sao ?”. Cô đáp: “Tâu đức vua, đức hạnh của tiện nữ chính là do cách cư xử công chính đối với mọi người. Khi tiếp chuyện với bất cứ ai, dù họ là bậc quân vương, quý tộc hay đám dân thường, tiện nữ đây cũng hết lòng tôn trọng và luôn đối xử vẹn tình trọn nghĩa. Tuyệt đối không dám khinh thường hoặc gian dối với bất cứ một người nào cả !”.

Theo lời cô gái trong câu chuyện trên: Muốn có sức mạnh làm được những việc phi thường, thì người ta phải ăn ở công chính, nghĩa là đối xử công minh chính trực với mọi người. Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su đã nêu tên Gio-an Tẩy Giả và đòi những ai muốn được cứu độ phải tin vào Gio-an và đi theo con đường công chính của ông. Người nói: “Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy”.

4) HẬU QUẢ TAI HẠI CỦA THÁI ĐỘ “NÓI MÀ KHÔNG LÀM”:

Trong cuốn tiểu thuyết “The Fall” của ALBERT CAMUS, có thuật lại câu chuyện về một chàng luật sư đáng kính đang đi trên đường phố tại thủ đô Amsterdam nước Hà Lan. Đột nhiên anh nghe thấy có tiếng la thất thanh giữa đêm tối “Cứu tôi với” và nhận ra đó là tiếng của một phụ nữ bị té ngã từ bờ đê rơi xuống sông. Một tư tưởng chợt lóe lên trong đầu anh luật sư: “Ta phải ra tay cứu giúp cho chị ta mới được. Nhưng ngay lúc đó anh lại suy nghĩ: Chẳng lẽ một luật sư nổi tiếng như ta mà lại can dự vào việc nhỏ mọn này sao ? Còn bao nhiêu người khác đâu cả rồi ?… Nếu ta ra tay giúp đỡ thì có gặp nguy hiểm không ? Có ai chứng kiến để làm nhân chứng về sau không ? Chính khi còn đang chần chờ suy tính thì đã quá trễ, bây giờ anh có muốn cứu nạn nhân cũng không còn làm gì được nữa. Rồi anh chàng luật sư tiếp tục bước đi, và suy nghĩ để tìm ra mọi lý lẽ để biện minh cho thái độ đã làm ngơ trước người gặp nạn. Cuối cùng tác giả CA-MUS, đã kết luận như sau: “Anh ta thực sự đã không đáp lại tiếng kêu cứu của người gặp nạn. Đó chính là bản chất con người của anh ta !”

  1. SUY NIỆM:

Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã tuyên bố một câu khiến các đầu mục dân Do Thái phải sững sờ : “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Một số nhà chú giải Kinh Thánh đã giải thích từ “vào trước” không chỉ có nghĩa là vô “trước” so với vô “sau”, nhưng là sự “thay thế”. Vì các đầu mục Do Thái “đã không tin”, nên họ sẽ không đủ điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa, chứ không phải sẽ “vào sau”. Như vậy câu này có thể được dịch như sau: “Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa thế chỗ cho các ông”. Và các đầu mục dân Do Thái sẽ bị loại ra ngoài Nước Thiên Chúa.

1) LÝ DO ĐẦU MỤC DO THÁI KHÔNG CÓ CHỖ TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA:

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong Bài Đọc Một đã nêu ra lý do thứ nhất khiến các đâu mục Do thái bị mất chỗ trong Nước Thiên Chúa như sau : “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính, thì chính điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết” (Ed 18,26). Thực vậy, người ta thường nghĩ mình vẫn đang là người tốt trong khi thực sự đã trở nên xấu. Để rồi đến giờ chết, khi tưởng mình sẽ được vào Nước Thiên Chúa, nhưng thực sự mình lại không có chỗ trong đó ! Bài Tin Mừng cho biết lý do như sau : Người cha đến nói với đứa con thứ: “Con hãy đi làm vườn nho cho cha”. Nó đáp: “Thưa vâng, con đi”. Nhưng rồi nó lại không đi (Mt 21,30).

Thực vậy, nhiều người thường tự lừa dối mình khi cho rằng chỉ cần nói: “Thưa vâng” với Chúa là đủ. Các đầu mục Do Thái đã “thưa vâng” nhiều lần khi tuân giữ Luật Mô-sê từng chi tiết. Chính chúng ta ngày nay cũng “thưa vâng” như thế khi năng dự lễ, đọc kinh… Nhưng như thế vẫn chưa đủ điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa.

2) TẠI SAO NGƯỜI THU THUẾ VÀ GÁI ĐIẾM ĐƯỢC VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA ?

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cũng cho biết lý do thứ nhất để các tội nhân được vào Nước Thiên Chúa như sau: “Nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình” (Ed 18,27). Còn lý do thứ hai họ phải có là thái độ hoán cải giống như đứa con thứ nhất, lúc đầu từ chối, nhưng “sau đó nó hối hận nên lại đi” (Mt 21,29).

Thực ra, cả hai câu trên đều chung một lý do là: Phải biết hối hận về tội lỗi quá khứ của mình và hồi tâm hoán cải. Thực vậy, rất nhiều câu chuyện được diễn tả trong phim ảnh cũng như trong đời thường về những người có một quá khứ tội lỗi như trộm cướp, trùm Ma-phi-a… nhưng rồi họ đã được biến đổi để không những trở nên người tốt, mà còn trở thành người có lòng vị tha bác ái cách đặc biệt. Có những tú bà hay những cô gái điếm sau khi hoàn lương, đã bỏ được nếp sống nhơ nhớp trước kia, để sống đời sống mới đầy lòng mến Chúa yêu người như thánh nữ Ma-ri-a Mác-đa-la. Họ xứng đáng được Chúa cho vào Nước Thiên Chúa để thế chỗ những kẻ tuy đã từng có thời sống tốt, nhưng đã dần biến chất trở thành những kẻ đạo đức giả, như các đầu mục dân Do Thái thời Đức Giê-su.

3) ĐỨC TIN HÀNH ĐỘNG: ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA :

Ki-tô giáo là một tôn giáo của lòng tin. Nhưng “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17). Lòng tin không phải chỉ là tuyên xưng đức tin ngoài môi miệng, nhưng phải được thể hiện bằng chính cuộc sống vâng theo ý Thiên Chúa như Đức Giê-su dạy: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! Là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).

Dòng đời luôn thay đổi, và con người cũng dễ đổi thay: Hôm nay có thể chúng ta đang là người tốt, nhưng ngày mai có thể chúng ta sẽ biến thành kẻ xấu và ngược lại. Do đó, chúng ta đừng vội hãnh diện về quá khứ đạo đức của mình, mà mất cảnh giác đến nỗi không nhận ra mình đang biến đổi trở thành người xấu.

Mỗi người chúng ta hãy năng tự kiểm vào mỗi buổi tối về những điều đã dốc quyết với Chúa. Vì dù ta có nói giỏi nói hay bao nhiêu, mà không giữ được điều đã dốc quyết, hoặc “ngôn hành bất nhất”, là ta đã tự đánh mất danh dự và uy tín, và điều ta nói sẽ không còn được ai tin. Mỗi ngày chúng ta hãy xin Chúa giúp từ bỏ tội lỗi và các thói hư để xứng đáng được Chúa cho vào Nước Trời sau này.

4) SỐNG ĐỨC TIN LÀ “XIN VÂNG” THÁNH Ý THIÊN CHÚA:

Một người đã luôn thưa vâng với Thiên Chúa từ đầu đến cuối, trong lời nói cũng như hành động, chính là Đức Giê-su Ki-tô. Người chính là một người hoàn hảo luôn làm hài lòng Thiên Chúa, như Chúa Cha đã giới thiệu sau khi Người chịu phép rửa của Gio-an như sau: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người”. Thánh Phao-lô cũng đã diễn tả về Đức Giê-su trong thư gửi tín hữu Phi-lip-phê như sau: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).

Mỗi người chúng ta hãy nhìn vào Đức Giê-su để suy niệm và học tập theo Người như Người đã dạy: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường, và tâm hồn anh em sẽ gặp được bình an”.- “Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. – “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

Đức Giê-su cũng mời gọi chúng ta đi làm vườn nho là gia nhập Nước trời. Người cũng đòi chúng ta một sự lựa chọn dứt khoát: Hãy dâng cho Chúa tất cả lời nói và việc làm như lời thánh vịnh: “Này con xin đến để làm theo ý Chúa” (Tv 39,8a), và lời cầu nguyện của Đức Giê-su: “Lạy Cha, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).

  1. THẢO LUẬN:

Đức Giê-su nói: ”Có đầy trong lòng mới trào ra ngoài cửa miệng – Lòng đầy thì miệng mới nói ra !” Hiện tại lời nói của bạn đang xây dựng hòa bình, gia tăng hiệp nhất hay đang gây bất hòa chia rẽ và ly tán ?

  1. CẦU NGUYỆN:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con tránh thái độ của người con thứ trong Tin Mừng: “Thưa vâng” rồi không làm. Nhiều lần chúng con đã thưa vâng với Chúa khi đi xưng tội, đã quyết tâm đổi mới trong các buổi sám hối chung, rồi sau đó chúng con vẫn sống và phản ứng theo nếp cũ sai trái của mình! Xin cho chúng con biết năng tự kiểm về tư tưởng lời nói việc làm và những điều thiếu sót vào giờ kinh tối cuối ngày. Xin cho chúng con tránh những ảo tưởng về mình để khỏi trở thành những người Pha-ri-sêu đạo đức giả. Hy vọng sau khi được ơn tha thứ, chúng con sẽ yêu Chúa nhiều hơn, sẽ quảng đại hiến dâng cho Chúa tất cả, để được Chúa ban hồng ân cứu độ cho chúng con.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

THI HÀNH THÁNH Ý CHÚA BẰNG VIỆC LÀM

Lm Trần Bình Trọng

Dụ ngôn hai người con được người cha sai đi làm vườn nho nhấn mạnh đến sự tương phản giữa lời hứa và việc làm. Người con thứ nhất từ khước, không chịu ra làm vườn nho, nhưng rồi đổi ý.

Anh ta là loại người có lương tâm biết hối hận. Sau một thời gian suy đi nghĩ lại, lương tâm bảo anh ta cần hối cải và hành động. Còn người con thứ hai hứa làm vườn nho, nhưng lại không thi hành. Anh ta thuộc loại người sẵn sàng nói có, đồng ý với người cha, muốn cho cha hài lòng, nhưng chỉ bằng môi miệng mà không có hành động.

Chúa Giêsu kể dụ ngôn này để cảnh giác các thượng tế và kì mục trong dân. Họ thuộc về dân được chọn. Qua Thánh kinh Cựu ước, các ngôn sứ tiên báo cho họ về việc Ðấng Thiên sai sẽ đến. Và họ cam kết đón chờ Ngài. Tuy nhiên khi Gioan tiền hô đến rao giảng phép rửa sám hối, họ lại không chịu hối hận với niềm tin. Họ còn từ khước Ðấng cứu thế. Trái lại, những người thu thuế và tội lỗi lúc đầu từ khước lời dạy bảo trong Thánh kinh, sau lại tin theo đường công chính mà Gioan chỉ cho họ (Mt 21:32). Họ còn  sẵn sàng lắng nghe và đón nhận lời Ðấng cứu thế. Vì thế mà Chúa nói với nhóm thượng tế và kì mục: Những người thu thuế và gái điếm vào Nước Thiên Chúa trưóc các ông (Mt 21:31).

Thiên Chúa ban cho loài người ý chí tự do và Chúa tôn trọng tự do lựa chọn của loài người. Nếu không có tự do lựa chọn, thì không có vấn đề thưởng phạt. Hay nói cách khác, nếu không có tự do lựa chọn, thì vấn đề thưởng phạt là điều bất công. Do đó sự lựa chọn của loài người bao hàm việc chúc lành hay chúc dữ. Và đó là ý nghĩa của bài trích sách ngôn sứ Êdêkien hôm nay: Nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình (Ed 18:27). Nếu không có tự do lựa chọn thì bài Phúc âm hôm nay không còn ý nghĩa. Nếu không có tự do lựa chọn thì người con hứa mà không làm vườn nho trong Phúc âm cũng không phải mang trách nhiệm.

Hôm nay mỗi người cần tự xét xem lời nói của mình có đi đôi với hành động, nghĩa là xem lời nói và hành động của mình có ăn khớp với nhau không? Khi cầu nguyện, ta có thể nói ta mến Chúa và yêu tha nhân. Tuy nhiên ta không đem ra thực hành. Ta có thể nói dạ vâng với Chúa và người láng giềng bằng những lời dịu dàng ngon ngọt. Ta nói như vậy để lấy lòng và tỏ ra lịch sự với họ, nhưng lời nói của ta không đi đôi với việc làm. Ta có thể đi tĩnh tâm nghe giảng, nghe lời Chúa dạy trong Thánh kinh, bảo ta phải sống theo đường lối Chúa và chính ta cũng muốn sống theo đường lối của Người. Tuy nhiên ta không tìm ra những biện pháp cụ thể để thi hành, không đặt ra những chương trình hành động thiết thực sau những mối cảm súc nhất thời.

Giả sử có đứa con luôn nói với cha mẹ – con yêu mến cha mẹ – nhưng không bao giờ làm điều cha mẹ truyền dạy. Mỗi khi cha mẹ nhờ làm việc gì, đứa con luôn đánh trống lảng.  Như vậy thì ta phải thắc mắc không biết đứa con có thành thực không, hoặc là đứa con bị bệnh đãng trí. Chúa cũng nhìn thấy như vậy. Và Chúa bảo các tông đồ: Nếu các con  giữ các giới răn Thày truyền, các con sẽ ở lại trong tình yêu của Thày (Ga 15:10). Nơi khác Chúa còn nói: Không phải bất cứ ai thưa với Thầy ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi (Mt 7:21). Chính Ðức Giêsu, mặc dầu là Thiên Chúa cũng đã vâng phục thánh ý Chúa Cha, xuống thế làm người và chịu chết trên thập giá để cứu chuộc loài người (Pl 2:6-8).

Nếu được hỏi xem ta thuộc loại người nào: người con thứ nhất hay người thứ hai, hoặc lời nói và hành động của ta có ăn khớp không? Nếu trung thực với lòng mình, ta phải nhận rằng mỗi người đều mang một số tế bào và lượng máu – nhiều hay ít – của cả hai người con. Nói cách khác mỗi người đều mang những tính nết, có thể là rõ rệt, hay ngấm ngầm của cả hai loại người. Vậy thì, nếu ta đã từ khước ơn Chúa, hoặc tẩy chay lời mời gọi của Chúa như người con thứ nhất, để làm việc nọ chuyện kia cho Chúa hoặc cho người tàn tật, đau khổ, xấu xố, ta xin Chúa cho được hồi tâm nghĩ lại. Nếu ta đã hứa với Chúa như người con thứ hai, mà không làm, ta cũng xin Chúa tha thứ những lần thất hứa đó.

Bao nhiêu lần ta đã thề hứa với Chúa chẳng hạn như trên đường vượt biên ngoài biển cả, khi thuyền bị hết xăng, khi bị sóng to bão lớn ập vào thuyền, khi bị hải tặc rượt đuổi, ta đã hứa với Chúa những gì? Có phải ta đã hứa: Nếu Chúa để con sống sót, cho con cập bờ tới bến bình an, con sẽ làm cho Chúa điều này chuyện nọ? Có những điều ta không cần phải hứa, nhưng thuộc bổn phận ta phải làm cho Chúa, cho người nọ người kia do lòng hiếu thảo và lòng biết ơn thúc đẩy: những người đã làm ơn cho ta, những người mà ta mắc nợ họ. Vậy ta đã làm chưa?

Ðể nhắc nhở ta làm bù lại điều mà mình đã chối bỏ, hoặc làm điều mình đã hứa với Chúa hay tha nhân mà quên chưa làm, ta cần tìm cách thế nhắc nhở cho mình như ghi vào lịch, để nhắc nhở cho ta ngày tháng năm đó, ta sẽ làm việc này việc nọ. Ðời xưa chưa có lịch hay không có lịch, hay người ta không biết đọc thì họ dùng phương pháp thắt chỉ cổ tay như là cách nhắc nhớ cho mình làm việc nọ chuyện kia. Không có gì phải ngăn cản ta dùng phương pháp thắt chỉ cổ tay xưa kia hay đeo vòng gì đơn giản vào tay để nhắc nhở mình về việc phải làm. Nếu không, người mà ta mắc nợ họ, sắp nằm xuống, hoặc chính ta sắp nằm xuống vĩnh viễn, mà ta không có cơ hội làm cho họ, thì lương tâm ta có thể không yên.

Lời nguyện xin cho được thi hành ý Chúa bằng việc làm:

Lạy Chúa, Chúa luôn trung thành với lời giao ước

Chúa đã làm với loài người.

Xin tha thứ những lần con lỗi lời giao ước với Chúa.

Cũng xin thứ tha những lần con từ khước ơn Chúa

và lời mời gọi của Chúa để làm việc nọ chuyện kia.

Xin ban cho con một lương tâm biết hối hận

và một ý chí kiên trì để con thực thi ý Chúa. Amen.

Về mục lục

NÓI VÀ LÀM

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng

Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói tới hai loại người qua hình ảnh hai người con: Người con thứ nhất, bảo đi làm thì nói không đi, nhưng rồi lại làm như ý người cha.

Người con thứ hai, gọi dạ bảo vâng, nhưng rồi không chịu đi làm. Rồi chính Chúa đã giải thích cho chúng ta biết: người con thứ nhất ám chỉ những người thu thuế và những người đàng điếm, hai loại người này bị xã hội Do Thái khinh miệt nhất. Những người thu thuế bị khinh miệt vì họ cấu kết với ngoại bang để bóc lột đồng bào mình. Vì thế dân chúng oán ghét họ và liệt họ vào hạng người phản quốc, bỏ đạo và không thể ăn năn hối cải. Còn những ả giang hồ thì thời nào cũng vậy, đều bị xã hội khinh miệt sát đất, coi họ là hạng người xấu xa, làm dơ bẩn xã hội, và cũng không thể được cứu rỗi.

Ngược lại, người con thứ hai, ám chỉ những thượng tế, kinh sư và Pha-ri-sêu thời ấy, là những người tự xưng mình là đạo đức, công bằng, trong sạch, nhưng là thứ đạo đức, công bằng, trong sạch giả hình, bôi bác. Ngoài miệng thì nói hay lắm, nhưng không thực thi điều mình nói. Đó là những người “ngôn hành bất nhất”: nói mà không làm.

Nhưng tại sao Chúa lại nói với các thượng tế, kinh sư và Pha-ri-sêu: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước trời trước các ông”? Bởi vì những thượng tế, kinh sư và Pha-ri-sêu khi Chúa giảng dạy, không chịu nghe, coi thường lời Chúa, không ăn năn sám hối. Còn những người thu thuế và gái điếm, khi dược Chúa kêu gọi, họ đã thành tâm sám hối. Chúng ta thấy: những người nói sẽ làm, rồi lại không làm, là loại người đáng trách. Còn những người nói không làm, rồi lại làm, là loại người đáng khen.

Chúng ta biết: từ tư tưởng đến lời nói và tới việc làm là cả một con đường dài xa xăm. Thực vậy, một khuôn vàng thước ngọc, dù có hay mấy mà không đem ra thực hành thì cũng là không hay và vô ích. Cũng thế, có tư tưởng hay mà không đem thực hành thì cũng như một bông hoa không bao giờ kết trái. Chúng ta vẫn nói: “Ăn vóc học hay”: ăn để mà học, học để mà biết, biết để mà làm. Không biết thì không thể làm gì được, chỉ còn biết đứng tựa cột mà nghe. Nhưng biết mà không làm thì giống như người đầy tớ đem chôn nén bạc và bị xét xử. Hơn nữa, biết mà lại cứ làm sai thì càng bị xét xử nặng hơn. Cho nên, đã biết thì làm, cả hai đi song song nhau, hỗtrợ nhau, thì mới hữu dụng, hữu ích. Nhưng thực tế, trong xãhội, chúng ta thấy có những người biết mà không làm, hoặc nói thì rất hay nhưng lại không chịu làm.

Câu nói: “Năng thuyết bất năng hành”: hay nói mà không hay làm, hoặc nói được làm không là như thế. Ở đời này, hơn thua nhau ở chỗ lý thuyết và thực hành: một lý thuyết dù hay mấy mà không đem ra thực hành thì cũng vô ích. Nhưng tại sao chúng ta nói mà không làm? Có thể là vì chúng ta không có khả năng hành động, có thể là vì chúng ta lười biếng, có thể là vì chúng ta chống đối, bất tuân không muốn làm, có thể là vì việc làm đó không đem lại lợi ích gì cho chúng ta. Tuy nhiên, nói mà không làm thì lời nói không có giá trị và về sau người ta không tin lời chúng ta nói nữa. Cũng thế, “đức tin không việc làm là đức tin chết”. Cho nên, có đạo lý đúng và hay chưa đủ mà còn phải sống và thực hành thì mới minh chứng được đạo lý đó đúng hay sai.

Bài Tin Mừng nhắc nhở chúng ta hãy xét lại, hãy nhìn lại: lời nói và việc làm của chúng ta có đi đôi với nhau không? Chúng ta yêu cầu người khác phải sửa sai, nhưng chính chúng ta có biết tự sửa sai không? Chúng ta phê bình người khác, nhưng chúng ta có rờ lên gáy mình không? Hay là chúng ta thấy cái rác trong mắt người mà không thấy cái xà trong mắt mình? Hay là ” chân mình thì lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”? Trong phạm vi gia đình, thật không gì tai hại cho bằng nói mà không làm: chúng ta bảo con cái phải biết nhường nhịn, tha thứ cho nhau, nhưng chúng ta thì lại cứ ăn thua đủ, không ai nhường ai. Chúng ta bảo con cái phải sống thành thật, nhưng chúng ta lại cứ quanh quéo, gian dối với người khác. Trong đời sống đạo đức cũng vậy, liệu tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Kitô đích thực không? Liệu đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không? Hay chúng ta chỉ có cái vỏ Kitô bên ngoài? Nếu chúng ta sống như vậy, chúng ta hãy coi chừng, chúng ta sẽ bị Chúa cảnh cáo: những người khác sẽ vào nước trời, còn chúng ta thì sao?

Về mục lục

LÀM NGAY HÔM NAY

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Những gì hôm qua thì đã qua, chuyện ngày mai thì chưa tới, còn việc hôm nay thì đang ở trong tầm tay. Đã là người có lương tri bình thường thì không ai vô tâm, bạc tình khi sống quay lưng với cội nguồn lịch sử và cũng ít có ai sống mà không hướng tới tương lai. Tuy nhiên, không thể chối cãi rằng cái hôm nay mới là cái mang tính quyết định. Chính vì thế nhiều lúc chúng ta cần phải có thái độ “tự do” một cách nào đó với những gì đã qua và với những gì chưa tới.

Đừng quá bám víu vào sự đã qua cho dù đó là những thành quả lẫy lừng, những chiến công hiển hách hay là những thất bại ê chề, những lỗi lầm tủi nhục. Nếu quá khứ của ta là những sự màu hồng thì đáng trân trọng, nhưng hãy coi chừng chuyện thường tình của kiếp người là rất dễ ngủ quên trên chiến thắng và nhất là hãy đề phòng cám dỗ tự kiêu, tự mãn, một cám dỗ thường gây “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Thực tiễn cho thấy chuyện vì tự hào, tự mãn “đã đánh thắng hai đế quốc to”, nên các nhà lãnh đạo nước Việt Nam đã dần đưa đất nước ngụp lặn trong hố sâu của nghèo khó, tụt hậu do chính cái tư duy, nếp nghĩ và cung cách hành xử kiểu “chủ quan, duy ý chí” một thời gian không ngắn. Nếu quá khứ của ta vướng đầy những sự nhuốm màu tím hay đen thì cũng đáng nghiền ngẫm để tự kiểm và rút kinh nghiệm, nhưng cũng phải canh chừng cám dỗ buông xuôi, ngã lòng. Lỗi lầm nào cũng để lại vết thương đau. Thất bại là mẹ thành công. Có người do bị ám ảnh bởi những lỗi lầm, hay thất bại của quá khứ mà nản chí, buông xuôi. Cũng có người biết tích lũy những vết thương đau thành chuỗi kinh nghiệm làm nền tảng cho những thành quả hôm nay. Bài học lịch sử thật đáng quý, tuy nhiên lịch sử không phải là vòng tròn lặp lại cái đã qua như cũ, như xưa.

Đừng quá ảo vọng vào những gì chưa đến. Tương lai thường chất chứa những sự tốt đẹp, vì đó là ước mơ của con người. Chẳng ai lại đi mơ ước điều xấu xa tồi tệ cho chính mình. Họa hiếm mới có một đôi người, khi ở trong tình trạng bất bình thường, mới mong những sự chẳng nên cho bản thân. Đã là người, cần phải có hoài bão và ước mơ. Tuy nhiên cũng cần thận trọng trước cám dỗ xa rời thực tế. Đã có đó một vài chủ thuyết vẽ vời viễn ảnh tương lai “to đẹp hơn gấp mười, gấp trăm ngày nay” để rồi lòe bịp đồng loại lãng quên không nhìn thẳng vào cái hiện tại, một hiện tại đầy bất công, dối trá…

Thiên Chúa là Đấng của hôm nay: Với Thiên Chúa, cái hiện tại là cái quan trọng nhất, là cái có tính quyết định. Trước đây ngươi sống công chính mà bây giờ ngươi làm điều gian ác thì ngươi phải chết. Người tội lỗi xưa làm nhiều sự gian ác mà bây giờ bỏ điều dữ, làm điều chính trực công minh thì sẽ được sống. Ngôn sứ Êdêkien minh nhiên nói thay Thiên Chúa sự thật này (x.Ed 18,27-28).

Đến trần gian, Chúa Kitô thường cảnh tỉnh nhiều vị lãnh đạo Do Thái thời bấy giờ, những người vốn tự hào về công nghiệp đã qua của mình. Khi kể câu chuyện về hai người con, Chúa Kitô đã làm nổi rõ cái giây phút hiện tại. Người con cả sở dĩ được chấp nhận dù trước đó không vâng lời cha nhưng giờ này anh hối hận và vâng theo lời cha. Trái lại, người con thứ, trước đó đã mau mắn đáp vâng lời cha mà giờ này anh lại không làm theo ý cha thì cũng bằng không. Để khẳng định chân lý này Chúa Kitô còn nói với những Thượng Tế và kỳ mục hôm ấy bằng một kiểu nói long trọng: “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy, còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin” (Mt 21,31-32). Một số nhà chú giải phân tích chữ “trước” còn có nghĩa là “thay thế”, nghĩa là những người thu thuế và gái điếm sẽ thế cái chỗ của các vị Thượng Tế và kỳ mục trong Nước Trời. Kết thúc dụ ngôn “Người Cha nhân hậu”, Chúa Kitô đã nêu bật lời của người cha với đứa con cả: “Chúng ta phải ăn mừng và hoan hỉ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”(Lc 15, 32).

Sống mà không có ngày mai là một cuộc sống thiếu định hướng, thiếu tinh thần cầu tiến. Tuy nhiên cái của ngày mai phải được đặt nền tảng vững vàng trên cái của hôm nay. Nhiều khi chúng ta có thể quá lo lắng cho những sự chưa đến mà bỏ quên bổn phận trong hiện tại. “Anh em đừng lo lắng về ngày mai, ngày mai, cứ để ngày mai lo…” (Mt 6,34). “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” (Mt 6,11). “Hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Người, đừng cứng lòng nữa!” (x.Tv 95,7-8).

Đừng để đến ngày mai những gì tốt đẹp và phải đạo có thể làm trong ngày hôm nay: Xét về mặt tiêu cực, dưới nhãn quan đức công bằng thì nếu giam tiền công nhật của người làm công đến hôm sau là đã phạm lỗi bất công (x.Lv 19,13). Còn trên bình diện đức ái thì nếu bỏ qua một việc tốt, một việc lành trong khả năng và hoàn cảnh của ta hôm nay thì đã phạm một điều tồi tệ, đó là tội thiếu sót mà chúng ta thường đấm ngực thú lỗi trong phần khởi đầu của Thánh Lễ: Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa và cùng anh chị em: tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói và những điều thiếu sót…”.

Lúc sinh thời, mỗi khi gặp những người bệnh tật, dù đó là ngày Lễ nghỉ và theo luật Do Thái giáo bấy giờ thì không được phép, nhưng Chúa Giêsu vẫn ra tay thi ân giáng phúc, bất chấp nhiều luật sĩ và biệt phái giận dữ chống đối và thậm chí còn tìm cách giết Người. Phải làm ngay hôm nay, lúc này, ở đây (hic et nunc) những điều chính đáng và phải đạo trong hoàn cảnh và khả năng của mình. Bởi chưng, nhiều lúc, chính khi không làm điều thiện là làm điều ác, không cứu sống là giết chết, không bênh vực công lý là toa rập với sự gian dối, bất công… (x.Mc 3,4).

Những kẻ tự cao là những người luôn nhớ và muốn kẻ khác nhớ mình đã làm một sự gì đó. Những người tự ti là những người không thể quên và nghĩ rằng người ta không thể quên mình đã lầm lỡ một sự gì đó. Những người lười biếng là những người luôn muốn làm một sự gì đó (mà không bao giờ làm) ( Les paresseurs sont ceux qui toujours veulent faire quelque chose – Ngạn ngữ Pháp ). Những người hèn nhát là những người luôn khát khao một sự gì đó (mà không dám làm). Còn những người công chính là những người bắt tay làm ngay những sự phải làm, đáng làm, nên làm, hôm nay, lúc này.

Về mục lục

NGÔN HÀNH BẤT NHẤT

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Tin Mừng của Chúa Nhật này một lần nữa tiếp tục nói với chúng ta qua dụ ngôn. Chúa Giêsu nói với các thượng tế và kỳ mục trong dân rằng: “Các ông nghĩ sao? Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: ‘Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.’ Nó đáp: ‘Con không muốn đâu!’ Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: ‘Thưa ngài, con đây!’ Nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?’ Họ trả lời: ‘Người thứ nhất.” (Mt 21,28-31)

1- Giữa nói và làm là một biển cả

Người con nói “có làm” nhưng lại “không làm” đại diện cho những ai đã nhận biết Thiên Chúa và tuân giữ luật Người trong một số phạm vi, nhưng lại không chấp nhận Chúa Kitô, Đấng là “sự viên mãn của lề luật.”

Còn người con nói “không làm” nhưng lại “đi làm” đại diện cho những ai đã sống ngoài lề luật và thánh ý Thiên Chúa, nhưng sau đó, nhờ Chúa Kitô, họ đã hoán cải và trở lại đón nhận Tin Mừng.

Từ đó, Chúa Giêsu đưa ra kết luận này trước các kỳ mục và thượng tế: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31).

Như thế, trang Tin Mừng này nói gì với chúng ta hôm nay? Đối với Thiên Chúa, những lời nói suông hay những lời hứa hoa mỹ không có giá trị đáng kể, nếu không đi kèm với những việc làm cụ thể. Người ta thường nói rằng: “Giữa nói và làm là cả một biển cả.” Chúa Giêsu cũng có lần nhắc nhở: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa! ” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).

Dụ ngôn của Chúa Giêsu rất gần gũi với cuộc sống như chúng ta thấy hôm nay. Điều mà Thiên Chúa chờ đợi nơi chúng ta chính là điều mà cả chúng ta cũng chờ đợi nơi những người khác trong cuộc sống. Chẳng hạn, điều mà mỗi cha mẹ chờ đợi từ con cái mình là một sự vâng lời đích thực, chứ không phải chỉ là lời nói suông, hay hứa hảo; một lời nói hay một tình cảm phải được chứng tỏ bằng những hành động cụ thể và cả sự hy sinh, nếu không sẽ không có giá trị hay hiệu quả gì mấy.

Sự bất nhất giữa “nói và làm” tạo cho người ta cảm giác người Kitô hữu rất đáng ghét, đó là khoảng cách giữa điều chúng ta tuyên xưng trong nhà thờ và điều chúng ta hành xử, khi sống ở ngoài đời, nơi gia đình, công sở, hay nơi chợ búa… Nghĩa là giữa đời sống đạo đức trong nhà thờ và đời sống thường nhật không có một sự ăn nhập gì nhau, nếu không muốn nói là hoàn toàn khác biệt. Vào nhà thờ thì “đọc hết kinh này sang kinh khác,” chắp tay bái lạy “khu cao hơn trốc,” nhưng bước ra ngoài nhà thờ thì mặt hằm hằm sát khí, muốn ăn tươi nuốt sống người khác hay nhìn họ với những “ánh mắt dao găm!” Vào nhà thờ thì nói “có,” nhưng ra khỏi nhà thờ thì nói “không.” Người ta bảo: “Lời nói lung lay, gương lành lôi kéo.” Hay ngạn ngữ có câu: “Những hành động thì có âm vang hơn là những lời nói.” Người ta đánh giá chúng ta một cách chính xác dựa trên những gì chúng ta làm hơn là những gì chúng ta nói. Về điểm này, thánh tử đạo Ignatiô thành Antiochia cho rằng: “Những người Kitô hữu không nói thì tốt hơn những Kitô hữu nói mà không làm.”

Tuy nhiên, chúng ta cũng phải cẩn thận bởi những lý luận trên có thể bị hiểu lầm hay bị lạm dụng. Đã có những người vì lười biếng không muốn đến nhà thờ tham dự thánh lễ, nên cứ ngụy biện cho rằng: “Đạo tại tâm.” Cũng có những người lý luận rằng: “Ồ, những người hay đi nhà thờ, chăm đọc kinh cầu nguyện đâu có phải là những người tốt trong cộng đoàn đó sao?” Với những ý tưởng cố hữu như thế, họ biện hộ cho việc bỏ lễ và bỏ cầu nguyện. Nếu trong gia đình, người vợ tiếp tục đi nhà thờ, thì phải chịu đựng và im lặng vì những lời mỉa mai như thế. Họ không biết rằng những người cầu nguyện và cố gắng sống Tin Mừng cũng là những con người bất toàn, luôn có những giới hạn và thiếu sót. Điều chắc chắn là mỗi người phải trả lẽ với Thiên Chúa và với lương tâm của mình về điều họ phải làm và không làm cho người khác.

2- Tránh những hiểu lầm

Nhưng để giải thích nội dung chính của dụ ngôn, chúng ta cần quay lại với câu kết luận lạ lùng này của Chúa Giêsu: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31).

Có thể nói đây là một trong những lời của Chúa gây hiểu lầm hơn cả. Trong lịch sử đã có những con người dùng câu nói này để lý tưởng hóa hay “hợp thức hóa” nghề mãi dâm và biện hộ cho những cô gái điếm. Văn chương cũng có đầy những “cô gái điếm thánh thiện.” Đơn giản chỉ cần nghĩ tới tác phẩm La Traviata (Người Đàn bà sa ngã) của Giuseppe Verdi hoặc cô điếm Sonya hiền như ma xơ của Dostoevsky trong tác phẩm “Tội ác và Hình phạt.”

Đây là một sự hiểu lầm kinh khủng! Cần phân biệt rằng Chúa Giêsu đang nói về một trường hợp cụ thể, như đã xảy ra. Người quả quyết: “Những cô gái điếm vào Nước Trời trước các ông.” Chúa nói tới những “cô gái điếm” như một sự so sánh để nhấn mạnh đến sự nghiêm trọng của những ai cứng lòng từ chối chân lý. Ngoài ra, trong Tin Mừng, Chúa Giêsu còn nói đến trường hợp “những người thu thuế.” Họ là những người làm việc cho các trạm thu thuế của đế quốc La Mã và được coi là những người tham dự vào những bất công xã hội. Đó là hai tội công khai mà thời đó người Do Thái xếp ngang hàng với nhau và cần loại trừ. Nếu Chúa Giêsu xếp những cô gái điếm với những người thu thuế lại với nhau, Người có lý khi làm như thế. Vì cả hai loại người này đã kiếm tiền bằng việc làm bất lương, nhưng điều Chúa muốn nói ở đây là dầu họ xấu xa như thế nào, nhưng khi gặp gỡ Đức Giêsu, họ đã thay đổi đời sống của mình; Chúa muốn đề cao thái độ đón nhận sự thật và khả năng hoán cải, như một Maria Mađalêna, một Mátthêu, hay một Giakêu… Khác với những người cứ nghĩ mình thánh thiện và đạo đức, những đầu óc đầy thành kiến và bảo thủ, nên cứ ở lì trong lập luận riêng và chính kiến của mình. Những người này luôn có áo giáp tự vệ quá lớn, nên rất khó thay đổi như các Luật Sỹ và Biệt Phái.

Cũng cần thêm rằng, thế giới hôm nay mà chúng ta đang sống là thế giới bị thống trị bởi nền văn hóa tính dục. Trong đó, hiện tượng mãi dâm đang phổ biến dưới nhiều hình thức tinh vi, lan tràn và nguy hiểm. Có rất nhiều người phụ nữ và trẻ em bị bán làm nô lệ cho tình dục một cách có hệ thống và tinh vi hơn bao giờ hết. Sẽ là sai lầm khi cho rằng câu nói trên của Chúa Giêsu cổ xúy cho hiện tượng mãi dâm này. Quả vậy, nghề mãi dâm luôn được coi là nghề xấu xa, bất xứng trong xã hội dù thời nào. Nhưng Đức Giêsu luôn trung thành với nguyên tắc đạo đức: luôn nói “không” với tội lỗi, nhưng nói “có” với tội nhân. Theo đó, Người không chấp nhận hiện tượng mãi dâm và mời gọi người phụ nữ ngoại tình hoán cải: “Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11). Người Kitô hữu phải là người giống Chúa Kitô về điểm này.

3- Luôn hy vọng để hoán cải

Như thế, khi kể dụ ngôn hai người con để ám chỉ về những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ hoán cải nhờ lời giảng của Gioan Tẩy Giả; còn những kỳ mục và thượng tế thì không hoán cải, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta điều này: Một đàng, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến thái độ cứng đầu, bảo thủ, không chịu thay đổi của những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái thời đó, họ là những người đại diện cho người con nói “có” nhưng lại “không chịu làm.” Họ là những người đại diện cho tất cả những ai hôm nay, dầu mang danh là Kitô hữu, nhưng chỉ ở trên danh nghĩa, không thực hành niềm tin, không sống niềm tin của mình.

Đàng khác, Lời Chúa hôm nay muốn đề cao những ai dầu trước đó lầm lỡ, yếu đuối, như người con đã “nói không” với Thiên Chúa, nhưng sau đó, họ đã hối hận, trở về và thay đổi cuộc sống.

Cả hai trường hợp là tấm gương để chúng ta soi bóng mình. Bởi lẽ, một cách chân thành và khiêm tốn, đã nhiều lần, chúng ta là người con “nói làm, nhưng không làm,” cho Chúa những gì Chúa muốn, trong đời sống chúng ta. Chúng ta hứa với Chúa nhưng không giữ lời, nói nhiều nhưng làm ít, nghe nhiều, nhưng không áp dụng vào cuộc sống. Có lẽ, cũng vì sự cứng lòng, bảo thủ và thành kiến làm tổ trong chúng ta, nên chúng ta đánh mất khả năng đón nhận điều mới mẻ, và khả năng thay đổi.

Và vì thế, chúng ta cần học nơi người con thứ hai ở chỗ biết hối hận, tiếp nhận và thay đổi đời sống, bằng việc làm theo những gì Chúa muốn, sống theo những gì Chúa dạy, đồng nhất giữa nói và làm là một.

Tin Mừng là tin vui, tin hy vọng, tin cứu độ cho tất cả mọi người, nhất là cho các tội nhân, kể cả những cô gái điếm. Chúng ta phải luôn biết hy vọng ơn cứu độ cho tất cả. Amen!

Về mục lục

NHÌN VỚI NHÃN QUAN CỦA CHÚA

Lm. Xuân Hy Vọng

Đâu đó, chúng ta vẫn thường được nghe hoặc được gieo vào tâm trí câu nói (chắc không có chủ ý!): “nếu không đọc kinh, cầu nguyện…Chúa phạt!”. Từ thuở nhỏ, con trẻ mà hư, trái quấy, mẹ/bố thường nói câu này để con biết vâng lời! Bước vào nhà trẻ, mẫu giáo, con trẻ chơi với nhau có khi xô xát đánh nhau, bố/mẹ cũng dùng câu nói này để con đừng đánh bạn bè! Và cứ lớn dần, được học giáo lý, được học chữ ngoài trường lớp, ra đời, có sự nghiệp, lập gia đình, có con, trong lúc vô tình hay cố ý cũng có lúc dùng câu nói được nghe từ xưa “nếu không…, Chúa sẽ phạt!” cho chính con cái mình!

Đối với những ai có tính gia trưởng (luôn cho suy nghĩ, cách nhìn của bản thân đúng đắn và một cách nào đó áp đặt lên người khác) thì ‘đường lối của người khác’ dường như chỉ là thứ yếu, luôn đứng sau ‘đường lối của chính mình”. Tương tự như dân Is-ra-en thời tiên tri Ê-zê-ki-en, cũng luôn cho rằng: ‘Đường lối của Chúa không chính trực’. Và Thiên Chúa đã dùng miệng tiên tri này mà đối chất, răn dạy, chỉ ra lối suy nghĩ, cách sống không đúng đắn của họ: “Hỡi nhà Is-ra-en, hãy nghe đây: phải chăng đường lối của Ta không ngay thẳng, hay đường lối của các ngươi mới không ngay thẳng?” (x. Ez 18, 25). Cách thức Chúa làm, con đường Chúa đi, kế hoạch Chúa vạch ra chắc chắn khác biệt với chúng ta; nhưng nếu chúng ta không tin nhận những gì khởi sự từ Chúa và kết thúc nơi Người luôn chính trực, đúng đắn, và ích lợi cho chúng ta, thì vô hình chung tư tưởng ngàn xưa của dân Is-ra-en cũng đang tồn tại trong chúng ta vậy!

Hơn nữa, khi mắc sai lầm mà không kịp thời dừng lại, xem xét, sửa đổi thì ‘sai lầm này kéo theo lỗi lầm kia’ như cách lập luận thường thấy nơi chúng ta ‘Thiên Chúa xử phạt’. Ở đây, chúng ta sẽ biết được một lời giải đáp rõ ràng, không chút mơ hồ hay mông lung, qua lời quả quyết của ngôn sứ Ê-zê-ki-en “khi người công chính từ bỏ công chính mà làm điều bất chính, thì nó phải chết vì điều bất chính nó làm” (x. Ez 18, 26). Đúng thật, Thiên Chúa không sát phạt hay xử phạt! Những ai sống chính trực mà bỏ đàng công chính, làm điều ác, việc xấu xa, thì họ phải chết không phải vì Chúa trừng phạt hoặc ra án xử, mà vì điều bất chính họ làm mà thôi. Chúng ta phải chịu trách nhiệm, chịu hậu quả do hành động, hành xử, hành vi, đường lối, cách sống của chúng ta.

Lẽ dĩ nhiên, lỡ may chúng ta là những kẻ gian ác, xấu xa (trong tư tưởng, lời nói, cũng như hành động) từ bỏ điều dữ, bỏ đàng tội lỗi, bỏ thói ngạo mạn kiêu căng, mà thi hành điều chính trực công minh, theo đường lối của Chúa thì “sẽ cứu được mạng sống mình” (x. Ez 18, 27). Hơn nữa, một khi nhận ra, nhìn thấy và từ bỏ mọi điều phản nghịch đã phạm, thì “chắc chắn sẽ được sống, chứ không phải chết” (x. Ez 18, 28).

Theo đường lối của Chúa, điều này đúng đắn cho hết thảy địa vị, nghề nghiệp, ngôn ngữ, văn hoá. Nó sẽ không nghiêng về người có thẩm quyền, có học thức, có chức tước, vị vọng…mà lại rời xa những kẻ thấp hèn, vô học, dân thường cùng đinh, thấp cổ bé miệng và bị loại ra ngoài xã hội (như người tội lỗi, người thu thuế, gái điếm…) như lời Đức Giê-su khẳng định với các thượng tế và kỳ lão trong dân, cũng như mỗi người chúng ta ngày nay rằng: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31). Nếu xét theo cách thức của con người, thì sự việc này không thể nào, đúng hơn là không bao giờ xảy ra được. Tuy nhiên, nếu nhìn theo đường lối của Thiên Chúa, thì điều chúng ta tưởng không, lại thành hiện thực một cách không tưởng! Vì sao như vậy? Câu trả lời ngay sau khi lời tuyên bố trên của Đức Giê-su: “Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tinPhần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy” (Mt 21, 32). Sự hoán cải liên lỉ, hành vì xét mình hằng ngày giúp chúng ta tin tưởng đón nhận đường lối của Chúa. Ngược lại, khi tin tưởng chấp nhận đường lối của Chúa, thì chính Chúa hoán cải con người chúng ta, biến đổi con đường dị biệt của ta, dẫn ta vào quỹ đạo tình thương, nói như Thánh Phao-lô tông đồ trong thư gửi cho giáo đoàn Phi-líp-phê “…liên kết với Đức Ki-tô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, tình bác ái khích lệ chúng ta hiệp thông trong Thần Khí, và sống thân tình, biết cảm thương nhau” (x. Pl 2, 1).

Một khi nhận biết, đón nhận, tin tưởng và bước theo đường lối của Chúa, thì những gì Thánh Phao-lô nhắc nhở, nhắn gửi, răn dạy trong bài đọc II phải được suy tư một cách nghiêm túc, rồi thực hành với cả con tim và khắc ghi suốt cuộc hành trình đức tin trên dương thế này: “đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Đức Ki-tô Giê-su” (Pl 2, 3-5). Giữa chúng ta với nhau, chúng ta hãy mặc lấy tâm tình như chính Đức Giê-su Ki-tô, cụ thể: “Người vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà mặc lấy thân phận tôi đòi, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người đã tự hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự…” (Pl 2, 6-8)

                        Đường lối Chúa chính lộ ngàn đời

Đường lối con chơi vơi khắp chốn.

Đường lối Ngài mãi vuôn tròn

Suốt cuộc đời này bước trọn tin yêu. Amen!

Về mục lục

 

THỰC THI Ý CHÚA

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Ý muốn của Thiên Chúa rất cao siêu huyền nhiệm và thường được gọi là “Thánh ý”. Thiên Chúa chỉ muốn những điều tốt lành cho con người, như bản chất của Ngài là tốt lành. Vì ý muốn của Chúa là muốn cho con người làm điều thiện để họ được hạnh phúc, nên mỗi khi chúng ta làm những điều tốt lành là chúng ta thực thi ý Chúa.

Ngôn sứ Êdêkien (khoảng thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên) đã diễn tả ý Chúa qua lời giảng dạy của ông. Qua đó, Thiên Chúa kêu gọi người tội lỗi hãy từ bỏ con đường bất chính mà trở về phục thiện. Ngài cũng khẳng định: mỗi người phải gánh trách nhiệm về lối sống của mình, đừng nương nhờ vào công phúc của người khác, cũng đừng ỷ thế mà đổ lỗi cho các thế hệ tiền nhân. Thực thi những giáo huấn của Chúa là thi hành Thánh ý của Ngài. Ai thi hành ý Chúa sẽ được hạnh phúc lâu bền. Ai làm điều gian ác, tức là đi ngược lại ý Chúa, sẽ bất hạnh ngàn thu. Tác giả Thánh vịnh đã diễn tả niềm vui của những ai tuân hành Thánh ý Chúa: “Tuân theo Thánh ý Ngài, con vui sướng hơn được tiền rừng bạc bể”. (Tv 119,14).

Làm thế nào để nhận ra Thánh ý Chúa trong đời sống chúng ta: trong câu chuyện về hai người con, Đức Giêsu đã chứng minh cho thấy thực thi ý Chúa phải thể hiện qua việc làm cụ thể, chứ không bằng lời nói suông. Hai người con tượng trưng cho hai lối sống khác nhau: người con thứ hai ngoài miệng nói sẵn sàng, nhưng lại không làm điều cha mình chỉ dạy; người con thứ nhất ban đầu từ chối, nhưng sau đó lại đi làm theo ý cha. Xem ra cả hai cách xử sự của hai người con đều cần phải điều chỉnh: người con lớn từ chối lời đề nghị của cha mình cho thấy thiếu thiện chí đón nhận lời dạy bảo của cha. Mặc dù sau đó anh có đi làm, nhưng việc khước từ lời cha chắc chắn làm cha anh buồn. Người con thứ hai lại càng đáng trách hơn nữa, bởi vì anh chỉ nói cho cha vui lòng, mà thực tâm thì không thực hành ý cha. Chúng ta dễ dàng nhận ra người cha là hình ảnh của Thiên Chúa. Ngài luôn muốn chúng ta làm những việc tốt lành, để đem lại ích lợi cho bản thân và cho cộng đoàn xã hội. Tuy vậy, trước ý muốn của Ngài, chúng ta thường xử sự theo sự ích kỷ hẹp hòi, tính toán thiệt hơn để né tránh những gì Ngài muốn.
 
Qua hình ảnh hai người con, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta thận trọng trong cách nhận định về một con người hay một sự việc. Dưới cái nhìn của xã hội, những người thu thuế và những cô gái điếm luôn bị khinh bỉ, xa lánh và lên án. Tuy vậy Chúa Giêsu lại khẳng định: có thể những người này lại được vào Nước Trời trước những người tự coi là công chính. Bởi lẽ họ chỉ nói mà không thực hiện Thánh Ý của Thiên Chúa. Chúa dạy chúng ta có cái nhìn thông cảm, bao dung và thận trọng hơn đối với anh chị em xung quanh. Bởi lẽ có những lúc cái nhìn bề ngoài và nhận định khái quát dễ làm cho chúng ta sai lầm. Những người biệt phái và luật sĩ dù khôn ngoan giỏi giang, nhưng chưa hẳn đã là những người ngay chính. Để nhận định tư cách của họ, còn phải xem đời sống hằng ngày của họ ra sao, họ có thực hành đức công bình mà họ vẫn rao giảng hay không, đó mới là điều quan trọng. Một người có quá khứ tội lỗi, nhưng thành tâm thiện chí ăn năn hối cải, thì họ được Chúa tha thứ. Trong cuộc sống, vì có một quá khứ nghiện ngập, tù đầy khi muốn hoàn lương vẫn gặp phải những thành kiến của những người xung quanh, để rồi những người muốn làm một con người bình thường mà cũng không được. Ngôn sứ Edêkien đã truyền lại lời của Chúa: “Nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu thoát mạng sống mình!”. Vâng, trong cuộc đời, chúng ta còn khắt khe hơn Thiên Chúa trong việc xét đoán anh chị em mình. Đối với Chúa, không thể vin vào một quá khứ xa xưa – dù tốt lành – để biện minh cho những lỗi lầm mình đang phạm. Thiên Chúa công minh vô cùng trong xét xử. Cũng cần tỉnh táo trước một lối suy nghĩ ỷ nại vào lòng thương xót của Chúa để sống tự do bừa bãi, dựa vào lập luận Chúa tha thứ hết. Quả vậy, Chúa tha thứ hết, nhưng phía chúng ta phải sám hối ăn năn và sửa lại đời sống của mình.
 
Trong việc thực hành Thánh ý của Thiên Chúa, chúng ta có một mẫu gương hoàn hảo: đó là Đức Giêsu. Tác giả thư gửi tín hữu Philipphê đã giúp chúng ta chiêm ngắn dung mạo của Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể: Người tuy là thân phận Thiên Chúa mà chấp nhận mọi thiệt thòi, tự hủy mình ra không, mang lấy thân phận nô lệ và chết trên thập giá. Đức Giêsu hạ mình giống như con người phàm trần để sống gần gũi thân thiện với chúng ta, cảm thông và chia sẻ với chúng ta những buồn vui của kiếp người. Khi mời gọi chúng ta cùng nhìn lên Đức Giêsu như mẫu mực hoàn hảo, tác giả mong ước chúng ta hãy “sống thân tình và biết cảm thương nhau… Hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chi vì ganh tỵ hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” (Bài đọc II). Những lời khuyên trên đây rất cụ thể và rất sâu sắc. Thực hiện được những điều đó là chúng ta nên giống Đức Giêsu, thi hành Thánh ý Chúa Cha.
 
Chúa nhật hôm nay trùng hợp với ngày 1-10 dương lịch, lễ kính Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu và ngày đầu tháng Mân Côi. Đức Trinh nữ Maria và Thánh Têrêsa là những gương mẫu cho chúng ta về việc lắng nghe và thực thi ý Chúa. Xin các ngài cầu bầu cho chúng ta.
 
“Lạy Chúa, xin dạy con biết Thánh ý Chúa!”. Đó là một trong những lời cầu nguyện đơn sơ và ý nghĩa nhất. Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin cho ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Kinh Lạy Cha). Khi chuyên tâm làm việc thiện là chúng ta góp phần làm cho ý Chúa được thể hiện, nhờ đó, vinh quang Chúa được chiếu tỏa trong cuộc đời và hạnh phúc được lan rộng giữa thế gian.

Về mục lục

.

SÁM HỐI LÀ KHỞI ĐIỂM

Tgm. Ngô Quang Kiệt.

Nói và làm đó là hai thái độ khác nhau. Có người nói mà không làm. Có người không nói nhưng lại làm. Đó chính là hai thái độ mà Chúa đề cập đến trong bài dụ ngôn hôm nay. Hạng người nói mà không làm đó là những người biệt phái và luật sĩ. Họ tự cho là mình đạo đức, nhưng khi Chúa Giêsu rao giảng, họ không những không tin mà còn phê phán chỉ trích những người tin Chúa, chỉ trích chính Chúa đã đón tiếp người tội lỗi. Hạng người không nói mà làm đó là những người thu thuế và những người tội lỗi. Tuy sống tội lỗi, nhưng khi nghe Chúa rao giảng, họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa. Qua dụ ngôn này Chúa muốn dạy ta những bài học sau.

Bài học thứ nhất: Việc làm trọng hơn lời nói. Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Tục ngữ Việt Nam có câu “Mười voi không được bát nước sáo” là thế. Nhưng trái lại có những người không nói giỏi, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, ta càng mến những người nói ít làm nhiều. Trong đời sống thiêng liêng cũng thế. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông. Có lần Chúa đã vạch rõ những giả dối này: “Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21). Đức tin phải biểu lộ bằng việc làm mới là đức tin sống động. Như thánh Giacôbê dạy: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Tình yêu cũng phải có việc làm. Việc làm minh chứng tình yêu đích thực. Tin yêu Chúa phải được biểu lộ bằng việc làm.

Bài học thứ hai: Con người có thể thay đổi. Con người còn sống ở trần gian là còn thay đổi. Đó là một điều ta phải cảnh giác. Biết đâu ta đang tốt bỗng trở nên xấu. Cũng như các biệt phái và luật sĩ tự hào mình tốt, nhưng khi Chúa Giêsu đến, họ đã trở nên xấu vì không tin vào Chúa, không hoán cải đời sống. Con người có thể thay đổi. Đó là điều làm cho chúng ta hy vọng. Vì nếu ta tội lỗi yếu hèn, ta vẫn có cơ hội ăn năn trở lại. Ta không bị kết án trong tội lỗi của ta. Chúa còn cho ta có thời giờ trở lại với Chúa. Miễn là ta nhận biết mình và quyết tâm đổi mới cuộc đời.

Bài học thứ ba: Sám hối là việc cần thiết của mọi người. Đã là người ai cũng có sai lầm. Vì con người yếu đuối bất toàn. Chúa không đòi ta phải hoàn hảo không bao giờ sai lỗi. Nhưng Chúa đòi ta mỗi khi sai lỗi phải biết sám hối ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì có sám hối ta mới được Chúa thứ tha. Chúa yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho những tâm hồn sám hối như lời Thánh Vịnh: “Một tấm lòng tan nát dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Ta hãy xem Chúa đã tha thứ cho bà Mađalena. Nhất là Chúa đã tha thứ cho người trộm lành, để thấy Chúa nhân từ thương xót biết bao. Nhưng Chúa lại chê ghét những tâm hồn kiêu căng cứng cỏi không chịu ăn năn sám hối. Trong Phúc Âm ta thấy Chúa chỉ mắng nhiếc những người tự xưng mình đạo đức nên kiêu căng khinh miệt người khác và không nghe lời Chúa. Nhưng Chúa luôn nhân từ, khoan dung, tha thứ cho những tội lỗi thật lòng ăn năn. Sám hối thật cần thiết vì tất cả chúng ta ai cũng có lầm lỗi trước mặt Chúa, cần được Chúa khoan hồng thứ tha. Sám hối thật cần thiết vì đó là khởi điểm để nên tốt, nên thánh thiện. Có sám hối ta mới biết từ bỏ nếp sống cũ. Có sám hối ta mới bắt đầu một nếp sống mới đẹp lòng Chúa.

Như thế, ta đừng chỉ nói suông mà không làm, nhưng hãy biết thực hành điều Chúa dạy. Ta đừng tự hào vì mình tốt lành mà phê bình chỉ trích người khác. Hãy tự xét mình để thấy mình tội lỗi. Và khi biết mình tội lỗi, hãy ăn năn sám hối ngay. Có sám hối ta sẽ được Chúa tha thứ. Có sám hối sẽ được anh chị em yêu thương. Nhất là có sám hối ta mới khởi sự tiến lên trên con đường thánh thiện.

Lạy Chúa xin tha thứ tội con đã phạm đến Chúa và đến anh em. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Nói và làm, việc nào cần hơn và tốt hơn?

2) Có nhiều chương trình tốt đẹp nhưng không thực hiện, có ích gì không?

3) Biết nhận lỗi, xin lỗi và sửa lỗi. Điều này đáng trọng hay đáng chê trách?

Về mục lục

.

NGƯỜI BIẾT HOÁN CẢI CÓ CHỖ TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Chủ đề nổi bật hơn cả của Chúa Nhật XXVI thường niên A là sự thống hối ăn năn của con người tội lỗi gặp được lòng nhân lành của Thiên Chúa tình thương. Quả thật, lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với con người là một chuỗi dài lịch sử tình thương, tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa phán : “Ta muốn lòng nhân từ chứ không cần hy lễ ” (Os 6, 6; Mt 9, 13). “Ta không muốn kẻ vô đạo chết, mà (muốn) kẻ vô đạo bỏ đường nó theo mà trở lại và được sống” (Ez 33,11). Cánh cửa trái tim nhân từ của Thiên Chúa luôn luôn rộng mở cho hết những ai chân thành hướng về Thiên Chúa với cả tấm lòng thành, và Ngài sẽ đón nhận họ với niềm vui khôn tả là cả thiên đàng sẽ vui mừng (x. Lc 15,10).

Chỉ có Thiên Chúa không qui kết tội lỗi mà còn thứ tha. Ngài là “Cha đầy tình thương xót” (2 Cr 1,3), là Thiên Chúa nhân lành, đầy lòng từ bi, và là Thiên Chúa mọi nguồn an ủi, luôn kiên nhẫn chờ đợi kẻ có tội thống hối ăn năn, luôn muốn điều tốt cho con cái. Hoán cải thực sự là dứt khoát từ bỏ tội lỗi, thống hối vì những tội đã qua và xin Chúa thứ tha. Thiên Chúa thương xót sẵn sàng tha thứ và tuôn đổ Thánh Thần tẩy xóa mọi tội lỗi quá khứ của hối nhân.

Trách nhiệm của con người

Thiên Chúa muốn chúng ta phải chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm, trả lời về những kết quả hành động của chúng ta. Nên chúng ta không được hành động nửa vời : vì nếu nửa vời chúng ta sẽ chết. Tiên tri Ezekiel cảnh báo : ” Nếu kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết ” (Ed 18, 28).

Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta rằng, nói “vâng”, “tôi biết”, “tôi thực hành giáo lý” mà thôi, chưa đủ, phải hành động, phải lên đường. Chính người con trai đã nói “không” với cha mình, nhưng nó hối cải và đi làm vườn nho, anh ta đã làm theo ý người cha, như thế, anh bước vào giao ước tình thương của cha anh, anh đã yêu mến cha trong hành động và chân lý.

Chúa Giêsu lên án các thượng tế và kỳ lão là những người biết rõ Kinh Torah, Lời Thiên Chúa, nhưng chỉ biết thôi không làm cho họ nên công chính. Chúa long trọng tuyên bố : “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31). Các thượng tế và kỳ lão hiểu rất rõ sứ điệp trên, nên họ sẽ không dung tha cho Chúa Giêsu : ít ngày sau, chính họ là những kẻ sẽ lên án tử cho Người. Đúng, sự đồi bại của kẻ công chính sẽ dẫn đến cái chết, thậm chí dẫn đến cái chết của những người vô tội, như Hêrôđê dẫn đến cái chết của các thánh Anh Hài!

Những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước

Lời tuyên bố trên của Chúa Giêsu như một ánh hào quang của Tin Mừng được xây dựng chung quanh hạng nguời đĩ điếm, lý tưởng hoá họ và đối nghịch họ với những kẻ được gọi là công chính là các thượng tế và các kỳ lão, đã gây sốc cho nhiều người. Không có lời nói nào của Chúa Giêsu bị lạm dụng cho bằng lời nói: “Những cô gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước” (Mt 21, 31).. Khi lý tưởng hoá hạng đĩ điếm, người ta cũng lý tưởng hóa luôn cả hạng người thu thuế, luôn đi kèm hạng đi điếm, là những kẻ cho vay nặng lãi, một loại luôn đồng hành loại gái điếm trong Tin Mừng đã gây lên một sự hiểu lầm đáng sợ, khi người ta không nhận thức đủ.

Những người thu thuế, là những nhân viên các cơ quan thâu thuế Roma, tham dự trong những hành xử bất công của những cơ quan này. Nếu Chúa Giêsu liên kết những gái điếm và những người thu thuế với nhau, Người làm vậy không phải là không có lý do; vì cả hai đều coi tiền bạc là sự quan trọng nhất trong cuộc sống.

Nếu Chúa Giêsu tôn trọng các cô gái điếm và người thu thuế hay kẻ tội lỗi, không phải do kiểu sống của họ, nhưng vì khả năng thay đổi và phục thiện… như Maria Madalêna, kẻ đã trở lại và đã theo Chúa Giêsu trên tất cả con đường thánh giá, là một gương mẫu cho sự này (đặt giả thiết bà là một cô gái điếm), Giakêu (x. Lc 9, 1-10), người phụ nữ Samaria (Ga 4, 1-42), người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8, 1-11) và người con trai hoang đàng (x. Lc 15, 11 và 32).

Chúa Giêsu nói rõ lý do sẽ vào nước Thiên Chúa trước : “Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài” (Mt 21, 32).

Hoán cải không bao giờ là muộn.

Chúng ta được yêu cầu từ bỏ thái độ để ý đến mình hơn là tha nhân, thậm trí hơn cả Thiên Chúa nữa. Vì Không phải mọi kẻ nói với Ta: “Lạy Chúa, lạy Chúa”, là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Ðấng ngự trên trời” (Mt 7, 21).

Những lời tuyên bố trên của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ hơn về dụ ngôn hai người con trai được cha sai đi làm vườn nho (x.Mt 21, 32). Qua đó, Chúa mở mắt những người Do Thái để họ hiểu rằng khi khép kín lòng mình trong sự bất chính và sai lầm của chính họ là một sự từ chối Nước Trời.

Họ nói “vâng” với Thiên Chúa. Nhưng trong thực tế, họ lại ngoan cố khước từ lời Thiên Chúa, gạt bỏ Nước Trời. Rõ ràng là nói “vâng” nhưng lại không thi hành. Và như một mẫu gưỡng về sự hoán cải, Chúa Giêsu đặt ra những tình huống trái nghịch : những người thu thuế và gái điếm. Ban đầu, họ nói “không” với Nước Trời và Giao Ước vì họ chưa nhận ra các yêu cầu phải thi hành để được vào Nước Trời, nhưng họ có đủ khả năng để thích ứng với dấu hiệu Nước Thiên Chúa. Sau đó, trên hành trình tìm kiếm Nước Trời. Dần dần, họ học cách nói “có”, nên Chúa Giêsu tuyên bố : “Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21, 43).

Phần chúng ta, chúng ta cũng phải học cách nói “có” … ” Con không đi’. Nhưng sau hối hận và đi làm” (Mt 21, 29).

Về mục lục

.

SÁM HỐI, QUAY TRỞ VỀ LÀ CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN ƠN CỨU ĐỘ

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Thánh Phaolô đã nhiều lần nói :” Nếu có gì vinh vang, tôi chỉ có thể vinh vang trong sự yếu đuối của tôi…” hoặc “ Tôi coi mọi sự là thiệt thòi so vời mối lợi tuyệt vời là được nhận biết Đức Kitô…”. Thánh Phaolô luôn nêu lên sự yếu đuối và nghèo hèn của mình. Thật vậy, con người chỉ khi nào nhận ra sự yếu đuối của mình, nhận ra con người tội lỗi, nghèo hèn của mình, tự cảm thấy xấu hổ vì tội lỗi của mình, rồi nhìn lên Chúa, nhận ra lòng thương xót của Người, lúc đó con người mới chạy đến với Chúa, ăn năn sám hối để xin Người tha thứ tội lỗi cho mình.

Các bài đọc hôm nay, đặc biệt đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu 21,28-32 diễn tả sự tương phản của hai người con. Người con thứ nhất đã thẳng thừng từ chối lời mời gọi đi làm của người cha. Người con này đã có thái độ xem ra hời hợt, thiếu suy nghĩ khi anh trả lời cùng Cha :” Con không muốn “. Trái với người con thứ nhất, người con thứ hai trước lời kêu gọi của người cha, anh đã tỏ vẻ khúm núm, xem ra đầy khiêm nhượng và phấn kích, khi mau mắn thưa cùng cha :” Vâng, thưa cha “. Với thái độ cung kính, khúm núm trước lời đề nghị của người cha.

Chúng ta có cảm tưởng người con thứ hai sẽ chấp hành mau mắn, đi làm theo ý của cha. Với hai thái độ hoàn toàn trái ngược này: hai lập trường khác nhau, người con thứ nhất tuy thẳng thừng từ chối lời mời gọi của cha, nhưng sau đó anh hối hận, thống hối, chính sự sám hối thức đẩy anh trở lại, và ưng thuận đi làm vườn nho cho cha của mình. Còn người con thứ hai, tuy tỏ vẻ khúm núm, mau mắn :” Vâng, thưa cha “, nhưng cuối cùng anh đã không vâng lời, và không chịu làm gì hết.

Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, dựng nên con người, Ngài luôn tôn trọng sự tự do của con người. Dựa vào đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu : với hai thái độ, hai cách ứng xử và hành động của hai người con, Chúa Giêsu đã quay lại chất vấn người chất vấn Ngài và hỏi họ :” Ai trong hai đứa con đã thi hành ý của cha ?”. Vâng, mọi người và tất cả mọi người chỉ có thể đồng loạt :” Người con thứ nhất “. Người con thứ nhất và người con thứ hai chỉ được đánh giá theo hành động, chứ không theo lời nói xuông, lời nói trên môi miệng. Dựa vào câu trả lời này, Chúa Giêsu xoay ngược vấn đề :” Tôi bảo thật các ông : những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ dạy đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin “.

Rõ ràng Chúa Giêsu kết án những Pharisêu, Kinh sư, Biệt phái vì những người này lúc nào cũng tự kiêu, tự mãn, cho mình là con cháu Abraham, dân được tuyển chọn, những người tự cho mình là biết luật thấu đáo, tỉ mỉ giữ những điều luật không đáng giữ, bầy thêm nhiều điều luật nhằm đè trên đầu trên cổ người dân. Họ bắt người dân giữ nhưng họ không bao giờ đụng tới để giữ những điều Chúa dạy, nên họ giống như người con thứ :” Thưa cha, vâng! “, nhưng rồi vẫn ung dung, vẫn không thống hối để vâng lời, để vui vẻ đi làm. Thiên Chúa luôn tôn trọng sự tự do của con người, của chúng ta, bởi vì có những quyết định, có những việc làm của chúng ta chống lại, nghịch với ý định của Thiên Chúa, nhưng Người vẫn kiên nhẫn chờ đợi chúng ta tỉnh hồi, ăn năn, sám hối, nhận ra lỗi lầm, nhận ra tội lỗi của chúng ta mà thành tâm quay trở về với Người để xin Người tha thứ và lãnh nhận ơn tha thứ của Người.

Đối với Chúa việc thành tâm nhìn ra lỗi lầm, xưng thú lỗi lầm và can đảm, mau mắn sửa đổi lỗi lầm không phải là hành động yếu hèn, làm mất nhân phẩm, phẩm giá con người, trái lại càng sám hối, càng sửa đổi để trở nên hoàn thiện, con người càng gần gũi, càng gắn chặt lấy Thiên Chúa và càng quảng đại, yêu mến hơn đối với tha nhân.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết nhìn vào mình để nhận ra những yếu kém, những lỗi lầm của mình và thành thật ăn năn, sám hối, quay trở về với Chúa để nhận lãnh sự tha thứ của Chúa. Amen.

Gợi ý để chia sẻ:

1. Người Cha ám chỉ ai ?
2. Người con thứ nhất tượng trưng cho những ai ?
3. Người con thứ hai đại diện cho những ai ?
4. Hành động và lời nói phải làm sao ?
5. Những người nghe lời Chúa mà không đem ra thực hành tượng trưng cho lớp người nào ?

Về mục lục

.

VÂNG LỜI

Anna Cỏ may

          Ngày hôm nay sự vâng lời được thực hiện trong lời nói hay trong hành động, không ai biết rõ. Để hiểu về điều này, Chúa Giêsu đã kể cho các thượng tế và kỳ mục nghe dụ ngôn “Hai người con”.

           Một người kia có hai người con, một hôm ông gọi người con thứ nhất đi làm vườn nho, nó trả lời “Con không muốn!” nhưng sau đó nó lại đi làm. Còn người con thứ hai trả lời “Thưa ngài, con đi!” Và nó lại không chịu làm (Mt 20, 28-31). Câu chuyện này cho chúng ta thấy rõ sự vâng lời được thể hiện ngay trong hành động. Người con thứ nhất trả lời “không muốn”, sau đó nó suy nghĩ lại và đi làm. Nó làm vì cái gì? Có lẽ nó làm vì thương cha hay vì một lý do nào khác. Còn người con thứ hai trả lời rất to, nhưng chẳng thực hiện chút nào. Cuối cùng người con thứ nhất đi làm.

          Chúng ta cũng thường nghe câu “Con gái nói không là có”, đó là câu nói vui với nhau trong tình yêu đôi lứa. Đối với câu chuyện hôm nay, người con thứ cho chúng ta thấy rõ những người trả lời “không làm” nhưng sau đó đi làm là người biết suy nghĩ lại lời nói và hành động của mình. Là người biết phân định trong mọi việc và nhận ra lỗi lầm của mình. Nơi họ còn có một trái tim dễ rung động và xót thương người khác. Còn những người trên môi miệng luôn dạ dạ, vâng vâng thì đằng sau lại không động tay động chân gì, đó là kiểu giả hình giả tạo. Họ dùng lời nói để trả lời với người khác cho xong, thực tế thì họ không làm. Chẳng phải xưa kia các thượng tế và kỳ mục luôn nói trên môi miệng luật này luật kia, nhưng lại không làm. Họ chỉ áp đặt lên người khác điều họ nói, và tự biến mình thành con người đạo đức giả (Mt 23, 3). Chúng ta cũng hãy cẩn thận với lời nói “thưa vâng”. Thưa mà không làm là chúng ta tự tạo cho lời nói của mình vô dụng không đáng tin tưởng. Chúng ta hay nói với nhau rằng “A, chỉ có cái miệng thôi, chẳng làm gì cả”. Điều đó cho chúng ta biết giá trị đích thực cuối cùng là những gì chúng ta làm, chứ không phải là lời nói của chúng ta. Tấm gương cho chúng ta sống thực thi với lời thưa “con đây” chính là Mẹ Maria. Mẹ đã đáp lại lời sứ thần bằng cách để cho ý Chúa thực hiện trong cuộc đời mình. Và chúng ta đã thấy rõ, những việc Mẹ làm rất đẹp ý Thiên Chúa và đã đem lại hạnh phúc cho con người. Tuy nhiên, sự vâng lời cũng cần có sự phân định nên làm hay không trong từng trường hợp và trong hoàn cảnh nào. Như những người Pharisêu, họ vâng lời giữ luật ngày sabat một cách nghiêm ngặt, không làm bất cứ việc gì trong ngày sa bát mặc dù luật ấy liên quan đến mạng sống con người. Sự vâng lời của họ là sự vâng lời mù quáng, máy móc, bảo sao làm vậy. Trong khi đó, Chúa Giêsu hỏi “Ngày sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay hủy diệt?” (Lc 6, 9). Ngày hôm nay, đâu đó vẫn có hình ảnh như vậy trong cuộc sống hằng ngày mà chúng ta không biết. Chẳng hạn, có một ông bố dặn con mình rằng: “Mấy đứa bay đi lễ đừng có mà la cà nha, nếu không trật lễ nha”. Vâng lời bố, mấy đứa con cứ thẳng đường mà đi mặc cho ai đang bị té xe hay làm sao thì cứ mặc kệ. Còn những người sống đời thánh hiến đáp lại tiếng Chúa “Thưa ngài, con đây!”. Khi đáp, chúng ta đã biết rõ Chúa mời gọi chúng ta làm gì, nên chúng ta mới đáp lại tiếng xin vâng như vậy. Nghĩ lại, chúng ta cũng thật can đảm đứng lên và thưa như vậy trước mặt mọi người. Còn đằng sau đó, chúng ta có thực hiện hay không thì chỉ có Chúa và ta biết rõ. Như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sống vâng lời trong hành động hơn là trong lời nói. Ngài muốn chúng ta luôn là những người biết ăn năn trở lại và sám hối, chứ đừng như người con thứ hai. Và để cho sự vâng lời không làm cho chúng ta mắc sai lầm, chúng ta hãy đem Lời Chúa ra thực hành. Vì Lời Chúa là lời chân lý.

          Lạy Chúa, chúng con phận yếu đuối và thường dùng lời nói để che đậy hành động của mình. Vì thế, xin Chúa hãy thương giúp chúng con biết sống chân thật trong lời nói và hành động của chúng con. Và xin cho chúng con luôn biết đem Lời Chúa ra thực hành trong đời sống hằng ngày của con. Amen!

Về mục lục

.

CHỌN LỰA CHÂN THỰC

Bông hồng nhỏ

– Hùng ơi! Dậy rửa mặt rồi ăn sáng đi con. Sáng nay còn sang đồng sớm.

– Thôi mẹ ăn một mình đi. Con mệt lắm! Con không muốn đi đâu cả.

– Tối lại xem đá bóng cho khuya vào. Con với chả cái.

Nói rồi, mẹ Hùng đi xuống bếp sửa soạn. Mẹ để cơm cho cậu con trai, lấy lồng bàn đậy lại rồi vác cuốc ra đồng sớm kẻo nắng.

Vừa cuốc được hai luống cỏ ngô bà đã thấy cậu con trai đạp xe đạp qua.

Nhà chỉ có hai mẹ con, Hùng thương mẹ lắm. Sáng nay, Hùng vật vã mãi rồi cũng lồm cồm bò dậy khỏi giường, rửa mặt, ăn vội bát cơm rồi đạp xe sang đồng cuốc cỏ với mẹ. Tình thương mẹ đã giúp Hùng chiến thắng được sự mệt mỏi sau một đêm hào hứng với đám bạn bên cái ti vi. Cậu hối hận vì đã để mẹ cuốc bộ một mình đang khi đường xa mà mẹ lại không khỏe.

Hôm nay, Thầy Giêsu cũng kể một dụ ngôn về hai người con. Người con thứ nhất từ chối cha nhưng sau đó lại hối hận nên đã đi làm vườn nho. Người con thứ hai làm cha vui lòng khi mau mắn đáp lời, nhưng cuối cùng anh lại không đi. Quả thật, chính người con thứ nhất mới là người thi hành ý cha.

Cuộc sống luôn đòi hỏi chúng ta “hãy quyết định đi!”. Chọn lựa nào cũng đòi hỏi sự trả giá và một khi đã chọn lựa ta quyết tâm thực hiện. Có những người từng được xem là công chính nhưng sau đó lại bỏ đường công chính để làm điều bất chính, họ đánh mất chính mình và dẫn mình tiến vào cái chết. Nhưng cũng có những người gian ác, ai gặp cũng phải tránh xa. Khi những người gian ác bỏ đường gian ác thì sẽ tìm được sự sống. Thầy Giêsu đề cao tinh thần của những người thu thuế và cô gái điếm đã ăn năn sám hối và tin vào lời ông Gioan chỉ dẫn. Những người thu thuế và những cô gái điếm bị liệt vào hàng tội lỗi, bị loại trừ. Khi được nghe ông Gioan chỉ đường công chính cho, họ đã sám hối và tin. Bởi thế, họ được vào Nước Trời. Những người tự cho mình là công chính không cần phải sám hối ăn năn lại không tin. Bởi thế Thầy Giêsu đã khẳng định “Những người thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31b). Có những chọn lựa làm cho chúng ta hối hận cả đời nhưng một khi đã nhìn ra sai lầm thì ta hãy mau mắn chọn lại. Đứng lên từ chỗ vấp ngã để làm lại từ đầu luôn là một thái độ đúng đắn của những người khôn ngoan.

Hằng ngày, ta vẫn đến với Chúa trong thánh lễ, trong các giờ kinh và giữa những nhịp sống thường ngày của công việc và học tập. Đọc dụ ngôn hai người con, ta thầm trách người con thứ hai không biết giữa lời hứa và cũng mừng vì ít ra người con thứ nhất đã hối hận và thi hành ý cha. Nhìn vào lòng mình, ta thấy mình sao cũng đáng trách quá. Đã bao lần ta mau mắn thưa lên “Lạy Chúa! Này con đây!” Ấy thế mà vừa khi bắt đầu thực hiện điều Chúa mời gọi “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em!” (Ga 15, 12), ta đã nhanh chóng bỏ cuộc vì “Sao mà nhìn cái mặt không ưa được. Ai cho nó cái quyền nhục mạ mình. Sao nó không thay đổi chút nào cả.” Ở trong nhà thờ ta thấy mình sao thánh thiện quá, muốn tha thứ cho người đã xúc phạm đến ta nhưng vừa ra ngoài khỏi nhà thờ, ta thấy người ấy từ xa, tự nhiên ta không chịu nổi, rẽ sang đường khác để đi. Thế rồi, ta sắm cho mình những lý lẽ phản công và rốt cuộc Lời Thầy ta khen hay quá mà cuối cùng ta chẳng sống được. Điều quan trọng là sống điều Thầy Giêsu dạy.

Chọn lựa nào mà không có sự giằng co. Chính người con cả đã trải qua một sự giằng co khi phải chọn lựa giữa điều mình muốn và ý cha mời gọi. Ban đầu anh trả lời không nhưng sau đó anh đã hối hận và quyết định đi làm vườn nho. Anh quên đi cái ý riêng để thực hiện công việc vì ích chung của gia đình. Người con thứ mau mắn hứa hẹn khiến cha vui lòng nhưng cuối cùng anh chỉ hứa suông. Ta là ai trong hai người con ấy? Ta có thống nhất trong lời nói và việc làm của mình không?

Lạy Chúa! Chọn lựa chân thực nào đã dẫn con đi trên đường ngay nẻo chính? Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã từng nói: “Người là vẻ đẹp làm cho các con bị cuốn hút; chính Người khơi lên trong lòng các con niềm khao khát hướng về sự viên mãn mà không phải đạt được nhờ thỏa hiệp; chính Người thôi thúc các con cởi bỏ những mặt nạ của một cuộc sống giả dối; chính Người đọc thấy trong tâm hồn các con những chọn lựa chân thực nhất, những chọn lựa mà người khác đang cố bóp nghẹt. Chính Chúa Giêsu khơi lên trong các con mong muốn làm điều gì đó lớn lao bằng cuộc sống của các con.” Lạy Chúa! Xin cho con nhận ra vẻ đẹp của Chúa và quảng đại đón nhận Lời và sống Lời trong những biến cố mỗi ngày. Xin cho con biết chọn ý Chúa trước khi con chọn ý con. Amen.

Về mục lục

.

TRỞ VỀ

Lm. Trần Việt Hùng 

Hai con phụng dưỡng cha già,

Giúp cha chăm sóc, cửa nhà ruộng nương.

Dụ ngôn câu truyện dễ thương,

Nhờ con phụ giúp, đêm trường lắng lo

Sai con thứ nhất hẹn hò,

Chối từ không chịu, lo cho việc đồng.

Chiều về hối hận nghĩ thông,

Vào vườn lao động, ra công thi hành.

Ngỏ lời con thứ cầm canh,

Giúp cha công tác, tập tành thâu gom.

Xin vâng, con sẽ trông nom,

Nhưng vì lười biếng, không dòm ngó chi.

Hứa lèo lại chẳng muốn đi,

Nên đành thất hứa, lắm khi muộn phiền.

Cha già đáng kính dịu hiền,

Mong con hối hận, tội khiên xóa nhòa.

Tội nhân thu thuế mù lòa,

Những người gái điếm, trước tòa Chúa thương.

Ăn năn hối cải mở đường,

Trở về bên Chúa, tựa nương tháng ngày.

Chúa Giêsu đem Tin Mừng Cứu Độ đến trần gian. Chúa không đến để kết án hay luận phạt, nhưng mở đường đón nhận những người tội lỗi trở về. Ai trong chúng ta cũng cần trở về, trở về với lòng mình, trở về với gia đình, với cộng đòan và trở về với tình yêu của Chúa.   

Người cha nhân từ trong bài Phúc Âm hôm nay, đã đến với từng đứa con xin giúp đỡ. Ông nói,”Con hãy đi làm vườn nho cho cha.” Con thứ nhất trả lời, “Con không muốn đi” nhưng hối hận, sau lại đi. Còn con thứ hai tỏ vẻ sẵn sàng đi làm cho cha, nhưng rồi lại không đi. Dĩ nhiên người con thứ nhất làm cha vui lòng hơn.

Thử suy nghĩ, chúng ta là người con thứ nhất hay con thứ hai? Có lẽ cả hai. Cuộc sống với biết bao thăng trầm đổi thay. Hoàn cảnh thay đổi. Cuộc sống thay đổi. Tính tình con người cũng đổi thay. Lời xin vâng hôm nào trở thành lời chối từ hôm nay. Kẻ yêu thương trở thành địch thù. Người ta nói, “Phú quý sinh lễ nghĩa” nhưng ngược lại phú qúy sinh đạo tặc. Cuộc đời thay trắng đổi đen là thế.

Có anh chị vào xin rửa tội cho con. Trong cuộc truyện trò, tôi hỏi: Anh chị có phải là người công giáo không? Họ trả lời: Dạ phải. Nhà chúng con theo đạo công giáo mấy đời. Đạo gốc từ cha ông mà cha. Thế anh chị có đi tham dự lễ Chúa Nhật thường không? Anh chị thưa: Thỉnh thoảng chúng con đi, vào các dịp lễ lớn thôi. Tôi hỏi tiếp: Anh chị có lãnh nhận bí tích hòa giải thường xuyên không? Anh chị trả lời rằng: Chúng con có tội gì đâu mà xưng. Tiếp nữa, tôi hỏi: Anh chị có cử hành lễ cưới trong nhà thờ không? Anh chị cười và nói: Chúng con cũng chưa lãnh nhận Bí tích hôn phối. Một cách sống đạo bên ngoài rất hời hợt. Chỉ mang danh là Kitô Hữu. Nói một đàng, làm một nẻo.

Là Kitô Hữu, rất nhiều lần chúng ta đã nói lời “xin vâng”. Xin vâng khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, xin vâng khi lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể, Bí Tích Hôn Phối, Bí Tích Truyền Chức Thánh… Chúng ta đã hứa là sẽ đi làm vườn nho cho Chúa. Lời Xin Vâng hôm đó đã bị lãng quên. Chúng ta bận bịu với cuộc sống và chạy đua với thời gian thế là công việc bị bỏ lửng.

Giây phút thinh lặng nguyện cầu giúp chúng ta trở về. Trở về với Cha Nhân Hiền. Hãy thưa với Cha rằng con đã lầm đường, nay con trở về. Xin Cha thứ lỗi.

Về mục lục

.

LỜI NÓI ĐI ĐÔI VỚI VIỆC LÀM

Lm. GB. Trần Văn Hào

Nhà văn Aesop của Hy Lạp đã viết một câu truyện ngụ ngôn khá ý nghĩa. Một bữa kia, có một chú ếch gặp một con ốc sên và than thở : “Này anh bạn, tôi có một đôi chân rất khỏe. Chỉ cần nhảy một bước, tôi có thể đi được khá xa. Còn bạn, bạn bò rất chậm, lúc nào cũng ì à ì ạch chẳng đi được đến đâu. Nhưng không hiểu tại sao, bạn có thể trèo lên tận ngọn cây cao, còn tôi vẫn cứ lẹt đẹt mãi ở dưới đất thấp”. Nghe vậy, con ốc sên trả lời : “Lý do rất đơn giản. Bởi vì bạn nhảy bằng sức khỏe nơi đôi chân bạn, còn tôi thì trèo lên cao bằng cái miệng của tôi”. Câu truyện ngụ ngôn lột tả hiện trạng rất thực tế của xã hội ngày hôm nay. Nhiều người khá thành đạt, trèo lên được những vị trí cao trong xã hội không phải bằng tài cán hay nỗ lực của họ, nhưng chỉ bằng cái miệng khéo luồn lách và biết nịnh hót. Họ làm thì ít, nhưng nói thì nhiều. Sự gian manh qua miệng lưỡi vẫn thường xảy ra trong cuộc sống hôm nay.

Tuy nhiên, chúng ta không thể gian dối và đánh lừa nổi Thiên Chúa. Ngài thấu suốt tâm can mỗi người. Dụ ngôn về hai đứa con được sai đi làm vườn nho cho cha mà Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay hàm ngậm sứ điệp này. Chúa muốn chúng ta phải sống trung thực, và lời nói luôn phải đi đôi với hành động.

Gian dối, một căn bệnh trầm kha

Dân gian vẫn thường nói cách mỉa mai : “Thẳng thắn thật thà thành thua thiệt, luồn lẹo lém lỉnh lẹ lên lon”. Trong một xã hội đầy những bon chen và lọc lừa, người ta sẵn sàng gian dối và dẫm đạp lên nhau để sống. Sự gian dối xảy ra ở khắp nơi, ở mọi ngõ ngách, mọi lãnh vực và nó có thể xuất hiện ngay cả trong những cơ cấu tổ chức trần thế của Giáo hội. Ngoài đời, chúng ta thấy tràn lan nạn mua bán bằng cấp giả để tiến thân, hay đút lót để được thăng quan tiến chức. Đây quả là một căn bệnh nan y mà trong bất cứ một xã hội duy vật nào chúng ta cũng thấy nhan nhản. Khi người ta chối từ Thiên Chúa, là ‘Sự thật, là Đường đi và là Sự sống’, thì không có gì mà họ lại không dám làm. Nhà văn Lưu Quang Vũ trong vở kịch ‘Tôi và chúng ta’ đã mỉa mai nói rằng : “Con người đã trải qua 3 thời kỳ, thời kỳ đồ đá, thời kỳ đồ đồng và ngày nay là thời kỳ đồ đểu”. Sự đểu cáng dường như đang lên ngôi, kéo theo biết bao gian dối và lọc lừa.

Đây quả là một thách đố đối với tất cả chúng ta, những môn đệ của Chúa Giêsu. Câu truyện dụ ngôn về hai người con mà Chúa nêu ra hôm nay, nói đến một quy chuẩn quan trọng để giúp ta luôn biết sống trung thực với Chúa, chứ không phải cứ nói một đàng lại đi làm một nẻo. Thiên Chúa không thẩm định giá trị chúng ta theo dáng vẻ bề ngoài, nhưng Ngài thấu tỏ tâm can từng người. Người con thứ ngày đêm quấn quít bên cha với những lời tâng bốc và xua nịnh, chắc chắn không phải là mẫu người mà Thiên Chúa ưa thích. Ngược lại, người con cả cho dầu tỏ ra cọc cằn, lúc đầu từ khước lời của cha nó, nhưng đã hối hận và đi làm theo ý cha. Câu hỏi Chúa nêu ra trong phần kết luận ‘Ai trong hai người con đã thi hành ý muốn của Cha?’, cũng là câu hỏi Chúa nói với mỗi người hôm nay để chúng ta xem xét lại cuộc sống nơi chính mình.

Sự chân thật của cõi lòng

Con người có thể lừa dối nhau rất dễ, nhưng chúng ta không thể nào lừa dối nổi Thiên Chúa là Đấng thấu biết mọi sự. Trong phương pháp giáo dục của Cha Thánh Gioan Bosco, Ngài luôn nhắc nhở các em học sinh : ‘Videt te Deus’, tức là ‘Chúa đang nhìn con’. Chúng ta cần luôn đặt mình trước mặt Chúa, sống trong sự hiện diện của Ngài để đừng bao giờ sống gian dối. Một văn sĩ nọ đã viết : “Một người thợ đập đá chân chất với một tâm hồn trong sáng vẫn đáng quý hơn những vĩ nhân với bao thành đạt, nhưng trong tâm hồn lại chất đầy những tư tưởng độc ác và bẩn thỉu”.

Câu truyện dụ ngôn Chúa nêu ra, trước hết nhằm kết án sự giả dối nơi những biệt phái và các đầu mục Do Thái giáo thời xưa. Có lần, Chúa còn trích dẫn lời của tiên tri Isaia để ám chỉ thái độ giả dối nơi họ : “Dân này thờ kính ta bằng môi miệng, còn lòng chúng lại xa ta’. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa nói thẳng vào mặt các Thượng Tế và các kỳ mục trong dân : “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và những cô gái điếm vào nước Thiên Chúa trước các ông (c. 31).

Khi suy niệm về dụ ngôn người Samaritanô nhân hâu, Đức Cha Bùi Tuần đã viết những dòng chia sẻ như sau : “Sau khi đọc đoạn phúc âm này, tôi cảm thấy rất xấu hổ, xấu hổ cho chính bản thân và xấu hổ cho cả Giáo hội. Để nêu ra một mẫu gương đức ái, Chúa không chọn một linh mục này hay một tu sĩ nọ, nhưng Chúa lại nêu bật mẫu gương của một người Samari, tức là một người ngoại giáo” (trích trong tập sách ‘Nói với chính mình’). Qủa đúng như thế. Nhiều khi chúng ta ăn nói rất giỏi, giảng dạy rất hay, chiêu mộ người khác theo đạo rất hiệu quả, nhưng có thể cuộc sống đạo của chúng ta cũng giống hệt những người biệt phái xưa kia, ‘Họ bó những gánh nặng để chất lên vai người ta, còn họ thì không buồn đụng ngón tay vào’ (Mt 23,4). Giữa lời nói và hành động của chúng ta, có khi là cả một khoảng cách xa vời vợi.

Tại một tu viện nọ, có một đan sĩ trẻ bị Bề Trên khiển trách vì có vài lần, người ta thấy vị tu sĩ này đứng tiếp chuyện những cô gái đẹp. Khi bị chất vấn, vị tu sĩ thánh thiện đó trả lời như sau : “Thưa Bề trên, theo con nghĩ, một tu sĩ đứng nói chuyện với những cô gái đẹp mà tâm hồn vẫn nghĩ về Chúa, còn tốt hơn là một tu sĩ vào nhà thờ để nói chuyện với Chúa, mà tâm hồn lại mơ tưởng đến những cô gái đẹp”. Nhà văn Bernerd Shaw cũng nói một câu tương tự : “Tâm hồn con người cũng giống như một cái cối xay. Bỏ vào đó thóc tốt, nó sẽ cho ra gạo ngon. Bỏ vào đó sỏi đá, nó sẽ chỉ cho ra cát sạn”. Chúa thấu rõ tâm hồn mỗi người và chắc chắn chúng ta không thể nào đánh lừa được Ngài.

Kết luận

Có lần ông Mahatma Gandhi vạch cái sẹo nơi bàn tay của mình cho các bạn trẻ thấy. Ông kể lại rằng lúc còn nhỏ, có lần ông đã nói dối mẹ để trốn học đi chơi. Bà mẹ khi biết ông nói dối, đã rất buồn và bỏ ăn. Bà còn nói thẳng với đứa con : “Thà mẹ thấy con ra đường bị xe cán chết, còn hơn thấy con nói dối”. Qúa xấu hổ, ông lấy một cục than hồng trong bếp nắm chặt vào bàn tay và đến xin lỗi mẹ. Ông hứa: “Con thề từ nay sẽ không bao giờ nói dối mẹ nữa”. Vết sẹo trong lòng bàn tay gợi nhắc lại lỗi lầm ngày xưa cũng như lời mà ông đã hứa với mẹ. Nhờ sống thẳng thắn và trung thực, ông đã trở thành một lãnh tụ vĩ đại của người dân Ấn Độ. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đừng bao giờ dối gian, nói một đàng nhưng lại làm một nẻo. Người ta vẫn thường nói rằng, con đường dài nhất trong cuộc sống không phải là con đường từ nam đến bắc, hoặc từ đông sang tây, nhưng chính là con đường từ cái miệng đến đôi tay. Xin Chúa giúp chúng ta biết rút ngắn con đường này lại bằng những việc làm cụ thể mỗi ngày.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN_A

Giuse Đinh Tất Quý

Anh chị em thân mến,

Suốt mấy tuần vừa qua, chúng ta đã nói với nhau về những đức tính cần có trong đời sống cộng đoàn. Bắt đầu từ hôm nay chúng ta nói với nhau về một vấn đề khác, cũng liên qua tới địa vị làm con Thiên Chúa, nhưng dưới một khía cạnh tích cực hơn: “Chúng ta phải sống như thế nào để xứng với địa vị làm con Thiên Chúa của chúng ta?”.

A- Chúng ta hãy nghe bài dụ ngôn hôm nay:

Một người kia có hai người con. Hai người con, con của cùng một người cha. Ở đây chúng ta thấy Chúa cố ý không đề cập đến địa vị hay ngôi thứ của hai người con này. Chúa làm như thế với một chủ ý rõ rệt là cho người ta thấy trong cương vị làm cha thì ông dành cho hai người con một tình yêu y như nhau, và đồng thời cũng cho chúng ta thấy trong cương vị làm con thì cả hai đều có một giá trị như nhau trước mặt cha của mình.

Để anh chị em hiểu rõ được điều này, tôi xin lấy một thí dụ. Đây là thí dụ nằm ở trong kho tàng văn chương của chúng ta. Truyện kể như thế này. Có một ông nhà nho kia có đến hai bà vợ. Thông thường thì chúng ta thấy trong hai bà thì phải có một bà làm “cả” một bà làm “lẽ” hay “thứ”. Nhưng đối với ông nhà nho này thì ông ta muốn coi hai bà vợ như nhau, không bà nào hơn, không bà nào kém. Chính vì thế mà một hôm khi có người hỏi ông bà nào là cả bà nào là thứ thì ông trả lời “Cả hai vợ đều là vợ cả” Một câu trả lời có tính cách chơi chữ nhưng nó cũng nói lên được một cái gì có tích cách “cào bằng” trong ý nghĩa về một thực tế trong cuộc sống của người này.

Vậy thì trong dụ ngôn hai người con, chúng ta cũng thấy một ý nghĩa tương tự như thế. Cả hai người con đều là “con cả” và cùng là con của một người cha. Người cha này yêu thương hai người con y như nhau….đối xử với hai người một cách đồng đều. Và khi đã cư xử như thế thì chắc chắn ông cũng thầm mong là ông sẽ được cả hai người đáp lại tình yêu của mình cũng bằng một tình như nhau.

Mong thì là như thế, nhưng trong thực tế có được như vậy hay không thì lại là một truyện khác.

 Lúc đầu khi ông kêu gọi người con thứ nhất. Nó đã đáp lại một cách cộc cằn và cứ bên ngoài mà xét thì nó thật đáng lên án. Nhưng sau đó nó hối hận rồi nó sửa lại lỗi lầm của mình không phải bằng lời nói nhưng bằng việc làm. “Nó hối hận và đi làm”(Mt 21,29).

Sau đó người cha cũng nói những lời y hệt như thế với người con thứ hai. Thái độ lúc đầu của người con thứ hai thật dễ thương “Vâng, thưa cha, con đi”(Mt 21,30). Thật là đẹp tuyệt vời. Và cứ theo cách bên ngoài mà nói thì chắc là chúng ta phải khen người con thứ hai này. Thế nhưng những cái đẹp ban đầu đó lại không đuợc tiếp tục đẹp. Nó đã nhanh chóng đổi chiều. Người con thứ hai đã nuốt lời một cách không hổ thẹn.

Như vậy chúng ta thấy cả hai người con cùng được mời gọi bởi cùng một người cha….để làm cùng một công việc và làm trong cùng một vườn nho.

Thế nhưng, bằng ấy cái cùng chưa đủ để có thêm những cái cùng khác:

Qua hai cách đối xử của hai người con, người ta đã được chứng kiến một sự đảo lộn giá trị đáng cho chúng ta phải suy nghĩ.

Cái mà người ta tưởng là xấu lại biến thành tốt và cái mà người ta tưởng là tốt lại trở thành tồi tệ.

Kết thúc câu truyện Chúa Giêsu đòi những người nghe phải tự lượng giá. Và câu trả lời đã đúng như Chúa mong đợi.

Nếu câu truyện kết thúc ở đây thì có lẽ chúng ta chẳng có gì phải bàn thêm. Đàng này sau khi nhận được câu trả lời của những người nghe, Chúa đưa ra những lời cảnh cáo khá nặng. Chúa nói như thế nào thì tất cả chúng ta đã nghe.

B. Chúng ta tự hỏi: Chúa nhắm điều gì khi đưa ra những lời cảnh cáo nặng như thế? Ai là hiện thân cho người con thứ nhất và ai là hiện thân cho người con thứ ai và ai là hiện thân cho người cha trong câu truyện.

Chúa không đưa ra một câu trả lời làm sẵn. Nhưng rõ ràng Chúa muốn vẽ ra một bức tranh gồm hai hạng người mà cả hai đều bất toàn mặc dầu trong đó có một hạng tốt hơn. Rõ ràng trong câu truyện này cả hai người con đều không làm hài lòng người cha vì cả hai đều không làm cho ông có được một niềm vui trọn vẹn. Hạng người thứ nhất là hạng người làm nhiều hơn là nói. Hạng người thứ hai là những người chỉ nói mà không làm. Họ hứa thật nhiều nhưng làm thì chẳng có gì cả.

Vậy người con hoàn hảo đối với Chúa là người con nào? Thưa là người sẵn sàng chấp nhận mệnh lệnh của cha với thái độ vâng phục và kính trọng, chấp nhận trọn vẹn và không thắc mắc. Chúng ta có thể nói họ là những người mà lời nói và làm luôn đi đôi với nhau. Đây mới là những người mà Thiên Chúa mong đợi.

Nhưng ai là những người như thế?

Chẳng cần phải dài dòng chúng ta cũng có thể tìm ra câu trả lời. Đó là những người hết lòng yêu mến Chúa đồng thời cũng hết lòng yêu mến anh em đồng loại của mình.

+ Bây giờ đến lượt chúng ta:

Tôi phải làm gì trước những đòi hỏi của Chúa?

– Đối với Chúa

          Một linh mục ở một xứ đạo kia khi làm thống kê trong họ đạo của mình đã hỏi một người chủ gia đình như sau:

          – Ở nhà có bao giờ gia đình cầu nguyện chung với nhau không?

– Thưa Cha chúng con không có giờ.

– Giả như anh và gia đình biết một người trong gia đình sẽ bị bệnh nếu không ai cầu nguyện cho người đó thì thử hỏi anh và gia đình có cầu nguyện không?

– Ồ con đoán là lúc đó gia đình chúng con sẽ cầu nguyện.

– Giả như anh biết một ngày nào đó vì gia đình lơ là trong việc cầu nguyện mà một tai họa sẽ xảy đến cho gia đình thì lúc đó anh và gia đình có cầu nguyện không?

– Tất nhiên là chúng con phải cầu nguyện rồi.

– Giả như mỗi ngày anh quên cầu nguyện, giáo luật sẽ phạt 5 dollars. Lúc đó anh và các con có dám sao lãng việc cầu nguyện không?

– Chắc là chúng con sẽ cầu nguyện nhưng ý của những câu hỏi cha hỏi chúng con mãi như thế là gì?

– Như vậy vấn đề ở đây không phải là không có thời giờ. Anh có thể tìm được thời giờ. Vấn đề ở đây là anh đã quá coi thường việc cầu nguyện: Coi thường hơn tiền bạc, hơn sức khỏe vv và vv. Như vậy vấn đề ở đây là anh và gia đình anh có thấy được những hồng ân Chúa ban cho anh cũng như gia đình anh qua việc cầu nguyện hay không. Nếu thấy được thì khỏi cần phải nói, không phải chỉ cầu nguyện mà chắc là anh sẽ còn làm hơn thế nữa. Còn nếu không thì chắc là chẳng bao giờ anh cầu nguyện dù chỉ là một kinh!

– Còn đối với những anh em của tôi thì sao? Phải Yêu Thương  họ.

Thánh Têrêxa HĐGS nói: “Lòng yêu mến không cốt ở những tình cảm, nhưng cốt ở việc làm”

Một vị Giám mục kiểm tra khả năng của một nhóm ứng viên xin lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Ngài hỏi:

– Bằng vào dấu chỉ nào các người khác nhận ra các con là người Công giáo? 

Không có tiếng trả lời. Rõ ràng không có ai ngờ một câu hỏi như thế. Vị Giám mục lập lại câu hỏi và ngài lập lại thêm một lần nữa, lần này ngài làm dấu thánh giá có ý mách nước cho các người dự tòng một câu trả lời đúng. Bất. chợt một ứng viên trả lời: 

– Đó là “Tình yêu” .

Vị Giám mục rất nhạc nhiên!  Khi ngài sắp mở miệng nói “Sai “, ngài bỗng kịp thời ngậm miệng lại

Về mục lục

.

HÀNH ĐỘNG TỐT THẮNG CÂU NÓI HAY

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Ngày nay người ta đề cao vai trò của“thế giới kỹ thuật số”. Vì thế, họ vận dụng ngành kỹ thuật này như một phương tiện tối ưu cho vấn đề quảng bá trong lĩnh vực kinh doanh. Tuy nhiên, khi ngành này phát triển, họ đã không ngừng “kỹ xảo hóa” để làm bắt mắt người tiêu dùng và khai thác sự tò mò của người dân. Từ đó, tính gian trá trong lãnh vực này cũng leo thang. Nhiều người đã bị những viên:“Thuốc đắng bọc đường” đánh lừa. 

Còn trong lãnh vực cuộc sống nhân sinh, con người ngày nay cũng đang phải đối diện với thực trạng tốt – xấu lẫn lộn. Khó có thể biện phân được đâu là người chân tình; đâu là người dối trá; đâu là người xây dựng, đâu là người phá hủy! Lý do là vì họ được bao bọc bởi cái mã bên ngoài rất tinh vi, quỷ quyệt!

Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã đưa ra hai hạng người tốt – xấu; thật – giả thông qua hình ảnh trong dụ ngôn: “Hai người con”, để nhằm giúp cho mọi người hiểu rằng: giá trị đích thực không phải ở chỗ nói nhiều, nhưng là thi hành đúng. Không phải ở chỗ nịnh hót, mà là toàn bộ đời sống của người đó có “ngôn hành đồng nhất” hay không.

  1. Ý Nghĩa dụ ngôn

Khởi đi từ sách tiên tri Isaia giới thiệu về cách hành xử của Thiên Chúa như sau: “Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Is 55, 9), bởi vì: “… tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55,8).

Thật vậy, đường lối của Thiên Chúa thì khác xa với đường lối và tư tưởng của con người. Với chúng ta thì dễ nhìn về quá khứ và đóng khung trong đó như một định luật bất di bất dịch, hầu kết án hay khoan hồng. Nhưng với Thiên Chúa thì Người nhìn và hướng về tương lai để mong sao cuộc đời của mỗi người được tốt đẹp hơn và có cơ hội trở lại. Tuy nhiên, tiêu chuẩn để đạt được điều hoàn thiện lại không phải phụ thuộc vào lời nói, mà là nơi hành động.

Để làm sáng tỏ vấn đề trên, Đức Giêsu đã đưa ra hai hình ảnh của hai người con được cha sai đi làm vườn nho. Người thứ nhất không đi, nhưng sau lại đi. Người con thứ nhận đi, sau lại không đi.

Hình ảnh đứa thứ nhất được Đức Giêsu ám chỉ là những người tội lỗi, thấp cổ bé họng, bị xã hội ruồng bỏ. Họ cũng là những người dân ngoại, thu thuế và gái điếm, bị người Dothái khinh miệt. Vì thế, họ không dám tham gia vào công việc làm vườn của người cha, nhưng sau khi hiểu được lòng tốt của cha, họ đã sám hối, an tâm, can đảm và vui vẻ thi hành cách trung thực.

Còn đứa thứ hai là hình ảnh đại diện cho những Thượng tế, Kỳ lão, Luật sĩ và Biệt phái Dothái. Những người này luôn luôn tự hào mình là con cái Tổ Phụ Abraham, dòng dõi các Tiên tri và là những người trung thành với  luật Maisen. Vì thế, cái vé vào Nước Trời là chắc chắn. Họ coi các dân tộc khác là những hạng người bị ruồng bỏ, là đứa con hoang, những hạng người như thu thuế, gái điếm thì khái niệm Nước Trời cũng không thể hiện hữu trong tâm tưởng phương chi nói gì đến việc đụng chạm đến ơn cứu độ!

Vì sẵn có tính tự kiêu, tự coi mình là con cưng, được ưu tuyển. Nên ban đầu, họ cũng nhận cho hài lòng người cha, nhưng vì kiêu ngạo, tự mãn, họ lại không làm. Điều này cho thấy, họ thuộc hạng người nịnh hót, nói một đàng, làm một nẻo.

Kết cục, Đức Giêsu phán: “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết” (Mt 20, 16a); bởi vì: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31). 

Đó là câu chuyện Tin Mừng thời Đức Giêsu, nhưng ngày nay, điều đó có còn không?

  1. Thật giả vẫn luôn tồn tại

Chỉ cần ngồi lại để suy nghĩ một chút, chúng ta thấy hiện lên trong đầu rất nhiều tình huống thật giả, tốt xấu lẫn lộn đan xen quá nhiều. Nhất là trong lãnh vực quảng cáo. Họ tuyên truyền, thổi phồng tin tức, sự kiện để làm hấp dẫn điều muốn nói. Hay trong lãnh vực Marketing, người ta quảng bá những sản phẩm chất lượng tối ưu, bán chạy như tôm tươi, nhưng thực chất chỉ là thứ hàng giỏm, hàng giả.

Đôi khi điều đó là hành vi của những người xung quanh. Nhưng cũng không chừng, đó lại là của chính chúng ta!                            

Căn bệnh giả dối” là đầu mối sinh ra những  xói mòn về đạo đức, niềm tin của con người, từ đó phát sinh ra những suy thoái về giá trị tinh thần, nhất là làm lu mờ lương tâm.

Điều đáng nói là sự giả dối nó lan tràn và gần như là chuyện bình thường trong xã hội, nếu không muốn nói là nó đã trở nên ông chủ tồi chỉ đạo cuộc sống! Vì thế, nhiều khi muốn sống lương thiện cũng khó, làm người tử tế trong bối cảnh hiện nay không dễ!

Tại sao vậy? Thưa! Bởi vì bậc thang giá trị không còn phụ thuộc vào sự thật nữa, cán cân công lý được điều chỉnh bằng tiền, quyền. Gian dối là bình thường, thật thà lại là bất thường, là ngu dốt, là kém cỏi… Vì thế, người ta thường có câu nói mỉa mai như sau: “Chân lý, chân giò cùng một giá”; “Lương thực, lương tháng và Lương Tâm bằng nhau”.

Thật vậy, nếu ai đóng kịch giỏi và giống thì sẽ được tôn vinh, kính trọng. Trong khi đó, người sống liêm chính thì phải chịu thân phận của 8 chữ“t”:  “Thật thà thẳng thắn thì thường thua thiệt”. Còn kẻ vô tài, thất đức, lẻo mồm, tâng bốc, nịnh hót thì lên như diều, để rồi “làm láo, báo cáo hay”.

Vì thế, không thiếu gì cảnh: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao” (Truyện Kiều). Những người này thường dùng chiêu thức: “Tốt đẹp khoe ra, xấu xa che lại”, vì thế, họ ưa sống hào nhoáng bên ngoài nhưng thực chất bên trong trống rỗng. Họ thuộc hạng người: “Khác nào quạ mượn lông công. Ngoài hình xinh đẹp trong lòng xấu xa” (Ca dao), nên không sớm thì muộn, họ bị đặt nghi vấn: “Trông anh như thể sao mai, biết rằng trong có như ngoài hay không?” (Ca dao).

Đứng trước thực trạng như thế, chúng ta nhiều khi thông cảm với cảm thức của người Việt là thích ứng và tùy nghi. Tuy nhiên, là người Kitô hữu, chúng ta không thể sống kiểu: “Gió chiều nào che chiều đó”. Sống như thế là trái với đạo lý của Tin Mừng, nghịch với Lương Tâm ngay thẳng. Khi sống như thế, ta chẳng khác gì một cây tầm gửi, hay ký sinh trùng ăn nhờ ở đợ người khác, nên khi họ bị thất thế, ngã gục thì cũng chết theo.

Thật vậy, chúng ta có thể “lừa dối vài người mãi mãi, có thể lừa dối mọi người một lúc nào đó, nhưng ta không thể lừa dối mọi người mãi mãi được”. Là người Kitô hữu, chúng ta phải nằm lòng câu nói sau: “Mất tiền là mất ít, mất người là mất nhiều, nhưng mất niềm tin là mất tất cả!”. 

  1. Hiểu và sống sứ điệp Lời Chúa

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở về đường ngay nẻo chính để được hạnh phúc, bằng không sẽ phải chết trong sự thất vọng.

Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta cần loại bỏ tư tưởng đạo đức giả và cho mình thuộc hàng công chính, rồi sống trong sự tự mãn, kiêu căng. Đừng mang danh là Kitô hữu nhưng thực tế không có “chất Kitô”. Luôn có tinh thần sám hối, quay trở về với Chúa. Ngược lại, cũng không được có thái độ tự ti để rồi tự nhận mình thuộc hàng “thu thuế và đĩ điếm” để buông xuôi trong sự thất vọng.

Mong sao tất cả chúng ta, mỗi người luôn ý thức rằng mình đều là những người đang lữ hành, nên chưa phải là hoàn hảo. Vì thế: “Không hề có tình trạng đã thành một Kitô hữu mà chỉ có trong tình trạng đang trở thành một Kitô hữu” (Soren Kierkegaard).

Nếu: “Có thì nói có, không thì nói không,  thêm thắt là do ma quỷ mà ra”.  Thực hành lập trường “ngôn hành đồng nhất”, nếu không sẽ dễ dẫn đến tình trạng “mâu thuẫn nội tại”. Và chúng ta bị rơi vào tình trạng nói thì rất hăng nhưng khi làm thì chẳng thấy đâu, họ giống như người: “Nói thì đâm năm chém mười, đến khi tối trời chẳng dám ra sân” (Tục ngữ).

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được thuộc về sự thật và trở nên chứng nhân cho sự thật, bởi vì chỉ có sự thật mới giải thoát được chúng con mà thôi. Amen.

Về mục lục

.

NÓI KHÔNG VÀ CÓ

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Có vẻ như thời đại chúng ta ăn bánh vẽ khá nhiều, người ta thích nói và nhất là nói về những tầm nhìn đến năm này, năm kia. Cái gì cũng í ạch thêm thiền, thêm chi phí  và cả thời gian đắp chiếu. Nói thôi thì có vẻ như cái gì cũng dễ, tưởng như nắm ngay trong tầm tay; nhưng người ta thường bảo: “Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa”. Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn hai người con, để chúng ta cùng suy nghĩ, lựa chọn điều nào tốt hơn để sống.

Nói đi mà không đi.

Trong đời sống thường ngày, chúng ta có thể gặp nhiều người thích nói hơn thích làm. Chúa Giêsu gặp nhiều hạng người này nên Chúa cũng bảo họ: “Đứng xét đoán” (Mt 7, 1). Trong cộng đoàn tiên khởi Thessalonica, Thánh Phaolô nhắc nhở: “Thế mà chúng tôi nghe nói: trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giêsu Kitô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân” (2 Th 3,10-12).

Bệnh khoe khoang. Căn bệnh bằng cấp đang là vấn đề nổi cộm, người ta dựa vào bằng cấp để có chỗ đứng, địa vị trong xã hội, nhưng họ đã cống hiến được gì? Càng ngày người ta càng thấy món nợ trên đầu dân mỗi ngày tăng thêm, và các thứ thuế siết vào cổ dân nghèo… Thời Chúa Giêsu, Ngài đã từng lên tiếng với những quan chức: ““Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ…Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!” (Mt 23, 23; 28)

Nói không khi cần thiết

Câu trả lời không, một tiền đề cho một suy nghĩ về một lời đề nghị. Đôi lần trong cuộc sống cũng cần dừng lại để xem xét trước những lời mời hoặc những lời dụ dỗ, khiêu khích.

Theo nghĩa tích cực nào đó, thái độ này cần thiết. Có những hoàn cảnh không cần giải thích, vì cũng có những lúc chịu sự đánh giá của kẻ dưới tầm hoặc dã tâm gài bẫy, như Winston ChurChill nói: “Thanh minh là trao sức mạnh vào tay kẻ khác” và một câu nói nổi tiếng khác:  “Bạn sẽ không bao giờ đạt đến đích, nếu bạn cứ dừng lại và ném đá vào mỗi con chó bên đường, chỉ vì tiếng sủa của chúng”..

Câu trả lời không trong hoàn cảnh bị chỉ trích hoặc bị lên án hay bị gài bẫy là điều Chúa Giêsu cũng đã trả lời bằng cách thinh lặng. Người ta đem đến Chúa để xử người phụ nữ ngoại tình, Chúa đã thinh lặng trước những lời cáo buộc và chỉ nói: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” (Ga 8, 2 – 11). Chúa Giê su trước tòa Philatô cũng đã im lặng trước những câu hỏi (Xem 19, 8 – 11). Trên thập giá, Chúa Giêsu thinh lặng trước những kẻ qua, người lại nhục mạ (Xem Mt 27, 39 – 44).

Chúa nói không với ta. Đôi khi có thể thấy những câu trả lời không, mang tính thử thách niềm tin, lòng trông cậy. Chúa Giêsu đôi khi Người cũng thử thách bằng cách nói câu không, như trước lời van xin của bà góa nghèo và câu trả lời của bà “Chó con cũng được ăn những mụn bánh từ bàn chủ rơi xuống” (Xem Mt 15, 21 – 28).

Đôi khi Chúa nói không và không hoàn toàn trước những lời nguyện xin chân thành. Những khi ấy, Chúa muốn lái cuộc đời của người cầu xin sang hướng Chúa muốn, vì điều đó tốt đẹp hơn. Trong câu truyện với hai môn đệ xin chỗ ngồi bên phải và bên trái trong vương quốc của Ngài. (xem Mt 20, 20 – 23), Chúa muốn điều khác, không phải quyền để thống trị, mà dùng quyền để phục vụ người khác.

Hối hận và đi làm.

Trở lại với bản văn Thánh Kinh, chúng ta nhận ra dấu vết của người anh cả, chính là dân Israel. Một dân được Thiên Chúa tuyển chọn, nhưng họ vẫn không nhận ra chính Chúa là Đấng Kitô họ đang chờ đợi. Họ muốn một Thiên Chúa theo ý muốn của họ chứ không phải theo ý muốn của Thiên Chúa. Thánh Gioan nói: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 11). Thế nên họ vừa tiếp nhận Thiên Chúa, nhưng lại khước từ khi Chúa đến ở giữa họ.

Một người con khác, gồm những người chưa biết Chúa, chưa bao giờ biết lề luật, bị xem là người tội lỗi. Họ đã nhận ra Chúa Đấng giải thoát họ đang ở giữa họ. Họ trở lại, đón nhận Tin Mừng giải thoát và phó thác cuộc đời mình trong Chúa. “Chúa đến để kêu gọi người tội lỗi chứ không phải là những người công chính” (Mc 2, 17).

Là một dụ ngôn, Chúa dạy cho chúng ta nhiều bài học trong cuộc sống. Biết nói không trước những cám dỗ, thinh lặng khi bị chỉ trích. Những khi Chúa nói không với chúng ta, để ý muốn của Chúa được thực hiện. Cuối cùng chúng ta nhận ra mình luôn cần hoán cải để được đổi mới trong Chúa.

Về mục lục

.

CÃI CHA MẸ

Lm Vũđình Tường

Bình thường người ta có thể đoán biết tình cảm con người thể hiện qua khuôn mặt, tuy nhiên trong nhiều trường hợp người ta có thể dấu tình cảm trong lòng và người ngoài không thể đoán biết. Đôi khi trong lòng nổi sóng nhưng người ta dấu làm như cuộc sống bình thường, phẳng lặng. Dụ ngôn người cha nói với hai con đi làm vườn nho cho ông. Một người đáp lại thưa Ngài tôi sẽ đi nhưng cuối cùng không đi; người con kia cãi lời không đi nhưng sau đó nghĩ lại anh ta đi làm theo í cha mình. Dụ ngôn đưa ra hai trường hợp, hai lối sống đối nghịch nhau của hai người con.

Trường hợp một: hứa làm nhưng không làm cho thấy rõ ràng anh ta không có í định thực hiện điều hứa với cha. Anh gọi cha mình là Ngài không biết với dụng í gì? Rất có thể cha anh thuộc hàng lớp danh vọng trong xã hội và được mọi người coi là Ngài. Cũng có thể khi đáp lại cha anh, anh đặt mình vào vị trí người làm công trong nhà đối đáp với ông chủ. Cũng có thể tình cảm anh dành cho cha không được đầm ấm, nguội lạnh nên anh đối xử với cha mình như người ngoài. Chúng ta chỉ có thể đoán biết qua cách đối đáp và lời hứa suông, hứa mà không có í thực hiện. Trường hợp thứ hai người con kia thẳng thắn trả lời cha ‘con không đi’. Khi nghe thế hẳn người cha rất buồn lòng vì con cãi cha. Sau đó anh bỏ đi và hồi tâm lại, anh âm thầm thực hiện điều cha anh yêu cầu.

Dụ ngôn thể hiện hai lối sống trái nghịch nhau: lối sống biết hồi tâm và lối sống buông thả. Sống buông thả nên coi lời hứa nhẹ như gió thoảng; coi thường lời hứa với cha mẹ. Hứa cho có, cho xong qua lúc đó rồi thôi, thể hiện lối sống nông nổi, lang bang, không có chiều sâu. Sống theo thời trang là lối sống bận rộn bởi phải chạy đua với thời trang mới nên không còn giờ cho cuộc sống tâm linh. Cái mới mẻ, bắt mắt và cảm thấy như thế là hãnh diện, tự hào về hiểu biết của mình. Giầu kinh nghiệm thương trường, cập nhật tin tức, nhiều kiến thức thích hợp cho thời buổi khoa học, kĩ thuật. Những kiến thức trên không phải là ơn khôn ngoan cần thiết cho cuộc sống. Thiếu ơn khôn ngoan cuộc sống tâm linh trống rỗng, nghèo nàn cuộc sống nội tâm và khi vấp ngã khó đứng dậy bởi thiếu chiều sâu nội tâm là sức mạnh tiềm ẩn nhưng rất quan trong cho cuộc sống. Lối sống biết hồi tâm là lối sống có chiều sâu, dùng ơn khôn ngoan để sống. Ơn này chỉ có thể tìm thấy qua biết hồi tâm, xét mình, tự kiểm điểm lối sống để học hỏi, tìm tòi mong tránh điều sai trái. Hồi tâm để tìm hiểu, học hỏi chân giá trị của những gì mắt thấy, tai nghe. Hồi tâm giúp ta nhìn thấy giá trị tâm linh mà mắt thường không thể nhìn thấy và điều này rất bổ ích cho đường tâm linh. Khi áp dụng hồi tâm vào việc cầu nguyện chúng ta sẽ nhận biết rất nhiều điều thú vị mà trước đây chỉ nghe đến hay đọc qua mà không bao giờ được nếm thử. Chỉ có hồi tâm mới giúp cảm nhận được những hương vị tuyệt diệu của cuộc sống tâm linh. Tâm hồn họ bình thản trước sóng gió và khi vấp ngã họ có sức mạnh, mau chóng đứng lên tiếp tục tiến bước.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN_A

Lm. Anthony Trung Thành

Trong xã hội chúng ta sống luôn tồn tại hai hạng người: tốt và xấu. Thông thường người ta đánh giá kẻ tốt người xấu bằng cái nhìn từ bên ngoài. Nhưng thực tế, cái nhìn từ bên ngoài thì hay sai lầm. Bởi vì, rất nhiều người bề ngoài có vẻ tốt lành, thánh thiện nhưng bên trong lại có tâm địa xấu xa: “Bề ngoài thớt thớt nói cười, trong lòng nham hiểm giết người không dao” (Truyện kiều) hoặc “Khẩu phật, tâm xà” (Tục ngữ). Ngược lại, có những người bề ngoài xem ra xấu xa nhưng cái tâm bên trong lại hết sức trong sáng, tốt lành. Vì thế, người ta mới nói “con người nhìn mặt, Thiên Chúa nhìn lòng”(x. 1Sm 16,7). Hay nói cách khác, chỉ có Thiên Chúa mới biết chắc chắn ai là người tốt và ai là kẻ xấu.

Đoạn Tin mừng hôm, Đức Giêsu cho chúng ta thấy thế nào là người con tốt, thế nào là người con xấu?

Người con tốt là người con làm theo ý của cha mình chứ không phải bằng lời nói suông. Chúng ta thấy hình ảnh này nơi người con thứ nhất. Lúc đầu nó chống lại lệnh của Cha mình: “Thưa Cha, con không đi”, nhưng sau đó nó hối hận, nên nó thay đổi thái độ và nó đi làm. Nó là người con tốt. Người con này tượng trưng cho dân ngoại: Tuy ban đầu họ từ chối ơn cứu độ, nhưng nhờ lời rao giảng của Đức Giêsu họ đã tin theo. Người con này cũng tượng trưng cho những người thu thuế, các cô gái điếm và những kẻ tội lỗi khác: Đây là hạng người bị dân Do thái khinh miệt, bị loại ra khỏi cộng đồng xã hội, nhưng khi Đức Giêsu rao giảng, họ đã lắng nghe, thành tâm sám hối và tin nhận đi theo phục vụ Đức Giêsu. Họ chính là những người làm theo ý muốn của Thiên Chúa.

Người con xấu là người con không làm theo ý cha mình mà chỉ bằng lời nói suông. Chúng ta thấy hình ảnh này nơi người con thứ hai. Lúc đầu nó đã mau mắn vâng nghe lời cha: “Thưa Cha, con đi,” nhưng sau đó nó lại không đi làm. Nó là người con xấu. Người con này tượng trưng cho các Kỳ mục và Thượng Tế: Họ thường tự hào mình là dân riêng Chúa chọn, là con cái Abraham, là những người tuân giữ luật Môisê một cách tỉ mỉ; họ mau mắn thưa “xin vâng” nhưng trong thực tế họ nói mà không làm; họ bắt kẻ khác tuân giữ luật nhưng chính họ lại không tuân giữ; họ chất lên vai dân chúng những gánh nặng mà chính họ lại không thể mang nổi; họ “giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế “(x. Mt 23,27). Đặc biệt, khi Đức Giêsu đến, họ không tin nhận và thực hành giáo huấn của Ngài. Họ đúng là những người nói một đàng làm một nẻo. Họ là những người con xấu.

Như vậy, để đánh giá một người tốt hay xấu, người ta không dựa vào lời nói suông mà dựa vào hành động. Khi Đức Giêsu hỏi những người Do thái: “Ai trong hai người con đã làm theo ý cha mình?” và chính họ đã trả lời: “Người con thứ nhất”. Vì thế, Đức Giêsu đã khẳng định rằng những cô gái điếm và những người thu thuế sẽ được vào nước Thiên Chúa trước các Kỳ mục và Thượng tế. Vì sao? “Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài”(x. Mt 28, 31-32).

Tóm lại, lời nói không quan trọng bằng việc làm, người tốt hay xấu là ở tại việc làm chứ không phải ở lời nói suông. Nhưng thời gian có thể giúp con người thay đổi: Từ lời nói tới việc làm, từ người xấu trở thành người tốt, người tốt trở thành người tốt hơn và ngược lại người tốt cũng có thể trở thành người xấu. Bài đọc I, tiên tri Êdêkiel chứng minh cho chúng ta thấy điều đó: Thứ nhất, kẻ tốt có thể trở thành người xấu, đó là “khi người công chính từ bỏ lẽ công chính và phạm tội ác, nó phải chết, chính vì tội ác nó phạm mà nó phải chết” (x. Ed 18,26). Thứ hai, kẻ xấu có thể trở thành người tốt: đó là “khi kẻ gian ác bỏ đàng gian ác nó đã đi, và thực thi công bình chính trực, nó sẽ được sống. Nếu nó suy nghĩ và từ bỏ mọi tội ác nó đã phạm, nó sẽ sống chớ không phải chết” (x. Ed 18,27-28).

Nhưng khi thời gian chấp dứt, thì tốt – xấu không thể thay đổi nữa. Đó là thời gian chung thẩm, khi Con Người ngự đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Ngài sẽ phân biệt kẻ dữ người lành, tách biệt chiên với dê. Lúc đó, người lành sẽ được vào Thiên đàng hưởng hạnh phúc muôn thuở, còn kẻ dữ phải sa Hỏa ngục đời đời, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng (x. Mt 25,31-46).

Chính vì thế, chúng ta hãy quyết tâm thực hành những điều sau đây:

Thứ nhất, nếu nhận thấy mình đang ở trong tình trạng tốt: Hãy cảm tạ Chúa. Hãy giữ vững tình trạng đó bằng cách gắn bó với Chúa trong đời sống cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích, làm việc bác ái. Hãy cẩn thận với các chước cám dỗ: Ma quỷ, thế gian, xác thịt. Hãy nhớ lời khuyên của Thánh Phaolô rằng: “Ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10,12).

Thứ hai, nếu nhận thấy mình đang ở trong tình trạng tội lỗi, xấu xa: Hãy khiêm tốn nhận ra tội lỗi của mình, thống hối ăn năn, xưng tội và quyết tâm thay đổi đời sống để trở nên tốt hơn. Tin mừng để lại cho chúng ta nhiều mẫu gương đã biết thay đổi đời sống từ xấu sang tốt, từ tội lỗi trở thành thánh thiện: Mathêu; Giakêu, Maria Mađalêna, người phụ nữ ngoại tình, đứa con hoang đàng và nhiều kẻ tội lỗi khác.

Thứ ba, nếu nhận thấy mình không tốt cũng không xấu, nghĩa là có thái độ sống đạo lưng chừng: Hãy có gắng thay đổi thái độ sống, vì thái độ sống đạo lưng chừng này đã bị Lời Chúa lên án: “Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (x. Kh 3,15). Tại sao Chúa lại ghét thái độ sống đạo lưng chừng như vậy? Vì sống đạo lưng chừng là đi ngược lại với Tin mừng. Chúa không chỉ muốn chúng ta tránh xa tội lỗi, nhất là tội trọng mà Ngài còn muốn chúng ta phải có lòng kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết khiêm tốn nhận ra những sai lỗi nơi mình để ăn năn thống hối để trở nên người hoàn thiện một ngày một hơn. Amen.

Về mục lục

.

CẢI THIỆN CUỘC SỐNG

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Đã là người thì không ai tránh khỏi lỗi lầm.

Vì mọi người đều mắc phải lầm lỗi nên bất cứ ai cũng cần phải sám hối, sửa mình. Vô tình mắc phải lầm lỗi thì không đáng lên án, nhưng thái độ ngoan cố không nhận lỗi, không ăn năn sửa mình là điều tai hại và đáng trách.
Thế nên, hôm nay Chúa Giê-su muốn dạy chúng ta bài học quan trọng giúp chúng ta ăn năn phục thiện để trở thành người tốt.

Để cụ thể hoá bài học của mình, Chúa Giê-su dùng dụ ngôn sau đây:
Một người cha có hai con. Sáng hôm ấy, ông đến với đứa con thứ nhất và bảo nó: “Nầy con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho với cha”. Nó ương ngạnh trả lời: “Không! Con không đi!”.

Người cha buồn lòng lặng lẽ quay sang đứa khác, mời nó ra vườn làm việc với ông. Cậu nầy dạ dạ vâng vâng: “Con sẽ đi!”, nhưng rồi không thấy tăm hơi đâu cả.
Sau đó, người con thứ nhất hồi tâm lại, thấy được sai trái của mình nên hối hận, ra vườn cùng làm với cha.
 

Như thế, người con thứ nhất, dù ban đầu có phần ương bướng, nhưng về sau, anh biết nhìn lại mình, biết nhận ra lầm lỗi của mình và có quyết tâm sửa chữa nên đáng được tuyên dương. Trong khi đó, người con thứ hai bề ngoài có vẻ ngoan hiền, dạ dạ, vâng vâng… nhưng rồi, anh chẳng vâng lời cha, chẳng biết  ăn năn hoán cải.

Khi nói với các thượng tế và kỳ lão rằng: “Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”, Chúa Giê-su có ý phê phán các vị nầy, bề ngoài có vẻ tốt lành thánh thiện, nhưng bên trong thì chai lỳ trong tội mà không ăn năn sửa lỗi, đồng thời Ngài cũng ngợi khen những người tội lỗi biết sám hối ăn năn.

 

Chúa yêu thương người tội lỗi biết sửa mình và lên án nặng nề những người chai lỳ trong tội.

Chúa Giê-su đặc biệt tỏ lòng yêu mến đối với những người biết sám hối sửa mình qua câu chuyện người cha nhân lành và đứa con phung phá. Khi người con hoang đã phá sạch cả nửa gia tài với bọn đàng điếm nhưng rồi biết hồi tâm lại, biết thống hối ăn năn và quyết tâm chỗi dậy trở về cùng cha thì người cha quên hết mọi lầm lỗi của nó, chạy ra ôm hôn nó, tiếp đón nó với tất cả tình yêu thương (Luca 15, 11-32).

Trong khi đó, Chúa Giê-su tỏ ra buồn phiền vì sự chai lỳ của những người Do-thái không chịu ăn năn sám hối và đôi khi, Ngài lên án họ bằng những lời lẽ nặng nề.
 

Cải thiện nội tâm là điều rất cần thiết

Khi biết mặt mày lem luốc, dơ bẩn, chắc chắn ai trong chúng ta cũng vội lau rửa cho sạch sẽ ngay.

Khi thấy áo quần bẩn thỉu hôi hám, chúng ta sẽ thay đổi y phục liền.

Khi biết thân thể mình dơ bẩn, chắc chắn chúng ta sẽ tắm rửa tức khắc.

Khi diện mạo hay vóc dáng của mình không được hài hoà xinh đẹp, nhiều người sẵn sàng bỏ ra những số tiền rất lớn, đến các thẩm mỹ viện, để cải thiện vóc dáng, để làm tăng vẻ đẹp của thân mình.

Vậy mà khi tâm hồn trở nên xấu xa vì tội lỗi, thói hư và tật xấu, nhiều người vẫn cứ để mặc như thế hết ngày nầy qua ngày khác mà chẳng áy náy chút nào!

Tại sao? Vì nhiều người nghĩ rằng những dơ bẩn, những xấu xa trong tâm hồn không quan trọng, chỉ cần “bao bì” bên ngoài dễ coi là được.

Thực ra, những khiếm khuyết của thân xác hay những vết dơ trên áo quần không làm giảm sút giá trị con người bao nhiêu. Chỉ có những xấu xa đê tiện trong nội tâm con người mới thực sự làm cho người ta ra nhơ uế (Mác-cô 7,20).

Chính vì thế, ăn năn sửa lỗi để xoá sạch những xấu xa đê tiện trong tâm hồn, để làm cho tâm hồn nên đạo đức, thanh khiết, cao cả… là việc làm hết sức quan trọng.

Trong công nghệ thông tin hay sản xuất hàng tiêu dùng, việc cải tiến chất lượng sản phẩm là vấn đề sinh tử của các công ty. Châm ngôn của các nhà phát minh và chế tạo là: “Cải tiến hay là chết.” Thế nên người ta không ngừng rà soát lại những nhược điểm của sản phẩm và phải khắc phục bằng mọi giá trước khi tung ra thị trường.
Giá trị con người vượt xa giá trị hàng hoá cả triệu lần. Ước gì trong lĩnh vực đạo đức, mỗi người cũng rà soát lại những khuyết điểm của mình để cải thiện cho xứng với tầm vóc người con cái Chúa.

Lạy Chúa Giê-su,

Xin giúp chúng con hiểu rằng nét đẹp của tâm hồn quan trọng hơn vẻ đẹp thể xác và những điều xấu xa đê tiện trong nội tâm con người mới thực sự làm cho người ta ra nhơ uế, nhờ đó, chúng con sẽ luôn chăm lo rửa sạch tâm hồn, cải thiện nếp sống, để ngày càng trở nên người có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức và văn hoá.

Về mục lục

.

THI HÀNH Ý CHA

Phạm Anh

Gia đình luôn muốn để lại gia tài cho các con tiếp quản. Để làm được, người cha phải chỉ dạy cho con mình cách làm việc. Trong “dụ ngôn hai người con” (Mt 21, 28-32), người cha lần lượt gọi từng người con vào làm vườn nho : “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho” (Mt 20, 28). Nhưng thái độ và câu trả lời của hai người con rất khác nhau. Vậy, “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha ?” (Mt 21, 31)

Trong tình thương, con người có thể thay đổi. Trước lời mời gọi của người cha hãy đi làm vườn nho, người con thứ nhất trả lời : “Con không muốn đâu”. Tại sao anh lại trả lời như vậy ? Phải chăng còn rất nhiều thứ đang lôi kéo cuốn hút anh trong xã hội. Nào là những cuộc hẹn hò, ca hát cùng bạn bè, những chuyến phiêu lưu đây đó. Những cuộc tình làm anh thỏa mãn, thích thú. Những trò chơi cá cược làm anh khoái chí. Hay phải chăng trong anh đang có sự chần chừ, ngại ngùng, bởi khi làm vườn nho, anh sẽ phải chịu nắng nôi, khổ cực. Nhưng anh đã hối hận và đi làm. Anh hối hận bởi anh chẳng tìm đâu bằng tình thương của người cha dành cho anh. Người cha luôn yêu thương và tôn trọng anh. Người cha chẳng bắt ép anh phải làm cái này cái kia, chẳng ép anh phải làm theo lời cha, nhưng luôn để anh tự do chọn lựa, quyết định. Dù anh trả lời cha rằng anh không muốn, người cha vẫn tôn trọng và chờ đợi. Anh cảm nghiệm được tình yêu thương của cha, anh đã quay về và làm theo ý cha.

Thật vậy, Thiên Chúa mời gọi chúng ta thừa hưởng gia tài của người con, với biết bao hồng ân, được sống trong ơn nghĩa Chúa. Giống như người con thứ nhất, con người luôn bị chủ nghĩa cá nhân, hưởng thụ lôi cuốn, luôn muốn vun đắp cho bản thân, tự cho mình là hơn, từ chối tình yêu thương của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa luôn chờ đợi con người quay trở về, hưởng phần thưởng dành sẵn cho mỗi người, dù họ ở trong tình trạng nào : “Những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31)

Ban đầu, người cha chắc sẽ rất vui mừng hạnh phúc vì tiếng thưa vâng của người con thứ hai. Nhưng người cha rất đau đớn và thất vọng khi người con nói mà không làm. Nói mà không làm là kẻ nói dối. Hành động của người con thứ hai làm cho mỗi người chúng ta phải tự hỏi lại chính mình. Hằng ngày, chúng ta vẫn hay tham dự Thánh lễ, đọc kinh rất sốt sắng. Chúng ta luôn được dạy rất nhiều về sống yêu thương,…, Nhưng mỗi người có làm được không ? Hay chưa hiểu chuyện chúng ta vội vàng đổ lỗi cho nhau. Thiệt thòi một chút, chúng ta đã so đo tính toán. Chúng ta có làm ăn lương thiện, chân chính không ? Gia đình có biết thông cảm và tha thứ cho nhau, hay luôn xảy ra mâu thuẫn ? Con cái có vâng lời cha mẹ không ?…. Nhiều lúc, chúng ta dễ dàng xét đoán người khác mà chẳng nhìn lại chính mình. Bề ngoài có vẻ rất ổn và tốt, nhưng bên trong đầy những sự dối trá.

Lạy Chúa, chúng con luôn muốn và đòi hỏi những gì chúng con cần nhưng chẳng biết điều gì là tốt. Nhưng Chúa thì khác, Chúa luôn dành sẵn những gì là tốt nhất cho chúng con. Xin cho chúng con luôn can đảm đáp lại tiếng Chúa mời gọi, và mau mắn thi hành những điều Chúa gửi đến cho chúng con. Xin cho chúng con không chỉ nói suông trên môi miệng, nhưng còn thực hành những gì Chúa dạy, Chúa muốn trong cuộc sống mỗi ngày của chúng con. Amen.

Về mục lục

.

LỜI NÓI ĐI ĐÔI VỚI VIỆC LÀM-

JM. Lam Thy  

Cũng đã hơn một lần kẻ viết bài này nhắc tới những người hay đem thuyết định mệnh để bào chữa cho lối sống của mình. Cái gì cũng do “Trời định”, “Chúa định” hết, con người từ khi sinh ra cho đến lúc chết đi bị trói chặt vào số mệnh, không còn một chút tự do. Họ cho rằng con người giàu hay nghèo, hạnh phúc hay đau khổ, nhàn rỗi hay vất vả, tất cả đều đã được ông Trời tiền định từ trước khi con người được sinh ra ở trần gian (“Ngẫm hay muôn sự tại trời, Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần, Cho thanh cao mới được phần thanh cao.” – Truyện Kiều – Nguyễn Du). Theo triết học thì “Thuyết định mệnh” (determinism, providence) là một quan niệm cho rằng quá trình lịch sử thế giới, kể cả đời sống con người đều được quy định từ trước bởi một ý chí tối cao, bởi số kiếp, số phận. Con người dù muốn hay không cũng không thể tránh được. Do đó chỉ còn có thể có thái độ cam chịu. Trong thế giới cổ đại, quan niệm này được lưu hành rộng rãi và theo nó, số kiếp chẳng những thống trị con người, mà còn thống trị cả các thần linh.  

Nói chung, trong lịch sử, “Thuyết định mệnh” đóng vai trò tiêu cực. Một mặt, quan niệm số kiếp quy định từ trước đã kích thích thái độ thụ động, sự phục tùng mù quáng vào hoàn cảnh. Mặt khác, lòng tin vào quyền lực vô hạn của ý chí tối cao, của Thượng đế, đã gây ra sự cuồng tín có tính chất tôn giáo. Quả thật, nhìn vào tôn giáo cũng thấy không ít luồng tư tưởng cho rằng tất cả mọi sự lớn nhỏ thuộc về con người đều được Thượng đế sắp đặt sẵn. Với Ki-tô giáo thì vì thấy những sự kiện, biến cố xảy ra trong Tân Ước đều đã được tiên báo từ Cựu Ước và chính Đức Giê-su cũng luôn luôn nói những việc Người làm đều “ứng nghiệm lời Kinh Thánh, lời các ngôn sứ từ Cựu Ước”, nên nhiều người cũng cho rằng tất cả cuộc sống con người ở trần gian đều đã được Thiên Chúa quan phòng “tiền định”. Từ đó nảy sinh quan niệm cho rằng cái gì cũng do Chúa định, Chúa an bài (giống như thuyết định mệnh cho rằng tất cả đều do Trời định). Thậm chí có những người sống cuộc đời không lương thiện, đến lúc nhà tan cửa nát, bị tù bị tội, thì lại đổ thừa “Chúa định cho tôi như vậy”. Để giải tỏa bớt những quan niệm yếm thế, tiêu cực đó, có lẽ cần phải hiểu vấn đề một cách thiết thực hơn:  

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã giải thích về Thiên Chúa quan phòng: “Sự quan phòng chính là Thiên Chúa lo liệu với sự khôn ngoan và tình thương để dẫn đưa mọi thụ tạo tới cùng đích tối hậu của chúng.” (GL/HTCG, số 321); “Đức Ki-tô mời gọi chúng ta phó thác với tâm tình con thảo vào sự quan phòng của Cha trên trời (Mt 6, 26-34). Thánh Phê-rô cũng nhắc: “Mọi lo âu, hãy trút cả cho Người vì Người chăm sóc anh em” (1Pr 5, 7; Tv 55, 23)” (GL/HTCG, số 322); “Thiên Chúa quan phòng cũng hành động qua hành động của các thụ tạo. Thiên Chúa cho con người được tự do cộng tác vào các kế hoạch của Người.” (GL/HTCG, số 323). Điều đó cho thấy Thiên Chúa quan phòng sắp xếp cho con người có mặt ở trên đời, ban cho nhiều ơn lành để sống xứng đáng là con Thiên Chúa “được tự do cộng tác vào các kế hoạch của Người”, đồng thời Người còn ban Thần Khí soi sáng cho con người biết luôn can đảm để “làm lành lánh dữ”.   

Thật là mầu nhiệm, ngay cả những hành động gian ác của con người cũng không ra ngoài sự quan phòng của Thiên Chúa. Một cách nào đó, chỉ có mình Thiên Chúa biết, Người cho phép có sự ác nhưng cuối cùng Người xoay chiều cái ác thành cái thiện (St 50, 20). Mầu nhiệm này đạt đến đỉnh điểm trong cái ác lớn nhất mà con người đã làm: đó là giết Người Con chí ái của Thiên Chúa trên Thánh giá. Thiên Chúa đã biến đổi hành động này thành sự thiện. Sự kiện này đã được Giáo lý HTCG (số 312) xác nhận: “Thiên Chúa trong sự quan phòng toàn năng có thể rút sự lành từ hậu qủa của một sự dữ, cho dù là sự dữ luân lưu do thụ tạo gây nên: “Giu-se nói với anh em: không phải các anh đă đưa đẩy tôi đến đây nhưng là Thiên Chúa, … sự dữ mà các anh đă định làm cho tôi, ý định của Thiên Chúa đă chuyển thành sự lành… để cứu sống một dân đông đảo.” (St 45, 8; 50, 20). Từ việc Ít-ra-en chối bỏ và hạ sát Con Thiên Chúa là sự dữ luân lý lớn nhất chưa từng có do tội lỗi của con người gây nên, Thiên Chúa đă rút ra được sự lành lớn nhất do sự sung mãn của ân sủng (Rm 5, 20): Đức Ki-tô được tôn vinh và chúng ta được cứu chuộc. Tuy nhiên không vì thế mà cái xấu trở thành cái tốt được.”  

Còn vấn đề tiền định ở đây cũng không phải là định mệnh. Tiền định chỉ có nghĩa là Thiên Chúa biết trước (tiên liệu) và đưa ra quyết định ứng phó, hóa giải (Vd: Khi dựng nên loài người và ban cho sự tự do, Thiên Chúa đã tiên liệu con người sẽ phạm tội, nên Người hoạch định công trình cứu độ và cho con người được cộng tác vào công trình ấy, như trường hợp Đức Maria được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa và đồng công cứu chuộc nhân loại). Giáo lý HTCG (số 1037) dạy: “Thiên Chúa không tiền định cho ai xuống hỏa ngục. Ai tự ý lìa bỏ Thiên Chúa bằng một tội trọng và chai lì đến cùng, sẽ phải xuống hỏa ngục. Trong phụng vụ Thánh Thể và trong kinh nguyện hằng ngày của tín hữu, Hội Thánh khẩn cầu Thiên Chúa từ bi, Ðấng “không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người ăn năn hối cải (2 Pr 3, 9)”. Con người là thụ tạo nhưng được hoàn toàn tự do sống theo ý mình, không hề bị ép buộc theo một khuôn khổ định sẵn. 

Vấn đề con người được tư do đã được Công Đồng Va-ti-ca-nô II – thông qua Hiến chế về Mục Vụ “Gaudium et Spes” – khẳng định: “Chỉ trong tự do con người mới có thể hướng về sự thiện … nhân cách con người đòi con người phải hành động theo sự chọn lựa có ý thức và tự do …” (GS, số 17); “Vì nhờ những phẩm cách nội giới của mình, con người vượt trên toàn thể mọi thứ vật chất. Con người chỉ thấu triệt thực thể này khi nào con người đi vào trái tim mình, Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm hồn, đang chờ đợi con người nơi trái tim họ; tại đó chính con người tự định đoạt lấy vận mệnh mình dưới mắt Thiên Chúa” (GS 14); “Tự do đích thực là dấu chỉ cao cả nhất hình ảnh Thiên Chúa trong con người” (GS 17). Rõ ràng Thiên Chúa sáng tạo con người theo “hình ảnh Thiên Chúa.” (St 1,26) là đã cho con người được hoàn toàn tự do. Một bằng chứng hiển nhiên: Vì con người được hoàn toàn tự do nên mới làm theo sự cám dỗ của ma quỷ để sa vòng tội lỗi (St 3, 1-24). 

Quả thực vấn đề số mệnh, định mệnh đã làm khổ con người không ít. Người Ki-tô hữu lại càng cần phải hiểu thấu đáo vấn đề. Không bao giờ có chuyện “Chúa định cho tôi phải thế này, phải thế kia, phải tán gia bại sản, phải vào tù, phải bán vợ đợ con v.v… và v.v…”. Con người được hoàn toàn tự do lựa chọn cho mình một con đường sống “hoặc làm tôi Thiên Chúa hoặc làm tôi tiền của vật chất” (Mt 6, 24; Lc 16, 13). Đọc và suy niệm bài đọc 1 hôm nay (CN XXVI/TN-A – Ed 18, 25-28), vấn đề sẽ được khai thông. Vâng, nếu tất cả đều do “Trời định”, “Chúa định”, thì sao lại có vụ một người công chính đi làm điều gian ác để đến nỗi phải chết? Còn kẻ gian ác thì “từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh” để “chắc chắn nó sẽ sống, nó không phải chết”? Cuối cùng thì chính Thiên Chúa lại nói: “Quả thật, Ta không vui thích gì về cái chết của kẻ phải chết – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng. Vậy hãy trở lại và hãy sống.” (Ed 18, 32).  

Chúa có định cho một người công chính mà lại “theo đòi kẻ gian ác làm mọi điều ghê tởm” hay không? Hoàn toàn không, trăm ngàn lần không. Hắn đã tự ý làm vì bị mê hoặc, cám dỗ mà hắn không tự biết. Khi hắn bị hình phat, Thiên Chúa cũng chẳng vui gì, mà trái lại nữa là khác. Còn đối với kẻ gian ác, Chúa cũng chỉ khuyên bảo răn đe, hoàn toàn không ép buộc phải thế này hay thế khác. Khi kẻ gian ác hiểu ra những sai phạm của mình, sẵn sàng từ bỏ điều dữ mà thi hành điều công minh chính trực; được như vậy, nó sẽ sống, tất nhiên. Chính vì thế, nên Thiên Chúa mới mời gọi và khuyên răn: “hãy trở lại và hãy sống”. Cho nên có thể nói, con người đã tự định đoạt số phận của mình. Chẳng ai bắt anh phải làm thế này, buộc anh phải sống thế kia, tất cả đều do anh tự chọn và quyết định cho cuộc đời của mình.  

Tiếp tục suy niệm bài Tin Mừng hôm nay trình thuật dụ ngôn “Hai người con” (Mt 21, 28-32), thấy rõ hai người con này tự quyết định theo ý mình trước lời kêu gọi của người cha. Người con thứ nhất lúc đầu thì từ chối, nhưng sau đó lại vào làm, còn người thứ hai thì mau mắn nhận lời nhưng sau đó lại không đi. Đọc tới đây, ai cũng hiểu ngay con người sống trên đời luôn có tự do và Thiên Chúa tôn trọng sự tự do đó của con người. Chính người con thứ nhất, cứ tưởng anh ta sẽ không đi làm theo ý cha vì anh ta đã thẳng thắn từ chối, nhưng rồi anh lại đi. Còn người con thứ hai thì mau mắn đáp lời cha, ai chẳng cho rằng anh ta sẽ thi hành ý cha cách tốt đẹp, vậy mà rốt cuộc thì lại trốn tránh. Cá hai trường hợp đều rơi vào cảnh “ngôn hành bất nhất” (lời nói và việc làm không thống nhất với nhau), nhưng xét cho cùng, người con thứ nhất mới là người đáng để cho người khác học hỏi.  

Sở dĩ Đức ki-tô kể dụ ngôn “Hai người con” cũng bởi vì đám thượng tế và kỳ mục Do Thái vặn hỏi Đức Giê-su về quyền bính của Người (Mt 21, 23-27). Kể dụ ngôn, nhưng Đức Giê-su không kết luận, mà đặt câu hỏi: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” (Mt 21, 31) để người nghe tự đưa ra kết luận. Đáng lẽ Đức Giê-su căn cứ vào câu trả lời của nhóm người này, dạy bảo họ “hãy trở lại và hãy sống”, thì Người lại nói tới bọn gái điếm và thu thuế vốn bị coi là tội lỗi, là những người sẽ “vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.” (Mt 21, 31-32).

Quả thật đây là một cái tát cực mạnh vào đám người huênh hoang tự phụ, hay đứng ở ngã ba ngã tư, khua chiêng đánh trống (Mt 6, 1-6); hoặc thích “ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy… đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”. (Mt 23, 2-7) Đó là những tên lẻo mép, chỉ biết nói mà không thèm làm, hệt như người con thứ hai trong dụ ngôn (“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa! ” là được vào Nước Trời cả đâu!” – Mt 7, 22;  “Bấy giờ, Đức Giê-su nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.” – Mt 23, 1-3).  

Chung quy thì cũng chỉ vì anh nói thì hay lắm, rất hay; nhưng anh lại không làm được đúng như điều anh đã nói. Một cách cụ thể, anh không tin vào những điều anh nói – không tin cả chính mình – như vậy thì sao có thể gọi là những người đi nói cho kẻ khác tin? Còn người thu thuế và gái điếm, thì vì họ biết nhìn lại mình, biết mình là người tội lỗi và biết tin vào người chỉ dẫn cho mình đường ngay lẽ phải, chính nhờ vậy mà họ thành công. Thật rõ ràng như hai với hai là bốn: “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình.” (Ed 18, 26-27). 

Ôi, lạy Chúa! Chẳng phải nói ai khác, mà chính bản thân con, từ trong sâu thẳm lòng mình, cũng đã hơn một lần con thèm muốn được như đám thượng tế, kỳ mục, kinh sư Do Thái, cho dù sau đó có bị án phạt thì cũng cam lòng (“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, Còn hơn buồn le lói suốt năm canh” – Xuân Diệu). Thế đấy! Con cũng chỉ là một con người tầm thường, bé nhỏ, mỏng giòn, chỉ biết suy tính theo cái tư tưởng bất toàn của loài người. Lời nói của con không đi đôi với việc làm, mà nhiều khi còn đối kháng với hành động của con. Điều đó lại càng chứng tỏ chúng con đã được Chúa ban cho sự tự do đến gần như tuyệt đối, con đã lợi dụng sự tự do đó mà làm nô lệ cho tội lỗi mà không tự biết.  

Quả thật “Khi còn là nô lệ tội lỗi, anh em được tự do không phải làm điều công chính. Bấy giờ anh em thu được kết quả nào, bởi làm những việc mà ngày nay anh em phải xấu hổ? Vì rốt cuộc những việc ấy đưa đến chỗ chết.” (Rm 6, 20-21). Chính vì thế, cúi xin Chúa soi lòng mở trí cho con, thêm sức cho con biết luôn luôn “nhìn lại mình” để chiến thắng chính mình trước đã, và biết luôn luôn đem Lời Chúa dạy ra thực hành với châm ngôn “Đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su.” (Pl 2, 3-5). Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.

Về mục lục

.

HỐI HẬN

Lm. Trịnh Ngọc Danh 

Tóm kết nhân vật Emily Dickison do nữ diễn viên người AnhJulie Harris đóng trong vở kịch ‘The Bell of Amerhahart’, Lm  Jack Mc Ardle  đã viết:Trong hồi thứ nhất, khán giả được biết về hoàn cảnh tôn giáo của Emily. Bà xuất thân từ một gia đình theo Thanh Giáo nghiêm khắc, cứng nhắc; thân phụ bà là một chức sắc trong đạo. Emily phải đi nhà thờ một cách miễn cưỡng, phải làm các việc đạo đức một cách bắt buộc, v.v…Do đó, não trạng phản kháng đã trỗi dậy trong cuộc sống của người phụ nữ này. Bà bắt đầu chất vấn  về một số giáo huấn và tập tục mà bà đã được giáo dục. Tuy vậy, Emily vẫn là một con người đức độ. Thơ ca của bà biểu lộ một sự ý thức sâu xa về sự hiện diện của Thiên Chúa giữa thế gian này và về mầu nhiệm vĩ đại của sự sống và sự chết. Như chúng ta đã biết, thỉnh thoảng Emily đã phải chiến đấu với những hoài nghi và những nỗi sợ hãi về Thiên Chúa và về đạo giáo. Tuy nhiên, trong vở kịch ấy, đã có lúc Emily Dickison đã xác nhận rằng: “ Tôi biết chắc điều này là không ai có thể hạnh phúc thực sự cho đến khi nào họ nói thực sự rằng ‘ Tôi yêu mến Chúa Kitô’. 

Các kỳ lão, biệt phái và thượng tế trong đền thờ là những người tự xưng mình là những người gương mẫu về đời sống tôn giáo. Họ giữ luật một cách nghiêm ngặt đến mức độ cực đoan. Họ xem những người bất hạnh hay lỗi luật là những người tội lỗi không còn xứng đáng với Nước Trời. Để phê phán lối sống hình thức hẹp hòi của họ, Đức Giêsu đã đưa ra dụ ngôn về hai người con như sau: “ Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: “ Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.” Nó đáp: “ Con không muốn đâu!” Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: “ Thưa ngài, con đây!” nhưng rồi lại không đi.” Đức Giêsu hỏi những người đang chất vấn Ngài: “ Trong hai người đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” Người con thứ nhất, tuy không thuận với ý kiến của cha, nhưng vì hối hận, anh lại thi hành hành ý muốn của cha; ngược lại, người con thứ hai vâng ý cha, nhưng lại không làm. Ngôn hành bất nhất. Cả hai đều bị giằng co giữa đi và không đi. 

Nhà có một vườn nho. Đó là vườn nho Nước Trời. Lẽ ra, chẳng cần người cha hỏi ý kiến, các con của ông cũng phải cảm thấy trách nhiệm và nghĩa vụ đối với Vườn Nho ấy.  Nhưng ông lại không mệnh lệnh độc đoán. Ông không ra lệnh, không ép buộc các con của ông phải làm theo ý của mình. Ông tôn trọng quyền tự do quyết định của các con ông. 

Thiên Chúa cũng vậy. Ngài là Cha, là Thiên Chúa đầy lòng khoan dung. Ngài có quyền sai khiến cho con người phải hành động theo ý muốn của Ngài. Nhưng Ngài đã không làm như thế, vì Ngài tôn trọng quyền tự do của con người. Nếu là một  Thiên Chúa chỉ dùng quyền lực để sai khiến con người thì Ngài chẳng cần gì phải hỏi ý kiến của các con của mình. Người ta thường hay vẽ ra một Thiên Chúa thích trừng phạt và áp đặt mệnh lệnh độc đoán lên con người. Qua hình ảnh người cha nhân từ, tôn trọng ý kiến của những người con, Thiên Chúa cũng tôn trọng quyền tự do mà Ngài đã trao ban cho con người. Với sự tự do này, con người có thể bước theo thánh ý của Ngài hay khước từ quay lưng chống lại Ngài. Con người có thể vâng theo thánh ý của Ngài, nhưng cũng có thể khước từ ý muốn, đường lối của Ngài. Điều quan trọng là Thiên Chúa sẽ xét xử con người tùy theo thái độ của chúng ta trong quyết định làm hay không làm theo thánh ý của Ngài chứ không phải theo lời nói suông.  

Là người Kitô hữu, chúng ta vẫn luôn nghe lời mời gọi của Thiên Chúa: “ Hôm nay, con hãy đi làm vườn nho.” Và chúng ta đã đáp lại lời gọi ấy như thế nào?Hãy cảnh tỉnh với lời cảnh cáo của Đức Giêsu nói với các thượng tế và kinh sư: “ Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông.” Tất cả vì sự hối hận và lòng tin.

Về mục lục

.

THIÊN SINH QUAN

Lm. Bosco Dương Trung Tín

Các ngươi nói: “Đường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng”. (x. Ed 18,25) 

  Con người chúng ta cho rằng đường lối của Thiên Chúa không ngay thẳng. Vì sao ? Vì người xấu ăn năn trở về thì Chúa vui mừng; còn người tốt, làm điều xấu thì nghiêm khắc xử phạt.  

Ví dụ như, “Khi người công chính mà tử bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nói phải chết”(x.Ed 18,26). Có nghĩ là Chúa đã quên hết những việc tốt người đó đã làm. 

“Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình. Nó đã thấy và từ bỏ mọi tội phản nghịch nó phạm, thì chắc chắn nó sẽ sống, nó không phải chết”(x.Ed 18,27-28). Chúa đã quên hết những việc xấu xa họ đã làm. 

Điều này con người chúng ta không đồng ý và cho đường lối của Chúa như vậy là không ngay thẳng, không đúng, không được. Đối với con người chúng ta, Chúa mà quên hết những lỗi lầm khi chúng ta phạm tội thì OK, nhưng quên luôn cả những việc tốt ta đã làm thì không được. Đó là Nhân Sinh Quan. Nghĩa là quan điểm sống của con người; chứ không phải “Thiên Sinh Quan”, nghĩa là Quan điểm sống của Thiên Chúa. 

Quan điểm của con người không giống như quan điểm của Thiên Chúa. Như trong bài đọc 2, thánh Phao-lô khuyên: “Đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình”(x.Pl 2,3). Đây là Thiên Sinh quan. Kết quả là gì ? Là bác ái, là bình an. 

Còn Nhân Sinh Quan là: con người làm phải ganh tị, làm vì hư danh; phải cao ngạo coi mình hơn người khác mới được. Kết quả là gì ? là cãi nhau, là chiến tranh; là bất bình và bất hòa. 

Trong bài Phúc Âm thì Đức Giê-su nói: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Trời trước các ông”(x.Mt21,31). 

Vậy đường lối của Chúa có chính trực không; Thiên sinh quan có đúng không? Ta cùng nhau suy ngẫm. 

Bây giờ có ai trong chúng ta là người công chính và thánh thiện không? 

Chắc là không. Chúng ta đang trên con đường nên thánh nên thiện thôi. Có thể nói chúng ta là những người xấu xa và gian ác, đang lột xác dần dần để nên người công chính và thánh thiện.  

  Vậy trong khi lột xác, nghĩa là ta đang cố gắng bước theo đường lối của Chúa; đang cố gắng từ bỏ những tính hư tật xấu, bằng cách ăn năn sám hối vì những việc xấu mình đã làm và quyết tình không làm điều xấu nữa, tập làm điều thiện. Như thế ta sẽ lãnh nhận đượcc phẩn thưởng Chúa hứa ban và quên hết những lầm lỗi của ta. Chắc là ta vui mừng và sung sướng lắm. 

  Nhưng ta có chắc là ta không làm điều xấu và điều ác cho đến khi nhắm mắt không? Được như vậy thì quá tốt. Nhưng không được như vậy thì sao? Nhỡ có khi nào ta lại bỏ đàng công chính mà đi làm những điều bất chính thì sao? Chúa sẽ nghiêm khắc phạt ta và quên hết những điều tốt ta đã làm. Điều này ta lấy làm tiếc và ái ngại lắm. Vì cố gắng bao nhiêu, nay “đổ xuống sống, xuống biển” hết. Bởi đó mà ta cho rằng đường lối của Chúa không chính trực. 

  Đường lối của Chúa không chính trực hay đường lối của ta không chính trực ? Con người chúng ta chỉ khôn lỏi thôi. Khi lầm lỗi thì xin Chúa nhân từ tỏ lòng từ bi, muốn tha và có làm được điều tốt gì thì xin Chúa trả lại cho con sự công bằng và không muốn quên điều tốt đã làm. Ta thử nghĩ xem, ta ở trong tình trạng xấu nhiều hay tốt nhiều ? Ở trong tình trạng thánh thiện, tốt lành nhiều hay ở trong tình trạng tội lỗi, xấu xa nhiều? 

  Đối với con người chúng ta, nếu có một thời ta hy sinh, ta cố gắng lập được những chiến công, những thành tích, thì khi có lỡ hay cố tình phạm một lỗi nặng nào thì muốn xí xóa, muốn du di. Có những cái du di hay xí xóa được, có cái không được. Chỉ có thể giảm khinh bớt đi mà thôi. Vậy thì ta đừng bao giờ phạm những lẫm lỗi nghiêm trọng và tàn ác để ta được xử khoan hồng. Phải chăng đây là thông điệp; là Tin Mừng mà Chúa muốn nói ? 

  Quả thực Thiên Chúa của chúng ta là Đấng nhân từ vô cùng mà cũng là Đấng công bằng vô cùng, ta đừng làm gì quá để Chúa khó xử. Nghĩa là ta đừng ỷ nại vào lòng nhân từ của Chúa mà làm bậy, mà lỗi nặng, mà phạm tội trọng bao giờ. Chúa có nghiêm khắc cũng là để giúp ta đừng để Chúa xử dụng tính công bằng, nhưng giúp ta làm sao để Chúa chỉ xử dụng tính nhân hậu, từ bi của Chúa thôi. Ta có lỡ phạm thì cũng phạm lỗi nhỏ, phạm điều nhẹ thôi, ta sẽ được Chúa khoan hồng và không cất hết những việc tốt ta đã làm. Đó là Thiên Sinh Quan đấy. 

  Một người nói: VÂNG, nhưng không làm và một người nói KHÔNG, nhưng lại làm, người nào tốt đây, người nào chính trực đây? Cả hai người đều nói dối cả. Thế nhưng người nói KHÔNG mà lại làm vẫn hơn người nói VÂNG mà lại không làm. Nếu có người nào đó nói VÂNG và lại làm nữa thì TUYỆT VỜI. Đó là Nhân sinh Quan của người con cái Chúa. 

   Vậy đường lối của Thiên Chúa thật chính trực; Thiên Sinh Quan thì tuyệt vời. Ta hãy theo đường lối của Chúa mà đi; hãy mang lấy Thiên Sinh Quan mà sống. Ta sẽ được hưởng ơn cứu độ của Chúa. Ta sẽ được sống trong tình yêu và được trong bình an. A-men.

Về mục lục

.

Exit mobile version