Các bài suy niệm Chúa Nhật 3 Mùa Chay_A

1992

CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY_A

Lời Chúa: Xh 17, 3-7; Rm 5, 1-2.5-8; Ga 4, 5-42

——-

Mục lục

  1. Cho Và Nhận (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  2. Khát vọng chân lý  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  3. Nước Chết, Nước Hằng Sống (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
  4. Khát nước  (Jorathe Nắng Tím)
  5. Tâm tư kẻ khát nước (Maria Nguyễn,  MTG.Thủ Đức)
  6. Nước trong tâm hồn (Bông Hồng Nhỏ,  MTG.Thủ Đức)
  7. Khát khao bên trong (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
  8. Giếng nước đầu làng (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
  9. Chúa Giêsu là mạch nước ban sự sống  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
  10. Khát vọng  (Lm. Thái Nguyên)
  11. Khát vọng.  (Trầm Thiên Thu)
  12. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 3 Mùa Chay_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
  13. Cơn khát  (An Phong)
  14. Nguồn nước diệu kỳ (Thiên Phúc)
  15. Nước Hằng Sống.  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
  16. Bạn đang khát điều gì?  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  17. Khao khát một tình yêu (Lm. Giuse Nguyễn)
  18. Ân tình Ngài chứa chan (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
  19. Đấng xin nước là nguồn nước Hằng Sống (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
  20. Chúa mới thật là Đấng trao ban (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
  21. Nước Hằng Sống (Lm. Vũ Đình Tường)
  22. Chúa Nhật 3 Mùa Chay. Năm A (Lm. Antôn)

 

Mục lục

1. Nước Hằng Sống  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Nhịp cầu thiêng liêng (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

4. Nước không bao giờ khát nữa  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

5. Nước sự sống  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

6. Nguồn nước đem lại sự sống (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

7. Suy niệm Chúa Nhật III Mùa Chay – Năm A  (Lm. Anthony Trung Thành)

8. Cơn khát  (Trầm Thiên Thu)

9. Nơi bờ giếng Giacob (Lm. Tôma Nguyễn Hoàng Phượng)

10. Chúa Nhật 3 Mùa Chay A (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

11. Gặp gỡ Chúa Giêsu (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

12. Khát sự sống (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

13. Chúng ta bị ma quỉ đánh lừa! (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

14. Nước trường sinh  (Lm. Trần Việt Hùng)

15. Chúa lấp đầy khát vọng của con người  (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

16. Đón nhận ơn tái sinh   (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

17. Nước trường sinh- (AM. Trần Bình An)

18. Cuộc gặp gỡ đổi đời  (JM. Lam Thy, ĐVD)

19. Chúa Giêsu truyền giảng Nước trời  (P. Trần Đình Phan Tiến)

20. Gặp gỡ tuyệt hảo của Đức Giêsu (Lm. Uyen Nguyen)

21. Cái khát của con người  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

22. Đấng thỏa mãn những khao khát của con người  (Lm. Giuse Nguyễn)

23. Ta khát (Huệ Minh)

24. Trở nên mạch nước hằng sống cho tha nhân  (Lm. Đan Vinh)

25. Nước Hằng Sống-  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

26. Nước Nước Nước   (Lm. Vũ Đình Tường)

27. Khát (Lm. Trịnh Ngọc Danh)

28. -Chúa Nhật 3 Mùa Chay_A (Lm. Antôn)

CHO VÀ NHẬN

Lm Jos DĐH, Gp. Xuân Lộc

Hầu hết mọi người đều cho rằng: tình yêu chân chính không thể vừa gặp đã yêu, mà là lâu ngày sinh tình. Cuộc sống cho ta kinh nghiệm: thật dễ dàng để làm quen với một người xa lạ, nhưng sẽ thật khó để quên đi một người xa lạ ta đã từng quen. Không bao giờ các học trò có thể lĩnh hội được hết kiến thức của thầy, hoặc tài giỏi bằng thầy; không phải tất cả các cặp đôi đều hạnh phúc, nhưng chắc chắn càng đối diện với nhiều khổ đau, hạnh phúc của họ càng bền vững. Không ai nghi ngờ gì việc: con hơn cha nhà có phúc, nhưng người ta sẽ tâm phục khẩu phục khi tiếp xúc với thầy giỏi trò ngoan. Cuộc sống thú vị biết bao, khi con cháu nhận ra tình yêu thương là món quà quý báu nhất, mà bậc sinh thành ban tặng họ. Các học trò chỉ làm cho thầy của họ vui, khi ghi nhận được kiến thức và kỹ năng sống thầy đã chân thành chia sẻ.

Cho và nhận từ xa xưa vẫn là một ân ban, bao gồm cả thực tế và trừu tượng, được đong đầy bởi tình yêu. Cho đi yêu thương, hạnh phúc tự tìm đến, lạc quan vui vẻ: khổ đau, thất vọng, rồi sẽ qua. Câu chuyện một thanh niên Do-thái xin thiếu phụ Samari một chút nước, ít nhiều cũng phản ánh một chân lý: điều kỳ diệu sẽ xảy đến với người biết cho đi, bạn càng cho nhiều, bạn càng có nhiều. “Xin chị cho tôi uống nước” ? Thiết tưởng việc cho và nhận chút nước uống, thế là xong giữa người Do-thái và thiếu phụ Samari. Cho nước uống, nhận lời cám ơn, đã gọi là đủ lý đủ tình. Chào hỏi nhau, nói chuyện với nhau, không phải chỉ dừng lại ở phương diện xã giao, còn cho thấy con người tự nhiên đã khao khát được lắng nghe, được cảm thông, để hiểu nhau, rồi sống đúng, sống đẹp hơn. Vì nếu không có người tốt, mấy ai tự biết được giới hạn của mình ?

“Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống với tôi là người Samari ư ? Giếng thì sâu, mà ông thì không có gầu, làm sao ông múc được nước để cho tôi” ? Phải chăng Ngài trọng hơn tổ phụ chúng tôi sao ? Nếu thiếu phụ đó mà sống ở thời đại hôm nay, chắc cô ta còn nói: thôi ông đừng nổ, đừng cưa bom ! Vâng, xã hội cho rằng: nhất lý nhì lỳ, kiên nhẫn ắt sẽ thành. Từ việc khát nước, Đức Giêsu khơi dậy ước muốn “Nước hằng sống” nơi người thiếu phụ, từ việc khát tình yêu thương, Đức Giêsu mở ra cho người phụ nữ một hy vọng, ơn cứu độ sẽ được trao ban. Túng thiếu vật chất, khổ đau tinh thần, đói khát cơm bánh, đói khát tình yêu thương, chính là những đòi hỏi cần thiết được khoả lấp. Cho và nhận, ban phát và ân thưởng, thực sự đẹp và chuẩn, khi đôi bên có tự do, có đặt tình yêu thương vào tương quan đó.

Kinh nghiệm ở đời cho thấy: người ta dễ bị thuyết phục bởi tình hơn lý, người ta dễ nghe, dễ đón nhận âm thanh vừa đủ, chẳng cần phải dùng những từ ngữ dao to búa lớn, văn hoa, bác học, hay ngọt ngào uỷ mị, mà là nghiêm túc, chân thành. Cuộc sống luôn công bằng, sòng phẳng: thật hạnh phúc khi bạn biết cho đi mà không cần nhớ đến, biết đón nhận mà không hề quên ơn. Đức Giêsu cho người thiếu phụ biết: “ai uống nước giếng này sẽ còn khát …”. “Hãy tin Ta, vì đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem …”. Đói khát, túng thiếu, nghèo khổ, hoặc yếu đuối tội lỗi, cũng không dẫn ta đến ngõ cụt, chỉ tại bởi ta sử dụng tự do không đúng nên bị lạc vào đường cùng. Mỗi người, mỗi hoàn cảnh, tuy phức tạp khác nhau, nhưng ai cũng có cơ hội để trở nên người tốt, biết cho đi và biết nhận lãnh.

Cho và nhận vừa thú vị, vừa linh thiêng: một nụ cười có thể làm thay đổi ngày buồn thành ngày vui; một lời nói đúng, nói đẹp, có thể khơi dậy ham muốn đổi đời của một người. Ngày hôm nay các nhà giáo dục chủ trương: mau nghe, chậm nói hoặc bằng đối thoại trong trưởng thành, sử dụng tự do và đặt tình yêu vào hành động. Đức Giêsu đã nói: “ai uống nước Ta sẽ cho, thì không bao giờ khát nữa”. Trong khi đó, người thiếu phụ bị thu hút bởi sự kỳ diệu phát xuất từ nơi Đức Giêsu: “thưa Ngài, xin cho tôi thứ nước đó để tôi chẳng còn khát, và khỏi phải đến đây xách nước nữa”. Trong lòng người thiếu phụ thấy vui do cuộc đối thoại thú vị, hẳn chị ta phải hiểu cho và nhận, biết và tin: khởi đầu từ một thanh niên Do-thái, rồi đến một tiên tri. Tiếp đến, người thiếu phụ tin và thán phục: “tôi biết Đấng Messia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”.

Có một du khách gặp sư thầy gánh nước, du khách hỏi: thưa sư thầy, thầy gánh nước ở đây được bao lâu rồi ? Sư thầy đáp: thưa thí chủ, từ khi mới tập tu. Vậy thầy không buồn sao, quanh năm suốt tháng chỉ một công việc ?  Sư thầy tự tin trả lời: lúc ban đầu tôi cũng nôn nóng lắm, cứ mong sao được thay đổi công việc … Bỗng một ngày kia sư phụ nói: nếu con thật lòng muốn đắc đạo, đừng phàn nàn hoặc khao khát làm điều to lớn. Tôi thầm cám ơn vì đã hiểu: cho và nhận. Không phải ta giữ chức vụ to lớn là ta vĩ đại, đúng hơn, ta sẽ trưởng thành, khi biết làm điều nhỏ nhặt với tình yêu vĩ đại. Hạnh phúc ở đời là đi đúng đường, đúng lối, niềm vui nơi đệ tử là học hỏi, thu thập kiến thức, kinh nghiệm sư phụ truyền đạt. Đức Giêsu trao ban yêu thương, đã nhận được sự biến đổi nơi người thiếu phụ, và rồi cả dân làng tìm đến nghe, và họ cùng vui sống Tin Mừng. Amen.

Về mục lục

KHÁT VỌNG CHÂN LÝ

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Con người mọi nơi mọi thời vẫn khao khát đi tìm Chân lý. Chân lý quan trọng đối với đời sống thiêng liêng, như nước cần cho sự sống hằng ngày. Trong cuộc tìm kiếm này, có những khi người ta lầm lạc, chỉ nhìn thấy Chân lý qua những bóng hình mờ nhạt, thậm chí là ảo ảnh hão huyền.

Cuộc tìm kiếm Chân lý của nhân loại đã được phác họa trong thời xuất hành. Dân Do Thái trong hành trình sa mạc đói khát khổ sở suốt 40 năm. Hành trình này vừa giải thoát họ khỏi ách nô lệ, vừa dẫn đưa họ về miền đất mà Thiên Chúa đã hứa cho tổ tiên. Việc thiếu nước dẫn tới sự kiện dân nổi loạn chống lại ông Môisê. Nhờ quyền năng của Chúa, ông Môisê đã lấy cây gập đập vào tảng đá và nước từ đó chảy ra (Bài đọc I). Bài đọc Cựu ước trong thánh lễ hôm nay muốn khẳng định với chúng ta: kiếm tìm Chân lý là một tiến trình lâu dài, đòi hỏi phải kiên nhẫn và vâng theo lệnh của Thiên Chúa.

Câu chuyện không chỉ nhắm tới nước cho dân khỏi khát, mà còn là giáo huấn về ân sủng sẽ được ban sau này qua Đức Giêsu Kitô, Đấng được tôn vinh là Đá. Chúa Giêsu đã đến trần gian để chỉ cho nhân loại con đường đạt tới Chân lý. Người đã tuyên bố: “Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống”.

Bài Tin Mừng là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ xứ Samaria. Có rất nhiều chi tiết phong phú trong đoạn văn này. Đây là một cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và một con người; giữa một người Do Thái và một người Samaria; giữa một vị Ngôn sứ và một người đang khao khát tìm Chân lý.

Người phụ nữ Samaria là đại diện cho cả nhân loại đang tìm kiếm Chúa. Chị đã có năm đời chồng, và người đang chung sống hiện tại không phải là chồng chị. Chi tiết này muốn diễn tả, con người đi tìm kiếm Chúa, nhưng có những lúc lầm tưởng về Ngài. Họ tìm kiếm Ngài nơi lạc thú và nơi những ảo ảnh thế gian. Vì thế mà họ không cảm thấy no đầy, giống như một người phụ nữ đã năm đời chồng mà không thấy hạnh phúc. Chị vẫn tiếp tục đi tìm kiếm. Khi gặp gỡ Chúa Giêsu, người phụ nữ dần dần hiểu ra Ngài là vị Ngôn sứ, là Đấng có thể đem cho bản thân chị sự bình an, niềm vui và ơn cứu độ. Có nhà chú giải Kinh Thánh nghiên cứu văn hóa và tín ngưỡng của xứ Samaria và cho biết người xứ này thờ 5 vị thần. Có thể tác giả Gioan muốn nói tới việc thờ các ngẫu thần không đem cho con người sự giải thoát và không lấp đầy những khát vọng siêu nhiên của họ. Đức Giêsu đến trần gian để giải phóng con người khỏi những ngẫu thần, hướng tâm hồn họ về Thiên Chúa là Đấng mọi người phải yêu mến và tôn thờ. Sự tôn thờ đích thực không còn phụ thuộc vào không gian, nơi chốn, tức là phải đến chỗ này chỗ nọ (cụ thể là ở Giêrusalem hay đồi Garizim), nhưng bất cứ ai, bất cứ nơi nào, khi họ thực hiện việc tôn thờ “trong tinh thần và Chân lý”, thì đó là việc tôn thờ đẹp lòng Chúa và lời cầu nguyện của họ sẽ được Ngài chấp nhận.

Cuộc gặp gỡ này cũng là một cuộc đối thoại kiên nhẫn, dần dần từng bước. Chúa Giêsu đã chủ động phá tan mọi rào cản: đó là sự giao tiếp giữa người Do Thái và dân ngoại; Người nam và người nữ; Không gian là bờ giếng lãng mạn và thời gian là buổi trưa vắng vẻ. Điều này cho thấy, nếu muốn loan báo Chân lý, cần phải vượt qua mọi thành kiến, khiêm tốn chủ động đối thoại trong sự tôn trọng lẫn nhau. Chúng ta thấy Chúa Giêsu không một lời phê phán cuộc sống cá nhân của chị, cũng như cách thức thờ phượng trên núi Garizim của người Samaria.

Chúa Giêsu đã khởi đi từ nước thế gian tới nước hằng sống. Nước này là ân huệ Chúa ban nơi Đức Giêsu và là giáo huấn của Người. Giáo huấn đem lại cho con người niềm vui siêu nhiên và sự bình an trong tâm hồn. Nhờ nước hằng sống, con người không còn đi tìm kiếm một thần linh nào khác. Họ được gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng họ tôn thờ, không phải ở đây hay ở kia, nhưng trong tinh thần và chân lý. Thánh Phaolô đã khẳng định: “Nhờ Đức Kitô Chúa chúng ta, con người trở nên công chính và được bình an với Thiên Chúa” (Bài đọc II)

Cũng như dân Do Thái trong hành trình sa mạc cần có nước để tồn tại, trong cuộc lữ hành thiêng liêng, chúng ta cũng cần có nước nước hằng sống để lớn lên mỗi ngày. Mùa Chay giúp ta sống tinh thần sa mạc, phác họa 40 năm dân riêng trên đường về Đất hứa, 40 ngày Chúa Giêsu cầu nguyện trong hoang địa. Mùa Chay giúp ta định hướng cuộc đời, để tìm kiếm Chân lý, đón nhận dòng nước ân sủng Thiên Chúa ban qua Đức Giêsu. Một cách cụ thể, chúng ta đón nhận nước hằng sống qua các bí tích, nhất là bí tích Hòa giải và bí tích Thánh Thể. Nhờ hai bí tích này, chúng ta được đổi mới và được nuôi dưỡng bằng sức sống siêu nhiên.

Người phụ nữ Samaria sau khi gặp gỡ Chúa đã bỏ lại vò nước bên bờ giếng. Trước đó, mục đích của chị là đến giếng kín nước. Chị chạy vào thành, giới thiệu Chúa với những người trong thành. Chi tiết này gợi ý cho chúng ta, một khi sống tinh thần của Mùa Chay, chúng ta cũng có bổn phận đưa nhiều người khác đến với Chúa, giúp họ gặp gỡ Ngài và cùng với họ đón nhận nước trường sinh. Việc gặp gỡ Chúa phải dẫn chúng ta giao hòa với anh chị em xung quanh, mang cho họ niềm vui và an bình. Câu chuyện kết thúc với những hình ảnh tốt đẹp: những người dân trong thành Samaria (họ là những người dân ngoại!) đều tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu độ trần gian. Không còn nghi kỵ do mối thù truyền kiếp, không còn thành kiến mặc cảm về dòng dõi sắc tộc. Tất cả đều là con cái của Thiên Chúa. Câu chuyện mở ra một chân trời mới. Đó là viễn cảnh tương lai, hình ảnh của Nước Trời nơi trần gian.

Về mục lục

NƯỚC CHẾT, NƯỚC HẰNG SỐNG

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Nguồn nước sạch ngày càng hiếm trên hoàn vũ. Không ở đâu xa, tại Việt nam, những con sông đang chết dần vì nước thải, nước nhiễm hóa chất và nước ngập mặn… Nguồn nước chết không mang lại sức khỏe, sự sống cho nhiều loài, nhiều ruộng vườn và cho con người. Nước Hằng Sống rất quan trọng để tìm nguồn nước ấy cho sự sống đời này và đời sau.

Ý nghĩa của nước.

Nước đóng một vai trò thiết yếu liên quan tới tất cả sự sống. Nước tự tái tạo qua quá trình bốc hơi, thành mây, làm mưa xuống. Quá trình này được diễn tả: “Sông đổ mãi vào biển nhưng biển chẳng hề đầy; hơi nước bay về nguồn, nước trở lại với dòng sông, sông lại đổ vào biển” (Gv 1, 7). Có thể hiểu: “Hồng ân Chúa như mưa, như mưa, rơi xuống đời con miên man.” Nhưng nếu là hồng ân con người cần có trách nhiệm để cho nước phát sinh hoa quả, nảy nở hồng ân đến cho tha nhân: “Vì cũng như mưa với tuyết từ trời sa xuống, tất không lùi lại về trời, nếu đã không thấm nhuận đất đai, nếu không làm cho đất sinh sản, nảy chồi, và cho người gieo có giống, cùng bánh cho người ta ăn.” (Is 55, 10).

Nước đôi khi cũng chỉ ý nghĩa dòng đời mỗi người trên trần gian. Ngược xuôi theo những dòng nước trôi. Đôi khi, chẳng vận động, buông thả theo dòng nước với việc: “bèo giạt mây trôi”, không định hướng, quyết định cho đời mình được gì cả. Cuộc đời nhàm chán, buồn tênh, chẳng biết đi về đâu hay cứ luẩn quẩn với khúc sông vẩn đục đời mình. Ân sủng Chúa ban cần có sự cộng tác của con người, Thánh Augustine chia sẻ: Chúa tạo dựng nên con, Chúa không cần con, nhưng để cứu độ con, Chúa cần con cộng tác”.

Nước cũng là biểu tượng của Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống thần linh. Đấng làm cho sạch, nghĩa là thánh hóa những gì bợn nhơ. Chúa Thánh Thần cũng là sức mạnh và mềm mại, uyển chuyển, năng động như đặc tính của nước. Có thể phá vỡ mưu chước thù nghịch là ma quỷ, có thể là băng bó chữa lành như phương dược, có thể là Đấng an ủi, khích lệ người đau khổ, kẻ ưu phiền. Chúa Thánh Thần còn là Đấng làm nên mới trong tác động thanh tẩy và tái sinh trong ơn gọi làm con Thiên Chúa.

Nước trời.

Trong danh xưng người Việt đồng hóa nước với tên gọi quốc gia, như nước Việt Nam hay quốc gia Việt Nam. Tên gọi nước là một danh xưng ở đó ngầm hiểu là đất nước, có một lãnh thổ, những người dân trên lãnh thổ đất ấy. Cũng trên đất không thể thiếu nước để mọi dân được sống nhờ nước mang lại hoa màu và nguồn thanh tẩy. Khi  gọi nước thay cho quốc gia, người ta ngầm hiểu một ý nghĩa sâu xa, nước là cội nguồn của sự sống, sự tồn vong của một quốc gia. Chính vì vậy mất nước là mất tất cả.

Nước ở trần gian có một vị thế đặc biệt huống chi Chúa muốn nói về Nước Trời. Ngày xưa ở người Do Thái, người ta tránh gọi đến danh xưng Thiên Chúa, cho nên họ nói trại đi là Nước Trời. Chúa Giêsu cũng nói về Nước Trời nhưng cũng nói về Nước thiên Chúa như nhau.

Nước Chúa Giêsu nói với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacop, là hàm ý Nước Thiên Chúa. Nước ấy bao hàm tất cả mọi quốc gia, mọi dân tộc, mọi ngôn ngữ trên toàn cầu. Nước ấy không chỉ ở Nước Chúa trên trời mà còn Nước Chúa tại trần thế như nhiều dụ ngôn Chúa Giêsu nói. Nước Thiên Chúa hiển trị trên trần gian, hệ tại ở việc thờ phượng Thiên Chúa trong Thánh Thần và trong sự thật. Nghĩa là trong tâm hồn được sinh lại làm con Thiên Chúa, được thanh tẩy nhờ Chúa Thánh Thần, và như Thánh Phaolô diễn giải: ““Anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta kêu lên: “Abba, Cha ơi!” (Rm 8,15). Sống trong nước Thiên Chúa là sống trong tự do đích thật, không còn làm nô lệ cho tội lỗi.

Chúa Thánh Thần là Đấng cầu nguyện cho chúng ta ”Cũng vậy Thần khí đỡ đần tình cảnh yếu hèn của ta. vì cầu xin thế nào cho phải, ta nào có biết. Song chính Thần khí chuyển cầu cho ta, bằng những tiếng rên khôn tả. Nhưng nếu Ðấng dò thấu lòng dạ biết hứng của Thần khí, (Người biết) Thần khí chuyển cầu cho các thánh rập theo ý Thiên Chúa. (Rm 8, 26 – 27)

Nước Thiên Chúa vừa là nguồn nước ban sự sống, ban ơn thanh tẩy, thánh hóa, tái sinh; còn là nơi Thiên Chúa sống với con người ở trần gian và đưa con người tín thác vào Chúa vào Nước của Thiên Chúa.

Như người phụ nữ Samaria xin Chúa: Xin cho chúng con nước này, để không còn khát nữa” (Ga 4, 15)

Về mục lục

KHÁT NƯỚC

Jorathe Nắng Tím

Khát đáng sợ hơn đói, vì đói vài ngày vẫn là chuyện nhỏ, nhưng khát ba ngày giữa mùa hè nóng bức sẽ là chuyện lớn, phát sinh thành lớn chuyện.

Khi khát, người ta tìm nước ở ao hồ, sông rạch. Thôn quê Việt Nam không lạ lẫm gì với giếng nước ở giữa làng, ở đó bà con hằng ngày lũ lượt đến kín nước về uống, tắm giặt.

Ngày ấy, trên đường rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu phải băng qua Samari là vùng đất thù nghịch đối với người Do Thái, đến một thành có tên là Xykha, “ở đấy có giếng của ông Giacóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc ấy khoảng mười hai giờ trưa” (Ga 4,6).

Thánh sử Gioan đã rất chi tiết khi ghi rõ : Đức Giêsu đến bờ giếng vào “mười hai giờ trưa”, cái giờ nắng gắt chói chan, mà ai đã có lần đi viếng Đất Thánh đều phải sợ.

Lúc bấy giờ, “có một người phụ nữ Samari đến lấy nước. Đức Giêsu nói với người ấy : Chị cho tôi xin chút nước uống !” (Ga 4,7). Và chị ấy đã cho Đức Giêsu nước uống, bằng chứng là chị đã ngạc nhiên hỏi  Đức Giêsu : “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông uống nước sao ?” (Ga 4,9).

Nhưng chỉ sau một cuộc đối thoại ngắn, ở đó, Đức Giêsu nói với chị về nước hằng sống, mà Ngài sẽ ban cho, khi qủa quyết : “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,13-14), thì người cho trở thành người xin, khi chị nói với Đức Giêsu : “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát, và khỏi phải đến đây lấy nước nữa” (Ga 4,15).

Đến lúc này thì bên bờ giếng Giacóp hôm ấy, dưới cái nắng trưa làm khát cổ, cháy da, có hai người khát nước xin nhau nước uống :

  1. Đức Giêsu khát niềm tin của người phụ nữ Samari :

Gặp gỡ và ngỏ lời xin nước uống, Đức Giêsu đã đi vào đối thoại thân tình với người phụ nữ lận đận, vất vả trong đường tình duyên, gia đình, vì chị “đã năm đời chồng, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị” (Ga 4,18), để rồi khơi dậy trong chị ánh sáng sự thật, sự thật của đời chị, bởi niềm tin Thiên Chúa phải khởi đi từ sự thật của chính mình. Nói cách khác, người ta không thể tin Thiên Chúa, không thể đi vào tình yêu của Thiên Chúa, nếu không thật với chính mình, không dám nhìn nhận sự thật về mình, không can đảm đối diện với những gì “mình là, mình có”, bởi sự thật của “cái tôi” là nền tảng của niềm tin ở Thiên Chúa, nên sẽ không có niềm tin đích thực ở Thiên Chúa, bao lâu còn giấu diếm, che đậy sự thật của “cái tôi” ; sẽ không thể tin Chúa, nếu không dám tin mình, khi chấp nhận toàn bộ sự thật của mình, dù sư thật ấy có đen đúa, xơ xác, tiều tụy đến đâu.

Người phụ nữ đã thật với chính mình, để có thể nhận ra mình cần nước hằng sống, cần thứ nước của Đức Giêsu, mà “ai uống, sẽ không bao giờ khát nữa” (Ga 4,14). Nhờ nhận ra sự thật của mình, mà chị đã nhận ra : Đức Giêsu “thật là một ngôn sứ” (Ga 4,19), là “Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô” (x. Ga 4,25-26), và vấn nạn từ lâu làm trăn trở tâm hồn chị về Thiên Chúa đã được Đức Giêsu tháo gỡ : “Này chị, hãy tin tôi : đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem… Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4,21.23).

Đức Giêsu khát niềm tin, và Ngài đã nhận được nước uống của niềm tin nơi người phụ nữ Samari bên bờ giếng, khi “có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng : ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm” (Ga 4,39).

  1. Người phụ nữ Samari khát tình yêu đích thực:

Câu chuyện giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp thật thân tình, dễ thương, và đầy tin tưởng  giữa hai người. Nhờ bầu khí thân thiện, ân tình và tương kính này, mà người phụ nữ với nhiều mặc cảm vì tình duyên và đời vợ chồng trắc trở mới có thể trút bỏ tâm sự thầm kín, và thao thức, khắc khoải với Đức Giêsu, người đàn ông Do Thái đã dám xin nước chị là người phụ nữ Samari bị coi là thù nghịch.

Khi chia sẻ, tâm sự với Đức Giêsu về nỗi trống vắng của tâm hồn, không chỉ là trống vắng tình yêu, hạnh phúc, mà còn là trống vắng của niềm tin, trống vắng lý tưởng sống, trống vắng lẽ sống, người phụ nữ Samari đã gặp được Đấng làm cho chị khỏi khát nữa, khi ban cho chị nước hằng sống là Ân Huệ của Thiên Chúa, khi nói với chị : “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chi : ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4,10). Và chị ấy đã xin và đã nhận được Tình Yêu, Hạnh Phúc, và Bình An của Đấng Cứu Thế, khi chị tin vào lời Đức Giêsu nói với chị : “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây” (Ga 4,26), và khi chị “để vò nước lại, vào thành và nói với người ta : Đến mà xem : có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao ?” (Ga 4,29).

Vâng, người phụ nữ Samari đã khát tình yêu, và chị đã gặp được Tình Yêu đích thực, đời đời là chính Thiên Chúa ở Đức Giêsu Kitô, Đấng đã làm bước chân thứ nhất đến với chị, và mở lời đầu tiên “xin chị nước uống”, vì yêu chị và không muốn chị phải khát nữa, bởi chỉ Tình Yêu Thiên Chúa mới làm “đã khát” cơn khát tình yêu trong chị ; chỉ Tình Yêu Đức Giêsu mới cho chị Nước Hằng Sống để trái tim chị từ nay không bao giờ phải khát nữa.

Qủa thực, như dân Do Thái xưa trong cơn khát giữa sa mạc nắng cháy đã nghi ngờ tình thương của Đức Chúa Giavê và bị qửơ trách : “Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơriva, như ngày ở Maxa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm” (Tv 94,8-9), chúng ta trong cơn khát ơn sủng, cũng có thể rơi vào những cám đỗ đủ loại dẫn đến nguy cơ đánh mất sự sống đời đời.

Và Mùa Chay chính là cơ hội làm sống lại tinh thần và sức sống của Bí Tích Rửa Tội, ở đó chúng ta nhận được nguồn sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chỉ một điều kiện Thiên Chúa đòi để được nhận Nước Hằng Sống, để không còn phải khát và “chết vì khát”, đó là sống thật với chính mình và với Thiên Chúa. Đây là chià khóa mở cửa tâm hồn, cởi trói trái tim để “Thiên Chúa đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5).

Về mục lục

TÂM TƯ KẺ KHÁT NƯỚC

Maria Nguyễn

Trưa đã muộn, mọi người đã về nhà để tránh cái nóng đang sôi sục như muốn thiêu đốt cả vùng trời Samari. Sao năm nay nắng thế! Không biết bên mấy vùng trời kia thời tiết có gay gắt như thế này không? Vừa lẩm bẩm, chị vừa kéo vội tấm khăn che mặt và cầm chiếc bình đi lấy nước. Chị ra giếng lúc người ta đã về hết, chị đi lúc mọi người đã nghỉ ngơi. Không phải chị không muốn đi sớm nhưng chị sợ phải gặp nhiều người, sợ đám đông, sợ những cái nhìn lạnh lùng… Vì chị vẫn cần nước để sống nên chị vẫn phải đối diện với những nỗi sợ khi đi lấy nước. Chị tự nhủ thầm rằng: “Thôi thì đi lúc vắng vẻ nhất!” Mỗi ngày, người ta đều thấy chị đi lấy nước vào buổi trưa. Nhìn biểu hiện bên ngoài của chị thì chắc chả mấy ai bận tâm, nhưng đằng sau sự bình thường đó là cả một nỗi lòng dài không ai thấu.

Giữa những gian nan, cô đơn, khổ cực, tủi nhục chị luôn chỉ có một mình. Chị không hề thanh minh về cuộc sống của mình. Dường như, chị đã quá đau đớn, quá long đong với những thăng trầm của cuộc đời nên chị cứ để vậy, không muốn vươn lên nhưng cũng không có nghĩa là không còn muốn sống. Chị vẫn đi lấy nước mỗi ngày vào trưa nắng. Chị cần có nó để duy trì sự sống, dù cuộc sống của chị cũng gay gắt như ánh nắng mặt trời mỗi trưa chị đi lấy nước vậy. Nó làm cho chị ngày càng khép lại sau những tổn thương. Chị tưởng mình đã có tất cả. Nhưng thật ra, chị chẳng có gì. Những gì chị có chỉ là tạm bợ, nó làm cho chị tan nát và hối hận. Chị không biết cuộc đời mình rồi sẽ ra sao, sẽ như thế nào. Sống ngày nào hay ngày đó! Chị vẫn đi lấy nước mỗi trưa, vẫn đầy những mặc cảm và xấu hổ, cùng tâm trạng luôn thấy mình thấp kém. Đã có lúc, chị muốn đến trò chuyện với những người xung quanh, với mấy chị, mấy cô và cả đám nhỏ nữa… nhưng tự chị thấy có những ngăn cách khi muốn đến với mọi người. Những ngăn cách đến từ đâu? Phải chăng là từ chị, từ cuộc đời chẳng mấy tươi sáng của chị, hay là từ những thành kiến do những chuẩn mực rập khuôn đã khiến mọi người xa lánh chị. Đau khổ quá! Sống giữa cộng đồng mà chỉ có một mình, chị đi từ cái khát thể lý đến cơn khát tương quan.

Hôm nay, nắng thật gắt. Chị đi cho nhanh kẻo về trễ quá trời sẽ thiêu chị trong cái nắng như đổ lửa này. Bất chợt, chị không muốn tới giếng vì thấy có bóng người. Ai như một người đàn ông, và ông ta lại là người Do Thái thì phải. Thôi kệ! Nếu người quen có gặp cũng chẳng ai muốn nói với chị nửa lời thì huống gì người lạ. Việc ai người ấy lo. Chị đến bên giếng múc được vò nước, đang ngồi nghỉ để lấy sức đi về thì người lạ bắt chuyện với chị. Chị ngạc nhiên quá sức. Đây là lần đầu tiên chị được hỏi chuyện. Kể từ khi người ta biết về cuộc sống của chị, chưa hề có ai chủ động đến với chị trước. Chị sống giữa cộng đồng nhưng lại bị người ta coi thường, bị cô lập trong chính những đau khổ mà chỉ mình chị mới cảm thấu. Được hỏi chuyện, chị như nhận ra rằng mình vẫn đang sống và chị cần có những tương quan trong cuộc sống. Điều đó từ lâu chị đã chẳng có được.

Chị đi từ bất ngờ đến sửng sốt, vì một người Do Thái đang nói chuyện với chị. Ông bỏ qua cái định kiến hàng bao nhiêu thế kỷ qua về người Do Thái và người Samari, để nhìn chị như một con người theo đúng những gì mà chị cần được nhìn. Dù là người Do Thái hay người Samari, ai cũng tự cho bên mình là đúng, là tốt hơn. Chính định kiến ấy đã chia rẽ những con người đang cùng tìm kiếm và tôn thờ Thượng Đế. Nhưng giờ đây, cái nhìn chị đang nhận được là cái nhìn không một chút đánh giá, bình phẩm, chê bai, không dựa trên những quy chuẩn mà con người ta đặt ra cho nhau. Người lạ mặt xin nước để uống. Người lạ và cách ứng xử cũng khác lạ. Thật quá lạ lùng! Chị không sao hiểu được những gì đang xảy ra nơi bờ giếng này. Chị thấy mình đang được đón nhận. Thì ra, khi được trao ban một chút gì đó, dù chỉ là một ly nước thì cũng khiến cho con người ta cảm thấy mình thật  có giá  trị. Vẫn còn có người đón nhận chị và nhìn chị như chị là chứ không như những gì chị làm. Người này đã không e ngại khi đến với chị. Ông ta cho chị cái mà chị thực sự cần. Chị cần tình thương hơn là sự xa lánh, cần thông cảm hơn là oán trách và loại trừ, để có thể vươn lên khỏi những trói buộc và nghịch cảnh của cuộc sống. Cả một cộng đồng không có ai dành cho chị điều tưởng chừng như đơn giản đó. Hôm nay, chị đã nhận được điều đó, điều làm cho chị thấy cuộc sống của chị không chỉ là cần đi lấy nước ở giếng mỗi ngày để rồi lại khát, nhưng còn là cần mở lòng đón lấy một điều làm cho tâm hồn chị không còn khát nữa. Từ một người cho nước, chị trở nên người được no thỏa cơn khát bằng chính tình thương mến mà chị nhận được nơi Đấng mà chị nhìn nhận rằng: “Ông thật là một ngôn sứ”. Đấng mà chị đã gặp, đã thấy, chính Người đã gột rửa tâm hồn và làm bừng lên trong chị điều mà trước đây chị chưa bao giờ dám nghĩ tới. Chị bỏ vò nước lại cùng với thứ nước làm đã không xoa dịu được cơn khát của chị mà còn làm cho chị thêm bao đau khổ, đắng cay. Giờ đây, chị đã có thứ nước làm cho chị không bao giờ khát nữa, thứ nước làm cho chị sống thực sự, thứ nước đó là chính Đấng Kitô.

Lạy Chúa! Xin cho con cũng được gặp Chúa và để con cũng cảm nhận được cái nhìn đầy mến thương của Chúa dành cho con. Cái nhìn đã cho con nhận thấy con thực sự được Chúa yêu thương và từ đó con cũng dành cho tất cả những anh chị em tình mến thương của Chúa. Một tình mến giúp con nhìn tha nhân như những gì họ là chứ không như họ làm và gạt bỏ đi mọi thành kiến cố hữu đang ngăn cách chúng con. Mạch nước mà Chúa ban cho con chính là mạch nước tình yêu và chỉ có tình yêu mới làm cho con thực sự sống và sống dồi dào. 

Về mục lục

NƯỚC TRONG TÂM HỒN

Bông hổng nhỏ

Ai trong chúng ta cũng đã từng trải qua cơn khát. Giữa trưa hè nóng nực, đi đường mỏi mệt, chúng ta thèm một ly nước mát cho thỏa lòng, cho quên đi mỏi mệt. Có một cơn khát của tâm hồn còn mãnh liệt hơn cơn khát của thể lý. Tâm hồn chúng ta đang khao khát điều gì?

Thầy Giêsu vừa đi đường mỏi mệt, lúc ấy vào khoảng mười hai giờ trưa, Người ngồi ngay xuống bờ giếng Giacóp để nghỉ chân. Các môn đệ đã vào thành tìm mua thức ăn, chỉ còn một mình Thầy ngồi lại bên bờ giếng. Họng khát khô nhưng Người chẳng có gầu để múc lấy một giọt nước. Người chờ đợi một ai đó có thể cho Người chút nước hay Người cố tình chờ sẵn ở đây, vì biết rằng, có một tâm hồn đang khao khát Nước Hằng Sống?

Thấp thoáng một người phụ nữ đang tiến lại, tay chị cầm vò và cả gầu để múc nước. Chị là một phụ nữ Samari. Khuôn mặt chị sắc sảo nhưng lại phảng phất một chút gì đó lo âu. Tại sao chị lại chọn lấy nước vào lúc giữa trưa, lúc mà mọi người đã về nhà để nghỉ ngơi, để tránh cái nắng nóng đến rát mặt? Thầy Giêsu ngỏ lời với chị: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” (Ga 4, 7). Thầy ngỏ lời xin chị chút nước vì chính Thầy đang khát khô cả họng. Thầy chẳng ngần ngại xin chị nước, chẳng ngần ngại mở đầu câu chuyện với một phụ nữ Samari. Thầy chẳng khinh miệt chị nhưng trò chuyện với chị như một người bình thường.

Thầy Giêsu nói với chị về nước hằng sống mà chính Người sẽ ban cho. Nước ấy sẽ làm cho muôn người không bao giờ khát nữa và nước ấy cũng sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời (x. Ga 4, 10-14). Lời giới thiệu của Thầy Giêsu đã thuyết phục chị, chị thưa rằng: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (Ga 4, 15). Thầy nói với chị về cuộc đời của chị bằng nỗi cảm thông sâu sắc. Thầy dẫn chị đến những khám phá mới về việc thờ phượng Thiên Chúa và cả khám phá về chính con người của chị, về nỗi khát khao ẩn giấu trong tâm hồn. Thầy Giêsu đã phá tan rào cản của tôn giáo, của sự khinh miệt bao đời giữa người Do Thái và người Samari. Khi đã bày tỏ những băn khoăn của mình về việc thờ phượng Thiên Chúa, chị cũng đã từng bước bày tỏ cho Thầy Giêsu về chính tâm hồn mình. Chính khi gặp gỡ Thầy Giêsu, người ta cũng sẽ tìm thấy một lối đường để bước đến cùng Thiên Chúa, tìm thấy một niềm hy vọng để sống dồi dào hơn, và người ta cũng sẽ tìm gặp chính mình.

Hằng ngày, Thầy Giêsu cũng ngỏ lời với từng người chúng ta. Người ngỏ lời xin chúng ta cho Người chút nước. Thầy đã xin ta chút nước, để chính khi ta cho Người chút nước, ta cũng bày tỏ với Người nỗi khát khao cháy bỏng trong tâm hồn ta. Khi trao ban “một chút nước” là những gì ta có cho những người anh chị em, ta đã trao cho chính Người chút nước quý báu của tâm hồn mình.

Ai là những người thờ phượng đích thật mà Chúa Cha đang tìm kiếm? Đó là những ai biết tìm kiếm thánh ý Người trong cầu nguyện và cả trong chính cuộc sống thường ngày của họ, trong những lúc cuộc đời đầy thử thách. Một đời sống gắn bó mật thiết với Chúa chắc hẳn sẽ mang lại nơi tâm hồn ta một mạch nước dồi dào của tình yêu và lòng tha thứ, để chính trong nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn ta, mạch nước ấy vọt lên và mang đến cho những anh chị em ta gặp gỡ một thứ nước mát lành của tâm hồn tràn đầy tình yêu.

Lạy Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống. Xin Chúa ban tràn đầy Thánh Thần tình yêu trên chúng con, để mỗi ngày, chúng con biết thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật; để chính khi được Lời Chúa biến đổi, cuộc đời chúng con cũng chứa đựng mạch nước tình yêu là chính Chúa, để trao ban tình yêu ấy đến với những ai chúng con gặp gỡ. Ước gì Lời Chúa trở thành lương thực mỗi ngày cho cuộc đời chúng con. Xin Chúa dạy chúng con biết để vò nước là những gì chúng con có và đang tìm kiếm lại dưới chân Chúa, để hân hoan ra đi loan Tin Mừng cho anh chị em. Niềm vui là khi những người con gặp gỡ, chính họ cũng nhận được một món quà vô giá hơn từ Chúa: “Không phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian (Ga 4, 42). Amen.

Về mục lục

KHÁT KHAO BÊN TRONG

Anna Cỏ may

Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi người chúng ta có nhiều điều khao khát, có thể khao khát có một chai nước mát, khao khát tìm được một công việc hay khao khát có bữa ăn ngon… Cái khát đó không bao giờ dừng lại. Khi tìm được một công việc, chúng ta lại mong muốn được lên chức hay tăng lương. Cứ như thế, chúng ta luôn ở trong tình trạng khát. Đó là cái khát bên ngoài. Còn trong sâu thẳm tâm hồn, chúng ta có đang khao khát điều gì chăng?

Người phụ nữ Samari lấy nước bên giếng Giacóp, sau khi trò chuyện và nghe Chúa Giêsu nói về thứ nước uống không bao giờ khát nữa. Chị đã xin Chúa Giêsu rằng: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước. Chúa Giêsu bảo chị ấy: “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây.” Người phụ nữ đáp: “Tôi không có chồng”. Chúa Giêsu bảo: “Chị nói: ‘Tôi không có chồng’ là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị nói đúng.” (Ga 4,15-18) Chúa Giêsu không vô tình nói đến cuộc sống riêng tư của người phụ nữ, nhưng Ngài muốn thức tỉnh và khơi gợi niềm khao khát thật sự bên trong của chị. Chị đang khao khát một cái gì cao siêu hơn, không phải là nước uống vật chất, không phải là tình thương nhục dục, khao khát của chị là ơn cứu độ, khao khát được gặp Đấng Thiên sai. Chị đã nói ra sự khao khát thật bên trong tâm hồn, chị nói: “Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. Chúa Giêsu nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây” (Ga 4,25-26). Nghe lời ấy xong, chị đã để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” (Ga 4,29). Con đường đức tin của chị đã bắt đầu. Chị đón nhận lời Chúa Giêsu và trở thành chứng nhân cho Ngài, chị chạy về làng kêu mời mọi người đến gặp Chúa Giêsu. Chị thật sự đã uống nước không bao giờ khát nữa và trở thành một người có mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời cho chính mình và cho người khác, đó là mạch nước đức tin (x. Ga 4,14).

Qua người phụ nữ Samari, chúng ta có thể nhìn lại chính mình: tâm hồn tôi đang khao khát điều gì? Tôi đã gặp Chúa như thế nào? Tôi có tin vào Chúa Giêsu, tin Ngài là Đấng đem lại sự sống cho mọi người khi cơn dịch vẫn còn đó? Vâng, Chúa Giêsu, Đấng có thể dùng những tật xấu hay những tội lỗi của chúng ta để thức tỉnh và mời gọi chúng ta trở về với Chúa Cha. Đấng ban nguồn mạch nước là chính Ngài, để chúng ta được sống và sống dồi dào, không bao giờ khát nữa.

Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con nhìn thấy tình trạng của tâm hồn mình, cảm nhận cơn khát bên trong tâm hồn. Nhờ đó, chúng con biết chạy đến và kêu xin với Ngài, để được hưởng sự sống đời đời. Amen.

Về mục lục

GIẾNG NƯỚC ĐẦU LÀNG

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Trong truyền thống Kinh Thánh, cái giếng đã là nơi khởi đầu của nhiều cuộc tình duyên. Vậy “cái giếng Xykha” gợi nhớ đến cuộc “tình duyên” nào? Trong Cựu Ước, Israel thường được giới thiệu là hôn thê của Đức Chúa. Israel-hôn thê thường thất trung, ngoại tình với các thần Ai Cập, Átsua, Babylon, Ba Tư, Rôma. Câu truyện người phụ nữ Samari hẳn là câu truyện của dân Israel mà Đức Giêsu đến gặp và muốn dẫn về với Đức Chúa. Hơn nữa, Tin Mừng IV còn giới thiệu Đức Giêsu như chàng rễ và nhân loại như một hôn thê tội lỗi, mà Người đến để đưa về sống trung thành. (Lm. FX. Vũ Phan Long).

Sách Sáng thế kể chuyện Abraham chọn vợ cho trai Isaac. Abraham sai người lão bộc lên đường đến xứ Aram Naharaim, đến thành của Nakhor. Lão bộc cho lạc đà phục xuống bên ngoài thành, bên giếng nước đầu làng, vào lúc xế chiều, lúc phụ nữ ra kín nước. Rêbecca đi ra, cô gái nhan sắc tuyệt đẹp. Cô múc nước đầy vò. Lão bộc chạy lại đón cô và nói: Làm ơn cho tôi uống ngụm nước nơi vò của cô. Cô đáp: Xin ông uống. Rồi cô lanh chai hạ vò xuống và cho ông uống. Cho lão uống xong, cô nói: tôi sẽ kín nước cho lạc đà của ông nữa cho đến khi nào chúng uống xong. Rồi cô lanh chai đổ vò nước vào máng và còn chạy tới giếng để múc nước và cô đã cho cả mấy con lạc đà uống…Sau đó, lão bộc đưa Rebecca về. Isaac tổ chức tiệc cưới với Rêbecca. Dòng dõi Israel lớn mạnh từ đó. (x.St 24,10-21).

Tin mừng hôm nay kể về cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu với một người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacop. Nơi đây như “Giếng nước đầu làng Samari”, người phụ nữ tin vào Ngài và dân làng Samari tin vào Đức Giêsu Đấng Cứu Độ.

Sau một hành trình dài, Đức Giêsu và các môn đệ ngồi nghỉ tại bờ giếng Giacop, thuộc miền Samari. Có một phụ nữ Samari đến múc nước. Đức Giêsu chủ động khởi đầu câu chuyện bằng việc xin nước uống: Chị cho tôi xin chút nước. Người phụ nữ Samari lúc đầu chỉ hiểu người đàn ông xa lạ này xin nước múc lên từ giếng sâu. Nhưng Đức Giêsu đã khiến cho chị đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác khi nói với chị: Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: Cho tôi xin chút nước, thì hẳn chị đã xin người ấy ban cho chị nước hằng sống. Đức Giêsu bắt đầu bằng việc uống nước để nói về một nguồn nước đặc biệt hơn đó là Nước Hằng Sống. Nguồn nước do chính Ngài đem đến cho trần gian, có sức thanh tẩy tâm hồn con người và đem đến cho con người sự sống đời đời. Nguồn nước này sẽ được ban tặng nhưng không, cho những ai được Thiên Chúa ban ơn để tin vào Đức Giêsu.

Qua cuộc gặp gỡ bên bờ giếng Giacop, chúng ta nhận ra cả một khoa sư phạm Đức Giêsu đã vận dụng để đưa người phụ nữ đến đức tin. Trước tiên, Ngài khơi lên sự tò mò để chị tìm hiểu, qua việc nhắc đến một công việc tầm thường làm mỗi ngày, là đến giếng kín nước để giải tỏa cơn khát thể lý. Từ đó, Ngài gợi đến một thực tại khác là Nước Hằng Sống: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”. Đến đây chính chị xin Đức Giêsu uống nước: “Thưa Ngài, xin cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước”. Như vậy, Đức Giêsu đã mạc khải cho chị biết, chính Ngài là Đấng Kitô. Cho nên không phải ai khác, mà chính Ngài là người ban cho chị Nước Hằng Sống. Rồi Ngài còn mạc khải cho chị về việc tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý: “Đã đến giờ và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý. Đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn”. Sau khi chị được Đức Giêsu “cho uống nước hằng sống” liền chạy về làng và kêu gọi mọi người: “Mau hãy đến xem, có một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng ông ấy là Ðấng Kitô?”. Dân chúng tuôn nhau ra khỏi thành và đến cùng Ngài. Được Đức Giêsu chấp nhận ở lại với họ, dân làng Samari đã nhìn nhận Ngài như là “Đấng Cứu độ trần gian”, như là Đấng đã được Chúa Cha ban vì lòng yêu thương và được sai phái đến để cứu độ trần gian. Nay họ tin là nhờ chính tương quan trực tiếp với Đức Giêsu chứ không dựa vào lời chứng của người phụ nữ nữa. Lời chứng ấy đưa họ đến chỗ nghe Đức Giêsu để đào sâu đức tin, và bây giờ đức tin đó có thể thực sự bắt đầu triển nở.

Bên giếng nước Giacóp, “giếng nước đầu làng” cuộc gặp gỡ đã làm thay đổi cuộc đời con người và cả dân làng Samari.

1- Giếng nước, những lợi ích tự nhiên

Giếng nước đầu làng là một hình ảnh quá quen thuộc, đến nỗi nó trở nên gần gũi, thân thiết như của riêng mình, trải qua thế hệ này đến thế hệ khác mà không ai cần biết nó có tự bao giờ. Tuy nhiên có thể khẳng định rằng, nó được hình thành từ lúc những người đầu tiên dừng bước trên mảnh đất mà sau này gọi là “làng” hay “thôn”. Vì nước là một nhu cầu không thể thiếu đối với đời sống của con người cũng như của mọi tạo vật khác.Vì vậy, giếng nước chẳng những là nơi cung cấp nước cho người dân trong làng, mà còn là nơi gặp gỡ để trò chuyện, để trao đổi tâm tình mỗi khi người ta ra đó để kín nước mang về nhà. Nó cũng còn là nơi dừng chân của khách bộ hành đi đường xa mỏi mệt vì bên cạnh giếng là cây đa cổ thụ có bóng che mát cho khách. Khát nước, khách có thể xuống giếng vốc nước bằng hai bàn tay chụm lại, hoặc lấy nón lá múc nước mà uống thỏa thuê, an lành. Giếng nước là một không gian đáp ứng hai nhu cầu của con người : vừa là nơi gặp gỡ thân tình, vừa là nơi cung cấp nước uống cho nhu cầu thể chất và cũng còn là nơi dừng chân của khách bộ hành qua đường, đồng thời còn là nơi nhắc nhở người ta nhớ đến cội nguồn sâu thẳm và thiêng liêng.

2- Giáo xứ, những lợi ích siêu nhiên

Nhu cầu thứ hai của con người là đời sống thiêng liêng. Giáo xứ là giếng nước đầu làng. Ví von này thật gần gũi và giàu ý nghĩa. Dân trong thôn làng luôn đến giếng múc nước. Cũng thế, giáo dân luôn liên đới với cộng đoàn giáo xứ, nơi đây là “giếng nước” mầu nhiệm chan chứa ân sủng từ nguồn mạch sự sống Thiên Chúa.

Nhà thờ giáo xứ là “Nhà thờ phượng”, “Nhà cầu nguyện”, nơi người tín hữu đến đó hằng ngày để lãnh nhận thánh ân, rồi vào đời chia sẻ và sống chứng nhân.

Cái giếng nước đầu làng, ngoài những lợi ích nhân bản và tự nhiên, nó còn nhắc nhở người ta “uống nước nhớ nguồn”. Nguồn ở đây vừa hiểu là nơi phát sinh mạch nước, tuôn chảy về giếng, vừa hướng về những bậc tiền nhân trong làng đã khơi dòng nước này cho các thế hệ hậu sinh. Còn giáo xứ, các Linh mục cai quản ở đây, làm sao để người tín hữu sống mầu nhiệm đức tin, giúp họ thăng tiến về nhân cách của những người tin, và nhất là mỗi ngày người ta thấy mình đã tiến triển trong tình huynh đệ, tiến triển trên đường kết hiệp với mầu nhiệm thánh giá và phục sinh (x. Giếng nước đầu làng, Khải Triều).

  1. Bốn hình ảnh Giáo xứ

Thánh Gioan Phaolô II trong Tông Huấn “Người Kitô hữu giáo dân” đã đưa ra bốn hình ảnh về giáo xứ, cộng đoàn Phục Sinh, cộng đoàn Thánh Thể.

Giáo xứ là một gia đình của Thiên Chúa chan hoà tình bác ái huynh đệ. Mọi người được đón tiếp chân thành, được sống trong bầu khí bác ái, được cảm thấy mình được kính trọng, được yêu thương che chở. Ai cũng cảm thấy mình thuộc về giáo xứ là một vinh dự.

Giáo xứ là một cộng đoàn nuôi dưỡng đức tinMọi người được bồi dưỡng đức tin, được kêu gọi sống đức tin, được giúp hiểu biết các vấn đề đức tin. Các Thánh lễ, các giờ giao lý, các buổi cầu nguyện luôn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Lời Chúa và lời Giáo hội soi sáng mà người tín hưũ hiểu biết về những biến cố cuộc đời.

Giáo xứ là một cộng đoàn có tổ chức. Mọi người được sắp xếp trong một hệ thống trật tự, có phân công, có trách nhiệm.Tất cả liên hệ với nhau trong tinh thần hiệp thông, cộng tác, trách nhiệm để xây dựng giáo xứ tốt đẹp.

Giáo xứ là một cộng đoàn truyền giáo. Đây là hình ảnh mà Công Đồng Vatian II đề cao nhất, hình ảnh cộng đoàn truyền giáo. Mọi người được nuôi dưỡng đức tin, được sống tình bác ái để ra đi truyền giáo, loan báo Tin Mừng Phục Sinh, rao truyền niềm vui, niềm hy vọng như cộng đoàn Nhóm Mười Hai đã ra đi đến với muôn dân.

Giáo xứ vững mạnh thì luôn hướng đến việc huấn luyện đào tạo những con người phục vụ.

Ở nhà thờ, các tín hữu được nghe được học được thấm nhuần chân lý đức tin đặt nền trên Thánh kinh. Chân lý có tính cứu độ, thánh hoá, sáng tạo, giúp con người có tinh thần trách nhiệm cao, có lương tâm nhạy bén trước sự lành sự xấu, có khát vọng đi sâu đi xa vào các giá trị xây dựng và phát triển con người xã hội. Từ đó họ sẽ trở thành người phục vụ cho chân lý.

Ở nhà thờ, các tín hữu đón nhận sự sống thiêng liêng. Sự sống này rất dồi dào phong phú làm cho họ nên giống hình ảnh Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Với sự sống này, người tín hữu không chỉ sống cho mình mà còn sống cho người khác, dám sinh sinh cho người khác. Từ đó, họ trở thành người phục vụ sự sống.

Ở nhà thờ, các tín hữu được chia sẻ tình yêu thương của mọi người trong Hội Thánh. Chia sẻ là cho đi và đón nhận. Tình chia sẻ này được xây dựng trên sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ đó, họ trở thành người phục vụ cho tình hiệp thông.

Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và các Tông đồ đã làm thay đổi số phận của những con người lênh đênh trên biển hồ ngày trước. Cuộc gặp gỡ ấy là khởi đầu cho công cuộc thay đổi thế giới và làm nên những huyền diệu trong lịch sử nhân loại.

Bên bờ giếng Giacop, người phụ nữ Samaria gặp Đức Giêsu, cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời chị và dân làng Samaria đã tin Ngài như là “Đấng Cứu độ trần gian”.

Giáo xứ “giếng nước đầu làng”, nơi người tín hữu hàng ngày đến gặp Đức Kitô Đấng Cứu Độ, nhờ đó họ trở thành con người mới, với trái tim mới, sống yêu thương và hy sinh phục vụ.

Xin cho mỗi tín hữu được gặp Chúa mỗi ngày trong suốt cuộc đời của mình. Amen.

Về mục lục

CHÚA GIÊSU LÀ MẠCH NƯỚC BAN SỰ SỐNG

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Năm nay Miền Tây của chúng ta đang thiếu nước ngọt trầm trọng. Nhiều năm qua Miền Tây hầu như không còn lũ về, điều này ảnh hưởng không chỉ môi trường, mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến mùa màng, đời sống của người dân. Năm nay tình trạng thê thảm hơn, do nắng hạn kéo dài, lượng mưa ít, do Trung Quốc và một số quốc gia ở thượng nguồn xây nhiều thuỷ điện trữ nước, khiến cho toàn đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam thiếu nước ngọt trầm trọng. Trong những ngày qua, nước mặn từ biển đã xâm nhập sâu vào đất liền, các dòng sông bị nước mặn tràn ngược vào, khiến cho cây cối, lúa mạ đều chết vì không chịu nổi nước mặn. Các nhà khoa học dự báo chỉ trong thời gian ngắn nữa thôi, đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ngập mặn hoàn toàn, các vườn cây ăn trái và lúa sẽ chết. Nếu điều này xảy ra, sẽ là một thảm hoạ cho cả nước vì Miền Tây là nơi cung cấp phần lớn gạo và trái cây trên toàn quốc. Qua sự kiện này, chúng ta thấy nguồn nước và sự sống gắn liền với nhau: Nơi nào không có nguồn nước, nơi đó trở thành sa mạc, thành vùng đất chết; nơi nào có nguồn nước, nơi đó có sự sống.

Các bài đọc Chúa Nhật III mùa chay cho chúng ta thấy, Thiên Chúa chính là nguồn, là mạch nước đem lại sự sống cho linh hồn và thân xác con người và vũ trụ. Bài đọc một kể lại câu chuyện thời Xuất Hành, qua Môsê, Thiên Chúa đã cho mạch nước từ tảng đá vọt ra cứu sống dân Do Thái. Câu chuyện này là hình ảnh báo trước việc Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại nguồn nước đem lại sự sống đời đời sau này qua Đức Giêsu. Câu chuyện cho thấy, mặc dù dân Do Thái đã chứng kiến bao phép lạ lẫy lừng Thiên Chúa đã thực hiện tại Ai Cập để buộc vua Pharaô phải thả cho dân Do Thái ra đi, nhưng họ vẫn không tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Kế đến là Thiên Chúa đã dùng quyền năng của Ngài để đưa dân vượt qua Biển Đỏ khô chân và người Do Thái đã chứng kiến việc Thiên Chúa để cho Biển Đỏ vùi lấp quân binh của người Ai Cập đang đuổi theo họ. Khi thiếu thức ăn trong sa mạc, Thiên Chúa đã cho mana từ trời rơi xuống nuôi họ suốt bốn mươi năm. Họ đói, Chúa nuôi bằng bánh bởi trời; họ thèm thịt, Chúa cho họ ăn thịt đến chán. Chứng kiến các phép lạ phi thường như thế, nhưng dường như người Do Thái vẫn hồ nghi vào sự tín trung và quyền năng của Thiên Chúa.

Câu chuyện tại Mêriba hôm nay, một lần nữa lại cho thấy sự cứng đầu của dân Do Thái trước quyền năng của Thiên Chúa. Đi trong sa mạc, dân Do Thái khát nước, họ quay lại kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê: “Có phải ông đưa chúng tôi và đàn vật vào trong hoang địa để chúng tôi chết khát ở nơi này hay không?”. Nhiều lần dân chúng phản loạn như thế và cũng đã có lần Thiên Chúa muốn bỏ mặc họ, thậm chí muốn tiệu diệt họ để làm nên một dân khác, nhưng Thiên Chúa đã không làm như vậy. Trong nỗi khổ tâm, ông Môsê thưa cùng Chúa: “Con phải làm gì cho dân này bây giờ, chỉ chút nữa là chúng ném đá con rồi! Thiên Chúa đã truyền cho ông Môsê lấy cây gậy đập lên tảng đá.” Ông đã làm như thế trước mặt các kỳ mục và toàn dân Israel. Thiên Chúa đã cho nước từ tảng đá ấy chảy ra cứu sống dân Israel và đàn vật của họ. Nguồn nước từ tảng đá trong sa mạc trở thành nguồn sống cho dân Israel.

Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mạc khải cho thấy Ngài chính là mạch nước thoả mãn mọi khát khao trong tâm hồn và là mạch nước đem lại sự sống đời đời cho những ai tin và đón nhận Người. Câu chuyện Chúa Giêsu gặp người phụ nữ tại bờ giếng Giacop được thánh Gioan cảm nhận như là việc Chúa khơi gợi và huấn luyện đức tin cho người phụ nữ cùng ban ơn biến đổi cho chị. Câu chuyện kể lại: Lúc Chúa Giêsu đang ngồi nghỉ chân tại bờ giếng, thì có một người phụ nữ Samaria đến múc nước. Đức Giêsu đã ngỏ lời với chị: “Chị cho tôi xin chút nước uống.” Việc này làm cho người phụ nữ ngạc nhiên vì thông thường người Do Thái và người Samarian không bao giờ trò chuyện với nhau. Người Do Thái cho rằng tiếp xúc với người Samaria như vậy là ô uế, nhưng ở đây Chúa Giêsu lại mở lời trước và còn xin chị nước uống.

Chúa đã gây cho chị bất ngờ khác khi Chúa nói với chị: “Nếu chị nhận ra ân huệ Chúa ban và ai là người nói với chị: ‘cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin người ấy ban cho chị nước hằng sống.” Chắc chắn người phụ nữ này chưa biết Chúa Giêsu là ai và cũng chưa thể hiểu ‘nước hằng sống’ là gì, chị chỉ nghĩ đến nước dưới giếng mà thôi. Chị tự hào vì ông Giacop đã để lại cho con cháu một cái giếng có thể giải khát, cứu sống biết bao thế hệ và đàn vật của họ. Chúa Giêsu đã mở ra cho chị một cái nhìn siêu nhiên hơn khi nói với chị: “Ai uống nước này sẽ còn khát. Ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời.”

Mặc dù chưa hiểu hết, nhưng người phụ nữ này đã thể hiện sự khiêm tốn của mình và mở lời: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” Chúa Giêsu đã chỉ cho thấy chị đang bị dày vò bởi cơn khát khác, đó là cơn khát của dục vọng. Ngài nói với chị: “hãy về gọi chồng chị, rồi trở lại đây.” Chị đáp: “Tôi không có chồng.” Chúa Giêsu chỉ cho chị thấy cuộc sống chung của chị với năm đời chồng là một cản trở khiến chị không thể đón nhận được nước hằng sống và nó còn làm cho chị khát mãi.

Sau khi nói với chị về nước hằng sống và giúp người phụ nữ này nhìn lại thực trạng cuộc sống của mình, người phụ nữ này đã đi đến một niềm tin, chị thưa rằng: “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ, cha ông chúng tôi đã thờ phượng trên núi này.” Nhận thấy chị đã mở lòng để đón nhận đức tin, Chúa Giêsu đã mạc khải cho chị về chính Ngài và về việc thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực: “Thiên Chúa là thần khí; và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật. Người phụ nữ thưa: Tôi biết Đấng Mêsia gọi là Đức Kitô sẽ đến…Chúa Giêsu đáp: Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.” Người phụ nữ đã được biến đổi, chị chạy về báo tin cho dân làng: “Đến mà xem, có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” Dân chúng kéo đến gặp Chúa Giêsu và đã tin Ngài. Người phụ nữ Samaria đã đón nhận được nguồn nước sự sống của Chúa Giêsu, Ngài đã giải thoát chị khỏi cơn khát của dục vọng và những ham muốn thế trần và làm cho tâm hồn chị được tái sinh. Chúa Giêsu cũng làm cho nguồn nước mà chị đã đón nhận lại tiếp tục tuôn tràn sức sống đến nhiều người khác nữa.

Thưa quý OBACE, qua câu chuyện trong bài Tin Mừng cho thấy, nước hằng sống mà Chúa Giêsu đem đến cho nhân loại, là mạch nước cải tử hoàn sinh, đem lại sức sống cho những ai khao khát và mở lòng ra đón nhận. Mạch nước này, qua những người đón nhận, còn có sức lan toả đến những tâm hồn thành tâm thiện chí khao khát tìm kiếm Chúa. Mạch nước ban sự sống của Chúa Giêsu chính là mạch nước đã chảy ra từ cạnh sườn của Chúa bị đâm thâu trên thánh giá. Máu và nước chảy ra từ cạnh sườn của Chúa có sức thanh tẩy chúng ta sạch tội lỗi, biến chúng ta nên con người mới và ban cho chúng ta sự sống trường sinh, hạnh phúc đời đời.

Qua dòng nước của Bí Tích Rửa tội, chính Chúa Giêsu đã thanh tẩy chúng ta, làm cho chúng ta nên tạo vật mới và nhận chúng ta vào gia đình của Người. Chúa Giêsu còn tiếp tục nuôi dưỡng chúng ta bằng của ăn và của uống có sức mạnh gia tăng sinh lực và bảo đảm hạnh phúc đời đời cho chúng ta, đó chính là mạch nước trường sinh: “Ai ăn bánh ta ban sẽ không còn đói, ai uống chén ta ban sẽ không còn khát bao giờ.”
Các thứ nước giải khát, tăng lực ngày nay chỉ có thể thoả mãn cơn khát của cơ thể trong chốc lát, nhưng nó không thể thoả mãn cơn khát sâu thẳm trong tâm hồn đó là khát tự do, khát tình yêu, hạnh phúc và sự sống đời đời. Những cái khát sâu thẳm này chỉ có thể được thoả mãn bởi dòng nước ban sự sống của Chúa Giêsu mà thôi. Vì thế, những ngày này chúng ta được thôi thúc cách đặc biệt để đến với Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống, tình yêu và hạnh phúc, để được ngụp lặn và được uống tận nguồn của lòng thương xót và tha thứ của Chúa.

Một khi được nuôi dưỡng và thoả mãn cơn khát sâu thẳm trong tâm hồn, giống như người phụ nữ Samaria, chúng ta sẽ trở thành những người tiếp tục làm cho sức sống và nguồn nước ấy lan toả đến các thành viên khác trong gia đình và trong cộng đoàn. Nguồn nước sự sống của Chúa Giêsu sẽ biến đổi gia đình và xã hội mỗi ngày nên hạnh phúc, yêu thương và là bảo đảm cho hạnh phúc nước trời.

Xin Chúa cho chúng ta tin tưởng và khiêm tốn, siêng năng đến lãnh nhận nguồn nước ban sự sống là chính Chúa Giêsu và để Ngài tưới mát, biến đổi và ban sức sống cho tâm hồn và thể xác chúng ta. Amen.

Về mục lục

KHÁT VỌNG

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Khi đi trong sa mạc khô cháy, trên đầu là nắng lửa, dưới chân là cát nung, đoàn dân Chúa xưa trong hoang địa mới cảm thấy cái khát hành hạ người ta đến độ nào, và nhu cầu được uống nước mới bức xúc làm sao. Chính khi bị cơn khát dày vò mà họ vùng lên nổi loạn, đổ lỗi cho Môsê đã đưa họ vào nơi hoang địa khô cháy, và đòi đem vị lãnh tụ nầy ra mà ném đá. (Xh 17, 3-7).

Ngoài những cơn khát tự nhiên, con người còn có một khao khát siêu nhiên, là một khát vọng vô biên, mà không có gì làm cho no thoả. Dù có được tất cả thế gian này, thì cũng chỉ là bụi bay trong phút chốc.

Người phụ nữ xứ Samari trong Tin Mừng cũng đã từng trải qua cơn khát tương tự. Chị đã mưu tìm hạnh phúc qua năm đời chồng, nhưng rồi phải lần lượt chia tay, để ở tiếp với người thứ sáu. Chị đi tìm hạnh phúc cũng y như đi lấy nước. Ngày nào cũng phải lặn lội đến giếng nước xa, múc cho đầy vò rồi ngày hôm sau lại khát.

Ông tổ triết hiện sinh là Arthur Schopenhauer (1788-1860) cho rằng: “Những lạc thú mà thế gian cống hiến cho con người cũng chỉ như nắm cơm bố thí cho người hành khất, chỉ làm dịu cơn đói hôm nay, rồi ngày mai lại đói.”

Cha Anthony de Mello cũng nhận định tương tự: “Việc thoả mãn dục vọng không giải thoát chúng ta khỏi dục vọng, nhưng tạo thêm một dục vọng khác còn mãnh liệt hơn để rồi cái vòng lẩn quẩn: khát khao – thoả mãn, thoả mãn – khát khao…  cứ tiếp diễn mãi không cùng”, càng về sau lại càng tăng “đô” hơn. Và cứ thế, người ta phải chịu dày vò, thiêu đốt vì ngọn lửa khao khát trong lòng mình.

Chúa Giêsu đã chỉ cho phụ nữ Samari cũng như cho chúng ta một Nguồn Suối hạnh phúc: “Ai uống nước nầy sẽ lại khát, còn ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Ga 4, 13-14). Chúa Giêsu chính là Mạch Nước trường sinh.

Thánh Augustinô sau những năm mê man tìm kiếm lạc thú trần gian, rồi cũng đến những ngày chê chán, vì chẳng thấy gì có thể lấp đầy trái tim mình. Cuối cùng, nhờ ơn Chúa qua lời nguyện cầu liên lỉ của người mẹ thánh thiện, Augustinô mới khám phá ra Thiên Chúa là suối nguồn hạnh phúc của đời mình. Ngài đã thốt lên với lòng đầy hy vọng: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên hồn con luôn thao thức băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa.”

Nhân loại hôm nay vẫn còn đây cơn khát vô tận, cho dù loài người có văn minh tiến bộ đến đâu thì cũng thế. Chỉ cần dành vài phút giây để nhìn vào thế giới, ta thấy biết bao điên đảo trong kiếp người, cũng vì chưa nhận ra chân giá trị của đời mình nơi Thiên Chúa.

Cầu nguyện

Lạy Chúa!
Tuổi trẻ chúng con đầy những khát khao,
nhưng mấy khi hiểu được điều mình khao khát,
có ý nghĩa gì và sẽ đưa cuộc sống đến đâu,
hay lại vùi lấp mình trong bùn sâu danh vọng,
vì không nghe được tiếng Chúa tự cõi lòng,
đang khơi nguồn cho khát vọng vô biên.

Con háo hức muốn chiếm ngay điều trước mắt,
muốn làm bằng mọi giá để nắm bắt thành công,
nên có những khát vọng đã biến thành tham vọng,
khi con chỉ tìm sở hữu và thỏa mãn nhất thời.

Ít khi con dành giờ đối diện với chính mình,
để thấy những gì đang diễn biến trong tâm,
và khi mất đi những giây phút lặng trầm,
con biến mình thành cuộc đua không đích điểm.

Con chỉ nhắm tới những gì mình tìm kiếm,
nên con tim như hoang vắng im lìm,
khiến tâm hồn khô cạn, lối sống khô khan,
trí não khô cứng, tình yêu khô cằn.

Nội tâm con không thiếu những uẩn khúc,
những nhập nhằng, cả những ô nhơ hoen ố,
Con xấu hổ và tìm cách che lấp bản thân,
nhưng rồi ánh sáng của Chúa đã phơi trần.

Xin Chúa đến làm mới lại đời con,
cho con biết được điều con phải trở bước,
hiểu được điều con phải trở về,
nghe được điều con phải trở nên,
thấy được điều con phải trở thành.

Xin cho con vượt lên những khát khao tầm thường,
đừng để mình bị lụy vướng vào tình trường thế tục,
mà lo đạt tới Chúa, nguồn mạch của tình thương,
là Đấng làm cho con được no thỏa miên trường. Amen.

(Trích sách: Lời nguyện của người trẻ, số 40)

Về mục lục

KHÁT VỌNG.

Trầm Thiên Thu

Chúa Xin Thế Gian Nước Giải Khát

Ngài Tặng Nhân Loại Nguồn Trường Sinh

Đói và khát thường đi đôi với nhau, và là nhu cầu cấp thiết của con người. Đói liên quan đồ ăn, khát liên quan đồ uống. Đó là vấn đề cơ bản của thể lý. Nhịn đói được lâu hơn nhịn khát. Thiếu nước là nỗi khổ không chỉ của con người mà cả sinh vật, cụ thể là tình trạng hạn hạn đang xảy ra ở miền Tây Việt Nam trong mùa hè năm Con Chuột Chù 2020 này.

Về thể lý, muốn hết khát thì phải có nước để giải khát. Ngày nay, trên đường đi thường thấy có những nhà để bình “nước đá miễn phí” cho khách vãng lai sử dụng. Một nghĩa cử đẹp mang tính nhân đạo. Tất nhiên nước đó chỉ có lợi cho những người lao động nghèo thôi, người giàu chẳng ai “để ý” làm chi. Về tinh thần, muốn hết khát thì phải có loại nước đặc biệt: tình yêu thương.

Cho (trao, tặng, biếu) người khác những thứ đơn sơ, nhỏ mọn, có thể chỉ là “chuyện nhỏ,” nhưng với tình yêu lớn, đó lại là sự chia sẻ thực sự quan trọng và cần thiết. Chẳng đáng gì với một ly nước lạnh mà vẫn giá trị, nhất là vào những ngày hè nắng nóng bức, cái nắng oi ả mà tiền nhân ví von là “nắng tháng Ba, chó già le lưỡi.” (tục ngữ Việt Nam) Việc nhỏ mà công to, chính Chúa Giêsu cũng chúc lành cho những việc làm “nhỏ bé” như vậy, và Ngài hứa: “Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.” (Mt 10:42) Mẹ Thánh teresa Calcutta nhận định rằng chúng ta không làm được những việc to lớn nhưng có thể làm được những việc nhỏ với tình yêu lớn. Thế thôi, nhưng thực sự tuyệt vời lắm!

Cái khát về thể lý đã là cấp bách rồi, cái khát về tinh thần (ước mong, khát vọng,…) cũng cấp bách lắm, đặc biệt là cái khát về tâm linh còn cấp bách và mãnh liệt hơn nhiều. Hạn hán là “thiên tai” (thường là nhân tai), nghĩa là thiếu nước vì không có mưa, đất đai khô cằn, nguy hiểm lắm, nhưng hạn hán tâm linh còn nguy hiểm hơn, vì rõ ràng đó là “nhân họa.” Chỉ có Mưa Giêsu mới khả dĩ cứu nguy con người khỏi cơn đại hạn cho mảnh đất tâm hồn. Thực sự chúng ta phải khao khát Ngài, vì Ngài là nguồn mạch Nước Hằng Sống.

Thời Cựu Ước xưa, trên hành trình qua sa mạc tiến về Đất Hứa, dân khát nước nên đã kêu trách thủ lĩnh Môsê: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai Cập để làm gì? Có phải là để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17:4) Nắng đồng bằng đã khó chịu rồi, nắng cao nguyên cũng ghê gớm lắm, nắng sa mạc thì hẳn là như lửa thiêu. Vì chịu không nổi cái nắng nóng nên dân muốn nổi loạn, ông Môsê cũng “ngán” lắm mà không biết làm sao, thế nên ông phải kêu cứu Thiên Chúa: “Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con!” (Xh 17:4) Rõ ràng là dân bức xúc lắm rồi, có thể bạo động và làm bất cứ hành động nào, và thủ lĩnh Môsê thấy sợ lắm rồi!

Thật chứ chẳng chơi. Vùng đó sẵn đá, muốn gì lấy đá chọi ngay. Phải trái thế nào tính sau, chết chắc. Thấy ông Môsê kêu xin, Đức Chúa cho biết: “Ngươi hãy đi lên phía trước dân, đem theo một số kỳ mục Israel; cầm lấy cây gậy ngươi đã dùng để đập xuống sông Nin, và đi đi. Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đằng kia trước mặt ngươi, trên tảng đá ở núi Khô-rếp. Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng đá, nước sẽ chảy ra cho dân uống.” (Xh 17:5-6) Ôi, thế thì còn gì bằng! Ông Môsê nghe và làm theo ngay. Và điều kỳ diệu đã xảy ra. Ông đặt tên cho nơi ấy là Maxa và Mơriva, nghĩa là Thử Thách và Gây Sự, vì con cái Israel đã gây sự và thử thách Chúa. Họ nghi ngờ nên đặt vấn đề: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” (Xh 17:7) Kể cũng to gan, lớn mật. Liều thật!

Ngày nay có thể chúng ta cho rằng dân Israel “uống thuốc liều” quá chỉ định, “coi trời bằng vung” nên mới dám gây sự và thử thách Chúa, kiểu “bán trời không cần văn tự.” Tuy nhiên, chắc gì chúng ta đã hơn họ, có khi còn liều mạng hơn họ. Thật vậy, khi gặp gian nan thử thách theo kiểu “mắc nối tiếp” như kiểu nối các bóng điện, gọi là “họa vô đơn chí,” chắc hẳn cũng đã có những lúc đức tin của chúng ta bị rung rinh. Mặc dù không nói ra nhưng các động thái của chúng ta cũng bộc lộ sự hoài nghi: “Có Chúa thật hay người ta chỉ ảo tưởng?” Cũng đã thấy có những người còn liều hơn – kể cả người Công giáo, đã từng dám thốt thành lời: “Trời không có mắt, trời mù!” Trời là ai? Thế thì chúng ta chẳng liều hơn dân Israel sao? Nghĩa là chúng ta tự thấy mình “ngon” lắm!

Việc ăn năn sám hối không chỉ là động thái được thực hiện trong Mùa Chay, Mùa Vọng, dịp tĩnh tâm hay cấm phòng, mà phải được thực hiện không ngừng trong suốt cuộc đời. Ai cũng có tội nên luôn cần sám hối, ngày nào cần sám hối thì ngày đó là Mùa Chay. Đó là cách sống sẵn sàng dầu đèn như mười cô trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể. (x. Mt 25:1-13) Giáo Hội ấn định Mùa Chay như tiếng chuông cảnh báo để “đánh động” mạnh hơn, nhất là đối với những người còn “ngủ mê,” do đó mà có nghiêm luật: “Xưng tội mỗi năm ít là một lần.” Xưng tội liên quan rước lễ trong Mùa Phục Sinh.

Cứ chân thật ngắm thiên nhiên, nhìn vạn vật thì sẽ nhận ra Thiên Chúa. Điều đơn giản nhất là không khí. Không có không khí thì không gì có thể sống được một lúc. Cái rất nhỏ nhưng lại là điều quan trọng, là đại hồng ân. Vì thế, đừng làm ngơ lời mời gọi của Thánh Vịnh gia: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn.” (Tv 95:1-2) Hằng ngày trong Giờ Kinh Phụng Vụ, Giáo Hội vẫn sử dụng Thánh Vịnh này để chúc tụng Thiên Chúa.

Nước đầy thì tràn ly, lòng đầy thì miệng nói ra. Ngoại tại chứng tỏ nội tại. Thánh Vịnh gia cho biết: “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt.” (Tv 95:6-7a) Đặc biệt là mỗi dịp Mùa Chay, chúng ta cũng thường được nghe nhắc nhở câu này: “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa phán: Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơriva, như ngày ở Maxa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm.” (Tv 95:7b-9) Cái gì cứng thì khó hóa mềm, lòng cứng cũng chẳng dễ mềm chút nào – vì không biết sợ. Kinh Thánh nói: “Phúc cho người luôn luôn biết sợ, còn kẻ cứng lòng sẽ gặp phải tai ương.” (Cn 28:14)

Hai địa danh Mơ-ri-va và Ma-xa nhắc nhở chúng ta “ĐỪNG gây sự và CHỚ thử thách Thiên Chúa.” Không dám làm vậy là biết sợ, có thể bắt đầu tin có Thiên Chúa hiện hữu, và chính niềm tin đó là khởi đầu của chuỗi hệ lụy tốt lành: Tín thác – Thương yêu – Tha thứ – Thánh ân – Trắng án – Trường sinh. Một chuỗi các mẫu tự T thật kỳ diệu, liên kết thành con đường nên thánh để được làm công dân Nước Trời. Thế thì thật tuyệt!

Có nhiều mối phúc khác ngoài Bát Phúc (Mt 5:3-11; Lc 6:20-23), một trong các mối phúc có liên quan đức tin: “Phúc thay những người không thấy mà tin.” (Ga 20:29) Đức tin thật kỳ diệu, vì đức tin có thể làm cho người ta nên công chính. Thánh Phaolô cho biết: “Một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.” (Rm 5:1-2) Đức tin là đèn sáng soi đường chúng ta đi về hướng có Thiên Chúa.

Những người tin vào Thiên Chúa không phải là ngu dốt mà là khôn ngoan. Càng có tri thức thì người ta càng dễ nhận ra Ngài. Các bác học lừng danh đều có niềm tin vào Thiên Chúa, cụ thể là: Roger Bacon (khoảng 1214-1294, người áp dụng phương pháp thực nghiệm và các phương pháp khoa học tân tiến, viết về luật thiên nhiên, cơ khí, địa lý và quang học), Johannes Kepler (1571-1630, nhà vũ trụ học, tính toán sự di chuyển của các thiên hà), René Descartes (1596-1650, bác học về hình học và những con số bất biến, người hướng dẫn cuộc Cách Mạng Khoa Học của Tây phương), Blaise Pascal (1623-1662, thần đồng toán học, vật lý, và lý thuyết), Isaac Newton (1643-1727, nhà khoa học và toán học vĩ đại nhất của mọi thời đại), Louis Pasteur (1822-1895), Albert Einstein (1879-1955), Max Planck (1858-1947, đoạt giải Nobel về vật lý và là cha đẻ của Thuyết Quantum Mechanics), Georges Lemaître (1894-1966, linh mục Công Giáo, người khởi xướng thuyết Big Bang), và còn rất nhiều nhà bác học khác đều là các Kitô hữu tốt lành. Họ đã KHÁT và đã được uống Nước Giêsu.

Lời giải thích của Thánh Phaolô rất chi tiết: “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.” (Rm 5:8) Sự thật minh nhiên, đến nỗi chính viên đại đội trưởng đã run sợ sau khi Chúa Giêsu trút hơi thở, và phải thốt lên: “Quả thật ông này này là Con Thiên Chúa.” (Mt 27:54; Mc 15:39; Lc 23:47)

Chúng ta thấy điều gì trong các thư của Thánh Phaolô cũng được diễn tả rất chi tiết, dễ hiểu. Vâng, tình yêu và lòng thương xót của Chúa quá vĩ đại, cao thượng, bao la. Thật vậy, có lần Chúa Giêsu đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13) Nhưng đâu dễ mấy ai! Tha thứ đã khó rồi chứ nói chi chết thay ai đó. Vậy mà Thánh Maximilian Kolbe (1894-1941, linh mục Dòng Phanxicô) đã làm được, ngài dám tự nguyện “thế mạng” cho một tù nhân khác tại trại tập trung Auschwitz trong thời gian Đức chiếm đóng Ba Lan hồi Đệ Nhị Thế Chiến. Đó là dạng khát vọng rất khác người nhưng lại giống Chúa Giêsu.

Như một đoạn phim thú vị, trình thuật Ga 4:5-42 đề cập tính nhân bản và nỗi khát vọng chính đáng: Một hôm, Chúa Giêsu đến thành Xy-kha thuộc xứ Samari, gần thửa đất ông Giacóp đã cho con là ông Giuse. Ở đấy, có giếng của ông Giacóp. Ngài đi đường mỏi mệt trong khi các môn đệ vào thành mua thức ăn, vả lại lúc đó khoảng mười hai giờ trưa, nắng nóng như lửa, nên Ngài ngồi ngay bên giếng nước.

Sự ngẫu nhiên là ngay lúc đó có một người phụ nữ Samari đến lấy nước. Trưa nắng mà đi lấy nước thì cũng lạ thật. Và rồi Đức Giêsu đã xin chị chút nước uống. Chị ngạc nhiên nói: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?” Thời đó, người Do Thái và người Samari phải “cách ly” với nhau, không được giao tiếp. Đức Giêsu ôn tồn: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’ thì hẳn chị ĐÃ xin, và người ấy ĐÃ ban cho chị nước hằng sống.” Chúa Giêsu dùng thì quá khứ trong khi Ngài nói là thì hiện tại – loại giả định có thật. Điều đó cho thấy rằng những gì Ngài nói đều là sự thật, như Ngài khẳng định với Tổng trấn Philatô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT.” (Ga 18:38) Chỉ có sự thật mới giải thoát và làm cho người ta được tự do thực sự. (x. Ga 8:32)

Phụ nữ này còn thắc mắc rằng giếng sâu mà Chúa Giêsu không có gầu, làm gì có được nước hằng sống mà cho. Chị còn chứng minh rằng tổ phụ Giacóp với cả con cháu và đàn gia súc cũng xài nước ở giếng này. Chúa Giêsu vẫn nở nụ cười hiền và trầm giọng: “Chị Hai à, ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” Có lẽ lúc đó chị vừa gãi đầu vừa nghĩ bụng: “Mèn ơi, lạ dữ nghen!” Không lạ sao được, thế mới đáng nói. Cơn khát của phụ nữ này không còn đơn thuần là khát nước, mà bắt đầu là cơn khát tâm linh.

Cứ từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, hết mắt tròn rồi mắt dẹt, miệng chữ A rồi mắt chữ O, thế nhưng chị thực sự cảm thấy tin tưởng “Anh Chàng” này nói thật, vì có gì đó rất khác thường, và chị nói ngay: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” Chúa Giêsu không bảo cho hay không cho, mà bảo chị ấy gọi chồng ra. Chị bảo rằng chị chỉ “mình ên” thôi, không chồng con chi cả. Chúa Giêsu cười và xác nhận chị nói đúng. Ngài nói thẳng luôn là chị đã có tới năm đời chồng rồi, ngay cả người hiện đang sống với chị cũng không phải là chồng. Chắc đó là dạng “sống thử” hoặc “nửa nhân ngãi, nửa vợ chồng” đây. Chị hết hồn hết vía vì thấy Chúa Giêsu không phải thầy bói mà nói trúng phoóc, y chang như “đi guốc trong bụng” vậy. Ngại thì có ngại, nhưng chị cũng phải công nhận: “Ông ơi, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ.” Hay tuyệt!

Và rồi không chỉ có vậy, Chúa Giêsu còn nói điều “ngược đời” lắm. Ngài bảo rằng không được thờ phượng Thiên Chúa trên núi nữa, mà Giêrusalem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa. Kể ra chị Hai ngoại giáo này cũng dễ tiếp thu “cái mới” đấy. Thế thì thật tốt!

Như thấy chị có vẻ “khó hiểu” về việc thờ phượng vừa được đề cập, Chúa Giêsu nghiêm túc xác định: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” Chị Hai này hay thiệt, xem chừng cũng giỏi Kinh thánh nữa, vì chị nghe Ngài nói vậy mà không “phản ứng” chi cả, rồi chị nói: “Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” Quá đúng. Thật giỏi. Và Chúa Giêsu nói ngay: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.” Ôi chao, chị này diễm phúc quá, được gặp và nói chuyện với Đức Kitô. Chẳng còn hạnh phúc nào hơn nữa!

Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và phụ nữ Samari tới đó thì các môn đệ trở về, họ rất ngạc nhiên vì thấy Thầy nói chuyện với một phụ nữ. Kỳ ghê ta! Thế nhưng chẳng đệ tử nào dám hỏi Thầy. Còn người phụ nữ phấn khởi đến nỗi bỏ cả vò nước lại, chạy vào thành và bảo người ta đến xem một “Người Lạ” rất giống Đấng Kitô. Chị này tự nguyện làm nhân chứng sống. Thế là dân thành tuôn ra như trẩy hội. Mọi người được tận mắt thấy một “Dị Nhân” độc nhất vô nhị là cơ hội ngàn vàng chứ ít gì. Lạ lắm, và cũng vui lắm. Chắc hẳn ai cũng rất phấn khởi vì thỏa niềm khát vọng lâu nay – đặc biệt là chị Hai ngoại giáo. Niềm vui không thể giấu, phải chia sẻ thôi!

Không còn sớm nữa, quá trưa rồi, bụng ai cũng đánh lô-tô, thế nên các môn đệ thưa: “Xin mời Thầy dùng bữa.” Nhưng Ngài nói với các ông điều cao xa hơn: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết.” Các môn đệ lại gãi đầu và ngơ ngác nhìn nhau: “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?” Họ tưởng Thầy ăn rồi, không cần gì nữa. Các ông đâu có hiểu rằng Thầy nói về “siêu lương thực” là THI HÀNH Ý CHÚA CHA và HOÀN TẤT CÔNG TRÌNH CỨU ĐỘ. Thì phải vậy thôi, trò sao hơn thầy được, bằng thầy cũng khá lắm rồi. (x. Mt 10:24-25) Tất nhiên Thầy rất thông cảm cho các đệ tử. Mưa lâu thấm sâu, dần dần rồi sẽ hiểu. Phải biết uống sữa rồi mới có thể ăn cháo, ăn cháo rồi mới có thể ăn cơm – và các món khác.

Theo lời kể của Thánh Gioan, hôm đó có nhiều người Samari trong thành đã tin vào Chúa Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. Hiệu quả nhãn tiền của việc làm chứng. Vâng, chỉ có Thiên Chúa mới biết mọi sự, từ thuở hồng hoang tới tận thế, nói chi tới quá khứ, kể cả tương lai của con người. bởi vì “Thiên Chúa thấu suốt mọi sự.” (1 Sb 28:9b; Gđt 8:14; Et 4:17d; Et 5:1a; 2 Mcb 6:30; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Gr 10:12; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 10:12; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20)

Lòng tin tạo sự hiếu khách, dân Samari xin Ngài ở lại với họ, và Ngài đã ở lại đó hai ngày. Và rồi số người tin lời Chúa Giêsu tăng thêm nhiều. Họ bảo chị Hai nọ: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian.” Không thành vấn đề, chị Hai không hề buồn, chị chỉ muốn người ta cũng tin như chị thôi. Ngày nay, mỗi chúng ta cũng được Thiên Chúa tuyển chọn, bằng cách này hay cách khác – bất kể cộng đoàn hoặc chức vụ nào, như Thiên Chúa đã tuyển chọn chị Hai ngoại giáo xưa. Bổn phận và trách nhiệm của chúng ta là chia sẻ Thiên Chúa và đức tin cho những người khác.

Khát vọng là ước muốn mạnh mẽ, tiếng kêu thảm thiết của Chúa Giêsu từ trên Thập Giá năm xưa vẫn vang lên: “Tôi khát!” (Ga 19:28) Đó là nỗi “khát tình yêu thương.” Ngài khát khao thương xót mọi người mà bị phụ tình: “Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu.” (Mt 23:37; Lc 13:34) Ngài còn có khát vọng khác thường là “khát vọng đau khổ,” Ngài bằng lòng uống “chén đắng,” không chỉ vui vẻ uống mà còn say sưa uống. Thế mà chúng ta lại nhẫn tâm đối xử tệ bạc với Ngài, chẳng khác bọn thủ ác cho Ngài nếm giấm chua, (Ga 19:29) đúng như từ xưa Thánh Vịnh gia đã than thở: “Thay vì đồ ăn, chúng trao mật đắng, con khát nước, lại cho uống giấm chua.” (Tv 69:22) Đau khổ chồng chất!

Hôm nay, trong Cõi Lặng Thánh, ước gì mỗi chúng ta đều biết thực sự khát vọng sống công chính, biết tin mến Đức Kitô giống như chị Hai và dân thành Xy-kha, đồng thời luôn xác tín: “Linh hồn con khao khát Chúa Trời hằng sống.” (Tv 42:3) Chị Hai và dân thành Xy-kha tin vào “Người-Lạ” là điều hợp lý và đúng ý Chúa. Chúng ta đều là tội nhân bất xứng, không đáng tiếp cận Ngài, nhưng Ngài vẫn rộng lòng “hỉ xả” với chúng ta, bởi vì “nếu Ngài chấp tội, chẳng ai có thể được cứu độ” (x. Tv 130:3) Nhưng Lòng Thương Xót của Ngài bao phủ tất cả.

Điều cần thiết đối với tội nhân chúng ta là yêu mến. Thánh Gioan Thiên Chúa nói: “Nước dập tắt lửa thế nào, tình yêu cũng rửa sạch tội lỗi như vậy.” Vâng, thật là tuyệt vời, bởi vì tình yêu có thể khỏa lấp mọi khoảng cách. Xin tạ ơn Thiên Chúa muôn đời!

Lạy Thánh Phụ nhân từ, xin Ngài thương xót và chấp nhận trở nên gia nghiệp đời đời của chúng con, xin giúp chúng con khôn ngoan phân định, biết đáp lại lời kêu khát của Chúa Giêsu nơi những con người bé mọn dọc đường đời chúng con gặp hằng ngày. Lạy Chúa các Chúa, xin giúp chúng con luôn biết khát mong ơn Ngài cứu độ. (Tv 119:174) Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY_A

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Trong chu trình Mùa Chay, Giáo Hội dành Chúa Nhật III và Chúa Nhật IV Mùa Chay cho bí tích Thánh Tẩy, vì thế các Bài Đọc được chọn lựa nhằm chuẩn bị cho tân tòng đón nhận Thánh Tẩy vào đêm vọng Phục Sinh. Như vậy, vào Chúa Nhật III Mùa Chay này, chủ đề nổi bật là  “nước hằng sống”, nguồn mạch cứu độ.

Xh 17: 3-7

Suốt cuộc hành trình trong hoang địa, dân Do thái phải chịu cảnh đói khát. Thiên Chúa đã ban cho họ nước mát trong tuôn trào từ tảng đá. Qua đó, Thiên Chúa tỏ cho dân Ngài biết rằng Ngài vừa là Đá Tảng vừa là Nguồn Mạch luôn luôn tuôn trào sự sống và ơn cứu độ.

Rm 5: 1-2; 5-8

Thánh Phao-lô nói cho tín hữu Rô-ma biết rằng chính nhờ Đức Tin mà họ trở nên công chính và vui hưởng niềm hy vọng lớn lao, đó là một ngày kia sẽ được dự phần vào vinh quang của chính Thiên Chúa. Đức cậy này có một nền tảng vững chắc bởi vì nó cắm rễ sâu vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Ga 4: 5-42

Tin Mừng tường thuật cuộc đối thoại của Đức Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri ở bên bờ giếng Gia-cóp. Đức Giê-su tự đồng hóa mình với nguồn nước hằng sống đem lại sự sống đời đời.

BÀI ĐỌC I (Xh 17: 3-7)

Nhan đề của sách Xuất Hành tự nó nói lên nội dung của sách: “cuộc xuất hành khỏi đất Ai-cập”. Chương 17 này tường thuật một loạt những thử thách mà dân Do thái đã trải qua trong suốt cuộc hành trình gian khổ băng qua hoang địa: cái đói, cái khát, chiến tranh, từ đó họ kêu trách, gây gổ và nổi loạn.

Đoạn văn được trích dẫn hôm nay tường thuật dân Do thái trải qua cuộc thử thách về cái khát, và từ đó nẩy sinh sự nghi nan ngờ vực về sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Đối lại, Thiên Chúa đáp trả nhu cầu của dân. Vì thế biến cố này bao gồm hai bài học.

  1. Qua việc ban nước hằng sống, Thiên Chúa tỏ mình ra là Đấng cứu độ

“Ông Mô-sê đập cây gậy vào tảng đá. Từ tảng đá, nước sẽ chảy tràn ra cho dân uống”. Đây không là một phép lạ từ hư không (ex nihilo). Chính Đức Giê-su cũng sẽ không thực hiện bất kỳ phép lạ từ hư không nào. Ngài luôn luôn sử dụng chất liệu tự nhiên: từ nước ở Ca-na, Ngài biến thành rượu; từ năm chiếc bánh và hai con cá Ngài nuôi một đám đông dân chúng. Cũng vậy trong trường hợp của ông Mô-sê, từ đá tảng Thiên Chúa cho nước mát trong chảy tràn ra cho dân chúng uống.

Cây gậy mà ông Mô-sê sử dụng là cây gậy mà Thiên Chúa đã ban cho ông để chiến thắng các cây gậy của các nhà phù thủy của Pha-ra-ô (Xh 7: 11-12). Việc cây gậy thần hay chiếc đũa thần làm nên những điềm thiêng dấu lạ chẳng có gì đáng ngạc nhiên đối với những chuyện tích nhân gian, nhưng điều quan trọng chính là Thiên Chúa, qua người đại diện của Ngài, cho thấy quyền năng của Ngài hơn các quyền năng của các vị thần linh Ai-cập, qua các vị pháp sư này. Thật ý nghĩa biết bao ở Ds 20: 7-8, câu chuyện này được đọc lại, thay vì cây gậy của ông Mô-sê, chính là “lời của ông” khiến nước phun ra từ tảng đá: “Đức Chúa phán với ông Mô-sê: ‘Hãy cầm lấy cây gậy, và cùng với A-ha-ron, anh ngươi, triệu tập cộng đồng lại. Trước mặt chúng, các ngươi sẽ nói với tảng đá và chúng sẽ cho nước…”.

Ân ban nước trong sa mạc Rơ-phi-đim được ghi trong sách Xuất Hành này là một hành động cứu độ. Thiên Chúa ban ơn cứu độ. Vì thế, trong Kinh Thánh, “nước” không chỉ là một yếu tố tự nhiên đảm bảo sự sinh tồn, nhưng còn hổ trợ cho một chủ đề huyền nhiệm và biểu tượng: hình ảnh về sự sống tâm linh:

“Hai tay cầu Chúa giơ lên,

hồn con khát Chúa như miền đất khô” (Tv 143: 6)

hay:

 “Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong,

hồn con cũng trong mong được gần Ngài, lạy Chúa” (Tv 42: 2).

Tảng đá phun trào nước mát trong cho dân chúng uống ở Rơ-phi-lim mặc lấy cũng một ý nghĩa này. Truyền thống này vang dội trong thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô: Cha ông chúng ta “cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô” (1Cr 10: 4).

  1. Kiên vững trong thử thách

Ông Mô-sê đã phải hứng chịu cơn thịnh nộ của dân chúng. Họ sợ hãi trước một cái chết thảm khốc: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai cập để làm gì? Có phải để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?”. Đoạn, sự nghi nan ngờ vực trở thành lời nói phạm thượng: “Có Chúa ở giữa chúng tôi hay không?”.

Trước cuộc nổi loạn của dân chúng, ông Mô-sê sợ hãi kêu lên cùng Chúa: “Tôi phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ còn chút nữa là họ lấy đá ném chết tôi!”. Ông Mô-sê chấp nhận đánh cược niềm tin của mình; Thiên Chúa phục hồi uy tín cho ông trước mắt mọi người khi cho ông thực hiện ân ban của Ngài trước sự chứng kiến của một số kỳ mục mà ông dẫn theo đến tảng đá.

Chính nhờ niềm tin mà ông Mô-sê đã vượt qua cơn nguy khốn này. Ông tin rằng không gì mà Thiên Chúa không thể làm được. Hơn nữa, ông đặt trọn niềm tin tưởng vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng, bất chấp những cằn nhằn gây gổ của dân Ngài, đã không từ chối ra tay cứu giúp họ. Đức tin không thể tương hợp với sự tuyệt vọng.

Việc dân Do thái thách thức và cằn nhằn gây gổ ở Ma-xa và Mê-ri-ba được sách Đệ Nhị Luật nêu lên: “Anh em đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, như anh em đã thách thức ở Ma-xa” (Đnl 6: 16). Khi chịu thử thách trong hoang địa, Đức Giê-su đáp lại cơn cám dỗ thứ hai của Xa-tan cũng bằng chính những lời này: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” (Mt 4: 7).

BÀI ĐỌC II (Rm 5: 1-2, 5-8)

Thần học về ơn công chính hóa là phần cốt yếu của thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma. Trong phần đạo lý (1: 16-11: 36), thánh Phao-lô nói cho chúng ta biết rằng chúng ta được trở nên công chính nhờ tin vào Đức Ki-tô. Phần đạo lý này được khai triển thành hai phần: phần thứ nhất (1: 18-4: 25) trong đó thánh Phao-lô chứng minh rằng ơn công chính hóa đạt được nhờ đức tin và phần thứ hai (5: 1-11: 36) trong đó thánh nhân sẽ bàn đến những hoa trái mà ơn công chính hóa sản sinh ở nơi những ai được trở nên công chính.

Đoạn trích hôm nay là phần đầu chương 5, chương đóng chức năng như bản lề của phần đạo lý này. Trong các chương trước, thánh Phao-lô đã trình bày cho chúng ta biết rằng chúng ta được cứu độ và trở nên công chính nhờ đức tin chứ không nhờ công này việc nọ. Bây giờ thánh nhân tiếp tục giải thích những hoa trái của đời sống mới. Hoa quả đầu tiên là “sống hòa hợp với Thiên Chúa” và “niềm hy vọng vào vinh quang tương lai”.

  1. Sống hòa hợp với Thiên Chúa (5: 1-2)

Được trở nên công chính, con người lại có thể sống trong mối thân tình với Thiên Chúa. Tội lỗi kéo theo sự thù địch giữa con người với Thiên Chúa, trong khi ơn công chính hóa chấm dứt tình trạng thù địch này. Con người sống trong tình trạng giao hòa với Đấng Tạo Hóa của mình. Những mối liên hệ giữa thụ tạo và Tạo Hóa được bình thường hóa. Đức Giê-su Ki-tô là Đấng trung gian của cuộc sống hoà hợp này. Để nhắc lại vai trò trung gian của Đức Giê-su, thánh Phao-lô cậy nhờ đến hình ảnh tế tự. Như một người tiến vào cung thánh nhờ chu toàn vài điều kiện, cũng vậy, hiện nay Đức Giê-su, Đấng cứu độ chúng ta, mở lối cho chúng ta vào để chúng ta được vui hưởng ân sủng của Thiên Chúa.

Vì thế, ân sủng không gì khác hơn là hành động của Thiên Chúa, nhờ đó con người được thụ hưởng ân này đến ân khác. Con người chỉ có thể tự hào và hoan hỉ vì những gì Thiên Chúa đã làm cho mình. Cuộc sống hòa hợp với Thiên Chúa mà con người được thụ hưởng hôm nay bảo đảm cho họ rằng ngày mai họ sẽ dự phần vào vinh quang Thiên Chúa, vào chính cuộc sống của Thiên Chúa. Ân ban bình an là tham dự trước vinh quang thiên quốc, ân ban này là bảo chứng cho cuộc sống thần linh mà một ngày kia họ sẽ thụ hưởng viên mãn.

  1. Niềm hy vọng vào vinh quang tương lai (5: 5-8)

Thánh Phao-lô nêu lên hai lý do để khẳng định rằng niềm hy vọng vào vinh quang tương lai là có cơ sở vững chắc:

A -Ân ban Thánh Thần (5: 3-5)

Được công chính hóa, chúng ta không chỉ vui mừng vì đang được sống hòa hợp với Thiên Chúa và hy vọng về phần thưởng ngày mai, cho dù hiện nay phải gặp thấy niềm hoan hỉ trong những gian truân thử thách, vì “ai quen gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là người trung kiên, thì có quyền trông cậy” (5: 4). Điều quan trọng nhất chính là Thiên Chúa đang hoạt động để dẫn đưa chúng ta đến cứu cánh tối hậu mà Ngài dành sẵn cho chúng ta. “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta”.

B -Hiến dâng Con Một của Người (5: 6-8)

Thánh Phao-lô nêu ra một bằng chứng khác để khẳng định rằng niềm cậy trông của chúng ta là có cơ sở vững chắc, đó là Đức Giê-su đã chết để cứu độ chúng ta. Tình yêu này còn lớn lao hơn, bởi vì thật khó gặp thấy một ai sẵn sàng hiến dâng mạng sống mình cho một người lương thiện, ấy vậy, Đức Giê-su đã chết cho chúng ta trong khi chúng ta còn là hạng phản nghịch cùng Thiên Chúa. Như vậy, không chỉ Chúa Con, nhưng cũng Chúa Cha đã bày tỏ tình yêu của mình trong cái chết của Đức Ki-tô.

TIN MỪNG (Ga 4: 5-42)

Phần mở đầu (4: 5-6) cho chúng ta biết cuộc hành trình của Đức Giê-su từ miền Giu-đê trở lại Ga-li-lê băng qua Sa-ma-ri, thời gian: “khoảng mười hai giờ trưa”, giờ nóng nhất trong ngày, và nơi diễn ra những cuộc đối thoại của Ngài với người phụ nữ xứ Sa-ma-ri (4: 7-26), với các môn đệ Ngài (4: 27-38) và sau cùng với dân Sa-ma-ri (4: 39-42) là bên “giếng của ông Gia-cóp”.

  1. Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri (4: 7-26)

Trong khi các môn đệ vào thành để mua thức ăn để Thầy lại một mình vừa đói vừa khát bên bờ giếng Gia-cóp, thì có một người phụ nữ xứ Sa-ma-ri đến múc nước. Vì thế, Ngài ngỏ lời xin chị: “Chị cho tôi xin chút nước uống” (4: 7), nhưng gặp phải phản ứng không mấy thuận lợi từ phía người phụ nữ qua câu trả lời của chị: “Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao?” (4: 9). Cuộc đối thoại khởi đi từ đó. Phải nhấn mạnh rằng cuộc đối thoại phát xuất từ sáng kiến của Đức Giê-su. Chính Ngài là người đầu tiên ngỏ lời bắt chuyện với người phụ nữ để dẫn chị vào trong mầu nhiệm của Ngài.

Trong cuộc đối thoại, những trao đổi giữa Đức Giê-su và người phụ nữ đề cập đến hai chủ đề quan trọng: nước hằng sống (4: 10-14) và thờ phượng đích thật (4: 20-26). Chen vào giữa hai chủ đề này là một cuộc trao đổi ngắn về đời tư của người phụ nữ (4: 15-19) như một nhịp cầu nối giữa hai chủ đề này.

A- Nước hằng sống (4: 10-14)

Trong câu trả lời của mình, người phụ nữ nêu lên hai lý do để từ chối nói chuyện với Đức Giê-su: trước hết, mối thù truyền kiếp giữa hai dân tộc này như lời giải thích của người kể chuyện: “Quả thế, người Do thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri” (4: 9); thứ nữa, phong tục tập quán vào thời ấy không cho phép người phụ nữ được nói chuyện với một người đàn ông, nhất ở nơi hoang vắng.

Nhưng Đức Giê-su muốn phá đổ bức tường ngăn cách giữa hai dân tộc này cũng như giữa nam và nữ, để mở ra cuộc đối thoại với chị: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người đang nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (4: 10). Đức Giê-su lợi dụng biểu tượng phong phú về “nước hằng sống” để chị có thể khám phá chân tính của Đấng không chỉ là ân huệ Thiên Chúa ban, nhưng còn là Thiên Chúa đích thân, Đấng đến từ trên cao (Ga 3: 3), từ trời (Ga 3: 31), nhờ đó chị có thể đón nhận lời của Ngài, lời ban sự sống.

Với câu trả lời này, vai trò của Đức Giê-su và của người phụ nữ đảo ngược: giếng ban nước mát trong vẫn ở đó, nhưng nhường chỗ cho sự hiện diện của Đức Giê-su, Đấng ban “nước hằng sống”. Cặp đối lập: “Ông, người Do thái” và “tôi, người phụ nữ Sa-ma-ri” vẫn còn đó, nhưng bị vượt qua bởi “Đấng hiện thân ân huệ Thiên Chúa”. Câu trả lời của Đức Giê-su ở thể điều kiện, nghĩa là lời đề nghị, hay lời mời gọi. Nếu chị chấp nhận điều kiện, lời hứa sẽ trở thành hiện thực.

Tuy nhiên, người phụ nữ chưa nắm bắt thực tại thần linh của biểu tượng, vì thế chị vẫn cứ bám vào thực tại vật chất của giếng Gia-cóp: “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính người đã uống giếng nước này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy” (4: 11-12). Đây là phương pháp “ngộ nhận” của Tin Mừng Gioan được dùng hai lần: trong cuộc đối thoại với người phụ nữ về “nước hằng sống” và trong cuộc đối thoại với các môn đệ về “lương thực đích thật”. Điều này giúp cho Chúa Giê-su khai triển sâu xa hơn điều Ngài muốn người đối thoại đạt đến.

Vì thế, Chúa Giê-su xác định rõ ra sự khác biệt giữa nước mà giếng Gia-cóp ban cho và nước mà Ngài ban cho: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (4: 13-14). Trong câu 13 nói về nước mà giếng Gia-cóp ban cho, kiểu nói: “Ai uống nước này, sẽ lại khát” đã được sách Huấn Ca sử dụng: “Ai ăn Ta sẽ còn đói, ai uống Ta sẽ còn khát” (Hc 24: 21) để diễn tả người nào đã nếm lời Khôn Ngoan, sẽ ao ước được nếm mãi không thôi. Trong câu 14a nói về nước mà Ngài ban cho, kiểu nói: “Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa” đã được ngôn sứ I-sai-a sử dụng: “Họ sẽ không còn đói và khát nữa” (Is 49: 10-13) để loan báo thời thiên sai và hoàn vũ. Như vậy Đức Giê-su khẳng định rằng nước mà Ngài ban cho không thuộc trật tự vật chất, nhưng thuộc trật tự biểu tượng: Ngài tỏ mình ra như “ân huệ” tuyệt mức mà Thiên Chúa ban cho con người (Ga 3: 16-17). Khi gặp gỡ Ngài, người ta không đơn giản gặp bậc tôn sư dạy những lời khôn ngoan xuất phát từ Mặc Khải, nhưng chính nguồn Mặc Khải. Đức Giê-su là hiện thân Mặc Khải (Ga1: 14). Đó là lý do tại sao Ngài mời người đối thoại hãy tiếp nhận và sở hữu lời Ngài để lời Ngài trở nên nguồn sống đời đời trong lòng của mình: “Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (4: 14b).

B -Đời tư của người phụ nữ (4: 15-18)

Chủ đề “nước hằng sống” xem ra đến hồi kết thúc với lời đáp trả của chị: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (4: 15). Như vậy, với lời đáp trả này, chị chấp nhận một sự hoán chuyển vai trò giữa “người xin” và “người cho” như lời đề nghị của Chúa Giê-su ngay từ đầu câu chuyện (3: 10). Nhưng rõ ràng người phụ nữ này chưa đạt đến niềm tin vào Ngài như Chúa Giê-su muốn, vì thế Ngài muốn câu chuyện được tiếp tục để dẫn chị đi xa hơn nữa.

Để thoát khỏi thế bế tắc, Đức Giê-su chứng tỏ cho chị thấy là Ngài biết mọi điều ẩn kín về chị như Ngài đã làm đối với ông Na-tha-na-en. Cho dù đã không đạt được lời tuyên xưng tròn đầy như Na-tha-na-en (1: 49), chị nhận ra rằng người biết đời tư của chị phải là một ngôn sứ. Khởi đi từ đó, chị bắt đầu cởi mở tấm lòng mình cho Ngài. Như vậy phân đoạn này đóng vai trò chuyển tiếp giữa chủ đề “nước hằng sống” đi trước và chủ đề “thờ phượng đích thật” theo sau.

C -Thờ phượng đích thật (4: 19-26)

Từ đó, người phụ nữ Sa-ma-ri nêu lên với Ngài một vấn đề then chốt, một vấn đề ám ảnh tâm thức tôn giáo của chị: chân lý thuộc về phía nào, về phía tín đồ phụng thờ Thiên Chúa ở đền thờ Ga-ri-zim hay về phía tín đồ phụng thờ Ngài ở đền thờ Giê-ru-sa-lem? Câu trả lời của Chúa Giê-su không là người này hay kẻ kia, “nhưng đến giờ – và chính là lúc này – những người thờ phượng đích thật sẽ thờ phượng Chúa Cha theo thần khí và sự thật” (4: 23).

Cụm từ “thần khí và sự thật” theo “kiểu thế đôi” đặc trưng của Tin Mừng Gioan theo đó chữ thứ hai bổ túc cho chữ thứ nhất, vì thế phải được hiểu là “Thần Khí sự thật”, tức là Đấng mà Đức Giê-su sẽ nói với các môn đệ trong bữa Tiệc Ly (Ga 14: 17; 15: 26; 16: 13) và là Đấng mà Ngài sẽ hứa ban cho họ sau khi Ngài sống lại (Ga 7 : 37-39 ; 20: 22). Như vậy, thờ phượng đích thật là thờ phượng được nuôi dưỡng bằng Mặc Khải của Đức Giê-su dưới tác động của Thần Khí sự thật, Đấng “sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (14 : 26) và “sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (16 : 13). Tác động của Thần khí sự thật cốt là làm cho sự thật của Đức Giê-su hiện diện trong chúng ta và giúp chúng ta hiểu biết đích thật về Ngài. Vì thế, thờ phượng đích thật không còn quy chiếu đến một đền thờ do người phàm xây dựng, nhưng đến Mặc Khải của Chúa Giê-su dưới tác động của Chúa Thánh Thần, qua đó Chúa Cha bày tỏ tận mức tình yêu của Ngài cho nhân loại. Đó sẽ là thờ phượng đích thật, nét đặc trưng của thời đại mới.

Trên bình diện cấu trúc và ngữ nghĩa, câu trả lời của người phụ nữ: “tôi biết” ở 4 : 25 là lời đáp trả tương ứng với lời đề nghị của Đức Giê-su ngay đầu câu chuyện: “nếu chị biết” ở 4 : 10.  Như vậy cuộc đối thoại khởi đi từ lời mời gọi khám phá chân tính của “Đấng đang nói với chị” (4: 10) và hoàn tất ở nơi việc Ngài tự mặc khải mình ra: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây” (4: 26).

  1. Cuộc nói chuyện của Đức Giê-su với các môn đệ (4: 31-38)

Có một cuộc hoán chuyển vai trò của những người đối thoại với Chúa Giê-su. Trước đó, các môn đệ đi vào thành phố mua thức ăn để nhường không gian và thời gian cho người phụ nữ Sa-ma-ri từ thành phố đến múc nước bước vào cuộc đối thoại với Chúa Giê-su. Bây giờ, người phụ nữ Sa-ma-ri trở về thành phố để nhường không gian và thời gian cho các môn đệ từ thành phố trở về bước vào cuộc đối thoại với Thầy.

Ở giữa lòng lịch sử niềm tin của dân Sa-ma-ri xảy ra một cuộc đối thoại của Đức Giê-su với các môn đệ của Ngài (4: 31-38). Cuộc đối thoại này là dịp để Đức Giê-su giải thích không chỉ cuộc đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri và việc dân Sa-ma-ri đến với Ngài, nhưng cũng sứ mạng của Ngài và sứ mạng của các môn đệ Ngài. Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với các môn đệ được dàn dựng như bức tranh bộ đôi: ở tiền cảnh, dân Sa-ma-ri đang trên đường đến với Ngài vì lời loan báo của người phụ nữ, trong khi ở hậu cảnh, Đức Giê-su vẫn ngồi bên bờ giếng và nói chuyện với các môn đệ về ý nghĩa của những gì đã và đang xảy ra.

Trong cuộc đối thoại, những trao đổi giữa Đức Giê-su với các môn đệ đề cập đến hai chủ đề quan trọng: “lương thực” (4: 31-34) và “sứ vụ” (4: 37-38). Chen vào giữa hai chủ đề này là một cuộc trao đổi ngắn về “mùa gặt” (4: 35-36) như một nhịp cầu nối giữa hai chủ đề này.

A -Lương thực (4: 31-34)

Chủ đề “lương thực” là một bước tiến giúp hiểu mầu nhiệm của Đức Giê-su so với chủ đề “nước hằng sống” trước đó. Người phụ nữ Sa-ma-ri đã ngộ nhận ý nghĩa “nước hằng sống” mà Đức Giê-su nói với chị như thế nào, thì các môn đệ ngộ nhận ý nghĩa “lương thực” mà Chúa nói với họ cũng như thế khi họ hỏi nhau: “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?” (4: 33).

Theo Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giê-su đã đáp trả Tên Thử Thách muốn khai thác cái đói vật chất của Ngài trong hoang địa: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra” (Mt 4: 4), theo đó lương thực nuôi sống Đức Giê-su không chỉ cơm bánh vật chất nhưng còn là Lời Thiên Chúa. Theo Tin Mừng Gioan, lời đáp trả của Ngài còn triệt để hơn: lương thực duy nhất nuôi sống Ngài là “thực hiện ý muốn của Cha, chính là hoàn tất công trình của Người” (4: 34).

Khi đối chiếu lời đáp trả của Đức Giê-su ở đây: “Thực hiện ý muốn của Cha, chính là hoàn tất công trình của Người” (4: 34) với lời nguyện hiến tế của Ngài: “Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao phó cho con làm” (17: 4) và với lời nói sau cùng của Ngài trên thập giá: “Thế là đã hoàn tất”(19: 30), các nhà chú giải đều nhận định rằng “công việc” mà trọn cuộc đời Đức Giê-su theo đuổi trên trần gian cho đến khi “hoàn tất” đó là kế hoạch cứu độ mà Chúa Cha đã khởi xướng. Nói cách khác, ý muốn của Chúa Cha được hoàn thành ở nơi công trình của Chúa Con, như Chúa Giê-su nói với người Do thái: “Nếu tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. Còn nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng tin các việc đó. Như vậy các ông sẽ biết và ngày càng biết thêm rằng: Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha” (11: 37-38). Như vậy, “thực hiện ý muốn của Cha” không cốt chỉ thực hiện một sứ vụ đúng thời đúng buổi, nhưng theo đuổi trọn một cuộc đời cho đến lúc hoàn tất trên Thập Giá.

B -Mùa gặt (3: 35-36)

Đức Giê-su dùng hình ảnh “lương thực” để diễn tả sứ mạng của Ngài hiệp nhất với ý muốn của Cha Ngài cho đến mức cả hai nên một lòng một ý. Những câu tiếp theo (4: 35-36) sẽ soi sáng sứ mạng của Ngài bằng hình ảnh khác, hình ảnh “mùa gặt”.

Mới nhìn thoáng qua, có một mối liên hệ giữa hình ảnh “lương thực” và hình ảnh “mùa gặt”. Nếu lương thực là thành quả của mùa gặt, thì mùa gặt là thời gian sau cùng của một tiến trình khởi đi từ gieo giống. Tương tự như vậy, công việc của mỗi vụ mùa bắt đầu với “người gieo” và hoàn tất với “người gặt”.

Đức Giê-su lưu ý các môn đệ: “Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt sao?” (4: 35), lời này rõ ràng ám chỉ đến mùa gặt chưa đến, vì câu trả lời được mong đợi phải là: “Vâng, còn bốn tháng nữa sẽ đến mùa gặt”. Quả thật, đây là khoảng thời gian giữa “gieo” và “gặt” ở miền đất Pa-lét-tin (Am 4: 7). Nhưng lời mời gọi tiếp theo: “Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!” (4: 35) đưa các môn đệ vào bình diện khác, từ bình diện mùa gặt vật chất sang bình diện mùa gặt biểu tượng, theo đó mùa gặt không còn phải đợi cho đến bốn tháng nữa. Đức Giê-su chỉ cho các môn đệ cánh đồng lúa chung quanh còn bốn tháng nữa sẽ đến mùa gặt để mời gọi họ vươn tầm nhìn cao hơn: đồng lúa chín vàng đang chờ ngày thu hoạch đó chính là dân Sa-ma-ri đang trên đường đến với Ngài.

Trong khi truyền thống Nhất Lãm nhấn mạnh mùa gặt dưới khía cạnh án phạt: “Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi” (Mt 13: 30, 40), thì Tin Mừng Gioan nhấn mạnh mùa gặt dưới khía cạnh niềm vui: “Cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng” (Ga 4: 36b). Truyền thống Cựu Ước cũng loan báo rồi vào thời Thiên Sai không còn khoảng cách giữa người gieo với kẻ gặt: “Này đây sắp đến những ngày thợ cày nối gót thợ gặt, kẻ đạp nho tiếp nối bước người gieo giống” (Am 9: 13; Lv 26: 5). Trong bối cảnh cuộc gặp gỡ của Đức Giê-su với dân Sa-ma-ri, chúng ta có thể nghĩ rằng Đức Giê-su ám chỉ đến cuộc quy tụ của dân Sa-ma-ri chung quanh Ngài như niềm vui của mùa gặt thời Thiên Sai (4: 39-42).

C -Sứ vụ (4: 37-38)

Xét về phương diện hình thức, có một sự liên tục giữa đề tài mùa gặt đi trước (4: 35-36) và đề tài sứ vụ theo sau (4: 37-38). Trước hết, liên từ: “Thật vậy” ở đầu câu 37 tiêu biểu Tin Mừng Gioan, khẳng định những điều đi trước, đồng thời khai triển những điều theo sau như nhân với quả (x. Ga 9: 30; 13: 35; 15: 8). Quả thật, qua câu tục ngữ: “kẻ này gieo, người kia gặt”, việc sai các môn đệ ra đi thi hành sứ vụ như những thợ gặt khai thác cùng một hình ảnh “mùa gặt” trước đây. Nhưng nếu 4: 36b hiệp nhất “cả người gieo lẫn kẻ gặt”, thì 4: 37 lại phân biệt “kẻ này gieo, người kia gặt”.

Chính trên nền tảng của sự phân biệt này mà chủ đề sứ vụ của các môn đệ như những thợ gặt được khai triển: “Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ” (4: 38). Câu nói trầm buồn này ám chỉ cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài. Nhờ sự nhọc mệt vất vả của Ngài, mùa thu hoạch sẽ là ơn cứu độ cho con người. Như vậy, cuộc Khổ Nạn của Đức Ki-tô đóng khung toàn bộ câu chuyện lớn lao này: cái khát của Ngài bên bờ giếng Gia-cóp loan báo một cái khát khác: “Ta khát” (Ga 19: 28) trên thập giá. Chính vì mùa gặt này mà Ngài sẽ sai các môn đệ Ngài đi gặt những gì Ngài gieo bằng cuộc sống vắt cạn của mình.

  1. Cuộc gặp gỡ của dân Sa-ma-ri với Đức Giê-su (4 : 39-42)

Lời chứng của người phụ nữ làm xôn xao dân Sa-ma-ri và thúc dục họ lên đường đích thân đến với Đức Giê-su, xin Ngài ở lại với họ, và Ngài đã chấp nhận ở lại với họ hai ngày.

Dù khởi điểm niềm tin của họ xuất phát từ lời chứng của người phụ nữ, tuy nhiên niềm tin của họ không dừng lại nhưng vượt qua lời chứng này: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (4: 42).  Do đâu mà dân Sa-ma-ri đạt đến một niềm tin sâu xa như vậy, nếu không phải là họ đã lợi dụng hai ngày Đức Giê-su ở lại với họ để đích gặp gỡ và đối thoại với Ngài? Nếu thế, đức tin của họ không còn dựa trên lời chứng của người phụ nữ, nhưng trên kinh nghiệm cá nhân của mình trong cuộc gặp gỡ và đối thoại với Đức Ki-tô. Lúc đó, sự kiện “Dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày” (4: 40) phải là trọng tâm của câu chuyện giữa Chúa Giê-su và dân Sa-ma-ri.

Thật kỳ diệu, “Đấng Cứu Độ xuất thân từ dân Do thái” được người Sa-ma-ri đón tiếp một cách nồng hậu và được tuyên xưng là “Đấng cứu độ trần gian”, tức là Đấng vượt lên trên tất cả mọi xung đột chủng tộc, văn hóa và tôn giáo. Sự nghịch lý này vang dội ngay ở đầu Tin Mừng:

“Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.

Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người,

thì Người cho họ quyền trở thành con Thiên Chúa” (Ga 1 : 11-12).

Thánh ký kết thúc câu chuyện của mình bằng cách gợi lên tước hiệu mà dân Sa-ma-ri ban cho Ngài: “Đấng cứu độ trần gian”. Quả thật, thánh Gio-an là thánh ký duy nhất sử dụng tước hiệu này. Toàn bộ câu chuyện nhận được ý nghĩa sâu xa của nó: loan báo chiều kích hoàn vũ của ơn cứu độ.

Vài nhà chú giải vạch ra một sự đối xứng đáng ngạc nhiên giữa bài tường thuật về sứ vụ của Đức Giê-su ở Sa-ma-ri và bài trình thuật về cuộc Tử Nạn của Ngài trong Tin Mừng Gioan. Quả thật, cả hai đều kể ra thân xác mệt mỏi của Ngài, cơn khát của Ngài và sự hoàn tất công việc của Ngài. Từ đó, họ nghĩ rằng có một mối liên hệ giữa công trình truyền giáo mà Đức Giê-su thực hiện ở Sa-ma-ri, ở đó, Ngài được tuyên xưng là “Đấng Cứu Độ trần gian” và công trình cứu độ thế giới mà Ngài thực hiện trên thập giá; nghĩa là giữa thời gian mặc khải Đấng cứu độ trần gian và thời gian thực hiện ơn cứu độ cho trần gian. Lúc đó, “mười hai giờ trưa” ở trong câu chuyện này ám chỉ đến “mười hai giờ trưa” trong 19: 14, giờ siêu thăng, giờ ban Thánh Thần, giờ sinh ra Giáo Hội.

Về mục lục

CƠN KHÁT.

An Phong

Chúa Giêsu đi đường mỏi mệt nên ngồi xuống trên bờ giếng”; và Ngài nói với người phụ nữ Samari “Chị cho tôi xin chút nước uống”. Chúa Giêsu xuống trần gian để chia sẻ kiếp sống của con người; Ngài cũng là một con người cụ thể, có những khó khăn của cuộc sống, có những vấn đề phải lo toan, có những vất vả đắng cay của một kiếp người như tất cả chúng ta. Chúa Giêsu cũng trải qua sự mỏi mệt và cơn khát của cuộc sống con người. Đừng ai nói rằng chỉ một mình tôi khổ nhất, chỉ một mình tôi bất hạnh nhất, cuộc đời của tôi khốn nạn nhất; vì đã có một Vị Thiên Chúa làm người và Ngài cũng “mỏi mệt”, cũng “khát” như tất cả chúng ta.

Tuy nhiên, dân Israen đã khát và đã kêu than trách móc; người thiếu phụ Samari đã khát và mong chờ Chúa Giêsu cho mình một thứ nước uống vật chất, bà được “hết khát và khỏi đến đây lấy nước”. Còn Chúa Giêsu, được chia sẻ cơn khát của con người, Ngài lại càng ước mong ban tặng một thứ Nước Trường Sinh có thể giúp nhân loại khỏi khát. Nước đó chính là bản thân Chúa Giêsu, là ơn Cứu độ của Chúa Giêsu, là Đấng có thể giải quyết “cơn khát” sâu xa giằng xé con người: “Đấng ấy chính là Ta, Người đang nói với chị đây.”

Cơn khát trong sa mạc cuộc đời vẫn luôn là “Maxa” và “Mêriba”, nghĩa là vẫn là nơi “thử thách” và “gây chuyện”. Nếu chúng ta cứ kêu than và trách móc; nếu chúng ta cứ tưởng có thể “giải khát” bằng những thứ “nước tiền tài”, “nước cơm bánh”, “nước danh vọng”, thì chúng ta đang tiếp tục cuộc thách thức Chúa như người Israen xưa.

Ngược lại, nếu chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng duy nhất có thể ban “Nước” để “ai uống Nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa”, thì chúng ta cũng sẽ được cứu độ như người Samari; và được vui mừng như “Dân Samari xin Người ở lại với họ”… “vì chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Vị Cứu tinh của trần gian.”

Con mang vác nặng quá rồi, Chúa ơi!

Con chịu đựng không nổi nữa!

Con đường con đi, chưa dài lắm

Nhưng quá khứ đã đủ chất chồng;

Con đã sống bao biến cố tang thương.

Và nhiều lúc con xây xẩm mặt mày.

Con mang vác nặng quá rồi, Chúa ơi!

Con chịu đựng không nổi nữa!

Nhưng hôm nay… Lạy Chúa!

Có phải con mơ không?

Con tin mình đã tìm thấy

Điều mà từ lâu Chúa chờ đợi nơi con.

Con tình cờ đọc được

câu Thánh vịnh in nơi tấm hình:

“Hãy vứt bỏ những lo lắng trong Chúa

và chính Ngài sẽ nâng đỡ con luôn.”

Và con tin rằng, qua lời kinh đó,

Chúa đang thực sự nói với con.

(Michel Quoist)

Về mục lục

NGUỒN NƯỚC DIỆU KỲ

Thiên Phúc

Có một người Ả Rập nghèo nọ phải băng qua giữa sa mạc trong cơn đói khát và mệt lả. Tình cờ, người đó bắt gặp một dòng suối. Với tất cả tấm lòng biết ơn ông ta uốn từng ngụm nước và cảm thấy ngọt ngào khôn tả. Ông múc nước đổ vào bầu da cho đầy và tiếp tục cuộc hành trình.

Sau nhiều ngày vất vả, ông đã đến thủ đô Baghdad. Tìm đủ cách để được tiếp kiến quan đầu tỉnh, ông dâng kính cho quan tặng vật là chính bầu nước. Quan đầu tỉnh đón nhận món quà một cách vui vẻ. Cho nước vào trong ly, ông uống cạn và cám ơn người Ả Rập, đồng thời tưởng thưởng ông một cách quảng đại.

Những người hầu cận cứ nghĩ thầm rằng đây là một thứ nước kỳ diệu nên ai cũng mong được nếm thử. Nhưng quan đầu tỉnh nhất mực từ chối… Chờ cho người Ả Rập đi khuất, quan mới giải thích về cử chỉ của mình. Nước để lâu trong bầu da đã trở nên bẩn và hôi thối. Quan nghĩ rằng nếu tất cả mọi người đều uống nước đó và đều tỏ thái độ khó chịu trước mặt người Ả Rập, ông ta hẳn sẽ bị tổn thương.

***

Người Ả Rập cứ tưởng mình trao tặng cho quan đầu tỉnh món quà diệu kỳ. Hóa ra là chính quan đầu tỉnh mới là người tặng cho anh món quà vô giá, với một phong cách trao ban hết sức tế nhị và thấm đậm tình người.

Người phụ nữ Samari cứ tưởng mình làm ơn cho Đức Giêsu khi cho Người uống nước từ giếng Giacóp. Hóa ra Người mới chính là vị ân nhân sẽ ban cho bà một thứ nước diệu kỳ, uống vào “sẽ không bao giờ khát nữa”.

Nước ấy chính là Nước hằng sống, nước đó chính là Lời Đức Giêsu, Lời bày tỏ con người kín nhiệm của Người, là Đấng Mesia sẽ đến. Để cuối cùng, Người dã tự tỏ mình ra không phải cho người Do Thái đồng hương, cũng không phải cho các môn đệ thân yêu, mà là cho chính chị, người phụ nữ ngoại giáo Samari: “Đấng ấy chính là tôi, Người đang nói với chị đây” (Ga 4,26). Niềm vui vỡ òa trong tim, chị vội vã đi loan báo cho dân làng, để họ cũng được uống thứ nước tuyệt diệu của Đức Giêsu, Nước hằng sống, nước uống vào sẽ không còn khát nữa.

“Đấng ấy” chính là Mêsia, vị cứu tinh của nhân loại. Chỉ những ai tin vào Người, mới đáng lãnh nhận ơn cứu độ.

“Đấng ấy” chính là Nước hằng sống. Chỉ những ai thật lòng khao khát mới được ban cho thỏa thuê dư dầy.

“Đấng ấy” chính là Lời hằng sống. Chỉ những ai đón nhận Lời và thực thi trong cuộc sống, mới được sống đời đời.

Cuối cùng, Đức Giêsu không ăn cũng chẳng uống. Vì Người dùng một thứ lương thực mà chính các Tông đồ cũng không hề biết. Thánh Gioan đã không để chúng ta phải chờ đợi lâu. Vâng, lương thực của Người chính là “đồng lúa đã chín vàng đang chờ gặt hái” (c.35), là “nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Người” (c.39). Cơn đói của Người là mong cho mọi người nhận biết và yêu mến Cha, cơn khát của Người là ước cho muôn người được no thoả “nước uống vào sẽ không còn khát nữa”.

Chúng ta sẽ làm thỏa cơn đói của Đức Giêsu, khi chúng ta làm theo người phụ nữ Samari mau mắn đi loan báo cho dân làng biết Người chính là Đấng Mêsia.

Chúng ta sẽ làm thoả cơn khát của Đức Giêsu, khi chúng ta cùng với dân làng Samari tin Người là “Đấng cứu độ trần gian” (c.42).

***

Lạy Chúa, xin khơi dậy nơi chúng con nỗi khao khát hướng về Chúa, nỗi khao khát được Chúa cứu độ và yêu thương. Amen.

Về mục lục

NƯỚC HẰNG SỐNG.

Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng

Có một câu chuyện mang tên “Lòng cảm thông”, có nội dung như sau:

Có một goá phụ giàu có nọ phụng dưỡng một tu sĩ trong 20 năm liền.

Bà xây cho vị tu sĩ này một tịnh xá ngay trong khu vườn vắng vẻ thanh tịnh của bà. Bà cung cấp cho ông đủ mọi thứ trong thời gian ông tu niệm. Bà rất đỗi sung sướng khi nhận thấy những tiến bộ của ông trong bước đường thiêng liêng, nhưng bà vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng. Để xem 20 năm hy sinh của bà có hoài công hay không, người đàn bà này quyết chí thử lòng kẻ tu trì.

Một hôm, bà cho tìm một cô gái trẻ đẹp, trả tiền cho cô và sai cô đến cám dỗ vị tu sĩ. Nửa đêm, trong lúc vị tu sĩ này đang ngồi thiền, cô gái xông cửa bước vào tịnh xá và dùng đủ mọi lời lẽ, cử chỉ để quyến rũ ông, nhưng vị tu sĩ vẫn một mực chìm đắm trong việc tụng niệm. Đến một lúc không còn chịu đựng được nổi sự tấn công của cô gái nữa, vị tu sĩ bèn quơ cái chổi đánh túi bụi vào người cô gái và tống cô ra ngoài.

Cô gái đến gặp người đàn bà và kể lại diễn tiến câu chuyện.

Người đàn bà hài lòng về sự thánh thiện của vị tu sĩ này ư? – Không! Nghe cô gái tường thuật xong, người đàn bà liền nổi giận thốt lên:

Hắn ta không biểu lộ một sự thông cảm nào với con, hắn ta không nói được một lời để khuyên bảo dạy dỗ con, 20 năm tu niệm ăn chay của hắn qủa là vô ích. Bởi vì hắn chưa đạt được điều thiết yếu trong cuộc sống, đó là lòng cảm thông.

Tìm đến con người

Thiên Chúa luôn đi bước trước để đến với con người. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. (Ga.1,14).

Chúa Giêsu đã đi con đường băng ngang miền Samari, và Ngài đã mở đầu câu chuyện với một phụ nữ Samari bằng việc “xin nước uống”.

Thật ra, để có nước uống, Chúa Giêsu có cần phải “xin” người phụ nữ này không, khi mà người Samari và người Do-Thái xem nhau như kẻ thù? “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?” Quả thế, người Do-thái không được giao thiệp với người Samari. (Ga 4,9) – Chắc hẳn là không! Chúa Giêsu đang đi với các môn đệ. Chắc các ông sẽ có cách lo liệu cho thầy mình qua cơn khát. Nên, việc Chúa Giêsu xin nước là để mở đầu câu chuyện trong “hòa bình”. Ngài đóng vai một người đang cần “sự giúp đỡ”, và người giúp đỡ sẽ dễ dàng đặt câu hỏi đối với người xin mình, vì họ cảm thấy mình quan trọng.

Cuộc đối thoại trong Tin Mửng hôm nay là sự trao đổi bằng những ngôn ngữ thật đẹp, thẳng thắn và chân thành, không có khoảng cách thận trọng e dè giữa đôi bên.

Tôn trọng con người

Thiên Chúa luôn yêu thương và tôn trọng con người, vì con người là con Thiên Chúa. “Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?” (Tv.8,5).

Thái độ “xin” là một thái độ “khiêm nhượng” và “tôn trọng” người mình xin. Trong tình yêu, luôn có sự kính trọng! Thái độ “lắng nghe” Chúa Giêsu nói của người phụ nữ Samari cho thấy ranh giới “nghi kỵ, thù hận” đã được tháo bỏ trong tâm hồn chị ấy. Ngay những lời nói sơ giao, người phụ nữ Samari đã thấy Chúa Giêsu, người đàn ông Do Thái này, là người “có thể đối thoại được”. Và điều ấy, cũng chính là sự mở đầu của niềm tin. – Không ai thèm nói chuyện với một người mà người ta hoàn toàn không thể tin tưởng!

Thái độ “phá bỏ cái giới hạn hẹp hòi” đã phân chia hai dân tộc anh em là người Samari và Do Thái đã tạo ra ngay trong lòng người phụ nữ “câu hỏi” đầu tiên:“người này là ai?”, vì sao là một người Do Thái lại có thể giao thiệp tự nhiên với một người Samari?

Diễn tiến câu chuyện, Chúa Giêsu đã tạo cho người phụ nữ Samari phải liên tiếp tự đặt câu hỏi về Ngài. Ta có thể suy ra những ý nghĩ trong lòng người phụ nữ này, tỷ như: Người này là ai mà biết tất cả những việc mình làm như thế? Người này là ai mà trả lời trôi chảy mọi điều mình thắc mắc như thế? Để rồi, người phụ nữ ấy đi dần đến nhận ra Ngài là một Ngôn sứ. Cuối cùng là Đức Kitô.

Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” (Ga.4,28-29).

Cứu chuộc con người.

Diễn tiến sự thay đổi trong lòng người phụ nữ Samari luôn là câu hỏi: “Người này là ai?”. Và trên bước đường rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng luôn muốn con người tự tìm ra câu hỏi ấy cho chính mình. Bởi vì Niềm Tin phải là sự “nhận biết” Đấng Cứu Thế.

Chúa Giêsu hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?”. Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ. Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Si-mon thưa: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. (Mt.16,13-16).

Nhận biết Con Người là ai? Giêsu Nagiarét là ai? Con người mới có thể đi tới Đức Tin. Tin vào Đức Kitô, con người mới nhận được “Nước Hằng Sống”, thứ nước đáp ứng đầy đủ mọi “cơn khát chính đáng” của con người, Những “khát vọng” mà cuộc đời không thể thỏa mãn được.

Chỉ có Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc con người, mới đem lại màu xanh sức sống cho những tâm hồn cằn cỗi kiếp nhân sinh.

Tất cả đều đến từ Tình Thương. Và Tình Thương luôn là điều cấp bách, vì con người quá thiếu.

Sẽ chẳng có câu chuyện Tin Mừng tuyệt đẹp hôm nay nếu Chúa Giêsu cũng tẩy chay người Samari, và lánh xa người phụ nữ Samari tội lỗi này, như thái độ tống khứ cô gái bằng vũ lực ra khỏi phòng của vị tu sĩ trong câu chuyện “lòng cảm thông” kể trên.

Hắn ta không biểu lộ một sự thông cảm nào với con, hắn ta không nói được một lời để khuyên bảo dạy dỗ con, 20 năm tu niệm ăn chay của hắn qủa là vô ích. Bởi vì hắn chưa đạt được điều thiết yếu trong cuộc sống, đó là lòng cảm thông.

Tràn ngập trong cuộc sống con người là những nỗi lòng âm thầm đau khổ, là những bon chen trong hạnh phúc phù phiếm, là khắc khoải lo toan, là những cơn khát triền miên mà con người cố gắng tìm cách thỏa mãn với những niềm vui hụt hẫng chóng qua.

Trong điều kiện sống của người Samari, xứ sở cao nguyên và sa mạc, có được “giếng nước” là xem như có tất cả. Nguồn nước là nguồn sống. Mạch nước là mạch sống. Nên “giếng nước” rất quan trọng, đó là sự sống còn của họ.

Chị ấy nói: “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy.”(Ga.4,11-12).

Nhưng sự vui mừng của người phụ nữ Samari thật rất cảm động, ta có thể hình dung sự vui mừng của chị ấy khi bỏ tất cả những gì đang có để reo mừng và chạy vào thành để loan báo Tin Mừng mà chị vừa nhận được.

Sự vui mừng của người phụ nữ Samari cho thấy cuộc sống của chị tuy đã có rất nhiều nhưng còn đó cơn khát vô tận. “Người phụ nữ nói với Đức Giêsu: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” (Ga.4,15).

Không có một lời khiển trách nào đối với một người phụ nữ mà sáu người đàn ông bước qua cuộc đời chị không ai là chồng cả! Nhưng ở đây, niềm vui của chị khi đón nhận Lời Hằng Sống cũng chính là Sám Hối. Chị bỏ lại tất cả mọi thứ bên bờ giếng, cũng như bỏ lại quá khứ tội lỗi của cuộc đời mình, và đã đóng vai người đi loan báo Tin Mừng với niềm vui khôn tả!

Không có sự ngượng ngập hay hổ thẹn khi nhắc đến quá khứ đời mình, “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm”. (Ga.4,29), vì chị không để tâm gì đến nó nữa, mà trong tâm trí chị giờ đây chỉ nhớ đến một điều là loan tin về Đấng Cứu Thế. “Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” (Ga.4,29).

Truyền giáo

Thế giới vẫn còn đây cơn khát vô tận, dù sự khôn ngoan của con người đã lên đến đỉnh cao và cuộc sống con người đang rất giàu có.

Chỉ cần dành vài phút giây để nhìn vào thế giới hôm nay, để thấy đây đó bao cảnh thiên tai, chiến tranh, mất mát, đau thương. Để hiểu giá trị cát bụi, phù vân. Để nghe cơn khát bất tận của con người. Để chọn đâu là những chân giá trị. Để đi đúng con đường của sự sống đích thực.

Con đường Giêsu. “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14,6)

Có thể nhận ra trong Tin Mừng hôm nay bài học tuyệt đẹp về truyền giáo:

Truyền giáo là yêu thương. “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: “Cho tôi chút nước uống”, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống.”

Truyền giáo là sứ mệnh. “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”. (Ga.4,34).

Truyền giáo là cấp bách. “Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!” (Ga.4,35).

Truyền giáo là hạnh phúc.“Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng.” (Ga.4,36).

Lạy Chúa,

Xin cho con một con tim giàu lòng nhân ái,

để con biết bước theo Chúa,

với một tấm lòng dạt dào yêu thương. Amen.

Về mục lục

BẠN ĐANG KHÁT ĐIỀU GÌ?

Lm. Jos. DĐH.

Khả năng hiểu biết, thành đạt giầu có, chỗ đứng trong xã hội, và còn nhiều thứ khác, như khát tình yêu thương, khát được hạnh phúc, có phải đó là những khao khát chính đáng không, khi ta mang thân phận người ? Câu hỏi làm gì để ta hết khát, sẽ phức tạp đối với người thông thái, và rất đơn giản với những tâm hồn đơn sơ bé nhỏ: khát nước thì đi uống nước. Quy luật tự nhiên, khát cơm bánh thì phải chăm chỉ làm ăn, khao khát kiến thức phải nghiêm túc học tập, hoặc theo quan niệm dân gian: có chí làm quan có gan làm giầu. Còn khát tình yêu thương, nên tìm gặp Đức Giêsu, chiêm ngắm thập giá Chúa Kitô ; kẻ ấy sẽ có câu trả lời: “Thiên Chúa là Đấng giầu lòng xót thương”, và vì sao người thiếu phụ bên bờ giếng Gia-cóp hết khát, khi trò chuyện với Đức Giêsu.

Thực ra, để giải toả cơn khát thể lý còn có công thức áp dụng: cơm ba chén, thuốc ba thang ; để no thoả đời sống tâm linh, người ta phải tin Đức Giêsu là Đấng cứu độ trần gian, tuân thủ theo quy trình: sám hối, từ bỏ, và sống niềm tin từng ngày. Ví như mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh, ai chẳng muốn giải toả cơn khát của mình, nhưng trước hết, chúng ta phải xác định tôi đang khát tiền, khát tình, khát hạnh phúc trần gian, hay ta đang khát ơn Chúa ? Cứ theo lý lẽ ở đời, đói khát cơm bánh, quyền lực, người ta không thể “ngồi ngáp” chờ đợi như chờ “sung rụng”. Khát ơn Chúa, khao khát sự sống đời đời, không ai lại tìm đến đại gia, không ai khờ đến độ tìm kiếm cơm bánh nuôi linh hồn, hoặc uống bia ngoại, rượu tây, để thoả mãn cơn khát tâm linh. Đức Giêsu đã chẳng kiên nhẫn khai trí mở lòng cho người thiếu phụ: “ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta ban sẽ không bao giờ khát nữa”.

Bạn đang khát điều gì ? Bạn có nghĩ rằng, địa vị giầu sang tại trần thế này sẽ đem lại hạnh phúc đời đời cho bạn không ? Thánh Phaolô nơi bài đọc 2 đã nói: “Thiên Chúa yêu thương con người ngay khi họ còn là tội nhân ; Thiên Chúa đã ban Con Một Ngài đến thế gian: chịu chết và sống lại, để nhân loại qua Đức Kitô được biến đổi, được sự sống đời đời”. Nếu Thiên Chúa thực thi điều kỳ diệu từ tảng đá ở núi Ho-rép cho dân chúng thoả mãn cơn khát, thì tại nơi bờ giếng Gia-cóp, Đức Giêsu đã lay động được tâm tư người thiếu phụ biết khát niềm tin, khát sự sống: “xin Ngài cho tôi thứ nước mà Ngài vừa nói đến, để tôi khỏi khát và từ nay không phải ra đây múc nước nữa” !

Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người thiếu phụ năm xưa cho thấy: những khát vọng của con người và tình yêu thương của Thiên Chúa mà gặp nhau, việc hoán cải và ơn biến đổi tất nhiên sẽ mở ra sự sống đời đời là có thật. Đức Giêsu đã nói với người thiếu phụ Samari: “này chị, hãy tin tôi, đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Nhưng giờ đã đến, những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế”.

Nhờ cuộc đối thoại trong yêu thương chân tình, người thiếu phụ “khát đủ thứ” đã được biến đổi, đã biết khát thứ nước “siêu nhiên”, và chị đã tin Đức Giêsu là Thầy, là Ngôn Sứ, là Tiên Tri, là Đấng cứu độ duy nhất. Ở trong nhà thờ này, ở trong tình hiệp thông cầu nguyện lúc này, bạn và tôi có muốn bày tỏ cơn khát của mình với Đấng cứu độ trần gian không ? Cuộc đời của mỗi người có phải là một quá trình tìm kiếm hạnh phúc không, dù ở hoàn cảnh nào, chúng ta cũng có thể đối thoại, gặp gỡ thân tình với Đức Giêsu, và chỉ ở trong tình yêu Giêsu, người ta mới hết khát, mới đủ bình an, niềm vui thật.

Trong kho tàng truyện dân gian có nói tới 5 ông thầy bói mù đi xem voi đầy vẻ tự đắc: ông thì sờ mặt voi, ông thì sờ ngà voi, ông thì sờ trúng tai voi, ông thì sờ chân, ông khác lại sờ đuôi voi. Tất nhiên, mỗi ông thầy mù đó có quyền nói về hình thù voi theo suy nghĩ của các ông đụng chạm tới con voi. Thế rồi chẳng ai chịu cho mình là sai, và cãi nhau, đánh nhau, chỉ vì các ông thầy mù đã thoả mãn được cái khát về sản phẩm mà các ông đã đụng chạm tới chi thể con voi.

Con người khát hiểu biết, khát hoàn thiện, khát chân lý, nhưng căn bản hơn đó là khát được hạnh phúc, khát sự sống đời đời. Mỗi người kitô hữu, trước hết và trên hết, chúng ta phải xác định xem mình có khao khát ơn Chúa không, có khát hạnh phúc đời đời không ? Không giống như 5 thầy mù đi xem voi, nhưng những người Samaria đã nói với người phụ nữ: “không phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe, và biết rằng “Người” thật là Đấng cứu độ trần gian”. Xin tình yêu Chúa soi trí mở lòng, hầu tất cả chúng ta đều biết khiêm tốn tỏ bày với Đức Giêsu trên thập giá: con tin Chúa, con khao khát được theo Chúa làm môn đệ, làm thần dân của Chúa.  Amen.

Về mục lục

KHAO KHÁT MỘT TÌNH YÊU

Lm. Giuse Nguyễn

 Tác giả Lam Tuyền có bài thơ nổi tiếng mang tên Đi Tìm: “Tôi khao khát một mối tình, Một tình yêu chỉ riêng dành cho tôi, Để ngày tôi ngắm tôi soi, Để đêm đắp áo cho người xông hương, Để xa tôi nhớ tôi thương, Để gần tôi thấy thiên đường ở bên, Để khi trống trãi ưu phiền, Ngã vào lòng bạn là tan hết sầu, Để khi nước lớn sông sâu, Được cầm tay bạn qua cầu bình yên, Tôi đang khao khát đi tìm, Một tình yêu chỉ là riêng của mình”. Nếu “Khao khát một tình yêu chỉ là riêng của mình”, thì hôm nay phụng vụ lời Chúa sẽ chỉ cho chúng ta tìm gặp.

Câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với người phụ nữ  Samari là một trong những trang đẹp nhất của Tin Mừng Gioan. Chúa Giêsu đã cố tình đi ngang qua vùng đất Samari là vùng đất của dân ngoại; Đã dừng lại tại bờ giếng Giacop là nơi thỏa mãn cơn khát thể lý của người dân trong vùng, là nơi để mọi người trong vùng có thể gặp gỡ, tâm sự, chia sẻ với nhau. Điểm đặc biệt là người phụ nữ này lại đi lấy nước vào buổi trưa, thời gian nắng gay gắt, ít người đi lấy nước. Nếu như vậy thì chắc chắn chị không thể gặp gỡ, không thể chia sẻ, tâm sự với những người dân trong vùng đó. Và đó là điều cố tình của chị. Chị chỉ muốn sống cô độc trong tội lỗi của mình. Chị sợ phải đối diện với người khác, đối diện với sự thật.

Nhưng Chúa Giêsu đã không để cho chị yên trong bình an giả tạo. Ngài đã khoấy động tâm hồn chị để những cặn bã, những dơ dáy bấy lâu nay vốn nằm yên phải trồi lên, để từ đó Ngài gạn đục, khơi trong cho tâm hồn chị. Chị định đi lấy nước, thứ nước chỉ làm thỏa mãn cơn khát vật chất, và sẽ còn khát mãi, nhưng chị đã gặp được nguồn nước làm thỏa mãn tâm hồn chị và không bao giờ khát nữa.

Từ việc gặp gỡ một anh thanh niên Do Thái, đến một tiên tri, và cuối cùng là Đức Kitô, chị đã hoàn toàn biến đổi: dám chấp nhận con người thật của mình, không cần đến thứ nước vật chất uống vào vẫn khát, và nhất là chị đã mạnh dạn loan báo tin mừng ơn cứu độ mà chị vừa nhận được. Chị đã khao khát một tình yêu và chị đã tìm gặp một tình yêu. Chính tình yêu của Đức Kitô đã làm cho chị trở thành một con người mới.

Mùa Chay là thời gian để chúng ta vào sa mạc tìm kiếm nguồn nước, nhưng không phải là thứ nước vật chất, mà là Nước Hằng Sống, Nước đem đến ơn cứu độ. Hãy khám phá tiến trình gặp gỡ Đức Kitô của người phụ nữ Samari để chúng ta cũng được thỏa mãn cơn khát sâu thẳm trong tâm hồn, hầu chúng ta trở thành một con người mới.

  1. Dám bước đến gần Đức Kitô

Người phụ nữ Samari không biết người đối diện với mình là Đức Kitô, Đấng mà chị và dân tộc của chị cũng được nghe nói đến: “Tôi biết Đấng Messia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến” (Ga 4, 25). Nhưng nhờ chị dám đối diện với người thanh niên Do Thái, dám truyện trò với anh ta mà chị đã nhận ra Ngài là Đức Kitô, để từ đó Ngài cho chị thứ nước không còn khát nữa.

Còn chúng ta, chúng ta đã biết Đức Kitô là Đấng cứu độ, Đấng sẽ làm cho chúng ta không bao giờ khát nữa, vậy mà chúng ta đã mạnh dạn đến với Ngài chưa? Tôi thấy chúng ta có đến nhưng chưa gần, có gần nhưng chưa đủ. Ví dụ có đến để tham dự thánh lễ ngày Chúa Nhật, nhưng còn nhiều người ngồi bên ngoài nhà thờ. Đi tham dự thánh lễ mà ngồi tán gẫu, hút thuốc, lấy điện thoại nhắn tin… Nếu xét về tình yêu dành cho Chúa thì chưa có, nếu xét về luật để yên lương tâm thì chưa trọn vẹn vì chúng ta chưa tham dự thánh lễ thực sự.

Hãy mạnh dạn đến gần Đức Kitô trong các giờ kinh tối chung trong gia đình, trong các giờ cầu nguyện riêng tư với Chúa, trong các thánh lễ, trong các bí tích. Khi mạnh dạn đến gần Ngài, tình yêu của Ngài sẽ như nguồn nước tuôn chảy đến tâm hồn khô khan, cằn cỗi của chúng ta giúp chúng ta không còn khao khát những điều bất chính nữa, mà sẽ khao khát một tình yêu chỉ riêng với Ngài.

  1. Dám đối diện với sự thật

Để có được thứ nước uống vào sẽ không bao giờ khát nữa và đem lại sự sống đời đời, Chúa Giêsu đã mở ngõ để chị phụ nữ dám chấp nhận sự thật nơi bản thân mình. Sự thật đó là: “Chị đã có năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị” (Ga 4, 18). Khi đối diện với sự thật không mấy tốt đẹp này, ban đầu chị thấy xấu hổ, nhục nhã lắm, nhưng sau đó, chị đã dám chạy vào thành, dám tiếp xúc với nhiều người, và dám nói lên sự thật của mình: “Người phụ nữ để vò nước lại, chạy vào thành và nói với người ta: “Đến mà xem một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi làm” (Ga 4, 29).

Những tội lỗi như hòn đá nặng trĩu lấp đầy tâm hồn chị bấy lâu nay. Giờ đây nhờ biết quăng ra khỏi tâm hồn mình để nhường cho một nỗi khao khát. Chính lúc đó Đức Kitô đã lấp đầy tâm hồn chị bằng một tình yêu đổi mới, một tình yêu cứu độ.

Muốn gia đình, cộng đoàn được tốt, thì từng người phải dám chấp nhận sự thật nơi bản thân mình, không được che lấp, dối gạt nhau. Thường thì người ta chỉ công khai và thích công khai những điều tốt, còn những sai lầm thì cố giấu diếm cho đến khi không còn giấu diếm được thì thôi. Dĩ nhiên có những sai lầm, những tội lỗi không thể nói ra trước mặt mọi người. Đối diện với sự thật là dám chấp nhận những tội lỗi của mình và quyết tâm không tái phạm nữa, sau đó đến với tòa giải tội để xưng thú tất cả.

Có những người đi xưng tội mà cố tình giấu diếm hoặc nói tránh đi, nói một cách chung chung. Ví dụ “Thưa cha con xúc phạm đến Chúa nhiều lắm, xin cha tha tội cho con”. “Thưa cha con làm nhiều điều xấu lắm, xin cha tha tội cho con”. Không xúc phạm đến Chúa, không làm điều xấu thì đi xưng tội làm chi, mà cụ thể đó là gì?… Khi chưa dám đối diện với sự thật, là chúng ta chưa thành tâm trở về với Chúa.

Nói tóm lại, phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết Đức Kitô là Nước Hằng Sống sẽ lấp đầy mọi khao khát trong tâm hồn chúng ta. Khi đến với Ngài, chúng ta sẽ không bao giờ khát nữa. Muốn có được nguồn nước đó chúng ta phải đến gần Ngài để được Ngài dạy bảo, được Ngài cho thấy con người thật của chúng ta. Đồng thời phải dám chấp nhận con người thật của mình với những yếu đuối, tội lỗi và mạnh dạn quay trở về với Chúa.

“Thiên Chúa là Tình Yêu”. Khi chúng ta biết “khao khát một Tình Yêu” là chúng ta đang đến gần Chúa. Khi chúng ta có được Tình Yêu của Chúa là chúng ta đang lấp đầy tất cả, là chúng ta “đang nghỉ yên bên Chúa, nguồn hạnh phúc đời con”.

Về mục lục

ÂN TÌNH NGÀI CHỨA CHAN

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Thiên Chúa không bao giờ từ bỏ con người và ân sủng của Người vẫn hằng chan chứa cho cả những ai được coi là không xứng đáng. Đó là chủ đề mà chúng ta suy niệm trong thánh lễ Chúa Nhật III Mùa Chay dưới ánh sáng của các bài đọc Lời Chúa hôm nay.

1- Thiên Chúa sẵn sàng thi ân giáng phúc

Trong bài đọc I (Xh 17,3-7), dân Do Thái hành trình trong sa mạc, họ phải chịu cảnh đói khát vì không có thức ăn và nước uống. Họ cần của ăn và nước uống. Họ lãng quên những việc kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm. Nên họ kêu trách ông Môsê và Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa trả lời cho dân “vô ơn” này bằng việc ban cho họ nước uống. Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Người không thù hận ai. Thiên Chúa hiểu thấu nỗi thống khổ của họ và ban cho họ những gì cần thiết.

Trong bài đọc II (Rm 5,1-2.5-8), thánh Phaolô nhắc bảo chúng ta rằng tình yêu Thiên Chúa và ơn cứu độ của Chúa Giêsu ban cho chúng ta không phải bởi vì chúng ta xứng đáng. Ân sủng đến từ cuộc khổ nạn, cái chết và phục sinh của Chúa Kitô minh chứng rằng tình yêu đó là hoàn toàn nhưng không và do lòng nhân hậu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Bởi lẽ, Chúa Giêsu đã chết cho chúng ta trong khi chúng ta là những người yếu đuối, những người vô đạo, trong khi chúng ta còn là tội nhân. Chúa Giêsu chết vì chúng ta và như thế niềm hy vọng của chúng ta đặt trên nền tảng vững chắc là tình yêu của Chúa Kitô và ân sủng vững bền do Người ban tặng.

Trong bài Tin Mừng (Ga 4,5-42), chúng ta lắng nghe câu chuyện nổi tiếng về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samari tại bờ giếng Giacóp ở Xykha, vào giữa trưa. Trong cuộc gặp gỡ này, có rất nhiều chi tiết: nơi chốn, thời gian và những nhân vật. Chúng ta tập trung suy tư về cuộc gặp gỡ xem ra bình thường này như là thời điểm của ân sủng mà Chúa Giêsu rộng ban cho con người qua người phụ nữ này. Ân sủng đã làm cho người phụ nữ Samari phải ngạc nhiên.

2- Vượt qua những giới hạn

Chúng ta biết rằng mọi sự đang chống lại người phụ nữ này: Trước hết, bà là một người Samari. Vào thời điểm đó, người Samari và người Do Thái đang thù địch nhau và tránh mặt nhau. Người Do Thái coi người Samari như là những người dân ngoại, những người không có niềm tin. Vì thế, người Do Thái không dám sử dụng những gì mà người Samari đã dùng, kể cả thức ăn, thức uống.

Thứ đến, bà là một người phụ nữ. Vào thời đó, cả với những người phụ nữ Do Thái và nhất là đối với những người phụ nữ dân ngoại Samari, họ thực sự bị coi là thuộc hạng thấp cổ bé miệng, không có quyền lợi và ưu tiên nào cả. Làm sao người phụ nữ này dám nói chuyện với Chúa Giêsu? Tiếp theo, như trình thuật cho thấy, chúng ta biết rằng bà đã có năm đời chồng rồi, một người có vấn đề về gia đình và chắc bà này là người có vấn đề về tính cách phụ nữ, một người có vấn đề về đời sống khác thường. Như thế, tất cả những điều này vốn là những sự cản trở ngăn cản Chúa và bà gặp nhau. Nhưng Chúa Giêsu chủ động đến nói chuyện với bà trước. Chúa Giêsu cởi mở bắt chuyện với bà. Chúa Giêsu đi bước đầu hội thoại với bà bằng việc xin nước uống, từ đó, Chúa hướng bà tới một thứ nước khác, nước hằng sống mà Người sẽ ban. Theo Gioan, nước đây chính là ân huệ Thánh Thần. Nước biểu tượng của sự sống từ Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ được ban như là nguồn mạch sự sống mới cho con người. Thánh Thần sẽ được đổ vào lòng chúng ta nhờ Đấng Phục Sinh để chúng ta được gọi là con Thiên Chúa và kêu lên rằng Ápba – Cha ơi (x. Rm 5,5; Gl 4,6).

Điều đó làm cho bà phải ngạc nhiên. Bà không thể tin rằng một người Do Thái như Đức Giêsu lại có thể nói chuyện với bà, một người Samari như thế này được. Bà không thể tin rằng một người đàn ông Do Thái lại có thể trao đổi với một người phụ nữ Samari được. Bà cũng không thể tin rằng người đàn ông này lại biết rõ về bà. Trái tim và cuộc sống của bà không thể che dấu người này được. Từ những trao đổi về cuộc sống cá nhân, Chúa Giêsu hướng bà tới những điều cao cả hơn: “Nhưng giờ đã đến và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,23). Những điều này làm cho bà phải ngạc nhiên và tự hỏi: “Ngài có phải là một vị ngôn sứ hay Ngài có phải là Đấng Mêsia không?” Người đàn bà dẫu không xứng đáng, nhưng qua cuộc gặp gỡ này Chúa Giêsu đã ban cho bà ân phúc cao cả, hồng ân tuyệt vời là nhận biết Đấng Mêsia và nhờ Người để bà biết tôn thờ Thiên Chúa.

3- Những điều kỳ diệu của ân sủng

Nhưng ân sủng này không chỉ cho một mình bà mà còn cho những người khác nữa. Bà đã chạy về báo tin cho mọi người trong làng biết rằng bà đã gặp Đấng Kitô. Họ kéo nhau ra để gặp Người. Có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng. Bà trở thành một tông đồ của Chúa Giêsu khi bà kể cho họ nghe về việc bà gặp một người đặc biệt, một tiên tri và có thể là Đấng Mêsia mà người Do Thái đang trông chờ. Đấng đó biết rõ về cuộc đời tôi. Người yêu thương tôi. Người tôn trọng tôi và tôi cảm thấy được Người chúc phúc.

Ân sủng này từ một cuộc gặp gỡ nếu được dùng theo tiêu chuẩn của thế gian có thể không được ban cho người phụ nữ này, vì thân thế của bà là hoàn toàn bất xứng với ân sủng đó. Nhưng Thiên Chúa hành động hoàn toàn khác với tiêu chuẩn của con người. Thiên Chúa bảo đảm cho mọi người tội lỗi, cho tất cả những ai bất xứng rằng: “Ơn Ta đủ cho con” (2 Cr 12,9). Ơn Ta không bao giờ cạn đối với con.

Thánh Giuse mà chúng ta mừng kính trong tháng Ba này là một mẫu gương khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa. Ngài chỉ là một người thợ mộc nghèo hèn, đơn sơ, không có vai vế gì trong xã hội. Nhưng thánh nhân luôn tin tưởng vào Thiên Chúa nên ngài luôn được chúc phúc. Cũng thế, bao nhiêu con người khiêm tốn trên thế gian này, những người thực sự cảm thấy mình bất xứng với hồng ân Thiên Chúa, họ vẫn có thể quay trở về và đón nhận ân sủng của Người ban một cách nhưng không. Bởi vì ơn cứu độ, lòng thương xót của Thiên Chúa vượt trên mọi giới hạn của con người. Tình yêu Chúa lớn hơn tội lỗi con người. Thiên Chúa luôn là quảng đại, rộng lượng và nhân ái đối với hết mọi người, ngay cả khi chúng ta bất xứng để đón nhận ân sủng Người. Đó là điều làm cho chúng ta vững tin vào Chúa. Đó là điều mang lại cho chúng ta sự an ủi thiêng liêng. Đó là điều làm cho chúng ta luôn biết trở về với Chúa ngay cả khi chúng ta cảm thấy mình bất xứng và tội lỗi nhất. Cả lúc đó Chúa vẫn giang tay chờ đón chúng ta.

Mùa Chay là thời gian thuận tiện để chúng ta suy ngắm tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa, đồng thời cũng là cơ hội để canh tân đời sống của mình như là nghĩa cử đáp lại lòng thương xót và ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Amen!

Về mục lục

ĐẤNG XIN NƯỚC LÀ NGUỒN NƯỚC HẰNG SỐNG

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

Hành trình phụng vụ Mùa Chay năm A dẫn đưa chúng ta sống con đường của các anh chị em dự tòng đang chuẩn bị lãnh nhận bí tích Rửa Tội, làm sống lại trong chúng ta ơn Thánh Tẩy.

Giáo Hội luôn kết hợp lễ Vọng Phục Sinh với việc cử hành Bí tích Rửa tội trong đó hiện thực mầu nhiệm cao cả của đời sống người tính hữu là: chết đi cho tội lỗi, tham dự vào sự sống mới trong Chúa Kitô phục sinh và nhận lấy Chúa Thánh Thần, Ðấng đã cho Ðức Giêsu từ cõi chết sống lại (x. Rm 8,11).

Thế nên, Chúa Nhật thứ nhất gọi là Chúa Nhật cám dỗ, vì giới thiệu các cám dỗ Chúa Giêsu phải chịu trong sa mạc, và mời gọi chúng ta đứng về phía Chúa Giêsu để chống lại các cám dỗ. Chúa Nhật này sau khi nghe chứng tá của các cha mẹ đỡ đầu, Giáo Hội cử hành việc tuyển chọn những người sẽ được nhận lãnh Bí tích Rửa tội trong đêm Vọng Phục Sinh.

Chúa Nhật thứ hai gọi là Chúa Nhật của tổ phụ Abraham và Chúa Nhật Hiển Dung. Bí Tích Rửa tội là bí tích của đức tin và thiên chức làm con Thiên Chúa: theo Abraham tin tưởng vào Chúa và ra đi để trở nên con cái Chúa.

Bước vào Chúa Nhật thứ ba, chúng ta nghe lại cuộc đối thoại nổi tiếng của Ðức Giêsu với người thiếu phụ Samaria, được Thánh sử Gioan tường thuật. Người thiếu phụ hằng ngày đi lấy nước từ một giếng nước cổ xưa, có từ thời tổ phụ Giacóp. Hôm ấy, chị gặp Ðức Giêsu đang ngồi trên bờ giếng, mệt mỏi sau một hành trình dài (x. Ga 4,5-42). Chúa Giêsu chính là Nước Hằng Sống, Người làm cho con người đỡ khát, nước Chúa Thánh Thần. Chúa Nhật này Giáo Hội cử hành việc bỏ phiếu các tân tòng lần thứ nhất và trong tuần trao cho họ Kinh Tin Kính.

Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống

Vào những thế kỷ đầu của Kitô giáo, Các Giáo phụ đã sớm nhận ra nơi «nước hằng sống» biểu tưởng của phép Rửa tội, mà Đức Kitô là chính Nguồn Nước ấy. Chúa Giêsu xin người đàn bà xứ Samaria nước uống, không phải lý do khát về thể lý cho bằng khát đức tin, khát sự sống đời đời, khát một linh hồn khô héo. Đấng Cứu Thế giả vờ khát nước đến xin người đàn bà nước để trao ban thứ nước ân sủng khỏi khát đời đời. Đó chính là nguồn nước mà Tin Mừng nói tới khi Người xin nước của người đàn bà xứ Samaria… Thực ra, nguồn nước ấy không bao giờ cạn, Đấng là nước hằng sống không thể uống nước bị ô nhiễm ở vùng đất này. Câu hỏi được đặt ra:

Phải chăng Đức Kitô khát nước?

Vâng, Người khát, nhưng Người không khát nước trên mặt đất này, hay khát thức uống của con người, mà khát các linh hồn, khát sự cứu chuộc nhân loại. Thánh Ephrem viết: “Khi khát nước, Chúa chúng ta đã ngó đầu vào miệng giếng; Người xin người đàn bà nước uống. Từ giếng nước, Người đã câu được một tâm hồn. Nhưng tâm hồn ấy đã lại câu tiếp được cả dân trong thành” (Thánh Thi Giáng sinh số 4, 43-44).

Tại sao Chúa Giêsu lại xin người đàn bà xứ Samaria nước uống khi bà đến kín đầy vò nước, không những thế, Người còn khẳng định rằng, Người có thể trao ban mạch nước dồi dào hơn từ giếng thiêng liêng nếu ai đến xin Ngài?

Câu trả lời là vì dân Samaria thờ ngẫu tượng, tâm trí họ hướng về địa giới, nên Người khát đức tin không chỉ của người đàn này mà cả và nhân loại. Chúa Giêsu nói: “Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: ‘xin cho tôi uống nước’, thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống (…) Tất cả những ai uống nước này sẽ còn khát : nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa; vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời” (Ga 4, 10-14). Đúng như lời Kinh Tiền Tụng thánh lễ hôm nay diễn tả: “Lạy Chúa là Cha chí thánh… Khi người phụ nữ xứ Sa-ma-ri cho nước uống, Người đã ban cho bà đức tin. Vì Người tha thiết ước mong bà tin vững mạnh, nên đã đốt lên trong lòng bà ngọn lửa yêu mến Chúa…”

Hình ảnh người tân tòng

Người đàn bà xứ Samaria là hình ảnh của người tân tòng, còn đang chịu sự ràng buộc của ma quỷ, năm đời chồng bà đã từ bỏ, người đàn ông thứ sáu đang sống với bà là tượng trưng. Giếng nước Giacóp thể hiện tiệc cưới của tâm hồn bà cử hành với Thiên Chúa đã được thanh tẩy bằng nước Rửa tội. Theo M. Dulaey thì: “Giữa thế kỷ thứ III, Origène giải thích rằng, giếng nước này là dấu chỉ giao ước giữa Thiên Chúa với dân Người và hiệp nhất tâm hồn với Thiên Chúa”. Từ nay, bà tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người và đi loan báo Đức Kitô cho dân làng bà, kết quả là : “Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng rằng : Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã làm” (Ga 4, 39). Theo Origène: “Vị Hôn Phu đích thực là Chúa Kitô (Ga 13, 181). Một khi người đàn bà này tìm thấy Ngài, bà liền chạy về loan báo cho dân làng biết; người đàn bà này là hình ảnh của người kitô hữu tuyên xưng đức tin của mình”.

Nguồn suối cứu độ là chính Đức Kitô

Đức Kitô, Đấng ngồi nghỉ trên miệng giếng chính là nguồn nước, từ cạnh sườn bên phải Người, tuôn trào dòng nước xót thương; một phụ nữ có sáu đời chồng đã được tẩy sạch bằng dòng nước hằng sống ấy. Thật ngưỡng mộ biết bao: một người phụ nữ nhẹ nhàng đến giếng Samaria kín nước, bà lấy nước từ dòng nước Giêsu! Tìm được nước, bà ra đi với sự tiết hạnh. Ngay lập tức bà xưng thú các lỗi mà Chúa Giêsu ám chỉ, bà nhận ra Đức Kitô và loan báo Đấng Cứu Thế. Bà để vò nước xuống, mang ơn sủng vào thành; vai nhẹ bớt, bà trở về tràn đầy sự thánh thiện… Đúng là ai đến trong tội lỗi sẽ trở về với sứ mạng tiên tri.

Nước hằng sống này đối với chúng ta là nguồn suối dâng trào sự sống đời đời, nước này không phải là nước hòa với Máu Chúa Kitô, đã chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu trên cây Thánh giá đó sao? Đây không phải là các bí tích của Giáo hội mà Phép rửa trình bầy mầu nhiệm của nước ấy, để ám chỉ rằng nước đó phát sinh từ cái chết cứu độ của Đấng Cứu Thế đó hay sao? Trong mọi trường hợp, các Giáo phụ thấy nước tuôn chảy từ tảng đá do Môisen đập ra (Xh 17, 3-7) là hình ảnh tiên trưng của nước chảy ra từ cạnh sườn Đấng Cứu Thế bị đóng đinh.

Mỗi người chúng ta đều có thể nhìn thấy chính mình nơi hình ảnh của người thiếu phụ Samari: Ðức Giêsu chờ đợi chúng ta, nhất là trong thời điểm của Mùa Chay này, để đối thoại với chúng ta, nói với con tim của chúng ta. Chúng ta hãy dừng lại trong một khoảnh khắc thinh lặng, để lắng nghe lời Ngài nói với chúng ta: “Nếu bạn nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban…”

Lạy Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, xin đừng để chúng con đánh mất cơ hội gặp gỡ này, là nơi chúng con có thể kín múc nguồn hạnh phúc đích thực cho cuộc đời chúng con. Amen.

Về mục lục

CHÚA MỚI THẬT LÀ ĐẤNG TRAO BAN

Lm. Jb Nguyễn Minh Hùng

Câu chuyện về sự gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ xứ Samaria trên bờ giếng Giacop có một chi tiết nghịch lý thú vị:

1. Mở đầu:

Chúa Giêsu ngỏ lời: “Chị cho tôi xin chút nước uống!”. Từ khoảnh khắc đó, Chúa dẫn dắt chị đi vào bầu trời thánh ân của yêu thương, bao dung, tha thứ.

Chúa nhìn thấy tâm hồn chị. Chúa biết chị luôn sống trong mặc cảm của tội, bởi chị đã có đến “năm đời chồng và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị”.

Nhưng Chúa cũng nhìn thấy khả năng đón nhận chân lý nơi chị, vì thế, chính Chúa lên tiếng: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: cho tôi chút nước, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4,10).

Nhưng trên tất cả, Chúa muốn chị phải hiểu rằng, chỉ nhờ Chúa, con người mới đạt tới viên mãn: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14).

2. Sau cùng:

Chị trở thành người cầu xin: “Xin cho tôi thứ nước ấy”.

Rồi lại trở thành người tuyên xưng đức tin: “Tôi thấy ngài thật là một ngôn sứ…” (Ga 4, 19), sau khi được Chúa gợi ra chính tình trạng tâm hồn tội lỗi của chị, kẻ đã có đến sáu đời chồng, nhưng chẳng ai là chồng thực sự.

Chúa dứt khoát dẫn chị đi gặp “Chân Lý” mà chị cần gặp, chị phải gặp. “Chân lý” ấy không phải ai khác mà là chính Chúa, Đấng đã tự mình tìm đến với chị: “Đấng Mêsia chính là Ta, Người đang nói với chị đây” (Ga 4, 26).

Cái hay của câu chuyện đó là sự nghịch lý thú vị: Người xin nước uống trở thành người trao ban; còn kẻ được xin trở thành kẻ lãnh nhận.

Chị phụ nữ Samaria, người đã được Chúa xin nước, lại là người lãnh nhận cả một kho tàng không thể có bất cứ điều gì có thể so sánh. Kho tàng ấy là chính Chúa Giêsu, mạch suối trao ban nguồn nước trường sinh, đó là được sống chính sự sống của Chúa, sống vĩnh cửu.

Hóa ra cần đến nước nhưng không phải là nước. Trong hoàng cảnh này, nước chỉ là biểu tượng của sự sống trường sinh.

Và Chúa Giêsu, người đến xin nước không phải để uống nước, nhưng để trao ban chính mình.

Khai mở bằng một cơn khát nước của Đấng Cứu Chuộc, nhưng kết thúc không phải là một cơn, mà là cả một niềm khao khát mãnh liệt vươn tới tình yêu vĩnh cửu, vươn tới sự sống thường hằng và bình an đích thực của người đã có thể ý thức mình tội lỗi.

Bằng một cơn khát thể lý của Đấng Cứu Chuộc, đã có thể tạo đà cho nhân loại đi tới một cơn đói khát tâm linh, cần thiết để chuẩn bị nhân loại mở lòng đón nhận ơn lớn lao là chính Đấng Cứu Chuộc.

Chúa vẫn yêu thích tìm đến cùng chúng ta. Chúa vẫn chờ đợi để được trao ban chính mình Người.

Chúa muốn chúng ta hãy khiêm tốn nhìn nhận thân phận thụ tạo, thân phận yếu đuối, thân phận dễ đổ ngã của bản thân, để Chúa là sức mạnh, là thuẫn đỡ, là khiên che, là chính ơn tha thứ, là chính nguồn tái sinh, là hạnh phúc đích thực cho ta ngã nhào vào mà tìm lẽ sống, mà đạt đến sự sống.

Chúng ta hãy làm như người phụ nữ Samaria, đó là mềm lòng để Chúa uốn nắn. Từ nay ta sẽ trở về, biết chối từ quá khứ lầm lỡ đển vươn tới tương lai thánh thiện trong Chúa.

Từ nay ta sẽ ăn năn hối lỗi, biết lột trần con người của mình để càng lúc càng dễ dàng nhận ra, mình chỉ là kẻ đón nhận, chỉ mình CHÚA MỚI THẬT LÀ ĐẤNG TRAO BAN.

Về mục lục

-NƯỚC HẰNG SỐNG

Lm Vũđình Tường

Kéo nước từ giếng sâu là việc làm khó nhọc, gánh nước leo đồi về nhà càng vất vả hơn, nhất là gánh vác vào buổi trưa hè. Giếng đầu làng là nơi thu nhập và truyền bá tin tức trong ngày. Thời gian người ta chờ nhau kéo nước cũng là lúc tin tức trong làng được truyền miệng. Người phụ nữ thành Samarita đi kéo nước vào buổi trưa vì lúc đó vắng người. Bà hy vọng tránh không bị lôi kéo vào sinh hoạt đó. Bà cũng hy vọng không có ai ở đó. Ngạc nhiên thay, ba thấy Đức Kitô đang ngồi bờ giếng từ lúc nào, và Ngài xin bà nước uống. Việc Đức Kitô xin bà nước uống cho biết Ngài không đồng í với luật lệ trọng nam, khinh nữ và coi thường dân ngoại thời đó. Theo luật, đàn ông không được nói chuyện với phụ nữ nơi công cộng. Do Thái giáo không nhờ vả dân ngoại. Xin nước uống người phụ nữ dân ngoại là điều cấm kị. Cuộc đối thoại giữa Đức Kitô và người phụ nữ tiến triển qua ba giai đoạn. Đức Kitô mổ đầu, xin nước uống cho đỡ khát; tiếp đến người phụ nữ chân thành xác nhận những gì Đức Kitô biết về quá khứ bà đều đúng, và cuối cùng bà trở thành môn đệ Đức Kitô. Bà rất ngạc nhiên khi Đức Kitô xin bà nước uống vì đó là điều tối kị. Đức Kitô cho biết nếu bà biết Ngài là ai thì chính bà xin Ngài ban cho nước uống, chứ không phải Ngài xin bà. Điều này gây thắc mắc hơn nữa, bởi giếng nước sâu, Ngài không có gầu múc nước làm sao có thể lấy được nuớc. Đức Kitô cho biết nước Ngài ban là nước hằng sống, không bao giờ cạn. Dù không hiểu bà cũng xin Ngài ban cho nước không hề cạn. Đức Kitô nói với bà, hãy về gọi chồng bà ra đây. Bà tự thú bà không có chồng. Câu tiếp theo khiến nhiều học giả Kinh Thánh giải thích người phụ nữ thay đổi niềm tin như thay áo, bà đã phục vụ năm bảy vị thần khác nhau và không hài lòng với vị thần nào, ngay cả vị thần bà đang tôn kính. Số học giả khác không đồng í với giải thích trên. Tuy nhiên không ai có thể chối cãi một thực tế là Đức Kitô không hề kết án, cũng như nhắc đến tội của bà.

Ngay sau khi bà xác định bà không có chồng, câu chuyện đổi sang việc thờ phượng. Đức Kitô hướng dẫn bà về cách thờ kính Thiên Chúa. Không phải cách hay nơi thờ phượng, hay núi thánh mà là tâm tình thờ phượng phải chatn thành. Việc thờ phượng Thiên Chúa chính đáng nhất là tôn thờ với tất cả tấm lòng và trong sự thật. Vì hướng dẫn trên mà học giả Kinh Thánh giải thích chữ ‘chồng’ ở đây không đồng nghĩa như nghĩa thông thường xã hội dùng. Người phụ nữ đón nhận giải thích về cách tôn thờ chính đáng Đức Kitô đưa ra. Bà cũng cho biết cách thờ phượng đó chỉ một mình Đấng Messiah hướng dẫn khi Ngài đến. Đức Kitô nói với bà chính Ngài là Đấng Messiah. Đúng lúc đó thì các môn đệ Đức Kitô đi mua ăn trưa trở về và cuộc đối thoại bị gián đoạn. Cuộc đối thoại biến sang giai đoạn ba, giữa Đức Kitô và đám đông dân làng. Người phụ nữ về làng thông báo cho mọi người biết tại bờ giếng bà gặp một vị xem ra vị này là Đấng Cứu Thế bởi Ngài có thể nói những việc thầm kín quá khứ đời bà. Vì niềm tin phóng khoáng, đổi thần, thay thánh, của bà mà nhiều người không tin lời bà nói. Ngạc nhiên thay, lần này người ta tin và họ kéo nhau ra giếng gặp Đức Kitô. Sau khi nghe Đức Kitô, họ tin Ngài là Đấng Cứu Thế. Đám đông nói với bà. Chúng tôi tin Ngài là Đấng Cứu thế không phải do lời bà loan báo mà chính mắt chúng tôi đã thấy, tai chúng tôi đã nghe Ngài giải thích, và chúng tôi tin. Dù giải cuộc sống bà thích thế nào chăng nữa, bà chính là người loan báo Tin Mừng cho dân làng, và những điều bà loan báo minh xác sự thật- Đức Kitô là Đấng Cứu Thế.

Người phụ nữ tin vào Đức Kitô vì bà chân thành lắng nghe, cởi mở cõi lòng và bà khẩn khoản xin Đức Kitô ban cho nước hằng sống. Bà không hiểu rõ nước hằng sống là gì? Điều này cho biết tin theo Đức Kitô không phải có các câu trả lời cho thắc mắc về đức tin, mà chính là yêu mến Ngài. Tin theo Đức Kitô giúp thoả mãn khát khao của tâm hồn, giúp con tim tìm được bình an ngay trong cảnh hỗn loạn, và giúp sống trong hy vọng. Với bà, ơn không ngoan Đức Kitô trao cho dư thừa, không cần phải tìm nguồn khôn ngoan nào khác.

Về mục lục

CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY. NĂM A

Lm. Antôn

Về mục lục

 

NƯỚC HẰNG SỐNG

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Con người mọi nơi mọi thời vẫn khao khát đi tìm Chân lý. Chân lý quan trọng đối với đời sống thiêng liêng, như nước cần cho sự sống hằng ngày. Trong cuộc tìm kiếm này, có những khi người ta lầm lạc, chỉ nhìn thấy Chân lý qua những bóng hình mờ nhạt, thậm chí là ảo ảnh hão huyền.
 
Cuộc tìm kiếm Chân lý của nhân loại đã được phác họa trong thời xuất hành. Dân Do Thái trong hành trình sa mạc đói khát khổ sở suốt 40 năm. Hành trình này vừa giải thoát họ khỏi ách nô lệ, vừa dẫn đưa họ về miền đất mà Thiên Chúa đã hứa cho tổ tiên. Việc thiếu nước dẫn tới sự kiện dân nổi loạn chống lại ông Môisê. Nhờ quyền năng của Chúa, ông Môisê đã lấy cây gậy đập vào tảng đá và nước từ đó chảy ra (Bài đọc I). Bài đọc Cựu ước trong thánh lễ hôm nay muốn khẳng định với chúng ta: kiếm tìm Chân lý là một tiến trình lâu dài, đòi hỏi phải kiên nhẫn và vâng theo lệnh của Thiên Chúa.
 
Câu chuyện không chỉ nhắm tới nước cho dân khỏi khát, mà còn là giáo huấn về ân sủng sẽ được ban sau này qua Đức Giêsu Kitô, Đấng được tôn vinh là Đá. Chúa Giêsu đã đến trần gian để chỉ cho nhân loại con đường đạt tới Chân lý. Người đã tuyên bố: “Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống”.
 
Bài Tin Mừng là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ xứ Samaria. Có rất nhiều chi tiết phong phú trong đoạn văn này. Đây là một cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và một con người; giữa một người Do Thái và một người Samaria; giữa một vị Ngôn sứ và một người đang khao khát tìm Chân lý.
 
Người phụ nữ Samaria là đại diện cho cả nhân loại đang tìm kiếm Chúa. Chị đã có năm đời chồng, và người đang chung sống hiện tại không phải là chồng chị. Chi tiết này muốn diễn tả, con người đi tìm kiếm Chúa, nhưng có những lúc lầm tưởng về Ngài. Họ tìm kiếm Ngài nơi lạc thú và nơi những ảo ảnh thế gian. Vì thế mà họ không cảm thấy no đầy, giống như một người phụ nữ đã năm đời chồng mà không thấy hạnh phúc. Chị vẫn tiếp tục đi tìm kiếm. Khi gặp gỡ Chúa Giêsu, người phụ nữ dần dần hiểu ra Ngài là vị Ngôn sứ, là Đấng có thể đem cho bản thân chị sự bình an, niềm vui và ơn cứu độ.
 
Cuộc gặp gỡ này cũng là một cuộc đối thoại kiên nhẫn, dần dần từng bước. Chúa Giêsu đã chủ động phá tan mọi rào cản: đó là sự giao tiếp giữa người Do Thái và dân ngoại; Người nam và người nữ; Không gian là bờ giếng lãng mạn và thời gian là buổi trưa vắng vẻ. Điều này cho thấy, nếu muốn loan báo Chân lý, cần phải vượt qua mọi thành kiến, khiêm tốn chủ động đối thoại trong sự tôn trọng lẫn nhau. Chúng ta thấy Chúa Giêsu không một lời phê phán cuộc sống cá nhân của chị, cũng như cách thức thờ phượng trên núi Garizim của người Samaria.
 
Chúa Giêsu đã khởi đi từ nước thế gian tới nước hằng sống. Nước này là ân huệ Chúa ban nơi Đức Giêsu và là giáo huấn của Người. Giáo huấn đem lại cho con người niềm vui siêu nhiên và sự bình an trong tâm hồn. Nhờ nước hằng sống, con người không còn đi tìm kiếm một thần linh nào khác. Họ được gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng họ tôn thờ, không phải ở đây hay ở kia, nhưng trong tinh thần và chân lý. Thánh Phaolô đã khẳng định: “Nhờ Đức Kitô Chúa chúng ta, con người trở nên công chính và được bình an với Thiên Chúa” (Bài đọc II)
 
Cũng như dân Do Thái đang lang thang trong sa mạc cần có nước để tồn tại, trong cuộc lữ hành thiêng liêng, chúng ta cũng cần có nước nước hằng sống để lớn lên mỗi ngày. Mùa Chay giúp ta sống tinh thần sa mạc, phác họa 40 năm dân riêng trên đường về Đất hứa, 40 ngày Chúa Giêsu cầu nguyện trong hoang địa. Mùa Chay giúp ta định hướng cuộc đời, để tìm kiếm Chân lý, đón nhận dòng nước ân sủng Thiên Chúa ban qua Đức Giêsu. Một cách cụ thể, chúng ta đón nhận nước hằng sống qua các bí tích, nhất là bí tích Hòa giải và bí tích Thánh Thể. Nhờ hai bí tích này, chúng ta được đổi mới và được nuôi dưỡng bằng sức sống siêu nhiên.
 
Người phụ nữ Samaria sau khi gặp gỡ Chúa đã để quên vò nước bên bờ giếng. Chị chạy vào thành, giới thiệu Chúa với những người trong thành. Chi tiết này gợi ý cho chúng ta, một khi sống tinh thần của Mùa Chay, chúng ta cũng có bổn phận đưa nhiều khác đến với Chúa, giúp họ gặp gỡ Ngài và cùng với họ đón nhận nước trường sinh. Việc gặp gỡ Chúa phải dẫn chúng ta giao hòa với anh chị em xung quanh, mang cho họ niềm vui và an bình. Câu chuyện kết thúc với những hình ảnh tốt đẹp: những người dân trong thành Samaria (họ là những người dân ngoại!) đều tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu độ trần gian. Không còn nghi kỵ do mối thù truyền kiếp, không còn thành kiến mặc cảm về dòng dõi sắc tộc. Tất cả đều là con cái của Thiên Chúa. Câu chuyện mở ra một chân trời mới. Đó là viễn cảnh tương lai, hình ảnh của Nước Trời nơi trần gian.

Về mục lục

.

NHỊP CẦU THIÊNG LIÊNG

Tgm. Jos Ngô Quang Kiệt.

Từ khi cầu Mỹ Thuận được đưa vào sử dụng, con đường về miền Tây như ngắn lại, đôi bờ sông Tiền gần gũi nhau hơn. Đời sống thần linh và đời sống phàm trần cũng như hai bờ sông cách xa vời vợi. Cần có những nhịp cầu nối liền dòng sông thiêng liêng giúp con người đi về gặp gỡ Thiên Chúa.

Hôm nay, khi mở đầu câu chuyện với người phụ nữ Samaria, Đức Giêsu đã bắc những nhịp cầu nối liền dòng sông ngăn cách. Thái độ gần gũi của Người là nhịp cầu xoá đi biên giới ngăn cách chủng tộc, tôn giáo. Lời Người chính là nhịp cầu dẫn vào đời sống thần linh. 

Đức Giêsu gặp người phụ nữ bên bờ giếng nước. Người phụ nữ nhìn Đức Giêsu bằng ánh mắt khinh miệt. Dưới mắt chị, đó chỉ là một gã Do Thái bẩn thỉu. Còn tệ hơn thế, anh chàng Do Thái này nghèo mạt rệp, đang đói khát, mệt mỏi rã rời, chỉ chờ chực xin ăn, xin uống. Chị hợm mình, vì chị có tất cả. Chị có giếng nước của tổ tiên. Đối với người Sêmít, có nước là có tất cả. Ở giữa vùng sa mạc mênh mông, nơi nào có nước, nơi ấy có sự sống. Vì nhờ có nước, cây cỏ mọc lên xanh tươi, gia súc có lương thực, con người mới sống được. Ai chiếm được nguồn nước, người ấy lập tức trở nên giàu có. 

Người phụ nữ có giếng nước, có cả bình múc nước. Chị còn có gia đình. Chị còn có đền thờ vững chắc xây dựng trên núi Garidim, trách nào chị chẳng hợm mình. 

Nhưng Đức Giêsu đã phá tan sự an thân giả tạo của chị. Người cho chị thấy giếng nước của chị chỉ là phù du, vì giếng nước ấy không cho nước hằng sống. Người cho chị thấy hạnh phúc gia đình mà chị đang có chỉ là hư ảo, vì hạnh phúc ấy xây dựng trên chỉ một mối duyên hờ. Người cho chị thấy niềm tin của chị vào đền thờ chỉ là ngụy tín, vì đền thờ chỉ là gạch đá vô hồn, không có Chúa ngự bên trong. 

Trong phút chốc, chị trở nên thật nghèo nàn. Trước kia chị tưởng mình có tất cả. Nay chị thấy mình trắng tay. Trước kia chị tưởng mình giàu có. Nay chị nhận thức rõ mình thật nghèo nàn. Bóc đi tất cả những lớp vỏ phù du bọt bèo, chị thấy mình trơ trụi, khốn cùng. Nhưng từ đáy vực khốn cùng ấy một niềm tin nhen nhúm, một mạch suối trào dâng. 

Chị chợt tỉnh ngộ. Những thứ mà trước kia chị tưởng là thành lũy che chở cuộc đời, hoá ra chỉ là những tảng đá ngăn chặn nguồn suối. Tháo gỡ đá đi rồi, mạch suối dào dạt trào tuôn. 

Những thứ mà trước kia chị tưởng là nơi nương tựa êm ấm, hoá ra chỉ là tổ kén giam kín đời sâu. Trút bỏ được lớp vỏ xù xì cũ kỹ, sâu nay hoá bướm đẹp lộng lẫy, tự do bay tung tăng khắp chốn.

Thì ra, của cải, dục vọng, tôn giáo vụ hình thức là những tấm màn che mắt, không cho chị nhận ra Đấng Cứu Thế. Ta hãy trở lại phút đầu tiên, khi Đức Giêsu ngỏ lời xin nước. Lúc đó, bị các tấm màn che mắt, chị chỉ thấy một anh chàng Do Thái xấu xa, đói rách: “Ông là Do Thái mà lại xin nước tôi ư? “. Nhưng Lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén, phá tan màn mây mù che mắt chị. Nhát gươm thứ nhất vung lên, một mảnh vảy mắt rơi xuống. Chị nhìn ra người đối diện “cao cả hơn tổ phụ Giacóp”. Nhát gươm thứ hai vung lên, một mảnh vảy nữa rơi xuống. Chị nhận ra Người là “một tiên tri”. Một nhát nữa vung lên, mảnh vảy cuối cùng rơi xuống. Chị nhận biết Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Và chị tin vào Người.

Niềm tin trào dâng. Hạnh phúc trào dâng. Chị quên cả múc nước, quên cả bình, chạy về làng báo tin vui.

Chị để quên chiếc bình, vì chiếc bình từ nay trở nên vô dụng. Cùng với chiếc bình, chị bỏ lại cả giếng nước, cả người chồng hờ, cả ngôi đền thờ trống rỗng.

Lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén chẻ đôi đời chị. Mảnh đời cũ để lại bên giếng, kho tàng của trần gian. Mảnh đời mới ngụp lặn trong dòng suối đức tin, kho tàng thiên quốc. 

Lời Chúa là ngọn đèn soi đường. Nên chị bước đi những bước lẹ làng, vững chắc hướng về sự sống mới.

Lời Chúa là chiếc cầu đưa chị vào đời sống thần linh. Chị bỏ lại bên này cầu chiếc bình múc nước, vì bên kia cầu chị đã có mạch nước trường sinh. Chị bỏ lại bên này cầu mối duyên hờ, vì bên kia cầu chị đã găp được tình yêu đích thực. Chị bỏ lại bên này cầu ngôi đền thờ trống rỗng, vì bên kia cầu chị gặp được Đấng chị phải tôn thờ trong tinh thần và chân lý. Chị như cánh đại bàng bay bổng trên trời cao với những đường bay rất đẹp. 

Về đại bàng, Cha Anthony de Mello kể một câu chuyện rất sâu sắc. Một người nông dân vào rừng, lượm được một trứng đại bàng. Anh đem về cho ấp chung với trứng gà. Ít lâu sau đại bàng nở ra cùng lũ gà con. Nó cứ tưởng mình là gà. Suốt ngày theo gà mẹ bới đất mổ sâu. Nó cứ sống kiếp gà như thế cho đến lúc già. Một hôm nó thấy trên trời xanh một con chim lớn khủng khiếp, cánh giang rộng như che kín cả bầu trời. Con chim bay thật cao và có những đường lượn thật là đẹp đẽ. Đại bàng ta kinh khiếp hỏi bác gà trống: “con gì mà khủng khiếp quá nhỉ”. “Đó là đại bàng. Đại bàng thuộc về trời cao. Chúng ta thuộc về đất thấp. Chúng ta chỉ là gà”. Đại bàng cứ sống kiếp gà như thế cho đến chết. 

Người phụ nữ là cánh đại bàng. Chị đã trút bỏ mọi gánh nặng kéo trì đôi cánh, nên chị bay vút lên cao. Còn ta vẫn chỉ là loài gà. Ta vẫn còn bên này cầu. Những gì người phụ nữ bỏ lại, ta ôm lấy mang về. Ta vẫn còn ôm ấp những giấc mơ trần tục. Của cải, dục vọng vẫn là những tảng đá ngăn chặn dòng nước đức tin. Những ngụy tín, những ảo tưởng, những thứ đạo đức hình thức, giả hiệu vẫn còn che chắn không cho ta nhận biết chính mình. Và vì thế ta không bao giờ gặp được Chúa.

Xin lời Chúa như lưỡi gươm tách bạch trắng đen, để ta dứt lìa tội lỗi, thoát khỏi thói an tâm giả tạo, thói đạo đức hình thức. Xin lời Chúa tháo đi những tảng đá trì trệ, để dòng suối tin yêu khai thông, để nước mắt sám hối tuôn trào rửa sạch hồn ta. Và để tình yêu bừng nở đem cho ta hạnh phúc chân thật.

 GỢI Ý CHIA SẺ

1) Đức Giêsu đã thành công trong việc đưa người phụ nữ Samaria về nhận biết chân lý. Ta có thể học hỏi được gì ở nơi Người để thành công trong việc truyền giáo?

2) Đang thoả mãn với vật chất, người phụ nữ Samaria chợt thấy thiếu thốn về mặt tâm linh. Đây là một cuộc hoán cải quan trọng, là một ơn Chúa ban. Bạn đã bao giờ được ơn sám hối để thấy khao khát đời sống tâm linh chưa?

3) Đã bao giờ bạn cảm thấy Đức Giêsu là nguồn suối trong lành, là nguồn mạch hạnh phúc của bạn?

Về mục lục

.

GẶP GỠ ĐỨC KITÔ BIẾN ĐỔI CUỘC ĐỜI MÌNH

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Bước vào Chúa nhật III Mùa Chay, chúng ta nghe lại cuộc đối thoại nổi tiếng của Ðức Giêsu với người thiếu phụ Samaria, được tường thuật bởi Thánh Sử Gioan. Người thiếu phụ hằng ngày đi lấy nước từ một giếng nước cổ xưa, có từ thời của tổ phụ Giacóp. Và ngày hôm ấy, chị gặp Ðức Giêsu đang ngồi trên bờ giếng, mệt mỏi sau một chặng hành trình đường xa (x. Ga 4,5-42). Chúa Giêsu chính là Nước Hằng Sống, Người đến làm cho con người khỏi khát nước Thánh Thần.

Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống

Vào những thế kỷ đầu của Kitô giáo, Các Giáo phụ đã sớm nhận ra nới « nước hằng sống » biểu tưởng của phép Rửa tội, mà Đức Kitô là chính Nguồn Nước ấy (9). Chúa Giêsu xin người đàn bà xứ Samaria nước uống, không phải lý do khát về thể lý cho bằng khát đức tin,khát sự sống đời đời, khát một linh hồn khô héo. Đấng Cứu Thế giả vờ khát nước đến xin người đàn bà nước để trao ban thứ nước ân sủng khỏi khát đời đời. Đó chính là nguồn nước mà Tin Mừng nói tới khi Người xin nước của người đàn bà xứ Samaria… Thực ra, nguồn nước ấy không bao giờ cạn, Đấng là Nước Hằng Sống không thể uống nước bị ô nhiễm ở vùng đất này. Câu hỏi được đặt ra : 

Phải chăng Đức Kitô khát nước ? 

Thưa, Người khát, nhưng không khát nước trên mặt đất này, hay khát thức uống của con người, mà khát các linh hồn, khát sự cứu chuộc nhân loại. Thánh Ephrem viết : “Khi khát nước, Chúa chúng ta đã ngó đầu vào miệng giếng; Ngài xin người đàn bà nước uống. Từ giếng nước, Ngài đã câu được một tâm hồn. Nhưng tâm hồn ấy đã lại câu tiếp được cả dân trong thành” (Thánh Thi Giáng sinh số 4, 43-44).

Tại sao Chúa Giêsu lại xin người đàn bà xứ Samaria nước uống khi bà đến kín đầy vò nước, không những thế, Người còn khẳng định mình có thể trao ban mạch nước dồi dào hơn từ giếng thiêng liêng nếu ai đến xin Người ? 

Thưa, vì dân Samaria thờ ngẫu tượng, tâm trí họ hướng về địa giới, nên Chúa khát đức tin không chỉ của người đàn này mà cả và nhân loại. Chúa Giêsu nói : “Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà : ‘xin cho toi uống nước’, thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống (…) Tất cả những ai uống nước này sẽ còn khát : nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa ; vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời” (Ga 4, 10-14). Đúng như lời Kinh Tiền Tụng thánh lễ hôm nay diễn tả  : “Lạy Chúa là Cha chí thánh … Khi người phụ nữ xứ Samari cho nước uống, Người đã ban cho bà đức tin. Vì Người tha thiết ước mong bà tin vững mạnh, nên đã đốt lên trong lòng bà ngọn lửa yêu mến Chúa…”

Hình ảnh người tân tòng

Người đàn bà xứ Samaria là hình ảnh của người tân tòng, còn đang chịu sự ràng buộc của ma quỷ, năm đời chồng bà đã từ bỏ, người đàn ông thứ sáu đang sống với bà là tượng trưng. Giếng nước Giacóp thể hiện tiệc cưới của tâm hồn bà cử hành với Thiên Chúa đã được thanh tẩy bằng nước Rửa tội. Theo M. Dulaey thì : “Giữa thế kỷ thứ III, Origène giải thích rằng, giếng nước này là dấu chỉ giao ước giữa Thiên Chúa với dân Người và hiệp nhất tâm hồn với Thiên Chúa.” Từ nay, bà tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người và đi loan báo Đức Kitô cho dân làng bà, kết quả là : “Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng rằng : Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã làm” (Ga 4, 39). Theo Origène  “Vị Hôn Phu đích thực là Chúa Kitô (Ga 13, 181). Một khi người đàn bà này tìm thấy Ngài, bà liền chạy về loan báo cho dân làng biết; người đàn bà này là hình ảnh của người kitô hữu tuyên xưng đức tin của mình.”

Nguồn suối cứu độ là chính Đức Kitô

Đức Kitô, Đấng ngồi nghỉ trên miệng giếng chính là nguồn nước, từ cạnh sườn bên phải Ngài, tuôn trào suối nước trường sinh; một phụ nữ có sáu đời chồng đã được tẩy sạch bằng dòng nước hằng sống ấy. Thật ngưỡng mộ biết bao : một người phụ nữ nhẹ nhàng đến giếng Samaria kín nước, bà múc nước từ giếng Giêsu ! Tìm được nước, bà ra đi với sự tiết hạnh. Ngay lập tức bà xưng thú các lỗi mà Đức Giêsu ám chỉ, bà nhận ra Đức Mêssia và loan báo Đấng Cứu Thế. Bà để vò nước xuống, mang ơn sủng vào thành ; vai nhẹ bớt tội lỗi, nhưng tràn đầy sự thánh thiện… Đúng là ai đến trong tội lỗi sẽ trở về với sứ mạng tiên tri.

Nước hằng sống này đối với chúng ta là nguồn suối dâng trào sự sống đời đời. Nước này không phải là nước hòa với Máu Chúa Kitô, đã chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu trên cây Thánh giá đó sao ? Đây không phải là các bí tích của Giáo hội mà Phép rửa trình bầy mầu nhiệm của nước ấy, để ám chỉ rằng nước đó phát sinh từ cái chết cứu độ của Đấng Cứu Thế đó hay sao? Trong mọi trường hợp, các Giáo phụ thấy nước tuôn chảy từ tảng đá do Môisen đập ra (Xh 17, 3-7) là hình ảnh tiên trưng của nước chẩy ra từ cạnh sườn Đấng Cứu Thế bị đóng đinh.

Mỗi người chúng ta đều có thể nhìn thấy chính mình nơi hình ảnh của người thiếu phụ Samari: Ðức Giêsu chờ đợi chúng ta, nhất là trong thời điểm của Mùa Chay, để đối thoại với chúng ta, nói với con tim của chúng ta. Người thiếu phụ Samari gặp được Chúa, bà xin Chúa, “Xin cho tôi nước ấy để tôi chẳng còn khát” (Mt 4, 15). Chúa đã cho bà, nhưng nước ấy, vò của bà không thể chứa được, bà phải để vò nước lại, đi loan báo cho dân làng, những người vẫn khước từ bà vì cái vò cũ (đời sống tội lỗi) nay bỏ vò đi họ liền đón nhận lời bà loan báo.

Phần chúng ta, để tiếp tục hành trình trong Mùa Chay Thánh, chúng ta cũng phải bỏ lại vò thói quen tội lỗi, chúng ta mới kín múc từ giếng Giêsu, Nước Hằng Sống, đựng vào trong tâm hồn trong sạch (vò đã được hoán cải), có thế, chúng ta mới kính múc được ân sủng của Thiên Chúa toàn năng. Như người đàn bà xứ Samria, chúng ta được mời gọi làm chứng cho người thời nay về niềm vui gặp gỡ Chúa, một cuộc gặp gỡ linh thiêng và cứu chuộc.

Lạy Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, xin giúp chúng con biết tận dụng cơ hội gặp gỡ này, là nơi chúng con có thể kín múc nguồn hạnh phúc đích thực cho cuộc đời chúng con. Amen.

Về mục lục

.

NƯỚC KHÔNG BAO GIỜ KHÁT NỮA

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

 Chủ đề của cuộc trao đổi bên bờ giếng giữa Đức Giê-su và người nữ Sa-ma-ri hiển nhiên liên quan tới ‘Nước Hằng Sống’, thứ nước mà Người hứa sẽ ban cho mọi tín hữu thông qua Tin Mừng Người rao giảng. Thế nhưng bản chất của thứ nước đó là gì thì vẫn chưa rõ ràng lắm; nước đó là thứ gì mà, “ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa”? Cụ thể hơn nữa sẽ là câu hỏi: cơn khát mà nước đó vĩnh viễn giải được là cơn khát gì? Nắm được hay trả lời được vấn nạn trên tức là hiểu được sứ mạng đích thực của Đức Giê-su và lý do tại sao ta lại đặt trọn niềm tin đời ta vào Người. Và để tìm ra câu trả lời thỏa đáng, có lẽ ta nên nhìn sâu hơn vào người phụ nữ Sa-ma-ri đang tiến tới bờ giếng Gia-cóp để kín nước, vì bà là đối tượng trực tiếp lúc đó của lời mời gọi: hãy kín lấy ‘nước hằng sống’. Cụ thể hơn nữa, ta tự hỏi, trong thâm tâm chị ta đang khát khao điều gì nhất, điều gì có thể khiến chị đi tới xác quyết: ông Giê-su này chính là đấng Ki-tô mà tôi hằng mong đợi?

Câu hỏi là, đối với một phụ nữ ‘đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị’ thì điều gì chị ta thực sự khao khát nhất? Một đời sống luân lý hoàn hảo chăng – không dám đâu! vì trong hoàn cảnh cụ thể của chị, điều này đơn giản là bất khả thi; vả lại xem ra Đức Giê-su cũng không đòi hỏi hoặc quở trách gì chị về điều đó – Người không có lấy một lời đòi chị phải rời bỏ ông chồng hờ. Ngoài tình dục là điều rất tự nhiên của đời sống vợ chồng, người phụ nữ này rất có thể, sau bao nỗi đắng cay ngay trong đời chung sống, đang ủ ấp trong lòng niềm khao khát có được một tình yêu đầy cảm thông và được chấp nhận, điều mà chị chưa từng tìm được nơi một ai, kể cả năm ông chồng trước, cũng như nơi người đàn ông chị hiện đang chung sống với; chị khao khát được thương cảm bao dung, được thứ tha trọn vẹn! Cuộc đối thoại tiếp sau đó cho thấy: hình như dung mạo Thiên Chúa mà chị đang âm thầm tìm kiếm và mong đợi cũng liên quan tới cái khát vọng này. Dầu không phải là nhà thần học để tranh luận vấn đề, phải thờ phượng Thiên Chúa ở nơi nào cho thích hợp nhất; nhưng chị đã thật sự vui mừng khi nghe người lữ hành ngồi bên bờ giếng công bố: “giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật”; một kiểu thờ phượng sẽ đáp ứng trọn vẹn niềm khát vọng ẩn chứa bên trong. Về diện mạo đấng Mê-si-a phải đến cũng tương tự như thế: khác với quan niệm về một đấng Ki-tô thống trị và quyền lực mà giới lãnh đạo vẫn thường quảng bá, chị chỉ mong vị đó “khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”, nhất là khi các điều đó đáp ứng được khát vọng thầm kín nhất của tâm hồn mình. Và một khi phát hiện ra con người mà lòng hằng mong đợi: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây!”, người phụ nữ Sa-ma-ri vội “để lại vò nước, chạy vào thành và nói với người ta; “Đến mà xem; có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là đấng Ki-tô sao?

Thế rồi dân thành Xy-kha nghe người phụ nữ loan báo, đã đến gặp và mời Đức Giê-su lưu lại với họ… ‘và Người ở lại với họ hai ngày’. Trong thời gian đó, chắc chắn mỗi người trong số họ cũng đã, bằng kinh nghiệm của bản thân, khám phá ra rằng: ông Do Thái Giê-su này đúng là người có thể ban cho ‘nước hằng sống’ để rồi mỗi người trong họ đều có thể tự quả quyết: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”. Đối với những con người chất phác, mang trong mình những mảnh đời riêng tư khác nhau (mà người phụ nữ với sáu đời chồng chỉ là một điển hình…), thì khát vọng sâu xa nhất sẽ không là gì khác hơn một sự cảm thông sâu sắc và một lòng thương xót vô bờ. Họ đã khám phá ra rằng: ông Giê-su tới từ Na-da-rét đây đúng là người đáp ứng được khát vọng mãnh liệt thầm kín nhất ấy cho riêng mình. Và họ sẵn sàng tin theo ông, cho dầu ông có là người xa lạ, là cừu địch của họ về mặt xã hội chính trị. Họ đã khảng định niềm tin đó một cách thật rõ ràng và chân chất nhất: “Người thật là Đấng Cứu Độ!” Đó là một lời tuyên xưng biểu lộ thái độ hoàn toàn mãn nguyện, tương tự như khi tìm được nguồn nước mát của bao dung và thứ tha giữa cơn khát khô họng trong sa mạc nóng cháy da của cuộc đời. Đúng thực, Người là ‘nước hằng sống’ không phải trên lý thuyết, mà là cho những mảnh đời rất tư riêng!

Nếu quả đúng là như thế thì nội dung ‘nước hằng sống’ sẽ không còn nằm trong suy tư thần học này nọ, mà đã trở thành một vấn đề hết sức thiết thực và cá nhân. Mùa Chay được Hội Thánh dành cho tôi, chính là thời gian để tôi xác định được cơn khát của riêng mình (vì thế mà cần sám hối), hầu cho phép tôi tiến sâu hơn vào một tuyên xưng đầy xác tín và chân thành: Giê-su Ki-tô quả là Đấng đã, đang và sẽ tiếp tục mãi ban cho tôi thứ ‘Nước Hằng Sống’ tôi rất cần, là Đấng duy nhất giải được cơn khát khô họng của cõi lòng tôi. Người quả là ‘Đấng cứu độ’ của tôi và cho tôi!

Lạy Chúa, con cũng có một mảng đời riêng tư với những khát vọng cháy bỏng. Vào lúc đời xế bóng này, khát vọng lớn nhất con có chính là được cảm thông, thứ tha và xót thương; vì cũng như mọi kiếp người, cuộc sống con không tránh khỏi những khiếm khuyết, thiếu sót và tội lỗi. Nhưng như người đàn bà Sa-ma-ri bên bờ giếng, làm sao chính con có thể xác tín cho riêng mình rằng: chỉ có ‘nước hằng sống’, tức là lòng từ ái hải hà vô tận của Chúa, mới hoàn toàn giải được cơn khát cháy khô họng của con, bây giờ và cho đến muôn đời. Xin cho con luôn được phúc sống sâu xa cảm nghiệm Tin Mừng này, bây giờ và nhất là trong giờ chết. A-men

Về mục lục

.

NƯỚC SỰ SỐNG

Lm. GB. Trần Văn Hào

Nước là nhu cầu thiết yếu để duy trì sự sống cho con người. Người ta có thể tuyệt thực và nhịn ăn trong nhiều ngày, nhưng khi cơ thể thiếu nước chỉ trong một thời gian ngắn, sức khoẻ của chúng ta sẽ suy kiệt dần và tính mạng bị đe dọa. Khi mang thân phận con người, Chúa Giêsu cũng đã từng kinh qua cái đói và những cơn khát. Ngài cần bánh để ăn và cũng cần nước để uống. Câu chuyện về Chúa Giêsu và người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp hôm nay là một khải thị sâu xa cho chúng ta về chân dung cứu thế của Đức Giêsu. Ngài chính là ‘Mạch Nước của Sự Sống’. “Ai uống nước này sẽ không bao giờ khát nữa. Nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước trào lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14). Đây là chủ đề mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay quy chiếu vào.

Mảnh đời bầm dập nơi người thiếu phụ.

Câu chuyện khá dài được Thánh Gioan thuật lại trong chương 4 với nhiều chi tiết hàm ngậm những tư tưởng thần học rất sâu xa. Chúa Giêsu đang khát, một cái khát thể lý bình thường giống như mọi người, và Ngài xin nước để uống. Người thiếu phụ Samari cũng đang khát và chị đến giếng để múc nước. Nhưng nơi chị còn có một niềm khát khao sâu xa hơn, phát xuất từ mảnh đời nghiệt ngả chị đang trải qua. Chị đã có 5 đời chồng, nhưng chẳng ông nào ra ông nào, và hiện nay chị đang sống với một người đàn ông khác không phải chồng của mình. Xã hội thời đó chỉ xem phụ nữ như vật sở hữu của đàn ông để họ có con nối dõi. Phẩm giá của người phụ nữ hoàn toàn bị coi rẻ. Là con người cũng như bao người khác, chị cũng khát khao được làm người tử tế, được làm mẹ, làm vợ trong một mái ấm gia đình bình thường, nhưng hạnh phúc dường như đã vượt quá tầm tay của chị. Chúa Giêsu thấu tỏ tất cả. Ngài nhận ra cơn khát ẩn sâu nơi tâm hồn người thiếu phụ, và từ từ vén mở cho chị biết về Ngài, là chính ‘Mạch Nước Trường Sinh’. Trong nguồn nước ấy, mọi nỗi khát khao của kiếp người sẽ được hóa giải.

Vào tháng 11 năm 2004, nhân kỷ niệm 10 năm ban hành Tông huấn ‘Đời sống Thánh hiến’ (Vita Consecrata), Giáo hội tổ chức Đại hội tu sỹ ở Rôma trong 5 ngày. Cuộc họp qui tụ gần 900 đại biểu đến từ các nơi, gồm các Bề Trên thượng cấp của các dòng tu cùng các chuyên gia thần học và Thánh kinh, để thảo luận về đời sống thánh hiến. Đại hội đã chọn chủ đề ‘Đam mê Thiên Chúa và đam mê con người’ (Passion for Christ, passion for human) để các thành viên suy tư. Hiển thị chủ đề này là 2 biểu tượng về 2 người Samari : Người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp (Ga chương 4) và người Samaritanô nhân hậu (Lc 10,25-37). Câu chuyện về người phụ nữ trong bài Tin mừng hôm nay đã được kể lại, được hội nghị nghiền ngẫm và đào sâu để làm khung quy chiếu cho các tham dự viên, đặc biệt cho những ai sống đời thánh hiến. Người thiếu phụ Samari vốn chỉ là một phụ nữ ngoại giáo bình thường, chưa hề biết Đức Giêsu là ai và luôn bị người Do Thái xem như thù nghịch. Nhưng chị đã biết trải lòng mình ra để ngày càng đi sâu vào mối thân tình với Chúa Giêsu. Cuối cùng chị đã khám phá ra Ngài : Đức Kitô, Đấng Messia, là ‘Nguồn Nước Sự Sống’.

Sau khi được Đức Giêsu thấm nhập và biến đổi, người thiếu phụ đã bỏ vò nước lại bên bờ giếng và chạy vội về làng để ‘công bố Tin mừng’ cho đồng hương của chị. Chị đã gác lại cơn khát của thân xác, vì đã được thỏa mãn cơn khát thâm sâu trong tâm hồn. Người thiếu phụ vội vã đi truyền tải thứ nước trường sinh ấy cho những người cũng đang khát cháy giống như chị. Đây là mô hình về đức tin và về sứ vụ chia sẻ đức tin, giúp chúng ta học hỏi để noi theo.

Những mảnh đời bất hạnh nơi phận người.

Con người chúng ta được sinh ra trong tiếng khóc chào đời của chính mình và chết đi trong tiếng khóc tiễn đưa của những người thân quen. Cuộc sống con người mãi luôn là một ẩn số với bao khổ đau. Đức Phật đã dạy các môn sinh rằng, đời là bể khổ, và ai ai cũng có thể nhận ra điều này. Phật giáo tìm cách giải mã đau khổ bằng liệu pháp diệt dục. Một vài tôn giáo khác lại chủ trương né tránh. Ông tổ của triết học vô thần Marxism thì lại lý tưởng hóa bằng cách mơ tưởng đến một thiên đàng trần gian nơi không còn người bóc lột người, tất cả được no cơm ấm áo… Nhưng tất cả chỉ là những lý thuyết không tưởng. Chỉ duy nhất Đức Giêsu mới đem lại cho chúng ta chìa khóa giải quyết tận căn mầu nhiệm đau khổ bằng chính cái chết của Ngài trên Thập giá. Từ Thập gía, Chúa đưa dẫn con người đến vinh quang (per crucem ad lucem). Từ cái chết ô nhục, Ngài khai mở cho chúng ta sự sống trường cửu. Thập giá của Đức Giêsu là mạch nước vọt trào ơn cứu độ, hóa giải những cơn khát thâm sâu nhất nơi phận người. Điều đó Đức Giêsu đã nói với người thiếu phụ Samari mà hôm nay chúng ta được nghe Giáo hội đọc lại.

Ông Tổng thống Mitterand là nhà lãnh đạo của nước Pháp trong 14 năm và được dân Pháp quý mến, xem ông như một thần tượng. Trong những năm tháng cuối đời, ông có dịp nhìn lại cuộc đời đã qua và viết lại những dòng nhật ký đáng để chúng ta suy nghĩ. Trang nhật ký có tựa đề ‘Tôi đang chuẩn bị cái chết’. Ông viết : “Lúc nhỏ, tôi được dạy phải đọc kinh, nhưng thay vì đọc kinh tôi lại thích thinh lặng và suy niệm. Tôi suy niệm về tôi, về Thiên Chúa, và về ý nghĩa cuộc đời. Lắm khi tôi tự hỏi không biết tôi có tin Thiên Chúa hay không, nhưng từ trong thâm tâm, tôi luôn bị thúc đẩy phải tin Ngài. Nếu không tin, cuộc sống của tôi sẽ trở nên vô nghĩa và hoàn toàn trống rỗng.”

Ông viết tiếp : “Ai mà không cảm thấy khao khát muốn vươn tới hạnh phúc và muốn được sống mãi. Một lúc nào đó, bạn sẽ cảm thấy lẻ loi và bị mất hút  trong thế giới vĩnh hằng. Pascal đã nói chính xác rằng sẽ đến lúc thân xác mong manh của bạn bị ngã đổ. Bạn sẽ chết, sẽ không còn hiện hữu nơi trần thế này nữa. Nhưng từ trong thâm sâu, bạn vẫn có ước muốn được trường tồn, được sống và được sống mãi. Niềm khao khát đó, không một thứ gì ở trần gian này có thể lấp đầy.”

Đó cũng là niềm khao khát của người thiếu phụ Samaria năm xưa và cũng là của mỗi người chúng ta ngày hôm nay. Ngày xưa, dân Do Thái đi trong sa mạc Sinai cũng khát (bài đọc 1), nhưng cái khát đó chỉ là hình bóng. Khát khao tình yêu và hạnh phúc là những ẩn số triền miên nơi kiếp người, và đáp án của ẩn số đó đã được Chúa Giêsu khải thị trong bài Tin mừng hôm nay.

Kết luận

Ngày xưa, có một đạo sĩ dạy cho các môn sinh bí quyết để tìm tới hạnh phúc. Ông giảng dạy rất uyên bác. Một thanh niên bặm trợn đến gặp ông và thách đố: “Thưa Thầy, Thầy giảng dạy rất thâm thúy, nhưng tôi chỉ xin hỏi Thầy một câu thôi. Trong tay tôi là một con chim, đố thầy biết đó là con chim sống hay con chim chết ?” Câu hỏi ma mãnh của chàng trai nhằm gài bẫy vị đạo sỹ vì trong tay anh ta, con chim đang còn sống sẽ bị anh ta bóp chết, nếu vị đạo sỹ trả lời rằng đó là con chim sống. Nhìn nét mặt quỷ quyệt của người thanh niên trẻ, vị đạo sĩ nói thẳng vào mặt anh ta : “Con chim này sống hay chết là do anh.” Ông nói tiếp : “Cũng vậy, hạnh phúc có đến được với chúng ta hay không còn tùy thuộc vào sự lựa chọn tự do của mỗi người.

Trong mùa chay, Giáo hội mời gọi chúng ta sám hối để trở với Chúa và với nhau. Chúng ta hãy hướng về Thập giá Đức Giêsu, kín múc cho mình nguồn nước sự sống để tâm hồn chúng ta luôn được an bình và vươn đạt tới hạnh phúc trường cửu.

Về mục lục

.

NGUỒN NƯỚC ĐEM LẠI SỰ SỐNG

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Ngày 22 tháng 3 hàng năm đã được Liên Hiệp Quốc chọn làm Ngày Nước Thế Giới – ngày để con người nhìn lại tầm quan trọng của tài nguyên quý giá bậc nhất trên Trái đất. Nước là tài nguyên chiếm 3/4 diện tích Địa cầu nhưng chỉ có khoảng 2,5% trong tổng số đó là nước có thể sử dụng được. Tổ chức Y tế Thế giới đang cảnh báo về tình trạng thiếu nước sạch trên toàn thế giới. Hiện nay mỗi năm có khoảng 1,2 triệu trẻ em dưới 5 tuổi chết vì thiếu nước sạch.

Tại Việt Nam, nhiều người vẫn chưa được sử dụng nước sạch, kể cả tại những thành phố lớn như Sài Gòn, Hà Hội. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu nước là do việc khai thác bừa bãi, sử dụng nước cách phí phạm. Nguyên nhân trầm trọng hơn, đó là tình trạng ô nhiễm môi trường do con người gây ra. Các khu công nghiệp, các cơ sở sản xuất và các gia đình xả thẳng chất thải, hóa chất chưa được xử lý vào môi trường, khiến cho nguồn nước ngầm bị nhiễm độc bởi hóa chất và các kim loại nguy hiểm. Theo Bộ Y tế, tại Việt Nam, hàng năm có tới 10 ngàn người chết vì các bệnh liên quan đến việc sử dụng nước ô nhiễm. Một trong các bệnh dễ thấy đó là các bệnh ung thư và các bệnh liên quan đến tiêu hóa, đường ruột.

Lời Chúa tuần thứ ba mùa chay hôm nay giới thiệu cho chúng ta: Chúa Giêsu là Nguồn Nước đem lại sự sống đời đời. Ngày xưa dân Do Thái đã có kinh nghiệm thế nào là thiếu nước và khát nước, khi họ vượt qua sa mạc. Hành trình vượt sa mạc phải đối đầu với bão cát và gió nóng, thì việc thiếu nước là một thảm họa cho cả con người và súc vật. Thay vì tin tưởng vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa, dân Do Thái đã tỏ ra thất vọng và muốn nổi loạn chống lại Thiên Chúa và Mose. Họ trách ông Mose: Tại sao ông đưa chúng tôi vào hoang địa này để chúng tôi và đàn vật phải chết khát ở đây? Trong lúc không biết phải giải quyết thế nào, Mose chỉ còn tin tưởng và cầu khẩn cùng Thiên Chúa. Ông thưa với Chúa những điều dân chúng oán trách ông. Thiên Chúa đã thể hiện quyền năng trước lời kêu xin của Mose. Ngài muốn cho Mose và dân Do Thái thấy rằng Ngài có thể làm được tất cả, kể cả những việc tưởng chừng như không thể, Ngài làm cho thành có thể. Chúa truyền cho Mose lấy cây gậy đập vào tàng đá. Từ tảng đá tại Meriba, Chúa đã cho một nguồn nước trong lành, tươi mát chảy ra cho toàn dân và súc vật được uống thỏa thuê, không còn khát nữa.

Phép lạ Chúa làm trong hoang địa ngày xưa, báo trước việc Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại một nguồn nước vô cùng quý giá, đó là Nước Trường sinh, nước đem lại sự sống cho tất cả nhân loại. Nguồn nước sẽ được ban cách dồi dào nới chính con người của Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã nhận ra và giới thiệu cho chúng ta qua câu chuyện Chúa Giêsu gặp gỡ và đối thoại với người phụ nữ Samaria.

Sau một hành trình dài, Chúa Giêsu và các môn đệ ngồi nghỉ tại bờ giếng Giacop, thuộc miền Samaria. Có một phụ nữ Samaria đến múc nước. Chúa Giêsu đã chủ động khởi đầu câu chuyện bằng việc xin người này: Chị cho tôi xin chút nước. Người phụ nữ Samaria lúc đầu, chỉ hiểu người đàn ông lạ này xin nước múc lên từ giếng sâu. Nhưng Chúa Giêsu đã khiến cho chị đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác khi nói với chị: Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: Cho tôi xin chút nước, thì hẳn chị đã xin người ấy ban cho chị nước hằng sống. Chúa Giêsu đã bắt đầu bằng việc uống nước để nói về một nguồn nước đặc biệt hơn đó là nước hằng sống. Nguồn nước do chính Ngài đem đến cho trần gian, có sức thanh tẩy tâm hồn con người và đem đến cho con người sự sống đời đời. Nguồn nước này sẽ được ban tặng nhưng không, cho những ai được Thiên Chúa ban ơn để tin vào Chúa Giêsu.

Người phụ nữ Samaria chưa thể hiểu những điều Chúa Giêsu muốn mạc khải. Chị tự hào vì tổ phụ Giacop đã để lại một giếng nước sạch cho con cháu, nhưng Chúa Giêsu đã quả quyết: Ai uống nước giếng này, sẽ vẫn bị khát, ai uống nước do Ngài ban tặng sẽ không bao giờ khát nữa và còn bảo đảm đem đến sự sống đời đời. Nói đến đây, người phụ nữ Samaria, dù chưa thể hiểu hết, nhưng chị đã bắt đầu tin và mở lời xin Chúa Giêsu: Thưa Ngài, xin cho tôi thứ nước đó để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.

Chúa Giêsu đã nói với người phụ nữ: Chị hãy về gọi chồng chị rồi trở lại đây. Người phụ nữ đã thành thật thưa: tôi không có chồng. chúa Giêsu trả lời: Chị đã có năm đời chồng rồi, và người hiện tại đang ở với chị không phải là chồng chị. Người phụ nữ ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu nói chính xác về quá khứ của chị. Chị đã thưa: Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ, cha ông chúng tôi đã thờ trên núi này. Qua đoan đối thoại này, Chúa Giêsu chỉ cho người phụ nữ Samaria thấy, trước đây chị đã bị vật vã trong cơn khát của thế gian đó là sự thiếu thốn tình yêu, thèm khát dục vọng. Cơn khát trần gian này sẽ dằn vặt và chi phối lôi cuốn chị vào dòng chảy của nó, không có điểm dừng. Còn người phụ nữ đã đi đến một niềm tin rằng, người lạ đang nói chuyện với chị không phải là người thường, mà là một ngôn sứ. Ngôn sứ này hơn hẳn các ngôn sứ trước đây, chị khẳng định: Ngài thật là ngôn sứ cha ông chúng tôi tôn thờ trên núi này.

Người phụ nữ sau khi đã tin Chúa Giêsu là nguồn nước hằng sống, là một vị ngôn sứ tổ tiên chị đã tôn thờ, chị đã vào làng, gọi mọi người trong làng và nói cho họ về Chúa Giêsu. Nhiều người Samaria đã tin Chúa Giêsu vì thấy người phụ nữ này đã được biến đổi nhờ gặp được Chúa Giêsu là nguồn nước ban sự sống mới. Chị đã làm chứng rằng: Ông ấy đã nói cho tôi về việc tôi đã làm. Chị đã được lấp đầy, được giải khát khỏi cơn khát của xác thịt, dục vọng và sự trói buộc của quá khứ, bằng chính những điều Chúa Giêsu đã nói với chị.

Cuộc sống chúng ta hôm nay không chỉ bị ô nhiễm về nguồn nước, chúng ta còn đang bị đầu độc bởi những chất độc hại là những tư tưởng sai lạc nghịch lại với Giáo Hội. Những sách báo phim ảnh và những lối sống dễ dãi buông thả chiều theo dục vọng đang kéo nhiều người, đặc biệt là các bạn trẻ vào cơn khát của nó; có nhiều người bị chìm vào cơn khát quyền lực, khát danh vọng, khát tiền bạc và của cải, khiến họ quay cuồng với cuộc sống và không có điểm dừng.

Chỉ có Chúa Giêsu là nguồn nước hằng sống mới có thể thỏa mãn cho sự khát khao sâu xa trong tâm hồn. Ngài sẽ thỏa mãn khát khao hạnh phúc, khát khao được sống đời đời và khát khao trở nên một với Thiên Chúa nơi mỗi chúng ta. Lời Chúa và Thánh Thể là nguồn sức sống cho nhân loại, có sức mạnh lấp đầy khát vọng sâu thẳm của con người. Xin cho chúng ta tin tưởng đến với Chúa Giêsu, đón rước Ngài và cầu xin với Ngài: Xin ban cho con Nước trường sinh phát xuất từ trái tim yêu thương của Chúa và thương lấp đầy mọi kháo khat trong tâm hồn chúng ta. Chúa sẽ đáp ứng cho chúng ta như chúng ta khát mong. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY – NĂM A

Lm. Anthony Trung Thành

Bài Tin mừng Chúa Nhật hôm nay là cuộc trò chuyện giữa Đức Giêsu với người đàn bà xứ Samaria được thánh sử Gioan tường thuật lại. 

Câu chuyện xảy ra trong bối cảnh Đức Giêsu tới thành Sykar thuộc xứ Samaria. Sau một quảng đường mệt nhọc, Đức Giêsu dừng chân nghỉ tại giếng Gia-cóp. Có lẽ Ngài rất khát nước, vì đó là giờ thứ sáu. Nhưng làm sao để có nước uống, vì giếng thì sâu, Ngài lại không có dụng cụ để múc nước. May mắn thay, lúc đó có một người đàn bà xứ Samaria tới lấy nước. Đức Giêsu nói với người đàn bà: “Xin bà cho tôi uống nước” (Ga 4,7). Nghe vậy, người đàn bà Samaria ngạc nhiên, vì từ lâu người Do thái và người Samaria không giao thiệp với nhau. Thậm chí họ là kẻ thù của nhau. Chính vì thế, người đàn bà mới trả lời với Đức Giêsu rằng: “Sao thế! Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria?” (Ga 4,9). 

Thực ra, việc xin nước uống chỉ là cái cớ để Đức Giêsu bắt chuyện với người đàn bà. Mục đích của Đức Giêsu không phải là xin nước, nhưng Ngài muốn mạc khải cho bà biết những điều quan trọng về Ngài. Vì thế, sau khi nghe người đàn bà thắc mắc, Đức Giêsu mới bắt đầu vào nội dung chính của câu chuyện, Ngài nói với người đàn bà rằng: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị : cho tôi chút nước uống với, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4,10). Nghe những lời Đức Giêsu vừa nói, người đàn bà càng thắc mắc nhiều hơn. Đó cũng chính là sự chờ đợi của Đức Giêsu. Vì thế, Ngài mạc khải tiếp: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”(Ga 4,4,14). Giờ thì không phải Đức Giêsu xin chị uống nước mà chính chị mới là người xin Đức Giêsu uống nước. Chị nói: “Thưa Ngài, xin cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước”(Ga 4,15). Như vậy, Đức Giêsu đã mạc khải cho chị biết, chính Ngài là Đấng Kitô. Cho nên không phải ai khác, mà chính Ngài là người ban cho chị Nước Hằng Sống. Rồi Ngài còn mạc khải cho chị về việc tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Ngài nói: “Đã đến giờ và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý. Đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn” (Ga 4, 23). 

Câu chuyện Tin mừng đến đây cho chúng ta thấy, Đức Giêsu đã đáp ứng niềm khát vọng sâu xa của người đàn bà. Bà đã biết về Đức Giêsu và tin nhận Ngài là Đấng Mêsia. Còn chúng ta: Đâu là niềm khát vọng của chúng ta? Chúng ta đã thực hiện sứ mạng đem “Nước” cho những người khác như thế nào? 

  1. Đâu là niềm khát vọng của chúng ta?

Trước hết, mỗi chúng ta cũng có những khát vọng thuộc lãnh vực tự nhiên: Khát nước, khát cơm ăn áo mặc, khát tình cảm, khát chân lý, khát tự do, khát yêu thương, khát công bằng, khát hạnh phúc… Nhưng những khát vọng này của chúng ta không bao giờ được thỏa mãn một cách tuyệt đối. Vì: uống nước rồi vẫn khát, ăn rồi vẫn đói; tình cảm không bao giờ đong đầy. Ngoài ra, với tâm lý “được voi đòi tiên” của con người thì sự thỏa mãn càng không bao giờ đủ. Chính người đàn bà xứ Samaria hằng ngày vẫn đến giếng Giacóp lấy nước. Bà đã có 5 đời chồng rồi, nhưng hiện vẫn sống với người chồng thứ 6. Hơn nữa, con người vẫn mong muốn những cái tuyệt đối, mà ở trần gian này không có cái gì là tuyệt đối: Tình yêu, công lý, tự do, hạnh phúc…chỉ là tương đối mà thôi.   

Thứ đến, mỗi chúng ta cũng có những khát vọng thuộc lãnh vực siêu nhiên như: Khát đức tin, khát Chúa, khát Nước hằng sống, khát hạnh phúc Thiên đàng…Sự khát khao thuộc lãnh vực siêu nhiên này chúng ta chỉ được thỏa mãn nơi Chúa. Vì, “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Chính Đức Giêsu cũng đã nói với người đàn bà: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4, 13-14).  

Chính vì vậy, Mùa chay, Giáo hội kêu mời chúng ta khỏa lấp lòng khao khát sự sống siêu nhiên bằng việc gặp gỡ Đức Giêsu:  qua Lời của Ngài, qua các Bí tích, nhất là Bí tích Giao hòa và Bí tích Thánh Thể. Chúng ta cũng có thể khỏa lấp lòng khao khát sự sống siêu nhiên bằng đời sống cầu nguyện và sự chia sẻ cơm áo cho tha nhân. 

  1. Chúng ta có sứ mạng đem “Nước Hằng Sống” cho những người khác?

Sau khi người đàn bà được Đức Giêsu “cho uống nước hằng sống,” bà đã chạy về thành và kêu gọi mọi người “Mau hãy đến xem, có một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng ông đó là Ðấng Kitô?” (Ga 4,29). Dân chúng tuôn nhau ra khỏi thành và đến cùng Ngài. Nhiều người tin vào Đức Giêsu do lời chứng của người đàn bà. Họ mời Đức Giêsu ở lại với họ hai ngày. Sau đó, họ nói rằng: “Giờ đây, không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng Cứu Thế” (Ga 4,42). 

Sứ vụ của người đàn bà cũng là sứ vụ của mỗi người chúng ta. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã nói cho các môn đệ biết về công việc của Ngài: “Lương Thực của Thầy là làm theo ý Ðấng đã sai Thầy và chu toàn công việc của Ngài”(Ga 4,34). Công việc của Đức Giêsu là loan báo Tin mừng. Đó cũng là công việc của các Tông đồ và là công việc của mỗi người chúng ta. Công việc đó luôn có tính cấp bách. Chính Đức Giêsu đã cho biết: “Các con chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt đó ư? Nhưng Thầy bảo các con hãy đưa mắt mà nhìn xem đồng lúa chín vàng đã đến lúc gặt. Người gặt lãnh công và thu lúa thóc vào kho hằng sống, và như vậy kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Ðúng như câu tục ngữ: Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì các con không vất vả làm ra; những kẻ khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng kết quả công lao của họ” (Ga 4,35-38). 

Để loan báo Tin mừng có hiệu quả, chúng ta cần phải luôn chủ động, đi bước trước để đến với tha nhân. Đức Giêsu đã luôn làm như thế. Ngài đã đi bước trước qua việc bắt đầu câu chuyện bằng việc xin nước người phụ nữ. Rồi sau đó, Ngài đã mời gọi người phụ nữ uống Nước Hằng Sống. Ngài đi bước trước đến bàn thu thuế và mời gọi ông Lêvi đi theo Ngài. Ngài đi bước trước để đến với ông Giakêu khi ông đang ở trên cây sung để cho ông biết “hôm nay tôi đến trọ nơi nhà ông.” Ngài đi bước trước đến đồng bàn với những người thu thuế và tội lỗi để mời gọi họ bỏ quá khứ tội lỗi để trở về với Ngài… 

Chúng ta cũng phải noi gương Đức Giêsu, đi bước trước đến với những người cần đến chúng ta. Đặc biệt là những người đang gặp khó khăn trong đời sống đức tin. Những người gặp khó khăn trong đời sống gia đình. Những người bỏ Chúa và Giáo hội lâu năm. Những người đang bất hòa với chúng ta. Thậm chí là những người đang hằn thù, ghen ghét chúng ta. Chúng ta cần đi bước trước để bắt chuyện với họ, giúp họ nhận ra con người thật của mình, cần đến Chúa để họ trở về với Chúa và Giáo hội. 

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết từ bỏ tội lỗi, trở về với Chúa. Xin cho chúng con luôn biết khỏa lấp những khát khao trong cuộc sống bằng chính Chúa. Từ đó, chúng con trở thành những sứ giả đem Chúa đến với anh chị em và đem anh chị em trở về với Chúa.  Amen.

Về mục lục

.

CƠN KHÁT

Trầm Thiên Thu

Cuộc đời phàm nhân có nhiều loại khát – khát về thể lý và khát về tinh thần. Mức độ khát cũng đa dạng và khác nhau. Cơn khát nào cũng cần được giải khát. Cơn khát của Chúa Giêsu là cơn khát đặc biệt, liên quan cả thể lý lẫn tinh thần: “Tôi khát!” (Ga 19:28).

Về thể lý, khát là trạng thái thiếu nước. Muốn hết khát thì phải có nước để làm cho hết khát, gọi là giải khát. Đồ uống cần gấp hơn đồ ăn, vì người ta có thể nhịn đói dài ngày hơn nhịn khát. Ngày nay, trên đường đi thường thấy có những nhà để bình “nước đá miễn phí” cho khách vãng lai sử dụng. Một nghĩa cử đẹp lắm! Tất nhiên nước đó chỉ có lợi cho những người lao động nghèo thôi, người giàu chẳng ai “để ý” làm chi.

Điều đó là động thái rất đơn giản và chỉ là “chuyện nhỏ”, nhưng lại thực sự cần thiết, nhất là vào những ngày hè nắng nóng, như tục ngữ Việt Nam ví von: “Nắng tháng Ba, chó già le lưỡi”. Việc nhỏ mà công to, chính Chúa Giêsu cũng chúc lành cho những việc làm “nhỏ bé” như vậy: “Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mt 10:42). Thật là tuyệt vời!

Về tinh thần, cơn khát đa dạng hơn (hạnh phúc, tình yêu, danh vọng, sự nghiệp,…), và cũng cấp bách lắm. Plato (khoảng 427-347 TCN, triết gia cổ đại Hy Lạp) phân tích: “Hành vi của con người bắt đầu từ ba nguồn chính: khao khát, cảm xúc và tri thức”. Còn Denis Diderot (1713-1784, văn sĩ kiêm triết gia người Pháp) xác định: “Chỉ có một khát khao, khát khao hạnh phúc – Il n’y a qu’une passion, la passion du bonheur”.

Cơn khát thể lý cấp bách, nhưng cái khát về tâm linh còn cấp bách và mãnh liệt hơn nhiều. Hạn hán là “thiên tai” (có thể là “nhân tai” nhưng người ta đổ lỗi cho Ông Trời), không mưa nên thiếu nước, đất đai khô cằn, nguy hiểm lắm, nhưng hạn hán tâm linh càng nguy hiểm hơn, vì đó là “nhân tai” (chắc chắn cái này chỉ là “nhân tai” mà thôi). Và rồi chỉ có Mưa Giêsu mới khả dĩ cứu nguy con người khỏi hạn hán. Chúng ta phải thực sự khát Ngài.

CƠN KHÁT THỂ LÝ

Thời Cựu Ước, trong hành trình sa mạc, dân khát nước nên đã kêu trách ông Mô-sê: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập để làm gì? Có phải là để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17:4). Nắng đồng bằng đã khó chịu rồi, nắng cao nguyên cũng ghê gớm lắm, nắng sa mạc thì hẳn là như lửa. Chịu không nổi cái nắng nóng nên dân muốn nổi loạn, ông Mô-sê cũng “ngán” lắm nên kêu lên cùng Đức Chúa: “Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con!” (Xh 17:4).

Đá luôn có sẵn, vùng sỏi đá có khác, muốn “chơi” thì cứ việc lấy đá chọi thẳng tay ngay. Chả biết phải trái thế nào, lạng quạng là chết chắc. Kể cũng “ngại” thật! Thấy tội nghiệp, Đức Chúa phán với ông Mô-sê: “Ngươi hãy đi lên phía trước dân, đem theo một số kỳ mục Ít-ra-en; cầm lấy cây gậy ngươi đã dùng để đập xuống sông Nin, và đi đi. Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đằng kia trước mặt ngươi, trên tảng đá ở núi Khô-rếp. Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng đá, nước sẽ chảy ra cho dân uống” (Xh 17:5-6). Ôi chao, thế thì còn gì bằng! Ông Mô-sê nghe vậy và làm y chang trước mắt các kỳ mục Ít-ra-en. Và điều kỳ diệu đã xảy ra. Ông đặt tên cho nơi ấy là Ma-xa và Mơ-ri-va, nghĩa là THỬ THÁCH và GÂY SỰ, vì con cái Ít-ra-en đã dám gây sự và thử thách Đức Chúa mà nói: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” (Xh 17:7). Đặt vấn đề như vậy là nghi ngờ sự hiện hữu của Thiên Chúa. Chắc hẳn chúng ta cũng đã có lúc “đặt vấn đề” về đức tin như vậy!

Có lẽ chúng ta cho rằng dân Ít-ra-en “uống thuốc liều” quá chỉ định, vì dám gây sự và thử thách Chúa. Đúng là “bán trời không cần văn tự”. Tuy nhiên, chúng ta cũng chẳng hơn gì, có khi còn hơn họ nữa đấy. Thật vậy, khi gặp gian nan thử thách theo kiểu “mắc nối tiếp” như nối các bóng điện, dạng “họa vô đơn chí”, chắc hẳn cũng đã có những lần chúng ta bị “lung lay” về đức tin. Dù không nói ra nhưng các động thái của chúng ta cũng bộc lộ nghi vấn: “Có Chúa thật hay người ta chỉ ảo tưởng?”. Có những người còn liều hơn – kể cả người Công giáo, đã từng dám thốt thành lời: “Trời không có mắt, trời mù!”. Với các Kitô hữu, Trời là ai chứ? Như vậy không phải là chúng ta “liều mạng” hơn dân Ít-ra-en sao? Chẳng oan ức chi mô!

Việc ăn năn sám hối không là động thái chỉ được thực hiện trong Mùa Chay, Mùa Vọng, kỳ tĩnh tâm,… mà phải được thực hiện không ngừng trong suốt cuộc đời: Mùa nào cũng là mùa sám hối, ngày nào cũng là Mùa Chay, khi nào cũng là lúc tĩnh tâm (cấm phòng). Đó là sẵn sàng dầu đèn như 10 cô trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể (x. Mt 25:1-13). Giáo Hội ấn định Mùa Chay như tiếng chuông cảnh báo để “đánh động” mạnh hơn, nhất là đối với những người còn “ngủ mê”, do đó mà có nghiêm luật: Xưng tội mỗi năm ít là một lần, đồng thời xưng tội và rước lễ trong Mùa Phục Sinh.

Chúng ta sẽ nhận ra Thiên Chúa khi nhìn vào vạn vật, thiên nhiên. Đơn giản nhất là không khí. Không có không khí thì không gì có thể sống được một lúc. Cái cực tiểu nhưng lại là cực đại. Còn những thứ khác như ánh sáng, không có ánh nắng thì ai cũng như mù vậy. Vì thế, hãy nghe lời tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn” (Tv 95:1-2). Thánh Vịnh này phổ biến, quen thuộc, vì được Giáo Hội sử dụng hằng ngày trong Giờ Kinh Phụng Vụ.

Không thể im lặng, tác giả Thánh Vịnh nói thêm: “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt” (Tv 95:6-7a). Trong Mùa Chay, chúng ta thường xuyên được nhắc nhở câu này: “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa phán: Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơ-ri-va, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm” (Tv 95:7b-9). Và Thánh Phaolô cũng đã xác định: “Đây thời kỳ Chúa thi ân, Thời gian cứu độ dành phần cho ta” (2 Cr 6:2).

Khi đề cập Mơ-ri-va và Ma-xa tức là nhắc nhở chúng ta “đừng gây sự và thử thách Thiên Chúa”. Không dám làm vậy là chúng ta bắt đầu tin Chúa hiện hữu. Niềm tin là khởi đầu của mọi thứ: Tin Chúa (tín thác) → Thương người → Tha thứ (thương xót tha nhân) → Thánh ân (được hưởng) → Trắng án (sạch tội) → Trường sinh (nên thánh, làm công dân Nước Trời). Một chuỗi những chữ T kỳ diệu!

CƠN KHÁT TINH THẦN

Chấp nhận hay từ chối, đó là tin. Đức tin thật kỳ diệu, vì đó là một trong các “mối phúc ngoại lệ” (*), và vì đức tin có khả năng làm người ta nên công chính. Thánh Phaolô cho biết: “Một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa” (Rm 5:1-2).

Để dễ hiểu và có thể hiểu thấu đáo, Thánh Phaolô giải thích: “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5:8).

Khi đọc các thư của Thánh Phaolô, chúng ta thấy điều gì cũng được diễn tả rất chi tiết, mạch lạc. Quả thật, tình yêu của Thiên Chúa quá vĩ đại, quá cao thượng, và chúng ta gọi là Lòng Chúa Thương Xót. Đã có lần Chúa Giêsu minh định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Thế nhưng đâu mấy ai! Tha thứ đã khó rồi chứ nói chi chết thay ai đó. Đó là dạng khát “không giống ai”, rất khác lạ. Sẵn sàng tha thứ là làm thánh rồi đấy!

Như một đoạn phim thú vị về tính nhân bản và niềm khát khao, trình thuật Ga 4:5-42 nói về phụ nữ Sa-ma-ri gặp Chúa Giêsu bên giếng nước và được Ngài ban cho loại nước trường sinh bất tử, uống vô hết khát liền.

Thánh sử Gioan cho biết: Một hôm, Chúa Giêsu đến thành Xy-kha thuộc xứ Sa-ma-ri, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giuse và có giếng của ông Gia-cóp. Ngài đi đường mỏi mệt nên ngồi ngay xuống bờ giếng, còn các môn đệ vào thành mua thức ăn, vả lại lúc đó khoảng mười hai giờ trưa, nắng như lửa thiêu.

Lúc đó có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giêsu xin chị chút nước uống. Chị ngạc nhiên: “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao?”. (Vì kính trọng Chúa Giêsu khi dịch Kinh Thánh thôi, chứ Chúa Giêsu lúc đó còn trẻ măng, nếu là người Việt thì chắc là phụ nữ ngoại giáo kia sẽ dùng hai đại từ là Anh và Em hoặc Tôi). Tại sao chị ấy ngạc nhiên? Vì thời đó, người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri. Đức Giêsu xởi lởi: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’ thì hẳn chị ĐÃ xin, và người ấy ĐÃ ban cho chị nước hằng sống”. Chúa Giêsu dùng thì quá khứ trong khi Ngài nói là thì hiện tại. Điều đó cho thấy rằng những gì Ngài nói đều là sự thật, như Ngài khẳng định với Tổng trấn Phi-la-tô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT” (Ga 18:38).

Cô nàng vô danh người Sa-ma-ri còn thắc mắc rằng Chúa Giêsu không có gầu, giếng lại sâu, làm gì có được nước hằng sống mà cho. Chị không hiểu ý Chúa Giêsu. Rồi chị còn chứng minh rằng tổ phụ Gia-cóp với cả con cháu và đàn gia súc cũng xài nước ở giếng này. Đức Giêsu lại cười rất hiền, và trầm giọng: “Chị Hai à, ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời đấy”. Chị gãi đầu và nghĩ thầm: “Chu choa! Lạ dữ nghen!”. Không lạ sao được, thế mới đáng nói chứ!

Ôi chao, từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, hết mắt tròn rồi mắt dẹt, cứ miệng chữ A rồi mắt chữ O, thế nhưng chắc hẳn chị cảm thấy tin tưởng “Anh Chàng” này nói thật, vì thấy có gì đó rất kỳ lạ. Và chị nói với Đức Giêsu: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước”. Chả bảo cho hay không cho, mà Ngài lại bảo chị ấy gọi chồng ra đó. Chị bảo rằng chị chỉ “mình ên” thôi, không chồng con chi cả. Đức Giêsu cười và bảo chị nói đúng. Ngài nói “toạc móng heo” là chị đã có tới năm đời chồng rồi, ngay cả người hiện đang sống với chị cũng không phải là chồng. Chắc đó là dạng “sống thử” hoặc “nửa nhân ngãi, nửa vợ chồng” đây. Chị hết hồn hết vía vì thấy Chúa Giêsu không phải thầy bói mà nói trúng phoóc. Ngại thì có ngại, nhưng chị cũng phải công nhận ngay trước mặt Chúa Giêsu: “Ông ơi, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ”.

Và không chỉ có vậy, Chúa Giêsu còn nói điều “ngược đời” lắm. Ngài bảo không được thờ phượng Thiên Chúa trên núi nữa, mà Giêrusalem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa. Kể ra chị Hai ngoại giáo này cũng dễ tiếp thu “cái mới” đấy. Tốt lắm!

Sau đó, Đức Giêsu nghiêm sắc mặt và nói “dài hơi” chút xíu: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái. Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật”. Chị Hai này hay thiệt, xem chừng giỏi Kinh Thánh nữa nghen, vì chị nghe Ngài nói vậy mà không “théc méc” chi ráo trọi, rồi chị còn nghiêm túc thưa: “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. Trúng phoóc. Giỏi dữ nghen! Và Đức Giêsu nói ngay: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây”. Chị này diễm phúc quá xá luôn. Chị được gặp và nói chuyện với Đức Kitô. Sướng rơn!

Câu chuyện vừa tới đó thì đúng lúc các môn đệ đi chợ về, lỉnh kỉnh đồ ăn và thức uống. Các ông ngạc nhiên vì thấy Sư Phụ nói chuyện với một phụ nữ. Kỳ à nghen! Thế nhưng chẳng đệ tử nào dám hỏi nửa lời.

Sau đó, người phụ nữ phấn khởi đến nỗi bỏ vò nước lại, chạy vào thành và bảo người ta đến xem một “Người Lạ”, rất giống Đấng Kitô. Chị này tự nguyện làm nhân chứng sống. Thế là dân thành tuôn ra như trẩy hội. Được tận mắt thấy một “Dị Nhân” độc nhất vô nhị là cơ hội ngàn vàng chứ ít gì. Lạ mà vui! Chắc là ai cũng rất phấn khởi vì thỏa mãn niềm khát khao lâu nay, nhất là chị Hai ngoại giáo.

Đã quá trưa rồi, chắc là ai cũng đói meo, thế nên các môn đệ thưa: “Bạch Thầy, xin mời Thầy dùng bữa”. Ngài “bóng gió” với các ông: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết”. Các môn đệ lại gãi đầu và ngơ ngác nhìn nhau: “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?”. Họ tưởng Sư Phụ no xôi chán chè rồi, chả cần gì nữa. Các ông đâu ngờ Sư Phụ nói về loại “siêu lương thực” là THI HÀNH Ý CHÚA CHA và HOÀN TẤT CÔNG TRÌNH CỨU ĐỘ. Thì phải vậy thôi, trò sao hơn thầy được, bằng thầy cũng khá lắm rồi (x. Mt 10:24-25). Dĩ nhiên Ngài rất thông cảm cho các đệ tử của mình thôi. Thuận ngôn nào cũng gây nghịch nhĩ!

Thánh sử Gioan cho biết rằng, hôm đó có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: ÔNG ẤY NÓI VỚI TÔI MỌI VIỆC TÔI ĐÃ LÀM. Hiệu quả nhãn tiền của việc làm chứng thật. Vâng, chỉ có Thiên Chúa mới THẤU SUỐT MỌI SỰ, từ thuở hồng hoang tới tận thế, nói chi tới quá khứ và tương lai của một con người (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6).

Ngày hôm đó, dân Sa-ma-ri xin Ngài ở lại với họ, chắc hẳn Ngài rất vui nên đã ở lại đó hai ngày. Và rồi số người tin lời Đức Giêsu còn tăng thêm nhiều. Họ bảo chị Hai ngoại giáo: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”. Chả có vấn đề gì, chị Hai không hề buồn, chị chỉ muốn người ta cũng tin như chị thôi. Chúng ta là những người được Chúa tuyển chọn, cách này hay cách khác – giáo sĩ, tu sĩ, cán bộ hoặc hội viên các hội đoàn,… Liệu chúng ta có cảm thấy mắc cở, xấu hổ? Thiên Chúa có tuyển chọn chị Hai ngoại giáo? (Chỉ có mỗi người TỰ TRẢ LỜI được thôi).

Khi đề cập niềm khát khao, chúng ta còn nghe văng vẳng tiếng kêu thảm thiết của Chúa Giêsu từ trên Thập Giá trên Đồi Sọ năm xưa: “Tôi khát!” (Ga 19:28). Đó là nỗi “khát tình”. Ngài khát yêu thương, muốn thương xót mọi người, nhưng người ta không lưu ý. Ngài còn có cái khát khác thường là “khát đau khổ”, Ngài bằng lòng uống “chén đắng”, không chỉ vui vẻ uống mà còn say sưa uống. Thế mà chúng ta lại nhẫn tâm đối xử tệ bạc với Ngài, chẳng khác bọn thủ ác cho Ngài nếm giấm chua (Ga 19:29), và ứng nghiệm lời tác giả Thánh Vịnh than thở thuở xưa: “Thay vì đồ ăn, chúng trao mật đắng, con khát nước, lại cho uống giấm chua” (Tv 69:22).

Trong Mùa Chay, ước gì mỗi người đều biết thực sự khát khao điều công chính, luôn tin kính Đức Kitô y như chị Hai Sa-ma-ri và dân thành Xy-kha, đồng thời luôn xác tín: “Linh hồn con khao khát Chúa Trời hằng sống” (Tv 42:3). Chị Hai và dân thành Xy-kha tin vào “Người-Lạ” là rất hợp lý, là “đúng ý Chúa”. Chúng ta đều là tội nhân bất xứng, không đáng tiếp cận Ngài, nhưng Ngài vẫn rộng lòng “hỉ xả” với chúng ta: “Nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130:3). Và tất nhiên chúng ta không thể không “hỉ xả” với người khác.

Thánh LM Thomas Aquinas (1225–1274, Tiến Sĩ Giáo Hội) đã soạn kinh nguyện chuẩn bị Thánh Lễ thế này: “Con bệnh tật tìm đến Bác Sĩ Sự Sống, con không tinh tuyền tìm đến Giếng Nước Lòng Thương Xót, con mù lòa tìm đến Ánh Sáng chói lọi đời đời, con nghèo nànthiếu thốn tìm đến Chúa Tể Càn Khôn”. Ước gì chúng ta cũng có “cơn khát” như thánh nhân!

Lạy Thiên Chúa là ĐẤNG HẰNG SINH (Xh 3:14; Đnl 5:26; Gs 3:10; Tl 8:19; R 3:13; 1 Sm 14:39 và 45; 1 Sm 17:26 và 36; 1 Sm 19:6; 1 Sm 20:3 và 21; 1 Sm 25:26 và 34; 1 Sm 26:10 và 16; 1 Sm 28:10; 1 Sm 29:6; 2 Sm 2:27; 2 Sm 4:9; 2 Sm 12:5; Tv 42:3; Tv 84:3; Mt 16:6; Mt 26:63; Ga 6:57; Ga 8:24b; Cv 14:15; 2 Cr 3:3; 2 Cr 6:16; 1 Tx 1:9; 1 Tm 3:15; 1 Tm 4:10; Dt 7:24-25), con không biết xin Ngài điều gì, chỉ xin Ngài là “tất cả của đời con”. Lạy Chúa các Chúa, xin giúp con luôn biết khát Ơn Cứu Độ của Ngài (Tv 119:174), biết can đảm bỏ chiếc-bình-tội-lỗi bên giếng-đời, dám đốt chiếc-áo-tội-lỗi-quá-khứ để mặc chiếc-áo-tín-thác-mới-tinh, và xin Thần Khí Ngài tác động để con biết mau mắn đáp lại lời kêu khát của Chúa Giêsu hiện thân nơi những con người bé nhỏ trên đường đời mà con gặp. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của nhân loại. Amen.

 

(*) Ngoài Tám Mối Phúc “nòng cốt” (Mt 5:3-11; Lc 6:20-23), còn nhiều các “mối phúc” khác được đề cập trong Kinh Thánh: Lc 7:22-23; Lc 11:28; Lc 14:15; Ga 20:29; Rm 4:7-8; Rm 14:22; Tv 1:1-2; Tv 33:12; Tv 112:5-6; Tv 106:3; Tv 119:1-2; Tv 144:15; Tv 146:5; Cn 3:13; Cn 8:32; Cn 8:34; Hc 28:19; G 5:17; Is 56:2; Gr 17:7; Gc 1:12; Gc 5:11; Kh 1:3; Kh 19:9; Kh 20:6.

Về mục lục

.

NƠI BỜ GIẾNG GIACOB

Lm Tôma Nguyễn Hoàng Phượng 

            Bài Phúc âm hôm nay thuật lại cuộc đàm thoại của Chúa Giêsu và người đàn bà Samaria chung quanh vấn đề ơn cứu rỗi, và nước trường sinh. Đây là trang Phúc âm hồn nhiên và đẹp đẽ nhất. Lần này Chúa Giêsu không giảng trước một cử tọa đông đúc, nhưng Ngài nói chuyện với một người phụ nữ ngoại quốc về thân thế, và sự nghiệp của Chúa Kitô. Đọc đoạn Phúc âm này, ta thấy Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến những điểm nổi bật sau đây:

  1. Chúa Giêsu muốn chúng ta sống tinh thần hợp nhất yêu thương:

Để sống hợp nhất yêu thương, như Chúa Giêsu: Chúng ta không là người định kiến, không kỳ thị chủng tộc, không phân biệt giai cấp, trái lại sống bao dung, quảng đại, coi mọi người đều là anh em một cha trên trời.

            Thái độ tự nhiên của Chúa Chúa Giêsu đã làm cho người đàn bà Samaria ngạc nhiên. “Tại sao ông là người Do Thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria? Vì người Do Thái không hề giao thiệp với người Samaria”.

            Thái độ của Chúa Giêsu cũng làm các môn đệ ngạc nhiên. Họ hỏi nhau: “Tại sao Thầy mình lại nói chuyện với phụ nữ ngoại quốc”. Vì người Do Thái thời bấy giờ ít giao thiệp với người ngoại quốc.

             Ngày nay, khi đọc chuyện này, có lẽ chúng ta cũng hổ thẹn với lương tâm. Chúng ta đừng trách người Do Thái hay các môn đệ quá hẹp hòi, ích kỷ, kỳ thị chủng tộc. Nhìn vào người Việt Nam chúng ta, nhìn vào các cộng đồng công giáo trong các xứ đạo, và nhìn vào chính bản thân mỗi người chúng ta, đâu đâu chúng ta cũng thấy có kỳ thị, thiên kiến và chia rẽ. Chia rẽ giữa Bắc và Nam, chia rẽ giữa cũ và mới, chia rẽ giữa giàu và nghèo,…Rồi người theo khuynh hướng này, kẻ thích khuynh hướng kia. Đúng là “trăm người trăm ý”. Đúng là “lắm thầy thối ma”. Nếu không vì Chúa vì Giáo hội của Chúa, vì lợi ích chung mà hinh sinh từ bỏ ý riêng thì khó có thể làm được việc gì nên chuyện.

            Hơn nữa, sở dĩ có chia rẽ là vì thiếu tin tưởng và tìm hiểu nhau. Nếu mỗi người biết để ra một bên những thành kiến của mình, mà xích lại gần nhau để đối thoại với tha nhân trong tinh thần Phúc âm thì không còn hố sâu chia rẽ nữa.

  1. Do đó, để sống một đời sống tốt đẹp, Chúa muốn chúng ta sống hiệp nhất yêu thương. Ngoài ra, Chúa còn muốn chúng ta hợp nhất trong vấn đề thờ tự và phụng vụ:

            Người Do Thái và người Samaria từ xa xưa vốn không hợp nhau ở nhiều điều, kể cả vấn đề tôn giáo. Tuy cũng tôn thờ một Đức Giavê đấy; nhưng người Do Thái bảo phải thờ Chúa ở Giêrusalem mới đúng; còn người Samaria bảo phải thờ Thiên Chúa ở Garazim mới đúng. Bởi thế, người đàn bà nơi bờ giếng Giacob mới thắc mắc với Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, phải thờ Chúa ở đâu mới đúng?”. Chúa Giêsu trả lời: “Bây giờ không còn thờ Chúa ở đây hay ở kia, mà phải thờ Chúa torng tinh thần và chân lý”.

            Đây không phải là một câu chuyện xa xưa. Ngày nay, chúng ta còn thấy cái quan niệm hẹp hhòi đó torng Giáo Hội. Người thì đòi làm lễ bằng tiếng Latinh, người thì thích làm lễ bằng tiếng bản xứ, người thì muốn phụ nữ cũng được làm Linh mục, người thì không muốn. Hơn nữa, có người thích chọn nhà thờ này, người khác chỉ chọn nhà thờ kia. Có kẻ thích Linh mục già, có kẻ thích Linh mục trẻ, kẻ ưa cha này, kẻ chuộng cha kia,…Toàn là chuyện nhố nhăng.

            Điều cốt yếu đã được Chúa Giêsu nói rõ trong Phúc âm hôm nay: “Đã đến giờ và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thật sẽ tôn thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý…”(Jn 4,23). Như thế, theo Chúa là theo với cả đời sống của ta với hết lòng TIN – CẬY – MẾN, chứ không luẩn quẩn với nhà thờ này, nhà thờ nọ, Linh mục này, Linh mục kia,…

            Thánh Phaolô viết: “Như vậy, Chúa Kitô bị phân chia rồi sao?”. Chúa Kitô phải là một chứ không phải Chúa Kitô bị phân chia.       

            Và Chúa cũng muốn những kẻ theo Chúa phải hợp nhất với nhau nên một: “Lạy Cha, xin cho chúng được hợp nhất với nhau nên một, như Cha ở trong Con, và như Con ở trong Cha”.

            Suy kỹ bài Phúc âm hôm nay, ta thấy Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống chiều sâu đạo Chúa:

            – Hãy làm cho thân xác chúng ta trở thành đền thờ xứng đáng của Chúa Thánh Linh.

            – Hãy làm cho đời sống chúng ta trở thành một ca khúc thờ phượng chân thật.

            – Và hãy làm cho chúng ta thành Kitô hữu luôn biết yêu thương mọi người, chẳng trừ ai.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY A

Lm .Giuse Đinh Tất Quý

“Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng người thật là Ðấng cứu độ trần gian.”(Ga 4,42)

Câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay như thế nào thì chúng ta đã rõ. Giáo hội cố ý cho đọc cả câu chuyện vì tính cách đặc biệt của nó. Qua câu truyện này, chúng ta có thể rút ra được một bài học…rất phù hợp với Mùa Chay: Bài học về sự trở lại. Có thể nói đây là một cuộc trở lại kiểu mẫu. Nội dung của một cuộc trở lại thường diễn tiến như sau:

  1. Bắt đầu từ chỗ biết nhìn nhận quá khứ lỗi lầm của mình

Người đàn bà trong bài trong bài hôm nay là một người tội lỗi với một quá khứ thật đáng ghê tởm. Trong cái quá khứ đó chúng ta có thể tìm thấy một cuộc sống 

chỉ có hiện tại mà không có tương lai 

chỉ có tình dục mà không có Tình yêu 

chỉ có hưởng thụ mà không có phục vụ 

chỉ có bay nhảy mà không có trách nhiệm 

Một quá khứ như thế tất nhiên sẽ dẫn đến một hiện tại chẳng tốt đẹp gì. Cuộc sống của bà ta lúc này chẳng khác gì cuộc sống của một nô lệ. 

Rất may là bà ta được gặp Chúa. Cuộc gặp gỡ không có dự tính từ trước nhưng lại đem đến những kết quả thật lạ lùng. Chúa đã ấn một ngón tay vào đúng chỗ nhức nhối nhất trong cuộc đời của bà, để rồi sau đó Chúa đưa bà vào cuộc sống mới. Lúc bị Chúa phê phán về cuộc sống tội lỗi, bà ta đã không nói gì, bà ta im lặng chấp nhận. 

Nhìn nhận mình có tội, nhìn nhận tội lỗi của mình đó là bước đầu tiên và cũng là bước thật quan trọng trên con đường trở lại.

  1. Tin vào tình thương của Chúa

Lúc đầu khi mới gặp Chúa, chúng ta thấy thái độ của bà thật đanh đá: 

– Ông là người Do Thái mà lại xin nước uống với tôi là người Samaria sao?(Ga 4,9) 

Người Do Thái không giao tiếp với người Samaria. Có nhiều lý do nhưng lý quan trọng nhất vẫn là vì hai bên không có cùng một cách biểu lộ lòng tin và nhất là không có sự nhất trí với nhau về nơi Thiên Chúa ngự.

Nhờ cuộc gặp gỡ này mà Chúa đã giải tỏa hết những lấn cấn mà bao lâu nay người ta đã vì đó mà bất hòa với nhau: 

– Đã đến giờ và chính là lúc này những kẻ tôn thờ đích thực…sẽ thờ Thiên Chúa Cha trong Tinh thần và trong Chân Lý (Ga 4,23). 

Nhìn lại quá trình của cuộc gặp gỡ, chúng ta thấy người đàn bà này đã có một chuyển biến rất rõ rệt trong cách nhìn của bà đối với Chúa. 

– Lúc đầu, đối với bà, Chúa chỉ là một con người: “Ông là người Do Thái”(Ga 4,9) 

– Sau khi Chúa bật mí cho bà ta biết là Ngài biết rất rõ về đời tư của bà và nhất là khi Chúa tỏ ra cảm thông với sự vất vả của bà cũng như sẵn sàng giúp bà thoát ra khỏi cuộc sống cơ cực của hiện tại thì bà đã có một cái nhìn khác về Chúa, một cái nhìn cao hơn “Quả thực Ngài là một vị Tiên tri”(Ga 4,19) 

– Và kết cuộc thì thật kỳ diệu: Sau khi Chúa chỉ cho bà cách thức để bà có thể tìm gặp được một Thiên Chúa đích thực thì hình ảnh về một đấng Messia mà muôn dân đang mong đợi đã thoáng hiện ra trong tâm trí của bà: “Tôi biết Đấng Messia mà người ta gọi là Ki-tô sẽ đến và khi đến Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”(Ga 4,25) 

  1. Sống cuộc sống mới mà mình đã tìm lại được

Bắt đầu bằng một thái độ dứt khoát với quá khứ. Tin Mừng ghi rõ: “Bấy giờ người đàn bà bỏ vò nước xuống”(Ga 4,28) Một số nhà chủ giải Kinh Thánh cho rằng việc này có một ý nghĩa tượng trưng rất đặc biệt. Nó như một kết thúc cho một giai đoạn đã qua của một cuộc đời và mở đầu cho một gian đoạn mới. 

Tiếp theo Tin Mừng ghi: Bà chạy về thành loan báo cho mọi người rằng 

– Ra mà xem một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng Ông đó là Đức Ki-tô?(Ga 4,29) 

Đó là bước thứ hai trong cuộc sống mới: Bắt đầu sống cho Chúa bằng cách loan báo cho người ta biết Ngài.  

Và cuối cùng là kết hợp với Ngài trong niềm tin để được cùng chia sẻ cuộc sống hạnh phúc của những người tin Chúa: 

– Giờ đây không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã dược nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là đấng Cứu Thế.(Ga 4,42) 

Để kết thúc tôi xin tặng anh chị em câu chuyện: 

Một Linh mục dòng Tên người Ailen, cha Doyle, nổi tiếng vì lòng hay giúp đỡ người khác và sự thánh thiện của cha. Một buổi tối, sau khi giảng một bài về sự truyền giáo, ngài đi ra đường và gặp một thiếu nữ. Ngài nói dịu dàng với họ: 

– Con ạ, trời đã khuya. Con chưa về nhà sao? 

Rồi, với tâm hồn nhiệt thành, Ngài nói tiếp: 

– Đừng làm Chúa đau khổ. Ngài yêu con. 

Năm tháng trôi qua. Vào một đêm nọ, có điện thoại của bề trên sai Ngài đi Dublin ngay lập tức, để gặp một người nữ sắp bị hành hình vào sáng mai. Người phụ nữ này yêu cầu được gặp Ngài. Ngài ra đi đến nơi lúc 5 giờ sáng, và được dẫn ngay tới phòng giam của cô Fanny Cranbush, một cô gái bất lương đã bị kết án vì cộng tác với kẻ khác để đầu độc nhiều người. Vừa thấy Linh mục, cô ấy quỳ gối và nói:

– Thưa cha, cảm ơn Chúa vì Cha đã đến đây. 

– Nhưng con ạ, Cha chưa biết con, con cần gì? 

– Cha không nhớ con sao? Hai năm trước đây Cha đã gặp con trên đường phố Yarmouth vào một đêm tối. Con là cô gái xấu nết, cả đời con là vậy. Cha đã nói với con: “Con ạ, trời đã khuya. Con chưa về nhà sao? Ngài yêu con không? Ngài là ai? Con biết quá ít là Ngài. Con chưa bao giờ cầu nguyện và chưa bao giờ được rửa tội. Nhiều tuần lễ, con muốn lánh xa con đường tội lỗi, nhưng cái đói đã làm con phải phạm tội. Mỗi ngày con càng lún sâu trong tội, đến độ giờ đây con sắp bị treo cổ. Con đã tuyệt vọng, và không muốn gặp vị Linh mục nào. Nhưng rồi con nhớ lại lời cha đã nói. Con khóc lên. Con ước muốn gặp Cha để nghe Cha con nói về Ngài Giêsu”. 

Cha dạy giáo lý cho cô ta với thời gian cho phép, trước khi rửa tội cho cô. Ngài lập một bàn thờ trong phòng giam, dâng Thánh lễ, cho cô ta rước lễ lần đầu cũng là lần cuối. Trên đường đi xử, cô thì thầm: “Thưa Cha, con quá đỗi hạnh phúc. Chúa Giêsu biết con ăn năn hối lỗi vì đã xúc phạm đến Ngài. Con biết Chúa Giêsu hằng yêu mến con”. Amen.

Về mục lục

.

GẶP GỠ CHÚA GIÊSU

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

“Niềm Vui Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và toàn thể đời sống của những người gặp gỡ Chúa Giêsu, những người để cho mình được Người cứu độ và giải thoát khỏi tội lỗi, sầu khổ, trống rỗng nội tâm và cô lập” (Tông Huấn “Niềm Vui Tin Mừng”, số 1).

Trong cuộc sống hàng ngày, ai ai cũng có những cuộc gặp gỡ khác nhau. Có những lần gặp gỡ như gió thoảng mây trôi…thoáng qua không để lại dấu ấn nào. Và cũng có những lần gặp gỡ đã làm thay đổi cả một đời người. 

Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samari bên giếng nước Giacop. Nhân việc xin nước uống, Chúa đã hứa ban nước trường sinh cho chị.

  1. Cho tôi xin nước uống.” (Ga 4,7).

Bài Tin Mừng kể lại một cuộc gặp gỡ nhìn qua rất bình thường giữa một khách bộ hành khát nước và một phụ nữ đi múc nước. Người phụ nữ Samaria mỗi ngày ra giếng kín nước. Tổ phụ Giacop đã phát hiện ra giếng nước, nơi mà sau này người ta đặt tên là giếng Giacóp, như một tài sản quý giá cho con cháu ông đến đây lấy nước để uống và sinh hoạt. Giếng Giacóp sâu 39m nên việc múc nước cho người và gia súc uống rất khó nhọc. Tại Palestina, một đất nước khô khan, cằn cỗi thì nước cũng quý hóa như lúa, như gạo, nước là nguồn sống cơ bản của con người. Dân Israel ngày xưa đi trong sa mạc, không có nước uống, đã cảm thấy cái nguy sắp phải chết, nên kêu trách ông Môsê, bài đọc 1 kể lời trách móc đó: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai cập để làm gì? Có phải là để chúng tôi, con cái chúng tôi và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?”.

Thế nhưng, cuộc gặp gỡ bên bờ giếng Giacóp thật lạ lùng. Sau một cuộc hành trình xa dưới nắng nóng, mệt mỏi, Chúa Giêsu khát nước, đến giếng nước và gặp người kín nước. Giếng nước có liên hệ tới vài câu chuyện trong Cựu ước. Ở miền Cận Đông thời xưa, giếng nước là nơi tốt nhất để gặp gỡ. Sách Sáng Thế cho hai ví dụ xảy ra ở giếng nước đều đánh dấu một biến cố quan trọng trong lịch sử dân Israel: người lão bộc của ông Abraham gặp cô Rêbêca vào trao nhẫn cưới, hỏi vợ cho Isaac (St 24,10-27); Ông Giacóp và cô Rakhen gặp nhau tại giếng nước và nên duyên vợ chồng (St 29,1-14).

Chúa Giêsu mở đầu cuộc đối thoại bằng một lời nài xin. Xin nước uống là tạo dịp gặp gỡ, là bắc một nhịp cầu qua vực sâu ngăn cách hai dân tộc Samaria và Do thái vốn dĩ đã thù ghét và xa lánh nhau từ ngàn xưa. Chẳng ai hiểu nổi một bậc thầy như Chúa Giêsu lại nói chuyện và xin nước một phụ nữ Samaria. Chúa Giêsu đã phá bỏ những hàng rào ngăn cách để xây dựng một cuộc đối thoại đích thực và bình đẳng.

Khát nước và xin nước uống là một điều tự nhiên bình thường. Nhưng ở đây không phải Chúa khát nên xin nước uống mà chỉ là dịp để Ngài đề cập đến một vấn đề quan trọng hơn. Chúa muốn nói cho người phụ nữ biết: chính chị là người đang khát, và Chúa cũng muốn nói cho chị biết: Ngài là ai, là người sẽ làm cho chị hết khát: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa”.

Từ việc xin nước uống, Chúa Giêsu đã cho người phụ nữ Samaria biết Ngài là Đấng Cứu Thế khao khát nhân loại “Ngài là người đến tìm chúng ta trước. Ngài xin ta cho Ngài nước uống, vì Thiên Chúa khao khát chúng ta” (GLCG # 2560).

  1. Nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14).

Những cuộc gặp gỡ đối thoại với Nicôđêmô, Matta và Maria, Lêvi, Giakêu… Chúa Giêsu đều giúp họ thay đổi cuộc đời.

Bài tường thuật cho thấy một quá trình thay đổi nhận thức của người phụ nữ về Chúa Giêsu. Trước hết chị ta nhận thấy Ngài là một khách bộ hành lạ mặt, một người Do Thái (câu 9). Nhưng khi Chúa Giêsu tỏ ra thấu hiểu cuộc đời riêng tư của chị, thì chị nhận ra đó là một vị Ngôn Sứ (câu 19). Cuối câu chuyện, chị được biết thêm Ngài là Đấng Kitô (c.25–26). Sau đó dân làng Samaria tuyên xưng “Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (c.42). Người phụ nữ Samaria cũng thay đổi trong ngôn ngữ khi nói chuyện với Chúa. Lúc đầu chị gọi Chúa Giêsu là Ông, kế đó là Thưa Ngài, rồi từ việc nhận thức Ngài là một tiên tri đến Đấng Thiên Sai.

Khi đã khám phá được con người của Chúa Giêsu, người phụ nữ Samaria cũng khám phá ra được thứ nước mà Ngài muốn ban tặng. Lúc đầu, khi nghe nói đến nước, người phụ nữ nghĩ tới thứ nước trong giếng Giacóp. Nhưng rồi, từ thứ nước bên ngoài ấy, Chúa Giêsu đã dẫn người phụ nữ đi tìm thứ nước nằm ngay trong lòng con người, thứ nước đem lại sự sống đời đời. Thứ nước ấy chính là Thần khí và Sự thật.

Giống như Philipphê khi đã gặp được Chúa Giêsu liền đi tìm Nathanaen để loan báo Tin Mừng; bà Maria Mađalêna đã vội vã đi tìm các môn đệ và loan báo là đã gặp thấy Chúa; người phụ nữ Samaria không còn quan tâm đến giếng nước và vò nước nữa, chị chạy một mạch về làng, thông báo về nước hằng sống vừa khám phá: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?”. Mọi người tin lời chị, họ đến gặp Chúa Giêsu và họ cũng tin Ngài. Sau khi gặp Chúa, người phụ nữ đã tin và làm chứng cho Ngài giữa những người Samaria trong làng. Chị đã dẫn đưa bà con trong làng đến gặp Đức Kitô, nguồn nước hằng sống. Dân làng sau khi gặp Chúa, đã xin Ngài ở lại với họ, và hân hoan tuyên xưng rằng: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”.

Giếng nước Giacóp là nơi gặp gỡ kỳ diệu làm biến đổi dân chúng cả làng Samaria. Giếng nước đã là nguồn gợi hứng cho một phương pháp truyền giáo rất hiệu quả. Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII dùng hình ảnh xứ đạo với giếng nước đầu làng, từ nơi ấy mọi người có thể giải khát, tìm được sự tươi mát của Tin Mừng.

Sứ điệp Thượng Hội đồng Giám mục thế giới tháng 10 năm 2012, có đề nghị mô hình giếng nước đầu làng. Các nghị phụ đã liên hệ hình ảnh Chúa Giêsu bên bờ giếng Giacóp để nói về trách nhiệm của Giáo Hội hôm nay trước một thế giới đang khát khao chân lý. Giáo Hội có sứ mạng hướng dẫn và giới thiệu Chúa Giêsu là nguồn nước hằng sống. Chỉ có Ngài mới có thể lấp đầy cơn khát của nhân loại.“Như Chúa Giêsu bên giếng nước Xykha, Giáo Hội cũng cảm thấy phải ngồi cạnh những người nam nữ thời nay, để làm cho Chúa hiện diện trong cuộc sống của họ, nhờ đó họ có thể gặp Chúa, vì chỉ mình Ngài mới là nước ban sự sống vĩnh cửu đích thực” (số 1). Trong thánh lễ ngày 18-5-2003, tại Đại chủng viện thánh Giuse Sài gòn, Đức Hồng Y GB Phạm Minh Mẫn ban huấn từ cho các vị đang phục vụ trong các Hội đồng mục vụ Giáo xứ toàn Giáo phận, ngài mong muốn giáo xứ cũng phải trở nên như một giếng nước đầu làng.

  1. “Thờ phượng trong thần khí và sự thật” (Ga 4,23).

Trong bài đọc II, thánh Phaolô so sánh ơn Chúa Thánh Thần với một thứ nước kỳ diệu mà Thiên Chúa đổ vào lòng các tín hữu. Đó là Thánh Thần tình yêu. Thánh nhân viết: “trông đợi như thế (nghĩa là trông đợi hưởng vinh quang với Chúa), ta sẽ không thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần Người ban cho ta”.

Nước Hằng Sống mà Chúa Giêsu ban tặng chính là Thánh Thần tình yêu. Từ nay nhân loại thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật. Để giải thích điều này, Chúa Giêsu nói: “Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật”. Nếu Thiên Chúa là thần khí, thì để gặp Ngài, con người cũng phải dùng thần khí của mình tức tâm hồn mình để gặp Ngài. Vì chỉ có thần khí mới gặp được và hòa nhập được với thần khí. Như vậy nghĩa là phải gặp Ngài trong chính tâm hồn mình. Thật vậy, nơi dễ gặp gỡ Thiên Chúa nhất, chính là cung lòng của mỗi người chúng ta. Không gì linh thánh bằng con người, hay tâm hồn con người, vì “con người là hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,26-27; 9,6; Kn 2,23). Và cũng không nơi nào linh thiêng bằng cung lòng con người: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” (1Cr 3,17; 6,19). Có gặp được Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình, thì mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong Thánh Thể, trong nhà thờ, trong tha nhân, trong thiên nhiên. Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình mà mình không gặp được, thì mong gì gặp được Thiên Chúa ở bên ngoài. Thánh Augustinô đã từng than thở: “Con đã tìm Chúa ở ngoài con, nên con đã không gặp được Chúa của lòng con”. Muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, còn phải gặp Ngài trong sự thật. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự thật, vì thế, người gian dối, không thành thật thì không thể gặp được Ngài.  

Lời mạc khải của Chúa Giêsu bên giếng Giacóp mời gọi chúng ta hãy tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi. Thờ phượng “trong thần khí” là thờ phượng theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần; thờ phượng “trong sự thật” là thờ phượng với tâm tình kết hợp với Chúa Giêsu, Đấng là Đường là Sự Thật và là Sự Sống. Thờ phượng Chúa Cha, dưới tác động của Chúa Thánh Thần và được nuôi dưỡng bằng mọi chân lý đến từ Chúa Giêsu. Khi tụ họp với nhau hay khi làm việc thờ phượng cách riêng rẽ, chúng ta đều được Thánh Thần trợ giúp để có thể cầu nguyện, ngợi khen, thờ phượng, cảm tạ, tuyên xưng Chúa Kitô và Thiên Chúa.(x. Ep 5,18-20; 6,18; Rm 8,26-27; Cl 3,16-17). 

Hãy tin vào Chúa Giêsu để lãnh nhận nước hằng sống, hầu mang lại sự sống đời đời là chính là Thánh Thần tình yêu của Thiên Chúa. Tin là gặp gỡ Chúa Giêsu như người phụ nữ Samaria và những người đồng hương của chị đã gặp và đã khám phá ra nguồn nước trường sinh. Niềm tin vào Chúa Giêsu là điều kiện cần thiết để được ơn cứu độ, và niềm tin ấy là hoa quả của Thánh Thần (x. Ga 5,22; 1Cor 1,9). Con người có niềm tin viên mãn cũng là con người đầy Thánh Thần (Cv 6,5; 11,24). Sứ vụ của Thánh Thần là củng cố, làm cho niềm tin phát triển và trở nên viên mãn. Thánh Thần làm cho chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô là Con Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết khao khát, tìm kiếm và sống các mầu nhiệm đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Amen.

Về mục lục

.

KHÁT SỰ SỐNG

Lm. Jos. DĐH.

Đói ăn khát uống là hậu quả của lười biếng, bạo bệnh, hay do một quan niệm đầy ẩn ý như câu tục ngữ: giầu hai con mắt, khó đôi bàn tay ? Hiểu, biết, là kiến thức được trau dồi như tiền nhân chúng ta vẫn tự tin ví von: không thầy đố mày làm nên, hay khả năng là do “trời phú” ? Thực ra, khao khát chung chung là khao khát được no đủ, được khỏe mạnh, hoặc hạnh phúc là không còn đau khổ, mọi nhu cầu được thỏa mãn, được đáp ứng. Biết bao công khó làm nên sự nghiệp, đầy dẫy kinh nghiệm được chia sẻ, nhưng các đấng bậc thì chưa an tâm về khả năng linh hội của con cháu, trong khi thao thức hạnh phúc thì luôn dư thừa.

Cuộc gặp gỡ như tình cờ giữa Đức Giêsu và người thiếu phụ bên bờ giếng Gia-cób, hẳn sẽ rất phong phú cho nhiều tâm hồn, mỗi khi chúng ta đặt tình yêu thương trong đối thoại, trong xã giao hàng ngày. Người thiếu phụ Samaria tới giếng kín nước sử dụng là nhu cầu tự nhiên, Đức Giêsu đến bên giếng nước vì đi đường nắng nóng. Ngoài nhu cầu tự nhiên, tâm hồn người thiếu phụ còn khát một thứ mà bấy lâu chị hằng tìm kiếm, đó là khát bình an, khát sự sống. Ở bên bờ giếng lúc trời nóng bức, Đức Giêsu sau đó đã chia sẻ cho các môn đệ biết Ngài thực sự có một cơn khát siêu nhiên, đó là khát mong thực thi thánh ý Chúa Cha, cứu giúp được nhiều tâm hồn.

Trong binh pháp của Tôn Tử có câu: không kế sách, lấy chi giải bế tắc. Đức Giêsu, người thiếu phụ, các môn đệ, và cả chúng ta hôm nay, tuy không làm chính trị, nhưng tất cả vẫn đồng ý rằng để thành đạt ở đời là do biết chăm chỉ làm việc, là nhờ có kế hoạch, có phương pháp làm việc, có cân nhắc bàn hỏi. Đức Giêsu không dùng mưu, không dùng sức, bằng sự thân thiện, khiêm tốn, đầy tình người, Ngài nói: “xin chị cho tôi uống nước”. Người thiếu phụ, không mặc cảm tự ti về thân phận, không tự mãn vì có gầu, có điều kiện để múc nước, đúng hơn là vì chị tôn trọng Đấng đang mở lời với chị. “Sao thế ! Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria”?

Sách có câu: sắc đẹp, người tài, chỉ thu hút được ánh mắt, còn phẩm giá, tính chất bên trong, mới thu phục được tâm hồn. Nhu cầu được no đủ, được hết khát, được bình an hạnh phúc, nhu cầu được hoàn thiện, sẽ là người có ích, không phải là xa vời, khi chúng ta biết chân thành cởi mở, khiêm tốn đối thoại, dù hoàn cảnh không mấy thuận lợi. Cái nết đánh chết cái đẹp, hay nói phải, củ cải cũng nghe, đó chính là lợi thế để thu phục lòng người, để được thêm bạn bớt thù. Khi Đức Giêsu nói đến thứ nước trường sinh, thứ nước mà ai uống sẽ không còn phải khát nữa, người thiếu phụ đã bừng tỉnh, vì từ sâu thẳm tâm hồn chị đã từng khát sự bình an, khát sự sống thật, chỉ thế thôi !

Rất có thể người thiếu phụ Samaria chưa hề nghe nói tới thứ nước “kỳ lạ” mà khi uống rồi, sẽ không còn khát nữa. Có thể chị ấy và nhiều người chúng ta vẫn lẫn lộn thứ hạnh phúc tự nhiên và hạnh phúc siêu nhiên. Thật may mắn cho người thiếu phụ gặp gỡ và có được lời giải thích hữu hiệu về cơn khát tự nhiên và cơn khát siêu nhiên hằng thổn thức trong lòng chị. Nếu không được sự ân cần của Chúa Giêsu, thiếu phụ Samaria đó có tìm kiếm và sống với nhiều đời chồng khác, chị ta vẫn không thể giải thoát được cơn khát khao lớn trong tâm hồn của chị. Chính Đức Kitô mới chỉ cho người thiếu phụ Samaria hiểu mạch nước sự sống thật ở đâu, và cần phải làm gì để chị có mãi sự sống hạnh phúc đó.

Chỉ khi có niềm tin, tâm hồn người thiếu phụ mới được vui sướng hân hoan, chị bỏ vò nước, mau chóng chạy về loan tin mừng cho dân làng đến gặp gỡ, cùng tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô. Tiến trình để chúng ta hôm nay biết khát tình yêu, khát sự sống thật, sẽ không khác gì thiếu phụ Samaria năm xưa tìm được mạch nước hằng sống, ta cần phải khiêm tốn, đối thoại, xin Đức Giêsu chỉ đường dẫn lối. Điều làm cho người thiếu phụ hôm xưa “hết khát” không phải là tìm được tiền của vật chất, tìm được ông chồng lý tưởng, mà là tâm hồn chị ta vui, bình an, vì chị sẽ có mãi lời giáo huấn của Chúa Giêsu trong cuộc đời còn lại của chị.

Cuộc sống này, người ta học cách để kiếm tiền vì vẫn được xem là nhu cầu, nên không mấy ai than là khó, nhưng học hỏi để rồi biết sống có tình, có nghĩa, bao giờ cũng khó hơn, vì ta vẫn xem đó thuộc phạm vi tinh thần. Người Kitô hữu gặp Chúa thì dễ hơn người thiếu phụ Samaria vì chúng ta không vướng phải thứ kỳ thị giữa hai sắc tộc. Nhưng để đối thoại, nhận ra Chúa, hiểu và sống thánh ý Chúa sẽ không tùy thuộc đạo gốc hay đạo mới, mà hệ tại chúng ta có đủ khiêm tốn để cậy dựa vào sức mạnh Chúa như thế nào.

Tục ngữ có câu: thương cho roi cho vọt, Chúa Giêsu không cho roi, không quở trách người thiếu phụ, Ngài đối thoại và làm cho người thiếu phụ biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương, hiện diện và cứu giúp kẻ tội lỗi, sám hối. Có thể thiếu sự khiêm tốn, người ta sẽ dễ vấp váp, tự mãn đầy thách thức kỳ thị như kiểu nói: “giếng thì sâu mà ông lại không có gầu, vậy Ngài lấy đâu ra nước để cho ?” Hy vọng khi tin Đức Giêsu là Thiên Chúa, chúng ta sẽ tin vào quyền năng, tình yêu thương của Đức Giêsu cách tuyệt đối hơn. Đức Giêsu đã giúp người thiếu phụ thỏa mãn được cơn khát triền miên, đó là khát bình an tâm hồn, khát sự sống đời đời, Ngài sẽ còn thỏa mãn cho tất cả những ai tin Ngài là mạch nước ban sự sống. Amen.

Về mục lục

.

CHÚNG TA BỊ MA QUỈ ĐÁNH LỪA!

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Có người nói đùa rằng: Chúa đã tạo nên thế gian chứ không phải “thế ngay” nên ở đâu cũng thấy sự gian dối lừa gạt. Và xem chừng sự lừa dối cũng tăng tốc theo đà tiến của nhân loại. Thế giới càng văn minh thì sự lừa dối lại càng tinh vi.

Ngày hôm nay ở môi trường nào cũng có sự lừa dối. Lừa dối trong kinh doanh hàng hóa bằng hình thức đa cấp, bằng mẫu mã, bao bì, bằng sự ngon miệng… Lừa dối trong tôn giáo bằng việc sống hai mặt, giả nhân giả nghĩa, đánh bóng chính mình . . . Hầu hết các vụ lừa dối thường có lợi cho bản thân nhưng thiệt hơn rất lớn về tài sản, về danh dự cho tập thể và cá nhân người bị hại. Có những trường hợp lừa dối ở mức siêu đẳng đến nỗi ai họ cũng lừa được và môi trường nào cũng bị họ lừa. Thế nên, sống trong một môi trường thực hư lẫn lộn điều khôn ngoan là phải tỉnh thức và suy xét để không bị lừa dối.

Trong chuyện cổ học Trung Hoa có kể rằng: Chu Cổ Dân rất thích văn học lại có tài năng, một hôm ông ta đến nhà của Thang tiên sinh, Thang tiên sinh nói:
– “Mọi người đều nói anh rất có tài đánh lừa người khác, giả như anh có thể đánh lừa tôi đi ra bên ngoài cửa, thì tôi mới phục anh là người có tài”.
Chu Cổ Dân cười cười nói:
– “Làm sao có thể như thế được, bên ngoài gió rất lạnh anh làm sao có thể dám đi ra chứ ? Giả như anh đi ra ngoài cửa còn tôi ở trong nhà, thì nhất định tôi có thể dùng kế để lừa anh đi vào”.
Thang tiên sinh cho là có lý, thế là đi ra ngoài cửa, nói với Chu Cổ Dân:
– “Dùng phương pháp của anh để lừa tôi đi vào chứ ?”
Lúc ấy, Chu Cổ Dân cười, nói:
– “Tôi đã lừa ông đi ra ngoài cửa rồi đấy nhé”.

Trong đời sống thiêng liêng ta cũng dễ bị ma qủy đánh lừa bằng biết bao cám dỗ ngọt ngào. Nó mời chào bằng những hình thức quảng cáo thật hấp dẫn. Nó đi vào lòng người từng ngày và chiếm trọn hồn ta. Hằng ngày biết bao người bị cám dỗ qua sách báo phim ảnh xấu. Nó làm cho con người có nhu cầu thèm khát. Từ thèm khát đến nghiện ngập lúc nào mà ta chẳng hay. Hằng ngày cũng có biết bao những giao tiếp làm chúng ta từng xao xuyến đi vào con đường xấu. Có người vì mối làm ăn mà xa Chúa. Có người vì chỉ muốn thử một lần cho biết để rồi trở thành con nghiện . . . Đó là lúc ma quỷ đang gieo vào lòng chúng ta những cơn đói khát để ta chỉ biết tìm kiếm thỏa mãn nhu cầu thế xác mà quên đi gìn giữ nét đẹp linh hồn là hình ảnh của Chúa.

Người phụ nữ Samria đã từng lao vào cơn thèm khát dục tình. Chị thèm khát và đã lạng quạng kiếm chác tới năm người đàn ông một lúc mà vẫn không thỏa mãn đam mê. Chị vẫn thèm khát, vẫn khắc khoải trong cơn nghiện trần tục.

Thánh Gioan đã nói “vì chị đã có 5 đời chồng”. Nói 5 đời chồng không có nghĩa là một mình thiếu phụ đã đi lập gia đình năm đời chồng liên tiếp. Nhưng có lẽ là 5 mối tình bất chính. Năm mối tình nhưng vẫn không thỏa mãn cơ mê. Cho tới khi chị gặp được Đức Giê-su, Đấng có thể hiểu thấu lòng chị. Đấng đã cho chị biết cơn khát dục vọng sẽ không bao giờ làm ta thỏa mãn, chỉ khi biết tự chủ cơn khát bằng nguồn ơn thánh của Chúa sẽ giải thoát chị khỏi nô lệ xác thịt. Vì chưng, chính Chúa Giê-su đã nói: “Ai uống nước này sẽ không còn khát nữa”.

Mùa chay mời gọi chúng ta hãy tự kiểm điểm lại đời sống của mình: tôi đang khao khát những gì? Tôi đã tìm được chúng chưa? Tôi thường tìm thoả mãn về những điều gì? Điều đó có giúp ta nên thánh hay đang huỷ hoại mình trong những cơn đói khát bất chính?

Lời Chúa vẫn mời gọi chúng ta: “ai uống nước này sẽ không còn khát nữa”, chúng ta có tin và sống như thế hay không? Hay chúng ta vẫn đói khát của cải danh vọng, quyền thế để khi không được, chúng ta lại trách Chúa như dân Do Thái hồi ở Masa trong sa mạc năm xưa?

Về mục lục

.

NƯỚC TRƯỜNG SINH

Lm. Trần Việt Hùng

Chúa ngồi bên giếng nước trong,

Nơi thành ngoại giáo, trong lòng hân hoan.

Một người phụ nữ lo toan,

Khoảng giờ thứ sáu, hoàn toàn vắng tanh.

Tông đồ môn đệ vào thành,

Một mình xách nước, giờ lành tránh dân.

Chúa xin nước uống cận lân,

Ngạc nhiên ‘sao thế’, khác phần dân ta.

Ông người Do-thái kia mà,

Không quyền giao thiệp, ông cha bao đời.

Ta cho nước uống bởi trời,

Trường sinh mạch sống, mọi thời Chúa ban.

Giếng sâu nước cạn khô khan,

Lấy đâu nước đó, đổ tràn khắp nơi.

Cho tôi nước uống từ trời,

Hồn thiêng giải khát, tuyệt vời biết bao.

Mở lòng đón nhận dạt dào,

Phụng thờ Thiên Chúa, khát khao tâm hồn

Tinh thần chân lý kính tôn,

Niềm tin  phó thác, ơn khôn ở đời.

Nước chính là nguồn sống. Tất cả mọi thụ tạo cần nước để sinh sống và phát triển. Từ những thực vật nhỏ li ti đến những loài động vật to lớn đều cần có nguồn nước để tiếp tục sinh xôi nẩy nở. Vì nước là một trong những nguyên tố chính để nuôi sống vạn vật. Đối với dân du mục ngày xưa, họ thường quây quần bên suối nước hoặc nơi có giếng nước. Đây cũng là nơi mọi người trong xóm làng tụ họp, gặp gỡ và truyện trò thông tin.

Câu truyện dài của người phụ nữ Samaritanô gặp gỡ Chúa Giêsu nơi giếng nước giúp chúng ta hiểu được sự quan trọng của nguồn nước. Chúa Giêsu có cơ hội trò truyện với người phụ nữ bên giếng nước. Chúa rất tế nhị trong đối thoại. Chúa gợi truyện xin cô ta cho nước uống và từ đó Chúa tìm cách dẫn cô ta ra khỏi con đường lầm lạc. Chúa cho cô ta nguồn nước trường sinh. Uống vào sẽ không bao giờ khát. Đó là nhận biết lòng nhân hậu của Chúa và sống trong ngồn chân lý đích thực.

Cuộc sống có biết bao khát khao. Người thì khao khát chân lý, kẻ thì khao khát tự do, công bình, người thì khao khát yêu thương và hạnh phúc. Tất cả những khao khát đó đều là biểu hiện của một khát vọng thâm sâu. Khao khát về chân, thiện và mỹ.

Từ khát nước bên bờ giếng, Chúa đã dẫn dắt người phụ nữ khát khao chân lý. Chúa giúp cô ta nhìn được con người thật của mình. Những khoái lạc trong cuộc sống bon chen càng làm cô khát. Khát khao một cuộc sống chân thật và an bình. Cô đã tìm thấy đường về để tôn thờ một Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Chúa đã khơi dạy tâm hồn cô ta như khơi dạy một mảnh đất khô cằn. Có xới, có đau và có xót xa, nhưng nguồn nước mới có thể thấm nhuần và trổ sinh bông trái tươi tốt.

Mùa chay tiếp tục kêu gọi chúng ta tìm về nguồn. Nguồn của lòng từ bi thương xót. Nguồn của sự bình an. Chúa Giêsu đã nói với người phụ nữ: “Nếu cô nhận biết ân huệ của Thiên Chúa… Chúa sẽ ban cho cô nước hằng sống”. Cô đã nhận biết ân huệ và cô đã đáp trả ân huệ. Cô bắt đầu ra đi loan tin vui cho mọi người. Chúng ta đã lãnh nhận biết bao ân huệ Chúa ban, chúng ta hãy tiếp tục ra đi loan tin vui ơn cứu độ cho mọi người.

Về mục lục

.

CHÚA LẤP ĐẦY KHÁT VỌNG CỦA CON NGƯỜI

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Có đi cả ngày trời trong sa mạc khô cháy, trên đầu là nắng lửa, dưới chân là cát nung, như đoàn dân Do-thái ngày xưa trong hoang địa mới cảm nhận được cái khát hành hạ người ta đến độ nào và nhu cầu được uống cho đã khát mới bức xúc làm sao. Thế nên khi bị cơn khát dày vò, họ đổ lỗi cho Mô-sê đã đưa họ vào nơi hoang địa khô cháy và đòi đem vị lãnh tụ nầy ra ném đá. (Xh 17, 3-7)

Thế nhưng ngoài cơn khát tự nhiên là khát nước, con người luôn có những khao khát mà không có gì trên thế gian có thể làm cho no thoả. Người ta gọi đây là khát vọng vô biên. Đây là cơn khát về mặt tâm linh nên chẳng có thứ nước nào trên đời có thể làm dịu bớt.

Người phụ nữ xứ Sa-ma-ri trong Tin mừng hôm nay (Ga 4, 5-42) cũng đã từng trải qua cơn khát tương tự. Chị đã mưu tìm hạnh phúc qua năm đời chồng rồi nhưng lại phải lần lượt chia tay với cả năm, để mưu tìm hạnh phúc với người thứ sáu. Rốt cuộc chẳng ai trong họ có thể đem lại cho chị hạnh phúc thực sự trong cuộc đời. Chị đi tìm hạnh phúc cũng y như đi lấy nước. Ngày nào cũng phải lặn lội tìm đến giếng nước xa, múc cho đầy vò rồi ngày hôm sau lại khát và tiếp tục đội vò đi tiếp…

Chính vì thế nên Chúa Giê-su khẳng định với người phụ nữ Sa-ma-ri: “Ai uống nước nầy sẽ còn khát lại.” Qua đó, Chúa Giê-su muốn nói không gì trên đời có thể đáp ứng khát vọng của con người.

Ông Arthur Schopenhauer (1788-1860), một triết gia người Đức cho rằng: “Những lạc thú mà thế gian cống hiến cho con người cũng chỉ như nắm cơm bố thí cho người hành khất, chỉ làm dịu cơn đói hôm nay, rồi ngày mai lại đói.”

Cha Anthony de Mello cũng nhận định tương tự: “Việc thoả mãn dục vọng không giải thoát chúng ta khỏi dục vọng, nhưng tạo thêm một dục vọng khác còn mãnh liệt hơn để rồi cái vòng lẩn quẩn: khát khao – thoả mãn, thoả mãn – khát khao…  cứ tiếp diễn mãi không cùng”, càng về sau lại càng tăng “đô” hơn. Và cứ thế, người ta phải chịu dày vò, thiêu đốt vì ngọn lửa khao khát trong lòng mình.

Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su chỉ cho người phụ nữ Samari cũng như cho chúng ta một Nguồn Suối mang lại hạnh phúc: “Ai uống nước nầy sẽ lại khát, còn ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Ga 4, 13-14). Chúa Giê-su chính là mạch nước đó.

Xưa kia, Augustinô là người mải mê tìm kiếm lạc thú trần gian suốt nhiều năm trường nhưng không gì trên thế gian có thể lấp đầy trái tim khao khát của ngài. Mãi đến tuổi 33, nhờ ơn soi sáng và lời nguyện cầu liên lỉ của người mẹ thánh thiện là Mô-ni-ca, Augustinô mới khám phá Thiên Chúa là Nguồn Suối đáp ứng khát vọng của ngài và đem lại niềm hoan lạc vô biên. Bấy giờ lòng đầy hoan lạc, Augustinô thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, vì thế hồn con mãi thổn thức khôn nguôi, cho đến khi được nghỉ yên trong Ngài.”

Chỉ trong Thiên Chúa, khát vọng của Augustinô mới được lấp đầy. Quả đúng như Lời Chúa Giê-su nói: “Ai uống nước nầy sẽ còn khát lại, còn ai uống nước Tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Gioan 4, 13-14)

Lạy Chúa Giê-su,

Còn rất nhiều người đang khát Chúa mà vẫn chưa tìm thấy Chúa là Nguồn Nước mang lại hoan lạc và no thỏa cho tâm hồn. Xin cho họ được nhận biết Chúa chính là Nguồn Suối mà họ hằng khát khao.

Xin cho chúng con, như người phụ nữ Sa-ma-ri xưa, sau khi gặp được Chúa là Nguồn Nước trường sinh, thì cũng mau mắn giới thiệu cho mọi người đến gặp Chúa, để họ cũng  được no thoả nơi Chúa là Mạch Suối mang lại sự sống đời đời.

Về mục lục

.

ĐÓN NHẬN ƠN TÁI SINH

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

Tin Mừng theo thánh Gioan cho biết, người đàn bà có sáu đời chồng, ra giếng múc nước vào buổi trưa, gặp Chúa Giêsu và được Chúa đánh thức tâm hồn, đó là người đàn bà xứ Samaria.  

Samaria trước là vùng đất Do thái, vì thế, những người sinh sống tại đây cũng là người gốc Do thái. Nhưng qua nhiều đổi thay của đất nước, nhất là trong những lần bị đưa đi lưu đày, nhiều lần bị đặt dước ách đô hộ của các đế quốc, làm cho lịch sử biến chuyển không ít… Người Do thái ở Samaria không còn giữ được nguyên gốc Do thái. Họ ngày càng có nhiều mối dây liên hệ với dân ngoại. Do đó, người Samaria luôn luôn bị người Do thái khinh miệt,  tránh mọi liên hệ gần gũi và tiếp xúc. 

Nhưng Chúa Giêsu thì không. Người đã không đứng chung hàng ngũ với những người đồng hương để lên án con người, mà luôn ý thức vai trò cứu rỗi của mình: đưa con người từ tội lỗi về lại với sự thánh thiện.  

Tin Mừng theo thánh Gioan viết: “Đức Giêsu tới thành gọi là Kikha thuộc xứ Samaria, gần phần đất Giacóp đã cho con là Giuse, ở đó có giếng Giacóp, Đức Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghỉ trên miệng giếng, lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu”(Ga 4,5-6).  

Bỗng dưng một phụ nữ ra giếng múc nước. Chúa nhìn thấy tâm hồn chị. Chúa biết chị luôn sống trong mặc cảm của tội, bởi chị đã có đến “năm đời chồng và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị”. Nhưng Người cũng nhìn thấy khả năng đón nhận chân lý nơi chị, vì thế, chính Chúa lên tiếng trước: “Cho tôi chút nước uống”

Chúa phá tan sự nghi kỵ. Chúa đã làm khiến ngạc nhiên không ít. Bởi không phải chỉ vì “Ông là người Do thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Samaria, cho ông nước uống”. Nhưng nếu theo dõi hết trình tự của câu chuyện, ta sẽ thấy, Chúa khiến chị phụ nữ phải đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.

Đúng hơn, khi đối thoại với Chúa Giêsu, người phụ nữ Samaria đã phải chuyển từ ngạc nhiên sơ khởi dần dần đi lên đến đỉnh điểm của đức tin.  

Chỉ cần một chi tiết sau, đủ chứng minh tình cảm biến đổi từ thấp lên cao dần của chị: Khởi đầu chị gọi Chúa là “ông”, rồi chuyển sang gọi là “ngài”, kế đến là “đấng tiên tri”, cuối cùng là “Đấng Kitô”.  

Chúa làm thay đổi hoàn toàn tình thế: Chúa, người xin, trở thành người cho; chị phụ nữ, người được xin, trở thành kẻ đón nhận.  

Một loạt những lời nói của Chúa Giêsu đã biến chính Người thành Đấng trao ban, còn chị phụ nữ thành người thụ nhận: 

– “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: cho tôi chút nước, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4,10). 

– “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho  sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14).  

– “Đã đến giờ và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý. Đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn” (Ga 4, 23). 

Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong Thần Khí và sự thật (Ga 4, 34). 

– Và sau hết, như một đoạn kết có hậu, một đoạn kết tất yếu phải có, Chúa Giêsu dứt khoát chỉ cho chị để chị nhận ra “Chân Lý” mà chị cần gặp, chị phải gặp. “Chân lý” ấy không phải ai khác mà là chính Chúa, Đấng đã tự mình tìm đến với chị: “Đấng Mêsia chính là Ta, Người đang nói với chị đây” (Ga 4, 26).

Bất cứ ai, khi được Chúa chạm đến, với điều kiện người ấy phải chấp nhận sự thật về mình, chấp nhận vạch trần con người tội lỗi của mình, đều được biến đổi. Một khi đã được biến đổi, người ấy lập tức trở thành chứng nhân của Chúa, chứng nhân của tình yêu tha thứ mà Chúa ban cho mình.

  1. BIẾN ĐỔI:

Người phụ nữ Samaria chắc chắn đã phải giật thót mình khi “bị” một người xa lạ đánh đúng vào thái độ đùa nghịch với đạo đức, với luân lý mà chị đã quen sống từ trước đến nay.  

Chị đã thật sự nhận ra mình trong phút chốc khi chị được Chúa soi sáng.  

Không ai có thể thật sự thấy mình, cho đến khi soi mình trong sự hiện diện của Thiên Chúa.

Chị phụ nữ đã được Chúa buộc phải nhìn vào Chúa để từ đây, chị biến đổi chính mình.  

Cú “giật mình” đã phải làm cho chị nhanh chóng thốt lên: “Tôi thấy ngài thật là một tiên tri…” (Ga 4, 19). 

  1. CHỨNG NHÂN:

Thánh Gioan đã không bỏ qua chi tiết chị phụ nữ “bỏ vò nước lại” ngay tại chỗ chị đã gặp Chúa Giêsu. Tại sao lại bỏ vò nước? hành động này, tuy nhỏ, lại nói lên nhiều ý nghĩa lớn: 

– Sự biến đổi ngoạn mục trong chị đã làm cho chị phải dẹp những gì là cồng kềnh vướng víu, để lập tức ra đi trong nhẹ nhỏm, trong thanh thoát.

– Sự biến đổi ấy đã làm cho chị sung sướng đến độ không còn nhớ việc ban đầu của mình.  

Điều duy nhất quang trọng lúc này là chạm đến chân lý, là khám phá tận căn con người hèn hạ của mình, nhằm chứng minh với mọi người Đấng đã giúp mình khám phá chính bản thân mình. 

– Sự biến đổi đã thôi thúc chị ra đi với “tốc độ”, ra đi càng nhanh càng tốt.  

Chị nóng lòng, không phải với việc múc nước nữa, nhưng là làm sao phải hô thật to, nói thật nhiều cho mọi người biết Đấng Tiên Tri và chạm đến Người, như chính mình đã được biết, đã được chạm đến. 

– Chị “bỏ lại” để chị còn quay lại. “Bỏ lại” là lý do tốt nhất để còn được quay lại.  

Bắt đầu từ Chúa Giêsu, chị khám phá sự thật về mình.  

Bắt đầu từ Chúa Giêsu chị biến đổi chính mình.  

Bắt đầu từ Chúa Giêsu, chị ra đi loan báo ơn tái sinh.  

Và rồi bắt đầu từ Chúa Giêsu, chị quay lại với Chúa Giêsu.

Chúa vẫn yêu thích tìm đến cùng chúng ta. Chúa muốn chúng ta mở lòng đón Chúa để được tái sinh và biến đổi đời mình.  

Chúng ta hãy làm như chị người Samaria, đó là mềm lòng để Chúa uốn nắn. Từ nay ta sẽ trở về, biết chối từ quá khứ lầm lỡ đển vươn tới tương lai thánh thiện trong Chúa.

Về mục lục

.

NƯỚC TRƯỜNG SINH-

AM. Trần Bình An

Giữa mênh mông đồi núi nóng bỏng của vùng sa mạc Negev ở miền nam Israel, chốc chốc lại hiện ra những ốc đảo, những nhà kính trồng rau tươi tốt, những cánh đồng mầu xanh mát mắt của cây trái trĩu cành. 

Nguồn nước tự nhiên như biển hồ nước ngọt Galilee và nước ngầm đang ngày càng cạn kiệt; lượng mưa giảm và không bù được lượng nước bốc hơi. Người Israel đã bù đắp sự thiếu hụt này chủ yếu bằng các nhà máy lọc nước biển; tái chế nước thải; quản lý, sử dụng nước hiệu quả; phát triển các công nghệ về nước và nâng cao nhận thức của người dân về vấn đề nước.

Nằm cách Tel Aviv 50 km về phía bắc, bên bờ Địa Trung hải là nhà máy khử mặn nước biển Hadera có công suất 127 triệu m3 nước ngọt chất lượng cao mỗi năm. Đây là tổ hợp lớn nhất trong bốn nhà máy sản xuất nước sinh hoạt từ nước biển ở Israel. 

Ông Abraham Tenne, phụ trách lĩnh vực khử mặn nước biển thuộc Cơ quan quản lý nước (Water Authority) của chính phủ Israel, cho biết nhà máy Hadera sử dụng điện để xử lý nước biển theo hai chu trình, trong đó áp dụng công nghệ màng lọc nhiều lớp thẩm thấu nước ngọt, thải muối trở lại biển. Nước lọc từ các nhà máy khử mặn này còn được bổ sung nhiều khoáng chất có lợi cho sức khỏe, sau đó được cung cấp làm nước sinh hoạt cho cả nước theo mạng lưới đường ống nước quốc gia. 

Tuy giá thành nước khử mặn của Israel vào hàng thấp nhất thế giới, chỉ 0,55 USD (hơn 11.000 VND)/m3, nhưng chi phí như vậy cũng rất lớn, không thể ào ạt xây thêm các nhà máy khử mặn. Do vậy biện pháp hiệu quả tiếp theo là tái chế nước sinh hoạt. 

Với công suất mỗi ngày xử lý 370.000 m3 nước thải, Shafdan là nhà máy lớn nhất trong hơn 100 tổ hợp tái chế nước thải sinh hoạt ở Israel. Nước và chất thải của 2,3 triệu dân ở 23 thành phố, khu dân cư vùng Gush Dan được dẫn về nhà máy Shafdan qua mạng lưới đường ống lớn. Ngoài nước, mỗi ngày còn có hơn 40 tấn cặn được xử lý thành phân bón cung cấp miễn phí cho nông dân. Các kỹ sư ở tổ hợp Shafdan đã không đùa khi nói rằng mỗi giọt nước ở Israel được sử dụng hai lần.  

Chính người Israel đã sáng tạo ra công nghệ tưới nước nhỏ giọt, áp dụng vào nông nghiệp trong nước từ giữa thập kỷ 1970. Ngày nay, 100% mùa màng ở Israel được tưới nước, trong đó 75% được tưới theo phương pháp nhỏ giọt. Hệ thống nhỏ giọt không chỉ tưới nước, mà còn dẫn phân bón, thuốc trừ sâu, trừ cỏ đến tận rễ cây, như lời một nông dân vùng sa mạc Negev nói: “Đưa vào tận miệng; tưới cây chứ không tưới đất.” Nhờ phương pháp tưới tiên tiến, từ năm 1975 đến 2010, sản lượng nông nghiệp ở Israel đã tăng 12 lần, nhưng lượng nước tưới không tăng. Áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt, năng suất cây trồng ở Israel tăng gấp đôi và hơn 80% các nông phẩm từ phương pháp này được xuất khẩu. (Mai Hương, Israel: Những giải pháp cho một đất nước khô cằn) 

Nước là tài nguyên sống còn của Israel giữa vùng cận sa mạc cháy bỏng. Nên rất có ý nghĩa khi Đức Giêsu muốn dùng nước để ám chỉ phương tiện cứu vãn cuộc sống viên mãn, trong Tin Mừng Chúa nhật thứ ba Mùa Chay. Từ xưa, Cựu Ước từng tôn xưng Thiên Chúa là suối nguồn sống (Tv 36, 9) và là mạch nước trường sinh (Gr 17, 13). Qua câu chuyện với một phụ nữ Samaria, Đức Giêsu đã dẫn dắt chị và tất cả mọi người đến Nước Trường Sinh. 

Ban cho ai thành khẩn, khiêm tốn

“Ở đấy, có giếng của ông Giacóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.” Chi tiết tường thuật rất chính xác về trạng thái, không gian và thời gian, cho biết Đức Giêsu đến giếng trước, chờ đợi người nào đến kín, để xin nước giải khát. Người luôn chủ động chờ đợi và chủ động gần gũi, cũng như luôn ân cần chờ đợi bên ngoài cánh cửa tấm lòng mỗi con người. “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho.” (Mt 7-8) 

Hoá giải sự mâu thuẫn dân tộc, bước qua sự lãnh đạm, Đức Giêsu gây thiện cảm, khéo léo hoán chuyển vai trò, từ người đi xin thành người cho đi, dịu dàng dẫn dắt người phụ nữ vào chủ đề : “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: “Cho tôi chút nước uống”, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống.” Ban đầu, người phụ nữ còn lầm lẫn hai thứ nước, sau hiểu ra, liền mau mắn van xin: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy,…” 

Ban dồi dào nhưng không 

“Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban.” Đức Giêsu đã khơi mào ơn Chúa luôn sẵn sàng trao ban. Chỉ cần nhận ra hồng ân Chúa ban nhưng không, để xứng đáng lãnh nhận. “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống!”Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống. (Ga 7, 37-38) 

Dân Do Thái trong sa mạc đã yêu cầu ông Môsê: “Xin cho chúng tôi nước để chúng tôi uống.” (Xh 17, 2) Chúa phán ông lấy gậy đập vào một tảng đá, sẽ vọt nước ra cho dân. Nay phụ nữ Samari cũng xin như vậy, Đức Giêsu liền rộng lượng dào dạt trao ban. Khiến chị hân hoan, bỏ lại vò nước, bỏ lại những gì vướng víu cõi trần, những cám dỗ, dục vọng, chạy về báo tin vui cho dân làng. 

Nước trường sinh dồi dào, mãnh liệt, tâm hồn thanh thoát, Kitô hữu không còn khao khát sự đời hư vong. “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.” (Rm 5, 5) 

Ban sự sống vĩnh cửu 

Nước trường sinh còn là nguồn mạch sự sống đời. Nhờ vậy, không quyền lực đen tối nào có thể chia lìa người Kitô hữu ra khỏi vòng tay yêu thương của Thiên Chúa.“Cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Ðức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.” (Rm 8, 38-39) 

Tâm hồn thấm đẫm nước trường sinh, chị Samaria công khai tuyên xưng đức tin:“Tôi biết Ðấng Mêsia, gọi là Ðức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” Rồi sau đó, chị trở nên chứng nhân Tin Mừng cho cả dân làng. Họ được mời gọi đến đón rước Đức Giêsu. “Số người tin vì lời Ðức Giêsu nói còn đông hơn nữa.” Người dừng chân lưu lại giảng dạy hai ngày liền. 

“Xin nước bà Samaritana, mượn lừa cỡi vào thành Jerusalem, mượn thuyền ngồi giảng, mượn phòng lập phép Thánh Thể, nhìn đồng tiền bà góa bỏ vào hòm cúng; chủ nhân đâu ngờ việc không đâu mà mình được hân hạnh đến thế!” (Đường Hy Vọng, số 825)  

Lạy Chúa Giêsu, xin giải thoát chúng con khỏi những cơn khát của cải, danh vọng, thèm muốn những thứ phù vân, mà không bao giờ cảm thấy thoả mãn. Xin Chúa thương ban chúng con nước trường sinh, để được tỉnh ngộ, buông bỏ mọi sự, vinh hạnh rước Chúa vào tâm hồn. 

Khấn xin Mẹ Maria cầu bầu cho chúng con sáng suốt phân biệt đâu là sự thật, đâu là chân lý trong đời, để chúng con biết chọn Chúa, đón nhận nguồn nước trường sinh, trở nên chứng nhân của Tin Mừng giữa thế gian. Amen.

Về mục lục

.

CUỘC GẶP GỠ ĐỔI ĐỜI

JM. Lam Thy

Suy niệm bài đọc 1 hôm nay (CN III/MC-A – Xh 17, 3-7), mớI thấy nước cần cho sự sống con người như thế nào. Dân Do-thái được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập, đã nghe lời ngôn sứ Mô-sê mà “đi hết chặng này tới chặng khác” băng qua sa mạc. Khi “đóng trại ở Rơ-phi-đim, nhưng tại đấy không có nước cho dân uống. Dân gây sự với ông Mô-sê.” (Xh 17, 1-2). Có đi cả ngày trời trong sa mạc khô cháy, trên đầu là nắng lửa, dưới chân là cát nung như đoàn dân Do-thái ngày xưa trong hoang địa, mới cảm nhận được cái khát hành hạ người ta như thế nào và nhu cầu được uống cho đã cơn khát mới bức xúc làm sao. Thế nên khi bị cơn khát giày vò, họ đổ lỗi cho Mô-sê đã đưa họ vào nơi hoang địa khô cháy và đòi đem vị lãnh tụ nầy ra mà ném đá. 

Sa-ma-ri là vùng đất nằm giữa Giu-đê (phía nam) và Ga-li-lê (phía bắc). Con đường ngắn nhất để đi từ Giu-đê lên Ga-li-lê là phải đi ngang qua Sa-ma-ri. Tuy nhiên, người Do-thái luôn kỳ thị và ghét bỏ người Sa-ma-ri vì họ không phải là dân Do-thái thuần chủng. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng người Sa-ma-ri được hình thành bởi sự pha trộn giữa người Do-thái và dân ngoại nên họ có văn hóa khác biệt. Về tín ngưỡng thì họ không chỉ tôn thờ Đức Chúa Trời, mà còn thờ cúng nhiều ngẫu tượng. Chính vì vậy, khi người Do-thái muốn đi từ Giu-đê về Ga-li-lê hay từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem, họ thường không đi ngang qua vùng Sa-ma-ri, mà đi đường vòng dọc theo thung lũng sông Gio-đan, rồi từ Giê-ri-khô đi lên Giê-ru-sa-lem. Đi vòng như vậy phải đối diện với cái nóng của sa mạc và phải mất thêm khoảng 40 cây số đường dài, nhưng họ cho là đáng làm vì không muốn va chạm với người Sa-ma-ri để bị ô nhiễm xấu xa. Người Giu-đa ghét dân Sa-ma-ri đến nỗi khi một người nào đó bị kêu là người Sa-ma-ri thì đó là một sự sỉ nhục. 

Đức Giê-su xuất thân từ Do-thái, nhưng không theo quan niệm hẹp hòi của Do-thái, Người luôn đến với tất cả mọi người, không phân biệt dân ngoại (pha tạp) hay dân nội (thuần chủng). Nhất là đối với những người hèn mọn, đau ốm, tật nguyền, thì Người luôn chạnh lòng thương và tìm đến để chữa lành cho họ. Chính cách hành xử đó đã khiến bọn kinh sư luật sĩ Pha-ri-sêu luôn trách Người chuyên “ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi”. Đức Giê-su đã thẳng thắn vạch cho họ thấy sứ mệnh mà Người được Chúa Cha sai đến thế gian không gì khác hơn là: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.” (Lc 5, 30-32). Đó là lý do giải thích tại sao Đức Giê-su lại chọn con đường tắt đi ngang qua Sa-ma-ri để lên Giê-ru-sa-lem. Và vì thế mới có “Cuộc gặp gỡ đổi đời” với người phụ nữ Sa-ma-ri. 

Bài Tin Mừng hôm nay (CN.III/MC-A – Ga 4, 5-42) trình thuật việc Đức Giê-su tới miền Sa-ma-ri, và Người đã xin nước uống nơi một người phụ nữ đến lấy nước tại giếng Gia-cóp. Khát nước mà xin nước uống là chuyện bình thường đối với phàm nhân. Đức Giê-su là Thiên Chúa mặc xác phàm, nên chuyện đói khát về thể lý cũng bình thường như bao người khác. Nhưng câu chuyện thánh sử Gio-an trình thuật lại gây một ấn tượng độc đáo, đó là sự hoán vị của 2 nhân tố “xin” và “cho”: Người xin nước uống trở thành người cho nước và người cho nước uống lại trở thành người xin nước. Một câu hỏi được đặt ra: Như vậy thì “người xin nước” và “người cho nước”, ai mới là người thực sư khát nước? 

Thực ra, việc Đức Giê-su xin nước uống chỉ là một cái cớ để Người cho những người Do-thái biết được Người không phân biệt dân ngoại hay dân nội như quan niệm hẹp hòi của họ, bởi họ thường cho mình mới thật là dân xịn – dân Thiên Chúa tuyển chọn chính hiệu – còn ngoài ra, tất cả đều là dân ngoại, là “quân tội lỗi”, là đồ bỏ. Đám người Do-thái vẫn tự nhận mình là con cái tổ phụ Ap-ra-ham và liệt Đức Giê-su vào hạng người bị qủy ám, là “dân ngoại” (“Người Do-thái đáp: “Chúng tôi bảo ông là người Sa-ma-ri và là người bị quỷ ám thì chẳng đúng lắm sao?” – Ga 8, 48), rồi còn “lượm đá để ném Người” (Ga 8, 59). Ỷ mình là dân nội, họ không tin vào những điều giảng dạy của Đức Ki-tô, nhưng người phụ nữ Sa-ma-ri – là dân ngoại – thì lại thật sự tin tưởng vào Đấng Mê-si-a mà chị được gặp lần đầu. Và thế là chị đang là người được Chúa Giê-su xin nước uống, đã trở thành người xin nước hằng sống. 

Sở dĩ vậy, vì Đức Ki-tô đã khơi lên sự tò mò để người phụ nữ Sa-ma-ri tìm hiểu qua một công việc thường ngày là đến giếng kín nuớc về để giải toả cơn khát thể lý. Từ đó, Đức Giê-su gợi ý đến cơn khát tâm linh: Khát nước hằng sống. Câu chuyện chưa dừng lại ở đây, mà chuyển sang hướng khác, khi Đức Ki-tô đề cập đến đời sống riêng tư của người phụ nữ, mà cơn khát tình yêu dường như vẫn chưa được thoả đáng (đã sống với 5 đời chồng và hiện đang sống với người không phải là chồng mình). Đức Giê-su muốn người phụ nữ mở rộng tầm mắt để nhìn ra người đang nói chuyện với mình và quả nhiên chị đã nhìn ra. Với một người được gặp lần đầu tiên, mà người ấy lại biết rõ đời sống riêng tư của mình thì người ấy chỉ có thể là ngôn sứ (“Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ” – Ga 4, 19). 

Tin người đối diện với mình là ngôn sứ, nên chị nêu thắc mắc không hiểu vì sao mà: “Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa.” – Ga 4, 20). Đức Giê-su đã chỉ rõ cho chị biết là thờ phượng Thiên Chúa không phải ở núi này hay núi khác, ở chỗ này hay chỗ kia, mà là “Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” (Ga 4, 24). Cuối cùng thì “Người phụ nữ thưa: “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” Đức Giê-su nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.” (Ga 4, 25-26). Và thế là “Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với mọi người: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?” Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.” (Ga 4, 28-30).

Chính cái quá khứ của người phụ nữ bị Đức Giê-su khơi lại, khiến chị ta tin tưởng vào những gì Người nói với chị và từ “người khát nước hằng sống” chị đã trở nên “người gieo” tin tức về một Đấng Mê-si-a mà chị đã được diện kiến. Như vậy, sau khi gặp “người xin nước” Giê-su, chị phụ nữ Sa-ma-ri đã tin và làm chứng cho Chúa Ki-tô giữa những người vốn được coi là dân ngoại, và chính những người này sau khi được gặp Chúa đã xin Chúa ở lại với họ và tuyên xưng: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian.” (Ga 4, 42). 

Tóm lại, chính là nhờ Đức Ki-tô đến xin nước mà người phụ nữ Sa-ma-ri có được cuộc gặp gỡ đổi đời: Từ một người tội lỗi trở thành người loan báo Tin Mừng về một Đấng Mê-si-a Cứu Độ nhân loại. Nói cách khác, người phụ nữ Sa-ma-ri nhờ cuộc gặp gỡ đổi đời, đã được chính Đấng Thiên sai đổi mới tận căn, và có lẽ đó là  lý do Giáo hội chọn bài Tin Mừng này để vào CM III Mùa Chay. Cũng bởi vì “Mùa Chay là mùa thuận lợi cho việc đổi mới cuộc gặp gỡ của chúng ta với Chúa Ki-tô, cho việc sống trong lời Ngài, trong các phép bí tích và nơi những người láng giềng của chúng ta. Chúa, là Đấng đã chiến thắng sự lừa dối của tên cám dỗ trong bốn mươi ngày trong sa mạc, chỉ cho chúng ta thấy con đường chúng ta phải đi. Nguyện xin Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta vào một cuộc hành trình thực sự của hoán cải, qua đó chúng ta có thể tìm lại hồng ân lời Chúa, được thanh tẩy khỏi những tội lỗi làm mờ mắt chúng ta, và phục vụ Chúa Ki-tô hiện diện nơi những anh chị em cùng quẫn của chúng ta.” (Sứ điệp Mùa Chay 2017, số 3). 

Ôi! Lạy Chúa! Suy niệm Lời Chúa hôm nay, chúng con mới hiểu ra rằng chúng con luôn luôn khát nước hằng sống, mãi mãi khao khát Lời Chân lý. Cúi xin Chúa đoái thương ban Thánh Thần giải tỏa cơn khát tâm linh cho chúng con, ban cho chúng con thứ nước chúng con uống vào sẽ không còn khát nữa, đó chính là thứ nước đem lại cho chúng con sự sống đời đời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU TRUYỀN GIẢNG NƯỚC TRỜI

P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn, truyền giáo không phải “bắt buộc“ người khác theo Đạo, mà là “ mong muốn “ người ta bước theo “chân lý”. Vâng, vì chân lý chính là một “ Mạch Nước Trường Sinh”. Tại sao vậy , thưa quý vị ? Thưa, vì thế gian luôn bị “khao khát” chân lý. Vâng, thật vậy, hình ảnh “khát nước “ hữu hình cho chúng ta cảm nghiệm ấy. Từ đó, chính Chúa Giêsu đến để làm thỏa cơn khát của nhân thế, hay nói cách khác , Người đến để ban “Nước Hằng Sống “ cho chúng ta.

Vâng, từ mạch nước tự nhiên, Người dẫn người dân Samaria “tin” vào Người, há chẳng phải là một “ nghệ thuật” truyền giáo sao ?! Vâng, tai sao chúng ta khát nước ? Thưa bởi vì, cơ thể tự nhiên của con người là 70% nước, nếu lượng nước trong cơ thể được bài tiết, qua những cơ quan nội tạng đi ra ngoài, mà nhân thế không được “nạp” vào một lượng nước đã bị mất đi, thì chúng ta sẽ bị khát, người ta gọi là ”khát nước “. Vậy, khát nước là một nhu cầu chân chính của nhân sinh. Vì , nước không thể thiếu trong đời sống tự nhiên của con người được, vậy, nước tự nhiên thật quý giá, nhưng “rẻ tiền “. Khi “rơi “ vào sa mạc, chúng ta thấy nước thật quý giá, hơn cả bạc vàng, nhưng, ở đồng bằng , nước ở chúng quanh ta, vì vậy, chúng ta cảm thấy “rẻ tiền “.

Nhưng, chính lúc khát , thì “nước” quý giá hơn bạc vàng, bạc vàng không “trực tiếp” nuôi sống chúng ta, nhưng dung để cất giữ để dành và mang ra trao đổi, vì vậy, giá trị của mỗi vật phụ thuộc vào chức năng của nó. Lấy tiền mua “nước “, cũng có thể lấy “ nước “ đổi lấy tiền.

Vâng, sự sống tự nhiên cần nước là thế, vậy sự sống siêu nhiên thì sao ?! Thưa , Sự sống siêu nhiên cũng vậy, cũng cần đến một “thứ nước “ hằng sống, đó là Chúa Giêsu , vì : “ Ai uống nước nầy sẽ lại còn khát. Còn ai uống nước Tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho, sẽ trở thành nơi người ấy, mạch nước vọt lên mang lại sự sống đời đời” ( Ga 4, 13- 14).

Vâng , quả thật, nước mà Chúa Giêsu nói, chắc chắn không phải là thứ nước tự nhiên, mà là một thứ nước siêu nhiên. Đó chính là “NƯỚC TRỜI”, cũng có thể hiểu, Nước Trời là chân lý. Vì , chân lý là sự sống đích thực, sự sống siêu mãn, nếu không có chân lý, mặc nhiên sự sống bị bóp nghẹt và dẫn đến diệt vong.

Vì vậy, vì yêu thương nhân loại lỗi lầm, chính Thiên Chúa ban sự sống siêu nhiên là chân lý là chính Đức Giêsu – Kitô cho chúng ta, và quen gọi là Nước Trời tức sự sống siêu nhiên vĩnh hằng, mà cũng được gọi là Thiên Đàng, vì cụm từ Thiên Đàng có nghĩa là ” Nhà ở trên Trời ”, khác với Địa Đàng là dương gian, dưới thế. Nhưng thật sự  chỉ là cách gọi. Vì , Nước Trời chính là “tâm hồn “ người thế, thế nhân có Thiên Chúa ngự trị, mà Thiên Chúa chính là : “ Thần Khí và Chân Lý” ( Ga 4 , 24).

Như vậy, chân lý thuộc về Thần Khí, chứ không phải thuộc về thế gian, thế gian chỉ là một mớ bòng bong mà thôi. Từ đó, suy ra, thiên đàng chính là “ niềm tin “ vào Thiên Chúa qua ơn cứu độ bởi Thiên Chúa làm Người là Đức Kitô – Giêsu.

Như vậy, qua Đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy, Chúa Giêsu gặp gỡ và đối thoại với một người đàn bà bất hạnh, chưa dược đón nhận ơn cứu độ, tức chưa đón nhận niềm tìn vào chân lý của Thiên Chúa, qua người phụ nữ xứ Samaria nầy, ơn cứu độ được đem đến cho một dân tộc bị phân biệt và ngăn cách với dân tộc Israel, vì vậy, hôm nay , Chúa Giêsu mang ơn cứu độ đến cho dân tộc Samaria, vì người đến để cứu độ nhân loại, nhưng , khởi đi từ dân tộc Dothai.

Chúng ta thấy, khởi đi từ bài đọc I hôm nay, (Xh 17, 3 -7), cho thấy nước vọt lên từ tảng đá, một hiện tượng lạ chỉ có Thiên Chúa, Đấng hiện hữu và lắng nghe dân của Ngài kêu cầu. Đây là ý nghĩa tiên trưng về mầu nhiệm” Nước Hằng Sống “, nơi mà nước sẽ vọt ra từ tảng đá “GIÊSU”.

Bài đọc II, ( Rm 5, 1-2 . 5- 8) thánh Phaolô cho chúng ta biết, khi chúng ta tin vào Đức Giêsu- Kitô, thì chúng ta sẽ trở nên công chính. “Vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người đã ban chúng ta) ( c 5b).

Như vậy, ơn cứu độ không độc quyền cho một dân tộc nào, quốc gia nào, mà là ơn cứu độ ban cho hết thảy mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi chủng tộc, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu và Thần Khí của Người vào lòng nhân thế. Vì vậy, Đoan Tin Mừng hôm nay minh chứng rõ ràng về sự thật ấy, là Chúa Giêsu đã đưa Tin Mừng của Người đến với dân tộc Samaria.

Lạy Thiên Chúa là Cha, Cha đã ban cho chúng con Chúa Giêsu – Kitô, Người đã đến thế gian hầu cứu chuộc nhân thế, xin ban cho chúng con biết  nhân ra tình Chúa cao vời qua ơn cứu chuộc của Người, vì chính Người là Nước Hằng Sống, như xưa Người đã tỏ ra cho dân tộc Samaria và họ đã đón nhận ân sủng đức tin. Xin cho ngày nay có nhiều dân tộc cũng đón nhận niềm tin như thế. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con ./. Amen.

Về mục lục

.

CUỘC GẶP GỠ THUYỆT HẢO CỦA ĐỨC GIÊSU

Lm Uyen Nguyen

Trở về với tinh thần hồi tâm sám hối’ là chủ đề của CN 3 MC, dành cho chu kỳ ba năm A,B,C. Hồi tâm sám hối là lời mời gọi của Mùa Chay hồng ân, lời ứng đáp của mỗi người, tinh thần sống trọng tâm Mùa Chay. Hiển Dung tuần qua đã là sản nghiệp hấp dẫn, hoa trái ban thưởng cho những ai có hành vi đón nhận on Hồi Tâm sám hối.

CN 3 MC năm A giới thiệu mẫu một người đàn bà Samari tân tòng trở lại. Khi chị đã phát hiện nơi ĐGS bao nét cao cả vô song của Người, đem lòng tin kính, đầy khâm phục mến yêu. Trong cuộc đàm thoại, chị đã từng bước nhanh chóng biến đổi cuộc sống mình dựa vào niềm tin bị thuyết phục. Rất thiết thực và cụ thể, chị mau mắn thực hiện việc loan báo ĐGS để mọi người cùng chiêm ngắm, cùng tin, cùng yêu mến. Nhờ chị, mọi người trong làng kéo nhau ra gặp, chiêm ngắm Người. Họ có cùng chung đức tin vào ĐGS như chị:‘Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian’ (c.42).  

Trước đó, trên đường trở lại Galilê, ĐGS cố tình lấy con đường bất lợi Samari để đi. Con đường thù nghịch giữa người Do Thái-Samari. Người vào làng Samari, dừng chân bên bờ giếng. Giếng này gọi là giếng Giacob, nơi đây từ xưa, là phần đất gốc gác các tổ phụ Do Thái. Giacob đã tạo giếng này, dùng chung mỗi khi nạn hạn hán xảy ra.

Giếng là nơi hội tụ, ít là dành cho mọi người trong làng lui tới lấy nước khi cần, khách lữ hành tạm có nơi thích hợp dừng chân nghỉ ngơi, nên địa bàn và cơ hội gặp gỡ. Giếng nước còn là biểu tượng BT Rửa Tội, nước ban sự sống. ĐGS chọn nơi đây dừng lại. Dừng lại không chỉ đơn sơ vì lộ trình dài, mà còn trong tâm ý gặp gỡ. Một TC tìm chiên lạc. Đấng cứu độ xây dựng hòa bình, hòa giải. Riêng ở đây, cần hòa giải mối thù lưu truyền giữa những con người cùng sống chung trên quê cha đất tổ, liền một dãi hai miền đất, chỉ vì niềm tin tôn giáo phụng thờ thần khác biệt đã ngăn cách tình người.

ĐGS gặp người đàn bà từ trong làng ra lấy nước. Người xin chị nước (c.7). ‘Người đang khát’. Qua chị, Người nhận ra mối hiềm thù vẫn ‘màu-xanh-lá’ thấm đậm và chưa hề có dấu mờ nhạt. Người từng bước dẫn chị đi vào ân sủng nhận biết Người cũng như tự quay về với lòng mình để nhận ra chính mình. Người giúp chị khám phá ra Người là Đấng ban nước hằng sống, một tiên tri thấu triệt quá khứ tương lai, (quá khứ và hiện tại nơi chị), Đấng Messia dựa theo lời chị đã gợi ý: ‘Tôi biết’ (c.25). Với Người, từ nay hết thảy hãy thờ phượng một TC duy nhất không phải ở đâu, nơi nào, mà trong ‘thần khí và sự thật’: là chính nơi con người, ở đó niềm tin chân thành trung tín, làm sao để Ngài hiện diện, và đem lòng gắn bó không rời.

Người đàn bà giờ đây trở thành ‘huyền thoại’, một con người như bao người, còn là một kẻ tội lỗi, vậy mà, qua tiếp chuyện, khám phá được chân tính, vai trò và sứ mệnh của vị khách đối diện. Lòng chị tràn khâm phục mến yêu. Không chút e dè hay ngần ngại, chị nhanh chân thực hiện vai trò người loan TM ĐGS cho những người cùng làng, không cần biết mình nên tông đồ từ bao giờ, từ khi nào là người như thế, đóng vai người nhận tin vui và hân hoan mang đi loan báo tin vui ấy: ‘Dấng cứu độ đến đang ở giữa mọi người’.

ĐGS, từ ban đầu bên bờ giếng, Người được nhìn dưới con mắt phàm nhân, là một người Do Thái, ‘kẻ thù vạ lây’ với cư dân miền đất Samari. Phút chốc, mọi sự thay đổi. Từng bước, nhờ ân ban, được nhìn ra là tiên tri, là TC ban nước hằng sống, là Đấng Messia Cứu Chúa thiết thân đến giao hòa con người lại với nhau và với TC. Cũng như cần thiết ở đây, hòa hợp người Do Thái với người Samari trong tình huynh đệ, xóa đi mối thù nghịch từ lâu không sao hàn gắn đến tận ngày nay.  

ĐGS dung mạo Chúa Cha, thừa hành sứ mệnh Cha ủy thác, Người không thể làm gì tuyệt hảo hơn khai sáng người Samari đón nhận đức tin và ơn cứu độ. Ở đây, Samari nên dấu chỉ đại diện cho toàn thể các dân tộc trên trái đất, không loại trừ, đều được hưởng ơn cứu độ. Riêng với dân Do Thái, Người muốn quy tụ họ thành một dân họp nhất: ‘Ta còn phải đi đến với các con chiên lạc nhà Israel’ (Mt.15,24), để ứng nghiệm lời các ngôn sứ trong Cựu Ước: ơn cứu độ đến với toàn mặt đất, phải xuất phát từ Do Thái, dân riêng TC.

Nhìn chung, ĐGS đang thực hiện tuyệt hảo vai trò của mình: Đấng cứu dộ hòa giải, Messia hiến mình làm giá chuộc muôn người. Hạ sinh làm người không để sống cho riêng mình mà vì sứ mệnh ủy thác, vì yêu, hiến mạng đổi lấy muôn người trên thế gian được sống. Không từ nan dù chỉ là một con chiên lạc nhỏ bé, thương xót và bằng mọi cách, mọi giá đưa về đàn để được bao bọc sống yên bình trong viễn ảnh chăm chú dựng xây phúc trường sinh.

Thân lạy Đấng cứu độ nhân ái, xin thương xót con, xin cứu con, vì con tội lỗi.

Về mục lục

.

CÁI KHÁT CỦA CON NGƯỜI

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật III mùa Chay, đặc biệt bài đọc thứ nhất (Xh 17,3-7) và bài Tin Mừng (Ga 4,5-42) hướng chúng ta đến chủ đề “nước”. Đi trong sa mạc, dân Chúa xưa đã nổi loạn với Môsê vì thiếu nước và Thiên Chúa đã ban cho họ nước chảy ra từ tảng đá tại Horeb. Trên đường truyền giáo, Chúa Giêsu đã dừng chân bên giếng nước Giacob, Người đã xin một phụ nữ Samaria chút nước và Người hứa ban cho chị ta nước trường sinh.  

Nói đến nước là nói đến một trong những nhu cầu căn bản của con người xét như loài có sự sống. Thiếu nước là như sự chết đang cận kề. Người ta có thể vượt qua những thiếu thốn của cải, tiện nghi… và người ta cũng có thể chịu đựng cái đói trong một thời gian khá dài, trên dưới một tháng, thế nhưng không một ai có thể cầm cự với cái khát quá dăm bảy ngày. Chính vì thế mà việc đáp ứng nhu cầu khát nước trở thành một việc cấp thiết mang tính sống còn. Vượt trên các loài sinh vật bậc thấp, loài người chúng ta ngoài cái khát tự nhiên là khát nước thì còn có nhiều nổi khát xuất phát từ nhu cầu của sự phản tỉnh hay sự tự nhận biết về hiện hữu của mình. 

A. Những cái khát của kiếp nhân sinh: 

1. Khát mong được nhìn nhận: Tôi là một con người. Đây là một chân lý hiển nhiên. Thế mà vẫn đã từng có, trong quá khứ và ngay cả hôm nay, rất nhiều người chưa được nhìn nhận như là một con người. Đó là trẻ em, phụ nữ, người nô lệ, người bất hạnh, quả phụ, cô nhi, ngoại kiều, người nghèo hèn, kém phận… Đọc Cựu Ước, chúng ta thấy rõ hiện tượng này. Các Ngôn sứ đã không ngừng lên tiếng về đề tài này. Người phụ nữ bên bờ giếng Giacob phải chăng không là ngoại lệ. Dù đã năm đời chồng và hiện đang sống với người thứ sáu, thế mà có thể chị chưa được nhìn nhận như là một người vợ? Phải chăng chị vẫn còn bị xem như một thứ “sở hữu” của người chồng? 

Khi sinh thời mẹ Têrêxa thành Calcutta gặp gỡ rất nhiều người bất hạnh, xấu số. Sau khi gặp mẹ, họ đã từng tâm sự rằng họ mãn nguyện vì cho dẫu chưa được sống như một con người thì họ cũng đã được chết như một con người. Chúa Kitô mạnh mẽ tuyên bố rằng không cần đã giết người thì mới bị đoán phạt, nhưng nếu loại bỏ tha nhân từ trong tâm trí và lối ứng xử của ta tức là không nhìn nhận tha nhân như là một con người thì ta cũng đã đáng bị trừng phạt (x.Mt 5,21-22). 

Người ta không chỉ khát khao được nhìn nhận như một con người mà con mong được nhìn nhận như là một người khác. Điều này nói lên sự độc lập, khác biệt của tha nhân đối với ta. Ngay cả trong đời sống hôn nhân, dù nỗ lực làm cho “mình với ta, tuy hai mà một” nhưng họ vẫn phải luôn ý thức để tôn trọng sự thật “ta với mình, tuy một mà vẫn là hai”. Quả thật người ta sẽ chẳng còn là chính mình một khi bị đồng hóa do bởi một ai đó hay bởi một thế lực nào đó. 

2. Khát mong được chấp nhận và được đón nhận: Được nhìn nhận như là một con người, như là một người khác vẫn chưa đủ nếu ta không được kẻ  khác chấp nhận và đón nhận. Từ đáy sâu thẳm của từng người, luôn có đó khát mong được tha nhân chấp nhận và đón nhận mình như mình đang là, đang có. Một trong những lẽ sống của con người là khi thấy mình còn có giá trị, đang còn hữu ích cho ai đó. Và điều này được chứng thực khi tha nhân chấp nhận và đón nhận ta. Khi tìm hiểu nguyên nhân khiến cho nhiều người, kể cả giới trẻ tìm đến cái chết bằng sự tự vẫn thì người ta nhận ra một trong những nguyên nhân chính đó là vì họ mang mặc cảm bị người chung quanh khước từ hay loại bỏ. 

Con người chúng ta thường bị cám dỗ chấp nhận hay đón nhận kẻ khác“với điều kiện”. Người ta phải thế này, phải thế kia thì tôi mới nhận, mới tiếp. Có những điều kiện mang tính khách quan, nhưng cũng không thiếu những điều kiện mang tính chủ quan hoặc duy ý chí. Điều này mặc nhiên nói lên rằng ta sẽ chỉ nhận nhau khi hội đủ điều kiện theo ý mình và nếu vì lý do gì đó mà không đủ điều kiện thì sẽ bị loại trừ. 

B. Chúa Kitô: Đấng giải khát cho nhân loại. 

“Chị cho tôi xin chút nước uống”. Khi mở miệng xin người phụ nữ chút nước, Chúa Giêsu nhìn nhận sự hiện hữu của chị và cả sự cần thiết của chị. Tin mừng tường thuật Chúa Giêsu đi đường mỏi mệt, Người đang cần nước uống và Người không có gầu. Như thế việc Người xin chị phụ nữ cho chút nước là một việc tự nhiên, rất thật của đời thường. “Ông là người Do Thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Samaria, cho ông nước uống sao?”. Không đơn thuần là câu hỏi vặn ngược mà thực chất là lời khẳng định của chị: Dù là Samaria, dù là phụ nữ, thì tôi cũng là một con người như ông và ông đang cần tôi. Chị Samaria đã được giải khát, môt cái khát nền tảng của kiếp nhân sinh là được nhìn nhận. 

“Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm”. Lời giới thiệu của chị phụ nữ với dân làng đã nói lên sự thỏa khát vô bờ của chị. Chị đã được Chúa Giêsu đón nhận như chị đang là, dù chị đã trải đời với năm người đàn ông và đang chung sống bất chính với người thứ sáu. Mà chắc gì người thứ sáu này sẽ nhận chị! Chúng ta đừng quên thời bấy giờ hiếm có chuyện đàn bà bỏ đàn ông mà ngược lại. 

Các Ngôn sứ thường lên án tội lỗi của dân Chúa xưa và loan báo các hình phạt họ phải chịu. Thế nhưng sau đó lại gợi mở về sự khoan dung tha thứ của Chúa. “Dân Ta cứ miệt mài buông theo bội tín, chúng được kêu mời hãy vươn lên, mà chẳng một ai ngóc đầu dậy! Hỡi Ephraim, Ta từ chối ngươi sao nổi! Hỡi Israel, Ta trao nộp ngươi sao đành!…Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi” (Hs 11,7-8). Mọi người và mỗi người đều có chỗ đứng trong Trái Tim Cực thánh của Đấng Cứu Độ. Không một ai là đồ bỏ đi. Bất cứ ai cũng đều được Thiên Chúa đón nhận, chỉ trừ khi họ cố tình khước từ. Vì đó là tội phạm đến Chúa Thánh Thần (x.Mt 12,32). 

“Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào Tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước trường sinh” (Ga 7,38). Biết bao con người đang khát ở quanh ta. Là Kitô hữu, ước gì chúng ta góp phần giải khát cho tha nhân khi nhìn nhận nhau, chấp nhận nhau và đón nhận nhau ngay trong hiện trạng của nhau.

Về mục lục

.

ĐẤNG THỎA MÃN NHỮNG KHAO KHÁT CỦA CON NGƯỜI

Lm. Giuse Nguyễn

Sắp xếp của phụng vụ Năm A cho chúng ta có một cái nhìn thống nhất về ơn cứu độ mà Đức Giêsu sẽ đem đến cho chúng ta trong suốt mùa Chay. Chúa Nhật thứ nhất mùa chay cho cả 3 năm phụng vụ A, B, C luôn luôn là những cơn cám dỗ của Đức Giêsu. Chúa Nhật thứ hai cũng vậy, 3 năm luôn luôn là cuộc biến hình của Đức Giêsu trên núi Tabor. Riêng các Chúa Nhật kế tiếp trong Năm A sẽ mặc khải cho chúng ta về công cuộc của Đức Giêsu. Chúa Nhật thứ III hôm nay cho chúng ta thấy Ngài là nguồn Nước Hằng Sống, nguồn nước này đem lại sự sống đích thực cho con người.

I.  PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

  1. Bài Đọc I: Xh 17, 3-7

Thiên Chúa muốn cho dân của Ngài được hạnh phúc nên đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ của người Ai Cập. Nghĩa là Ngài muốn đưa họ đến với suối nguồn hạnh phúc đích thực. Dân cũng phấn khởi ra đi, vượt qua Biển Đỏ dưới sự dẫn dắt của Môsê để tìm đến nguồn suối ấy. Thế nhưng khi bị cơn khát thể lý nổi lên họ đã quên đi suối nguồn hạnh phúc. Họ bắt đầu kêu trách Môsê: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai Cập để làm gì? Có phải là để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và súc vật chúng tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17, 3). Thiên Chúa đã thỏa mãn cơn khát của họ bằng một dấu lạ qua bàn tay Môsê: “Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng đá nước sẽ chảy ra cho dân uống” (Xh 17, 6b). Qua đó Thiên Chúa muốn nhắc nhở cho dân rằng, có Thiên Chúa thì mọi khao khát của họ sẽ được thỏa mãn.

  1. Tin Mừng: Ga 4, 5-42

Câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu với người phụ nữ  Samari là một trong những trang đẹp nhất của Tin Mừng Gioan. Chúa Giêsu đã cố tình đi ngang qua vùng đất Samari là vùng đất của dân ngoại; đã dừng lại tại bờ giếng Giacob là nơi thỏa mãn cơn khát thể lý của người dân trong vùng, là nơi để mọi người trong vùng có thể gặp gỡ, tâm sự, chia sẻ với nhau. Điểm đặc biệt là người phụ nữ này lại đi lấy nước vào buổi trưa, thời gian nắng gay gắt, ít người đi lấy nước. Nếu như vậy thì chắc chắn chị không thể gặp gỡ, không thể chia sẻ, tâm sự với những người dân trong vùng đó. Và đó là điều cố tình của chị. Chị chỉ muốn sống cô độc trong tội lỗi của mình. Chị sợ phải đối diện với sự thật, đối diện với người khác.

Nhưng Đức Giêsu đã không để cho chị yên trong bình an giả tạo đó. Ngài đã khoấy động tâm hồn chị để những cặn bã, những dơ dáy bấy lâu nay vốn nằm yên phải trồi lên, để từ đó Ngài gạn đục, khơi trong cho tâm hồn chị. Chị định đi lấy nước, thứ nước chỉ làm thỏa mãn cơn khát vật chất, và sẽ còn khát mãi, nhưng chị đã gặp được nguồn nước làm thỏa mãn tâm hồn chị và không bao giờ khát nữa.

Từ việc gặp gỡ một anh thanh niên Do Thái, đến một tiên tri, và cuối cùng là Đức Kitô, chị đã hoàn toàn biến đổi: dám chấp nhận con người thật của mình, không cần đến thứ nước vật chất uống vào vẫn khát, và nhất là chị đã mạnh dạn loan báo tin mừng ơn cứu độ mà chị vừa nhận được. Chị đã khao khát một tình yêu và chị đã tìm gặp một tình yêu. Chính tình yêu của Đức Kitô đã làm cho chị trở thành một con người mới.

II.  KHAO KHÁT

Ánh sáng lời Chúa hôm nay đã soi dọi để tôi nhận thấy nơi mỗi người đều có những khao khát. Tất cả những khao khát này thực ra chỉ là việc đi kiếm tìm hạnh phúc.

Đối với dân Do Thái ngày xưa, hạnh phúc đối với họ chỉ đơn giản là thức ăn, nước uống. Khi không có những điều đó họ đã kêu trách Môsê vì ông đã không thỏa mãn khao khát chính đáng của họ.

Đối với người phụ nữ trong bài Tin mừng hôm nay, hạnh phúc của chị chỉ đơn giản là việc sống một cuộc sống bình thường bên người chồng hờ, để ngày ngày chị lầm lủi làm những công việc theo thói quen của một người nội trợ. Và biết đâu một ngày nào đó chị lại bỏ đi theo tiếng gọi tình yêu khác như chị đã từng bỏ 5 đời chồng trước, vì rõ ràng cuộc sống hiện tại vẫn chưa đem đến hạnh phúc cho chị.

Tất cả mọi người khi đến tuổi trưởng thành đều nghĩ đến việc kiếm tìm hạnh phúc. Đó là khao khát chính đáng của con người. Nhưng khổ nỗi có những người quan niệm hạnh phúc không đúng đắn, và cũng có những người tìm hạnh phúc bằng phương thế xấu.

  1. Hạnh phúc không đúng đắn

Ông phú hộ trong Tin Mừng Lc 12, 19 đã nói: “Hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài trong nhiều năm, Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã”. Hạnh phúc của ông phú hộ này là hài lòng với tài sản ông đang có. Tuy nhiên, ông phú hộ sẽ không có được sự nghỉ ngơi, ăn uống và vui chơi nếu: “Nội đêm nay người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc 12, 20)

Có nhiều bạn trẻ đặt mục tiêu 30-40 tuổi phải đầy đủ “1 vợ, 2 con, 3 lầu, 4 bánh”. Đó là hạnh phúc của họ. Tuy nhiên có nhiều người vợ chính thức, vợ dự bị, vợ để dành, vợ lớn, vợ bé, vợ vừa… cũng đâu làm họ hạnh phúc; thậm chí những ông chủ ngân hàng chẳng những 1 nhà 3 lầu mà còn 3 nhà 9 lầu cũng phải lâm vào cảnh tù tội…

Thế cho nên quan niệm hạnh phúc một số người chưa đúng đắn.

  1. Tìm hạnh phúc bằng phương thế xấu

Quan niệm hạnh phúc không đúng đắn đã là một sai lầm, đi tìm hạnh phúc bằng những phương thế xấu còn tệ hại hơn. Vua Đavit đã vì đam mê sắc dục mà bày mưu giết chết vị tướng giỏi và trung thành của mình để đoạt vợ của ông ta.Nhiều người vì không muốn người khác cạnh tranh buôn bán với mình nên đã mướn xã hội đen bảo kê để một mình làm vua một cõi.

Những điều đó đối với con cái thế gian, đối với những kẻ vô thần đã là xấu, huống hồ chi đối với những người có đức tin, những người đã được rửa tội, những người mang danh là Kitô. Một số người Công giáo vẫn buôn bán không có lương tâm, một số người có đạo vẫn làm ăn phi pháp, một số kitô hữu vẫn xúc phạm đến các linh mục của Chúa vì lợi ích cá nhân của họ…

III.  CHỈ TRONG THIÊN CHÚA MÀ THÔI…

Với một quá khứ đầy dẫy những đam mê trụy lạc, những vui thú trần gian, những thỏa mãn của kiếp người…, có thể nói thánh Augustinô là người có đầy đủ mọi thứ: danh, lợi, thú. Những tưởng có thể làm cho ngài thỏa mãn? Nhưng không, vẫn còn thiếu một điều gì đó khiến ngài phải thốt lên: “Tâm hồn con khắc khoải khôn nguôi, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Đó không chỉ là khao khát của thánh Augustinô, mà còn là khao khát của con người muốn tìm kiếm hạnh phúc đích thực như lời của thánh vịnh 62: “Linh hồn con đã khao khát Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông”.

Tác giả Lam Tuyền có bài thơ nổi tiếng: “Đi tìm”:

“Tôi khao khát một mối tình, một tình yêu chỉ riêng dành cho tôi.

Để ngày tôi ngắm tôi soi, để đêm đắp áo cho người xông hương.

Để xa tôi nhớ tôi thương, để gần tôi thấy thiên đường ở bên.

Để khi trống trãi ưu phiền, ngã vào lòng bạn là tan hết sầu.

Để khi nước lớn sông sâu, được cầm tay bạn qua cầu bình yên.

Tôi đang khao khát đi tìm, một tình yêu chỉ là riêng của mình”.

Tác giả muốn nói đến chỉ tình yêu nơi Thiên Chúa mới làm thỏa mãn sự khao khát của ông.

Vâng, đúng vậy, tất cả những gì chúng ta vất vả tìm kiếm ở thế gian này mà không có tình yêu Thiên Chúa, không có sự linh thánh ở trong đó đều trở nên vô ích, thậm chí là tai hại cho chúng ta.

Đức Giêsu ngày xưa đã giúp cho người phụ nữ bên bờ giếng Giacob tìm gặp được hạnh phúc đích thực, thì ngày hôm nay chính Ngài cũng sẽ dẫn đưa chúng ta đến hạnh phúc đó.

Tuần rồi trên Vietcatholic News có đăng bảng tin về 2 nhân vật thành đạt đã từ bỏ công việc nhiều người mơ ước và nể phục để bước theo “một tình yêu chỉ là riêng của mình”. Người đầu tiên là cha Jaime Maldonado-Aviles, một cựu khoa học gia của Đại Học Yale, Hoa Kỳ, chuyên nghiên cứu về bộ não của con người. Người thứ hai là Cha Roy Edward Campbell vừa được Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm làm giám mục phụ tá cho tổng giáo phận phận Washington D.C. trong tuần qua. Ngài là một người trước đây từng nắm giữ vai trò chấp hành của Ngân Hàng America với chức vụ phó chủ tịch ngân hàng quốc gia.

Cả hai nhân vật này đều có một điểm chung là thành đạt trong hai lĩnh vực nổi bật nhất của xã hội đó là khoa học gia và tài chánh ngân hàng. Hơn thế nữa họ còn có một điểm chung là khao khát một tình yêu đích thực, và họ đã tìm gặp nơi Đức Giêsu nên đã từ bỏ tất cả để dấn thân trọn vẹn cho Ngài.  

Năm Gia Đình 2017 này Giáo hội nhắc nhở các gia đình hãy biết khao khát và tìm kiếm những giá trị cao cả hơn, vì quả thực tất cả những giá trị ở thế gian này dù tốt đẹp đến mấy rồi cũng sẽ qua đi. Vì vậy mỗi người hãy cố gắng đưa giá trị linh thánh vào những sinh hoạt của cuộc sống hằng ngày. Ví dụ gia đình tôi vẫn làm ăn buôn bán nhưng hãy cố gắng buôn bán cho đúng với lương tâm, và nhất là cố gắng đừng vì công việc mà bỏ lễ Chúa Nhật. Các bạn trẻ vẫn học hành, vẫn đi làm, nhưng cố gắng tránh những thú vui sa đọa, tránh những điều làm cho con người mất giá trị cả về nhân phẩm và đạo đức; hãy cố gắng làm sao để cho mình có một nền tảng đạo đức thực sự, nghĩa là biết quan tâm để tìm hiểu, học hỏi lời Chúa, đi lễ, tham gia những sinh hoạt đạo đức, biết suy nghĩ và khao khát, tìm kiếm những giá trị cao cả hơn là những giá trị thấp hèn…

Trong tất cả, dù ở vị trí nào, dù làm gì chúng ta cũng hãy đặt câu hỏi: “Điều này đã có đem lại hạnh phúc đích thực cho tôi hay không?”. Là một Kitô hữu, chúng ta phải thường xuyên xác quyết: “Chỉ nơi Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn”. Đó là điều chúng ta tin tưởng và cầu nguyện cho nhau trong thánh lễ này.

Về mục lục

.

TA KHÁT

Huệ Minh

Trang Tin Mừng Chúa nhật III Mùa Chay tới đây quả là tuyệt vời và để lại cho ta nhiều tâm tư suy nghĩ.

Chúa Giêsu, nhân câu chuyện bên bờ giếng nước Giacob và với cơn khát của thể xác đã gợi lên cơn khát của linh hồn, cơn khát Nước Hằng Sống chứ không phải là khát của cơ thể. Giản đơn, cơn khát của cơ thể dù được đáp ứng nhưng cũng chỉ tạm thời, chỉ cho cơ thể nhưng cơn khát Tâm Linh vẫn còn.

Con người có hay nói cách khác là sở hữu thể xác và tâm linh đời mình. Và rồi, nhiều lần nhiều lúc trong cuộc đời, con người chỉ chạy theo, chỉ tìm và có thể là giành giật, chụp giựt để thỏa mãn cơn khát của cơ thể mình, của ham muốn xác thịt mà quên lãng đi điều cần tìm nhất đó chính là cơn khát của Tâm Linh, cơn khát Nước Hằng Sống.

Chính Chúa Giêsu, trong thân phận làm người, Chúa Giêsu vẫn khắc khoải và vẫn khát cho đến giờ phút cuối cùng trên cây thập giá về Chúa Cha, về Nước Hằng Sống của đời mình. Hẳn, Chúa Giêsu cũng bị giằng co là bước xuống cây thập tự để thỏa mãn cơn khát của con người nhưng cũng bị giằng co chấp nhận vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự.

Cuối cùng, Chúa Giêsu cũng đã chiến thắng nhờ kết hợp với Thần Khí và Ngài đã phó thác đời mình trong tay Thần Khí.

5 đời chồng của người đàn bà bên bờ giếng Giacob cũng không làm thỏa mãn cơn khát đời đời của bà.

Quyền lực phủ vây con người vẫn không làm thỏa mãn được cơn khát đời đời của mỗi người.

Dẫu quyền lực như một đức giám mục của Giáo Phận cũng phải khép lòng bàn tay lại và lại phải mở lòng ra để xin Chúa là Cha cho mình thỏa mãn cơn khát của Thần Linh.

Còn nhớ tâm tình rất hay của linh mục đại diện linh mục đoàn tâm tư trước linh cữu Đức Cố Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống : “…Và trước linh cửu Ðức Cha hôm nay, đoàn con Phan Thiết xin nguyện hứa đón nhận Di Sản của Ðức Cha để lại, là “sống khó nghèo, hiền lành, khiêm nhượng, kết hiệp khổ đau với Chúa Giêsu, yêu mến Mẹ Maria, và chết đời mình đi vì hạnh phúc của mọi người”.

Chúng con xin tạ ơn Chúa. Chúng con xin hết lòng cảm ơn Ðức Cha. Chúng con xin Ðức Cha tha lỗi. Và cuối cùng, xin Ðức Cha cầu bàu cho Giáo phận Phan thiết nơi tòa Chúa, để đoàn chiên của Cha mỗi ngày thêm tuổi lớn, thêm khôn ngoan, thêm xinh đẹp nhờ biết noi gương nhân đức sáng ngời của Ðức Cha”.

Sự qua đi của một bậc vị vọng trong Giáo Hội, sự khép lại của một quyền lực mà Thiên Chúa đặt để nhắc nhớ cho ta cơn khát thật sự của cuộc đời này.

Ngày hôm nay, mỗi người chúng ta cũng không tránh khỏi cơn khát của thể xác nhưng rồi cũng không tránh khỏi cơn khát của linh hồn. Nhưng, đứng trước cùng đích của cuộc đời, ta hãy lắng đọng và trả lời thật tâm với Chúa rằng ta khát và ta khác cái gì ?

Ta khát Thiên Chúa hay ta khát quyền lực thế gian ?

Ta khát Thiên Chúa hay ta khát tiền bạc thế gian ?

Ta khát Thiên Chúa hay ta khác tình cảm chóng qua trần tục của cuộc đời ?

Ta khát tìm vinh quang Thiên Chúa hay ta khát tìm vinh quang của đời ta ?

Xin cho mỗi người chúng ta nhìn đến cùng đích của cuộc đời con người, nhìn đến sự ra đi của các đấng các bậc trong Hội Thánh hay ngoài Hội Thánh để nhìn ra căn tính thật sự của kiếp người để yêu thương nhau hơn, hiệp nhất với nhau hơn chứ không phải tranh giành quyền lực của nhau và với nhau.

Xin Chúa Giêsu là Đấng chịu đau khổ trong cuộc khổ đau cực đỉnh của phận người cho ta thấu hiểu quyền lực thực sự mà con người cần tìm, cơn khát cùng đích mà con người phải tìm.

Về mục lục

.

TRỞ NÊN MẠCH NƯỚC HẰNG SỐNG CHO THA NHÂN

Lm. Đan Vinh

I.  HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Ga 4,5-42

(5) Vậy Người đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se. (6) Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa. (7) Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với người ấy: “Chị cho tôi xin chút nước uống !”. (8) Quả thế, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. (9) Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói: “Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao ?” Quả thế, người Do thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri. (10) Đức Giê-su trả lời: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: Cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị Nước Hằng Sống”. (11) Chị ấy nói: “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra Nước Hằng Sống ? (12) Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ Gia-cóp chúng tôi, là người đã cho chúng tôi giếng này ? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy”. (13) Đức Giê-su trả lời: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. (14) Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”. (15) Người phụ nữ nói với Đức Giê-su: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước”. (16) Người bảo chị ấy: “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây”. (17) Người phụ nữ đáp: “Tôi không có chồng”. Đức Giê-su bảo: “Chị nói: Tôi không có chồng là phải, (18) vì chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng”. (19) Người phụ nữ nói với Người: “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một Ngôn sứ… (20) Cha ông chúng tôi đã phờ phượng Thiên Chúa trên núi này. Còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa”. (21) Đức Giê-su phán: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. (22) Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do thái. (23) Nhưng giờ đã đến và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. (24) Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong Thần Khí và Sự Thật”. (25) Người phụ nữ thưa: “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô sẽ đến. Khi Người đến, người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. (26) Đức Giê-su nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây”. (27) Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi: “Thầy cần gì vậy ?” Hoặc “Thầy nói gì với chị ấy ?”.(28) Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: (29) “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi về tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao ?” (30) Họ ra khỏi thành và đến gặp Người. (31) Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: “Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa”. (32) Người nói với các ông: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết”. (33) Các môn đệ hỏi nhau: “Đã có ai mang thức ăn cho Thầy rồi chăng ?”. (34) Đức Giê-su nói với các ông: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”. (35) Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt ? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem: đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái !”.(36) Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời. Và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng. (37) Thật vậy, câu tục ngữ “Kẻ này gieo, người kia gặt” quả là đúng ! (38) Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả. Còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ”. (39) Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giê-su, vì lời người phụ nữ làm chứng: “Ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm”. (40) Vậy, khi đến gặp Người, dân Sa-ma-ri xin người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. (41) Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa. (42) Họ bảo người phụ nữ: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng: Người thật là Đấng Cứu Độ trần gian”.

  1. Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc đối thoại của Đức Giê-su với một phụ nữ Sa-ma-ri. Người đã từng bước đưa chị ta đón nhận mặc khải quan trọng: Người chính là Đấng Thiên Sai, ban Nước Hằng Sống cho những ai tin vào Người và họ sẽ biến thành mạch nước giúp người khác đón nhận sự sống đời đời.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 5-9: + Đến một thành xứ Sa-ma-ri: Từ Giê-ru-sa-lem về Ga-li-lê ngang qua xứ Sa-ma-ri, Đức Giê-su đã tới giếng Gia-cóp gần thành Sy-kha (hay Si-khem) tại đất Ca-na-an (x. St 33,18; 48,22). Đây là đất mà tổ phụ Gia-cóp đã cho Giu-se và con cháu làm gia nghiệp (x. Gs 24,32). + Khoảng giờ thứ sáu: Tức khoảng mười hai giờ trưa. Người Do thái tính thời gian như sau: ban ngày có 12 giờ và ban đêm có 4 canh giờ. Ngày bắt đầu từ giờ Thứ Nhất (6g sáng) lúc mặt trời mọc, và kết thúc vào giờ Thứ Mười Hai (18g00) lúc mặt trời lặn. + “Chị cho tôi xin chút nước uống !”: Đức Giê-su chủ động xin nước uống để có cơ hội bắt chuyện, giúp người phụ nữ dần dần nhận ra Người là Đấng ban Nước Hằng Sống, đem lại ơn cứu độ cho loài người. + “Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao ?”: Từ sau khi đi lưu đày trở về, dân Do thái xây dựng lại Đền Thờ mà không cho người Sa-ma-ri cộng tác, nên họ đã xúi vua Ba-tư cản trở công cuộc tái thiết này (x. Er 4,1-16). Từ đó hai dòng giống Do thái và Sa-ma-ri tuy cùng một tổ tiên, sống sát bên nhau, nhưng lại có ác cảm và không giao tiếp với nhau. Ở đây, người phụ nữ này nhận ra Đức Giê-su là người Do thái qua giọng nói và cách ăn mặc nên đã tỏ ra ngạc nhiên và từ chối như vậy.

– C 10-15: + “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: Cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị Nước Hằng Sống”…: Nhân dịp này, Đức Giê-su cho người phụ nữ kia biết Người là Đấng ban Nước Hằng Sống. + “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra Nước Hằng Sống ?…: Người phụ nữ này chỉ hiểu lời nói của Đức Giê-su theo nghĩa thông thường là nước giếng tự nhiên, đang khi Đức Giê-su lại có ý nói đến Nước Hằng Sống là Ơn Cứu Độ. + “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”: Đức Giê-su so sánh nước giếng tự nhiên chỉ làm đã khát nhất thời, với Nước Hằng Sống mang lại sự sống đời đời mà Người sẽ ban, để khơi dậy sự khao khát nơi người này. + “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước”: Đức Giê-su dẫn dắt người phụ nữ từ thái độ thù nghịch đến chỗ thân thiện. Từ vai một người xin nước đến chỗ là Đấng ban Nước Hằng Sống và chị ta đã xin Người ban thứ Nước ấy.

– C 16-22: + “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây”: Đức Giê-su tỏ ra là người lịch sự khi muốn nói chuyện với người phụ nữ trước mặt chồng chị ta, đồng thời Người cũng muốn chị ta ý thức về thân phận tội nhân của mình. + “Chị nói: Tôi không có chồng là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng”: Đức Giê-su cho người phụ nữ ý thức tình trạng hôn nhân bất hợp pháp của mình. Một số nhà chú giải còn nhìn thấy 5 đời chồng là hình ảnh tượng trưng dân Sa-ma-ri vừa kính sợ Đức Chúa, lại vừa phụng thờ 5 vị thần khác (x. 2V 17,29-34.41). + Thưa ông, tôi thấy ông thật là một Ngôn Sứ: Người phụ nữ sửng sốt khi thấy Đức Giê-su thấu suốt đời tư của mình, và tôn xưng Người là một Ngôn sứ. Đồng thời, chị ta xin Đức Giê-su chỉ dẫn phải tôn thờ Thiên Chúa trên núi Ga-ra-dim như người Sa-ma-ri, hay thờ Chúa tại Đền Thánh Giê-ru-sa-lem như người Do Thái ? + Đã đến giờ: Đức Giê-su dạy chị phụ nữ với tư cách vị Ngôn sứ: Đã đền giờ Người xuất hiện để thực hiện chương trình cứu độ. Người cho biết: việc thờ phượng tại núi này hay tại Giê-ru-sa-lem chỉ là hình bóng và đã qua rồi. Bây giờ là thời Thiên Sai, phải chầm dứt việc thờ phượng cũ để bắt đầu cách thờ phượng mới nơi bản thân Người. + Thờ Đấng mà các người không biết: Người Sa-ma-ri chỉ công nhận bộ sách Ngũ Kinh và không biết đến các sách khác, nhất là các Ngôn Sứ mặc khải về Thiên Chúa. + Còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết: Người Do thái tuân giữ toàn bộ các sách Thánh Kinh. Sau này, Tông đồ Phao-lô cũng nhấn mạnh về đặc ân đó của người Do thái (x. Rm 9,4).

– C 23-29: + Thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí: là tôn thờ Thiên Chúa dưới sự soi sáng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần. + Trong Sự Thật: Thờ Thiên Chúa trong Đức Giê-su, Đấng là “đường, sự thật và sự sống” (Ga 14,6). Tóm lại, từ nay Đức Giê-su trở nên Đền Thờ mới sẽ thay Đền Thờ cũ trên núi Ga-ra-dim hay tại Giê-ru-sa-lem. + Thiên Chúa là Thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong Thần Khí và Sự Thật”: Đức Giê-su đã nêu ra một điều được cả người Do thái và người Sa-ma-ri chấp nhận là lời quả quyết: “Thiên Chúa là Thần Khí, và người ta phải thờ Người ở khắp mọi nơi, thờ chính Thiên Chúa chứ không phải thờ hình bóng của Người. Thiên Chúa là Đấng vô hình, nên Người đòi người ta phải thờ phượng Người trong tâm hồn. Một số người dựa vào câu này để từ chối thờ Chúa bằng những hình thức lễ nghi bên ngoài. Thực ra Đức Giê-su vẫn thường xuyên lên Đền thờ (x. Ga 2,13; 7,14; 11,55) và đến hội đường Do thái (x. Mt 1,21; Mt 13,54) để tham dự các nghi lễ thờ phượng Thiên Chúa. Người chỉ chống lại những nghi lễ vụ hình thức mà thôi (x. Mt 15,7-9; 21,12-13). + Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô sẽ đến: Dù chưa hiểu được ý nghĩa về lời giải thích trên đây, người đàn bà này cũng quan tâm đến tôn giáo. Bà hy vọng Đấng Ki-tô sẽ đến loan báo mọi sự. + Đấng ấy chính là tôi: Bình thường, Đức Giê-su không muốn tỏ ra là Đấng Thiên Sai vì sợ dân Do thái hiểu vai trò Thiên Sai theo nghĩa chính trị. Còn ở đây nói với người phụ nữ Sa-ma-ri, Người không sợ bị hiểu lầm nên đã tỏ mình chính là Đấng Thiên Sai. + Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ: Phong tục Do thái không cho phép đàn ông nói chuyện với phụ nữ nơi công cộng. Làm như vậy, Đức Giê-su đã bãi bỏ tục lệ này vì sứ mệnh rao giảng Tin Mừng quan trọng hơn thói tục của người đời. Người đến với tha nhân, bất kể họ là ai hay thuộc phái tính, dân tộc nào, để đem Tin Mừng cứu rỗi cho họ. + Đến mà xem: có một người đã nói với tôi về tất cả những gì tôi đã làm: Thực ra Đức Giê-su mới chỉ nói về những người chồng của người phụ nữ này chứ chưa nói về tất cả những gì chị đã làm. Nhưng khi nói với dân chúng, chị ta đã phóng đại lên để cho người ta dễ tin theo mà thôi.

– C 30-38: + “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết”: Đức Giê-su muốn dựa vào của ăn phần xác mà các môn đệ mời Người để nói về của ăn thiêng liêng mà các ông chưa biết. + Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy: Đức Giê-su coi việc làm theo thánh ý Chúa Cha chính là lương thực của Người. + Đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái !: Đức Giê-su dựa vào câu tục ngữ người nông dân hay nói: “Bốn tháng có qua, mùa gặt có tới”. Qua đó Người nói đến mùa gặt thiêng thiêng là cánh đồng truyền giáo đã chín vàng, vì dân Sa-ma-ri sắp kéo tới để gặp Người. Đây là hoa trái đầu mùa của mùa gặt Thiên Sai. + Đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái! : Trong Cựu Ước, mùa gặt tượng trưng sự phán xét của Thiên Chúa, hoặc niềm vui ơn cứu độ (x. Is 9,2; Am 9,13, Tv 126,5). Trong Tân Ước, mùa gặt tượng trưng cho hoa quả của việc truyền giáo (x. Mt 9,37). Đức Giê-su gợi lên niềm vui và phần thưởng của thợ gặt là các tông đồ, khi các ông giúp nhiều người tin để được hưởng hạnh phúc Nước Trời. + Câu tục ngữ “Kẻ này gieo, người kia gặt” quả là đúng !: Câu tục ngữ này được hiểu như sau: Người gieo chính là Đức Giê-su và hạt giống là Tin Mừng (x. Lc 8,11); Thợ gặt là các môn đệ. Mặc dù các ông chưa được sai đi, nhưng Đức Giê-su đã thấy trước viễn ảnh tốt đẹp là hoa quả do việc truyền giáo mang lại. Việc Người sắp chịu chết trên thập giá giống như hạt giống, phải chết đi mới sinh ra nhiều hoa trái (x. Ga 12,24). Công việc truyền giáo là một việc tập thể mỗi người một nhiệm vụ: “Người gieo kẻ gặt”. Do đó khi việc tông đồ mang lại nhiều kết quả thì đừng nghĩ rằng đó là thành quả do công sức của riêng mình.

– C 39-42: + Ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm: Lời chứng của người phụ nữ được coi là dấu chỉ, là giai đoạn đầu dẫn dân thành đến niềm tin vào Đức Giê-su. + Dân Sa-ma-ri xin người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa: Đức tin sẽ được tiếp tục triển nở nhờ lời giảng dạy của Đức Giê-su. + “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng: Người thật là Đấng Cứu Độ trần gian”:  Qua lời của dân thành Sa-ma-ri, chúng ta thấy đức tin trưởng thành không những dựa vào người khác như cha mẹ, vợ chồng, người thân hay theo số đông, mà do sự lắng nghe và thực hành lời Chúa.

  1. CÂU HỎI:

1) Cách tính giờ của người Do thái thế nào ? 2) Đức Giê-su chủ động xin nước uống với người phụ nữ Sa-ma-ri nhằm mục đích gì ? 3) Nước Hằng Sống mà Đức Giê-su hứa ban là thứ nước gì ? 4) Lời Đức Giê-su dạy thờ Thiên Chúa vô hình trong Thần Khí và Sự Thật phải chăng là Người bãi bỏ tất cả các lễ nghi thờ phương bề ngoài ? 5) Câu chuyện người phụ nữ Sa-ma-ri hôm nay dạy ta bài học gì về sứ mệnh loan báo Tin Mừng ? 6) Câu nói của dân làng cho thấy hiệu quả của Lời Chúa tác động thế nào nơi những người tin?

II.  SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa” (Ga 4,13-14a).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) ĐỨC GIÊ-SU – “NƯỚC HẰNG SỐNG” MANG LẠI HẠNH PHÚC ĐỜI ĐỜI:

Cách đây ít lâu, một số chị em người Bỉ khi suy niệm đoạn Tin mừng này, đã cùng nhau lập một tu hội tên là “Ô Vi” (Eau Vive) dịch là “Nước Hằng Sống”. Ngoài việc cầu nguyện trước Chúa Thánh Thần mỗi ngày, chị em còn mở quán ăn phục vụ khách. Trong quán, các chiêu đãi viên chính là các nữ tu. Châm ngôn của tu hội là “Phục vụ Chúa trong các thực khách”. Mỗi buổi tối vào giờ đóng cửa, chị em biến quán ăn trở thành nhà nguyện. Các thực khách được mời ở lại tham dự giờ chia sẻ Lời Chúa. Mọi người sẽ được nghe Lời Mặc Khải là Nước Hằng Sống như Đức Giê-su đã ban cho người phụ nữ Sa-ma-ri xưa.

2) SỨC MẠNH LÔI CUỐN CỦA LÒNG BÁC ÁI ĐÍCH THỰC:

Có một người đàn ông nọ mới xin theo đạo. Một hôm có người muốn thử đức tin của ông ta liền lên tiếng hỏi: “Ông theo đạo Công giáo, nhưng ông có biết Đức Giê-su là ai không?” Người tân tòng trả lời: “Dĩ nhiên là tôi biết chứ”. Người kia hỏi tiếp: “Thế Đức Giê-su sinh ra tại đâu ?” Người tân tòng im lặng không trả lời được. Người kia hỏi tiếp: “Đức Giê-su chết năm bao nhiêu tuổi ?” Một lần nữa, người tân tòng lại không thể trả lời. Người kia liền kết luận: “Ông chẳng hiểu biết gì về đạo. Vậy tại sao ông lại theo đạo ?” Bấy giờ người tân tòng mới nói: “Thú thật với ông: tôi biết rất ít về giáo lý. Nhưng điều tôi biết rất rõ là: Cách đây hai năm, do nợ ngân hàng không thanh toán được đúng hạn, nên gia đình tôi bị đuổi ra khỏi nhà phải lang thang nay đây mai đó. Trong thời gian ấy, tôi trở nên nghiện rượu và hay la mắng vợ con. Vợ tôi lúc nào cũng buồn sầu khóc lóc. Các con tôi thì luôn sợ phải gặp thấy bộ mặt ba của chúng. Nhưng sau đó một năm, tôi may mắn đã gặp được một linh mục tốt bụng. Ông đã tận tình giúp đỡ gia đình tôi vượt qua khó khăn: Ông giúp tôi có được việc làm ổn định, và giúp gia đình tôi trở nên con cái Chúa, còn giúp tôi sống tiết độ hơn. Hiện nay tôi đã lấy lại được căn nhà cũ. Vợ chồng tôi sống rất hòa hợp hạnh phúc. Các con tôi đều khỏe mạnh, học hành tiến bộ và ngoan ngoãn hiếu thảo. Tôi xác tín rằng: Chính Đức Giê-su đã biến đổi gia đình tôi từ khi tôi gặp được Người qua con người của một vị linh mục !”

Quả thật, đúng như lời Đức Giê-su đã phán trong Tin Mừng hôm nay: “Ai uống nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14).

3) LÒNG MẾN CHÚA PHẢI THỂ HIỆN QUA SỰ YÊU NGƯỜI:

Vào một đêm trăng sáng, khi nhìn qua cửa sổ, vị tu sĩ già nhìn thấy một thiên thần đang ngồi trên một tảng đá trong khu vườn phía sau tu viện. Thiên thần cầm bút viết vào quyển sổ vàng để trước mặt. Lòng tràn ngập niềm vui, vị tu sĩ tiến lại gần thiên thần và lên tiếng hỏi: “Ngài đang viết gì vào sổ vàng thế ?” Thiên thần trả lời: “Ta đang ghi tên những tín hữu đủ điều kiện để được lên thiên đàng”. Vừa hồi hộp và lo lắng, vị tu sĩ liền hỏi thiên thần xem trong sổ vàng có ghi tên của mình chưa? Thiên thần liền lần giở từng trang sách ra dò, nhưng tìm mãi mà vẫn không thấy tên của vị tu sĩ. Thiên thần cho biết sở dĩ ông chưa được ghi tên vào sổ vàng, vì ông còn thiếu lòng mến Chúa. Bấy giờ vị tu sĩ lên tiếng hỏi thiên thần: “Tuy tôi chưa mến Chúa đủ, nhưng nếu tôi có tình thương tha nhân thì tôi có được ghi tên trong sổ vàng không?”. Nghe vậy, thiên thần đã đồng ý. Thế là từ hôm đó, vị tu sĩ đã nhiệt tình thực hành bác ái bằng việc hăng say phục vụ những người bệnh tật, đui mù và nghèo khổ bất hạnh.

Sau khi vị tu sĩ qua đời, anh em trong dòng đã tìm thấy cuốn nhật ký của vị tu sĩ. Tronh đó, ông đã viết ở trang đầu tiên như sau: ”Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình thì đó là kẻ nói dối, vì kẻ không yêu mến người anh em nó thấy đó, tất không thể yêu mến Thiên Chúa mà nó không thấy” (1 Ga 4,20). Tiếp theo là lời tâm tình của vị tu sĩ: ”Lúc đầu tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng tôi chẳng thể gặp được vì Ngài là Đấng thiêng liêng; tiếp đến, tôi đi tìm linh hồn tôi, nhưng tôi không tìm được, vì linh hồn có đặc tính vô hình; Rồi sau cùng, khi tôi quyết tâm tìm kiếm tha nhân và yêu thương họ, bằng việc chia sẻ và âm thầm phục vụ họ như phục vụ Chúa, thì tôi đã gặp cả Thiên Chúa và linh hồn mình” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).

4) LÒNG THAM SẼ DẪN NGƯỜI TA LẠC XA CHÚA LÀ HẠNH PHÚC ĐÍCH THỰC:

Có một anh thợ đào vàng mới chết và đến cổng Thiên Đàng xin thánh Phê-rô mở cửa cho vào. Thánh nhân hỏi: “Ở trần gian anh làm nghề gì?” Anh thưa: “Con làm thợ đào vàng”.

Thánh Phê-rô liền nói: “Trên thiên đàng hiện đã có quá nhiều thợ đào vàng rồi”. Nhưng anh ta vẫn nài nỉ: “Xin ngài cứ cho con vô, để con sẽ cầm đầu bọn nó, không để chúng do lòng tham mà tranh giành nhau làm mất an toàn trật tự trên thiên đàng”.

Sau đó anh chàng đã được thánh Phê-rô cho vào thiên đàng. Trước tiên anh ta đi tham quan một vòng quanh thiên đàng và đã gặp nhiều bạn bè đào vàng trước kia. Bấy giờ anh liền rỉ tai một người bạn và nói như sau: “Tớ nghe đồn là dưới hoả ngục có một mỏ vàng cực lớn. Chú mày hãy mau đi rủ bạn bè xuống dưới đó mà đào”. Thế là chỉ sau một thời gian ngắn, các tay thợ đào vàng liền bỏ thiên đàng, mang theo cuốc xẻng nhảy xuống hoả ngục đi tìm vàng.

Còn lại một mình, anh thợ đào vàng đứng ngồi không yên. Anh liền xin thánh Phêrô cho xuống hoả ngục để xem tình hình ra sao. Biết đâu ở đó đã thực sự có mỏ vàng thì sao? Vì anh thấy bọn bạn cũ của anh đã đi lâu rồi mà vẫn không thấy quay lại” Thánh Phê-rô liền khuyên anh: “Con đừng ảo tưởng! Dưới hỏa ngục làm sao có mỏ vàng được, trái lại, chỉ có đau khổ nước mắt và thói ganh ghét xấu xa mà thôi. Nhưng anh chàng kia không nghe lời khuyên, cứ quyết định leo rào ra ngoài để tìm đường đi xuống hỏa ngục.

Than ôi! Thế là chính vì lòng tham không đáy mà cả bọn thợ đào vàng đều bị mất hạnh phúc thiên đàng. Ngày nay trên trần gian, do lòng tham không đáy, mà nhiều người cũng hứa sẽ sẵn sàng hy sinh hạnh phúc riêng mình để chạy theo lòng tham vàng bạc vật chất, nhắm mắt phạm các tội ác nghiêm trọng như: cướp của, giết người… để rồi phải vào tù chịu hình phạt đau khổ ở đời này và còn chịu bất hạnh trong hỏa ngục đời sau.

  1. SUY NIỆM:

1) NHU CẦU NƯỚC SẠCH CỦA NHÂN LOẠI:

Ngày 22 tháng 3 hàng năm đã được Liên Hiệp Quốc chọn làm Ngày Nước Thế Giới – ngày để con người nhìn lại tầm quan trọng của tài nguyên quý giá bậc nhất trên Trái đất. Nước là tài nguyên chiếm 3/4 diện tích Địa cầu nhưng chỉ có khoảng 2,5% trong tổng số đó là nước có thể sử dụng được. Tổ chức Y tế Thế giới luôn cảnh báo về tình trạng thiếu nước sạch trên toàn thế giới. Hiện nay mỗi năm có khoảng 1,2 triệu trẻ em dưới 5 tuổi chết vì thiếu nước sạch.

Riêng tại Việt Nam, nhiều người vẫn chưa được sử dụng nước sạch, kể cả tại những thành phố lớn như Sài Gòn, Hà Hội. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu nước là do việc khai thác bừa bãi sông ngòi, sử dụng nước sạch cách phí phạm. Nguyên nhân trầm trọng hơn, đó là tình trạng ô nhiễm môi trường do con người gây ra. Các khu công nghiệp, các cơ sở sản xuất và các gia đình đã xả thẳng ra môi trường chất thải, hóa chất chưa được xử lý, khiến cho nguồn nước ngầm bị nhiễm độc do hóa chất và các kim loại nguy hiểm. Theo Bộ Y tế, tại Việt Nam, hàng năm có tới 10 ngàn người chết vì các chứng bệnh liên quan đến sử dụng nước ô nhiễm. Một trong các bệnh dễ thấy đó là ung thư và các bệnh liên quan đến hệ tiêu hóa như đường ruột.

Ngoài cơn khát về nguồn nước cho thân xác, con người còn có sự khao khát về tâm linh cần được thỏa mãn. Đó là khát vọng hướng tới vô biên, mong tìm hạnh phúc… như lời Sách Thánh: “Như nai rừng mong mỏi, tìm về suối nước trong, hồn con cũng trông mong, tìm đến Ngài, lạy Chúa” (Tv 42). Thánh Au-gút-ti-nô cũng mang tâm trạng khát mong đi tìm thỏa mãn các đam mê lạc thú nơi loài thụ tạo nhưng đã không được như ý. Cuối cùng Au-gút-ti-nô đã  tìm thấy hạnh phúc nơi một mình Thiên Chúa như ngài đã cầu nguyện: ”Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa, linh hồn con vẫn còn khắc khỏai mãi cho đến khi nào con được nghỉ yên trong Chúa”. Và tác giả Sách Thánh Vịnh cũng đống quan điểm khi viết: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, Hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2).

2) ĐỨC GIÊ-SU LÀ “NƯỚC HẰNG SỐNG” THỎA MÃN CƠN KHÁT CỦA NHÂN LOẠI:

Tin Mừng CN hôm nay tường thuật cuộc đối thoại tại bờ giếng Gia-cóp, giữa Đức Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri tượng trưng cho dân ngoại. Qua đó, Người đã từng bước mặc khải cho chị ta về ơn cứu độ. Đức Giê-su đã chủ động xin chị ta nước uống vật chất, để sau đó hứa ban cho chị “Nước Hằng Sống”. Tiến trình đức tin nơi chị phụ nữ Sa-ma-ri trong Tin Mừng như sau:

– Đầu tiên Đức Giê-su đi bước trước mở lời: “Cho tôi chút nước uống” (c. 7). Xin nước không phải thực sự cần nước uống, nhưng nhằm bắc một nhịp cầu vượt qua hố ngăn cách giữa hai dân tộc Do thái và Sa-ma-ri. Tuy cùng là con cháu của tổ phụ Gia-cóp, nhưng do hoàn cảnh lịch sử đã phân thành hai dân tộc nghi kỵ nhau và không giao tiếp với nhau, như lời chị phụ nữ Sa-ma-ri nói với Đức Giê-su: “Ông là người Do thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri cho ông nước uống hay sao ?” (c. 9). Sau đó, từ nước giếng vật chất, Đức Giê-su đã từng bước mặc khải cho chị ta về “Nước Hằng Sống” (c. 10).

– Chính do hiểu lầm hiềm khích mà hai dân tộc Do thái và Sa-ma-ri đã chia rẽ nhau về đức tin: Người Do thái chỉ thờ Đức Chúa tại Đền Thánh Giê-ru-sa-lem, đang khi người Sa-ma-ri lại muốn phải thờ Đức Chúa tại núi Ga-ri-dim! Còn theo Đức Giê-su: Người ta không được giới hạn Thiên Chúa tại đền thờ vật chất tại Giê-ru-sa-lem hay trên núi Ga-ri-dim. Thiên Chúa là Đấng vô hình như “Gió” và “Thần Khí”, sự thờ phượng đúng đắn nhất là phải thờ Thiên Chúa trong “Thần Khí” và “Sự Thật” (c. 20-24).

3) PHẢI THỜ CHÚA TRONG THẦN KHÍ VÀ SỰ THẬT:

Đức Giê-su nói về sự thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa: “Nhưng giờ đã đến,  và chính lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4, 23).

– Phải thờ Thiên Chúa trong Thần Khí:

Ðức Giê-su nói: “Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần Khí và Sự Thật”. Ngày nay nhiều người cũng đồng quan điểm khi chủ trương: “Đạo tại tâm”. Thánh Phao-lô cũng nói: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Ðền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao” (1 Cr 3,17). Mỗi người tín hữu chúng ta hôm nay cũng cần xin ơn Chúa Thánh Thần giúp ta thực thi đức tin bằng đức cậy tức là cầu nguyện dâng lễ; và bằng đức mến là phục vụ tha nhân.  

– Phải thờ Thiên Chúa trong Sự Thật:

Sự thật là chính Đức Giê-su như Người đã tuyên bố: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Ma quỷ là cha của sự dối trá và các môn đệ của Đức Giê-su phải tránh dối trá như các đầu mục dân Do thái đã bị Đức Giê-su quở trách: “Cha các ông là ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (Ga 8,44). Còn Thiên Chúa của chúng ta thờ là Thiên Chúa của sự thật, vì thế, những kẻ gian dối, sẽ không thể gặp được Ngài là Sự Thật. Do đó mỗi người chúng ta cần có một lương tâm ngay thẳng: “có thì nói có, không thì nói không” (Mt 5,36), không quanh co, lươn lẹo, gian dối, nói một đàng làm một nẻo… thì mới có thể gặp gỡ Ngài.

4) TRỞ THÀNH MẠCH “NƯỚC HẰNG SỐNG” VỌT ĐẾN HẠNH PHÚC ĐỜI ĐỜI:

Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su nói về sứ vụ của người tín hữu như sau: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”? (Ga 4,13-14).

Thực vậy, tông đồ Phi-lip-phê sau khi đã gặp và tin Đức Giê-su, liền đi tìm bạn mình là Na-tha-na-en để chia sẻ niềm tin (x. Ga 1,45); Ma-ri-a Mađalêna sau khi gặp Chúa Phục Sinh cũng vội vã đi tìm các môn đệ và loan báo Tin vui đã gặp Chúa Phục Sinh (x. Ga 20,18); Người phụ nữ Samaria trong Tin Mừng hôm nay sau khi gặp gỡ và tin Đức Giê-su, cũng chạy vội về làng loan báo cho mọi người: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?” (Ga 4,29). Mọi người nghe lời chị kéo nhau đến gặp Đức Giê-su và mời Người vào ở trọ trong làng của họ. Sau khi nghe Người giảng và đã tin Người là Đấng Thiên Sai, họ đã khẳng định niềm tin trưởng thành với chị phụ nữ như sau: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (Ga 4,42).

Trong những ngày Mùa Chay này, mỗi người chúng ta đã gặp gỡ Đức Giê-su bằng việc nghe lời Chúa trong thánh lễ và các buổi tĩnh tâm… Chúng ta một khi gặp được Đức Giê-su là nguồn suối Nước Hằng Sống,và được thỏa mãn cơn khát của tâm hồn, chúng ta cần làm gì để giúp bạn bè và người thân gặp gỡ tin yêu Chúa để cùng chia sẻ niềm vui cứu độ?

  1. THẢO LUẬN:

1) Chúng ta thường mong ước những điều gì và cảm thấy thế nào khi chiếm hữu được chúng ? 2) Bạn có cảm nghĩ gì về Lời Chúa hứa sẽ ban Nước Hằng Sống cho những ai tin và uống nước ân sủng của Người ?

  1. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin hãy biến đổi chúng con trong Mùa Chay này. Xin cho chúng con được gặp Chúa trong thánh lễ, những buổi tĩnh tâm, qua những người nghèo khó cần được sự chăm sóc giúp đỡ… Nhờ đó, chúng con biết rõ con người thật của mình hơn. Xin cho chúng con được uống Nước Hằng Sống là những Lời Chúa phán. Nhờ đó, cuộc đời của chúng con sẽ nên vui tươi hạnh phúc hơn. Xin cho chúng con sẵn sàng bỏ đi cái nhìn hẹp hòi thành kiến về tha nhân, để nên giống Chúa: Quảng đại tha thứ, quên mình phục vụ và luôn đi bước trước đến với tha nhân, như Chúa đã mở lời nói chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri trong Tin Mừng hôm nay.

– LẠY CHÚA. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng: chúng con được Thiên Chúa tạo dựng để qui hướng về Người, nên chúng con vẫn còn khắc khoải mãi, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa. Xin Chúa giúp chúng con năng chạy đến với Chúa và vâng nghe Lời Chúa dạy như Mẹ Ma-ri-a đã nói với các người giúp việc tại tiệc cưới Cana: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5b). Nhờ đó chúng con sẽ trở thành mạch nước đem Chúa đến với mọi người.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

NƯỚC HẰNG SỐNG-

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Chủ đề nước gồm ba đặc tính chính: Nguồn sống – Thanh tẩy – Tái sinh. Nguồn nước ngày nay có một vị thế quan tâm nhiều hơn bao giờ hết vì nhiều vấn nạn do con người gây ra làm ô nhiễm nguồn nước. Nếu nguồn nước ô nhiễm, người ta không dùng vào việc gì được nữa mà còn tốn thêm kinh phí để lọc lại nguồn nước.

Nguồn sống:

Tài nguyên nước đang là vấn đề cấp bách đòi hỏi làm sạch lại nguồn nước. Sự phá hủy của con người tác động vào nguồn nước rất lớn: phá rừng làm nguồn nước ngầm thiếu hụt, có thể gây ra sụt lún. Thủy điện mỗi năm mùa mưa lại đến xã lũ làm tan nát nhà cửa, tàn phá ruộng vườn, mùa khô làm cạn kiệt các dòng sông, khiến ngập mặn các vùng ven biển và có nguy cơ lấn sâu vào đất liền.

Vấn đề rác thải công nghiệp và sinh hoạt làm ô nhiễm nguồn nước trầm trọng, nguy cơ sớm thiếu nguồn nước sạch để sinh tồn.

Nước, mang nguồn sống cho mọi loài và con người. Theo nguồn gốc của nước là ân huệ của trời ban cho thiên nhiên và con người để sinh sôi, nảy nở, phong phú. Ca dao có câu: “Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm, lấy rơm tôi thổi, lấy chổi quét nhà, con gà nhặt thóc…”. Bao nhiêu sự sống đều nhờ nước, vậy mà không biết giữ gìn nguồn nước để sống, khác nào tự đào đất chôn sống mình và con cháu sau này.

Thanh tẩy.

Nước sạch mới có công dụng thanh tẩy. Nước dùng trong bí tích rửa tội, rảy nước thánh thanh tẩy hồn xác. Nước tự nó là biểu tượng của sự thanh khiết, không bợn nhơ. Tự thân nước biểu hiện tính hiền minh, trong suốt, tự do không chịu ràng buộc, từ cao đổ xuống thấp, tạo sự bằng phẳng không hơn không kém, biểu hiện tính mực thước. Mềm mại và đông cứng, biểu hiện tính uyển chuyển và nghiêm khắc. Nước có thể nuôi sống hay giết chết,

Trong Thánh Kinh. Những giếng nước trong hoang mạc, hoặc trong làng, là nơi gặp gỡ, nơi trai gái nảy sinh tình yêu bắt đầu, nơi thông tin mọi chuyện trong nhà ngoài ngõ như chức năng của cái chợ, cái đình. Ông Giacóp về quê hương mình là Pátđan Aram để hỏi vợ. Bên cạnh giếng làng, Ông đã gặp cô Rakhen, con ông Laban, đang múc nước giếng cho đàn vật của cha mình uống. Mối tình đã nảy nở trong cuộc gặp gỡ này. Ông Giacóp đã cưới bà Rakhen làm vợ (x St 29,1-14). Cuộc gặp gỡ nên duyên của ông Môisê (Xh 2, 16 – 22). Giếng nước nơi Thiên Chúa tập họp dân Người: Đây chính là giếng mà Chúa đã nói đến, khi phán với ông Mô-sê: “Hãy tập họp dân lại, và Ta sẽ ban nước cho chúng.” Bấy giờ Ít-ra-en xướng lên bài ca này: “Vọt lên đi nào, mạch giếng ơi! Các bạn hãy ca mừng giếng nước! Giếng xưa kia bậc thủ lãnh đã đào, hàng quyền quý của dân đã khơi bằng phủ việt, bằng quyền trượng các ngài! ” (Ds 21, 17 – 18).

Tại bờ giếng Giacop, Chúa Giêsu gặp người phụ nữ Samaria và nói về nước hằng sống. Nguồn nước từ bên phải đền thờ Edekiel nói đến “Từ bên phải Đền thờ chảy ra” ((Ed 47, 1- 2) chính là nguồn nước từ cạnh sườn Chúa đổ ra (Ga 19, 34) rửa sạch vết nhơ tội lỗi và ban nước trường sinh. Thánh Athanasiô diễn tả: Chúa Cha là nguồn, Chúa Con là dòng sông và có lời phán rằng chúng ta uống Thánh Thần”. Chúa Giêsu nói với người phụ nữ: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Ga 3, 13 – 14).

Tái sinh.

Nước dùng trong bí tích rửa tội mang ý nghĩa của nước tái sinh, theo nghĩa sinh lại trong Chúa Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần để được gia nhập vào gia đình Chúa Cha. Trong câu chuyện với ông Nicôđêmô, Chúa nói: “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí.” (Ga 3, 5).

Rảy nước thánh trên các tín hữu, xưa kia thường rảy trên các tín hữu trước khi cử hành Thánh lễ. Sau này, chỉ rảy trong lễ Vọng Phục Sinh sau khi làm phép nước với ý nghĩa của Thánh Vịnh: “Xin dùng cành hương thảo rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền; xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết.” (Tv 51, 9)

Người tín hữu có một thói quen, nơi nào đặt nước thanh tẩy ở cửa ra vào nhà thờ, họ thường chấm nước rồi làm dấu trước khi vào và ra khỏi nhà thờ. Việc cử hành này nhắc nhở một ý nghĩa, trút bỏ mọi lo âu, phiền muộn, công việc để đến với Chúa với con người hoàn toàn thuộc về Chúa, để sống với Chúa, và khi ra về một lần nữa xin Chúa làm cho bí tích rửa tội được đi vào đời sống, như sứ vụ được trao: Ngôn sứ, tư tế, vương đế.

Giống như người phụ nữ Samaria, chúng con cũng cầu xin Chúa ban cho chúng con nguồn nước hằng sống ấy luôn mãi. Xin cho chúng con biết giữ gìn nguồn nước trong môi trường thiên nhiên, được hưởng suối nước dồi dào ẩn sủng của Chúa thương ban. Và nhắc nhở chúng con sống xứng đáng với bí tích rửa tội mà chúng con đã lãnh nhận.

Về mục lục

.

NƯỚC NƯỚC NƯỚC

Lm Vũ Đình Tường

Nước và sức khoẻ có quan hệ mật thiết. Người mạnh khoẻ uống li nước lạnh khi khát thấy nước ngọt lịm, mát lòng, mát dạ; khi không được khoẻ uống nuớc thấy nhạt nhẽo, không thấy mùi cũng chẳng có vị. Bệnh tật không những làm mất vị giác, còn làm cho ta cảm thấy mất hứng thú trong việc ăn uống. Người phụ nữ thành Samaritanô ra giếng múc nước mỗi ngày. Nơi đây bà gặp Đức Kitô đang ngồi nghỉ nơi bờ giếng trong lúc các môn đệ vào làng mua thực phẩm. Bà rất đỗi kinh ngạc khi Đức Kitô xin bà nước uống. Bà đáp lại với vẻ diễu cợt.

Sao được, ông là người Do Thái mà lại xin tôi nước uống.

Cuộc đàm thoại tiếp tục bà lại đáp với vẻ vừa thắc mắc vừa nghi.

Ông không có gầu múc nuớc, giếng lại sâu làm sao ông có thể cho tôi nước uống.

Đức Kitô tiếp tục nói với bà và bà thay đổi thái độ từ không quan tâm đến có vẻ nghi ngờ và giờ đây bà tỏ ra kính trọng khi nói với Đức Kitô là ‘thưa Ngài’. Ngôn từ thay đổi cho biết thâm tâm bà cũng thay đổi. Mỗi bước đổi thay trong cách đối xử là một biến chuyển nội tâm.Từ chỗ coi Đức Kitô là người xa lạ, đến chấp nhận đàm thoại và biến sang kính trọng ‘thưa Ngài’ rồi đổi sang ‘ông là một tiên tri’. Mỗi bước là một biến chuyển trong tâm hồn, quan trọng nhất khi bà coi Đức Kitô là tiên tri bởi tiên tri là nguời đại diện và phát ngôn cho Đấng Vô Hình. Tiên tri là người chịu nhiều thử thách bởi ngôn từ và lời kêu gọi thống hối, hoán cải, thay đổi lối sống. Tiên tri thường gặp chống đối mãnh liệt từ tấm lòng tự cao, tự đại. Từ đó dẫn đến tìm cách triệt hạ tiên tri, đổ máu người kêu gọi sống công chính. Người phụ nữ thành Samaritanô nhận ra Đức Kitô là phát ngôn cho Đấng Vô Hình nhưng bà không biết Đấng đó sẽ chịu chết đền tội thay nhân loại. Bà thú nhận Ngài là ‘Đấng Cứu thế’ nhưng không biết Đấng đó cứu độ bằng cách nhận chết thay cho nhân loại. Tuyên xưng đức tin xong bà nhanh chân chạy vào làng báo cho mọi người biết có Đấng Cứu Thế đến thăm dân làng. Dân chúng ùa ra gặp Đấng Cứu Thế và sau khi nghe Đức Kitô họ xác nhận. Chúng tôi tin không phải do lời bà nói mà chính tai chúng tôi nghe thấy, mắt chứng kiến và chúng tin Ngài là Đấng Cứu Thế.

Cả hai cùng nói về nước nhưng mỗi người hiểu nước một cách khác nhau. Bà nói về nước cần thiết cho cuộc sống trần gian, Đức Kitô nói về nước cần thiết cho cuộc sống thiên quốc. Nước thiên nhiên mang sức sống cho cơ thể; nước hằng sống mang sự sống trường sinh cho tâm hồn. Nước thiên nhiên đến từ lòng đất; nước hằng sống đến từ lòng con người. Nước thiên nhiên đến từ bên ngoài; nước hằng sống có nguồn sống từ nội tâm. Nước thiên nhiên mang niềm vui cho chính mình; nước hằng sống là nguồn hoan lạc cho tha nhân và mình là một thành phần trong đó. Nước hằng sống ban cho nhờ sức mạnh của Thánh Thần Chúa.

Cuộc đàm thoại giữa Đức Kitô và người phụ nữ cho biết Đức Kitô đã phá một số rào cản của xã hội thời đó. Thứ nhất là phụ nữ và đàn ông không đàm thoại nơi công cộng, nhất lại là bờ giếng là nơi phụ nữ trong làng ra kéo nước. Thứ hai người đàn ông đó lại là người xa lạ. Kế đến người Do Thái không xã giao với người ngoài tôn giáo của họ. Hơn nữa người phụ nữ bên bờ giếng lại là người nổi tiếng trong làng về tư cách của cô ta nên ai đó liên hệ với cô đều bị người khác coi thường, khinh miệt. Chính vì thế mà cô lựa lúc trời nóng bức, lút vắng người ra kín nước giếng để lấy nước.Đức Kitô đã làm việc đó và chính người phụ cũng ngạc nhiên và các môn đệ Ngài nhìn thấy cũng nhột nhạt. Người phụ nữ cũng tỏ ra có một ít kiến thức về tôn giáo. Hoặc cũng có thể cô ta đang tìm kiếm hướng đi cho cuộc sống tâm linh và cô gặp Đức Kitô soi sáng. Tội lỗi làm lu mờ tâm trí và ảnh hưởng đến việc chọn lựa cho tâm linh. Đức Kitô đã khai sáng cho cô từng bước một cho đến khi cô trở thành môn đệ Chúa.

Chân thành lắng nghe lời Đức Kitô dẫn đến nhận biết Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng đến mang nuớc hằng sống cho nhân loại. Đối thoại với Đức Kitô bà học biết về cuộc đời mình và việc đã làm nên bà tự thú ‘Ngài đã nói cho tôi biết các việc tôi từng làm’. và cô trở thành môn đệ Đức Kitô.

Về mục lục

.

KHÁT

Lm. Trịnh Ngọc Danh 

Nơi con người, có sự sống thân xác và sự sống tâm linh. Nước là nhu cầu không thể thiếu đối với thân xác thì nước cũng rất cần cho đời sống tâm linh. Cả hai đều chết vì khát. Sự sống tâm linh sẽ chết khi khát đức tin, khát ân huệ của Thiên Chúa. Cái khát ấy sẽ đưa con người đến sự hủy diệt muôn đời.  

Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari bên giếng nước Giacóp đã đánh dấu một cuộc biến đổi. Đức Giêsu là người trước tiên xóa bỏ ranh giới ngăn cách giữa người  Do Thái và người Samari.Từ nước ở giếng Giacóp, Ngài đã đưa người phụ nữ đến cơn khát tinh thần: “ Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: Cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin và người ấy ban cho chị nước hằng sống.” Nước hằng sống là mạch nước mà ai uống, sẽ không bao giờ khát nữa, và nước ấy sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời.Đức tin là nguồn nước hằng sống.Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma đã viết:“Một khi đã được nên công chính  nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.”Đó là nguồn nước hằng sống. 

Khi đã cho người phụ nữ Samari biết mình là ai, Đức Giêsu  hướng tâm hồn chị  đến việc phải thờ phương Chúa Cha trong thần khí và sự thật, chứ không phải khép kín trên núi hay tại Giêrusalem. Người phụ nữ Samari đã trở về với cõi lòng mình để biến đổi cuộc đời. 

Cha Doyle, một Linh mục dòng Tên, người Ailen, nổi tiếng thánh thiện và hay giúp đỡ người khác. Một buổi tối, sau khi giảng một bài về sự truyền giáo, ngài đi ra đường và gặp một thiếu nữ. Ngài dịu dàng nói với cô: “ Con ạ, trời đã khuya. Con chưa về nhà sao? Đừng làm Chúa đau khổ. Ngài yêu con.” 

Năm tháng trôi qua. Vào một đêm nọ, có điện thoại của bề trên sai ngài đi Dublin ngay lập tức để gặp một người nữ tù sắp bị hành hình vào sáng mai, vì người phụ nữ ấy yêu cầu được gặp ngài.Người nữ tù ấy là cô Fanny Cranbush, đã bị kết án cộng tác với kẻ khác để đầu độc nhiều người. Vừa thấy linh mục, cô quỳ gối và nói: “Thưa cha, cảm ơn Chúa vì cha đã đên đây.” Linh mục ngạc nhiên hỏi: “ Nhưng con ạ, cha chưa biết con. Con cần gì?” Cô ta đáp lại: “ Cha không nhớ con sao? Hai năm trước đây, cha đã gặp con trên đường phố Yarmouth vào một đêm tối. Cha đã nói với con: “ Con ạ, trời đã khuya. Con chưa về nhà sao? Đừng làm Chúa đau khổ. Ngài yêu con.” Chúa là ai? Con chưa biết. Con chưa bao giờ cầu nguyện và chưa được rửa tội. Nhiều tuần lễ, con muốn tránh xa con đường tội lỗi; nhưng vì cái đói, mỗi ngày con càng lún sâu trong tội lỗi đến độ giờ đây con sắp bị treo cổ. Con đã tuyệt vọng. Nhớ lại lời cha đã nói, con khóc và muốn được gặp cha để nghe cha nói về Chúa Giêsu. 

Cha dạy giáo lý cho cô với thời gian cho phép, trước khi rửa tội cho cô. Cha lập một bàn thờ trong nhà giam, dâng Thánh Lễ và cho cô rước  lễ lần đầu cũng là lần cuối. Trên đường đi xử, cô thì thầm: “ Thưa cha, con thật hạnh phúc. Chúa Giêsu biết con ăn năn hối lỗi vì đã xúc phạm đến Ngài. Con tin Chúa Giêsu hằng yêu mến con. Amen.”

Thiên Chúa là Tình yêu. Ngài luôn yêu thương chúng ta ngay cả khi chúng ta đang ở trong tình trạng tội lỗi. Khi dân Do Thái xuất hành qua sa mạc, bất chấp sự vô ôn ơn hay lời oán trách của họ,Thiên Chúa đã không từ bỏ dân của Ngài; nhưng qua Môsê, Ngài đã cung cấp nước cho họ. Thánh Phaolô cũng đã khẳng định trong thư gữi tín hữu Rôma: “ Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.”

Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari bên giếng nước Giacóp đã chứng minh chân lý ấy.

Về mục lục

.

-CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY_A

Lm. Antôn

Một học sinh về nhà sau lớp giáo lý và người mẹ hỏi em đã học gì trong lớp giáo lý hôm nay.  Cậu trả lời với mẹ cả buổi học hôm nay học về ông Mô-sê và về việc Thiên Chúa sai ông xâm nhập hậu cần của quân thù để giải thoát Dân Chúa đang bị nô lệ bên Ai cập.  Cậu bé nói tiếp: “Giáo lý viên nói với chúng con rằng ông Mô-sê đã dẫn dân chúng tiến xa tới Biển Đỏ, rồi ông đã sai các kỹ sư xây một cầu nổi để tất cả dân chúng có thể đi qua biển an toàn.  Sau khi tất cả dân đã đi qua, ông đã dùng chất nổ phá sập cầu để quân đội Ai cập không thể đuổi theo dân Do thái.  Sau đó tất cả dân chúng đã đi qua sa mạc và vui mừng đến Đất Hứa an toàn.  Người mẹ của cậu bé ngạc nhiên hỏi: “Con!  Có phải giáo lý viên thật sự dạy con như vậy không?”  “Không phải như vậy đâu mẹ.”  Cậu bé trai trả lời. “Nhưng nếu con thưa với mẹ câu chuyện y như giáo lý viên đã nói với chúng con trong lớp thì con biết mẹ sẽ không thể nào tin được.”

Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta nhận biết thực sự phải có một niềm tin vững chắc thì chúng ta mới hoàn toàn xác tín vào những phép lạ trong Kinh thánh.  Hôm nay trong bài đọc 1 chúng ta nghe phép lạ Thiên Chúa làm cho nước tuôn ra từ tảng đá cho dân chúng uống để khỏi bị chết khát nơi sa mạc trong cuộc hành trình về Đất Hứa.  Và trong bài Tin mừng, qua một lối diễn tả kỳ diệu, thánh Gioan đã cho chúng ta biết về Chúa Giê-su, Người sẵn sàng cung cấp cho chúng ta nước hằng sống nếu chúng ta thật sự tin vào Người. 

Bài Tin mừng hôm nay rất phong phú, có nhiều chi tiết và tôi có thể dùng 20 hay 30 phút để nói về những điểm này, nhưng tôi không bắt ông bà anh chị em phải nghe bài giảng 30 phút trong giấc ngủ!  Nhưng có mấy điểm quan trọng mà chúng ta cần phải chú ý đến.  Điểm quan trọng thứ nhất là nước và cũng là chủ đề chính của bài Tin mừng.  Chúa Giê-su xin nước và sau đó đã ban tặng người đàn bà xứ Samaria nước hằng sống. Dĩ nhiên vào thời đó dân chúng không có nguồn cung cấp nước tại nhà như hiện nay, cho nên mọi người phải ra giếng gần đó để múc nước về nhà.  Chúng ta nhận biết người đàn bà giải thích câu nước hằng sống có nghĩa là chỗ phun nước hay suối nước, và không có một ý nghĩ gì về nước hằng sống mà Chúa đề cập đến dẫn đến sự sống đời đời. Chúng ta biết nước là nhu cầu thiết yếu cho sự sống, cho nên sự sống của con người tùy thuộc vào nước, và có nước mới có sự sống.  Tin tức gần đây cho biết có dấu hiệu nước ở hành tinh Mars, và nếu chứng minh hay tìm ra được sự hiện diện của nước ở hành tin này thì sự sống đã có thể hiện hữu trước đó ở đây.  Cũng giống như vậy, đời sống Ki-tô hữu và những ân sủng của Chúa bắt đầu từ nước, nước của Bí tích Thanh tẩy hay Rửa tội.  Và đời sống Ki-tô hữu cần phải được tiếp tục tưới bằng Nước Hằng Sống là Chúa Giê-su Ki-tô.

Điểm quan trọng thứ hai của bài Tin mừng mà chúng ta có thể nhận ra được đó là tiến trình nhận biết ra Chúa một cách đầy đủ và sâu sa hơn. Chúng ta thấy lúc đầu trong khi thưa chuyện với Chúa người đàn bà Samaria ngoại giáo dùng chữ “ông” một cách lịch sự để đàm thoại.  Sau khi nhận ra Chúa là một ngôn sứ, bà đã dùng từ “Ngài” để xưng hô với Chúa, cuối cùng bà đã nhận ra chính Chúa là Đức Ki-tô, có nghĩa là Messia, Đấng Thiên Sai.  Trong niềm hân hoan vui sướng, bà đã quên lấy nước và chạy vào làng báo tin cho mọi người biết.  Chúng ta thấy những người trong làng đã nhìn nhận ra Chúa Giê-su không phải chỉ là Đấng Thiên Sai cho người Do thái, mà còn là Đấng Thiên Sai cho mọi người.

Một sự kiện đáng cho chúng ta chú ý là sau sự phục sinh của Chúa và sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ Ngũ tuần trên các tông đồ, người Samaria dễ tiếp nhận lời giảng dạy của các tông đồ hơn những người khác.  Giả sử sự kiện diễn tả trong bài Tin mừng hôm nay báo trước cho sự biến đổi và tin vào lời Chúa của họ sau này.  Tiến trình từ từ nhận ra Chúa Giê-su một cách hoàn toàn và sâu sa hơn của người đàn bà Samaria ngoại giáo này cũng là tiến trình đức tin trong suốt cuộc đời của mỗi Ki-tô hữu chúng ta, từ lúc lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy cho đến ngày chúng ta thực sự đứng trước mặt Chúa.  Mỗi ngày đức tin của chúng ta phải triển nở và lớn mạnh hơn nhờ được kết hợp mật thiết với Chúa Ki-tô, Nước Hằng Sống.

     Ông bà anh chị em thân mến.  Những điểm nêu ra trên đây như nước và tiến trình đức tin là những điều rất quan trọng chứa đựng trong bài Tin mừng hôm nay.  Nhưng tất cả đều xảy ra bắt đầu bằng một cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa người đàn bà với Chúa, và đây chính là điểm gây ấn tượng và có thể nói là quan trọng nhất.  Chúng ta sẽ không bao giờ biết Chúa hay được kết hợp mật thiết với Chúa nếu chúng ta không hy sinh thời giờ để gặp gỡ và nói chuyện với Chúa. Chúa sẽ không hiện đến qua những tia hào quang rạng rỡ hay qua những tia sấm chớp lòe sáng, nhưng Chúa đến qua những phương cách rất thông thường qua hình dáng của một người bạn, có khi ngay cả qua một người đối nghịch với chúng ta, hay trong những  chữ, những lời của một cuốn sách, đặc biệt là những chữ, những lời trong cuốn sách mà chúng ta gọi là Kinh Thánh.  Chúa hiện diện trong đám đông, trong cộng đồng của những người có đức tin, như trong những buổi làm lá hiện nay trong giáo xứ, hay trong những sự vật đơn giản như nước, cơm, bánh và rượu.  Chúng ta phải nhận biết, xác tín và yêu mến Chúa, thì mới nhận ra nước, cơm, bánh và rượu là tình yêu, là ân sủng Chúa ban cho chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải hy sinh thời giờ để lắng nghe, để đáp trả, để trả lời hay để nói chuyện, tâm sự, đàm thoại, để làm một cái gì đó sâu sa hơn là chỉ nói với Chúa những điều chúng ta muốn Chúa làm hay ban cho chúng ta.  Chúng ta sẽ không bao giờ biết đến người nào đó nếu chúng ta không dành thời gian và nói chuyện với họ. Nếu chúng ta nghĩ rằng Chúa là người rất quan trọng và chúng ta cần đến Chúa thì chúng ta phải dành thời giờ nói chuyện, tâm sự với Chúa.

Ước gì tất cả chúng ta trong mùa Chay Thánh này biết dành cho Chúa, biết hy sinh thời giờ để tâm sự, nói chuyện với Chúa, để chúng ta biết Chúa một cách sâu sa hơn, để đức tin của chúng ta vững mạnh hơn và yêu mến Chúa tha thiết hơn, trở thành những chứng nhân cho Chúa như người đàn bà trong bài Tin mừng hôm nay.

Về mục lục

.