Lời Chúa Năm C Các Bài suy niệm Chúa Nhật 25 Thường niên _C

Các Bài suy niệm Chúa Nhật 25 Thường niên _C

CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN_C 

Lời Chúa: Am 8, 4-7; 1Tm 2, 1-8; Lc 16, 1-13

——-

Mục lục

1. Khó nghèo đích thực  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Sống ơn ban  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

3. Tiền là ma là quỷ  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Ngày kết sổ đời  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

5. Con đường nhỏ của sự trung tín (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)

6. Khôn khéo và nhanh lẹ  (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)

7. Sức mạnh của đồng tiền  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

8. Tính sổ  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

9. Thái độ của con người trước tiền của (Lm. Giuse Lê Danh Tường)

10. Khôn khéo để sống (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

11. Chuyển đổi của cải phù du thành kho tàng vĩnh cửu (Lm. InhaxioTrần Ngà)

12. Con cái sự sáng  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

13. Công bằng xã hội  (Lm. Trần Bình Trọng)

14. Phản bội  (Lm. Bùi Quang Tuấn)

15. Không ai có thể làm tôi hai chủ (Lm. Cao Tấn Tĩnh)

16. Không thể làm tôi hai chủ  (Lm. Nguyễn Tiến Huân)

17. Có tiền, hãy đem sử dụng  (Lm. G. Nguyễn Cao Luật)

18. Tiền bạc  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)

19. Tiền bạc đối với người Kitô hữu (P. Trần Đình Phan Tiến)

20. Gía trị đồng tiền (Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)

21. Quản lý khôn khéo (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

22. Tích trữ của cải thiêng liêng (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

23. Dùng tiền mua bạn (Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)

24. Chúa Nhật 25 Thường niên. Năm C  (Lm. Antôn)

25. Người quản lý bất lương  (Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)

26. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 25 TN_C (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

27. Mưu mẹo  (Trầm Thiên Thu)

28. Của cải hay thần tài (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

29.  MONG MANH PHẬN NGƯỜI ( Lm. Giuse Dương Đức Hưng)

 

 

Mục lục

1. Ma lực của tiền bạc  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)

2. Người quản lý khôn ngoan và trung thành  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Căn bệnh nguy hiểm (Gm. Giuse Vũ Duy Thống)

4. Chỉ chữa một mắt  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5. Không ai có thể được cứu độ nhờ tiền (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

6. Nước Trời hay tiền bạc? (Lm. JB. Trần Văn Hào, SDB)

7. Tiền của bất chính vs. của cải chân thật  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

8. Đất càng phì nhiêu, tượng thần càng nhiều (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

9. Chọn lựa  (Trầm Thiên Thu) 

10. Dùng của cải phù du để mua một chỗ ở vững bền (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

11. Khôn ngoan của con cái sự sáng  (Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh)

12. Khôn ngoan đích thực  (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)

13. Khôn dại cõi tạm  (AM. Trần Bình An)

14. Sử dụng tiền bạc cho đúng  (An Phong)

15. Hãy biết lo cho tương lai  (Joc. Vinc. Ngọc Biển)

16. Biết để sống   (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

17. Người quản gia bất lương  (Lm. Giacôbê Tạ Chúc)

18. Bảo vệ sự sống (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

19. Bất lương hay khôn khéo?  (JM. Lam Thy, ĐVD)

20. Mình biết phải làm gì rồi? (Lm. Uyen Nguyen)

21. Là con cái ánh sáng (Lm. Giuse Nguyễn)

22. Hãy là quản gia trung tín và khôn ngoan  (Dã Quỳ)

23. Luôn biết khôn ngoan chuẩn bị cho tương lai (Lm. Đan Vinh)

24. Chúa Nhật 25 Thường niên_C  (Lm. Antôn)

 

KHÓ NGHÈO ĐÍCH THỰC

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Những lời lên án gay gắt của ngôn sứ Amốt rất hợp với xã hội hôm nay, bởi trong bối cảnh “nền kinh tế thị trường”, người ta có khuynh hướng biến mọi sự thành hàng hóa trao đổi. Hậu quả là ngày càng có nhiều những nhà đầu tư chỉ lo kiếm sao cho có nhiều lợi nhuận; những cha mẹ chỉ lo làm giàu mà quên trách nhiệm với gia đình; những tín hữu vì lợi lộc vật chất không ngần ngại vi phạm luật Chúa; những người bạn bè hay họ hàng thân thuộc vì tiền mà coi nhau như kẻ thù. Vì lợi lộc vật chất, người ta không trừ một thủ đoạn nào. Ngôn sứ A-mốt nêu ra những thủ đoạn gian lận như làm cho chiếc đấu nhỏ lại, quả cân nặng thêm, pha trộn thóc tốt với thóc mục để bán cho người nghèo… Những thủ đoạn ấy vẫn đang tồn tại trong xã hội hôm nay, thậm chí còn nghiêm trọng hơn.

Lợi lộc vật chất khiến cho lương tâm ra tối tăm. Đó cũng là lý do khiến con người coi thường đạo lý và tiếng nói của lương tâm. Người tín hữu được mời gọi biết dùng của cải cho hợp lý. Lời Chúa giúp cho chúng ta “nghèo mà không hèn”, “giàu mà không sang”.

Một hiện tượng xã hội khá phổ biến hiện nay là sự lãng phí. Người giàu lãng phí, mà người nghèo cũng lãng phí. Người ta lãng phí thời gian, lãng phí vật chất và lãng phí cả sức khỏe và mạng sống. Tại các quốc gia phát triển, mỗi ngày đều có một khối lượng lớn thực phẩm bị đem đi hủy vì hết hạn sử dụng, trong khi ở các nước nghèo, biết bao người lớn và trẻ em không đủ chất dinh dưỡng để có một cuộc sống bình thường. Đức Thánh Cha Phanxicô, vị Giáo Hoàng của người nghèo, đã khẳng định: “Lương thực để lãng phí là lương thực ăn cắp của người nghèo” (Huấn từ nhân Ngày Quốc tế về môi trường, 5-6-2013). Có thể chúng ta lập luận: “Của cải tôi làm ra, hoặc tôi mất tiền để mua sắm, tôi có quyền lãng phí!”. Nói như thế, là chúng ta quên rằng, người sở hữu đích thực mọi của cải là Thiên Chúa, chúng ta chỉ là người được Chúa trao cho quản lý. Người quản lý trong lãnh vực nào cũng phải trung thành và tận tâm lo cho việc sử dụng của cải đúng mục đích, tiết kiệm, có ý nghĩa và sinh ích lợi cho mọi người.

Chúa Giêsu kêu gọi những ai muốn theo Người hãy sống khó nghèo. Khái niệm “khó nghèo” thường hay bị hiểu sai. Vị Đáng kính, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận giải thích với chúng ta: “Khó nghèo không phải là không có của: đó là khốn khổ, thiếu thốn. Khó nghèo trước tiên là tập trung của cho đúng. Một cốc cà phê, một cốc bia! Nhưng cũng là một cốc mồ hôi, một cốc nước mắt, một cốc máu đổi lấy nó. Một khói thuốc, nhưng cũng là một hơi thở hổn hển của người lao động vô danh” (Đường Hy Vọng 412). Như thế, khó nghèo là sự trân trọng với tất cả những gì chúng ta đang có, đang sử dụng và cố gắng để đừng lãng phí chúng. Đức Hồng Y kết luận: “Không có của mà tham lam vẫn chưa phải là thanh bần; có của mà không dính bén vẫn có thể ‘có lòng khó khăn’ thực sự” (ĐHV 411).

Khó nghèo đích thực còn là khả năng và thiện chí dùng của cải của mình để xây tình liên đới và nối tình đệ huynh, góp phần xây dựng một xã hội an bình. Nhân vật người quản lý trong Tin Mừng hôm nay được chính Chúa Giêsu gán cho một tính từ là “bất lương”. Như thế, anh không thể làm mẫu mực cho chúng ta trong việc quản trị tài sản được. Chúng ta không thể hiểu đúng giáo huấn của Chúa, khi chỉ trích dẫn một câu hay một đoạn Tin Mừng, nhưng cần liên kết với toàn thể để tìm ra ý nghĩa sứ điệp mà câu chuyện muốn diễn tả. Chắc chắn Chúa không không muốn chúng ta mưu mẹo gian lận như người quản lý bất lương này. Điều Chúa dạy ta là hãy dùng những của cải mình có mà giúp đỡ anh em, bởi lẽ sự giàu nghèo chỉ nhất thời, tình huynh đệ mới tồn tại mãi mãi. Giúp người khác khi mình thịnh vượng chính là của để dành phòng khi mình sa cơ lỡ vận thì có người giúp đỡ lại mình. Khi nhắm mắt xuôi tay, để lại của cải chẳng giá trị bằng để lại tình thân nghĩa. Bởi lẽ của cải chỉ một ít người được hưởng, còn tình thân nghĩa thì lưu danh rộng khắp và lâu dài.

Thiên Chúa là Đấng Cứu độ chúng ta. Ngài cũng là Chủ tể của lịch sử và là Đấng sáng tạo muôn loài. Những quyền hành nơi trần gian từ bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải phục quyền Ngài, vì Ngài là Đấng tối cao. Vì vậy, từ bậc vua chúa đến những người bình dân, ai nấy đều phải sống thánh thiện ngay thẳng. Như thế, họ sẽ đẹp lòng Chúa và được Ngài ban ơn (Bài đọc II).

“Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ”. Thiên Chúa là đấng độc tôn, có nghĩa là ta chỉ được thờ một mình Ngài. Không được phép đặt Thiên Chúa ngang hàng với của cải vật chất hay bất cứ thần linh nào. Sự trung tín trong việc phụng thờ Chúa là nét riêng của Do Thái giáo và cũng là của Kitô giáo chúng ta. Sự khó nghèo đích thực còn là tâm tình cậy trông và phó thác nơi Chúa, luôn luôn cảm thấy cần có sự che chở của Ngài. Nếu một giây phút ta bị Thiên Chúa lãng quên, thì ta sẽ không còn hiện hữu trên cõi đời. Nhờ sự hiện diện của Chúa, ta thấy cuộc đời có ý nghĩa và ta được đong đầy niềm vui.

Về mục lục

.

SỐNG ƠN BAN

Lm. Jos. DĐH.

Chuẩn mực của xã hội là làm gì để đạo tạo những con người vừa tài vừa đức, làm cách nào mà xây dựng một đất nước văn minh hiện đại, người người, nhà nhà, được sống trong yêu thương, bình đẳng, giầu mạnh cả tinh thần lẫn vật chất ? Thách thức lớn của bậc lãnh đạo không phải chỉ là tiền, quyền, mà còn là tính hợp lý khi sắp đặt, phân chia, đúng vị trí công tác kẻ được giao, người được nhận. Nhờ có bằng cấp, nhiều người được cơ cấu vào sứ vụ quan trọng ; nhờ kiến thức, kinh nghiệm được tích luỹ, cũng không ít người tự tin trong chức quyền đang nắm giữ, sát với câu thành ngữ: có thực mới vực được đạo. Đất mầu mỡ, trời mưa thuận, tình người được giao hoà trổ sinh ơn phúc.

Cọp chết để da, người chết để tiếng, muôn dân thiên hạ tồn tại nhờ bởi tình yêu thương, con cháu thành danh, thành tài, không thể thiếu vắng phúc lộc tổ tiên. Giáo huấn “khôn ngoan và trung tín” của Chúa Giêsu, luôn xác thực cho mọi đối tượng, khi mà người người ý thức việc sử dụng ơn ban để sống, để phát huy tình đồng loại cách hữu hiệu nhất. Khó khăn ở đời này ai cũng có, mơ ước được hạnh phúc thì ai chẳng đầy dư, quá khứ có thể chỉ là giấc mơ, tương lai lẽ nào là ảo tưởng, vậy thì hiện tại phải quan trọng, phải là cơ hội quyết định cho những ai đang muốn sống một cuộc sống có ý nghĩa. Đói nghèo cần được ấm no, ưu tư cần được giải thoát, tật bệnh sẽ mau được chữa lành, và bình an hạnh phúc thật sẽ không còn nằm trên lý thuyết nữa. Tất cả tuỳ thuộc vào niềm tín thác rất thiêng liêng và ý chí quyết tâm của ta.

Xác định mục tiêu ở đời là phải khôn ngoan, biết sử dụng lợi thế của mình, và nhanh chóng hành động có lý, có tình, nhất định là ưu tiên số một, không thể chậm trễ. Câu chuyện dụ ngôn về người quản lý bất trung năm xưa mà Chúa Giêsu kể, sẽ vẫn mãi là bài học căn bản, nhằm giúp ta chớ ảo tưởng “mình” là ông chủ. Sông có khúc, người có lúc, sống phải có tình, cư xử phải có nghĩa, vì “tôi” chỉ là quản lý ; “ông chủ” nhất định phải biết tôi đang trung tín ở mức độ nào. Tính nhạy bén của người quản lý khôn ngoan là biết xoay sở, kết quả làm việc tốt hay xấu bao giờ chẳng phơi bày khi đến giờ “chủ nhân” ấn nút gọi tính sổ. Bắn súng không nên phải đền đạn, hình phạt hay phần thưởng, vẫn mãi là ưu tư của người quản lý: mất chức, mất quyền, là lo lắng tự nhiên, nhưng điều khiếp sợ hơn là sợ bị cô đơn, là sợ không được đón tiếp ở tận cùng đầu cầu bên kia cuộc sống.

Nhiều người, nhiều thế hệ chúng ta đã đọc được câu tục ngữ: đời này ai dại ai khôn, sống mặc áo rách, chết chôn áo lành. Nhìn xa một chút, ta có thế thấy không ít những người đang đánh lừa cảm giác “sống vô tư”: làm hết sức, ăn nhậu nhiệt tình, và cư xử với anh em bạn hữu như chỉ có ngày hôm nay, mai tận thế ! Trong khi đó, cũng không thiếu những “đại gia hão”, lầm tưởng mình đại đức từ bi: lúc sống thì chẳng cho ăn, đến khi đã chết làm văn tế ruồi ! Chúa Giêsu thật chí lý khi đưa ra những lý lẽ làm thước đó cho hành động sống ân tình, ân nghĩa, của mỗi người: “Tôi nghe nói anh sao đó ? Hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay, anh không thể làm quản lý nữa”. Sống trên đời với ý tưởng khôn ngoan: mưu cầu hạnh phúc thì đúng, song “hiếu thảo” sai chỗ, rộng rãi hào phóng, thiếu phù hợp, cũng chỉ làm trò hề cho thiên hạ chê cười mà thôi. Đức Giêsu không khen, không chê, người giầu kẻ nghèo, nhưng Ngài có ý nhắc nhớ: người quản lý phải biết thế nào là trung tín, khôn ngoan, và biết sẽ có ngày ông chủ gọi mình tính sổ.

Hoàn cảnh, điều kiện, chắc chắn mỗi người mỗi khác, còn nhu cầu được an bình vinh phúc, ai ai cũng thao thức giống nhau. Tiềm ẩn trong ước muốn sâu xa, nếu mỗi người có tìm hiểu, khám phá, hẳn sẽ thấy ơn ban rất phong phú, hay còn gọi là hồng ân khá nhiệm mầu. Người tài giỏi, người giầu có, người chức quyền, tất cả đều hướng tới sự sống, đôi khi trực tiếp, gián tiếp, Đấng mà người ta gọi là Ông Trời, là Thiên Chúa, đang kêu gọi chúng ta bổ túc, giúp nhau sống đẹp, sống tốt, và giúp nhau cùng tiến tới hạnh phúc đời đời. Với niềm tin kitô giáo, tình yêu và hạnh phúc thật, chỉ xảy ra khi ta biết sử dụng nén bạc Chúa trao cách xứng hợp, gọi là trung tín, khôn ngoan, nếu không chỉ là hạnh phúc giả, là tên giầu có khờ dại. “Ai trung tín trong việc nhỏ, người ấy sẽ trung tín trong việc lớn”. Sử dụng tài trí thông minh, sống ơn ban thật nghiêm túc, chính là câu trả lời: “hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời”. Amen.

Về mục lục

.

TIỀN LÀ MA LÀ QUỶ

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Người ta nói:“Đồng tiền là Tiên là Phật”. Nhưng có thật, nhờ có tiền mà họ thành BỒ TÁT cứu đời hay không? Thực tế, vì tiền mà người ta xấu đi rất nhiều !Đồng tiền đã làm biến chất một con người. Từ hiền ra dữ. Từ ngay thẳng ra lừa dối gian tham. Từ con người nết na thuỳ mị, trở thành kẻ sa đoạ, trụy lạc. Xem ra đồng tiền là nguyên do đưa đến những tiêu cực. Xem ra đồng tiền đã làm “hư bột, hư hồ”. Xem ra không thể gọi đồng tiền là Tiên là Phật được, mà phải gọi là Ma, là Qủy. Tiên, Phật theo dân gian là luôn dạy người ta ăn ngay ở lành. Tiên-Phật luôn giúp con người hướng về thiện, luôn gìn giữ, bảo vệ những nét đẹp của con người và thiên nhiên. Tiên Phật đâu khiến con người gian tham, lừa đảo. Chỉ có ma qủy mới làm biến chất con người. Chỉ có ma qủy mới làm cho con người tha hoá đạo đức. Chỉ có ma qủy mới làm băng hoại những thuần phong mỹ tục, những nét đẹp cao qúy của biết bao nền văn hoá nơi các dân tộc.

Thời xưa, tiên tri Amos đã đau lòng khi nhìn thấy con người đang đầy đoạ lẫn nhau chỉ vì tiền. Có quá nhiều kẻ tham lam nên đã dùng quyền để đàn áp và bóc lột người khác. Có quá nhiều kẻ chỉ vì tiền mà chà đạp lên nhân phẩm của người khác. Họ coi mạng người chỉ là đồ vật  để mua bán trao đổi. Có quá nhiều kẻ vì ham tiền nên đã đang tâm buôn gian bán thiếu để vun quén cho đầy túi tham. Nhà tiên tri đã nói với họ rằng:  “Hãy nghe đây, hỡi những kẻ đàn áp người nghèo và muốn tiêu diệt những ai bần cùng. Các ngươi tự nhủ: ‘Bao giờ mới hết tuần trăng để chúng tôi buôn bán? Khi nào mới qua ngày nghỉ lễ để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lượng đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi người túng thiếu…’ Và Chúa đã thề rằng: ‘Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng”. (Am 8:4-7).

Lời cảnh tỉnh của tiên tri Amos xem ra vẫn là lời nhắc nhở cho con ngừơi hôm nay. Bởi vì vẫn còn đó những kẻ lợi dụng sự khó khăn túng thiếu của người khác để chèn ép, tước đoạt, để cho vay nặng lãi và làm giàu. Vẫn còn đó những kẻ bỏ lễ, bỏ đạo để làm tôi cho ma qủy, mong được hưởng những bổng lộc trần gian mau qua. Vẫn còn đó những kẻ chuyên gian dối, lọc lừa, đổi giá, tráo hàng để thu lợi. Vẫn còn đó những kẻ buônthần bán thánh nhân danh nhân nghĩa để biển thủ tư lợi riêng. Đồng tiền đã và đang làm cho xã hội điêu đứng, cho tình con người trở thành thứ yếu vì “tiền là trên hết”.

Lời Chúa hôm nay, phải là lời cảnh tỉnh cho mỗi người chúng ta: Hỡi những kẻ quản lý của Thiên Chúa. Chúa đã yêu thuơng và tin tưởng giao cho chúng ta quá nhiều gia sản của Ngài. Ngài trao cho chúng ta quản lý tiền của, thời giờ và tài năng. Tất cả những  gì chúng ta có đều là hồng ân Chúa ban. Đó là những nén bạc mà Chúa bảo chúng ta phải sinh lời cho Chúa. Chúa bảo chúng ta phải sử dụng theo ý Chúa. Là người quản lý, không chỉ có bổn phận gìn giữ, sinh lời mà còn biết ban phát theo ý Chúa. Chúa tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Chúa để chúng ta tiếp tục thay Ngài làm cho tha nhân được hạnh phúc, làm cho tình yêu và lòng đại lượng của Ngài trải rộng tới muôn nơi. Như vậy, người quản lý làbiết dùng khả năng Chúa ban để phục vụ anh em của mình, chứ không phải để vun quén cho bản thân.

Trong chuyện  cổ Trung Hoa có câu chuyện kể rằng: Mạnh Thường Quân là người rất giàu có, tiền bạc dư thừa nên cho người ta vay mượn rất nhiều. Một hôm, ông sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ. Lúc sắp đi, Phùng Huyên hỏi:
– Tiền nợ thu được, ngài định mua gì không?

Mạnh Thường Quân đáp:

– Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu gì thì mua.

Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên gọi dân lại và bảo:

– Công nợ của các ngươi bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả.

Nói xong, ông thu các văn tự lại và đốt đi hết.

Lúc về, Phùng Nguyên thưa với Mạnh Thường Quân:

– Nhà của tướng công châu báu đầy kho, gia súc đầy chuồng, tôi tớ đầy nhà, không còn thiếu thứ gì, ngoại trừ “ân nghĩa”. Vì thế, tôi trộm phép tướng công mà mua về.

Mạnh Thường Quân nghe nói thế, tuy không hài lòng lắm, nhưng cũng không quan tâm nhiều, vì tiền bạc châu báu trong nhà đều dư thừa cả.

Ít năm sau, Mạnh Thường Quân bị bãi nhiệm phải trở về sống ở đất Tiết. Dân đất Tiết nhớ lại ơn xưa nghĩa cũ, họ ra đón đầy dường. Thấy vậy, ông liền ngoảnh lại bảo Phùng Huyên:
– Trước kia tiên sinh vì ta mà mua “ân nghĩa”. “Ân nghĩa” đó giờ ta đã thấy.

Hômnay Chúa Giê-su cũng đang nói với chúng ta:“Thầy bảo cho anh em biết: Hãy dùng tiền bạc bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu” (Lc 16, 9).

Xin cho chúng ta biết sử dụng những ân huệ Chúa ban là tiền bạc, thời giờ và khả năng để mua lấy bạn hữu nước trời ngõ hầu, mai sau, chính họ, những con người đã được chúng ta trao ban giúp đỡ sẽ đón chào chúng ta ở trên quê trời. Amen

Về mục lục

.

NGÀY KẾT SỔ ĐỜI

Lm. Giuse Hoàng Kim Toan

Có lẽ ngày kết sổ đời là ngày sợ hãi đối với con người. Ngày ấy cũng giống như ngày Jom Kepper (Ngày xá tội) của người Do Thái hăng năm vẫn thực hành để sám hối. Có lẽ ngày kết sổ, người quản lý bất lương này cũng liên quan cách giải quyết theo tính toán người đời mà không theo ý muốn của Thiên Chúa.

Ngày Jom Kepper (Ngày Lễ Xá Tội):

Ngày lễ xá tội được ghi trong sách Lêvi, được ghi lại trong (Levi 15, 29 – 30): “”Tháng bảy, mồng mười tháng ấy, các ngươi sẽ hãm mình và không làm việc nào cả, người bản hương cũng như khách ngụ cư giữa các ngươi. Vì trong ngày ấy người ta sẽ làm phép xá tội trên các ngươi, để tẩy uế các ngươi: các ngươi sẽ được sạch trước nhan Yavê về mọi tội lỗi các ngươi đã phạm.”

Ngày lễ này năm nay được tổ chức vào ngày  8 – 9, tháng 10 năm 2019. Trong hai ngày đó họ không ăn uống, tắt hết mọi phương tiện truyền thông, vì là ngày hưu lễ. Họ suy gẫm sách Thánh, cầu nguyện, sám hối về tất cả những gi đã không hoàn thành trong việc khấn hứa và cả những sai lỗi. Cầu xin thành tâm để được tha thứ vì ngày lễ xá tội.

Biết mình cần điều gì trong thực tại này và để điều ấy tồn tại trong tương lai là điều cần thiết. Biết để điều chỉnh và biết để không rơi vào những sai lầm trong đầu tư vĩnh cửu.

Ngày kết sổ.

Người quản lý bất lương được khen theo tính cách người đời là biết tìm cách hạ cánh an toàn. Ghi lại số nợ của người chủ, không mất gì cho mình mà lại được nơi ẩn náu sau khi mất việc. Ngày xá tội như thế đã tự đánh mất chính mình trong ơn tha thứ. Sám hối trước ngày ra đi mời gọi trả lại sự công bằng đã bị đánh mất. Đáng lẽ là thời gian còn lại cần thiết để xin xá tội với lòng sám hối, người quản lý bất lương lại dùng cách để xâm lấn tài sản của chủ, tạo điều kiện cho người mắc nợ thoả lòng tham và anh ta được lại quả nhờ thương vụ đó.

Sắp xếp cho ngày cuối cùng cho cuộc đời mình như thế nào cho đúng nghĩa?

Đầu tư cho cuộc sống đời này như người quản lý khôn ngoan nhưng bất lương này. Là cách đầu tư dại khờ vì chẳng mang theo gì được khi ngày kết sổ đời đã tới.

Đầu tư cho chính mình thôi là một điều ngu ngốc. Tài chính, tiền của được ban cho là làm lợi cho anh chị em mình, như người Samaria nhân hậu, dùng tiền của, sức lực, thời gian để trợ giúp cho người bị nạn (Lc 10, 25 – 37).

Sách châm ngôn cho hay: “Như mặt đáp mặt trong nước, cũng vậy lòng con người đối với con người.” (Cn 27, 19). Các nhà chú giải cho rằng sở dĩ mặt soi mặt không soi bằng gương nhưng phải quỳ gối gần mặt nước mới thấy mặt mình. Hành vi quỳ gối diễn tả lòng khiêm hạ, cúi đầu nhận ra lỗi lầm hoặc như kinh hoà bình dạy: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”. Con người sống với con n gười là quan trọng, sau đó là với thiên nhiên thụ tạo. Sắp xếp tính sổ đời mình là cách xét lại những tương quan đó để có một gia tài không hư mất.

Ngày kết sổ thực hiện đi thực hiện lại trong đời sống là sự cần thiết cho một hành trình ra đi và không con trở về, Ngày chỉ còn hành trang vĩnh cửu tồn tại cùng mang theo.

Xin Chúa giúp con trung tín trong việc tiền của để trung tín trong việc phụng sự Chúa nơi anh chị em.

Về mục lục

.

CON ĐƯỜNG NHỎ CỦA SỰ TRUNG TÍN

Bông hồng nhỏ

Trung thành là một đức tính tốt đẹp cho mỗi người. Người ta ca ngợi những anh hùng hiếu trung với nước, ca ngợi những tình bạn trung thành,… Người làm vua thích trọng dụng những trung thần nhiều tài nhiều đức, những nhà phú hộ cũng trọng dụng những người quản gia trung tín. Hôm nay, Thầy Giêsu đã khuyên dạy người môn đệ: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16, 13b). Lời mời gọi đó nhắc nhở mỗi người môn đệ hãy luôn trung tín với Thiên Chúa, vì Người là Đấng thành tín yêu thương.

Người quản gia trong câu chuyện mà Thầy Giêsu kể ra hôm nay là một người quản gia bất lương. Anh đã bất lương trong việc phung phí tài sản của chủ và trước khi chủ cất chức quản gia của mình, anh còn bất lương hơn trước. Anh suy tính và hành động hết sức khôn khéo là tự ý giảm nợ cho các con nợ của chủ để được họ đón rước sau khi bị cất chức (x.Lc 16, 1-7). Anh trở thành vị “ân nhân” của các con nợ nhờ hành động của mình. Bởi thế, anh được khen là người khôn khéo. Thầy Giêsu nhìn nhận: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” (Lc 16, 8). Nếu người đời biết dùng tiền của để có được những đảm bảo cho đời này thì tại sao người môn đệ lại không biết dùng của cải bất chính để mua lấy hạnh phúc đời sau? Điều đó không có nghĩa là ta có thể lấy những gì không thuộc quyền sở hữu của ta, những gì của người này để trao cho người khác như người quản gia bất lương đã làm. Những của cải ta có được ở đời này sẽ là phương tiện tốt để ta có thể chia sẻ cho những người anh chị em. Chính khi chia sẻ với tình hiệp thông như thế và kêu gọi người khác làm là ta đã khôn khéo để mua lấy cho mình hạnh phúc vĩnh cửu. Khi biết sử dụng những của chóng qua và trung tín với những của cải của người khác là ta sẽ được Thiên Chúa ban cho của cải dành riêng cho ta. Đó là được trở nên chứng nhân tình yêu của Thiên Chúa, trở nên người Tông đồ đích thực của Chúa cho mọi người (x. Tm 2, 1-8).

Để trung tín với Thiên Chúa, tự sức ta, ta sẽ chẳng thể thực hiện được, nhưng nhờ ơn Chúa giúp và khi biết phó thác đời mình cho Thiên Chúa, ta có thể trở nên người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa. Như lời Thầy Giêsu đã khẳng định: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ” (Lc 16, 13), ta cũng không thể “vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16, 13). Cuộc sống cho ta những kinh nghiệm về sự trung thành và sự bất trung của ta với Thiên Chúa. Những lần xưng tội, ta đã dốc lòng chừa bỏ tội lỗi nhưng sau cùng ta lại vấp ngã. Chính khi tự dựa vào sức mình và mải mê tìm kiếm danh vọng, tìm kiếm của cải đời này, ta lạc xa đường lối của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa là Đấng trung tín, Ngài vẫn trung tín trong tình yêu dành cho ta. Ngài luôn luôn cho ta những cơ hội để trở về. Dần dần, Ngài vén mở cho ta một con đường đầy hy vọng. Đó là luôn trở về với chọn lựa căn bản của đời mình: Chọn Chúa trên hết mọi sự. Nhờ trở về với chọn lựa này mà ta luôn luôn có khả năng tiếp tục trung thành với Thiên Chúa. Mỗi ngày, nhờ bước theo sát dấu chân của Chúa Giêsu, ta được Ngài ban cho ơn trung thành với Thiên Chúa, để phụng sự Ngài suốt cả đời ta, “và dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, để cho tất cả để được ơn cứu độ, vì chính Thiên Chúa muốn cho ai nấy đều được cứu độ” (x. Tm 2, 1-6).

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã dạy dỗ con, vì Chúa đã rất yêu thương con, Chúa đã muốn cho con được cứu độ. Xin ban cho con và cho những người môn đệ của Chúa ơn trung thành theo Chúa và luôn chọn “Chúa là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng con”. Con xin dâng cuộc đời con cho Chúa và tha thiết xin Chúa biến đổi con mỗi ngày để trở nên giống Chúa hơn. Amen.

Về mục lục

.

KHÔN KHÉO VÀ NHANH LẸ

Anna Cỏ may 

  “Quả thế, con cái ở đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” (Lc 16, 8b).

 Chúa Giêsu nói với các môn đệ về một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà mình. Ông đã mời anh đến và yêu cầu tính sổ. Sau khi nghe vậy, anh đã nhanh lẹ suy nghĩ, tính toán và đưa ra hành động là giảm bớt số nợ cho những người nợ ông chủ, hầu đến lúc anh bị đuổi sẽ có người đón anh về. Hành động của anh đã được ông chủ khen là khôn khéo, nhanh trí và nhanh lẹ để xử lý (x. Lc 16,1-8). Chúa Giêsu ước ao phải chi con cái ánh sáng là những Kitô hữu cũng nhanh lẹ và khôn khéo trong việc đi tìm nơi ở vĩnh cửu và tài sản không hề hư nát. Ngài không ngừng giảng dạy và trao ban cho tất cả mọi người về cách khôn khéo và đường nhanh lẹ để đạt được điều đó. Ngài nói đến việc sử dụng tiền của thế nào để phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ rước mình về (x.Lc 16,9). Tiền của là phương tiện nuôi dưỡng cho mình và mọi người ở đời này, nhưng cũng là phương tiện cho mình và mọi người đạt đến ở đời sau khi mỗi người cùng biết chia sẻ cho nhau. Đức Cha Lambert, Đấng sáng lập dòng Mến Thánh Giá đã đem tài sản mình có góp vào công cuộc truyền giáo trong việc hỗ trợ, xây dựng nhà thờ, nhà nguyện. Ngoài ra, ngài chia sẻ tài sản cho người nghèo khổ để đem niềm vui cho mọi người ngay cả những người ít thiện cảm với ngài. Ngày nay, cũng không ít người đem tiền của mình có để giúp trẻ em nghèo, người khuyết tật… Sự chia sẻ đó không tự nhiên họ thực hiện được. Đâu đó, họ cảm nhận và nhìn thấy được hạnh phúc đích thực đang ở đây.

 Là những Kitô hữu, chúng ta được mời gọi hãy khôn khéo và nhanh lẹ đi tìm nơi ở vĩnh cửu và tài sản không hư nát trong Thiên Chúa và qua tha nhân. Nhờ đó, chúng ta trở nên những con cái ánh sáng khôn khéo và nhanh lẹ. Mỗi người chúng ta không thuộc về thế gian vì chúng ta đã được cứu chuộc nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa.

 “Lạy Chúa, xin giúp con xét lại đường lối con đi và giúp con quay gót trở về cùng thánh ý Chúa. Xin giúp con nhanh lẹ chứ không trì hoãn tuân theo mệnh lệnh Ngài” là chia sẻ những gì mình có cho mọi người. Để con được sống hạnh phúc và trở nên con cái ánh sáng như lòng Chúa ước mong. Amen.

Về mục lục

.

SỨC MẠNH CỦA ĐỒNG TIỀN

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Có lẽ, trong cuộc sống, tiền là từ mà mỗi ngày chúng ta nói nhiều nhất. Ngày nào chúng ta cũng nói đến tiền. Vì thế, có người định nghĩa: “Con người là con vật miệng luôn kêu tiền tiền.”
Sự kiện này cho thấy tiền bạc đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của chúng ta. Vì thế, người ta nói rằng: “Có tiền mua tiên cũng được.” Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm nói về thói đời: “Còn tiền còn bạc còn đệ tử. Hết cơm hết gạo hết ông tôi.”

Quả thế, tiền bạc có một sức mạnh kinh khủng và là một trong những phương tiện giúp chúng ta sống xứng đáng với nhân phẩm, sống có ý nghĩa và hạnh phúc. Tuy nhiên, tiền bạc cũng có thể là thứ cám dỗ lớn nhất khiến nhiều người làm mọi cách, bằng mọi giá để sao có nhiều tiền, bất chấp luân thường đạo lý.

Để hướng dẫn chúng ta có một thái độ đúng đắn đối với tiền của, Chúa Giêsu hôm nay kể dụ ngôn về viên quản lý bất trung. Đây là một dụ ngôn hay nhưng lại khó giải thích. Có lẽ cái hay là cái khó, mà cái khó mới ló cái khôn. Các nhà chú giải Kinh Thánh cho rằng dụ ngôn này là một “crux interpretum” – thập giá để giải thích. Chúng ta cố gắng giải thích dụ ngôn về viên quản lý để hiểu sứ điệp Lời Chúa hôm nay.

Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi đi, Phùng Nguyên hỏi: “Ngài có muốn mua gì không?” Mạnh Thường Quân trả lời: “Ngươi xem thứ gì nhà chưa có thì mua.” Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả.” Rồi chẳng tính vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân: “Nhà ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài.” Về sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên: “Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước.”

Nghe chuyện này, có lẽ mọi người đều đồng ý với Mạnh Thường Quân rằng Phùng Nguyên thực là người quản lý trung thành và khôn ngoan. Trung thành vì ông đã biết cách làm lợi cho chủ. Khôn ngoan vì ông biết nhìn xa trông rộng, đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu dài. Nhờ sự khôn ngoan của Phùng Nguyên, Mạnh Thường Quân đã vượt qua được những khó khăn gian khổ. Câu chuyện này giúp ta hiểu dụ ngôn trong Tin Mừng.

Trước hết, chúng ta cần phải hiểu văn hóa của Do Thái về việc quản lý. Người quản lý thời đó không được trả lương, nhưng được chủ giao quyền để quản lý tài sản. Nếu ông không quản lý cách ngay thẳng hoặc thua lỗ, thì chủ có thể sa thải ông.

Chúa Giêsu nói đến trường hợp này, người quản lý có vấn đề nên chủ tính sẽ truất phế ông. Ông bắt đầu gọi con nợ đến viết lại biên lai, để sau này người ta rước ông về.

Chúa Giêsu không khuyên chúng ta học sự lưu manh và lừa lọc của ông ta, nhưng học nơi ông là biết khôn ngoan tận dụng mọi hoàn cảnh, biết dùng tiền của để xây dựng các mối tương quan bạn bè và nhất là để tìm kiếm hạnh phúc đời đời.

Qua đó, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta bài học phải biết sử dụng của cải. Việc sử dụng của cải có ba mức độ:

1- Biết sinh lợi

Mức độ thứ nhất là biết sinh lợi những gì Chúa ban. Của cải Chúa ban là một hồng ân. Nếu Chúa ban cho chúng ta có của cải thì chúng ta phải biết sinh lời nó. Dụ ngôn về những nén bạc Chúa giao cũng ám chỉ điều đó. Phải làm sinh lời của cải để có thể làm giàu cho gia đình, xã hội. Dùng tiền bạc để tạo nên việc làm, phát triển nghề nghiệp, mang lại lợi tức cho đời. Chúng ta hãy làm giàu cách công chính trước mặt Thiên Chúa.

2- Biết xây dựng

Mức độ thứ hai là biết dùng tiền của để xây dựng cuộc sống hạnh phúc hơn, nhân bản hơn. Bởi lẽ, người ta nói: có tiền là chuyện kinh tế, nhưng tiêu tiền là chuyện của văn hóa. Nghĩa là biết dùng tiền của để sống cho có tình có nghĩa.

Có người tiền nhiều nhưng chỉ bỏ trong ngân hàng, trong khi cha mẹ già bệnh tật đau yếu mà không bao giờ giúp đỡ.

Có người túi tiền đầy, nhưng tấm lòng thì hẹp và đóng lại trước những nỗi đau của người khác.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải biết dùng tiền của để đầu tư cho con cái, đào tạo thế hệ trẻ và phát triển các tài năng.

3- Để vào Nước Trời

Mức độ thứ ba cao hơn là dùng tiền của mua Nước Trời.

Triết gia Gariel Marcel phân biệt hai phạm trù: có và là. Chữ “có” bao gồm của cải, sức khỏe và tài năng. Tất cả những điều này là phương tiện để giúp chúng ta sống chữ “là,” nên người hơn, nên thánh thiện hơn. Nghĩa là dùng tiền của để sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Không tôn thờ tiền bạc, vì nó là tên đầy tớ tốt nhưng là ông chủ xấu. Tiền bạc chỉ là phương tiện chứ không phải là mục đích. Nếu chúng ta coi tiền bạc là trên hết, khi đó bậc thang giá trị bị đảo lộn, các giá trị đạo đức, luân lý và nhân phẩm trở thành thứ yếu. Chúng ta có thể đánh đổi tất cả để có tiền. Khi đó, tiền bạc trở thành thảm họa cho chúng ta.

Chúa Giêsu cảnh báo: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13). Khi có tiền của, chúng ta biết chia sẻ với người nghèo khổ, giúp đỡ những ai gặp khó khăn túng thiếu. Sống bác ái và chia sẻ những gì mình có với người khác là con đường dẫn chúng ta vào Nước Trời. Như Chúa dạy, khi Ta đói các người cho ăn, khi Ta khát các ngươi cho uống… Hãy vào mà hưởng niềm vui với chủ ngươi (Mt 25,25-30).

Cho nên, hãy dùng của cải để sống cho có tình nghĩa, nhân ái và tìm kiếm hạnh phúc thiên đàng mai sau. Amen!

Về mục lục

.

TÍNH SỔ

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Một người phú hộ giầu sang,
Có người quản lý, xa đàng thất thu.
Tiêu xài phung phí thiếu bù,
Đến khi tính sổ, dự trù trong kho.
Sợ rằng sa thải, nên lo,
Kêu hai con nợ, sửa cho hợp đồng.
Chi bằng rút bớt của công,
Ghi vào văn tự, sổ hồng phân đôi.
Hai bên có lợi đền bồi,
Chủ khen đầy tớ, tham mồi khôn ranh.
Bất lương hành động thật nhanh,
Dối gian tính toán, tìm danh sau này.
Nhỡ cơ đón tiếp có ngày,
Người đời khôn khéo, cơ may trong đời.
Các con học cách ở đời,
Dùng tiền gian dối, sinh lời đời sau.
Cuộc đời lữ thứ qua mau,
Giữ lòng trung tín, giúp nhau sống đời,
Gắng công chiếm lấy Nước Trời,
Làm tôi Thiên Chúa, ngàn đời hiển vinh.

Cậu truyện trong bài phúc âm không xa lạ với cách suy nghĩ và hành xử của chúng ta. Chúng ta với trí khôn biết tính toán và sự lanh lợi đã lợi dụng nhiều cơ hội để làm lợi cho riêng mình. Chúng ta nghe dụ ngôn về người quản lý bất lương nhưng hành động khôn khéo sau khi viết lại văn tự cho vay. Anh quản lý này đã khéo léo sửa lại văn tự có lợi cho anh trong cuộc sống đời tạm trong tương lai, nhưng lại thiệt thòi nhiều cho ông chủ.

Truyện kể: Có hai cậu bé chơi ở bãi đậu xe, nhặt được chiếc ví của người đàn bà đánh rơi. Trong ví có tên, địa chỉ và tờ giấy 10 đô la. Một trong hai cậu bé nói: Chúng ta không thể giữ ví tiền lại. Nhưng trước khi trả lại cho bà ta, chúng ta hãy đổi giấy 10 đô ra tiền lẻ, tờ một đô. Chúng ta biết ý đồ của hai cậu. Hai cậu bé khéo xoay sở để tính lợi, kiếm tiền thù lao.

Anh quản lý bất lương đã phung phí của cải vào những trương mục không tốt. Tiền bạc làm mờ mắt con người. Anh đã không ngay thật trong việc quản lý nên bị chủ cách chức. Chúa Giêsu đã nhiều lần phê phán người giầu có chỉ biết dựa vào tiền của và tìm hưởng thụ. Họ chỉ tìm những vui thích hiện tại mà, không quan tâm đến định mệnh đời sau. Thu tích của cải đời này mà không làm giầu trước mặt Chúa là khờ dại.

Thật ra, Chúa không lên án người giầu có hay tẩy chay họ, Chúa vẫn được họ ân cần tiếp đón và dùng bữa với họ. Chúa chỉ nặng lời kết án những người ích kỷ chỉ bám víu vào tiền bạc và cách sử dụng đồng tiền của họ. Tiền tự nó không xấu, xấu hay tốt tùy ở sự nhận thức và thái độ của người xử dụng nó. Tiền sẽ là phương tiện tốt, có thể dùng để làm điều thiện và giúp đỡ kẻ khốn cùng. Chúa nói rằng: Các con hãy dùng tiền của gian dối mà mua nước trời. Tiền gian dối không phải là tiền ăn trộm, ăn cướp cũng không phải là tiền mua bán đồ quốc cấm. Tiền gian dối là tiền của thế gian. Chúng ta biết rằng cứu cánh không biện minh cho phương tiện. Chúng ta không thể dùng tiền phi nghĩa mà giúp người nghèo.

Ông quản lý dùng tiền để mua nhân nghĩa, nhưng chỉ là nhân nghĩa đời tạm này. Chúng ta có thể dùng tiền mua Nước Trời. Lấy cái tạm thời biến thành vĩnh cửu. Đó chính là sự ý thức, lòng khao khát và chia xẻ yêu thương trong việc xử dụng đồng tiền. Cuộc đời trần thế là chuẩn bị cho cuộc sống mai hậu. Hãy dùng tiền giấy đổi tiền thật và dùng tiền thật mua Nước Trời . Công qủa chúng ta làm ra do việc bác ái yêu thương, chúng ta sẽ được an hưởng, được hạnh phúc và an vui muôn đời trong nước Chúa.

Về mục lục

.

THÁI ĐỘ CỦA CON NGƯỜI TRƯỚC TIỀN CỦA

Lm. Giuse Lê Danh Tường

Dường như cả xã hội hôm nay đang đảo điên lao vào vòng xoáy tìm kiếm tiền của. Ta phải có thái độ nào đối với tiền của mà ta đang có đây? Lời Chúa trong Chúa nhật XXV Thường niên C cho ta câu trả lời về thái độ của con người đối với của cải.

Người quản lý thời Chúa Giêsu bên Do thái có quyền thay mặt ông chủ để quyết định tiền lương cho công nhân. Nếu người quản lý làm thiệt hại tài sản của ông chủ thì luật pháp cũng không buộc ông phải đền trả mà chỉ có thể bị ông chủ sa thải thôi. Sau khi nhận được giấy sa thải, viên quản lý phải tính sổ liệt kê tài sản; việc này cần một thời gian chuẩn bị. Trong thời gian này ông vẫn là người đại diện cho chủ, được luật pháp cho phép hành động nhân danh chủ.

Trong dụ ngôn Chúa Giêsu kể (Lc 16, 10-13) có sự biến đổi nơi thái độ của người quản lý đối với tiền của. Người quản lý trong dụ ngôn bị ông chủ sa thải vì ông đã phung phí tiền bạc của ông chủ. Ông đã tích cóp tiền của cho riêng mình, biển thủ của chủ. Ông thật đáng tội. Thế nhưng đứng trước sự sa thải của chủ, giờ đây ông đã thay đổi thái độ. Ông không tìm cách thu vén cho mình nữa nhưng ông đã tìm cách trao tiền cho người khác. Ông đã biết lấy đồng tiền để mua lấy bạn hữu. Ông không lợi dụng tình người để tích trữ tiền của nữa. Nhưng ông đã lợi dụng tiền của để tích trữ tình người. Và nhờ thái độ biến đổi ấy mà ông được ông chủ khen là khôn khéo.

Kết luận dụ ngôn, Chúa Giêsu đã đưa ra bài học“Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời”.

Sự an nghỉ đời đời, vinh quang trong Nước Trời, hạnh phúc trường cửu sau cái chết mới là cùng đích của cuộc đời con người. Tiền của chỉ là phương tiện giúp con người trên đường tiến tới Nước Trời. Tiền của được trao vào tay con người và con người có nghĩa vụ quản lý nó mà thôi. Khéo dùng tiền của thì vững bước trên đường đời, vụng dùng tiền của thì đường đời tăm tối.

Con người quản lý tiền của. Con người không phải là ông chủ của tiền của nên bất cứ lúc nào con người cũng có thể bị tước hết tiền của. Dù có giàu sang quyền quý đến đâu đi nữa thì đứng trước cái chết, không ai còn có thể sở hữu được tài sản nữa. Bởi con người không có toàn quyền sở hữu tài sản mãi mãi, nhưng nó chỉ là người quản lý tài sản trong vài chục năm là cùng.

Chỉ là người quản lý, nên có thể người này được trao cho ít, người kia được trao cho nhiều. Người được trao cho nhiều thì có nghĩa vụ làm lợi nhiều. Và ông chủ là Thiên Chúa có thể đòi ta phải giải trình cả lời lẫn vốn bất cứ lúc nào. Nếu ta chỉ biết thu tích của cải và để vào một chỗ thì lấy đâu ra lãi. Và ông chủ không những sẽ không trao cho ta thêm vốn nữa mà còn lấy đi luôn cả những gì ta đang có.

Thế nhưng tôi phải làm lãi cái gì? Là người quản lý khôn khéo sẽ biết lấy tiền của để lo phần rỗi linh hồn mình. Chúa không dạy ta đi biển thủ của công để chia cho người khác. Làm thế là bất công với cả xã hội. Nhưng Chúa muốn ta có thái độ chính xác đối với của cải trần gian và biết đâu là giá trị thực sự của nó: Tiền của không là cùng đích, nhưng nó chỉ là công cụ, là phương tiện giúp ta đạt tới cùng đích là Nước Trời.

Thái độ như thế đối với tiền bạc không giống với thái độ thường tình của loài người. Tiên tri Amos xưa đã lên án những người vì lợi ích cho túi tiền của mình mà họ sẵn sàng tìm cách tiêu diệt người khác. Để có được lợi nhuận, họ sẵn sàng chà đạp lên đồng loại bất chấp mọi thủ đoạn. Thái độ ấy đem lại cho họ nhiều tiền, nhiều của. Đồng tiền trở thành ông chủ của họ. Lẽ dĩ nhiên, họ sẽ gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của họ. Vì họ không thể vừa làm tôi tiền bạc, vừa làm tôi Thiên Chúa; Vì họ không thể tiếp tục thực hiện cách thức kiếm tiền của mình nếu họ chấp nhận có Thiên Chúa hiện diện bên họ.

Đứng trước một xã hội đầy rẫy sự tham ô, hối lộ, một xã hội đang chạy theo nền kinh tế thị trường, lấy lợi nhuận tiền của làm tiêu chuẩn để đo lường mọi giá trị, con cầu xin Chúa hằng soi đường chỉ lối để con biết lựa chọn con đường đưa tới vinh quang Nước Trời, biết lựa chọn thái độ phù hợp với tiền của. Nguyện xin Thần Khí Chúa giúp con biết quản lý tốt những gì Chúa trao phó cho con, biết dùng tiền bạc để mua lấy bạn hữu, mua lấy tình người, mua lấy cho mình sự thanh sạch, sự bình an và thanh thản trong tâm hồn để sẵn sàng chờ ngày Chúa đến.

Về mục lục

.

KHÔN KHÉO ĐỂ SỐNG

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Sống ở trần gian là một đấu tranh không ngừng để sinh tồn. Có những việc làm cho con người giằng co không biết chọn lựa.Thường con người xây đắp cái gì có thể thấy được, dễ đụng chạm, dễ sờ mó. Có những sự việc khó lường trước khó thấy được. Những chuyện phù hoa, diễm lệ, những cái hào nhoáng bên ngoài dễ làm cho con người choáng ngập. Hầu hết khi sống trong một thế giới văn minh, người ta ít nghĩ tới những điều xa xôi, sự sống đời sau vv…Có những người cho sự sống vĩnh cửu là ảo tưởng, là không có thật. Họ xây dựng, vun đắp cái gì mau qua…Tuy nhiên, xét cho cùng người khôn là người biết xây đắp cuộc đời này với sự khôn ngoan, với ánh sáng dọi soi của Thiên Chúa vì cuộc đời này chuẩn bị và dẫn đưa con người đến sự sống mai sau…

Vâng, sau khi đã kể ra dụ ngôn về người quản lý khôn khéo. Đích thực,Chúa Giêsu phàn nàn, chê trách vì chúng ta là con cái của sự sáng lại không khôn khéo bằng con cái thế gian bởi vì họ chỉ biết có thế gian này !Người quản lý khôn khéo vì ông dám đối diện với thực tế của cuộc đời. Ông biết mình sau khi bị sa thải sẽ không làm vườn, cuốc đất, buôn bán, kinh doanh. Ăn mày, ăn xin thì ông tủi nhục vì ông đã từng là quản lý oai phong, có quyền, có thế của ông chủ. Nên ông đã khôn khéo kiếm cách để khi bị sa thải, sẽ có người còn nghĩ tới ông, mang ơn ông vv…Chúa Giêsu dạy chúng ta phải khôn ngoan, lanh lợi như ông quán lý chứ đừng lươn lẹo, đừng xảo trá. Khôn khéo để xây dựng một tương lai tốt hơn, một cuộc đời đẹp hơn, đặc biệt tìm cho mình một cuộc sống vĩnh cửu.

Có những người cho rằng đời sau xa vời quá…Có ai đã thấy đời sau, có ai đã sống cuộc sồng vĩnh cửu. Cuộc sống mai sau, đời sống đời đời quả không có gì hấp dẫn, có gì thu hút, người ta chỉ hăm hở lao vào việc làm giàu, tìm kiếm hưởng thụ, chạy theo những gì chóng qua ở đời này. Sự giằng co của con người, của chúng ta nằm ở chỗ, chúng ta có biết khôn khéo để quyết định những gì cho cuộc sống hôm nay và ngày mai hay không ?

Chúng ta để Chúa làm chủ và hướng dẫn cuộc sống của mình.Tiền bạc, của cải, vật chất là phương tiện để giúp con người, giúp chúng ta sống cuộc sống hôm nay cho tốt đẹp. Chúa không cấm chúng ta giầu có, không bần cùng hóa cuộc sống của chúng ta. Chúa muốn chúng ta biết dùng của cải, vật chất cho phù hợp với cuộc sống của chúng ta vì quê hương của chúng ta ở trên trời. Đời sống trần gian này chỉ là tạm bợ, chỉ là mau qua. Do đó, chúng ta đừng quá ham mê của cải ở đời như ông phú hộ giầu có mà quên đi sự sống vĩnh cửu đang chờ đón chúng ta. Quả vậy, Chúa đã nói “ Không ai có thể làm tôi hai chủ “. Chúa muốn chúng ta, muốn con người dứt khoát chọn Chúa. Tuy Chúa ban cho chúng ta quyền tự do chọn lựa ơn cứu độ hay từ chối ơn cứu độ. Từ chối Chúa hay nhận Chúa, đó là sự tự do của con người,của mỗi người chúng ta.

Qua đoạn Tin Mừng Lc 16,1-13, Chúa Giêsu dạy chúng ta, dạy con người, dạy nhân loại :

1.Chúng ta phải biết khôn ngoan, khôn khéo lanh lợi lo lắng tương lai cho đời sau.Chúa muốn chúng ta khôn khéo dùng tiền của làm việc nghĩa, chia sẻ hầu co được Nước Trời. Sự khôn khéo không phải là lắt léo, lươn lẹo nhưng khôn ngoan theo ý Chúa : dùng khả năng để làm giầu cho Chúa như người trao năm nén làm lợi năm nén khác, người ba nén làm lợi thêm ba nén khác.

2.Chúng ta không được làm tôi hai chủ hoặc ai liều mất mạng sống mình vì Chúa thì sẽ cứu được nó vv…

Lời của Chúa thực đáng cho chúng ta suy nghĩ và thực hành cách sống.Chúng ta có để cho Chúa làm chủ đời ta hay chúng ta thích thờ Ma Môn , Tiền của. Để Chúa hướng dẫn, làm chủ chúng ta sẽ có đời sống vĩnh cửu, sự sống đời đời…

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết trung thành với việc nhỏ để chúng con được trao việc lớn. Xin ban cho chúng con đức tin mạnh mẽ để chúng con chỉ một lòng yêu mến Chúa và thương yêu đồng loại. Xin cho chúng con biết khôn khéo để khôn ngoan dùng tiền của chóng qua ở đời này mà mua Nước Thiên Chúa.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Người quản lý bất lương đã làm gì ?
2.Khôn khéo theo ý Chúa là gì ?
3.Tại sao Chúa không thích sự lắt léo, lươn lẹo ?
4.Vật chất có cần không ?
5.Chúa dạy chúng ta dùng của cải thế nào cho phù hợp ?

Về mục lục

.

CHUYỂN ĐỔI CỦA CẢI PHÙ DU THÀNH KHO TÀNG VĨNH CỬU

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Tất cả những gì ta có là do Chúa tạm ứng cho ta

Thân xác của ta không do ta mà có, mà là do Chúa ban. Mai đây Chúa sẽ lấy đi, ta không thể giằng lại được. Đến ngày Chúa gọi ta về thế giới bên kia, ta không thể nói: “Con không đi! Con không đi! Con phải ở lại đời này, con đang quyến luyến đời này, không đi đâu hết!”

Sức khỏe của ta không do ta mà có, nhưng là do Chúa ban. Về phần ta, lúc nào ta cũng  muốn mình được khỏe mạnh, cường tráng, muốn sống lâu trăm tuổi chưa vừa; ngoài ra, ai cũng rất sợ đau ốm, sợ ung thư, sợ đột quỵ… Nhưng không ai có thể duy trì sức khỏe trong tình trạng tốt mãi được. Nay mai, ta phải già đi, phải suy yếu đi, phải mắc hết bệnh này tới bệnh khác, phải nằm liệt giường, phải rên la đau đớn… chẳng còn chút hơi sức nào!

Ngôi nhà của ta, xe cộ, vàng bạc châu báu và rất nhiều đồ dùng của ta… hôm nay, chúng còn thuộc về ta, nhưng mai đây, tất cả những thứ đó đều không còn là của ta nữa mà phải sang tay cho người khác.

“Của vào nhà khó như gió vào nhà trống”

Đúng vậy, sức khỏe, của cải, vàng bạc, châu báu … đến với ta cũng như luồng gió lùa vào gian nhà trống, chúng chợt đến rồi chúng lại bay đi. Không ai có thể nhốt được gió cho riêng mình. Cũng thế, không ai ôm ghì lấy sức khỏe, tài sản, vàng bạc châu báu cho mình mãi được. Chúng chợt đến rồi chúng chợt đi. Ai khư khư giữ lấy chúng là chưa khôn ngoan sáng suốt.

Tốt nhất là biết cấp tốc chuyển đổi chúng thành tài sản vĩnh cửu cho mình.

Công nghệ năng lượng gió

Hiện nay, trên đất nước ta có nhiều tua-bin (turbine) gió được lắp đặt nhiều nơi. Những cánh quạt của tua-bin vươn ra đón lấy những làn gió thoảng qua rồi biến chúng thành nguồn năng lượng hữu ích cho muôn người, trước khi để gió thổi vèo qua nơi khác. Biến gió thành điện là một công nghệ tuyệt vời.

Vậy thì chúng ta cũng nên ứng dụng “công nghệ” này vào cuộc sống của mình, bằng cách đón lấy của cải chóng qua đời này, như những cánh quạt của tua-bin đón gió, rồi biến chúng thành kho tàng thiêng liêng cho cuộc sống mai sau.

Người quản lý trong Tin mừng hôm nay đã nắm được “công nghệ” này. Khi biết chủ sắp sa thải mình và biết rằng lúc đó thì anh không còn nơi nương tựa, không còn cơm ăn áo mặc như xưa nay, anh nghĩ ra một diệu kế:

Anh khôn khéo gọi các con nợ của chủ đến, dùng quyền hạn chủ trao cho mình, tha bớt phần nợ cho họ. Khi làm như thế, anh hy vọng mai đây, khi anh bị sa thải, những con nợ nầy sẽ đền ơn anh và sẽ đón rước anh vào nhà họ.

Qua dụ ngôn này, Chúa Giê-su dạy ta: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”  hay nói khác đi, hãy dùng của cải ta có hôm nay mà mua lấy một chỗ ở trên thiên đàng.

Đó là một chọn lựa khôn ngoan, vì cho dù hôm nay, ta cố sức bám trụ vào mặt đất nầy, bám víu thật chắc vào những tài sản của mình, ra sức thu gom thật nhiều tiền bạc, tài sản, ruộng vườn… thì mai đây, chúng ta cũng sẽ bị bứt ra khỏi cuộc đời nầy như chiếc lá lìa cành trong cơn lốc dữ…

Tất cả những gì ta mua sắm được hôm nay, người khác sẽ sử dụng. Những gì ta đang sở hữu sẽ thuộc về người khác… Rốt cuộc, ta chẳng còn gì !

Vì thế, người khôn ngoan là người biết chuyển đổi của cải chóng qua thành gia tài vĩnh cửu trên trời, y như tua-bin của các giàn điện gió chuyển đổi những làn gió thoảng qua thành năng lượng hữu ích cho muôn người.

Lạy Chúa Giê-su, xin cho Lời khôn ngoan của Chúa đánh thức chúng con khỏi quyến luyến của cải đời này, nhưng biết khôn ngoan đánh đổi những tài sản phù du để thu về những lợi ích vĩnh cửu.

Về mục lục

.

CON CÁI SỰ SÁNG

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Mọi nơi, mọi thời, con người luôn khát khao và tìm kiếm hạnh phúc. Nhiều người vẫn thường nghĩ rằng: hạnh phúc chỉ có nơi tiền bạc, của cải, danh vọng, quyền thế. Đã có một thời Mussolini, Nhật Hoàng, Hitler tưởng rằng thế giới sẽ nằm gọn trong trục tay ba của họ, nhưng họ đã gục ngã thảm bại và lịch sử vẫn xoay theo chiều của nó. Đã có lúc Napoléon Đại đế tưởng rằng sẽ thâu tóm toàn thể Âu châu trong bàn tay bách chiến bách thắng của ông, nhưng rồi ông đã chết cô đơn trên đảo Corse, và Âu châu vẫn xoay theo chiều của nó. Như viên đá ném xuống dòng sông, làm lay động mặt nước trong chốc lát, và rồi dòng sông vẫn im lìm xuôi chảy…Mọi sự đều qua đi… Sách Giảng viên đã viết : “Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân” (Gv 1,2). Quả là: “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy. Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười” (Cao Bá Quát).

Chúa Giêsu đã từng phê phán những người giàu chỉ biết cậy dựa vào tiền của và tìm hưởng thụ là kẻ ngu xuẩn vì chỉ nhìn cái hiện tại chóng qua mà không quan tâm đến định mệnh cuối cùng và không biết tìm hạnh phúc vững bền (Lc 12,13-21). Thu tích của cải đời này mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa thì quả là ngu xuẩn vì “không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm” (Lc 12,15); vả lại sự vướng bận vào của cải cản trở việc tìm kiếm Nước Chúa là cõi phúc thật (x.Lc 18,18-30). Vậy đâu là sự khôn ngoan đích thực? Làm sao có được sự giàu có trước mặt Thiên Chúa?

Tin mừng Chúa nhật hôm nay,Chúa Giêsu sau khi kể dụ ngôn người quản lý bất lương đã kết luận: “Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng”. Chúa dạy các môn đệ phải sống trung tín. Một người không trung thực về tiền bạc thì không thể là một người ngay thẳng và đáng tín nhiệm. Chúa căn dặn: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”. Đồng tiền sẽ là một đầy tớ tốt, nhưng nó lại là một ông chủ xấu. Chúa dạy chúng ta phải biết khôn ngoan trong việc sử dụng tiền bạc.Nếu “con cái đời này” biết cách làm lợi cho tương lai, thì tại sao “con cái sự sáng” lại không biết sử dụng của cải Chúa ban trong hiện tại để lo cho phần rỗi đời đời của mình sau này ?

Nếu người quản gia bất lương biết dùng tiền của bất chính để mua lấy bạn hữu cho mình, thì tại sao chúng ta lại không biết chia sẻ của cải chóng qua đời này cho tha nhân để mua lấy bạn hữu, để sau này chính họ sẽ đón rước chúng ta vào Nước Trời đời sau ?

  1. Khôn Khéo Con Cái Đời Này

Khôn khéo trong những việc làm của người quản lý bất lương:

 – Khôn khi ăn cắp tài sản của chủ mà không bị phát hiện, đến khi có người tố cáo, chủ mới đuổi việc.

– Khôn vì anh ta biết giới hạn của mình: cuốc đất không nổi, ăn mày thì hổ ngươi.

 – Khôn vì biết xoay xở, tận dụng chút quyền quản lý cuối cùng để có một chút bảo đảm cho tương lai. Gọi các con nợ của chủ đến làm văn tự lại: 100 thùng dầu ô-liu, viết lại 50 thôi; 1.000 thùng lúa viết lại 800 thôi… hai bên cùng có lợi mà.

– Khôn khi biết lo xa: liệu sao để khi mất chức thì có người tiếp đón, khi về hưu non thì đã có của dư của để, có nhà cao cửa rộng, có vườn tược…

Hình ảnh của người quản lý khôn khéo bất lương này đầy dẫy trong xã hội hôm nay khi mà tham nhũng đã trở nên “quốc nạn”. Ông Fujimori đã làm tổng thống nước Péru đến nhiệm kỳ thứ 2, vì tham nhũng nên đã trốn chạy về Nhật. Ông Estrađa tổng thống Philippines, phải từ chức vì tham nhũng. Ông Wahid, tổng thống Indonesia sang Mỹ tỵ nạn vì tham nhũng. Việt Nam cũng đang điêu đứng vì quốc nạn tham nhũng… Người ta “hy sinh đời bố để củng cố đời con”, có chút địa vị quyền lực thì lo thu ven cho cá nhân, tham ô, móc ngoặc. Sợ bị bại lộ, sợ bị tố cáo, sợ bị cách chức, sợ bị “về hưu non”, nên khôn khéo mua lấy bằng cấp, mua đất xây biệt thự, lập trang trại… Người ta tìm mọi cách để có tiền của, có địa vị, có quyền lực, bất chấp tiếng nói lương tâm.

Nhìn vào thực trạng xã hội hôm nay sẽ thấy người đời thường chạy theo tiền bạc, của cải, địa vị, chức quyền. Trong cuộc chạy đua đó, con người đã để cho tiền của làm chủ đời sống của họ, hướng dẫn và quy định cả cách sống và tâm tình của họ. Khi đó, Thiên Chúa, lương tâm, nhân cách bị gạt ra khỏi tâm hồn họ. Tiền của, danh vọng là thần tượng và họ làm bất cứ việc gì dù trái với lương tâm, với luân thường đạo lý, với công bình bác ái, miễn là càng ngày họ càng giàu có càng thăng chức. Lòng tham không bao giờ thỏa mãn. Tham vọng của con người không bao giờ cùng.

Các ngôn sứ thời Cựu ước vẫn thường chỉ trích những thói tham lam, lọc lừa và nặng lời kết án những người giàu bất công, áp bức, khinh dễ kẻ nghèo. Vào thế kỷ VIII tcn, Israel sống thời kỳ thịnh vượng dưới triều Giêrôbôam II. Do sự phồn thịnh ấy mà người ta sinh hư đốn: bon chen, tham lam, tranh giành tiền bạc của cải bằng đủ mọi hình thức bất công: giàu hiếp đáp nghèo, dùng tiền mua lương tâm, địa vị; người giàu chỉ biết ích kỷ hưởng thụ mặc cho dân nghèo đói rách cơ cực… Ngôn sứ Amos kịch liệt lên án. Ông quả xứng danh là nhà ngôn sứ của sự công bằng. Bản cáo trạng của ngôn sứ đối với những người quyền thế, giàu sang bất công vẫn luôn vang vọng và có hiệu lực cho mọi thế hệ.

  1. Khôn Ngoan Con Cái Chúa

-Khôn ngoan của con cái sự sáng là luôn hướng về Thiên Chúa và để Ngài làm chủ đời mình. Tiền bạc của cải không là điểm tựa. Vật chất không là cứu cánh mà chỉ là phương tiện. Con cái sự sáng vừa say mê cuộc đời này vừa say mê vĩnh cửu. Giữa cái mau qua họ tìm gặp vĩnh cửu, họ làm việc vui chơi như mọi người, nhưng họ luôn để Thiên Chúa đi vào toàn bộ cuộc đời họ.

– Con cái ánh sáng khôn ngoan sống chân thật và tín trung. Chân thật trong lời nói, trong tư tưởng, trong hành động; thực tâm thật tình trong cư xử; thật hiếu hạnh trong gia đình; thật tín nghĩa ngoài xã hội; thực trung thành trong niềm tin. Trung tín sống đức tin, trung tín trong lời hứa, có tinh thần trách nhiệm cao, trung tín trong việc nhỏ cho đến việc lớn. Trung tín với lời hứa Bí Tích đã lãnh nhận. Người chân thật là người trung tín với Thiên Chúa và anh em mình. Bởi vì Thiên Chúa là sự thật, và “chỉ có sự thật mới giải thoát anh em”.

– Khôn ngoan của con cái Chúa là khôn ngoan Thập Giá: “Trong khi người Dothái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hylạp kiếm sự khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô chịu đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù Dothái hay Hylạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” ( 1 Cr 1, 22-25 ). Chúa Giêsu đã khẳng định: “Không ai có thể làm tôi hai chủ. Hắn sẽ ghét chủ này mà thương chủ kia, hay để ý đến chủ này mà thương chủ nọ”. Không thể phụng sự hai chủ như nhau, trong cùng một lúc. Chúng ta tự hỏi chủ nào đang thống lĩnh đời tôi ? Ước gì tôi luôn tự do, chọn lựa làm tôi cho Chúa mà thôi.

  1. Cửa Sổ Hoặc Tấm Gương

Một người Dothái giàu có nhưng rất keo kiệt đến gặp một vị giáo trưởng để xin một lời hướng dẫn cho cuộc sống của mình. Vị giáo trưởng đưa anh ta đến bên cửa sổ và hỏi: “Ông hãy nhìn qua cửa sổ và cho tôi biết ông thấy gì.” Không một chút do dự, người giàu có trả lời: “Tôi thấy nhiều người đi qua đi lại.” Sau đó vị giáo trưởng bảo người giàu có quay mặt vào trong nhà và nhìn vào một tấm gương treo trên tường. Rồi ông cũng đặt câu hỏi tương tự: “Nào, bây giờ thì ông thấy gì trong tấm gương ?” Người giàu có liền trả lời: “Dĩ nhiên tôi chỉ thấy tôi.” Bấy giờ vị giáo trưởng mới rút ra một bài học. Ông nói: “Này nhé, tấm gương soi mặt được làm bằng kính. Kính được phủ ở phía sau bằng một lớp bạc mỏng. Bao lâu lớp bạc mỏng còn dính chặt đằng sau tấm kính thì nhìn vào đó ông sẽ không còn thấy người nào khác nữa mà chỉ thấy có mình ông thôi. Trái lại khi nhìn qua tấm kính trong suốt ở cửa sổ ông đã thấy được những người khác, thấy được cảnh vật…” Nếu tấm kính linh hồn bị lòng tham lam, ích kỷ như lớp bạc mỏng phủ đi thì ta sẽ chỉ thấy có bản thân mình. Chỉ mình ta mới đáng kính đáng trọng, chỉ mình ta là trung tâm để mọi người phục vụ. Tâm hồn con người khi trong suốt không bị che chắn bởi tham, sân, si, sẽ nhìn thấy mọi người là anh em, nhìn thấy những điều hay, những điều tốt, những gì đáng quý, đáng mến nơi tha nhân. Tâm hồn trong sáng đó nhờ biết mỗi ngày soi vào Chúa Kitô, sống theo lời dạy của Ngài.

Sự khôn ngoan đích thực đúng như lời Thánh Phaolô trong thư gởi Timôthê: “Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ” (1Tm 6,18).

Của cải vật chất chỉ là việc nhỏ sánh với việc lớn là Nước Trời. Biết sử dụng tiền của tạm bợ cách tốt đẹp, chúng ta sẽ được trao phó của cải vĩnh cửu trên trời.

Về mục lục

.

CÔNG BẰNG XÃ HỘI

Lm Trần Bình Trọng

Đọc báo chí hay coi vô tuyến truyền hình, ta thấy những phản ứng khác nhau của những người vừa bị mất việc. Có những người buồn chán, không ăn không ngủ. Có những người bực tức, tìm cách trả thù cai xếp hoặc chủ sở bằng những hành vi bạo động sát nhân, rồi tự sát. Người quản lý trong Phúc âm hôm nay khi biết mình sẽ bị sa thải vì phung phí của chủ, đã nghĩ ra mánh lới để mua chuộc con nợ của chủ mình. Anh ta gọi từng con nợ đến cho giảm số nợ. Đạo Kitô giáo đề cao đức công bình. Công bình là trả cho người khác cái mà họ đáng được. Đức công bình phát xuất từ tinh thần trách nhiệm của loài người với Thiên Chúa, là Đấng ban phát cho loài người những quyền lơi khác nhau.

Đạo Kitô giáo cũng chủ trương bảo vệ quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản và quyền đòi được bồi thường khi người khác làm thiệt hại đến tài sản của mình. Những quyền lợi đó đã được ăn rễ sâu trong hai giới răn của Thiên Chúa: điều răn thứ bảy dạy ta chớ lấy của người, và điều răn Thứ mười đi xa hơn nữa dặn ta chớ tham lam của người.Người quản lý trong Phúc âm hôm nay đã lỗi phạm Điều răn Thứ bảy. Anh ta đã phung phí của chủ. Khi biết mình bị sa thải, anh ta còn dùng của chủ để mua chuộc con nợ, i.e., dùng của chủ để làm lợi cho mình. Anh ta đã lỗi đức công bình xã hội là làm điều bất công.

Thoạt nghe ta lấy làm vấp phạm khi Chúa Giêsu lên tiếng khen người quản lý bất lương đã hành động cách tinh quái. Lẽ ra thì Chúa phải kết án việc làm gian lận của viên quản lý đó hay ít ra cũng chỉ trích cái hành động cướp gạt trắng trợn của anh ta như tiên tri Amốt đã tố cáo những tệ đoan trong xã hội thời bấy giờ. Amốt mô tả việc người giàu có nóng lòng chờ đợi cho qua ngày lễ nghỉ để họ có thể lường gạt và bóc lột người nghèo (Am 8:5-6). Tuy nhiên đi sâu vào vấn đề ta thấy Chúa không khích lệ việc người quản lý phung phá tài sản của chủ. Thực ra Chúa chỉ khen cái mánh lới của anh ta mà thôi. Chúa khen người quản lý có khả năng hành động kịp thời và quyết liệt khi bị giồn vào chân tường. Rồi từ đó Chúa kết luận: Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn hơn con cái ánh sáng (Lc 16:8). Và rồi Chúa thách thức ta: Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu (Lc 16:9).

Lời thách đố của Chúa có nghĩa là ta phải biến đổi tiền của vật chất thành phương tiện để mở mang xây dựng nước Chúa. Lời thách đố của Chúa có nghĩa là ta phải biến đổi tiền của vật chất thành phương tiện để mở mang, xây dựng Nước Chúa. Bài học Chúa muốn dạy ta hôm nay là ta phải khôn khéo và mạo hiểm, phải dùng óc sáng kiến và tài sáng nghiệp để tạo cho ta một tương lai trong Nước Chúa, như người quản lý bất lương sửa soạn cho tương lai của mình trong nước trần gian.Tại sao ta sẵn sàng mạo hiểm trong những lãnh vực khác của cuộc sống và cảm phục người khác làm như vậy? Nhưng còn việc liên hệ với Chúa ta lại thường đắn đo và dè dặt. Trong Phúc âm hôm nay Chúa muốn so sánh cái cách thế người ta dùng trong những trường hợp có liên can đến những sự vật trần thế với những cách thế mà người ta dùng để đương đầu với những sự vật thiêng liêng..

Nếu người quản lý bất lương đã dùng cái sáng kiến để đương đầu với trở ngại hầu có thể đi tới một giải quyềt ổn thoả, thì Chúa cũng muốn cho ta dùng sáng kiến để đối phó vời những trở ngại thiêng liêng.Đạo giáo trong đời sống hàng ngày cũng thách đố ta như bất cứ công việc nào khác.. Chúa đã cho ta một thách đố để ta đối phó bằng cách làm quyết định nhanh chóng và quả quyết cho đời sống thiêng liêng cũng như khi làm quyết định cho những sự vật trần thế.

Lời Chúa trong Phúc âm hôm nay vẫn còn thích hợp cho thời đại ta đang sống: Ai trung tín trong việc rất nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn (Lc 16: 10).

Về mục lục

.

PHẢN BỘI

Lm Bùi Quang Tuấn

Vào một đêm Chúa nhật không trăng sao của mùa đông năm 2001, Bob Hanssen rời khỏi căn nhà ấm áp của mình, tiến ra công viên Foxstone thuộc tiểu bang Virginia, đi đến hộp thư chết mang tên Ellis nằm dưới chân một cây cầu gỗ không người qua lại. Tại đây, Bob nhét vội chiếc túi nhựa với nhiều giấy tờ xuống một chiếc hố nhỏ vừa mới đào. Sau đó y lấp đất và lá lên. Đoạn ra về.

Vừa rời khỏi hàng cây ngoài cùng của công viên, thình lình tám, chín bóng đen xuất hiện, với súng lục lăm lăm trên tay. Họ ập đến chụp lấy Bob, đè xuống và còng tay lại. Đang khi đó mấy bóng đen khác tiến vào màn đêm, trở lại chỗ cây cầu gỗ, đào lên sấp giấy trong bịch nylông mà Bob vừa chôn xuống trước đó mấy phút.

Cũng trong thời gian ấy, tại một địa điểm khác không xa, một vài bóng đen cũng đang lén lút theo dõi một hộp thư bí mật mang tên Lewis. Họ quan sát xem có ai đến lấy số tiền mà Bob chưa kịp tiếp nhận không. Nhưng đợi hoài chẳng thấy, nên họ đã lặng lẽ thu hồi gói tiền trong đó chứa 50 ngàn đô la tiền mặt. Đây là số tiền mà người Nga trả cho Bob, một nhân viên lâu năm của Cơ quan Điều tra Liên bang FBI, để anh này bán cho họ những tài liệu tối mật của Hoa kỳ.

Các nhân viên phản gián FBI đã theo dõi và bắt quả tang hành động phản bội của Bob Hanssen. Họ điều tra và khám phá thêm rằng Bob đã làm gián điệp nhị trùng suốt 15 năm qua, gây nên những thiệt hại không thể đo lường cho uy tín của cơ quan FBI, trong đó có việc chỉ điểm ba điệp viên của Nga làm việc cho Hoa kỳ, khiến cho hai trong ba người này đã bị xử tử. Hiện nay Bob đang chờ ra toà về tội phản quốc và có nguy cơ lãnh án tử hình.

Không ít đồng nghiệp thân quen với Bob đã sửng sốt khi được tin anh ta bị bắt. Nhiều câu hỏi được đặt ra: Tại sao Bob lại phản bội đất nước, gia đình, con cái và bạn bè như vậy? Phải chăng anh ta bất mãn với cơ quan tình báo và muốn trả đũa việc các nhân viên CIA bị buộc phải dùng đến food stamps vào năm 1985? Hay bởi vì có một khúc mắc tâm lý nào đó trong đầu của Bob Hanssen?

Hàng chục câu hỏi được nêu lên, nhưng câu trả lời dễ hiểu nhất chính là: Bob Hanssen cần tiền. Tính ra từ khi khởi sự mua bán tin mật cho đến ngày bị bắt, Bob đã nhận được 600 ngàn đô, 3 viên kim cương, và 800 ngàn đô khác trong một nhà băng tại Nga.

“Đồng tiền có sức mạnh vạn năng,” nhiều người đã nói như thế. Lắm lúc chính đồng tiền đã làm đảo điên cán cân công lý, dập tắt tiếng nói của lương tâm, và hủy diệt bao quan hệ thân thương giữa con người với nhau. Chỉ vì một lợi nhuận riêng tư mà không ít kẻ đã bất chấp danh dự và nhân phẩm của chính mình, miễn sao có tiền.

Từ thuở xa xưa, lòng tham đã chi phối đời sống con người. Khi ẩn trong đồng tiền là những giá trị vật chất có khả năng trao đổi mua bán, và khi giá trị mọi sự, ngay cả giá trị con người, được qui định dựa trên tiền tài vật chất, thì đồng tiền bắt đầu chiếm địa vị độc tôn trong lòng người ta. Nó trở thành chủ nhân ông, khống chế hết mọi ý hướng đạo đức, công bình, và nhân phẩm.

Đứng trước tình cảnh bao kẻ đàn áp, bon chen, vì đồng tiền, thậm chí còn coi thường phẩm giá và bóc lột đồng loại đến tận xương tuỷ, Tiên Tri Amos, vị ngôn sứ sống vào thế kỷ thứ VIII trước Công nguyên, đã lên tiếng cảnh tỉnh: “Hãy nghe đây, hỡi những kẻ đàn áp người nghèo và muốn tiêu diệt những ai bần cùng. Các ngươi tự nhủ: ‘Bao giờ mới hết tuần trăng để chúng tôi buôn bán? Khi nào mới qua ngày nghỉ lễ để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi người túng thiếu…’ Và Chúa đã thề rằng: ‘Ta sẽ lãng quên tất cả việc chúng làm cho đến cùng” (Am 8:4-7).

Bị Thiên Chúa lãng quên là một hình phạt khủng khiếp. Bản cáo trạng được đọc lên từ thời xa xưa, nhưng nó vẫn còn vang vọng cho đến hôm nay. Bởi vì vẫn có đó những kẻ lợi dụng sự khó khăn túng thiếu của người khác để chèn ép, tước đoạt, và làm giàu. Vẫn có đó những kẻ chẳng màng chi lễ lạy, cứ “thành tâm” làm nô lệ cho công việc và đồng tiền. Vẫn có đó những kẻ chuyên gian dối, lọc lừa, đổi giá, tráo hàng để thu lợi. Và vẫn có đó những kẻ “lấy đôi dép” để đổi một thai nhi, phá đi một mạng người. Tuy không phải là những tên gián điệp phản bội quốc gia, nhưng họ là những kẻ bội phản con người và rao bán chính mình.

“Các ngươi không thể vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền tài.”

Chân thành lắng nghe tiếng nói của lương tâm, người ta sẽ không thể thu lợi bằng con đường bất chính. Giữa Thiên Chúa và tiền của, con người phải chọn một. Nếu đặt Thượng Đế làm cùng đích, tiền bạc phải là phương tiện. Và chỉ có chọn lựa như thế mới mang lại giá trị và hạnh phúc đích thật cho con người.

Bài Phúc âm “Người Quản Lý Bất Lương” đã nên như một lời cảnh tỉnh dành cho con người trong thế giới tôn thờ vật chất. Phải chăng Đức Giêsu muốn nói: sẽ đến một ngày, người ta phải rời khỏi căn nhà trần gian, chẳng ai còn được làm chức quản lý nữa. Họ sẽ phải tính sổ về việc tìm kiếm và sử dụng tiền bạc khi còn tại thế. Người biết dùng của cải để mua bạn hữu, công phúc, sẽ được tiếp đón hân hoan. Kẻ tôn thờ tiền bạc, phản bội lương tâm, tàn phá nhân phẩm sẽ lãnh lấy bản án thịnh nộ gay gắt.

Lời Thánh Kinh vẫn luôn nhắc nhở:

Ấy, con người khác chi hơi thở

Vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu

Công vất vả ngược xuôi làn gió thoảng

Ký cóp mà chẳng hay ai sẽ tiêu dùng.

(Tv 38)

Về mục lục

.

KHÔNG AI CÓ THỂ LÀM TÔI HAI CHỦ

Lm. Cao Tấn Tĩnh

Bài Phúc Âm theo Thánh Luca cho Chúa Nhật XXV Mùa Thường Niên Năm C hôm nay, giống như bài Phúc Âm tuần trước, cũng có hai phần, phần buộc đọc và phần không buộc đọc. Nếu phần không buộc đọc của bài Phúc Âm tuần trước dài hơn và ở đoạn cuối, thì phần không buộc đọc của bài Phúc Âm tuần này cũng dài hơn và ở đoạn đầu, đó là đoạn diễn tả về người quản gia bị thanh tra về những thiệt hại gây ra cho gia chủ nên hắn đã mánh khóe lén lút tìm cách để có thể sống còn sau khi bị cách chức đuổi đi. Còn phần buộc đọc trong bài Phúc Âm hôm nay, có thể tóm gọn trong lời Chúa Giêsu khẳng định với các môn đệ của Người là “không ai có thể làm tôi hai chủ”. Bởi vì, theo Người cho biết ngay sau đó là, “hắn sẽ ghét chủ này mà thương chủ kia, hay để ý đến chủ này mà khinh chủ nọ”. Ngoài ra, kết thúc bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu còn cho biết rõ hai chủ này là gì, qua lời Người khuyên các môn đệ như sau: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi tiền bạc”. Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao Chúa Giêsu không nói đến vai trò làm chủ hay chủ chốt của “bản thân mình” là yếu tố chính yếu và trước hết con người phải từ bỏ họ mới có thể theo Người, làm môn đệ của Người, như tinh thần của lời Chúa phán trong bài Phúc Âm theo Thánh Luca của Chúa Nhật Thường Niên XXIII Năm C cách đây hai tuần. Bởi vì, có bỏ bản thân mình hay làm chủ bản thân mình, chúng ta mới có thể làm chủ được tất cả mọi sự phụ thuộc khác, chẳng hạn như danh vọng chức quyền hay của cải tiền bạc. Ngoài ra, tại sao Chúa Giêsu cũng không đề cập đến Satan vốn đóng vai vương chủ thế gian “từ ban đầu” (Jn 8:44), tức từ sau khi đã làm cho hai nguyên tổ sa ngã phạm tội, như chính hắn đã tự nhận chủ quyền của mình trên thế gian khi cám dỗ Chúa Giêsu trong hoang địa về lòng tham của cải, ở Phúc Âm Thánh Luca đoạn 4, câu 6 và 7. Vậy, tại sao ở đây Chúa Giêsu lại tôn phong tiền bạc lên vai trò làm chủ, vốn là những gì ngoại thân của con người chủ thể, và là những gì Satan dùng làm mồi nhử lòng tham vô đáy của con người?

Đúng thế, tự bản chất, mọi sự ngoại thân của con người chỉ là phụ thuộc chứ không phải chủ chốt nơi con người hay vượt trên con người, loài tạo vật duy nhất trên thế gian này đã được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài và tương tự như Ngài để ban cho quyền làm chủ trái đất, như Sách Khởi Nguyên ghi nhận ở đoạn 1 câu 27 và 28. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, chính những cái phụ thuộc nhiều lúc lại trở thành chính yếu, trở thành chủ chốt trong cuộc đời con người và đối với con người, đến nỗi, thay vì con người ăn để sống thì lại sống để ăn, như hiện trạng xã hội văn minh tân tiến gần như tột bậc ngày nay hiển nhiên cho thấy, liên quan đến cá nhân chủ nghĩa và duy lợi chủ nghĩa. Không phải hay sao, vàng bạc chỉ là vật tùy thân, tuy nhiên, chúng đã trở thành một con bò vàng đúc, thành cứu chúa một thời của dân Do Thái trong sa mạc dưới chân Núi Sinai, như Sách Xuất Hành thuật lại trong bài đọc một tuần trước! Cũng không phải hay sao, đang nắm trong tay “tất cả mọi sự của cha là của con”, tức đang làm chủ gia tài với cha của mình, người con thứ, như trong phần không buộc đọc của bài Phúc Âm tuần trước thuật lại, “sau khi phung phá tiền bạc vào cuộc sống buông tuồng… hắn đã phải đi làm công cho một người trong vùng, người đã sai hắn đi chăn heo. Hắn mong sao được no bụng bằng các thứ cám heo ăn mà cũng chẳng ai cho”. “Người trong vùng” đây là ai, nếu không phải đam mê nhục dục nơi con người, “chăn heo” đây là gì, nếu không phải sống theo xác thịt, và “cám heo ăn” đây là chi, nếu không phải là của cải tiện nghi vật chất, là những gì làm thỏa mãn xác thịt, cũng là những gì xác thịt vốn thích hưởng thụ. Đúng thế, một khi con người phung phá hết gia tài ân sủng được ban cho mình, như chính họ xin Thiên Chúa là Cha chia cho qua Bí Tích Rửa Tội, nghĩa là sau khi con người đã từ bỏ Thiên Chúa là chủ tể tối cao duy nhất của mình, họ sẽ đi đến chỗ làm tôi cho tiền bạc, cho vật chất tầm thường như “các thứ cám heo”, đến nỗi, chúng trở thành những gì quí nhất, không thể thiếu trong đời họ, dù họ không bao giờ no thỏa chúng chăng nữa.

Lời Chúa Giêsu khẳng định và cảnh giác các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay: “Không tôi tớ nào có thể làm tôi hai chủ. Hắn sẽ ghét chủ này mà thương chủ kia, hay để ý đến chủ này mà khinh chủ nọ”, về phương diện sống đạo quả thực là như thế đó. Tuy nhiên, nguyên tắc sống đức tin còn cho thấy rằng, con người chỉ có thể làm tôi Thiên Chúa, một khi họ thực sự nhận biết ý định của Ngài, cũng như nhận biết chính bản thân của Ngài mà thôi, tức một khi họ nhận biết những mạc khải được Thánh Phaolô xác tín và loan truyền trong Thư Thứ Nhất gửi Timôthêu ở bài đọc thứ hai hôm nay, đó là: “Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. Và chân lý ở chỗ: ‘Chỉ có một Thiên Chúa. Chỉ có một Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, đó là con người Đức Giêsu Kitô, Đấng đã hiến mạng sống làm giá chuộc tất cả mọi người”. Bằng không, nếu không nhận biết Thiên Chúa, không tôn phụng một mình Ngài là chủ tể duy nhất và trên hết của mình cũng như của tất cả mọi người, con người sẽ đi đến tình trạng coi của hơn người, đến tình trạng chỉ “sống nguyên bởi bánh”, tình trạng sống để mà ăn hơn là ăn để mà sống, một tình trạng của “những kẻ đàn áp người nghèo khó và muốn tiêu diệt hết những kẻ bần cùng trong đất nước”, như được tiên tri Amos diễn tả trong bài đọc thứ nhất hôm nay như sau: “Bao giờ qua tuần trăng mới để chúng tôi bán hàng? Khi nào hết ngày Sabbat để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi lấy người túng thiếu. Chúng tôi bán lúa mục nát”. Về việc làm tôi tiền của đưa đến tình trạng lấn át lẫn nhau này càng được sáng tỏ hơn trong dụ ngôn về người phú hộ và Lazarô ở bài Phúc Âm tuần tới.

Đối tượng chính của những lời Chúa Giêsu khuyên dạy trong bài Phúc Âm hôm nay là thành phần các môn đệ của Người, chứ không phải là nhóm Pharisiêu, hay chung dân chúng, hoặc các trưởng tế và kỳ lão, như nơi một số đoạn Phúc Âm khác. Vậy lời Chúa huấn dụ các vị ở câu kết bài Phúc Âm hôm nay: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi tiền bạc” cho chúng ta thấy lý do chính yếu của việc Kitô hữu nói chung, và các vị có quyền chức trong Giáo Hội nói riêng, chểng mảng hay bỏ bê trách vụ quản gia đức tin của mình, thậm chí còn tác hại đến việc mở mang Nước Chúa, là vì họ chưa thật lòng hay hết lòng “tìm nước Chúa trước và sự công chính của Ngài” (Mt 6:33), trái lại, “còn lo lắng bối rối nhiều sự” phụ thuộc như Matta trong Phúc Âm Chúa Nhật XVI Mùa Thường Niên Năm C trước đây, chưa kể đến có những lúc họ còn ham mê danh vọng chức quyền, giầu sang phú quí, cạnh tranh hoạt động v.v. Trong những trường hợp đang sống bê bối với trách nhiệm thiêng liêng của mình như thế, trường hợp người quản gia đức tin đang tác hại nhà Chúa như vậy, họ phải trả lẽ ra sao với vị Thiên Chúa gia chủ của họ, với Đấng đã kêu gọi và ký thác việc trông coi nhà Chúa cho họ, nếu không phải họ cần phải khôn lanh như tên quản gia được Chúa Giêsu khen trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, đoạn Phúc Âm ở trong ngoặc đơn không buộc đọc. Đúng thế, nếu tên quản gia trong dụ ngôn này lén lút bớt xén nợ nần cho các con nợ của gia chủ để nhờ đó khi sa cơ lỡ bước anh ta sẽ được hậu đãi và có nơi nương tựa thế nào, thì thành phần quản gia thiêng liêng coi sóc nhà Chúa cũng vậy, nếu biết thông cảm với lỗi lầm của kẻ khác, tức thông cảm với những yếu đuối vấp phạm các kẻ ấy mắc nợ với Chúa, họ cũng sẽ được cảm thông lỗi lầm của họ như thế, sẽ không bị ruồng bỏ: “Ai có lòng xót thương ấy là phúc thật, vì chưng mình sẽ được thương xót vậy” (Mt 5:7) là thế.

Vấn đề thực hành sống đạo: Lời Chúa Giêsu khuyên dạy các tông đồ trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXV Mùa Thường Niên Năm C hôm nay là “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi tiền bạc”, vì “không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ”, một sự thật không thể chối cãi được ngôn ngữ bình dân Việt Nam khuyên là “đừng bắt cá hai tay”. Thế mà, nếu có một tông đồ Giuđa vừa theo Chúa vừa giữ túi tiền đến nỗi bán chủ lấy tiền thế nào, thì lích sử Giáo Hội cũng không thiếu những vị nên thánh trong cảnh giầu sang phú quí như vậy. Phải chăng các vị thánh này đã biết “trả cho Cêsa những gì của Cêsa và trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” (Mt 22:21).

Về mục lục

.

KHÔNG THỂ LÀM TÔI HAI CHỦ

Lm. Nguyễn Tiến Huân

“Trung thần bất sự nhị quân” (Người tôi trung không thờ hai vua). Đó là câu người Việt Nam chúng ta thường nói. Trong bài Phúc Âm hôn nay Chúa dạy: “Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ… Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được” (Lc 16:12-13).

Đó là nguyên tắc phải noi theo triệt để. Nguyên tắc này lại rất khó thực hiện cách hoàn toàn và nhiều khi, nếu không hiểu đúng, còn làm chúng ta hoang mang trong đời sống vật chất phức tạp này. Vì, một đàng Chúa truyền chúng ta phải chu toàn nghĩa vụ lo lắng cho gia đình được ấm no (Giới răn 4), phải lo làm việc không được lười biếng như thánh Phaolô nói: “Ai không làm việc thì đừng có ăn” (2 Thes 3:10) và thực tế “có thực mới vực được Đạo”. Nhưng đàng khác Chúa cũng dạy: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước thiên dàng” (Mt 19:24). Nước Trời chỉ dành cho những ai có tinh thần nghèo khó: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó vì nước Trời là của họ” (Mt 5:3). Và rõ ràng nhất trong bài Phúc Âm hôm nay: “Không ai có thể làm tôi hai chủ… các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16:13).

Vậy phải làm sao đây? Phải khôn ngoan như viên quản lý trong bài Phúc Âm. Chúa không khen việc gian lận của anh ta, nhưng ngài khen việc anh ta biết khôn ngoan khéo léo quyết định trong lúc “bí”. Đó cũng là thái độ của chúng ta phải có khi đứng trước biến cố cứu rỗi, đứng trước sự “dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu để được tiếp đón vào chốn an nghỉ đời đời” (c. 9).

Tiền của là con dao hai lưỡi, biết dùng thì tốt không biết dùng thì sinh hoạ. Tiền của là tên đầy tứ tốt nhưng là ông chủ rất xấu. Vậy cái nguy hiểm không phải là tiền của. Tiền của Chúa dựng nên tự nó không xấu. Cái nguy hiểm, cái xấu là nơi lòng dạ chúng ta, người xử dụng nó. Chúng ta có quyền và phải dùng tiền của mà sinh sống mà mua sắm nước thiên đàng bằng việc bác ái xã hội. Tiền của phải là phương tiện, là tên đầy tớ để chúng ta sai khiến và làm việc theo ý ta, không được để tiền của trở thành cùng đích, thành ông chủ sai khiến ta, bắt ta làm nô lệ nó. Chúa dạy “không được làm tôi tiền của” chứ không dạy “không được có tiền của”. Chúa dạy hãy bắt chước viên quản lý nọ biết dùng tiền của mà vào thiên đàng: hãy chú ý tới tinh thần và cách thức dùng tiền của.

Lạy Chúa, tuần này con quyết thực tập bài học Chúa dạy: dùng tiền của để vào thiên đàng bằng việc bác ái công đức xã hội.

Về mục lục

.

CÓ TIỀN, HÃY ĐEM SỬ DỤNG

Lm. G. Nguyễn Cao Luật

Phải lựa chọn ngay

Dụ ngôn được thuật lại trong bài Tin Mừng hôm nay thường gây nhiều vấp phạm khi trình bày thái độ của người quản gia tinh khôn như là được phép. Tuy vậy, cần phải đặt dụ ngôn vào toàn thể văn mạch của Tin Mừng và trong toàn bộ của phần phụng vụ Lời Chúa.

Tin Mừng không cho biết người quản gia bất lương ở chỗ nào, chỉ biết rằng anh ta phung phí tài sản của chủ. Anh bị gọi đến và nhận được thông báo phải nghỉ việc. Trước tương lai đen tối, anh ta phải tính toán. Không thể nào ngổi yên mà chịu chết đói. Nhưng làm gì bây giờ? Không có sức để làm nghề nông, còn đi ăn xin thì xấu hỗ. Và anh đã tìm được một kế: lừa bịp ông chủ và gây thiện cảm với các con nợ của chủ. Những người này phải giúp lại anh ta, ít là tạm thời, cho đến khi anh ta kiếm được địa vị tương tự. Sự khéo léo tính toán này có tính cách quan trọng.

Như vậy, khởi đầu người quản gia đã tạo cho mình một thế giới nhỏ hẹp, và anh ta nghĩ rằng tương lai mình được bảo đảm. Chỗ cậy dựa của anh ta, đó là tiền bạc anh đã đánh cắp của ông chủ. Nhưng mảnh đất nhỏ hẹp, nơi anh đang thu mình, lại nỗ tung, và anh lại phải đối diện với những nguy cơ của cuộc sống, phải đỗ mổ hôi để kiếm miếng ăn.

Bấy giờ anh ta lại phải tìm cách lập lại vòng an toàn cho mình. Cái vòng này cũng vẫn dựa trên tiền bạc. Nhưng phải có sự trợ giúp của người khác, cần có sự đỗi chác: tôi trừ số nợ anh mắc với chủ, và ngày mai, anh nhớ đón tiếp tôi.

Thật là khôn khéo. Chính Đức Giêsu đã ghi nhận ở cuối dụ ngôn. Khi con người muốn tìm sự an toàn cho mình, họ đem hết mọi nỗ lực, mọi khả năng để làm điều đó.

Thế là mối tương quan giữa người quản gia và ông chủ, lẽ ra phải dựa trên sự tin tưởng, công bằng và tự do, lại được đặt trên sự hư hoại, trên mưu mẹo. Tất cả mọi phía đều bị hạ thấp.

Thực vậy, sự an toàn đó chỉ có tính cách giả tạo, tạm bợ, vì nó dựa trên sự đỗi chác, trên sự ngờ vực.

Mặc dù khen ngợi sự khôn khéo của người quản gia, nhưng Đức Giêsu không hề có ý khuyên các môn đệ phải noi theo gương người quản gia. Có chăng, ở đây, Đức Giêsu chỉ muốn đề cập đến thái độ khôn ngoan và mau lẹ trước mầu nhiệm Nước Trời. Trước những vấn đề của trần gian, trước sự an toàn giả tạo, tạm bợ, người ta khôn khéo và mau lẹ, còn trước mầu nhiệm Nước Trời, trước vận mệnh vĩnh cửu của mình, người ta lại hững hờ và chậm chạp. Hẳn là Đức Giêsu cảm thấy đau lòng vì lời giảng dạy của Người, các phép lạ Người làm không giúp các môn đệ ý thức hơn, nhanh nhẹn và nhiệt thành hơn trong việc đi theo Người. Dụ ngôn được kể ra như để cho thấy nét đặc trưng trong sứ điệp của Đức Giêsu. Đọc dụ ngôn nay, người ta liên tưởng đến dụ ngôn cây vả (Lc 16,3-9), và dụ ngôn hai người kiện cáo nhau (12,58-59).

Như vậy, trước đám thính giả hay tò mò, nhưng lại chẳng quyết định gì cả, Đức Giêsu tìm cách cho họ ý thức được tầm quan trọng của tình trạng: họ phải mau mắn lựa chọn khi nghe sứ điệp của Đức Giêsu. Phải quyết định ngay, không thể chần chờ, vì đã quá trễ; hạnh phúc tương lai tuỳ thuộc vào đấy.

Cung cách quản lý mới

Từ đó, Đức Giêsu mời gọi thay đỗi cung cách quản lý. Tiền bạc vẫn cần phải có, nhưng phải khéo léo sử dụng: tiền bạc được sử dụng dựa trên tình bạn, trên sự tin tưởng, sự chân thật.

Theo quan niệm Tin Mừng, tiền bạc có thể là một nguy cơ lớn lao cho con người. “Hạnh phúc thay ai có tâm hổn nghèo khó.” Tuy vậy, tiền bạc bị khinh chê không phải vì tiền bạc, nhưng là vì cách sử dụng. Khi người ta lo giữ cho mình, tiền bạc trở thành tai hoạ, còn khi đem bố thí cho người nghèo, tiền bạc trở thành một bảo đảm cho hạnh phúc vĩnh cửu. Chính cách quản lý như thế này cũng chứng tỏ lòng trung tín của một người được giao nhiệm vụ trông coi tài sản của chủ. Có nhiều cách để quản lý tài sản, ở đây là phân phát cho người nghèo, không được coi những của cải mình đang nắm giữ là của riêng mình, để rổi chỉ lo cho những nhu cầu của mình, trái lại, phải luôn nhớ rằng, Thiên Chúa đã trao những của cải đó để mưu ích cho người nghèo. Như vậy, sau khi kêu gọi người tín hữu phải biết khôn khéo, Tin Mừng mời gọi họ hãy sống xứng đáng với lòng tin tưởng Thiên Chúa dành cho họ qua việc trao cho họ sử dụng những của cải trần gian.

Cuối cùng, người ta sẽ phải lựa chọn giữa Thiên Chúa và tiền bạc. Phụng thờ Thiên Chúa có nghĩa là dấn thân cách trọn vẹn, quyết liệt, không hề nghĩ tưởng đến một điều gì khác. Còn khi coi tiền bạc là tất cả, người ta sẽ biến nó thành một vị thần, và phục lạy nó.

Tới đây, người ta nhận thấy rõ giáo huấn về cách sử dụng tiền bạc. Người tín hữu hiểu rằng mình đón nhận của cải là để chia sẻ với người khác đang phải túng thiếu. Nếu họ mải mê với nó, và xử sự như là mình có quyền tuyệt đối, họ đã biến nó thành ngẫu tượng, và như vậy là đụng chạm đến quyền tối thượng của Thiên Chúa. Kẻ thù nguy hiểm nhất của tự do con người là tiền bạc; nó muốn lôi chúng ta ra khỏi Thiên Chúa để đi theo nó.

Như thế, có hai thế giới: một thế giới của tiền bạc, của sự an toàn giả tạo, của sự tính toán hơn thiệt; một thế giới của sự tin tưởng, của tình bạn, của sự ban tặng. Giữa hai thế giới, không thể có sự thoả hiệp. Giữa Thiên Chúa và tiền bạc: người ta phải chọn lựa một trong hai, và khi đã chọn lựa, phải sống theo chọn lựa ấy.

* * *

Câu chuyện về người quản gia bất lương nhắc nhở hai giáo huấn: mỗi người phải ý thức về những đòi hỏi của giai đoạn hiện tại, và phải đáp trả ngay tức khắc và không thoái lui trước lời mời gọi của ân sủng. Nếu để lui lại thì sẽ chậm trễ.

Vậy, mỗi chúng ta phải biết sử dụng tiền của: thái độ của người Ki-tô hữu phải thật dứt khoát, không chút lập lờ, đó là sử dụng tiền của cho những ai đang cần đến. Nếu lo tích trữ cho mình, chúng ta sẽ trở thành người sùng bái ngẫu tượng.

Thực là một điều khó khăn, tiền bạc vẫn cần, vẫn phải có, nhưng lại phải vượt qua, phải khước từ như là không có, không phải của mình.

* * *

Bạn có nhiều của cải? Rất tốt!

Cha bạn có tài sản lớn lao

và bạn được thừa kế: rất hợp pháp!

Nhà bạn đầy những thành quả

do công lao vất vả của bạn:

chẳng có gì đáng chê trách!

Nhưng này bạn,

đó không phải là giàu có,

vì nó không làm cho bạn được bình an.

Nếu bạn yêu quý những của cải ấy,

bạn sẽ bị tiêu diệt cùng với nó.

Hãy đem tiêu dùng, và bạn sẽ không bị diệt vong.

Hãy đem cho, và bạn sẽ nêu giàu có;

hãy đem gieo, và bạn sẽ gặt lại được.

phỏng theo thánh Âu-tinh

Về mục lục

.

TIỀN BẠC

Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu

Tiền bạc là một vấn đề lớn trong đời sống con người và xã hội. Phụng vụ Lời Chúa, đặc biệt là bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nói chuyện về tiền bạc cho chúng ta nghe.

  1. Tiền bạc là người đầy tớ tốt

Đức Giêsu kể chuyện một ông quản lý bất trung, dùng tiền bạc của chủ để mua bạn bè. Biết mình sắp bị đuổi việc, anh sửa lại sổ sách làm lợi cho con nợ. Người nợ 100 thùng dầu, anh sửa lại là 50. Kẻ nợ 1.000 giạ lúa, anh sửa lại là 800. Kết quả là sau khi mất chức quản lý, anh vẫn còn được các con nợ đón tiếp: nay ở nhà con nợ này, mai ở nhà con nợ kia.

Là người ai cũng phải chết, có giàu sang phú quí đi nữa cũng chỉ vỏn vẹn ba tấc đất là mồ. Vậy chúng ta phải tính toán trước sau, phải khôn khéo trong việc dùng tiền của như ông quản lý bất lương đã làm là “dùng tiền của đời này mà làm việc thiện, mua lấy bạn bè, mua lấy sự sống đời đời”.

Việc thiện hôm nay ta làm là vốn liếng dành cho mai sau. Tiền làm việc thiện là người bạn trung thành theo ta về đời sau. Việc thiện không chỉ là đem cơm áo đến cho người nghèo, nhưng là tham gia mọi sinh hoạt có mục đích phát triển con người toàn diện: nâng cao dân trí, làm đẹp dân sinh, phát huy dân đức.

  1. Tiền bạc là thước đo lòng người

Làm sao nhận biết được người công chính và kẻ bất lương? Cứ xem cách người ta xử dụng tiền bạc: “Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai dám tín nhiệm mà trao phó của cải chân thật cho anh em.”

Mathêu là nhân viên thu thuế, một nghề hái ra tiền, nhưng đã bỏ nghề để đi theo Đức Giêsu làm tông đồ, sống lang thang nay đây mai đó. Từ đó ta nhận thấy tấm lòng của Mathêu. Một người đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Ông yêu Chúa thật lòng, mến Chúa trên hết mọi sự.

Trái lại, Giuđa Iscariôt, một kẻ vô danh, được Đức Giêsu chọn gọi làm tông đồ và tin tưởng giao cho chức quản lý, nắm giữ túi tiền của tông đồ đoàn. Nhưng anh ta đã lợi dụng chức vụ để ăn cắp tiền của tập thể và tính toán trong việc từ thiện. Anh ta tìm đủ mọi cách để kinh doanh Tin mừng và rao bán Thày của mình nhằm kiếm chác lợi nhuận. Tin mừng kể rằng: “Bấy giờ một trong nhóm Mười Hai là Giuđa Iscariôt đi gặp các Thượng tế mà nói: Tôi nộp ông ấy cho quí vị, quí vị cho tôi bao nhiêu? Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc.” (Mt 26,15). Từ đó ta nhận thấy lòng dạ của Giuđa. Anh ta là một con người giả dối, ham tiền và bỉ ổi. Tiền bạc đối với anh ta là trên hết. Anh ta đã được Đức Giêsu đánh giá “thà đừng sinh ra còn hơn”.

  1. Tiền bạc là một vị thần xấu

Khi người ta tôn thờ tiền của vật chất, coi tiền bạc là tiên là phật, là cùng đích của cuộc đời, thì lại là lúc người ta bị Tiền Của làm cho thoái hoá biến chất. Tông đồ Giuđa là một chứng cứ hiển nhiên. Chính vì thế mà hôm nay, Đức Giêsu đã cảnh giác chúng ta: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được”.

Không chỉ có Đức Giêsu mới cảnh báo chúng ta về sự nguy hiểm của tiền bạc mà từ xa xưa Tiên tri Amos cũng đã nhân danh Thiên Chúa vạch trần tội ác của những kẻ tham tiền: “Bao giờ ngày mồng một qua đi cho ta còn bán lúa, bao giờ mới hết ngày sabat, để ta bày thóc ra. Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm. Ta sẽ làm lệnh cán cân để đánh lừa thiên hạ. Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần, đem đôi dép đổi lấy tên cùng khổ, cả lúa nát gạo mục ta cũng đem ra bán.” Quả thật, tất cả mọi tội ác trên đời này đều do tiền mà ra:

Con bất hiếu với cha mẹ, trò phản thày, dân phản quốc…, nếu truy cho đến cùng, thì bị cáo đầu tiên chính là tiền.

Một chế độ thối nát rồi sụp đổ, một tôn giáo suy thoái hay một tổ chức từ thiện bị tai tiếng, thì nguyên căn bản nhân chính là tiền.

Những cảnh buôn bán sức lao động, buôn bán phụ nữ và trẻ em vẫn xảy ra thường này như cơm bữa. Nguyên nhân chính cũng là tiền.

Những tổ chức mafia: buôn bán hêrôin và vũ khí…, đều là những tội ác tày trời, gây nguy hiểm chết người. Luật pháp quốc tế và quốc gia sẽ bỏ tù và trừng trị đích đáng những kẻ này. Thế mà lắm kẻ vẫn lao đầu vào như con những con thiêu thân. Tại sao? Tại vì hám lợi, tham tiền.

Lạy Chúa, hôm nay Chúa nói cho chúng con nghe về tiền bạc. Xin cho chúng con biết dùng tiền của cho nên, để mưu cầu hạnh phúc cho chúng con và tha nhân ở đời này và đời sau. Amen.

Về mục lục

.

TIỀN BẠC ĐỐI VỚI NGƯỜI KITÔ HỮU

Trần Đình Phan Tiến

Tiền bạc dẫn đưa con người đến hạnh phúc, nhưng là hạnh phúc giả tạo.

Thật vậy, nếu nói rằng tiền bạc không cần thiết là điều không đúng. Xét cho cùng tiền bạc chính là một sự chứng nhận để lưu hành bởi một tờ giấy có ghi số và chữ. Nhưng muốn có tiền, người ta phải ra sức làm việc để kiếm tiền. Nên chi, việc sử dụng đồng tiền do công sức mình kiếm được là một điều chính đáng. Nhưng tiền bạc không phải là sự tận cùng, trên tiền bạc, đó là hạnh phúc vĩnh cửu. Vì nếu tiền bạc thật sự là hạnh phúc vĩnh cửu, thì không còn là tiền bạc nữa, không còn là hạnh phúc nữa, mà là sự chết, sự trầm luân muôn đời. Vì lúc đó con người sẽ sát phạt nhau để giành lấy tiền bạc, và bất phân thắng bại, con người sẽ không có sự sống, mà là sự chết, sự diệt vong con người. Như vậy, là sự đối nghịch với sự sống, là đối nghịch với Thiên Chúa. Với ý nghĩa đó, Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn “Người quản gia bất trung” để rao giàng Tin Mừng Nước Trời.

Từ dụ ngôn “Người quản gia bất trung”, (Lc 16,1-8), Chúa Giêsu cho chúng ta một nhận thức tỉnh táo về Nước Trời. Nước Trời là một trạng thái siêu nhiên, nhưng vĩnh cửu mà không ai đạt tới được. Nước Trời quan trọng và rất đỗi thiết thực, đến độ cuộc sống hiện tại không thể không nhắm tới. “Người quản gia bất trung” còn biết dùng sự bất lương của mình mà mua lấy một cuộc sống sau khi về hưu, bị đuổi việc, huống chi là người tín hữu không biết lợi dụng thời cơ ở đời nầy mà mua lấy Nước Trời. Nghĩa đen là dùng đồng tiền, nhưng nghĩa bóng đó là, biết dùng công sức và thời gian để xây dựng Nước Trời.

Nếu hiểu theo nghĩa đen, chắc chắn nhiều người làm việc Tông đồ không phải vì Tông đồ mà là vì tiền bạc. Ví dụ, một linh mục khi còn làm việc được thì lo thâu tóm “chút ít” để khi về già, hưu rồi có cái để chi dùng. Nếu hiểu như vậy, thì không đúng. Nhưng chúng ta biết dùng của cải cho đúng cách với mục đích vì Nước Trời thì chúng ta thật diễm phúc, vì chúng ta biết sử dụng cái chóng qua để mua lấy sự vĩnh cửu. Qua dụ ngôn: Người quản gia bất trung, chúng ta thấy, Chúa Giêsu đã đề cao tinh thần Nước Trời nơi công việc trần thế. Điều đó có nghĩa là khi chúng ta sống nơi thân xác hữu hình, chúng ta cũng phải biết dùng thời gian thuận tiện để làm lợi cho đời sống tâm linh của chúng ta. Khi chúng ta được “gọi về”, chúng ta hãnh diện mang theo hành lý là Tin Mừng Nước Trời.

Chúa không đề cao sự bất trung của trần gian, nhưng qua cách khôn khéo của trần gian, Chúa Giêsu dạy chúng ta một thực tại Nước Trời. Nước Trời là điều không phải dễ hiểu, nên chi, từ dẫn chứng tự nhiên, Chúa Giêsu đã dẫn đưa con người đến sự siêu nhiên Nước Trời.

Để hiểu rõ hơn nội dung Đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta nhớ lại câu tục ngữ như sau: “Lấy của che thân, chứ đừng lấy thân che của”.

Phần II của đoạn Tin Mừng hôm nay: Trung tín trong việc sử dụng tiền của.

Dụ ngôn trên cho thấy, sự bất lương của người quản gia, nhưng là bài học để mua lấy Nước Trời. Chuyển tiếp qua phần II là sự trung tín trong việc sử dụng tiền của. Tiền của trần gian cho dù là gì đi nữa cũng được gọi là “bất chính”, bởi vì, nếu công chính thì không bao giờ có dư tiền của, tiền của “bất chính” ở đây không phải là trộm cướp, nhưng không phải là chính đáng. Ví dụ: Hưởng thừa kế, trúng mánh, cho vay, thắng bạc, kinh doanh có lời lớn, mua một bán mười, v.v… Đó là những tiền của bất chính, tiền của bất chính là cuộc sống tạm bợ nơi thân xác, nhưng con người biết trung tín sử dụng thì nó trở nên tốt. Người ta nói: Tiền bạc là đầy tớ tốt, nhưng là một ông chủ xấu. Ông chủ xấu, khi chúng ta tôn thờ đồng tiền, đồng tiền là hữu vật tự nhiên, chứ không phải thiên nhiên. Nhưng Chúa Giêsu muốn chúng ta dùng đồng tiền trần gian để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp. Cuộc sống tốt đẹp là biết đến nhu cầu cảu tha nhân. Rõ ràng, người cho vay và sống bởi tiền cho vay là sống bởi đồng tiền bất chính, vì sống trên nhu cầu khó khăn của người khác .Tiền của là phương tiện, chứ không phải là mục đích. Nên Chi, nếu chúng ta không trung tín trong việc sử dụng tiền của trần thế, thì chúng ta cũng không thể được giao công việc Nước Trời. Chúng ta chính là trong vai “ người đầy tớ bất trung” trên, vì Thiên Chúa ban cho chúng ta những của cải để chúng ta sinh ích lợi cho tha nhân, chứ không phải chỉ cho chúng ta mà thôi. Chúng ta được phép làm chủ của cải, chứ không được phép tôn thờ của cải. Đó là điều cần thiết, vì nếu chúng ta tôn thờ của cải, thì chúng ta sẽ không tôn thờ Thiên Chúa. Mặc nhiên, Chúa Giêsu đưa ra một sự chọn lựa dứt khoát là:Thiên Chúa và tiền của. Thiên Chúa và tiền của là hai vấn đề luôn đối lập và hiển nhiên không đồng hành song song. Đây là điều thách thức và cũng là đòi hỏi của Tin Mừng Nước Trời. Đây chính là cửa hẹp của người công giáo.

Chúa Giêsu không định kiến với người giàu về của cải, nhưng người có của cải thì khó có Thiên Chúa, vì Thiên Chúa không đứng dưới của cải, mà là Thiên Chúa đứng trên của cải. Của cải là thứ không mang được vào Thiên Quốc, vì của cải là phương tiện cho thân xác. Nhưng nếu con người biết sử dụng phương tiện của thân xác để mưu ích cho linh hồn,thì đó là điều khôn ngoan.

Vì vậy, Chúa Giêsu đã nói: “Kẻ giàu có khó vào Nước Trời biết bao!” “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Thiên Quốc” (Mt 19, 23-24).

Ước gì Lời Chúa hôm nay, sẽ thức tỉnh phàm nhân để họ nhận ra ánh sáng của Tin Mừng trong mọi biến cố cuộc đời, hầu soi sáng cho họ nhận ra chân lý của Lời Chúa. Amen.

Về mục lục

.

GIÁ TRỊ ĐỒNG TIỀN

Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng

ĐỒNG TIỀN ĐẾN

Đề tài về “tiền của” là đề tài dễ “bàn luận” nhất, vì đó là thứ gần gũi nhất đối với con người. Người ta gọi những người thân yêu là “bà con ruột thịt”, đồng thời người ta cũng thường nói “đồng tiền đi liền khúc ruột”, xem thế, ta thấy đồng tiền có quan hệ “máu mủ” với con người đến mức nào!

Cái gì người ta càng cần đến, thì cái đó càng quan trọng. Cái gì càng quan trọng thì cái đó càng được nhiều người muốn sở hữu. Cái gì càng có nhiều người muốn sở hữu thì cái đó càng quý. Người nào sở hữu nhiều thứ đồ quý, thì đó là dấu hiệu người đó giàu có. Người đó có sức mạnh. “Miệng người sang có gang có thép”.

Tiền là rất cần. Giới trẻ có những câu định nghĩa “tóm gọn sức mạnh đồng tiền” nghe vui vui, tỉ như: “Tiền là tiên là Phật, là sức bật lò xo, là thước đo lòng người, là nụ cười tuổi trẻ, là sức khỏe tuổi già, là cái đà danh vọng, là cái lọng che thân, là cán cân công lý, tiền là… hết ý!”.

Tiền là rất cần, nên người ta phải tìm cách có tiền. Không có cách làm ra tiền, thì làm ra tiền bằng mọi cách!

Vấn đề là chính là ở chỗ này! – Làm ra đồng tiền bằng mọi cách, không trừ những cách bất chính!- “Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông. Ông mới gọi anh ta đến mà bảo: ‘Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa!’” (Lc.16,1-2).

Biết bao người đã vấp ngã vì đồng tiền. Để có được đồng tiền, nhiều người đã đánh đổi cả danh dự, nhân phẩm, và cả niềm tin thiêng liêng nữa.

Họ trở thành nô lệ của Đồng Tiền! Hơn thế nữa, họ thờ Tiền! Họ bị Đồng Tiền trói buộc!

Những cách làm ra tiền bất chính thì rất đa dạng, muôn thứ. Có cái sờ sờ ra trước mắt, như ăn trộm, ăn cướp, mua gian bán lận… nhưng có thứ tinh vi, khó mà biết – nhưng muốn biết cũng không khó – nhiều khi vì lý do này, lý do kia, người ta không muốn biết, hay chưa nên biết, như: tham nhũng, lương lẹo, móc ngoặc, cắt xén công quỹ…

Trong Cổ Học Tinh Hoa có kể câu chuyện “Lấy của ban ngày” như sau:

Nước Tấn có kẻ hiếu lợi một hôm ra chợ gặp cái gì cũng lấy. Anh ta nói rằng: “Cái này tôi ăn được, cái này tôi mặc được, cái này tôi tiêu được, cái này tôi dùng được”. Lấy rồi đem đi. Người ta theo đòi tiền. Anh ta nói:

“Lửa tham nó bốc lên mờ cả hai con mắt. Bao nhiêu hàng hóa trong chợ tôi cứ tưởng của tôi cả, không còn trông thấy ai nữa. Thôi, các người cứ cho tôi, sau này tôi giàu có, tôi sẽ đem tiền trả lại”.

Người coi chợ thấy càn dở, đánh cho mấy roi, bắt của ai trả lại cho người ấy. Cả chợ cười ồ. Anh ta mắn:

“Thế gian còn nhiều kẻ hiếu lợi hơn ta, thường dụng thiên phương, bách kế ngấm ngầm lấy của người. Ta đây tuy thế, song lấy giữa ban ngày so với những kẻ ấy thì lại chẳng hơn ư? Các ngươi cười ta là các ngươi chưa nghĩ kỹ!” (Long Môn Tử).

ĐỒNG TIỀN ĐI

Tích trữ nhiều tiền của thì phải có mục đích. Mục đích phổ thông nhất là “hưởng thụ”. Trong Tin Mừng, chúng ta gặp rất nhiều ông Phú hộ sống kiểu “hồn ta hỡi … vui chơi cho đã”. (Lc.12,16-21; 16,19-31).

Trong đời thường, chúng ta càng thấy rõ hơn nữa. Những nơi giàu có, mức độ hưởng thụ “ăn chơi” càng “cao cấp”, càng “sang trọng”, và thú vui chơi thể hiện thiên hình vạn trạng và cực kỳ tốn kém.

Sự hưởng thụ nếu không có ánh sáng Tin Mừng soi dẫn, sẽ đi dần đến mức sa đọa, khi mục đích của nó là thỏa mãn những niềm vui nhất thời và vật chất. Hạnh phúc lúc bấy giờ chỉ giới hạn trong những thứ vui chơi thỏa mãn khuynh hướng tầm thường, và chỉ còn là niềm vui của riêng mình. Sự ích kỷ sẽ đưa con người đến vô trách nhiệm với tha nhân và trở nên độc ác.

Thường tình người ta vẫn nghĩ cuộc sống cần phải vươn lên, và vì thế, người ta có quyền hưởng thụ ở mức độ cao nhất như có thể, miễn là người ta làm ăn chính đáng, không hãm hại ai, không làm thiệt hại ai, không đá động tới ai.

Nhưng chúng ta vẫn nghe trong lòng một cái gì đó rất xót xa, khi có những người mua những chiếc du thuyền, những chiếc xe con, những phương tiện giải trí hàng tỷ đồng, và bên cạnh đó, biết bao người đói ăn, đói học, đói những mái nhà đơn sơ đủ để che mưa che nắng qua ngày! Có người thở dài: biết làm sao, bàn tay có năm ngón ngắn dài khác nhau là vậy! Chuyện ấy thời nào cũng có! Chẳng có ranh giới nào để định mức đâu là trách nhiệm đối với xã hội. Chỉ có tiếng gọi của Tình Thương. Trong Phúc Âm, câu chuyện ông Phú hộ và La-gia-rô là một thí dụ. (Lc.16,19-31).

Có những người tung tiền ra để mưu cầu danh vọng. Có những người tung tiền ra để mua quan bán chức. Có một câu chuyện khoa học giả tưởng về một thành phố của ngàn năm về sau, lúc đó, con người đã chế tạo ra những “người máy” tinh xảo. Đi giữa lòng thành phố, người ta không thể phân biệt được ai là “người máy” ai là người thật! Hay nói một cách khác, ai là người “giả”, ai là người “thật”! Ngày nay, nhiều khi cũng khó biết ai là “nhân tài” thật, ai là “nhân tài” giả. Có nơi, người ta rao bán “bằng cấp” trên Internet giống như người ta rao bán chè ở vĩa hè!

Đi xa hơn nữa, sự giàu có dễ quyến rũ người ta say mê thế lực. Cá nhân rồi đến tập thể, Đất Nước. Những Nước giàu có thì chế tạo và mua nhiều vũ khí. Những nước lớn và giàu có bao giờ cũng nói chuyện bằng sức mạnh và quyền lợi của họ trước tiên. “Tiền đẻ ra Tiền”. Làm ăn với tư thế “kẻ mạnh” thì bao giờ cũng có lợi, thậm chí còn bóp chết cả địch thủ cạnh tranh, cho dù là cạnh tranh lành mạnh. Vì rằng “thương trường cũng như chiến trường”, có “chết” và có “sống”. Không có quy luật đạo đức nào cụ thể được áp dụng ở đây. “Mạnh được yếu thua”. “Cá lớn nuốt cá bé”. Ngôn ngữ ngoại giao thì rất đẹp, mà trên thực tế nằm mơ cũng không thấy!

Cứ nơi nào có nhiều mỏ dầu, nhiều tài nguyên thiên nhiên, thì nơi đó có nhiều tranh chấp. Nơi nào có tranh chấp, thì nơi đó thường có những cuộc “tập trận”, phô trương vũ khí, sức mạnh quân sự của những bên liên hệ.

ĐỒNG TIỀN ĐEM LẠI

Đồng tiền giúp chúng ta thể hiện tình thương đối với đồng loại.

“Tiền của là một đầy tớ tốt, nhưng là một ông chủ xấu”. Nếu con người nô lệ vào tiền của, thì rõ ràng, con người gặp phải nhiều hậu quả thật tồi tệ cho cá nhân và cộng đồng nhân loại. Nếu con người làm chủ đồng tiền, thì con người sẽ cải thiện thế giới và con người sẽ hạnh phúc hơn.

Con người chỉ có một chủ là Thiên Chúa, và Thiên Chúa dạy con người biết làm chủ Tiền Của bằng Giới Luật Yêu Thương. “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được” (Lc.16,13).

Mẹ Têrêsa khi nhận giải Nobel, mẹ nghĩ ngay đến xử dụng đồng tiền để giúp đỡ những người bất hạnh. Thánh Phanxicô Assisi đã bỏ cuộc đời giàu có để dành trọn cuộc đời mình lên tiếng nói bênh vực và nâng đỡ người nghèo…

Thật may mắn, trong đời thường vẫn còn đó những trái tim biết chia sẻ một cách chân thành.

Chia sẻ chân thành là chia sẻ những gì mình có. Không phải cách “lương lẹo” của tên quản lý bất lương. Anh ta tỏ ra “nhân từ” bằng đồng tiền của chủ mình với ý đồ được có nơi nương tựa và tìm cơ hội cho tương lai. Thương người kiểu đó là một cách ăn trộm mà vẫn được người ta thấy mình đạo đức. Nó cũng giống như những người cho vay ăn lời cắt cổ thiên hạ, thỉnh thoảng vào ngày rằm, mua năm mười giạ gạo bố thí cho một số người nghèo; hay mấy công ty bốc lột sức lao động công nhân bằng đồng lương chết đói, thỉnh thoảng tặng tiền cho những chương trình thuộc dạng “vòng tay nhân ái” để được vinh danh và quảng cáo thương hiệu của mình trên TV!

Trong Giới Luật Yêu Thương, Chúa Giêsu không hề bảo con người phải sống nghèo nàn, lạc hậu, nhưng là dạy con người biết cách“cho đi”. (Vì xưa ta đói các ngươi đã cho ăn…Mt.25,31-46).

Vì “không ai cho cái mình không có”. Nên trước tiên ta phải có mới cho được. Do đó, làm việc không chỉ là trách nhiệm đối với xã hội, mà hơn thế nữa, còn là bổn phận đối với Thiên Chúa. (Ông giao cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén… Mt. 25,14-29).

Trong Khổng Tử Gia Ngữ có câu chuyện thế này:

Khổng Tử nói rằng: Cho mình là hạng phú quí mà biết hạ mình với người với mọi người, thì người nào mà không tôn trọng mình?

Cho mình là hạng phú quý mà biết yêu người, thì người nào mà không thân với mình?

Nói ra mà không ai trái lại, thì có thể cho là hạng người biết nói vậy.

Nói ra mà mọi người đều hướng theo cả, thì có thể cho là hạng người biết thời vậy.

– Cho nên kẻ giàu có, mà lại biết làm cho người giàu có, thì dẫu có muốn nghèo, cũng không thể nào nghèo được.

– Kẻ sang trọng mà biết làm cho người sang trọng, thì dẫu muốn hèn hạ, cũng không thể hèn hạ được.

– Kẻ phát đạt, mà biết làm cho người phát đạt, thì dẫu có muốn khốn cùng, cũng không thể khốn cùng được.

Đồng tiền giúp chúng ta về đến Nước Trời.

Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có một quyển sách được nhiều người yêu thích mang tên “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ”.

Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy dùng tiền để mua những gì “không hư nát”. Hãy biết dùng tiền để tìm về chốn vĩnh cửu, nơi hạnh phúc vĩnh hằng. “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. (Lc.16,9).

Nếu cuối cùng, ta nằm xuống. Tất cả những gì hưởng thụ qua đi. Tất cả những gì gom góp cũng bỏ lại. Ta nghe văng vẳng bên tai lời chúa từng giảng dạy: “Đồ ngốc! nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc.12, 20), ta chới với và tiếc rẻ làm sao! Bằng đó những thành đạt cuộc đời không đổi lấy được gì ư?

Có một kim chỉ nam để chúng ta định hướng đời mình. Để suy nghĩ và hành động. Đề gạn lọc và chọn lựa. Để làm phong phú đời mình. Để nuôi sống đời mình. Để đời mình không phải chỉ là một giấc mơ chóng qua và vô nghĩa. Đó là Lời Chúa. Lời Hằng Sống. Lời dẫn đưa chúng ta đến sự sống đời đời.

“Cho tôi xin một vé đi Thiên Quốc”.

Để khi tôi nhắm mắt, là bước vào một cuộc hành trình mới. Tuyệt vời và hạnh phúc!

Lạy Chúa, xin cho con biết tận dụng tất cả những gì con có, để sinh lợi và làm giàu cho Chúa, chứ không phải cho riêng con. Vì tất cả là của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

QUẢN LÝ KHÔN KHÉO

Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nói về việc sử dụng tài sản Chúa ban như người quản lý tốt, để đạt được ơn cứu độ.

Trong bài đọc I, Amos là người chăn chiên được Chúa chọn làm tiên tri. Chúa sai ông đi rao giảng trong một xã hội lúc bấy giờ bon chen tranh giành tiền bạc, đàn áp những người nghèo khổ, họ dùng tiền mua nô lệ, coi tiền của là trên hết. Và lối sống sa hoa những kẻ giàu có bên cạnh những người túng nghèo.

Trong bối cảnh đó, tiên tri Amos nhân danh Thiên Chúa lên án mạnh mẽ cách đối xử bất công và tiên báo sự trừng phạt của Thiên Chúa: “Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc làm của chúng”.

Trong bài đọc II, thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu hãy cầu nguyện cho mọi người được an cư lạc nghiệp, sống đẹp lòng Chúa, để được hưởng nhờ ơn cứu độ.

Còn bài Tin Mừng, Đức Giêsu dùng dụ ngôn người quản lý bất trung, để dạy chúng ta biết dùng của cải Chúa ban mà đạt được Nước trời mai sau.

Chúng ta thấy người quản lý trong dụ ngôn ứng xử rất khôn ranh. Trước khi biết mình sẽ mất chức, anh đã gọi các con nợ của chủ đến và bớt cho một số nợ. Anh lợi dụng tài sản của chủ để mua lấy ơn nghĩa cho mình. Hành vi đó, chủ khen anh ta hành động khôn khéo, biết lo cho tương lai.

 Tất nhiên, Chúa không bảo chúng ta noi gương cách ứng xử khôn ranh này, nhưng Chúa dạy chúng ta là con cái của sự sáng, hãy biết lợi dụng của cải chóng qua đời này để mua lấy Nước trời. Nghĩa là biết chia sẻ, giúp đỡ người nghèo, phục vụ trong tinh thần quảng đại và yêu thương.

Bởi vì, cốt lõi của đạo Công giáo chúng ta là chia sẻ và ban phát. Như Mẹ thánh Têrêsa Calcuta đã nói: “Đặc tính của đạo Công giáo là ban phát và cho đi”. Vì thế, khi gặp một người nghèo khổ đưa tay xin chúng ta giúp đỡ, chúng ta đừng bao giờ từ chối hay dửng dưng. Không ai trong chúng ta nghèo đến độ không có gì để cho. Chẳng hạn như: chúng ta cho nhau một nụ cười, một lời thăm hỏi, một nghĩa cử yêu thương, một sự quan tâm giúp đỡ… Nếu Chúa cho chúng ta làm ăn khấm khá, biết rộng lòng chia cơm xẻ áo cho người nghèo, là chúng ta biết tích trữ của cải thiêng liêng, nơi mối mọt không hề phá hủy, trộm cướp không thể nào chiếm lấy được”.

Anh chị em thân mến,

Khi đưa ra dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta cần phải khôn ngoan và trung thành trong khi sử dụng những ân huệ Chúa ban.

Thời giờ, sức khoẻ, tài năng, tiền bạc… tự ta không thể làm ra được, nhưng tất cả đều là ân ban của Chúa.  Chúng ta chỉ là người quản lý thôi. Thế thì, chúng ta quản lý những ân huệ đó như thế nào?

 Nếu anh chị em quan niệm thời giờ quý như vàng bạc, thì chúng ta có biết dùng thời giờ để siêng năng đến nhà thờ làm những việc đạo đức. Hay có thể chúng ta dành chút thời giờ đi thăm viếng những người bất hạnh, đang chết dần trong cô đơn thiếu vắng tình thương không?

Nếu anh chị em quan niệm sức khoẻ là vàng, thì chúng ta có biết giữ gìn sức khoẻ để cộng tác với ơn Chúa mà làm những việc lành phúc đức không? Hay là có một số người cứ ăn chơi nhảy nhót, xì ke ma tuý, sáng xỉn chiều say… làm cho thân tàn ma dại.

Về tài năng Chúa ban tựa như những nén bạc. Người thì Chúa cho 5 nén, kẻ khác 2 nén, người kia 1 nén. Chúng ta có tích cực làm phát triển những nén bạc đó để lo xây dựng Nước Chúa và lo phần rỗi của mình không?.

Về tiền bạc cũng vậy. Chúa ban cho thời giờ, sức khoẻ và trí thông minh để làm ra tiền bạc mà sinh sống, vậy chúng ta sử dụng đồng tiền đó như thế nào?

Ai càng sống rộng rãi biết cho đi, biết nghĩ đến người khác hơn bản thân mình, thì người đó sẽ càng giàu công phúc ở đời sau.

Ngược lại, có một số người làm mất đi hạnh phúc gia đình, mất đi tình nghĩa anh em, chỉ vì một chút  tài sản cha mẹ để lại mà không nhường nhịn nhau.

 Lời Chúa hôm nay nhắn nhủ chúng ta: “Hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn bè”, nghĩa là hãy dùng tiền của mà mua lấy Nước trời. Cụ thể như việc cầu hồn xin lễ, giúp đỡ những người nghèo khổ, đóng góp vào những việc chung.

Được như thế, ngày chúng ta nhắm mắt lìa đời, ước mong sẽ được nghe những lời mời gọi của Chúa: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong những việc nhỏ. Hãy vào hưởng sự vui mừng hạnh phúc với Ta”. Amen.

Về mục lục

.

TÍCH TRỮ CỦA CẢI THIÊNG LIÊNG

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP.

          Người ta thường nói :”Có tiền mua tiên cũng được”. Nhiều người cho rằng với đồng tiền thì làm gì cũng đực, muốn gì cũng có vì đồng tiền là vạn năng ! Nhưng có những cái mà với đồng tiền người ta không thể sắm được,  ví dụ Nước Trời, phần rỗi linh hồn. Nhân dịp này, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn “Người quản gia bất lương” để khuyến khích chúng ta phải biết cách dùng của cải, nhất là phải khôn ngoan trong việc lo cho tương lai của mình, tức là phần rỗi đời đời của mình trên Nước Trời.

          Dụ ngôn hôm nay có thể gây hiểu lầm cho nhiều người. Mới đọc qua, ta thấy Đức Giêsu như khen nguời quản lý bất lương đã khôn khéo dùng mánh lới để kiếm được bạn hữu sau khi bị ông chủ thải hồi. Xem ra Đức Giêsu cho phép chúng ta theo gương người quản gia này đểâ dùng mọi mánh lới khôn khéo mà tìm lợi cho mình. Nhưng đọc kỹ, ta thấy Đức Giêsu không khen việc làm bất lương của anh ta mà chỉ khen cái khôn khéo của anh ta  trong việc biết lo cho tương lai của mình. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu khuyến khích chúng ta phải biết lo cho cho phần rỗi của mình giống như người quản gia bất lương biết lo cho tương lai vật chất của anh ta.

          Tất cả chúng ta đều là quản gia của Chúa vì tất cả những gì chúng ta có là do Chúa ban, như thánh Phaolô nói:”Có gì mà bạn đã không nhận nơi Chúa”. Với tư cách quản gia, chúng ta phải trung thành quản lý tài sản mà Chúa đã trao phó, phải biết làm lợi ra, phải biết chia sẻ và biết dùng tài sản này mà mua được phần rỗi của mình trên Nước Trời.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

          +  Bài đọc 1 : Am 8,4-7.

          Tiếng kêu của tiên tri Amos cách Đức Giêsu 800 năm mà hôm nay vẫn còn hợp thời. Ông được đời sau đánh giá là lương tâm của thời đại ông, một thời đại đầy dẫy bất công xã hội và người nghèo bị bóc lột đến tận xương tủy. Ông lên án những tội của người giầu :

          – Ngay những ngày lễ cũng bị sử dụng  cho việc buôn bán để kiếm lời.

          – Họ gian lận bằng cách thu hẹp đấu lại và làm nặng thêm quả cân.

– Khai thác và bóc lột những người nghèo khó.

          Nhà tiên tri đã cảnh cáo:”Chẳng bao giờ Ta sẽ quên một hành vi nào của chúng”(Am 8.7). 

          +  Bài đọc 2 : 1Tm 2,1-8.

          Thánh Phaolô chỉ dẫn choTimôthêô tổ chức lời kinh cho mọi người trong cộng đoàn phụng vụ. Phải có tinh thần liên đới trong khi cầu nguyện, nghĩa là Kitô hữu đại diện cho nhân lọai, liên kết với nhân lọai trước mặt Thiên Chúa.

          Khi cầu nguyện người Kitô hữu mở rộng lòng ra ôm lấy thế giới để tạ ơn, để cầu xin với mọi người và cho mọi người. Tại sao lại có nhiệm vụ ấy ? Bởi vì Thiên Chúa của người Kitô hữu là Thiên Chúa của tất cả mọi người và Ngài muốn tất cả được ơn cứu rỗi. Riêng vị sứ giả Tin mừng càng phải làm chứng về điều này cách hăng say hơn.

          +  Bài Tin mừng : Lc 16,1-13.

          Truyện người quản gia bất trung ta gặp thấy hằng ngày trong cuộc sống . Đối với dân Do thái, quản gia không phải chỉ là một trong những người làm mướn ăn lương của chủ, mà là một nhân vật rất có thế lực. Quản gia là người thay mặt chủ để lo những chuyện tài sản trong nhà. Do đó có quyền thu xếp tài sản của chủ cách nào tùy ý, miễn sao có lợi cho chủ thôi.  Quản gia không có lương, nên thường tìm thu nhập thêm bằng cách kê thêm số của cho vay. Thí dụ cho vay 100 kê thành 120.

          Đức Giêsu không khen cái hành vi bất chính của anh ta , nhưng khen cái sự khôn khéo biết lo cho tương lai. Bài học rút ra cho người Kitô hữu là khi phải lo phần rỗi linh hồn thì phải làm mọi chuyện  để được cứu rỗi. Bằng cách nào ? Bằng cách chia sẻ với người nghèo. Không có cách nào giữ của chắc chắn hơn.

          Trong khi xử dụng tiền của phải rất khôn ngoan, phải biến nó thành tôi tớ trung thành, đừng để nó trở thành ông chủ khắc nghiệt vì “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”(Lc 16,13).

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

I. DỤ NGÔN NGƯỜI QUẢN GIA BẤT LƯƠNG. 

          Để dạy ta phải biết lo xa cho đời sống tương lai của linh hồn mình, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn nói về một người quản gia biết lo xa cho đời sống vật chất của mình.

  1. Người quản gia ở Palestine.

          Tại Palestine có nhiều địa chủ vắng mặt ở lãnh địa của mình nên tất cả công việc của ông được trao vào tay người quản gia của ông. Theo luật Do thái, người quản gia không phải là một nhân viên được trả công, nhưng toàn quyền thay mặt chủ và chủ phải tôn trọng những dịch vụ buôn bán của người quản gia.

          Trong trường hợp người quản gia bất trung phung phí của chủ, luật pháp cũng không có biện pháp nào bắt buộc ông phải hoàn lại của đã mất, chỉ có cách là sa thải. Sau khi nhận được giấy sa thải, người quản gia phải tính sổ liệt kê tài sản, việc này cần một thời gian chuẩn bị. Trong thời gian này ông vẫn là người đại diện của chủ, được luật pháp cho phép hành động nhân danh chủ. Ở đây, người quản gia bị ông chủ là nhà phú hộ khiển trách, vì đã phung phí của chủ và đó là hành vi bất lương và gian dối của người quản gia, khiến ông chủ sa thải.

  1. Kế họach của người quản gia

          Ở trong tình tình trạng này, người quản gia phải suy nghĩ về số phận tương lai của mình sau khi bị sa thải. Làm việc bằng chân tay thì không quen vì xưa nay chuyên ăn trên ngồi trốc rồi. Phải liệu cách nào để sau khi mất chức quản gia, thì sẽ có người đón tiếp mình về nhà họ.

          Thế là không chút chần chừ, ông cho gọi “từng con nợ”của chủ lại, và trước mặt mình, anh ta cho phép họ sửa lại số nợ. Đúng là dịp may hiếm có, bởi vì thủ đoạn này cho phép giảm món nợ từ 100 thùng dầu xuống chỉ còn 50 (bớt khỏang 2000 lít), và từ 100 giạ lúa xuống chỉ còn 80 (bớt khoảng 6000 ký).

          Từ nay mọi người đều đồng lõa với nhau giữ kín bí mật : đám con nợ dĩ nhiên sẵn lòng giữ thinh lặng để được hưởng một vụ làm ăn quá lời; còn người quản gia thì an tâm “sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ”.

          Dụ ngôn người quản gia bất lương là một trong những đoạn Tin mừng từng bị hiểu sai nhiều nhất : bao nhiêu người đã xem đây như bằng chứng Đức Giêsu  cho phép làm điều bất lương. Thọat nghe ta lấy làm vấp phạm khi Đức Giêsu lên tiếng khen người quản lý bất lương đã hành động cách tinh quái. Lẽ ra thì Ngài phải kết án việc làm gian lận của người quản lý hay ít ra cũng chỉ trích cái hành động cướp gạt của anh ta như tiên tri Amos đã tố cáo những tệ đoan xã hội thời bấy giờ. Amos mô tả việc người giầu có nóng lòng chờ đợi cho qua ngày lễ nghỉ để họ có thể lường gạt và bóc lột người nghèo (Am 8,5-6).

          Tuy nhiên, đi sâu vào vấn đề ta thấy Đức Giêsu không khích lệ việc người quản gia phung phí tài sản của chủ. Thực ra, Ngài chỉ khen cái mánh lới của anh ta mà thôi. Ngài khen người quản gia có khả năng hành động kịp thời và quyết liệt khi bị giồn vào thế chân tường. Rồi từ đó Ngài kết luận : “Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn hơn con cái ánh sáng” (Lc 16,8). Và rồi Đức Giêsu thách thức ta : Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước các con vào nơi ở vĩnh cửu (Lc 16,9). Nghĩa là con cái ánh sáng cần phải xử sự cách khôn khéo để làm sao tiền bạc không trở nên một thế lực thống trị và biến chúng ta thành nô lệ; trái lại, cần phải biến nó thành phương tiện phục vụ con người  thông qua làm phúc bố thí chứ không phải bo bo giữ cho riêng mình. Người Kitô hữu nhớ rằng, tiền bạc không phải là cùng đích mà chỉ là phương tiện. Chúng ta xử sự thế nào để tiền của không cản trở  bước đường đi đến đời sống vĩnh cửu khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay.

II. NÓI VỀ TIỀN CỦA.

  1. Tiền của là những gì ?

          Tiền của đây nói chung là gia tài hay tài sản, là tất cả những gì mình có. Gia tài vật chất là của cải, là thân xác, là địa lợi chung quanh. Gia tài tinh thần là tài năng, tâm trí, đức hạnh, linh hồn. Gia tài vô cùng quí giá là nguồn sống vô biên tuôn trào từ các bí tích, từ lời hằng sống , từ trái tim và thần khí của Đức Giêsu…  Tất cả những cái đó ta phải “quản lý”. Chúa sẽ yêu cầu chúng ta phải phúc trình về chúng. Ta không có quyền “phung phí” những ơn mà Thiên Chúa đã trao cho chúng ta. Ai là người quản lý trung tín và khôn ngoan thì biết khôn khéo dùng những gia tài ấy để kinh doanh, phát triển, đầu tư vào những công trình chân chính mà mua lấy bạn bè, sắm lấy những kho tàng, sắm lấy những viên ngọc qúi trong Nước Thiên Chúa. Đó là cách xử sự khôn khéo của con cái sự sáng.

  1. Sức mạnh của tiền bạc

          Người đời thường nói :”Có tiền mua tiên cũng được, không tiền mua lược không xong”.

Tiên là bà tiên, cô tiên, một hạng người đẹp cả người lẫn nết, không bao giờ chết, lúc biến lúc hiện do trí tượng tượng người ta hình dung ra. Tiên là một hạng người không có thực, vậy có tiền cũng không có thể mua.

          Câu này cực tả cái giá trị của đồng tiền, đại ý nói rằng có tiền thì việc khó đến đâu , cũng làm được, của hiếm đến đâu cũng mua được. Không tiền thì cái tầm thường nhất cũng không mua được. Có câu tục ngữ tiếp theo câu trên :”Không tiền mua lược không xong”. 

          Người có tiền thì có thế, được nhiều người kiêng nể, có thể sai khiến được nhiều người, khiến họ phải hầu hạ, đưa rước và tạo thêm được nhiều kẻ nịnh hót :

Có tiền chán vạn người hầu,

Có bấc có dầu chán vạn người khêu.

(Ca dao)

          Đồng tiền cũng có sức mạnh phi thường, nó có thể đổi trắng thay đen lòng người, nó có thể biến những con người lương thiện thành con người bất lương, mà nhiều người không thể cưỡng lại được :

Đồng tiền không phấn không hồ,

Đồng tiền khéo điểm, khéo tô lòng người.

(Ca dao) 

          Cổ nhân cũng đã có kinh nghiệm nên đã từng nói :”Hoàng kim hắc thế tâm”.

          Hành động của Giuđa đã nói lên kinh nghiệm đó. Giuđa là một trong 12 tông đồ thân tín của Đức Giêsu, được Ngài yêu thương tận tình, nhưng vì tham tiền, anh ta đã bán rẻ lương tâm, không còn nghĩ gì đến tình nghĩa thầy trò,sẵn sàng bán Ngài cho người Do thái với giá 30 đồng bạc. Quá rẻ ! Anh ta đã bị đồng tiền chi phối, không thể chống lại được.

  1. Nguy hiểm của tiền bạc.

          Có phải “Tiền là Tiên là Phật, là sức bật của lò so, là thước đo lòng người “ chăng ?

          Qua tin tức báo chí và kinh nghiệm thực tế, có lẽ ta phải nhìn nhận  sức mạnh của tiền tài quả là đáng sợ. Nó có thể làm mờ lương tri, biến chất lòng người, sụp đổ ý chí, lụi bại thanh danh, tiêu tan trách nhiệm… Thế nên có tiền tài và sử dụng làm sao cho tốt đẹp không phải là chuyện dễ.

          Biết bao câu tục ngữ :”Tiền bạc là tên đầy tớ tốt nhưng là ông chủ xấu”. Tiền tài vừa nguy hiểm vừa đáng sợ mà ai cũng thích có nhiều, chỉ vì cái sức mạnh của nó, như câu tục ngữ của  nước Nga :”Với một túi tiền treo nơi cổ, không ai có thể bị chết treo”.

 Nhà thơ Tú Xương còn mỉa mai :

Ví thử trong tay tiền bạc có,

 Nói dối như cuội chán người nghe. 

Có thể nói tiền bạc là con dao hai lưỡi. Theo đó, càng nhiều tiền thì con dao hai lưỡi càng khó sử dụng.

Truyện : Lời khuyên của vị giáo trưởng.

    Một lần kia, có một người giầu có nhưng keo kiệt  đến gặp vị giáo trưởng của ông và xin giáo trưởng ban phép lành cho ông. Vị giáo trưởng đón tiếp ông nhà giầu một cách thân thiện và đưa vào phòng khách. Rồi giáo trưởng dẫn ông đến cửa sổ nhìn xuống đường phố và nói :”Ông hãy nhìn ra kia và nói cho tôi biết ông thấy cái gì” ?

          “Tôi thấy người ta đi qua, đi lại,” ông nhà giầu đáp.

          Rồi giáo trưởng đưa ông ra khỏi cửa sổ, dẫn ông ta đến trước một tấm gương to và nói:”Ông hãy nhìn vào tấm gương này và nói ông thấy gi”.

          “Tôi thấy chính tôi”, ông nhà giầu đáp.

          “Thế đấy, ông bạn, hãy để tôi giải thích ý nghĩa điều ấy cho ông. Cửa sổ làm bằng kính cũng giống như tấm gương này. Tuy nhiên, kính của tấm gương có trát lên một lớp bạc. Khi ông nhìn qua kính thường, ông thấy người khác. Nhưng khi ông tráng bạc, ông không còn thấy người khác nữa mà chỉ thấy chính ông. Khi ông chỉ quan tâm đến tiền bạc, ông không còn thấy người khác nữa mà chỉ thấy chính ông” (McCarthy).

  1. Tiền của và hạnh phúc.

          Tiền của là phương tiện chứ không phải là mục đích, nhưng có nhiều người coi đó là mục đích, là chúa tể. Càng có nhiều tiền của càng muốn có nhiều hơn. Họ theo đạo thờ thần Mammon. Tiếng Mammon chỉ chung những gì nghịch với Thiên Chúa, mà tiền của đứng hàng đầu.

           Nhiều tiền bạc chưa chắc đã sung sướng, chưa chắc đã hạnh phúc. Có những trường hợp con người sa đọa, tội lỗi, hư hỏng, vì dư thừa tiền bạc, phủ phê vật chất thì sao ? Hoặc những gia đình giầu có nhưng sống ngột ngạt, bất hòa thường xuyên, chúng ta giải thích thế nào ? Bởi vì tiền là bạc. Bạc không chỉ là một loại quí kim, mà còn có nghĩa là bạc bẽo, bạc tình, bạc nghĩa. Vì tiền mà mất cha mất mẹ, mất vợ, mất chồng, mất bạn hữu, mất họ hàng.

Thi sĩ Nguyễn Du trong thi phẩm Kim Vân Kiều đã phải thú nhận :

Trong tay đã có đồng tiền

Dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì.

 

          Nhà thơ Nguyễn bỉnh Khiêm cũng chua xót nói rằng :

Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử,

Hết cơm, hết gạo, hết ông tôi.

          Chúng ta không tìm thấy sự thỏa mãn và ý nghĩa cuộc sống trong của cải. Nhưng khi chúng ta sốt sắng phục vụ người khác, điều này đem lại cho chúng ta mục đích và ý nghĩa cuộc đời. Cho người khác là điều làm cho chúng ta cảm thấy mình sống mãi.

          Henrik Ibsen nói:”Tiền bạc có thể mua vỏ ngoài của sự vật nhưng không thể mua cái lõi của chúng. Nó đem đến cho bạn thức ăn nhưng không đem đến sự ngon miệng; thuốc men nhưng không phải sức khỏe, sự quen biết nhưng không phải bạn bè, tôi tớ nhưng không phải lòng trung tín, những ngày đầy lạc thú nhưng không phải sự bình an và hạnh phúc”.

 Đúng là :

An cơm với thịt bò thì lo ngay ngáy,

An cơm với cáy thì ngáy o o. 

III. NGƯỜI QUẢN GIA  TRUNG TÍN.

  1. Người giầu có là quản gia của Thiên Chúa.

Có lẽ một phần do ảnh hưởng của cuộc sống khó khăn, phần khác do quá tham lam mù quáng mà chúng ta đã có một suy nghĩ lệch lạc về của cải, đó là chúng ta cứ tưởng mình  luôn làm chủ của cải. Nhưng nếu biết suy xét cẩn thận, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra của cải vật chất mà chúng ta đang có đều thuộc về Thiên Chúa, vì chính Ngài mới là Chủ vật chất và Đấng sở hữu đích thực; còn chúng ta , nói một cách trung thực, chỉ là những người quản lý, coi sóc tạm thời. Cho nên, nếu chúng ta cứ tưởng lầm  mình là chủ, tất nhiên chúng ta sẽ không tránh khỏi sự lạm dụng quyền hành hoặc bo bo giữ lấy của cải như lẽ sống đời mình để rồi dùng nó theo ý ngông cuồng của mình, sẽ dẫn tới sai trái.

Và một ngộ nhận nữa là chúng ta cứ nghĩ của cải mãi mãi thuộc về mình. Đây là một ngộ nhận tai hại vì không những chúng ta giả điếc làm ngơ trước bao cảnh tay trắng hoàn tay trắng xẩy ra hằng ngày do nhiều nguyên nhân như cháy nhà, bị trộm cướp, bị tai họa, bị tù tội, nhất là bị chết, mà còn cố tình đâm đầu vào làm giầu, tham lam vơ vét của cải như là cùng đích của đời mình. Do đó, kẻ khôn ngoan không phải là kẻ giữ của mà là kẻ biết dùng của cho thật hữu ích  vì chúng ta chỉ được phép giữ và sử dụng của cải trong thời hạn nào đó mà thôi.

  1. Người quản gia biết chia sẻ

Nếu người giầu có là quản gia của Thiên Chúa thì không có quyền giữ bo bo cho mình hoặc sử dụng một cách hoang phí. Họ phải biết chia sẻ nữa. Theo ông Robert Karris:”Tiền bạc (mammon) đều thuộc về thế hệ xấu xa này. Môn đệ phải chuyển mammon thành kho tàng trên trời bằng cách chia sẻ của cải với những người khác, đặc biệt những người túng thiếu. Như thế, tiền của có thể mở lối vào Nước Trời, và lúc ấy tiền của là tên đầy tớ tốt cho ta. Phải biết trung tín khi dùng của cải đời này để có thể được trao phó của đời sau, nghĩa là biết xử dụng của cải như phương tiện chứ không phải như mục đích và xử dụng theo ý Chúa”.

Các rabbi Do thái có câu :”Kẻ giầu giúp kẻ nghèo ở đời này, nhưng kẻ nghèo giúp kẻ giầu trong đời sau. Khi chú giải truyện người giầu ngu dại xây kho vựa lớn hơn để tích trữ của cải, thánh Ambrôsiô có nói :”Bụng của người nghèo, nhà của bà góa, miệng của trẻ nhỏ là những kho vựa còn mãi đời đời”.

 Người Do thái tin rằng của bố thí cho kẻ nghèo được ghi vào trương mục đời sau của kẻ cho. Sự giầu có thật của con người không tùy những gì mình nắm giữ, nhưng ở những gì mình cho đi. “Thương xót kẻ khó nghèo là cho Đức Chúa vay mượn, Người sẽ đáp trả xứng đáng việc đã làm”(Cn 19,17). 

Truyện: Mạnh Thường Quân.

          Mạnh Thường Quân nhà giầu, cho vay mượn nhiều. Một hôm ông sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Khi đi, Phùng Nguyên hỏi :

          – Ngài có định mua gì về không?

          – Xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.

          Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng:”Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”, rồi chẳng tính gì gốc lãi, đem đống văn tự ra đốt sạch.

          Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân rằng :

          – Nhà ngài không thiếu thứ gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm phép mua ở đất Tiết cho Ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài.

          Về sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên :

          – Đó hẳn là cái ân nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước .

  1. Người quản gia phải trung tín.

          Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu đã khẳng định :”Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ. Vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ kia. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”(Lc 16,16). 

          Ngày xưa, chủ chiếm hữu nô lệ cách tuyệt đối. Ngày nay thì đầy tớ hay lao công có thể làm công việc cách dễ dàng và có thể làm việc cho hai chủ. Anh ta có thể đảm nhận một công tác trong giờ bình thường và một công tác khác trong giờ rảnh rỗi. Tỷ như có người làm thơ ký ban ngày và làm nhạc sĩ ban đêm. Nhiều người làm thêm  để kiếm tiền hay làm theo sở thích trong những giờ tự do. Thế nhưng một nô lệâ không có giờ tự do, mọi giây phút trong ngày, tất cả sức lực của anh ta thuộc về chủ. Anh ta không có thời giờ riêng nào. Cũng vậy, phục vụ Thiên Chúa không thể nào là một công việc làm bán thời gian hay công việc của giờ rảnh rỗi. Ai đã chọn sự phục vụ Chúa thì tất cả thời giờ, sức lực của người ấy đều thuộc về Chúa trọn vẹn. Thiên Chúa là chủ tuyệt đối trên mọi người chủ, chúng ta hoặc thuộc trọn về Chúa hay không thuộc về Ngài chút nào.

Sách có chữ rằng :”Trung thần bất sự nhị quân” : Tôi trung không thể làm tôi hai chúa. Đức Giêsu cũng đồng ý như vậy khi đem ra dụ ngôn người quản gia bất lương và kết luận:”Không ai có thể làm tôi hai chủ”.

          Người ta thường nói :”Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt, nhưng lại là ông chủ rất xấu”, nghĩa là khi chúng ta dùng tiền của như một phương tiện mưu sống, thì lúc ấy tiền bạc rất tốt cho chúng ta. Trái lại, khi chúng ta tôn thờ tiền bạc như một ông Chúa, thì lúc ấy tiền bạc là một điều tai hại; do đó, chúng ta phải dùng tiền bạc như một tên đầy tớ, còn việc tôn thờ  thì chỉ tôn thờ một Thiên Chúa mà thôi.

  1. Người quản gia phải biết dừng lại

          Thái độ của người quản gia khôn ngoan là phải biết dừng lại và bằng lòng với những cái mình đang có và cố gắng làm cho tốt hơn, nếu không thì lòng tham vô đáy sẽ đòi hỏi mãi, có thể làm cho chúng ta trở nên mù quáng mà trở thành một quản gia bất lương. Nhà hiền triết Seneca ngày xưa nói rất đúng :”Nếu bạn không coi những gì bạn đang có thì dù bạn có cả thế giới bạn vẫn cảm thấy thiếu”.

Tư tưởng này đông tây gặp nhau :

                             Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc,

                             Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn ?

                             Biết đủ ấy là đủ, đợi đủ bao giờ mới đủ,

                             Biết nhàn ấy là nhàn, đợi nhàn bao giờ mới nhàn.

                                                (Cổ ngạn)

  1. Người quản gia biết lo cho tương lai

          Đức Giêsu so sánh :”Con cái đời này đối xử với đồng lọai thì khôn hơn con cái ánh sáng”(Lc 16,8). Rồi từ đó Ngài kết luận :”Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”(Lc 16,9). 

          Lời thách đố của Chúa có nghĩa là ta phải biến đổi tiền của vật chất thành phương tiện để mở mang xây dựng Nước Chúa. Lời thách đố của Chúa có nghĩa là ta phải biến đổi tiền của vật chất thành phương tiện để mở mang, xây dựng Nước Chúa.

 Bài học Chúa muốn dạy ta hôm nay là phải khôn khéo và mạo hiểm, phải dùng óc sáng kiến và tài sáng nghiệp để tạo cho ta một tương lai trong Nước Chúa, như người quản gia bất lương sửa sọan cho tương lai của mình trong nước trần gian. Tại sao ta sẵn sàng mạo hiểm trong những lãnh vực khác của cuộc sống và cảm phục người khác làm như vậy ? Nhưng còn việc liên hệ với Chúa ta lại thường đắn đo và dè dặt. Trong bài Tin mừng hôm nay Chúa muốn so sánh cái cách thế người ta dùng trong những trường hợp có liên can đến những sự vật trần thế với những cách thế mà người ta dùng để đương đầu với những sự vật thiêng liêng.

Truyện : Đồng tiền trên trời.

          Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giầu. Khi chết, ông còn mang túi vàng theo mình đi sang cuộc sống bên kia. Đi một hồi, ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán :

          – Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu ?

          – Chỉ một đồng thôi.

          – Còn tô lớn kia ?

          – Cũng chỉ một đồng thôi.

          Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo :

          – Ở đây chỉ xài lọai tiền-cho-đi thôi. Ông có không ?

          Người hà tiện chỉ vào túi tiền của mình. Nhưng chủ quán nói :

          – Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được.

          – Thế tiền-cho-đi là tiền gì ?

          – Khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được bán lại bấy nhiêu đồng lọai tiền-cho-đi.

          Ông nhà giầu lục lọi khắp nơi trong mình nhưng chẳng có đồng nào thuộc lọai tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.

          Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiều đồng tiền để dành cho đời sau vậy.

Về mục lục

.

DÙNG TIỀN MUA BẠN

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng

Người ta kể rằng: thời Chiến quốc, Phùng Huyên phục vụ cho Mạnh Thường Quân, là tướng quân của nước Tề. Một lần kia, Mạnh Thường Quân nhờ Phùng Huyên đi sang đất Tiết để thu các món nợ. Trước khi ra đi, Phùng Huyên hỏi: “Thu xong nợ rồi có cần mua vật gì không?”. Mạnh Thường Quân bảo: “Xem trong nhà còn thiếu vật gì thì cứ mua về”. Phùng Huyên đến đất Tiết, cho mời tất cả những con nợ của chủ đến và nói: “Mạnh Thường Quân ra lệnh xóa bỏ tất cả các món nợ”, và để cho mọi người tin lời ông nói, Phùng Huyên đem đốt hết giấy nợ. Toàn dân đất Tiết rất vui mừng, tung hô vạn tuế.

Khi Phùng Huyên trở về, Mạnh Thường Quân ngạc nhiên thắc mắc: sao Phùng Huyên đi đòi nợ mà mau chóng thế, nên hỏi thu nợ xong chưa? Phùng Huyên trả lời: “Thu xong cả rồi”. Mạnh Thường Quân hỏi: “Còn vật mua về đâu?”. Phùng Huyên nói: “Trước khi đi, tướng quân bảo tôi mua vật gì trong nhà còn thiếu, tôi trộm nghĩ trong nhà tướng quân chất chứa đầy những đồ quý giá, ngoài chuồng nuôi đầy bò ngựa, vậy vật tướng quân còn thiếu là điều nghĩa, nên tôi mua điều nghĩa đem về”. Mạnh Thường Quân hỏi: “Mua điều nghĩa là thế nào?”. Phùng Huyên đáp: “Tôi tha cho tất cả các con nợ và nhân đó thiêu hủy các giấy nợ, và được dân chúng vui mừng tung hô vạn tuế, tôi vì tướng quân nên mua được điều nghĩa về”. Một năm sau, vua nước Tề không dùng Mạnh Thường Quân làm tướng quân nữa, nên ông phải thu về đất Tiết ở. Bấy giờ rất đông người già trẻ lớn bé ra đường đón chào, hoan nghênh nhiệt liệt. Khi ấy Mạnh Thường Quân nói với Phùng Huyên: “Tiên sinh vì tôi mà mua điều nghĩa, bây giờ tôi mới trông thấy”.

Bài Tin Mừng Chúa Giêsu cũng dạy: “Hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn hữu”. Trước khi dạy điều trên, chúng ta thấy Chúa kể một dụ ngôn, qua dụ ngôn này Chúa dạy chúng ta hãy biết cách dùng tiền của để mua lấy điều nghĩa. Dụ ngôn được gọi là dụ ngôn người quản gia bất lương.

Anh được ông chủ tín nhiệm trao cho nhiệm vụ quản lý công việc kinh doanh làm ăn và trông coi tài sản của ông. Nhưng anh đã quản lý tồi tệ, làm ăn lem nhem, nên bị ông chủ đuổi, cho nghỉ việc luôn. Từ lúc được tin ông chủ thải hồi, anh đã khôn khéo tính toán cho tương lai đời mình, anh tìm cách qua mặt ông chủ một lần nữa và bịt mắt mọi người, kể cả các con nợ.

Anh cho gọi các con nợ của chủ đến mà trước đây chính anh đã thay mặt chủ cho họ vay mượn, người nào anh cũng giảm số nợ cho họ: Một con nợ về dầu ô-liu, anh giảm cho 50%, một người nợ lúa mì, anh giảm cho 20%… Từ con nợ của ông chủ, anh làm cho họ thành con nợ của anh, bằng cách giảm đi như thế. Đó là cách mua chuộc bạn bè, mua chuộc tình cảm bằng sự gian dối, đó là cách làm ơn cho người để sau này họ sẽ giúp đỡ anh, anh biến họ nên những kẻ đồng lõa, và thấy lợi trước mắt, họ đã làm theo anh. Cư xử như vậy, đối với chủ là bất lương và Chúa khen viên quản gia bất lương ấy, đã biết xử trí mưu lược lo xa cho mình để khi mất việc sẽ có người thương giúp mình.

Tại sao Chúa Giêsu lại khen cách làm bất lương của anh ta? Như thế có phải là Chúa đề cao sự xấu, là sự bất lương của viên quản gia không? Thưa, không bao giờ, Chúa không khen việc làm của người quản gia kia, vì việc làm của anh là bất lương, nhưng Ngài nhìn nhận rằng anh khôn khéo, tháo vát, mau lẹ xoay trở, Chúa bảo đó là sự khôn khéo theo kiểu thế gian. Nói cách khác, Chúa không dạy: hãy học thói gian tham biển lận của anh ta, Chúa cũng không dạy “mục đích biện minh cho phương tiện”, nghĩa là mục đích tốt thì phải có phương tiện tốt, và phương tiện tốt sẽ đạt mục đích tốt, chứ mục đích tốt không biện minh cho phương tiện xấu được. Thí dụ: không thể ăn cắp để làm bác ái, không thể gian tham để làm việc từ thiện. Cho nên, không thể dùng phương tiện xấu để đạt mục đích tốt được: cây xấu sinh quả xấu, chứ cây xấu không thể sinh trái tốt được. Người quản gia đã dùng phương tiện xấu để đạt mục đích tốt cho tương lai đời mình.

Từ việc làm và cách xử trí của người quản gia này Chúa Giêsu liên tưởng đến phương diện nước trời, và Ngài tỏ ra đau lòng khi thấy người ta không mau lẹ và khôn khéo như vậy, Chúa đem ơn cứu độ đến qua lời giảng dạy và gương sáng của Ngài, nhưng sao người ta hững hờ và chậm chạp đến như thế. Người ta không lanh lẹ mau trí xoay trở đối với nước trời như người quản gia bất lương kia lanh lẹ mau trí xoay trở đối với việc ở đời này, bởi vì con cái đời này khôn khéo hơn con cái sự sáng.

Tóm lại, chủ đích của Chúa Giêsu khi nói dụ ngôn này là Ngài muốn dạy: phải biết khôn khéo, phải biết cố gắng, phải biết lo xa như người quản gia ấy, nhưng không bao giờ được bắt chước cách làm gian tham, biển lận và bất lương của anh ta. Xin Chúa cho chúng ta một nghị lực và can đảm để luôn chế ngự được hấp lực của đồng tiền, đừng bao giờ vì tiền bạc mà bôi đen lòng mình: “Hoàng kim hắc thế tâm”. Và xin Chúa cho chúng ta biết sử dụng tiền bạc của cải trần gian cho hợp tình hợp lý, nhất là cho tình yêu thương, bác ái, chia sẻ. Đó là một cách đầu tư cho cuộc sống mai sau, đó là một cách cư xử khôn khéo để có nhiều bạn hữu chân thành đón rước chúng ta vào hạnh phúc nước trời.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN. NĂM C

Lm. Antôn

Trong các bài Kinh thánh tuần này, Chúa dạy chúng ta phải luôn tin yêu mến Chúa, khôn khéo sử dụng những ơn lành hồn xác Chúa ban đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu đời sau.  Lời Chúa dạy bắt đầu ngay từ bài đọc 1 trích sách tiên tri A-mốt.  Vào khoảng 1 ngàn 7 trăm 5 mươi năm trước Chúa Cứu Thế giáng sinh, nước Do thái, đặc biệt là miền Bắc, có nền kinh tế rất thịnh vượng, vì vậy dân chúng có một cuộc sống giàu có và hưởng thụ, nhưng không có tinh thần đạo đức, công bằng, bác ái và quảng đại.  Họ sống ích kỷ và nhất là không còn chú ý đến đời sống tôn giáo và trung thành với Chúa.  Họ tỏ ra rất thờ ơ trước những giới luật Chúa dạy về các ngày nghỉ lễ để cầu nguyện và thờ phượng Chúa.  Trong bối cảnh này, ngôn sứ A-mốt được Chúa chọn và sai đi giảng dạy và khuyến cáo dân chúng về đời sống tinh thần, cũng như cho họ biết những hậu quả sẽ đến nếu họ không cảnh tỉnh và ăn năn quay trở lại.  Ngôn sứ A-mốt cảnh báo rằng ngày Sa-bát và những ngày lễ là những ngày nghỉ, dành cho việc cầu nguyện và thờ phượng.   Dân buôn bán và thương mại thù ghét lời khuyến cáo của ông, và nổi lên chống đối vì họ nghĩ sẽ bị thiệt thòi về tài chánh.  Thậm chí họ còn có một thái độ bực bội và khó chịu vì họ cho rằng ngôn sứ làm mất thời giờ và cản trở công việc kiếm tiền của họ.  Họ bỏ không đến đền thờ để thờ phượng, và chỉ chú trọng đến một việc có tiền và phải làm sao cho có thật nhiều tiền bất cứ dưới hình thức nào. Dân chúng đã coi tiền bạc hơn Chúa và bỏ Chúa mà thờ tiền. Vì vậy, ngôn sứ A-mốt cho họ biết nếu họ không từ bỏ cuộc sống này, thì sẽ lãnh nhận những hậu quả do việc họ làm như lời Chúa đã nói: “Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc chúng làm cho đến cùng.”

Trong bài Tin Mừng theo thánh Lu-ca, Giê-su  kể cho chúng ta nghe dụ ngôn người quản lý bất lương.  Chúng ta sẽ thấy bài học chính và quan trọng không phải câu chuyện người quản lý bất lương, nhưng là lời khuyên dạy của Chúa về thái độ và cách sử dụng của chúng ta đối với tiền bạc.  Chúa khuyên chúng ta khôn khéo sử dụng những ơn lành hồn xác Người ban cho chúng ta đời này, biết lo xa đầu tư cho cuộc sống đời sau, nhất là phải hướng cuộc sống về Nước Trời.  Thật vậy, tác giả Lu-ca không quan tâm đến chi tiết của câu chuyện người quản lý này bất lương ở chỗ nào, chỉ biết anh ta bị tiếng phung phí tiền của chủ.  Và ông chủ đã gọi anh ta đến để báo cho anh ta một tin xấu bị đuổi.  Bàng hoàng, thình lình và bất ngờ như sét đánh!  Bị tống ra khỏi nhà anh nghĩ sẽ đi đâu? Sinh sống thế nào?  Vì thế anh vội vàng gọi các con nợ của chủ đến, làm ơn cho họ để sau này họ sẽ giúp đỡ anh.  Chúng ta thấy cư xử như vậy đối với chủ là bất lương nhưng đó lại là sự khôn ngoan tính toán thế gian. Chúa  khen sự khôn ngoan tính toán mau lẹ đó vì Người thấy con cái đời này khôn khéo hơn con cái sự sáng. Chúa cảm thấy buồn lòng về những người tin vào Chúa, họ không tính toán khôn khéo mau lẹ như vậy về Nước Trời.

Vì yêu thương, Chúa Giê-su đã vâng lời và khiêm nhường sinh xuống trần để loan báo về hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời.  Qua lời giảng dạy và những phép lạ lớn lao, Chúa đã biểu lộ tình yêu, lòng nhân từ và thương xót, nhưng câu hỏi là: “Tại sao con người hững hờ, lạnh nhạt và thậm chí nhẫn tâm từ chối Chúa như vậy?”  Thánh Gioan Tẩy giả, vị tiên tri tiền hô cho Chúa, đã cảnh báo: “Rìu đã được mang đến đặt dưới chân cây, Thiên Chúa sắp phán xét thái độ của loài người” thế mà con người vẫn hờ hững.  Họ đã không chuẩn bị sẵn sàng và mau lẹ đối với Nước Trời như người quản lý ở bất lương đã nhanh trí sắp sếp công việc cho cuộc sống ở đời này.

Nếu “con cái đời này” biết phải làm gì và cách nào đối với tiền bạc để lo liệu cho ngày mai, thì tại sao chúng ta, “con cái sự sáng”, lại không biết sử dụng ơn Chúa ban trong hiện tại ở đời này để lo cho hạnh phúc vĩnh cửu Nước trời của mình ở đời sau?  Nếu căn cứ vào cách sử dụng tiền bạc để biết được có trung tín hay không, thì tại sao chúng ta lại không thể hiện lòng trung tín với Chúa để bảo đảm cho chúng ta hạnh phúc chân thật đời sau? Thật vậy, chúng ta không trở nên giàu có với những điều mình đã nhận lãnh, mà là với những điều chúng ta đã quảng đại chia sẻ. Chỉ khi nào chúng ta biết quảng đại trong việc bác ái và tốt lành, hy sinh và phục vụ, chúng ta mới thực là những quản gia trung tín và khôn ngoan làm theo ý chủ.  Chỉ khi nào chúng ta biết coi tiền bạc là phương tiện phục vụ cho cùng đích là Nước Trời chúng ta mới thực sự “làm tôi Thiên Chúa.”

Là những Ki-tô hữu, chúng ta phải khôn ngoan tính toán và chuẩn bị cho tương lai, không phải chỉ cho những năm tháng sống tại trần gian này, mà quan trọng hơn, còn cho cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời.  Tiền bạc đời này có thể làm cho chúng ta quên đi, thờ ơ và lạnh nhạt với đời sống tinh thần, và nhiều khi có thái độ khó chịu trước lời Chúa dạy về tiền bạc và thái độ của chúng ta.

Xin Chúa ban cho chúng ta tấm lòng chân thành lắng nghe lời Chúa dạy, và khôn ngoan sử dụng những ơn lành Chúa ban cho chúng ta đời này, là phương cách đưa chúng ta đến gần, sống mật thiết với Chúa, và hưởng hạnh phúc vĩnh cửu Nước trời đời sau.

Về mục lục

.

NGƯỜI QUẢN LÝ BẤT LƯƠNG

Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt

1- Dụ ngôn này trong quá khứ đã gây nhiều phiền toái lớn cho các nhà chú giải (crux interpretum). Ngày nay cũng vậy, người ta không đồng ý với nhau cách chú giải này. Vì thế các dòng sau đây không có cao vọng giải đáp tất cả các vấn đề có liên quan đến đoạn phúc âm này nhưng chỉ muốn nêu lên những điểm chính yếu của cách chú giải được người ta chấp thuận nhiều nhất (đó là cách chú giải của BJ) và trình bày vắn gọn một lối chú giải mới mà tôi cảm thấy thỏa mãn hơn.

2- Để hiểu rõ dụ ngôn và những áp dụng của nó, điều cốt yếu phải làm sáng tỏ là tính chất luân lý trong cách hành động của viên quản lý liên quan đến các giấy nợ; những điều khác chỉ là phụ thuộc. Ý tưởng chủ yếu là viên quản lý, trong quá khứ đã hành động cách gian xảo đối với chủ mình bằng cách ăn bớt một phần hoa lợi của ông chủ. Bây giờ lại tỏ ra bất lương nữa khi ký những văn tự nợ giả tạo gây thiệt hại thêm cho tài sản của chủ (đó là cách chú giải của A.Julicher, A.Bruce, F.Tillman, L.Marchal,…)

Nếu đó là ý nghĩa của dụ ngôn, thì làm sao ông chủ lại có thể tán dương viên quản lý, và Chúa Giêsu có thể rút ra từ hành động này một kết luận chấp nhận được, nếu không phải là một kết luận đối nghịch lại với hành động này, chẳng hạn như ở Lc 22,25-26 Chúa Giêsu nói: “Vua Chúa các dân thì cai trị họ… Phần các ngươi thì không thể…”. Nhưng thay vì đó, viên quản lý lại được khen ngợi về sự khôn khéo của ông. Dĩ nhiên bằng cách phân tích luận lý, ta có thể tách rời sự lo xa và khôn khéo khỏi các khía cạnh khác nơi hành vi của tên quản lý. Nhưng những lối phân tích tế nhị như thế có nguy cơ vượt ra ngoài tầm mức hiểu biết của những người ít được huấn luyện theo kiểu phân tích đó, và đám đông quần chúng Kitô hữu dù sao vẫn cảm thấy khó chịu khi Chúa Giêsu thiết lập một sự song đối giữa viên quản lý và các môn đệ. Lẽ nào Chúa Giêsu là Đấng rất thành thạo trong việc dạy dỗ con người, lại có thể đề xướng một dụ ngôn mơ hồ, đụng đến một vấn đề mà tất cả mọi người đều chê là phản luân lý như vậy?

Ngoài khó khăn này ra, hành động gán cho viên quản lý tự nó cũng có thể chấp nhận. Giả thiết là ông ta đã bỏ túi một phần hoa lợi thuộc quyền sở hữu của chủ hoặc đã lừa gạt chủ cách này hay cách khác, thì việc ông giảm bớt nợ nần cho các con nợ, nếu thật sự là của chủ mình, thì chỉ làm cho địa vị của ông đã bấp bênh, bây giờ lại thêm trầm trọng hơn. Thật vậy, ông không thể nào giữ kín hành vi này, vì phải tính sổ với chủ, mà theo dụ ngôn thì ông chủ biết ngay sự việc liền. Khó mà hiểu ngay được hành động của tên quản lý đáng khen là khôn khéo ở chỗ nào; không thực tế chút nào và cũng không mấy hợp lý khi nghĩ rằng Chúa Giêsu là tác giả của dụ ngôn này có thể tưởng tượng ra một hành động ít thực tế như thế.

Nhưng đừng quên chính Chúa Giêsu không đưa ra một lời phê phán luân lý về cách hành động của người quản lý. Ngài chỉ nghĩ là khôn khéo thôi. Ngay câu 8 (“và chủ khen người quản lý bất lương”) cũng không nhất thiết ngụ ý người quản lý đã thiếu thành thực trong hành động vừa nói; tĩnh từ “bất lương” đúng ra chỉ đánh giá quá khứ của viên quản lý thôi; ông đã bất lương trước khi làm hành vi mà ông mô tả, hành vi sau không nhất thiết là bất lương như trước. Chúng ta thấy một trường hợp tương tự trong dụ ngôn vị thẩm phán bạo ngược bị bà góa quấy rầy (Lc 18,2-8): Chúa Giêsu cũng vẫn gọi ông này là “bạo ngược” (vì quá khứ của ông) ngay trong lúc ông xử đúng cho bà góa.

3- Từ đầu thế kỷ này, một vài tác giả (M. Evers, bà M.Gibson, W, D. Miller, E.Campden-Cook, W.F.Howard, P.Gaachter) đã cố minh chứng dụ ngôn này phản ảnh một phương cách chiếm đoạt rất quen thuộc với người đông phương với thính giả của Chúa Giêsu cũng như các Kitô hữu đầu tiên. Lý luận theo tư kiến hơn là theo dữ kiện lịch sử, họ nghĩ rằng phải giải thích việc giảm nợ như là một sự từ khước của viên quản lý không nhận lợi suất mà đáng lý ra ông có quyền được hưởng. Đây là một hình thức “hối lộ” bán công khai vẫn còn thịnh hành ở Á châu (và chắc chắn khắp nơi): người trung gian có quyền giữ lại cho mình một phần hoa lợi thu được trong một dịch vụ buôn bán với tư cách là người được ăn huê hồng. Trong trường hợp viên quản lý đây, ông chỉ từ khước không hưởng quyền ăn huê hồng, làm như thế để lấy lòng cho con nợ của chủ mà không gây thiệt hại gì cho chủ.

Cách giải thích dụ ngôn tài tình như thế vừa được sửa chữa lại và khai triển thêm, nhưng lần này dựa trên nền tảng khoa học, do giáo sư J.D.M. Derrett, giáo sư luật Đông phương ở đại học Luân Đôn (Law in the New Testament, Londre, 1970, tr.48-77). Từ đó, cha Fitzmyer và các nhà chú giải khác đã dựa vào lối chú giải mới này. Tôi xin trình bày tóm tắt sau đây.

4- Trong xứ Palestine của dụ ngôn, theo luật Do thái liên quan đến vai trò người quản lý, thì địa vị này phải được kính trọng. Người quản lý không phải là một nhân viên được trả công, hay là người dẫn mối, nhưng toàn quyền thay mặt cho chủ và chủ phải tôn trọng những dịch vụ buôn bán của người quản lý. Trong trường hợp người quản lý lừa bịp chủ, luật pháp cũng không có một biện pháp nào bắt ông phải hoàn lại của mất; hình phạt có chăng cũng chỉ vài lời trách mắng mất uy tín và bị sa thải. Sau khi nhân được giấy sa thải, viên quản lý phải tính sổ liệt kê tài sản; việc này cần một thời gian chuẩn bị. Trong thời gian này ông vẫn là người đại diện cho chủ, được luật pháp cho phép hành động nhân danh chủ.

Cũng cần phải ghi nhận tính cách tối quan trọng của người Do thái về việc cho vay lấy lời. Luật cho vay lấy lời cấm thu lời trên những đồ cho người Do thái vay bất cứ thuộc loại nào (Xac 22,25; Lv 25,36; Đnl 23,20-21); nhưng người ta đã tìm mưu kế để qua mặt mặt lề luật. họ cho rằng lề luật có mục đích bảo vệ những kẻ túng quẫn khỏi bóc lột, vì thế nếu có thể minh chứng rằng người vay đã chiếm hữu một ít sản phẩm mà họ muốn vay thêm, và sự vay mượn đó không phải là tối cần thiết, thì việc cho vay ăn lời có thể chấp nhận được. Và nhờ cách giải thích lề luât như thế, người ta tổ chức khéo léo các dịch vụ thương mại rộng lớn mà không lỗi phạm lề luật. Hình như người Do thái đạo đức (muốn ký giao kèo không mang tiếng cho vay ăn lời theo nghĩa thánh kinh) có thể an tâm cho vay dầu và lúa mì, vì con nợ chắc chắn “có đủ dầu để thắp đèn” và “đủ lúa mì để nướng bánh” (những kiểu nói trích trong Mischna) nên không xem như là người túng quẫn. Đó là lý do tại sao dầu và lúa mì được dùng trong dụ ngôn. Tuy nhiên hoa lợi được đánh trên các sản phẩm đó thay đổi rất nhiều: trên lúa mì thì hoa lợi là 25 phần trăm, trên dầu oliva (có rất nhiều loại và có thể pha chế với các thứ dầu xấu) huê lợi có thể lên tới 100 phần trăm. Vì tính chất của giao kèo (hợp pháp theo mặt chữ của lề luật, nhưng thường ngược lại với tinh thần, vì con nợ thường là người túng quẫn) nên giao kèo thường được ký mà không cần nhân chứng. Viên quản lý trong dụ ngôn trả lại cho các con nợ những giấy nợ (có ghi cả vốn lẫn lời, số tiền lời hợp pháp theo mặt chữ lề luật, nhưng trái với tinh thần lề luật) và bảo họ viết lại giấy nợ mới chỉ ghi phần vốn phải trả mà thôi (vốn này sẽ hoàn lại cho chủ, còn viên quản lý từ chối không nhận tiền lời, mà ông có thể đòi hỏi cách hợp pháp theo mặt chữ lề luật).

Để hiểu nghĩa dụ ngôn, hãy lưu ý việc viên quản lý muốn được quần chúng (c.4) tán dương. Để được vậy, ông thi hành điều mà lề luật Thiên Chúa đòi hỏi: là không lấy lời (điều mà từ trước đến giờ ông thường làm, bằng cách tráo trở luật Thiên Chúa). Làm như thế ông không đợi chủ oán, vì khi cho vay, tiền lời là để cho cá nhân ông, và sự “hoán cải” của ông cũng không làm chủ thiệt hại gì. Thật ra ông linh cảm chủ sẽ tán thành hành động ông làm, và ông cũng sẽ được người ta kính trọng hơn nhờ thái độ đạo đức đó. Sự thực thi thẩm định tình hình (c.8), chủ đã khen người quản lý bất lương vì đã biết xử trí khéo léo.

Bây giờ dụ ngôn sẽ có nghĩa thế này: kể biết rõ bổn phận luân lý phải giữ mà không giữ, vì ham lợi lộc trần thế, phải buộc xét lại địa vị của mình và nại đến thiện ý của những kẻ trước đây y chả thèm quan tâm đến. Câu 8b là bài học luân lý của dụ ngôn: con cái đời này biết khi nào phải làm điều nên làm, tại sao phải làm và làm cách nào; khi sự việc có lợi cho chúng, con cái sự sáng, tuy được sống theo một nền luân lý cao hơn, vẫn không biết chứng tỏ có sáng kiến và óc quyết định khi làm việc của Thiên Chúa.

Câu 9 là phần áp dụng dụ ngôn: chúng ta được trực tiếp mời gọi dùng “tiền bạc bất lương” mà phục vụ Thiên Chúa (tiền kiếm được cách hợp pháp – theo luật loài người – nhưng thối nát trước mặt Thiên Chúa, như tiền thu được bằng lối xảo quyệt trình bày trên đây) số tiền đó cũng có thể mở đường vào nơi cư ngụ vĩnh cửu.

5- Điểm khó khăn chính yếu mà ta có thể đưa ra để chống lại cách giải thích mới này là nó dựa vào lề luật Do thái về việc cho vay ăn lời, trong khi Lc viết cho người Hy lạp. Vấn nạn khá quan trọng. Nhưng ta có thể giữ lại điểm cốt yếu trong cách giải thích này mà bỏ qua một bên việc nại đến các tập tục hầu như phổ quát của việc buôn bán có huê hồng mà người trung gian có quyền giữ lấy trong một dịch vụ thương mãi. Về điểm này, vì không biết đến luật lệ Do thái về việc cho vay ăn lời, các độc giả của Lc cũng có thể hiểu được đầy đủ ý nghĩa của dụ ngôn. Vì thế ta có thể xem cách giải thích này ít ra là có giá trị như các cách giải thích khác và có lẽ còn hơn nữa, vì hình như giúp ta hiểu rõ ý nghĩa dụ ngôn hơn.

KẾT LUẬN

Viên quản lý xảo quyệt là “con cái đời này” đã biết dùng tiền bạc để bảo đảm tương lai cho mình: bằng cách phân phát. Khi không còn tính đến mối lợi trần gian nữa, mà nghĩ đến những mối lợi đời đời thì “con cái sự sáng”, những kẻ đã đón nhận và trong hướng dẫn do ánh sáng của Thiên Chúa cũng phải tỏ ra khéo léo và hăng hái nắm lấy cơ hội để chuẩn bị tương lai như “con cái đời này” trong các mối tương quan với người đương thời để thăng tiến các việc trần thế.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1- Chính Đức Kitô cho chúng ta chìa khóa dụ ngôn này. Ngài rút ra một bài học về cách sử dụng các của cải vật chất: dùng của cải để kết bạn hữu trên trời.

Nếu Ngài có thể rút ra kết luận này, chính vì Ngài cho chúng ta thấy có sự tương đồng (analogie) giữa hoàn cảnh của chúng ta và hoàn cảnh của viên quản lý. Đức Kitô muốn nói: các ngươi giống như những người đang xử dụng của cải mà sớm muộn cũng bị lấy đi. Những của đó không thuộc về các ngươi nhưng các ngươi có quyền quản lý. Trong hoàn cảnh đó, con cái đời này phải làm gì? Họ vội vã tìm kiếm bạn hữu với những của cải họ đang sử dụng đó. Người đời tinh khôn hơn các ngươi. Họ thấy được hoàn cảnh bấp bênh của mình. Và họ vội vã kết nghĩa với bạn hữu phòng khi túng quẫn. Cho nên, chúng ta cũng phải làm như vậy. Bằng cách nào?

a/ Chúng ta giống như những người quản lý tài sản không thuộc về chúng ta. Những của cải vật chất mà chúng ta đang có đều thuộc về Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa là chủ các vật đó, là người sở hữu đích thật. Chúng ta chỉ là người quản lý.

b/ Điều quan trọng hơn là những của cải ấy sẽ được cất khỏi chúng ta cách gấp rút. Chúng ta biết mình chỉ được sử dụng trong một thời gian rất vắn. Một ngày kia, Chúa là người chủ đích thật sẽ cất khỏi chúng ta quyền quản lý và lấy lại tài sản của Ngài. Thật chúng ta ở trong hoàn cảnh giống như người quản lý trong dụ ngôn.

c/ Bấy giờ phải làm gì, nếu chúng ta là người tinh khôn: kết nghĩa với bạn hữu bằng những của cải đó.

Ba đặc điểm này chỉ dạy thái độ chúng ta phải có đối với của cải vật chất:

a- Chúng không thuộc về chúng ta.

b- Chúng sẽ bị lấy đi khỏi chúng ta.

c- Chúng chỉ nên được dùng để kết bạn.

Vì thế chúng ta phải:

a* Tránh bo bo giữ lấy các của cải mà phải sống như những người quản lý.

b* Thấy trước ngày bị hoàn toàn trắng tay.

c* Chỉ dùng của cải ấy để kết nạp bạn hữu.

Hậu quả thứ ba quan trọng nhất. Sự từ bỏ của cải sẽ không đi đến đâu, nếu không biết dùng để yêu thương và phục vụ anh em. Làm như vậy là chúng ta kết nạp bạn hữu. Nhưng còn quan trọng hơn nữa là những việc phúc đức để trở nên những người bạn hữu bào chữa cho chúng ta trước mặt Chúa, theo như các người đương thời của Chúa Giêsu đã thấy được. Và nhờ các bạn hữu là các việc phúc đức đó, chúng ta có thể an tâm một ngày kia sẽ được đón rước vào trong nhà Chúa.

2- Các của cải trần thế là phương tiện để chúng ta yêu thương nhau. Khi nào được dùng để làm vui lòng kẻ khác, những của cải ấy được biến đổi trở nên những giá trị vĩnh cửu.

Chỉ có một giá trị vĩnh cửu là: tình yêu. Chỉ có đức ái là sẽ không qua đi. Biến của cải đời này trở thành tình yêu, tình bạn, niềm vui là nhiệm vụ của chúng ta. Của cải được tạo ra để ban phát chứ không phải để chiếm hữu.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 25 TN_C

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXV Thường Niên Năm C mời gọi mỗi người chúng ta hãy biết tận dụng của cải ở đời này mà lo toan đến của cải tinh thần, vì của cải tinh thần mới là của cải chân thật, không hề hư hoại, và mới có thể đưa chúng ta vào Nước Trời.

Am 8: 4-7

Ngôn sứ A-mốt phê phán thói tham lam của những phú thương Sa-ma-ri:  thay vì cử hành những ngày đại lễ để kính Đức Chúa, thì họ lại lợi dụng các ngày đại lễ để mà gian lận đầu cơ trục lợi từ những người cùng khốn và những kẻ nghèo hèn trong xứ.

1Tm 2: 1-8

Lời cầu nguyện được định vị vào số những của cải mà người Ki-tô hữu sở hữu. Thánh Phao-lô xin ông Ti-mô-thê quan tâm đến tính phổ quát của lời cầu nguyện trong những buổi họp phụng vụ của Giáo Đoàn Ê-phê-xô, vì Đức Ki-tô là Đấng Trung Gian duy nhất hoàn vũ của ơn cứu độ.

Lc 16: 1-13

Qua dụ ngôn người quản gia bất lương, Chúa Giê-su đòi hỏi các môn đệ Ngài hãy tỏ ra khôn khéo trong việc phân phát của cải tinh thần mà Ngài giao phó cho họ cai quản. Họ phải chứng tỏ cho thấy mình xứng đáng với sự tín nhiệm của chủ: “Ai trung tín trong những việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong những việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em”.

BÀI ĐỌC I (Am 8: 4-7)

A-mốt là vị ngôn sứ bút ký đầu tiên. Ông công bố sứ điệp báo oán ở vương quốc miền Bắc (miền Ga-li-lê, thủ đô là Sa-ma-ri) vào giữa thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên. Tuy nhiên, ông xuất thân ở vùng Tơ-cô-a, gần Bê-lem, thuộc vương quốc miền Nam, sống bằng nghề chăn cừu (1: 1) và chăm sóc cây sung (7: 14).

  1. Ơn gọi

A-mốt được Chúa gọi làm ngôn sứ của Ngài. Đây không lần đầu tiên cũng không là lần cuối cùng Thiên Chúa chọn một người chăn chiên để truyền đạt sứ điệp của Ngài. Chúng ta không biết Chúa gọi ông A-mốt trong hoàn cảnh nào, nhưng vị ngôn sứ nói về ơn gọi làm ngôn sứ của ông như không thể nào cưỡng kháng lại được: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã phán, ai chẳng nói tiên tri?” (3: 8).

Vốn là một người giản dị, quen với cuộc sống thanh đạm, gần gũi với thiên nhiên, A-mốt được Chúa sai đến vương quốc miền Bắc, vào lúc đó rất phồn vinh, để nhắc cho dân chúng nhớ những huấn lệnh của Thiên Chúa: thực thi công chính, sống khiêm hạ, bảo vệ những người bị áp bức và những kẻ nghèo hèn trong xứ.

  1. Bối cảnh vương quốc miền Bắc

Vào thời đó, dưới triều đại vua Gia-róp-am II, vương quốc miền Bắc trở nên thịnh vượng và thanh bình. Thời kỳ cực thịnh này kéo dài suốt bốn mươi năm, có thể được sánh ví với thời kỳ hoàng kim dưới triều đại vua Sa-lô-môn.

Tuy nhiên, chỉ lớp có quyền có thế mới hưởng được sự thịnh vượng này. Những quan lại, điền chủ và tầng lớp thương gia cấu kết với nhau ra sức áp bức bóc lột những kẻ nghèo hèn và thấp cổ bé miệng trong xứ. Giai cấp này huênh hoang tự đắc rằng chính nhờ tài trí của họ mà đất nước được vui hưởng cảnh thanh bình thịnh trị và nhờ vào tiền đóng góp của họ mà việc phụng tự ở những đền thánh trong vương quốc, như Bết Ên hay Ghin-gan, có được vẻ huy hoàng rực rỡ. Họ cho rằng Thiên Chúa phải hài lòng với họ, vì mọi việc diễn tiến tốt đẹp.

Vì thế, thực hành tôn giáo đã trở thành những buổi phụng tự phô trương và những lễ hội linh đình, nhưng chỉ là trống rỗng, bởi vì chúng không tác động đến lương tâm của quần chúng. Tôn giáo không có bất cứ ảnh hưởng nào trên đời sống luân lý, chỉ như một loại ngụy trang cho phép những kẻ quyền thế làm bất cứ điều gì họ muốn và như một thứ thuốc phiện để ru ngủ quần chúng quên đi nhưng cảnh cùng khổ và bất công mà họ phải chịu. Hậu quả rõ nét là sự bất công xã hội tràn lan, tương phản với những phẩm chất của dân Thiên Chúa.

  1. Nhân cách ngôn sứ của A-mốt

Đây là hoàn cảnh vương quốc miền Bắc mà ông A-mốt được sai đến để loan báo sứ điệp của Thiên Chúa. Trong hoàn cảnh bi thương như thế, vị ngôn sứ không thể không công kích dữ dội giai cấp cầm quyền thối nát và những kẻ giàu có hám lợi (5: 7, 10-12; 6: 1-14). Trong đoạn trích hôm nay, vị ngôn sứ tố cáo những phú thương lợi dụng các ngày đại lễ để gian lận đầu cơ trục lợi từ những kẻ bị áp bức và những người nghèo hèn trong xứ (8 : 4-6). Vị ngôn sứ nhân danh Thiên Chúa mà tuyên án: “Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng” (8 : 7).

Trong hoàn cảnh xã hội suy thoái về mặt luân lý như vậy, không thể nào khác hơn là phải công kích bằng những lời lẽ thẳng thắn, bộc trực, không vì bất kỳ ân ban lợi lộc nào có thể làm thay đổi cung giọng của vị ngôn sứ được và cũng không bất kỳ chống đối hay hăm dọa nào có thể làm cho vị ngôn sứ phải nao lòng mà chùn bước được. Không bao lâu sau đó những thành phần bị công kích phản ứng.

Hoàn cảnh được gói gọn vào một buổi chiều giữa ngôn sứ A-mốt và tư tế đền thờ Bết Ên là ông A-mát-gia. Trước đó, tư tế A-mát-gia đã mật báo với vua rằng ông A-mốt âm mưu chống lại vua ngay trên lãnh thổ của vua bằng cách tố cáo sự bất công và hăm dọa án phạt của Thiên Chúa. Trong cuộc gặp gỡ này, tư tế A-mát-gia bảo ngôn sứ A-mốt đừng đến đây quấy rầy họ và hãy trở về đất Giu-đa làm nghề ngôn sứ mà kiếm ăn. Sự căng thẳng giữa lời rao giảng của vị ngôn sứ và sự bác bỏ của vị tư tế tham dự trước đến tám trăm năm việc các vị lãnh đạo tôn giáo chống đối sứ vụ của Đức Giê-su. Trong trường hợp Đức Giê-su cũng vậy, giai cấp lãnh đạo tôn giáo phải vận động đến chính quyền dân sự để khai trừ “tên phản động” dám phê bình chỉ trích tình trạng hiện hành.

Nhân cách của ngôn sứ A-mốt có thể được tóm gọn trong những lời nhận xét sau đây: “Không một ngôn sứ nào gần gũi với thế giới ngày nay bằng A-mốt. Ông đã can đảm tố cáo những bất công trong xã hội nước Ít-ra-en ở thế kỷ thứ tám. Ông đã trở nên lương tâm của đất nước và cất tiếng nói thay cho những người thấp cổ bé miệng. Bài học quan trọng mà A-mốt vẫn còn muốn nhắc nhở các Ki-tô hữu hôm nay đó là: công bằng xã hội là chuyện của tôn giáo. Lòng đạo đức thật sự được đo lường bằng lối sống ở phố chợ hơn là ở nhà thờ” (Nhóm phiên dịch CGKPV, Dẫn Nhập Các Ngôn Sứ, tr. 702).

BÀI ĐỌC II (1Tm 2: 1-8)

Ti-mô-thê vừa là một môn đệ vừa là cộng sự viên trung tín của thánh Phao-lô. Thánh nhân đã gặp người môn đệ này ở Lýt-ra, miền Tiểu Á, trong cuộc hành trình truyền giáo thứ hai của thánh nhân. Sách Công Vụ nói với chúng ta ông được cộng đồng chứng nhận là một người Ki-tô hữu đạo hạnh (Cv 16: 2). Thánh Phao-lô muốn ông đồng hành với thánh nhân trong những cuộc hành trình truyền giáo.

Cha ông là người Hy-lạp, mẹ và bà ngoại của ông là người Do-thái. Ngay từ thuở nhỏ ông đã được mẹ và bà ngoại nuôi nấng dạy dỗ Kinh Thánh, vì thế ông hiểu biết thấu đáo Kinh Thánh, như lời nhận định của thánh Phao-lô trong thư thứ hai gửi Ti-mô-thê: “Tôi hồi tưởng lại lòng tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lô-ít, bà ngoại anh, nơi bà Êu-ni-kê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy” (2Tm 1: 5). Thánh Phao-lô và ông Ti-mô-thê đã cộng tác với nhau mật thiết đến độ trong số những thư của thánh nhân có đến sáu bức thư đều có ông Ti-mô-thê đồng kính gửi.

Thánh Phao-lô đã ký thác cho ông Ti-mô-thê Giáo Đoàn Ê-phê-xô. Thánh Phao-lô rất yêu quý Giáo Đoàn này mà ngài đã thành lập và đổ nhiều công sức. Qua vị đứng đầu Giáo Đoàn, thánh nhân thăm hỏi hết thảy mọi thành viên trong Giáo Đoàn.

Thật khó để xác định niên biểu thư này, vì những năm tháng sau cùng cuộc đời của thánh Phao-lô chỉ được phỏng đoán. Tuy nhiên, thư thứ hai gửi cho Ti-mô-thê được viết chẳng bao lâu trước cuộc tử đạo của thánh nhân (năm 67), thư thứ nhất chắc chắn được viết sau thư thứ hai độ hai hay ba năm.

  1. Ơn cứu độ phổ quát

Thánh Phao-lô khuyên nên cầu nguyện không ngừng. Ở đây thánh nhân nhấn mạnh tính hoàn vũ mà lời cầu nguyện phải mặc lấy trong các buổi họp cộng đoàn. Phải cầu nguyện cho hết mọi người, vì Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người. Chính vì mục đích này mà lời cầu nguyện phải là cầu xin, khẩn nguyện và nài van. Thánh Phao-lô còn thêm “tạ ơn cho tất cả mọi người”, thái độ này hoàn toàn phù hợp với truyền thống Kinh Thánh, theo đó người tín hữu tin chắc rằng, lời cầu nguyện của mình được nhận lời. Nhưng thánh nhân định vị mình cách đặc biệt vào trong tinh thần Giáo Hội hướng lời cầu nguyện cộng đoàn theo chiều kích tạ ơn và gọi phụng vụ cốt yếu của mình là tạ ơn.

  1. Cầu nguyện cho tất cả những người cầm quyền

Thánh nhân đã bày tỏ – và giải thích – bổn phận của người công dân trong thư gửi cho các tín hữu Rô-ma: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt. Thật thế, làm điều thiện thì không phải sợ nhà chức trách, có làm điều ác mới phải sợ…” (Rm 13: 1-7).

Đừng quên rằng thánh Phao-lô xưa kia là một kinh sư; lập trường của ngài được sáng tỏ nếu chúng ta nhớ lại một sự kiện lịch sử quan trọng. Kể từ thời hoàng đế Au-gút-tô, người Do thái được hưởng đặc ân là không bị buộc phải thờ lạy hoàng đế như một thần linh, nhưng được phép cầu nguyện với Thiên Chúa của mình cho hoàng đế, mà không bị buộc phải kêu cầu thần Jupiter hay vị thần linh dân ngoại nào. Bao lâu đế quốc Rô-ma vẫn còn, dân Do thái được đặc quyền này. Vì thế, thánh Phao-lô không thể nghi ngờ rằng người Ki-tô hữu, xuất thân từ Do-thái giáo, bị chối từ được hưởng đặc ân này. Tuy nhiên, câu cuối cùng để cho thấy một mối lo lắng nào đó về tương lai: “để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh”.

  1. Chỉ có một Thiên Chúa và chỉ có một Đấng Trung Gian là Đức Ki-tô

Lời nguyện phổ quát mà thánh Phao-lô căn dặn đặt nền tảng trên sự duy nhất của Thiên Chúa và Đấng Trung Gian duy nhất là Đức Ki-tô. Lời tuyên tín mà thánh nhân công bố có thể là lời trích dẫn của một bản văn phổ biến trong Giáo Hội tiên khởi. Khởi đầu là lời khẳng định: “Vì Thiên Chúa thì chỉ có một”, tương tự với lời khẳng định khởi đầu lời kinh nguyện hằng ngày của người Do thái (shema). Tiếp đó, thánh nhân nhấn mạnh phẩm chất duy nhất của Đức Ki-tô: “Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người cũng chỉ có một: đó là Đức Giê-su Ki-tô”. Nhờ mầu nhiệm Nhập Thể, Đức Giê-su vừa là con người vừa là Thiên Chúa; vì thế, với tư cách là con người, chỉ duy một mình Ngài mới có thể “tự hiến làm giá chuộc mọi người”.

Diễn ngữ thánh Phao-lô dùng cũng là diễn ngữ mà Chúa Giê-su đã dùng theo Tin Mừng Mát-thêu và Tin Mừng Mác-cô: “Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20: 28; Mc 10: 45).

Việc thánh Phao-lô nhấn mạnh phẩm chất của Đức Giê-su, Đấng Trung Gian duy nhất và phổ quát chắc chắn là lời đáp trả cho những niềm tin Do-thái giáo vẫn còn sống động giữa vài người Ki-tô hữu xuất thân từ Do-thái giáo, theo niềm tin này, các thiên thần được gán cho một vai trò cầu bầu. Thánh Phao-lô dựa những lời khuyên bảo của mình trên ơn gọi làm Tông Đồ dân ngoại của ngài.

Câu cuối cùng trở lại với động cơ cầu nguyện (kỷ thuật văn chương đóng khung). Thánh nhân đòi hỏi rằng cử chỉ giơ tay lên khi cầu nguyện phải tương xứng với tư thế sẵn sàng bên trong: “tâm hồn thánh thiện và đức ái huynh đệ”.

TIN MỪNG (Lc 16: 1-13)

Trong suốt cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su giáo huấn những phẩm chất cần phải có để làm môn đệ Ngài, nhằm một mục đích duy nhất là được gia nhập Nước Trời: siêu thoát những của cải trần thế, từ bỏ bản thân, mang lấy thập giá của mình, sẵn lòng chịu trách nhiệm nghiêm trọng và xem ơn cứu độ như là của cải tối thượng, kho tàng không hề hư hoại. Chương 16 nêu lên vấn đề về thái độ đối với tiền bạc. Chương này bắt đầu với dụ ngôn “người quản gia bất lương” và hoàn tất với dụ ngôn “ông phú hộ và anh La-da-rô nghèo khó”. Hai dụ ngôn này phụ thuộc lẫn nhau và soi sáng cho nhau.

Tin Mừng hôm nay gồm hai phần: phần thứ nhất là dụ ngôn “người quản gia bất lương”, phần riêng của thánh Lu-ca; phần thứ hai, có chung với thánh Mát-thêu, là giáo huấn của Chúa Giê-su về việc quản lý của cải tinh thần, phần này hoàn tất với một suy tư về của cải.

  1. Vấn đề

Dụ ngôn “người quản gia bất lương” nêu lên nhiều vấn đề cho các nhà chú giải, nhất là vấn đề biết ai là người phú hộ. Danh xưng “kurios” được dùng ở đây có thể được hiểu là “Chúa”, như thế chỉ Đức Giê-su (thánh Lu-ca sử dụng tước hiệu này nhiều lần, trái với thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu), nhưng cũng có thể được hiểu là “ông chủ”, như thế chỉ gia chủ giàu có, ông đã thuê viên quản gia này. Theo tập quán Do thái thời đó, viên quản gia là người được toàn quyền thay chủ trông coi gia sản của chủ. Các nhà chú giải chia thành hai do “từ hai nghĩa” này.

Nhưng ngay liền sau đó, câu tiếp theo lại nêu lên vấn đề, ai đã có thể nói: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” nếu không là Đức Giê-su? Hơn nữa, khởi đi từ những lời: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”, không có gì phải phân vân nữa. Đây rõ ràng là biểu thức Chúa Giê-su sử dụng trong bài giảng trên núi.

Mặt khác, chúng ta nhớ rằng trong các sách Tin Mừng, đây không là trường hợp duy nhất Chúa Giê-su quy chiếu đến hạnh kiểm không gì tốt đẹp của nhân vật để từ đó Ngài rút ra bài học, ví dụ như viên quan tòa bất chính, “ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì”. Viên quan tòa này, sau một thời gian dài từ chối biện hộ cho một bà góa, nhưng cuối cùng đành phải bênh vực bà góa này vì bà cứ năm phen bảy lượt van xin mãi đến inh tai nhức óc (Lc 18: 1-8). Nếu như Đức Giê-su không nhấn mạnh tính bất chính của viên quan tòa này, liệu nhân tố kích thích của dụ ngôn có thể được sinh động hay không. Cũng trường hợp như vậy đối với viên quản gia bất lương. Có một bài học mâu thuẩn phải rút ra từ sự khôn khéo của y.

  1. Bận lòng đến tương lai trần thế

Viên quản gia đã biển thủ của cải của chủ mình. Chuyện đến tai ông chủ, ông liền gọi anh đến và nói với anh: “Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Anh hãy thanh toán sổ sách công việc quản lý của anh, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa?”. Vì thế, anh bị lâm vào hoàn cảnh khốn cùng, nếu không tìm được một lối thoát. Anh tự nhủ: “Mình biết phải làm gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi”; lúc đó anh vận dụng thủ đoạn xảo trá mà dụ ngôn mô tả. Anh biết tận dụng thời gian đương nhiệm còn lại của mình, nhờ của cải không phải của anh để mà sau này những con nợ của chủ biết ơn anh và hậu tạ anh.

Anh được chủ khen ngợi không phải tính bất lương của anh, nhưng sự khôn khéo, biết lo toan, tính toán làm sao cho tương lai của mình được đảm bảo sau này. Chính ở nơi những nỗ lực này mà Chúa Giê-su muốn thính giả của Ngài để tâm lưu ý đến. Ngài chuyển dụ ngôn từ tương lai trần thế sang tương lai vĩnh cửu. Nếu con cái ánh sáng để hết tâm trí vào ơn cứu độ của mình cũng sinh động như người quản gia bất lương này thì tốt biết mấy. Họ sẽ sử dụng tối đa cuộc sống tràn thế của mình để đảm bảo cho mình được tiếp đón trong Nước Trời: không phải tên biển thủ của dụ ngôn đã bày tỏ sự khinh miệt của anh đối với tiền của khi sử dụng nó như phương tiện để đạt cho bằng được mục đích của anh là đảm bảo cho mình một tương lai sao?

  1. Quan tâm đến tương lai vĩnh cửu

Chúa Giê-su phát biểu như một ông chủ sở hữu của cải tinh thần mà môn đệ của Ngài sẽ là những quản gia: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”. Họ phải biết tỏ ra khôn khéo trong việc phân phát của cải tinh thần mà Ngài giao phó cho họ cai quản. Của cải tinh thần này mới là của cải chân thật duy nhất, không hề hư hoại. Họ phải chứng tỏ cho thấy mình xứng đáng với sự tín nhiệm của chủ: “Ai trung tín trong những việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong những việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em”.

Cuối cùng, Chúa Giê-su cảnh giác coi chừng đừng làm tôi hai chủ: “Thiên Chúa hay Thần Tài”.

Về mục lục

.

MƯU MẸO

Trầm Thiên Thu

Nói về mưu mẹo (mưu mô, mưu chước) chắc hẳn không ai “qua mặt” ma quỷ – vua lừa bịp, vua dối trá, vua mánh lới, vua xảo quyệt, vua quảng cáo, vua xạo, vua lưu manh,… Thật vậy, nó đã tỉ tê khiến bà Eva bùi tai nên siêu lòng, và rồi ông Adam cũng nghe vợ mà chịu chung số phận. Tiêu tùng! Ngày nay, không ít người cũng đã “chết dở” vì chiêu bài quảng cáo – bí quyết nói láo ăn tiền, nhưng được người ta khoái và công nhận. Thế mới chết!

Mưu phải có mẹo. Mẹo càng tinh xảo thì mưu càng thâm độc, khiến người ta càng dễ mắc lừa. Vì thế, rất cần sự khôn ngoan để trước tiên là “tự vệ” (bảo vệ mình), rồi mới có thể bảo vệ người khác. Khôn ngoan là điều rất cần thiết trong cuộc sống – cả đời thường và tâm linh. Bởi vì “tất cả sự khôn ngoan đều phát xuất từ Đức Chúa.” (Cn 1:1a)

Thật ngạc nhiên với nhận định của Robert A. Heinlein (1907-1988, văn sĩ về khoa học viễn tưởng, người Mỹ) nói: “Lòng tốt thiếu đi sự khôn khéo luôn luôn chẳng khác gì cái ác”. Còn kịch tác gia Menander (324-291 trước công nguyên, người Hy-lạp) nhận xét: “Tóc bạc không sinh ra khôn ngoan”. Ôi, vậy ư? Thông thường, tuổi già thì khôn ngoan, nhưng điều đó chưa chắc là mẫu số chung, tuy nhiên có điều chắc chắn: Càng nhiều tuổi càng nhiều tội. Thế thì lại càng sự khôn ngoan hơn nữa.

Nhưng có những trường hợp “đầu bạc” thực sự khôn ngoan, vì đó không chỉ là “vinh dự của hàng bô lão” (Cn 20:29) mà còn là “triều thiên vinh hiển được tặng ban cho người sống công chính” (Cn 16:31).

Khôn ngoan cũng liên quan nhiều thứ. Biết mình là sáng, biết người là khôn. Khổng Minh Gia Cát Lượng (Zhuge Liang, 181-234) nói: “Vấn chi dĩ thị phi nhi quan kỳ chí” – Muốn xem xét chí hướng của một người thì phải hỏi họ về điều phải trái, đúng sai. Mạnh mẽ hơn, Albert Einstein (1879-1955) xác định: “Đừng làm gì trái với lương tâm, ngay cả khi chính quyền yêu cầu bạn.” Thế mới là khôn ngoan – nghĩa là cũng cần có lòng can đảm.

KHÔN TỘI

Cũng có năm bảy đường khôn ngoan – khôn tội hóa khốn. Dễ lầm nên phải phân biệt rạch ròi: Khôn lỏi, khôn đểu, khéo léo, mánh khóe hay tinh quái? Lạnh lẹ hay ranh mãnh? Linh động hay mưu chước? Việt ngữ độc đáo lắm: Chữ KHÔN rất gần chữ KHÔNG, cả cách viết và cách phát âm – chỉ khác nhau mẫu tự G. Đúng là “sai một ly đi một dặm”, vì KHÔN ngoan cũng dễ biến thành KHÔNG ngoan như thường. Thật vậy, sách Khôn Ngoan nói: “Những lý luận quanh co khiến con người lìa xa Thiên Chúa.” (Kn 1:3) Lươn lẹo thì người đời cũng chẳng ai ưa chứ nói chi Thiên Chúa. Nhưng xã hội Việt Nam ngày nay có vẻ người ta thích lươn lẹo, ăn không nói có, lọc lừa người khác để mình được sống vinh thân phì da.

Kẻ ác là kẻ hèn. Càng hèn thì càng nhát, càng nhát thì càng ác, càng ác thì càng độc, càng độc thì càng ngốc, càng ngốc thì càng dại, càng dại thì càng khờ, càng khờ thì càng ngu, càng ngu thì càng ác. Đúng theo quy trình khép kín của cái vòng lẩn quẩn. Thật khủng khiếp, đáng sợ!

Thời nào cũng có người khôn, kẻ khốn. Ngôn sứ A-mốt xuất thân là một mục đồng ở miền Nam Belem, thuộc chi tộc Giu-đa. Ông được Thiên Chúa sai đi tuyên sấm cho vương quốc Israel, và ông đã can đảm hành động. Ông kêu gọi: “Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ. Các ngươi thầm nghĩ: ‘Bao giờ ngày mồng một qua đi, cho ta còn bán lúa; bao giờ mới hết ngày sa-bát, để ta bày thóc ra?’. Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm; Ta sẽ làm lệch cán cân để đánh lừa thiên hạ” (Am 8:4-5). Người ta thường nói: “Vải thưa che mắt thánh”, hoặc: “Chiếc kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”. Với người đời còn chưa lừa được thì nói chi đối phó với Thiên Chúa, vì Ngài toàn năng và thấu suốt mọi bí ẩn.

Đôi khi Ngài im lặng chứ không phải Ngài không biết. Đừng ngu xuẩn mà suy nghĩ theo kiểu vô thần. Thánh Vịnh gia nói: “Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết. Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con” (Tv 139:1-5). Thiên Chúa như vậy thì chúng ta còn có thể dùng mánh khóe nào mà trốn thoát Ngài chứ?

Trong cuộc sống đời thường, người ta ngông cuồng khi tìm đủ mưu mẹo để “đè bẹp” hoặc “chà đạp” người khác – nhất là đối với người dưới quyền hoặc người yếu thế hơn mình. Và còn hơn thế nữa, người ta tìm mọi thủ đoạn để lừa đảo người khác, từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn, cuộc sống hằng ngày vẫn xảy ra những chuyện như thế ở khắp nơi – thậm chí ngay trong các gia đình, giáo xứ, cộng đoàn,… Người nghèo còn bị người ta đàn áp và bóc lột đến cả chiếc áo rách họ đang mặc, thế mà người ta vẫn ra vẻ nhân đạo mà “ngọt ngào” nói đến nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền. Giả hình rõ nét! Đó là cách “lấy vải thưa che mắt thánh” mà thôi. Tức nước thì vỡ bờ, đó là điều tất yếu. Con chó bị dồn vào góc tường thì nó cũng phải cắn lại. Con vật mà còn như vậy huống chi con người.

Thật đúng như Thánh Vịnh gia đã xác định: “Ra tay hại người thân nghĩa, lại lỗi ước quên thề; miệng nói năng ngọt xớt, lòng chỉ muốn chiến tranh; lời trơn tru hơn mỡ, mà bén nhọn như gươm.” (Tv 55:21-22) Lưỡi còn hơn gươm sắc bén, mà nó có thể như lửa thiêu rụi mọi thứ. Sống hay chết đều do cái lưỡi, (Cn 18:21) và nó chính là mối họa cho con người. (Hc 5:13) Ngay cả bốn thứ Thiện – Ác và Sinh – Tử cũng bị cái lưỡi chi phối. (Hc 37:18)

Lời khuyến cáo của tiền nhân rất chí lý: “Cẩn tắc vô ưu.” Chính Đức Chúa đã lấy Thánh Danh là niềm hãnh diện của Gia-cóp mà thề lời này: “Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng.” (Am 8:6-7) Thiên Chúa đã thề hứa thì không chút sai lệch. Ngài luôn thương xót trọn tình, sẵn sàng tha thứ, nhưng cũng rất công minh và chính trực, nếu không thì người nghèo và người thấp cổ bé miệng thiệt thòi quá. Vấn đề độc đáo là thế.

Là Đấng từ bi và nhân hậu, Thiên Chúa đặc biệt quan tâm những người nghèo khổ, cô thân, góa bụa, tù đày, tội nhân,… Ngài sẵn sàng bỏ tất cả mọi thứ để đi tìm cho bằng được những con chiên lạc. Bằng chứng là Chúa Giêsu đã nhập thể và nhập thế, sinh nghèo, sống nghèo, và chết nghèo. Ngài làm thật chứ không nói suông. Còn chúng ta có được chút nào, hay là chỉ khéo dạy người khác làm, còn mình thì “cứ vô tư”? Nếu thế thì… Ôi thôi!

KHÔN PHÚC

Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, thế nên chẳng ai có thể giấu giếm hoặc tự biện hộ. (1 Sb 28:9b; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Gr 10:12; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 10:12; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20) Ngài là Thiên Chúa độc nhất, quyền phép vô song, các thần linh khác cũng chỉ là thụ tạo của Ngài mà thôi: “Trước thánh nhan Chúa, hỡi địa cầu, hãy rung chuyển, trước thánh nhan Chúa Trời nhà Gia-cóp, Người biến đá tảng thành hồ ao, và sỏi đá nên mạch nước dồi dào.” (Tv 113:7-8)

Không có Ngài, chúng ta chỉ là hư vô. Ngài không chỉ tạo dựng chúng ta mà còn là sự sống của chúng ta, vì chính “thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì.” (Ga 6:63) Thánh Phaolô chân thành nhắn nhủ: “Trước hết, tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. Đó là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” (1 Tm 2:1-4) Rất mạch lạc, yêu thương, hiệp thông và hiệp nhất.

Để minh định mạnh mẽ hơn, thánh nhân cho biết thêm: “Thật vậy, chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức Kitô Giêsu, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người. Điều này đã được chứng thực vào đúng thời đúng buổi. Và để làm chứng về điều này, tôi được đặt làm người rao giảng và làm Tông Đồ – tôi nói thật chứ không nói dối – nghĩa là làm thầy dạy các dân ngoại về đức tin và chân lý. Vậy tôi muốn rằng người đàn ông hãy cầu nguyện ở bất cứ nơi nào, tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn, không xung khắc.” (1 Tm 2:5-8) Cũng rất rạch ròi, không hề có gì văn hoa bóng bẩy, thế nên bất cứ tầng lớp nào cũng có thể hiểu. Chịu hiểu là khôn – khôn phúc. Không hiểu là vì không muốn hiểu, gọi là cố chấp – khôn tội.

Bóng tối cả thế gian này cũng không dập tắt được một đốm lửa nhỏ, nhưng bóng tối nguy hiểm vì khó có thể phân biệt chính xác. Không sợ kẻ xấu nhưng nó rình rập làm hại thì khó tránh, dễ bị nó hại – vì nó ở trong bóng tối nên khó nhận biết. Ma quỷ là “chuyên gia đen” như vậy.

Và rồi vào một ngày nọ, Thầy Giêsu nói với các đệ tử về chuyện người quản gia bất lương, lươn lẹo và mưu mô. Người ta tố cáo với ông chủ về việc hắn đã phung phí của cải nhà ông. Ông gọi anh ta đến và quyết định sa thải. Người quản gia lưu manh liền tìm mánh khóe cho cuộc sống tương lai. Bụng bảo dạ: “Ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” (Lc 16:3-4) Thế rồi hắn mưu mô tính toán, liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, người nợ 100 thùng dầu ô-liu thì được giảm còn 50 thùng; người nợ một ngàn giạ lúa thì được giảm còn 80 giạ. Rất mánh khóe, khôn lỏi và ranh mãnh. Cũng chỉ vì kế sinh nhai, vì miếng ăn mà tự giẫm đạp nhân cách và nhân phẩm của mình. Nhục nhã quá! Không chỉ vì miếng cơm, manh áo, hắn còn vì tự ái mà dám làm bất cứ điều gì, kể cả điều độc ác nhất. Nỗi nhục nhã nhân đôi!

Miếng ăn liên quan sự sống, dù chỉ là sự sống phần xác, thế nhưng kẻ hèn thì chỉ biết đến thế thôi, không thoát khỏi cái bóng của mình. Sự ăn uống là “đệ nhất khoái” trong “tứ khoái” của nhân phàm. Miếng ăn có thể rất lớn và rất quý, nhất là khi đói. Đúng như tục ngữ Việt Nam nói: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Bản năng sinh tồn của con người rất mạnh, người ta sẵn sàng hạ sát lẫn nhau vì miếng ăn. Thằng Bờm không cần bất kỳ thứ gì khác, dù những thứ rất mắc tiền và rất giá trị, lúc đó nó chỉ cần “nắm xôi” mà thôi. Thế như chuyện Thằng Bờm không đơn giản như thế, mà có điều thâm thúy hơn: Nó biết chắc có nhận những thứ kia thì gã quan tham kia cũng chẳng cho, thế nên cứ lấy nắm xôi cho chắc ăn. Kẻ đểu mưu mô thâm độc lắm!

Cuộc sống đơn giản mà nhiêu khê, không khéo mắc bẫy kẻ ác. Ca dao Việt Nam mỉa mai: “Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu.” Cũng chỉ vì miếng ăn mà người ta có thể dùng mọi thủ đoạn thâm độc, có khi giết chết một người chỉ vì một số tiền nhỏ – mà người bị hại không là người xa, kẻ lạ, có thể là thân nhân, thậm chí là cha mẹ. Thật đáng sợ thế thái nhân tình! Đồng tiền “nhỏ” thôi (mảnh giấy rộng vài chục cm) nhưng “giá trị” to lắm (theo cách hiểu của lòng tham).

Có lẽ lúc đó Chúa Giêsu lắc đầu nên Ngài nói thẳng: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.” (Lc 16:8) Thật hay khi người Việt gọi là “tiền tệ” hoặc “tiền bạc”. Nó chẳng là gì, chỉ là tờ giấy với những con số được người ta quy ước khác nhau, thế nhưng nó có mãnh lực kỳ lạ, thậm chí là ma lực khiến người ta khó cưỡng lại, sẵn sàng xử tệ và xử bạc với nhau. Người ta dễ sa đọa vì tiền trong chốc lát mà không biết.

Bản chất đồng tiền không xấu, mà nó hóa xấu vì người dùng nó. Chúa Giêsu dạy bài học quan trọng về cách sử dụng đồng tiền qua lời căn dặn – và cũng là lời khuyến cáo: “Hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. Ai trung tín trong việc rất nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?” (Lc 16:9-12)

Và Ngài xác định: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được.” (Lc 16:13) Tiền không phải là Tiên, nhưng biết sử dụng khéo léo thì nó giúp thăng Tiến và rất Tiện (thuận tiện), không khéo thì nó hóa bần Tiện, và nó sẽ Tiễn biệt chính mình.

Tiền bạc không là gì, nhưng nó có thể xác định một con người thực chất là tốt hay xấu, Khổng Minh Gia Cát Lượng nói: “Lâm chi dĩ lợi nhi quan kỳ liêm” – Dùng lợi lộc, tiền bạc, công danh để xem sự liêm chính của một người. Người liêm chính thì không đánh mất mình vì lợi lộc, tiền bạc, công danh. Một tay giơ cao hô hào “liêm chính, chí công, vô tư” nhưng tay kia thò ra sau “kiếm chác” bằng mọi mánh khóe. Vô cùng hèn hạ!

Giữa Thiên Chúa và tiền bạc, chắc chắn ai cũng phải tự quyết định chọn một trong hai, vì Ngài cho phép chúng ta sự tự do. Vì thế, hãy cẩn trọng kẻo hối hận không kịp, và phải luôn cảnh giác kẻo “thần khẩu hại xác phàm” (nói bậy hại thân). Chính Chúa Giêsu cũng đã dạy: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày.” Với cách dịch ngày xưa cũng có cái hay: “Xin Cha cho chúng con rày hằng ngày dùng đủ.” Có lẽ “cách xin” này hay hơn, bởi vì giàu quá hay nghèo quá cũng có thể xa Chúa, chỉ cần ĐỦ là được.

Sống cho đúng Đạo Trung Dung khó lắm. Thật tuyệt vời với lời cầu xin của tác giả sách Châm Ngôn: “Xin đừng để con túng nghèo, cũng đừng cho con giàu có; chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng, kẻo được quá đầy dư, con sẽ khước từ Ngài mà nói: ‘Đức Chúa là ai vậy?’ hay nếu phải túng nghèo, con sinh ra trộm cắp, làm ô danh Thiên Chúa của con.” (Cn 30:8-9)

Lạy Thiên Chúa toàn năng và chí thánh, xin ban đức khôn ngoan để chúng con biết luôn luôn chọn Chúa và tuân theo Thánh Ý Ngài trong mọi hoàn cảnh; xin Ngài đặc biệt thương xót những người thiếu thốn – trong đời thường và tâm linh, xin ban ơn thông minh để họ chân nhận chỉ có Ngài là cùng đích và cứu cánh; xin giúp mọi người hoàn tất nhiệm vụ trong cuộc sống mà Ngài muốn; xin ban bình an cho Giáo Hội và thế giới, cách riêng với Việt Nam và những quốc gia chịu nhiều đau khổ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

CỦA CẢI HAY THẦN TÀI

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

“Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng”(Am 8,7). Vì sao Thiên Chúa lấy danh mình mà thề những lời đanh thép như thế? Ngôn sứ Amos đã cho chúng ta biết cái lý do. Đó là vì sự gian ác bất công của một số người giàu có trong xã hội nước Israel thời bấy giờ. Tính chất gian ác của sự bất công mà họ gây ra thật đáng lên án vì nạn nhân chính là những người nghèo khổ, cô thân, kém phận. Số phận của các nạn nhân này được ví không hơn gì đôi dép. “Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần, đem đôi dép đổi lấy đứa cùng khổ” (Am 8,6).

Đọc Thánh Kinh, đặc biệt những lời từ miệng của Con Thiên Chúa làm người, chúng ta nhận ra chân lý này: hình như Thiên Chúa dễ khoan dung về những lầm lỗi mà con người xúc phạm đến Người, nhưng Người có vẻ rất bất bình trước những điều gian ác mà con người gây ra cho nhau, nhất là cho những người nghèo hèn, thấp cổ bé phận. Nhân chuyện ông Phêrô hỏi rằng khi có người anh em xúc phạm đến mình thì phải tha thứ cho họ mấy lần thì Chúa Giêsu đã kể câu chuyện dụ ngôn về “một người mắc nợ mà không có lòng thương xót (x.Mt 18,23-35).

Anh “không có lòng thương xót này” mắc nợ đức vua những mười ngàn yến vàng thế mà chỉ với hành vi sấp mình bái lạy và xin khất nợ một kỳ hạn thì đã được đức vua tha bỗng tất cả số nợ khổng lồ. Mức nặng nhẹ của một lỗi hay tội có thể tăng hay giảm tùy vào đối tượng mà hành vi lỗi tội ấy xúc phạm. Theo góc nhìn này thì quả thật mọi hành vi lỗi tội của con người xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng là Chúa Tể càn khôn, thì đều “to lớn và nặng nề” khó bề đền trả được như món nợ “mười ngàn yến vàng” minh họa. Thế mà ông vua trong câu chuyện dụ ngôn xem ra hào phóng cách khác thường. Tuy nhiên khi nghe biết chuyện cái anh “trúng số độc đắc” này lại thiếu lòng thương xót với người bạn vốn mắc nợ anh ta vỏn vẹn chỉ trăm đồng, thì đức vua đã đổi ngược thái độ cách dứt khoát với anh ta và sai gia nhân bắt tống giam anh này vào ngục cho đến khi trả hết món nợ kếch xù kia.

Tình yêu thật có nhiều điều như nghịch lý. Nhiều đấng bậc mẹ cha dễ dàng bỏ qua nhưng lầm lỗi mà con cái xúc phạm đến bản thân mình nhưng dường như không thể chịu nỗi cái cảnh chúng hành khổ, đày đọa những đứa anh em, chị em kém may mắn. Sau khi xác định giới luật tình yêu là mến Chúa hết lòng hết sức hết linh hồn và yêu thương tha nhân như chính mình, thì Chúa Giêsu đã không lấy việc cầu nguyện hay dâng lễ vật vào Đền Thờ để minh họa, nhưng đã đưa ra hình ảnh người Samaritanô nhân hậu, người đã có lòng thương xót một nạn nhân đi từ Giêrusalem về Giêricô bị bọn cướp trấn lột và đánh nguy kịch, bằng cách chăm sóc giúp đỡ nạn nhân cách tận tình mà không chút tính toán thiệt hơn (x.Lc 10,25-37).

Khi nghe câu chuyện dụ ngôn về người quản gia bất lương, chắc chắn ít ai ngây thơ đến độ nghĩ rằng Chúa Giêsu dạy chúng ta bắt chước sự ranh ma của anh quản gia ăn gian tiền bạc của ông chủ. Chắc chắn sau khi biết được kế ma mãnh của anh này thì dù có chép miệng khen, nhưng rồi thế nào ông chủ cũng sẽ trừng trị anh ta đích đáng. Nội dung chính của câu chuyện dụ ngôn nằm ở câu kết luận: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” (Lc 16,9).

Chúng ta cần phải xác định rõ hạn từ “tiền của bất chính”. Chắc chắn Chúa Giêsu không bao giờ dạy chúng ta sử dụng những thứ tiền của kiếm được cách bất chính, bất lương hay phi pháp. Thế thì phải hiểu như thế nào đây. Không ngại ngần để khẳng định rằng “Tiền Của bất chính” ở đây phải được hiểu là một mãnh lực xấu. Hầu hết các bản dịch Kinh Thánh đều ghi là “the Mammon of unrighteousness” hay nghĩa tương đương. Nhưng cũng có một vài bản dịch dùng hạn từ “Worldly Wealth” hay “Base Wealth”. Hạn từ “Mammon” nhắc nhớ chúng ta sự thật này: Khi của tiền được tôn phong lên hàng thần thánh thì chắc chắn trở thành một thế lực bất chính. Chúa Kitô đã cảnh báo: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được”(Lc 16,13). “Vai mang bị bạc kè kè, nói quấy nói quá chúng nghe rầm rầm”. Khi đã đặt niềm tin vào sức mạnh của tiền bạc thì người ta dễ bị cám dỗ không chỉ lao mình vào những hành vi bất nhân, thất đức mà còn bị cám dỗ tự phong thần phong thánh cho bản thân mình.

Thánh Phaolô khẳng định rằng mọi sự thuộc về chúng ta. Chúng ta thuộc về Đức Kitô và Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa. Không gì hơn là hãy trả của cải vật chất về đúng vị trí của nó. Nó là của cải chứ không phải là thần tài. Biết dùng của cải, tiền bạc để làm phát triển tình tương thân tương ái là một trong những phương thế sử dụng của tiền cách hữu ích cho hạnh phúc của chúng ta hôm nay và ngày sau. Nhiều tín hữu phân trần với các vị mục tử rằng: Với chúng con, vấn đề không phải là ở chỗ sử dụng mà là ở khâu tìm kiếm tiền bạc. Đây là một vấn nạn mang tính hiện sinh. Khi của tiền đi vào bằng con đường bất chính thì sự thường nó sẽ đi ra bằng con đường bất nghĩa, bất lương. Chính vì thế sẽ không thừa nếu chúng ta tự đặt câu hỏi: Tôi tìm kiếm của tiền vì mục đích gì? (để làm gì?) và tôi đang kiếm tìm của tiền theo cách thế nào? có chính đáng, hợp pháp, công minh không? Cũng xin đừng quên xem xét cách thế sử dụng tiền bạc của chúng ta. Dù thuộc quyền sở hữu của mình nhưng nếu chúng ta sử dụng của cải cách hoang phí thì cũng lỗi đức công bình và dĩ nhiên đáng bị kết án cách nghiêm minh.

Về mục lục

.

MONG MANH PHẬN NGƯỜI

Tuần 25 TN-C. Lc 10, 1-13

 

Giuse Dương Đức Hưng

Cha ông ta có những câu nói huề vốn, đầy ẩn ý: của thiên trả địa. Chính chuyên chết cũng ra ma, lẳng lơ chết cũng mang ra ngoài đồng. Một quy luật hết sức công minh: có vay có trả, giầu nghèo, khôn hay khờ, rồi cũng đến ngày thân nhân đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng với đôi bàn tay trắng. Ở đời luôn cho thấy sự công bằng ngay trong hiện tại này: quan nhất thời, dân vạn đại, quy luật sẽ làm rõ tính hợp lý khi ta đi lên các bậc thang, rồi phải bước xuống bằng những bậc thang đó. Đồng ý rằng, ở đời có vui buồn, có sướng khổ, có nhiều người đầy tâm huyết, nhưng không phải là không có những kẻ tiêu cực. Một trong những nét đẹp mà chúng ta cần nghĩ tới, thiết thực hơn, đó là tình người, bởi khi ta được quan tâm, yêu thương, ta được khích lệ, cảm thông, giá trị cuộc đời sẽ thật ấm áp hạnh phúc.

Đức Giêsu chia sẻ câu truyện người quản lý bất lương, nhằm nói lên tính nhất thời của tiền, quyền, người ta trắng tay khi hết chức quyền, người ta bị coi là khờ dại, nếu 90, 100 năm, làm người, làm con Chúa mà chưa sống chữ tình. Người quản lý thiếu trung thành, dễ dàng bị chủ phát hiện, sa thải, nặng hơn phải đền bù hậu quả tội lỗi mình gây ra. Ai trung tín trong trong việc nhỏ, sẽ trung tín trong việc lớn; ai biết sử dụng tiền của, người ấy sẽ khôn ngoan trong việc sống ơn ban của Chúa. Con cái biết lưu tâm để ý đến nỗi vất vả của cha mẹ, người con ấy sẽ dễ dàng sống chữ hiếu chữ thảo. Ai lắng nghe, người ấy có cơ hội hiểu tốt, sống đúng, sống đẹp, trước các tương quan với Chúa và tha nhân. Khôn và ngoan, trung tín, thời nào, kiếp nào, bậc sống nào, cũng đáng tuyên dương khen thưởng, dù khái niệm hạnh phúc ở hiện tại và tương lai không giống nhau.

Phận người mong manh, nhưng đáng yêu, khi mở mắt chào đời đến lúc nhắm mắt xuôi tay, tuổi nào ta cũng là đối tượng của lòng Chúa xót thương, giai đoạn nào ta cũng được gọi là người quản lý mà Chúa yêu thương, tin tưởng. Đức Giêsu nói: con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng, con cái đời này biết tự vệ với khẩu hiệu: quân tử phòng thân, tiểu nhân phòng bị gậy. Nếu con cái thế gian biết nói: thả tép bắt tôm, hẳn con cái ở đời mới thành công ở khía cạnh vật chất mà thôi. Thao thức của Đức Giêsu là tất cả phải nhận ra mình được yêu thương, được biến đổi, hầu mỗi ngày được trở nên trung tín và khôn ngoan. Chắc chắn một ngày đi tu, chưa ai trở thành chánh quả, một vài năm theo Chúa, không ai cho rằng ta đã hoàn hảo, thiện toàn, nhưng một ngày yêu Chúa, yêu người, ai cũng có cơ hội để trở thành chứng nhân tình yêu Đức Kitô.

Mong manh phận người, tuy nhiên, không có gì là không thể, đối với những ai biết nỗ lực, và xác tín trong ơn gọi theo Đức Giêsu làm môn đệ. Tiền nhân nói rằng: chiều con quá, con hư, tiền của dư, con hỏng, giầu mạnh thường thao túng, vụng, nghèo dễ theo đuổi. Thực ra thì cứng rắn quá, con cái sẽ lẩn tránh cha mẹ, mềm yếu quá, không thể đủ uy lực giáo dục dạy dỗ con cháu. Người quản lý hết sức tinh tế với chức quyền: khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương. Anh ta biết xoá nợ, biết mua lấy bạn hữu, biết việc phải làm khi còn có thể, khi chủ chưa cắt chức, bãi quyền. Người quản lý quả là khôn khéo với bài học của thế gian, hầu mưu ích cho hạnh phúc ở tương lai. Đức Giêsu không khen việc làm gian dối, nhưng đề cao sự khôn ngoan của người quản lý qua việc hành xử hết sức thức thời. Hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn hữu, ai trung tín trong việc nhỏ, sẽ trung tín trong việc lớn.

Mong manh phận người, không phải là lời ai oán và bi quan về sự giới hạn kiếp nhân sinh, mà còn cho thấy phận người đáng thương hơn đáng trách. Người quản lý khéo ăn khéo ở trong ứng xử, nhưng Đức Giêsu ý thức những ai thuộc về Ngài phải thực sự hiểu về giá trị của tình yêu: khôn ngoan và trung tín, không mưu mô tính toán, tuyệt đối trung thành với thánh ý Chúa. Đúng, nếu thứ gì giải quyết được bằng tiền, thì đó không phải là vấn đề, mà đó chỉ gọi là chi phí thôi. Mỗi người ở đời đều được ban phát cho sự tự do, đều được soi sáng dẫn dắt thực hành việc mến Chúa yêu người, gọi là có cơ hội để thành toàn, để đạt tới hạnh phúc thật. Tình, tiền, tù, tội, vẫn là lời cảnh báo về sự mong manh của phận người có thể rơi, ngã vào vòng lao lý bất cứ lúc nào.

Người ta có kể câu truyện “giấc mơ hạnh phúc” như sau: có một chú tiểu tu luyện với sư phụ rất tốt trên núi cao. Vào một hôm, sư phụ nói chú tiểu: mai ta có việc phải xuống núi, con ở lại tu luyện, đừng xao lãng bổn phận. Ngay tối hôm đó, chú tiểu cứ miên man suy nghĩ về “chức quyền”, rồi chú suy tưởng xa hơn, phóng khoáng hơn, chú được mọi người quý mến và trở thành vị vua bởi tài năng của chú. Vâng, mỗi người sẽ được ơn ban, đủ để sống và trưởng thành với hạnh phúc ở phía trước. Giấc mơ hạnh phúc của “chú tiểu”, của mỗi chúng ta chỉ đúng, đẹp, khi tư tưởng và hành động có sự trung tín và khôn ngoan của Chúa. Công bằng xã hội hay công bằng yêu thương, chính là tư tưởng, là thực hành bài học mến Chúa yêu người theo tinh thần trung tín và khôn ngoan. Amen.

Về mục lục

.

MA LỰC CỦA TIỀN BẠC

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Những gì đã và đang xảy ra trong xã hội cho chúng ta thấy đồng tiền có một ma lực ghê gớm: Ngày 29-6-2016, tòa án nhân dân Tp Hồ Chí Minh đã kết án tử hình một cụ bà 73 tuổi quốc tịch Úc gốc Việt, vì mang theo 2,8 kg ma túy ở phi trường Tân Sơn Nhất. Ngày 9-9-2016, cũng tòa án này, đã kết án ông Phạm Công Danh 30 năm tù vì làm thất thoát của nhà nước 9,000 tỷ đồng.  Nếu liệt kê những vụ việc liên quan đến sự cám dỗ của đồng tiền mà người ta vướng vào vòng lao lý, thì danh sách các vụ việc sẽ dường như vô tận. Tiền bạc khiến người ta liều mình, chấp nhận mất tương lai, mất danh dự và mất cả mạng sống. Tiền bạc cũng làm người ta trở nên táng tận lương tâm, làm những điều phi nghĩa, kể cả liều lĩnh đoạt mạng sống và người khác. Đối với những người này, tiền bạc là “thượng đế” mà họ tôn thờ, đồng thời chi phối mọi suy nghĩ tính toán cũng như hành động của họ.
 
Ngôn sứ A-mốt, ở thế kỷ thứ tám trước Công nguyên, đã gay gắt lên án những người giàu có vì ham tiền bạc mà khinh dể và bóc lột người nghèo (Bài đọc I). Ông đã nêu ra những thủ đoạn gian lận như làm cho chiếc đấu nhỏ lại, quả cân nặng thêm, pha trộn thóc tốt với thóc mục để bán cho người nghèo… Những thủ đoạn được ngôn sứ A-mốt liệt kê vẫn đang tồn tại trong xã hội hôm nay, thậm chí còn nghiêm trọng hơn. Lợi lộc vật chất khiến cho lương tâm con người ra tối tăm, đạo lý và tiếng nói của lương tâm bị coi thường. Vị ngôn sứ khẳng định: Thiên Chúa sẽ không quên những hành động bất lương của kẻ tham lam. Người sẽ bảo vệ người cùng khổ và trừng phạt những người áp bức.
 
Lời Chúa hôm nay giúp cho chúng ta biết dùng của cải cho hợp lý, để rồi, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta tuy “nghèo mà không hèn”. Những tài sản mà chúng ta đang có, suy cho cùng, là của Chúa. Ngài trao cho chúng ta quản lý và sinh lợi. Có những người khôn ngoan cần mẫn làm cho số vốn liếng đã nhận sinh sôi nảy nở, nhưng cũng có những người lười biếng, làm cho số vốn đã trao bị mòn cụt dần đi. Chúa Giê-su đã dùng hình ảnh người quản gia để truyền đạt giáo huấn của Người. Chính Chúa gọi ông quản gia này là bất lương, vì thế, hình ảnh người quản gia này không thể là mẫu mực cho chúng ta. Chúa cũng không dạy chúng ta lươn lẹo gian dối như người quản gia đã làm. Giáo huấn của Chúa rất rõ ràng: Hãy dùng của cải đời này mà tạo thêm tình bạn và thực thi bác ái. Bởi lẽ, tiền bạc của cải sẽ có lúc hết, nhưng tình bạn chân chính thì tồn tại lâu dài. Những nghĩa cử bác ái không đi vào quên lãng với thời gian, nhưng được Chúa biết đến và thưởng công bội hậu. Sự sẻ chia, dù đơn giản, thậm chí chỉ như một chén nước lã, cũng được Chúa ghi nhận.
 
Khi ý thức mình chỉ là những người quản lý, chúng ta nghe lời Chúa mời gọi hãy sống trung tín. Người trung tín là người ý thức mình chỉ là người được trao trách nhiệm quản lý tài sản, để rồi mọi việc chi tiêu đều phải theo ý của Chúa, chứ không phải lấn át quyền hành để lợi dụng trục lợi riêng. Thiên Chúa là chủ đích thực và là Đấng cai quản mọi sự mọi loài. Người sống trung tín còn là người luôn tìm ý Chúa trong đời sống, để thực hành. Đức Giê-su là mẫu mực cho sự trung tín và vâng lời. Người đã chu toàn thánh ý Chúa Cha, dù phải chấp nhận thập giá hy sinh và sự chết.
 
“Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ”. Thiên Chúa là đấng độc tôn, có nghĩa là ta chỉ được thờ một mình Ngài. Không được phép đặt Thiên Chúa ngang hàng với của cải vật chất hay bất cứ thần linh nào. Sự trung tín trong việc phụng thờ Chúa là nét riêng của Do Thái giáo và cũng là của Kitô giáo chúng ta. Khi sống ngay thẳng và công chính, chúng ta đạt được niềm vui, vì chắc chắn rằng Chúa thấu hiểu con tim chân thành của chúng ta. Thánh Phao-lô khuyên chúng ta, dù là vua chúa hay dân thường, hãy sống đạo đức và nghiêm chỉnh, vì đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa. Ngài sẽ trả công và chúc lành cho chúng ta.
 
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tự vấn lương tâm: Tôi đang đặt lý tưởng đời mình nơi Thiên Chúa tối cao, hay tiền bạc vật chất? Chúa đã phán: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Đức tin và kinh nghiệm cuộc sống đều bảo đảm cho chúng ta điều ấy. Xin Chúa cho chúng ta luôn khôn ngoan để không bị ma lực của tiền bạc lôi kéo, làm mờ con mắt và lương tâm mà lãng quên Thiên Chúa.

Về mục lục

.

NGƯỜI QUẢN LÝ KHÔN NGOAN VÀ TRUNG THÀNH

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi đi, Phùng Nguyên hỏi: “Ngài có muốn mua gì không?”. Mạnh Thường Quân trả lời: “Ngươi xem thứ gì nhà chưa có thì mua”. Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”. Rồi chẳng tính vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân: “Nhà ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài”. Về sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đấy nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên: “Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước”.

Nghe chuyện này, có lẽ mọi người đều đồng ý với Mạnh Thường Quân rằng Phùng Nguyên thực là người quản lý trung thành và khôn ngoan. Trung thành vì ông đã biết cách làm lợi cho chủ. Khôn ngoan vì ông biết nhìn xa trông rộng, đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu dài. Nhờ sự khôn ngoan của Phùng Nguyên, Mạnh Thường Quân đã vượt qua được những khó khăn gian khổ.

Người quản lý trong bài Phúc Âm hôm nay khôn ngoan nhưng không trung thành. Khôn ngoan nhanh nhẹn, trong một thời gian ngắn đã tìm ra phương thế chuẩn bị cho tương lai. Nhưng ông ta đã không trung thành vì ông đã phung phí, làm hại tài sản của chủ.

Khi khen người quản lý này khôn khéo, Chúa Giêsu không khen ngợi tính gian giảo, thiếu trung thực của ông. Người chỉ khen ngợi sự thông minh nhạy bén của ông. Người ước mong con cái sự sáng cũng biết thông minh nhạy bén trong việc tìm kiếm Nước Trời.

Quả thực chúng ta là những người quản lý của Chúa. Tất cả những gì ta có đều là của Chúa. Sự sống, sức khỏe, tài năng, tiền bạc… đều không phải của ta. Ta chỉ quản lý chúng.

Hai đức tính quý ở người quản lý là trung thành và khôn ngoan.

Người quản lý trung thành gìn giữ nguyên vẹn tài sản của chủ. Không phung phí, không làm mất mát hao hụt. Người quản lý khôn ngoan sẽ tìm cách sinh lợi cho chủ, làm cho tài sản ngày càng gia tăng. Tiền bạc có thể sinh lợi ở ba góc độ khác nhau.

Mức độ bình thường nhất là: tiền đẻ ra tiền. Dùng tiền gởi ngân hàng để lấy tiền lời. Dùng tiền đầu tư vào công việc thương mại, kinh doanh để kiếm được nhiều tiền hơn nữa.

Mức độ thứ hai cao hơn là: dùng tiền đầu tư vào chất xám, vào giáo dục, vào nghiên cứu khoa học kỹ thuật. Nhật Bản và Hàn Quốc là hai nước đầu tư rất nhiều vào giáo dục. Vì thế họ đã đào tạo được một đội ngũ trí thức đông đảo có kiến thức, có khoa học kỹ thuật. Nhờ thế, không những họ làm cho đất nước giàu mạnh mau chóng, mà còn nâng cuộc sống nhân dân lên cao hơn, giàu có sung túc về của cải vật chất và nhất là cao đẹp vì có văn hóa, đạo đức.

Mức độ thứ ba, cũng là mức độ cao nhất là: dùng tiền mua hạnh phúc vĩnh cửu. Biến tiền của hay hư nát ở đời này thành gia sản vĩnh viễn ở trên trời. Để làm được việc này, ta phải vượt qua sự khôn ngoan, nhạy bén đầy tính toán của người đời để đạt tới sự khôn ngoan nhạy bén đầy quảng đại theo tinh thần Phúc Âm.

Tạo lập gia sản trên trời khác với tạo lập gia sản nơi trần gian.

Gia sản nơi trần gian được tạo lập bằng tích lũy. Gia sản trên trời được tạo lập bằng cho đi. Để tích lũy tài sản nơi trần gian, ta phải tiện tặt, chắt bóp, nghĩ đến lợi nhuận của bản thân hơn đến người khác. Để tích lũy gia sản trên trời, ta phải rộng rãi, hào phóng nghĩ đến người khác hơn bản thân mình. Càng cho đi ở đời này, ta càng giàu có ở trên trời. Người nghèo là Chúa Giêsu hóa trang. Khi ta giúp đỡ người nghèo là ta chuyển tiền về thiên quốc. Qua trung gian người nghèo, đồng tiền trần gian hay hư nát sẽ biến thành tài sản vĩnh cửu trên trời.

Chúng ta là con cái sự sáng. Hãy biết sống theo con đường sự sáng của Phúc Âm. Hãy xin Chúa ban cho ta sự khôn ngoan của Phúc Âm. Hãy rèn luyện cho ta có sự nhạy bén đối với những thực tại vĩnh cửu trên trời. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. Bạn nghĩ gì về câu này?

2) Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được. Bạn đã coi thường chủ nào và đã yêu mến chủ nào hơn?

3) Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. Bạn hiểu câu này thế nào? Bạn đã thực hành chưa?

4) Làm sao để trở thành người quản lý trung thành và khôn ngoan của Chúa?

Về mục lục

.

CĂN BỆNH NGUY HIỂM

Gm. Giuse Vũ Duy Thống  

(Trích dẫn từ ‘Nút vòng xoay’)

Tháng 10 năm 1990, ông Nhêbôisa Bôtrêvích, nhà tiên tri nổi tiếng gốc Nam Tư, người đã tiên báo bức tường Bá Linh sụp đổ và nước Đức thống nhất, trong cuộc gặp mặt tại nhà văn hóa Liên Xô, đã buồn rầu thông báo: chẳng bao lâu nữa, trên thế giới sẽ xuất hiện một căn bệnh nguy hiểm được truyền qua những tờ giấy bạc (x. Sáng Tạo số 44, tháng 10 năm 1990).

Nghe lời thông báo ấy, thú thật ban đầu tôi không tin. Ba láp! Nhưng khi tổng hợp những sự kiện nước ngoài: Tỷ phú Max Well chết đột ngột trên du thuyền để lại món nợ bất minh hàng triệu đô la; hàng loạt chính khách Nhật Bản rớt đài vì dính líu làm ăn với những công ty đa quốc gia; quan tòa Ý Falcon bị sát hại, tôi nghĩ có thể có một căn bệnh nguy hiểm truyền qua tiền bạc. Rồi nối kết với một vài sự kiện gần đây trong nước: đường giây sextour Bambi bị đem ra ánh sáng và băng cướp “quý tử” bị hầu tòa, tôi nghiệm ra ra thật có một căn bệnh như thế. Để rồi hôm nay tiếp cận với Phúc Âm, khi Thiên Chúa không chấp nhận cho kẻ tin đặt Ngài đứng chung liên danh với tiền bạc, xin được chia sẻ về dấu vết của căn bệnh ấy. Phần gọi tên xin nhường cho cộng đoàn. Chỉ biết rằng một khi mắc phải căn bệnh ấy người ta khinh thường tất cả: phá đổ đạo đức, khai trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống và đó là căn bệnh nguy hiểm cho lòng tin tín hữu. Có ba dấu vết:

  1. Dấu vết thứ nhất được nhận ra trong thái độ cần tiền.

Tiền bạc vốn lạnh lùng. “lạnh như tiền”. Tiền chẳng quen ai, nhưng ai cũng quen tiền: trẻ khóc đòi dòng sữa mẹ, nhưng được người lớn dỗ dành dúi vào tay một tờ giấy bạc, lâu ngày thành quen, để sau này mỗi lần khóc lại thích nhận lấy tờ giấy bạc thay cho nỗi sầu nhớ mẹ. Một người nhà quê chẳng biết chữ nhưng trong sinh hoạt hằng ngày đố ai thấy bác tính toán sai một đồng.

Tiền chẳng có tình cảm, nhưng không thiếu những tình cảm với tiền: được tiền thì vui cười hỉ hả, mất tiền thì rầu rĩ xót xa. Ngày tết lì xì tiền thay cho phước thọ và ngày cưới, mừng tiền thế cho tình thân. Dù Tết hay Cưới, người ta đều chúc: “Tiền vô như nước sông Đà, tiền ra nhỏ giọt như cà phê phin”.

Tiền chẳng cần ai, nhưng ai cũng cần tiền: chưa sinh ra đã cần tiền để mẹ tròn con vuông và chết rồi vẫn cần tiền để ma chay tốt đời đẹp đạo. Trẻ cần tiền ăn học, lớn cần tiền để gầy dựng sự nghiệp và già cần tiền để dưỡng thân. Đời cần tiền để phát triển nhưng đạo cũng cần tiền để xây dựng mở mang.

Tiền cần nên tiền quý. Người làm ra tiền là người giỏi, nghề hái ra tiền là nghề trọng, người có nhiều tiền được nể vì. Cứ như thế đồng tiền ung dung đi vào tư tưởng lời nói và việc làm của con người. Tình trạng cần tiền lâu ngày ủ mầm có thể dẫn đến nguy cơ lệch lạc trong cách nhìn con người và sự việc, nhất là lẫn lộn giữa sở hữu và hiện hữu, giữa tài sản và con người. Người ta tay không có thể bình đẳng, nhưng đồng tiền đặt lên ai thì cán cân nghiêng về người ấy. Đáng giá trị rốt cuộc là đấu giá cả. Và nguy hiểm là ở chỗ đó.

Sáng nay quan sát thiếu nhi sinh hoạt, thấy có một đội không chơi, hỏi ra mới biết đội đó không chơi chỉ vì thiếu vắng một em đóng tiền nhiều nhất.

  1. Dấu vết thứ hai được nhận ra trong thái độ kiếm tiền.

Đối với nhiều người, kiếm tiền là một trách nhiệm thuộc bậc sống, bởi lẽ có tiền mới trang trải được những nhu cầu cơm ăn áo mặc hằng ngày. Nhưng vấn đề không phải là kiếm tiền mà là cách kiếm tiền.

Kiếm tiền bằng lao động chân tay trí óc, đó là điều chính đáng, nhưng quá lo lắng đến kiếm tiền để rồi quên đi những trách vụ khác trong đạo làm người và làm con Chúa thì ở đó căn bệnh đã xuất hiện ở dạng cấp tính có nguy cơ gây thiệt hại cho chính bản thân và cho những người lân cận.

Kiếm tiền bằng thù lao phù hợp với công sức bỏ ra thì đó là lương thiện. Nhưng kiếm tiền bằng cách chỉ đuổi theo tiền mà không biết đến giá trị đạo đức nào khác, hoặc tự động chấp nhận “thủ tục đầu tiên”, hay “quà biếu trên mức tình cảm” của một thứ lương đồng nghĩa với sự đút lót hoặc chủ động vi phạm lẽ công bình như làm hàng giả thuốc giả “sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi” của một thứ kinh tế mánh mung, thì ở đó căn bệnh đã phát triển ở dạng mãn tính chẳng những gây thiệt hại mà còn chà đạp lên tiếng nói lương tâm khi ăn trên mồ hôi nước mắt kẻ khác. Lúc đó lương tâm nhẹ hơn lương lậu, lương thiện nhỏ hơn lương tiền và lương tri phải nhường cho lương bổng lên ngôi. Thiên Chúa ư? Ngài đi chỗ khác chơi, để yên cho tôi làm giàu!

Kiếm tiền để sống là đẹp, nhưng thật thảm hại khi sống chỉ để kiếm tiền. Đồng tiền ở đấy đã xuất hiện là một căn bệnh nguy hiểm. Thảo nào người ta vẫn bảo “tiền bạc” là đồng tiền đi liền với bạc bẽo.

Ở đây xin nhường lời cho cụ ông trước kia giàu nứt đố đổ vách, giờ gặp cảnh khố rách áo ôm quyền chia sẻ kinh nghiệm: “Khi còn trẻ người ta sẵn sàng phí sức khỏe để kiếm tiền, nhưng khi về già người ta lại sẵn sàng phí tiền để tìm lại sức khỏe”. Mà nào có được đâu! Mời suy nghĩ.

  1. Dấu vết thứ ba được nhận ra trong thái độ xài tiền.

Cần tiền – kiếm tiền – xài tiền. Không có gì đáng nói nếu chỉ có thế. Nhưng một khi xem tiền như một phương tiện vạn năng “có tiền mua tiên cũng được” lâu ngày sẽ trở thành di căn. Hoặc trong lối sống ghẻ lạnh với những giá trị đạo đức để rồi hóa giá tất cả: phẩm giá, lẽ phải, tình thương, nhân tính… Lối sống ấy chỉ có câu hỏi “bao nhiêu?”. Ngoài ra chấm hết. Không lạ gì đồng tiền gây nên tệ hại theo kiểu nói “tiền tệ”. Hoặc trong niềm tin dẫn tới hậu quả xem thường đạo giáo buôn thần bán thánh và hạ bệ Thiên Chúa, để tôn sùng tiền bạc làm thượng đế của mình như một câu vè truyền miệng đó đây: “Tiền là tiên là Phật, tiền là sức bật con người, tiền là nụ cười tuổi trẻ, tiền là sức khỏe người già, tiền là cái đà danh vọng, tiền là chiếc lọng che thân, tiền là cán công công lý. Hết ý!”

Vẫn biết “đồng tiền đi liền khúc ruột” theo kinh nghiệm của các bậc tiền bối là một lời dạy khôn ngoan rất gần với sự tiết kiệm vốn phải có cho mọi kẻ giữ tiền. Nhưng khi cẩn trọng quá hóa keo kiệt trong những tiêu pha, đến nỗi không dám bỏ ra một đồng cho nhu cầu vật chất hay tinh thần thì xem ra đồng tiền lúc ấy đã “làm phiền” khúc ruột không ít. Hoặc khi cẩn trọng quá hóa bịn rịn trong thái độ đối với tiền như “ra đường chắt bóp tiêu pha, về nhà ngây ngất lăn ra đếm tiền” thì chừng như đã để đồng tiền “xích xiềng” khúc ruột mà không ai biết.

Ngược với thái độ cẩn trọng là một sự hoang phí tiêu xài vung vít. Khi vung vít nhẹ là khi “vung tay quá trán” con nhà lính tính nhà quan làm một xài hai. Khi vung vít nặng là khi “vung tiền qua cửa sổ” dấu hiệu của sự vô độ tiêu xài. Rồi khi để cho đồng tiền len lỏi vào trong tính toán hằng ngày và giấc ngủ hằng đêm theo kiểu lên sàn thị trường chứng khoán ngợp choáng thời giờ thì lúc ấy khúc ruột đã nuốt trửng đồng tiền và hậu quả duy nhất chính là đồng tiền “xay nghiền” khúc ruột.

Làm sao tín hữu có thể dung hòa lòng tin với những sinh hoạt vốn liên hệ đến tiền? Thưa dựa trên Phúc Âm chỉ cần một chữ Tín. Nếu giàu, hãy tín trung với Thiên Chúa để biết xài tiền phù hợp với bác ái, vì tiền là một đầy tớ tốt nhưng lại là một ông chủ xấu. Nếu nghèo, hãy tín thác nơi Thiên Chúa để từng ngày kiếm tiền mà không vi phạm công bình, vì chỉ để một đồng xu trên mắt thôi cũng đủ bị che chắn hết tầm nhìn hướng thượng. Và dẫu giàu hoặc nghèo, hãy tín nghĩa để gần tiền mà chẳng hôi hám mùi tiền. Tiền bạc như dòng nước, nếu không cẩn thận người ta có thể bị cuốn trôi.

Chữ TÍN ấy là thuốc chủng ngừa căn bệnh nguy hiểm mà Bôtrêvích đã tiên báo.

Về mục lục

.

CHỈ CHỮA MỘT MẮT

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Người ta nói tham lam chính là một loại độc dược khiến dục vọng, ham muốn của con người không bao giờ có điểm dừng. Tham lam thường dẫn đến keo kiệt, bủn xỉn. Lòng tham sẽ khiến họ chỉ lo vun quén đến độ  đánh mất đi sức khỏe, sự sống và niềm vui. Đối với người tham lam chỉ cần tiền, không cần tình và sẵn sàng bán mạng để lấy tiền!

Bác sĩ A.J. Gordon kể: ngày nọ, có một ông nhà giàu nhưng keo kiệt đến xin chữa mắt. Sau khi khám nghiệm, bác sĩ cho biết phải chữa cả hai mắt, nếu không có nguy cơ bị mù. Ông ta hỏi: “Nhưng giá bao nhiêu ?” Bác sĩ trả lời: “Chữa mỗi mắt là 100 đô.” Ông nhà giàu phân vân giữa tiền bạc và mù loà. Rồi ông nói với bác sĩ: “Tôi chỉ chữa một mắt thôi, vì một mắt cũng đủ thấy tiền và đếm tiền. Lại đỡ tốn !”

Có thể nói đồng tiền là người bạn tâm giao mà mình không bao giờ muốn rời xa. Đồng tiền khiến người ta dám đánh đổi tất cả để có được nó. Dường như kiếm tiền và giữ tiền đã chiếm hết thời gian và sức lực của con người. Đồng t

iền tuy lạnh lùng nhưng lại quyến rũ mọi người. Đồng tiền có thể đánh gục nhà tu cũng như  thường dân. Đồng tiền luôn mang lại niềm vui cho con trẻ cũng như người già. Con người xấu đẹp còn có kẻ khen người chê, riêng đồng tiền to nhỏ, xấu đẹp miễn là tiền thì chẳng ai chê!

Đồng tiền được đề cao vì nó là thành quả lao động của con người. Người nhiều tiền đương nhiên là giỏi, là cần cù, là chịu khó làm ăn. Nghề lắm tiền là nghề “hot” được nhiều người bon chen. Nhưng hôm nay đồng tiền bị hoen ố bởi những người lười lao động mà vẫn có tiền bởi mánh mung, bởi chạy chọt, tham nhũng, tham ô.  . . Có người còn kiếm đồng tiền bất chính bằng buôn phấn bán hương, bán thân xác để kiếm tiền.  . .

Thế nên, đồng tiền luôn có hai mặt. Mặt tích cực và mặt tiêu cực. Mặt trái và phải của đồng tiền được đúc kết như sau:
+ Con người dùng tuổi trẻ để kiếm tiền, nhưng tiền không mua lại được tuổi trẻ.
+ Con người dùng sức khỏe để kiếm tiền, nhưng tiền không mua lại được sức khỏe.
+ Con người dùng hạnh phúc để đổi lấy tiền, nhưng tiền không mua lại được hạnh phúc.
+ Con người dùng thời gian để kiếm tiền, nhưng tiền không mua lại được thời gian.

Cần tiền là việc không ai chê trách. Lao động chính đáng để có tiền là việc đáng tự hào, nên cổ động. Giàu có, hướng tới cuộc sống dư giả luôn là đích đến của con người cũng như mong muốn của xã hội. Nhưng mê tiền đến độ mù quáng, bất chấp đạo lý thì xã hội sẽ lắm những thị phi. Mê tiền đến mù quáng sẽ đánh mất lương tri và bán linh hồn cho ma quỷ.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy dùng tiền mà mua lấy sự sống đời đời bằng việc chia sẻ giúp đỡ tha nhân. Đừng hà khắc với anh em. Đừng vun quén đồng tiền bất chính. Hãy dùng khả năng của mình mà giúp đỡ tha nhân. Đó là cách chúng ta mua lấy sự sống đời đời. Vì chưng, sự sống con người không dừng lại ở cái chết. Sự sống vẫn tiếp diễn. Có khác chăng là con người không còn làm kẻ quản lý tiền của mà Thiên Chúa đã ban. Con người chỉ ở một trong hai tình trạng: hưởng hạnh phúc đời đời vì một đời làm quản lý luôn rộng rãi với tha nhân, hay bị đau khổ muôn đời vì những thất thoát ân ban của Chúa và thất tín trong bổn phận với Chúa và tha nhân. Thế nên, Chúa bảo chúng ta hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn hữu Nước Trời. Hãy sử dụng những ân huệ Chúa ban là tiền bạc, thời giờ và khả năng để thi thố tình thương cho những mảnh đời bất hạnh chung quanh.

Xin Chúa giúp chúng ta biết sử dụng ân huệ Chúa ban để mua lấy hạnh phúc Nước Trời bằng một cuộc đời bác ái yêu thương dành cho những anh em nghèo khó, bất hạnh mà Chúa gởi tới với chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

KHÔNG AI CÓ THỂ ĐƯỢC CỨU ĐỘ BẰNG TIỀN

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đề cập đến một thứ rất quen thuộc và được sử dụng hàng ngày trong cuộc sống đó là “tiền”. Chẳng ai muốn nói tới tiền, vì đó là một chủ đề cấm kỵ. Tiền vừa là thứ được yêu thích, và cũng là thứ gây mặc cảm.

Lời khuyên của Chúa Giêsu : “ … các con : Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời” (Lc 16, 9), và câu kết đoạn Tin Mừng : “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được” (Lc 16,13) khiến chúng ta phải suy nghĩ.

Tiền chỉ là một mảnh giấy, một vật làm bằng kim loại vô tri vô giác, nhưng nó đã đuợc chọn làm tương giao đổi chác, chi phối chúng tq quá nhiều. Tiền giữ một vị trí quan trọng, khiến nhiều bậc thang có giá trị bị đảo lộn, nhiều người có cùng quan điểm “có tiền là có tất cả”.

Đúng là có nhiều điều quan trọng ta không thực hiện được chỉ vì không có tiền, nhưng không thể nói rằng có tiền là có thể mua đuợc mọi thứ trên đời. Tiền chỉ là một công cụ để chúng ta trao đổi, tự bản chất tiền không nói lên một giá trị gì cả. Như thế, tiền không thể bảo đảm sự sung túc. Ví dụ: Trên con thuyền giữa đại dương, khi người ta không còn gì để ăn, thì một túi ngân phiếu cũng không giúp ích được gì. Tiền không thể thay thế được bất cứ nhu cầu nào. Người ta không thể sống bằng những con số tiền ở ngân hàng, nhưng bằng bánh và Lời Chúa. Tiền không thể làm cho lúa lớn lên được, nó chỉ làm tăng thêm hiệu quả của công sức con người trong tương quan với thiên nhiên.

Cuốn sách mang tựa đề “Happy Money: The Science of Smarter Spending”, (tạm dịch: Tiền hạnh phúc: Khoa học chi tiêu thông minh). Tác giả của cuốn sách này là hai nhà khoa học nghiên cứu hành vi nổi tiếng: Tiến sĩ Elizabeth Dunn và Tiến sĩ Michael Norton viết rằng : Tất cả chúng ta đều mắc một sai lầm về tiền khi cho rằng kiếm được càng nhiều tiền thì chúng ta càng cảm thấy hạnh phúc. Nếu muốn mua cho mình một cuộc sống trọn vẹn, vấn đề không nằm ở chỗ kiếm được bao nhiêu tiền, mà nằm ở cách bạn tiêu tiền.

Khi nói đến sức mạnh và giá trị của đồng tiền, có nhiều ý kiến trái chiều, chúng ta từng nghe một số nhận định sau:

Tiền có thể mua một ngôi nhà, nhưng không thể mua một mái ấm gia đình.

Tiền có thể mua chiếc giường đẹp, nhưng không thể mua giấc mộng vàng.

Tiền có thể mua chiếc đồng hồ, nhưng không mua được thời gian.

Tiền có thể mua quyển sách, nhưng không mua được kiến thức.

Tiền có thể mua chức vụ, nhưng không mua được sự kính trọng.

Tiền có thể trả cho bác sĩ, nhưng không thể mua được sức khoẻ.

Tiền có thể mua máu đào, nhưng không thể mua được mạng sống.

Tiền có thể mua xác thịt, nhưng không mua được tình yêu.

Có người hỏi : tiền có mua được hạnh phúc không ?

Số đông quả quyết rằng “không”. Có người cho rằng, tiền không mua được hạnh phúc nhưng nó có thể là công cụ mang lại hạnh phúc.

Tại sao tiền bạc có thể mua đuợc rất nhiều thứ ngoại trừ hạnh phúc?

Tiền thì không thể mua đuợc hạnh phúc vì hạnh phúc của con người không thể đo bằng thước, và càng lại không thể dùng giá trị của đồng tiền để mua hạnh phúc. Tiền là một thứ tiêu biểu cho giá trị vật chất, nên chỉ có thể mua những gì thuộc về vật chất. Còn hạnh phúc là một loại tiêu biểu cho giá trị tinh thần. Chẳng thế, Dunn và Norton cho rằng, làm cho người khác hạnh phúc trước và chắc chắn bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc sau. Đây là một điều hiển nhiên, nhưng thật ngạc nhiên, quá nhiều người quên rằng, đây là điều phù hợp với tinh thần Kitô.

Một câu hỏi lớn được đặt ra cho chúng ta : Tiền có thể cứu độ được con người không ?

Giảng trong thánh lễ sáng thứ Sáu 20 tháng 9 năm 2013, Đức Phanxicô nhắc lại rằng : “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được” bởi vì “một khi người ta dành tình yêu cho tiền và hướng về, thì tiền lôi kéo người ta xa rời Thiên Chúa”. Ngài kết luận : “Không ai có thể được cứu độ bằng tiền”. Vì vậy, chúng ta phải chọn lựa, chúng ta không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi tiền của được. Chúng ta không thể. Hoặc là Thiên Chúa hoặc là tiền của.

Mặc dù có nhiều nguyên nhân gây ra tội lỗi, nhưng thánh Phaolô nhấn mạnh rằng : “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham thích tiền bạc” (1Tm 6,10). Vì ham thích tiền mà một số người từ bỏ đức tin và gây nhiều đau khổ”. Thật vậy, sức mạnh của đồng tiền làm cho người tín hữu xa rời đức tin và thậm chí, tiền làm cho đức tin yếu dần và đưa người ta đến chỗ mất đức tin. Tiền là chỗ dựa không vững chắc, là thước đo lường sai và với sự hấp dẫn của nó, con người có nguy cơ bị tiền chế ngự. Thần Tiền tạo ra ảo giác rằng khi có tiền, tôi có thể có được mọi thứ, mọi ước muốn sẽ được thoả mãn, và qua đó, tiền làm cho chúng ta thành nô lệ.

Thiên Chúa muốn gì nơi chúng ta ?

Thiên Chúa muốn chúng ta hạnh phục thực sự. Ngài muốn chúng ta đi vào Giao Ước, chứ không phải là Bò vàng, Mammon, một giá trị biểu trưng sự an toàn tuyệt đối. Nếu không muốn trở thành nô lệ, cách thức duy nhất là chọn làm tôi Chúa và phục vụ Ngài. Chỉ có Thiên Chúa mới giải thoát được chúng ta.

Trong Mười Điều Răn, không có điều răn nào nói về tiền bạc. Tuy nhiên, chúng ta có thể lỗi phạm điều thứ nhất, nếu chúng ta hành động vì tiền. Đó là tội thờ ngẫu tượng. Vì tiền trở nên thần tượng để chúng ta tôn thờ. Ma quỷ luôn cám dỗ người ta về: sự giàu có, thỏa mãn; tự phụ, cảm thấy mình quan trọng ; và kiêu ngạo. Và cuối cùng, tiền tạo ra sự tôn thờ ngẫu tượng.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con khỏi rơi vào cái bẫy của thần tượng bạc tiền và chọn Chúa, vì chỉ có Chúa là Đấng Cứu Độ chúng con. Amen.

Về mục lục

.

NƯỚC TRỜI HAY TIỀN BẠC?

 Lm. GB. Trần Văn Hào

Người ta vẫn thường nói : “Có tiền mua tiên cũng được” hoặc “Miệng người sang có gang có thép!” Đồng tiền trở thành chiếc chìa khóa vạn năng, có thể mở ra mọi cánh cửa. Người ta dùng tiền để mua bằng cấp, để chạy chọt tìm những vị thế cao trong xã hội, để tậu nhà cao cửa rộng và ngay cả để có được vợ đẹp con khôn. Điều này chúng ta thấy rất rõ trong cuộc sống hiện tại. Nhưng, trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa mạnh mẽ khẳng quyết: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của được”. Có vẻ như Chúa Giêsumuốn mạnh mẽ tuyên chiến với tiền bạc, như một đối thủ không đội trời chung. Cả ba bài đọc hôm nay gợi lên một thách đố  xem chúng ta chọn cái gì, tiền bạc hay nước trời?

 Sự khôn ngoan của Nước Trời

Để minh họa cho giáo huấn trên, Chúa kể dụ ngôn về người quản lý bất lương. Tay quản lý này rất khôn khéo, toan tính để thu lợi cho mình. Có thể nói, anh ta rất quỷ quyệt và gian manh, khi nghĩ về hậu vận tương lai, ‘cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi’. Ông chủ trong câu chuyện khen tên quản gia đó là một người khôn khéo (c.8). Nhưng đó chỉ là khôn ngoan theo kiểu thế gian. Chúa kết luận với nhận định : “Quả thật, con cái đời này khôn hơn con cái sự sáng”. Như vậy, Chúa Giêsu muốn đưa dẫn chúng ta đến sự khôn ngoan đích thực, không theo kiểu thế gian nhưng theo hướng đích của Tin mừng.

Không phải Chúa khen ngợi sự quỷ quyệt ma mãnh của người quản lý bất lương kia, nhưng từ câu chuyện, Ngài mời gọi các môn sinh hãy biết ‘dùng tiền bạc bất chính mà tạo lấy bạn bè’, tức là phải biết sử dụng của cải đời này theo tiêu chuẩn khôn ngoan Ngài vạch dẫn.

Ông Jean Paul Satre, một triết gia hiện sinh vô thần đã viết tác phẩm khá nổi tiếng tựa đề ‘La nausée’. Ông chủ trương một lối sống hiện sinh, lấy tiền bạc làm chuẩn mực và làm thước đo mọi giá trị để kiến tạo hạnh phúc. Nhưng cuối cùng, tiền bạc cũng không thể làm ông thỏa mãn những khao khát. Ông chỉ thấy cuộc sống mình hoàn toàn vô nghĩa khiến ông muốn nôn mửa ra. ‘La nausée’ có nghĩa là ‘Cơn buồn nôn’. Chắc chắn mỗi người chúng ta đều đã kinh qua những kinh nghiệm thương đau và phũ phàng về tiền bạc. Điều quan trọng là chúng ta phải hành xử khôn ngoan theo hướng của Tin Mừng. Đây là sự khôn ngoan được Chúa nhấn mạnh qua dụ ngôn hôm nay.

Cũng tương tự trong bài đọc 1, tiên tri Amos nặng nề cảnh cáo những kẻ dùng tiền bạc để mua người cơ hàn, đổi lấy phẩm giá của những người cùng khổ. Ngạn ngữ phương Tây có viết : “Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu”, hoặc như câu nói của một triết gia người Pháp : “Tiền là phương tiện của kẻ khôn ngoan nhưng lại là mục đích của kẻ ngu xuẩn”. Cách sử dụng tiền bạc cho đúng mục đích, là điều Chúa muốn nói tới hôm nay.

Có một truyền thuyết kể lại một phong tục kỳ lạ tại một vương quốc kia. Trong vương quốc nhỏ bé ấy, ai cũng có thể làm vua, nhưng chỉ được trị vì trong một năm, sau đó sẽ bị đày ra một hòn đảo xa xôi và sống ở đó cho đến chết. Một ông vua nọ đã rất khôn khéo. Trong một năm cai trị vương quốc, ông đã thu tích rất nhiều của cải để chuyển ra hòn đảo mà sau này ông ta sẽ đến ở. Truyền thuyết này cũng phần nào tương hợp với dụ ngôn về người quản lý bất lương mà bài Tin Mừng hôm nay nói đến.

Không ai có thể làm tôi hai chủ

Tiền bạc hay nước trời, chúng ta chọn cái gì? Đây là câu kết luận mà Chúa muốn nhắm đến. Chúa không dạy chúng ta phải ghê tởm và xa tránh tiền bạc, nhưng biết sử dụng nó để mua lấy nước trời. Trong ba năm rao giảng, chính Chúa Giêsu cũng đã dùng đến tiền bạc. Ngài đã cắt đặt Giuđa làm người quản lý. Ngài cũng nhận sự trợ giúp vật chất từ những phụ nữ giàu có. Chúa cũng mượn ngôi nhà của một người giàu để ăn bữa vượt qua với các môn đệ trước khi lên đường thụ nạn. Điều Chúa Giêsu muốn nói là chúng ta đừng trở nên nô lệ cho tiền bạc. ‘Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được’.

Trong sinh hoạt của Giáo hội, Giáo hội cần những nguồn tài chính để xây dựng những nơi thờ phượng hay để tổ chức những hoạt động tông đồ, nhưng cũng dễ xảy ra lạm dụng. Anh em Tin lành, đặc biệt ông tổ Lutherô và Calvinô rất dị ứng với việc dùng tiềnđể xin lễ. Giáo luật vẫn cho phép các linh mục nhận và hưởng bổng lễ, nhưng phải tuân thủ kỷ luật cách nghiêm túc. Bổng lễ được nhận với hai mục đích, một mặt giúp nuôi sống các tư tế và mặt khác, cũng để đóng góp vào những thiện ích chung của Giáo hội. ‘Simonia’ (buôn thần bán thánh) là một thứ tội mà Giáo hội kiên quyết loại trừ.

Tiền bạc vẫn luôn là vấn đề muôn thuở, là tên cám dỗ khủng khiếp nhất tấn công tất cả mọi người. Lời cảnh báo của Chúa Giêsu hôm nay ‘Không ai có thể làm tôi hai chủ’ vẫn luôn mang tính thời sự, chạm đến ‘vùng cấm’ tế nhị nhất của mọi Kitô hữu, nhất là của các anh em linh mục.

Kết luận

Thánh Augustinô đã viết trong bộ sách Tự thuật của Ngài : “Cuộc đời của chúng ta là một cuộc tìm kiếm không ngừng”. Cái chúng ta đang kiếm tìm là gì? Tiền bạc hay nước trời ? Ngài đã cầu nguyện với Chúa : “Lạy Chúa, linh hồn con khao khát Chúa cho đến khi được yên nghỉ trong Ngài”. Còn chúng ta, chúng ta đã cầu nguyện với Chúa ra sao? Chúng ta khát khao Thiên Chúa hay tiền bạc ?

Về mục lục

.

TIỀN CỦA BẤT CHÍNH VS. CỦA CẢI CHÂN THẬT

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Theo thói đời, cách cư xử của viên quản gia trong bài Tin Mừng, cho dầu đầy vẻ trục lợi và không trong sáng chút nào, nhưng ai ai cũng đều phải công nhận: hắn ta quả là người khôn khéo và thông minh. Vấn đề ở đây là: khi kể câu chuyện dụ ngôn này Đức Giê-su thật sự muốn nói với chúng ta điều gì? Người đang dạy chúng ta áp dụng thói đời mánh mung để sống Tin Mừng hay sao? Hay là dùng của cải tiền bạc bất luận từ nguồn nào để lập công nghiệp cho bằng được, hầu bảo đảm cho đời sau hay mua chuộc Nước Trời? Thú thật: đã từ lâu lắm rồi, tôi vẫn luôn có cảm giác ngắc ngứ với đoạn Tin Mừng này; rồi khi đọc diễn giải của một số tác giả, tôi có cảm tưởng rằng, ít nhiều họ cũng ngắc ngứ như tôi. Nói chung, cách diễn giải phổ thông vẫn cho là Đức Giê-su dạy chúng ta sử dụng tiền bạc của cải trần thế (của chóng qua, dầu chính đáng hay bất chính tới mấy) để chiếm hữu cho bằng được Thiên Đàng. Giải thích kiểu này, tuy có dễ hiểu thật đấy, nhưng không đủ sức thuyết phục! Đức Giê-su không thể khuyên các môn đệ hãy cố kinh doanh để có dư giả tiền của mà làm từ thiện, vì Nước Trời là gì mà có thể bị mua chuộc bằng tiền của, dầu có dưới dạng làm việc lành phước đức?

Riêng về chuyện tiền bạc và của cải vật chất thì: Đức Giê-su luôn coi nó, trong bất cứ hoàn cảnh nào, đều là ‘tiền của bất chính, của cải của người khác’. Điều này được học thuyết kinh doanh ngày nay thẳng thắn đề cập tới không hề dấu diếm: xét về mặt luân lý xã hội thì tiền của luôn tiềm tàng vấn đề công bằng xã hội, vì nó được điều hành dựa trên một hệ thống xã hội không công bẳng. Tuy nhiên tôi không hề nghĩ: ở đây Đức Giê-su muốn nêu lên một vấn đề luân lý xã hội nóng bỏng cần giải quyết. Điều Người muốn nói phải liên quan tới việc chấp nhận và sống Tin Mừng Người đang rao giảng đó là: làm sao để con người có thể đón nhận lòng nhân ái của một Thiên Chúa đầy lòng xót thương, trong bối cảnh cụ thể của cuộc sống trần gian này?

Hành động của người quản gia bất chính, dầu không xuất phát chút nào từ lòng nhân đích thực, nhưng vẫn được các con nợ coi là hành vi nhân lành đối với họ; hành động của ông tuy bất chính, nhưng vì mang cái vỏ từ nhân, nên vẫn có thể tránh cho ông một tương lai mù mịt. Đức Giê-su xem ra muốn tô đậm cái nét rất dễ gây tranh cãi này: “Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào ở nơi vĩnh cửu”. Nói như thế vì Người cho rằng: bất cứ ai dù đầy dẫy những bất chính và tội lỗi, vẫn có thể được coi là công chính trước Tin Mừng chỉ vì họ hướng tới, đón nhận và thi thố lòng nhân từ xót thương, dầu là nhỏ mọn nhất. Ngược lại, dầu có công chính tới mấy, vẫn có thể bị coi là bất lương: “Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn”. Hầu như Người muốn khảng định rằng: đối với Tin Mừng của một Thiên Chúa giầu lòng thương xót, thì trung tín chính là đón nhận, là thực thi lòng thương xót. Nếu trung tín (= sống xót thương) trong việc nhỏ, tức là ngay trong đời thường, thì mới có thể trung tín trong việc lớn, tức là đón nhận lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa trong giờ chết, và trong cõi vĩnh hằng. Nếu đã ‘Bất lương trong việc nhỏ’, tức là không biết đón nhận và thực thi lòng từ ái của Thiên Chúa trong đời thường, thì cũng sẽ ‘bất lương trong việc lớn’, tức là không có khả năng đón nhận lòng thương xót Chúa đến muôn đời.

Và cũng trong nội dung Tin Mừng cứu độ đó, Đức Giê-su còn xác định thêm một điều khác nữa vô cùng quan trọng đối với các Ki-tô hữu chúng ta: ‘của cải chân thật’, ‘của cải dành riêng cho anh em’ chỉ có thể là lòng từ ái vô biên của Thiên Chúa mà các môn đệ là những người duy nhất được hồng phúc biết tới và mở lòng đón nhận. Đây mới chính là ‘của cải’ mà mọi Ki-tô hữu phải sở hữu cho bằng được, ngay trong cuộc sống hiện tại của một xã hội chưa hoàn chỉnh còn đầy dẫy những bất công xảo trá! Trong bất cứ một cơ cấu xã hội nào, dầu được cho là tốt đẹp lý tưởng hay áp bức bóc lột (thường vẫn được biện minh bằng các lý lẽ cao thượng), người Ki-tô hữu vẫn không ngừng xây dựng và vun đắp lòng xót thương là tâm điểm niềm tin của họ, trước cả khi tìm cách cải tạo xã hội đó cho hoàn thiện hơn. Nói tóm lại, công tác tiên quyết của Ki-tô hữu không phải nhằm kiến tạo một xã hội hoàn hảo, mà là xây dựng ngay từ thực tế xã hội họ đang sinh sống, ngay từ cõi lòng họ, điều mà, trong niềm tin vào Tin Mừng, họ cho là ‘của cải chân thật’ nhất, ‘của cái dành riêng’ nhất cho người môn đệ. Phải chăng đó chính là điều Đức Giê-su đang muốn khuyên cáo các môn đệ của Người: “Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em”?

Như vậy thì: trong niềm tin của Tin Mừng, Thiên Chúa từ nhân và hay thương xót sẽ quả là tuyệt đối, không gì có thể sánh ngang bằng; và tiền của (trong cả nội dung nghĩa bóng của nó) dầu chính đáng hay bất chính, sẽ lộ rõ hơn bao giờ hết bản chất phù phiếm đích thực của nó một khi giáp mặt Con Người xót thương. Giữa một Lòng Thương Xót luôn trao ban và phân phát, với một tiền của có khuynh hướng khuynh đảo dưới mọi hình thức, người Ki-tô hữu ngay từ đầu đã phải có một chọn lựa đúng đắn và dứt khoát không thể đảo ngược; “không ai có thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền tài”. ‘Của cải dành riêng’ cho ki-tô hữu chính là: nhận biết lòng nhân ái của Thiên Chúa và sống lòng nhân ái này ngay trong đời sống thường ngày.

Tin Mừng hôm nay quả là một bài học căn bản nhất, phải không bạn?

Lạy Chúa là Đấng giầu lòng xót thương, xin cho con nhận thức được rằng: ‘của cải chân thật’ ‘của cải dành riêng cho con’ không thể là gì khác hơn lòng nhân từ của Chúa. Xin cho con ngay từ trong cuộc sống trần gian đầy tham lam và gian dối này, nhờ Tin Mừng cứu độ, biết mở rộng cõi lòng để đón nhận lòng thương xót vô biên Chúa, thông qua các hành vi nhân từ và bác ái cụ thể, trong giới hạn của đời sống con. Xin cho con không bao giờ đánh mất ‘của cải chân thực’ này, nhưng hằng biết chiếm hữu và thu quén nó cho cuộc sống trường sinh trong lòng nhân ái Chúa. A-men.

Về mục lục

.

ĐẤT CÀNG PHÌ NHIÊU, TƯỢNG THẦN CÀNG NHIỀU

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Bài đọc 1 tuần trước kể chuyện dân Do thái đúc con bê vàng rồi sụp xuống lạy nó, tế nó và nói: hỡi Israel, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai Cập (x.Xh 32,1-35). Họ tôn thờ ngẫu tượng. Họ đã vô ơn và phản bội.Thiên Chúa đã bừng bừng nổi giận. Ông Môsê nại đến tình thân giữa Thiên Chúa và Apbraham, Isaac và Giacop để van xin Người nguôi cơn thịnh nộ. Môsê nhắc lại tình thương, lời hứa và quyền năng của Thiên Chúa đã làm cho tổ tiên họ để xin thương tha phạt cho đám dân ngỗ nghịch này: Dân mà Ngài đã dùng cánh tay hùng mạnh đưa ra khỏi đất Aicập. Với lời van xin ấy, Thiên Chúa đã nguôi cơn thịnh nộ, đã thương không giáng phạt dân chúng.

Con bê vàng hay tiền bạc của cải vật chất là sức mạnh cuốn hút con người, chi phối nhiều lãnh vực trên thế gian này.

Bài đọc 1 tuần này trích sách Ngôn sứ Amos, nêu ra những thói đời xấu xa, những bất công giả trá và mạnh mẽ lên án tội lỗi của những người giàu: vì mải mê kiếm tiền nên họ bỏ bê những bổn phận đạo đức, gian lận “giảm đấu đong, tăng giá và làm cân giả”, thậm chí bóc lột cả người nghèo.

Thế kỷ thứ 8 trước công nguyên, vương quốc phía Bắc của Israel có nền kinh tế thịnh vượng. Những người giàu có sang trọng sống xa hoa bên cạnh những người nghèo khổ. Nhiều nghi lễ lộng lẫy ở đền thờ nhưng không có tâm tình tôn giáo chân thực. Thiên Chúa đã sai ngôn sứ Amos đến cảnh tỉnh cũng như lên án những bất công xã hội, những an toàn giả tạo mà người ta cậy dựa. Một loạt tố cáo những bất công trong buôn bán như tăng giá bán, làm cân giả…lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi người túng thiếu. Một xã hội có những người xấu chuyên môn lường gạt, gian dối, lừa lọc, xảo trá và dùng nhiều thủ đoạn để vun đắp phần lợi về mình.

Ngôn sứ Hôsê cùng thời với Amos đã nhận định về tình trạng xã hội thời ấy: “Israel vốn là một cây nho sum sê, trái trăng thật dồi dào phong phú; nhưng trái trăng càng nhiều, chúng càng dựng thêm các bàn thờ ngẫu tượng; đất nước càng giàu sang, chúng càng dựng thêm những cột thần lộng lẫy” (Hs 10, 1).

“Đất càng phì nhiêu, tượng thần càng nhiều”, nhận định này của vị Ngôn sứ thế kỷ thứ VIII tcn vẫn đúng cho con người mọi nơi mọi thời, đặc biệt là chính sách đất đai hiện nay ở Việt Nam đã tạo quá nhiều thuận lợi cho tham nhũng trục lợi và bất công tràn lan.

Các Ngôn sứ thời Cựu ước vẫn thường chỉ trích những thói tham lam, lọc lừa và nặng lời kết án những người giàu bất công, áp bức, khinh dễ kẻ nghèo, những người chỉ nghĩ đến tiền bạc lợi lộc.

Vào thế kỷ VIII tcn, Israel sống thời kỳ thịnh vượng dưới triều Giêrôbôam II. Do sự phồn thịnh ấy mà người ta sinh hư đốn: bon chen, tham lam, tranh giành tiền bạc của cải bằng đủ mọi hình thức bất công: giàu hiếp đáp nghèo, dùng tiền mua lương tâm mua địa vị chức tước; người giàu chỉ biết ích kỷ hưởng thụ mặc cho dân nghèo đói rách cơ cực… Ngôn sứ Amos đã nghiêm khắc cảnh cáo họ: Hãy nghe đây, hỡi những kẻ đàn áp người nghèo khó và muốn hủy diệt hết những người bần cùng trong cả nước. Các ngươi giảm đấu đong, tăng giá bán và làm nên những chiếc cân non. Các ngươi lấy tiền mua người nghèo khó, lấy đôi dép mà đổi lấy người túng thiếu. Các ngươi bán lúa mục nát. Thế nhưng, Thiên Chúa sẽ không quên lãng và những hình phạt khủng khiếp sẽ được giáng xuống trên các ngươi.

Trong Cựu Ước, giàu có thịnh vượng thường được xem như một sự chúc lành của Thiên Chúa. Nhưng dân Ítraen lại suy nghĩ theo cách của các dân ngoại chung quanh, họ coi sự thịnh vượng của mình là ơn lành của các sức mạnh thiên nhiên mà dân ngoại tôn thờ như những thần linh, thần mưa, thần gió, thần đất. Cho nên vật chất càng phát triển họ càng sùng bái ngẫu tượng nhiều hơn. Đó là một sự phản bội không thể tha thứ: “Chúng là thứ người lòng một dạ hai, rồi đây chúng sẽ phải đền tội” (Hs 10, 2). Thiên Chúa đã kết ước với họ nhưng họ đã thất trung bội tín, lòng họ đã bị phân rẽ. Thay vì tôn thờ một mình Thiên Chúa, nghe theo lời Người dạy bảo và trông cậy vào một mình Người, họ lại chạy theo những thần linh giả dối. Ngôn sứ Hôsê mạnh mẽ cảnh cáo Ítraen: “Rồi đây chúng sẽ phải đền tội; bàn thờ của chúng, Đức Chúa sẽ đập tan, cột thờ của chúng, Người cũng sẽ phá đổ” (Hs 10, 2). Cái gì giả trá thì vẫn là giả trá. Đặt tin tưởng vào nó, tất chẳng thể bền. Rồi đây Ítraen sẽ thấy các thần tượng mình sụp đổ, “bấy giờ họ sẽ nói với núi đồi: ‘Phủ lấp chúng tôi đi!’ và với gò nổng: ‘Hãy đổ xuống trên chúng tôi!'” (Hs 10, 8).

Chính kinh nghiệm cho thấy rằng của cải giàu sang thường đưa người ta đi xa Chúa. Sự sung túc mang tới cho người ta nhiều thứ có khả năng cạnh tranh với Thiên Chúa, và thậm chí thay thế Thiên Chúa, ví dụ như địa vị, quyền thế, danh vọng, tình yêu, tiện nghi, lạc thú. Tục ngữ ta đã chẳng nói “có tiền mua tiên cũng được” hay “đồng bạc đâm toạc tờ giấy” đó sao? Của cải làm cho người chiếm hữu nó có cảm thức mãnh liệt rằng mình “toàn năng”, muốn gì cũng được! (Cố Lm Nguyễn Hồng Giáo).

Nhìn vào thực trạng xã hội Việt Nam hôm nay sẽ thấy, người ta thường chạy theo tiền bạc, của cải, địa vị, chức quyền. Trong cuộc chạy đua đó, con người đã để cho tiền của làm chủ đời sống của họ, hướng dẫn và quy định cả cách sống và tâm tình của họ. Khi đó Thiên Chúa, lương tâm, nhân cách bị gạt ra khỏi tâm hồn họ. Tiền của, danh vọng là thần tượng của họ và khi đó làm bất cứ việc gì dù trái với lương tâm, với luân thường đạo lý, với công bình bác ái miễn là càng ngày họ càng giàu có, càng thăng chức. Lòng tham không bao giờ thỏa mãn. Tham vọng của con người không bao giờ cùng.

Cùng một tiếng chuông cảnh tỉnh của các Ngôn sứ, Chúa Giêsu đã dạy: Các con không thể làm tôi hai chủ, vì nếu mến chủ này thì sẽ ghét chủ kia. Cũng vậy, các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của được.

Chúa Giêsu không phi bác tiền của, không phê phán sự giàu sang, cũng không bác bỏ người giàu. Ngài chỉ nhắc nhở thái độ phải có đối với tiền của và cảnh cáo phê phán những người giàu trong việc sử dụng tiền của.

Tiền của tự nó không xấu. Xấu hay tốt là tuỳ ở nhận thức, thái độ và cách sử dụng của con người. Chúa Giêsu lên án sự ham mê tiền của, coi đó như tất cả cuộc sống, đến nỗi dành hết sức lực, thời gian, trí tuệ để cố chiếm hữu thật nhiều; thậm chí bán rẻ cả lương tri và phẩm giá con người. Tiền của trở nên thần tượng và chiếm chỗ độc tôn trong lòng người. Ngài kết án những người vì đồng tiền mà sống bất công, lừa thầy phản bạn, coi thường mạng sống và nhân phẩm người khác. Ngài còn phê phán chỉ trích những người giàu sang chỉ biết cậy dựa vào tiền bạc và sống ích kỷ hưởng thụ.

Tiền của là phương tiện tốt nếu được dùng để làm điều thiện, giúp đỡ người thiếu thốn, phục vụ khoa học vì những mục đích tốt. Chỉ có cách đó mới làm cho người ta không làm tôi của cải. Lòng tham lam, việc tích trữ của cải là mối nguy hiểm lớn cản trở con đường tìm kiếm Nước Trời và đưa con người xa rời Thiên Chúa. Người thanh niên giàu có được mời gọi bán tất cả của cải tài sản để đi theo Chúa, nhưng anh ta buồn rầu bỏ đi vì có nhiều của cải. Chúa Giêsu cảnh tỉnh: Người giàu có vào Nước Trời còn khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim. Vì thế không lạ gì thái độ cương quyết của Chúa Giêsu là đòi hỏi một chọn lựa dứt khoát: Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của.

Chúa Giêsu luôn đứng về phía người nghèo và bênh vực kẻ cô thế cô thân. Ngài sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo. Ngài chọn các môn đệ giữa số những người nghèo. Ngài hằng quan tâm, yêu thương vỗ về những người nghèo và tuyên bố mối phúc đầu trong bát phúc: “Phúc cho những người nghèo khó vì Nước Trời là của họ” (Lc 6,20; Mt 5,3). Yêu người nghèo, nhưng Chúa Giêsu không hề kết án người giàu và tẩy chay sự giàu có. Ngài ân cần tiếp đón và đối thoại với người giàu, sẵn sàng đến dùng bữa với họ khi được mời; Ngài để cho những phụ nữ giàu có đi theo giúp đỡ trong hành trình sứ vụ. Tuy nhiên, Ngài nặng lời chỉ trích những người giàu chỉ biết bám víu vào tiền của, sống ich kỷ hưởng thụ bỏ mặc người nghèo đói cơ cực (x. Lc 16,19-31), làm giàu cách bất lương, ỷ vào tiền của mà khinh dễ kẻ khác.

Ưu tiên hàng đầu của người môn đệ Chúa Giêsu là Nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đây là vấn đề giá trị khi chọn lựa. Thế gian thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Con cái của Chúa sẵn sàng từ bỏ tất cả để tìm kiếm Chúa và phụng sự một mình Chúa. Có Chúa là có tất cả; khi không còn gì nhưng còn có Chúa là còn tất cả vì Ngài là lẽ sống. Khi đã chọn Chúa, ắt sẽ biết sử dụng tiền của và tất cả những gì Chúa ban để phụng sự Ngài và Giáo hội qua việc phục vụ anh em đồng loại. Sống theo ưu tiên đó, người Kitô hữu sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì tiền của, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất. Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Ngài mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.

Tiền của cần thiết cho cuộc sống. Thế nhưng nó cũng là nguyên nhân cho bao băng hoại, tráo trở trong xã hội, đổ vỡ trong gia đình, hư đốn trong bản thân. Thánh Phaolô khuyến cáo “Lòng ham tiền của là cội rễ mọi điều ác” (1Tm 6,10). Khi con người đã quá đề cao và bám víu vào tiền của, coi nó là vạn năng, là tất cả cuộc sống thì sẽ trở thành nô lệ cho nó.

Thiên Chúa ban cho con người tiền của chóng qua để sống, thăng tiến, phát triển, phục vụ…Giá trị của tiền tài hệ tại con người biết sử dụng cách đúng đắn như phương tiện phục vụ anh em, đặc biệt người nghèo khổ, để đạt tới Nước Trời là hạnh phúc đích thực.

Tiền của là phương tiện để chia sẻ với tha nhân, trong bài đọc 2, thánh Phaolô viết cho Timôthêô: “Những người giàu, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng. Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ” (1Tm 6,17-18). Đó chính là lời nhắc nhở để hôm nay chúng ta biết đồng cảm với những người nghèo khó, chia sẻ tình thương với họ và tránh xa lòng ganh tỵ, oán hờn tranh chấp, nhưng biết xây dựng hòa bình.

Tiền của chỉ là việc nhỏ sánh với việc lớn là Nước Trời. Tiền của giàu sang nơi trần gian chỉ là tạm bợ, không thể tạo hạnh phúc đích thực cho con người; ngược lại nó làm con người vong thân khi bị nó chiếm hữu, và lúc ấy nó sẽ là chủ nhân ông và con người sẽ biến thành tôi tớ. Vậy nếu ở đời này, con người biết sử dụng tiền của tạm bợ cách tốt đẹp, họ sẽ được trao phó của cải vĩnh cửu trên trời.

Tiền của có thể trở thành phương tiện giúp đạt tới đích là Nước Trời, nhưng cũng có nguy cơ đẩy người ta ra xa Chúa để tìm kiếm những sự thuộc thế gian. Do đó, điều quan trọng là phải biết sử dụng tiền của như phương thế đạt Nước Trời. Chúa Giêsu muốn các môn đệ phải chọn lựa dứt khoát, không có thái độ lưng chừng hoặc bắt cá hai tay. Người bắt cá hai tay bao giờ cũng là kẻ thua thiệt nhất.

Lạy Chúa, xin cho con biết chọn Chúa là đối tượng duy nhất của lòng trí con. Amen.

Về mục lục

.

CHỌN LỰA

Trm Thiên Thu

Đệ nhất phu nhân Eleanor Roosevel (1884 – 1962), cũng là nhà nhân đạo kiêm nhà hoạt động xã hội Mỹ, đã nhận định: “Triết lý ca mt người không được th hin tt nht bng ngôn t, mà được th hin trong cách chn la. Cách chn la ca chúng ta chính là trách nhim ca chúng ta”. Chọn lựa rồi thì phải sống điều đó, chứ không thể chọn lựa cho xong lần rồi thôi.

Thiên Chúa cho con người có quyền tự do chọn lựa, đó là niềm vui mừng và hãnh diện – vì chúng ta được Thiên Chúa tôn trọng cả nhân phẩm, nhân vị và nhân quyền; nhưng đó cũng là nỗi lo sợ – vì chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm về những gì chúng ta chọn lựa.

Muốn chọn lựa phải có ít nhất hai cái – cái này hoặc cái kia, cách này hoặc cách nọ. Có một thứ thì không thể có sự chọn lựa. Tư tưởng dẫn tới hành động, đó là sự chọn lựa. Cách chúng ta chọn lựa có thể trở nên “số phận” của chúng ta – an vui hạnh phúc hoặc nghiệt ngã khổ đau. Đó là điều tất yếu từ sự tự do của chúng ta!

Ngôn sứ A-mốt đã có thị kiến thứ tư, Thiên Chúa hỏi ông thấy gì, ông nói ông thấy “giỏ trái cây mùa hạ”. Thiên Chúa cho ông biết rằng Ngài sẽ không tha thứ cho dân Ít-ra-en nữa, vì họ gian tham, tội lỗi. Dân Ít-ra-en đã bất tuân, bất tín và bất trung với Thiên Chúa mà quyết định chọn lối gian tà. Họ không nhận được Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là điều tất yếu. Chúng ta cũng vậy mà thôi!

Ngôn sứ A-mốt truyền lại lời của Thiên Chúa: “Hãy nghe đây, hi nhng ai đàn áp người cùng kh và tiêu dit k nghèo hèn trong x” (Am 8:4). Có lời cảnh báo đó vì họ đã thầm nghĩ: “Bao gi ngày mng mt qua đi, cho ta còn bán lúa; bao gi mi hết ngày sa-bát, đ ta bày thóc ra? Ta s làm cho cái đu nh li, cho qu cân nng thêm; Ta s làm lch cán cân đ đánh la thiên h. Ta s ly tin bc mua đa cơ bn, đem đôi dép đi ly tên cùng kh; c lúa nát go mc, ta cũng đem ra bán” (Am 8:5-6).

Người ta nói “buôn gian, bán lận”, nghề nào cũng có mánh lới của nghề đó, càng ngày càng tinh vi hơn: thợ may ăn vải, thợ vẽ ăn hồ. Ngày nay, giai cấp nào hoặc ngành nghề nào cũng có cách gian lận ranh mãnh, ngay cả một số “ông trùm” của xứ đạo cũng “lóm lém” như thường, nói chi đến người ngoại đạo. Thảo nào, một nữ kế toán về chương trình cứu trợ của nhà nước ở Bình Phước mà mưu mô chiếm đoạt đến hơn 3 tỷ đồng. Quả thật, “thường nhân” chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi sự lươn lẹo của các “siêu nhân” theo phe ma quỷ!

Và rồi ngôn sứ A-mốt đã xác định rằng “Đức Chúa đã lấy Thánh Danh là niềm hãnh diện của Gia-cóp mà thề: Ta sẽ chng bao gi quên một hành vi nào của chúng” (Am 8:7). Ai tốt hay xấu thì Thiên Chúa đều tỏ tường, vì Ngài thấu suốt mọi sự (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6). Ngài im lặng chứ đừng tưởng Ngài không biết mà… làm tới, hoặc dám lấy vải thưa che mắt thánh!

Kinh Thánh cũng đã cảnh cáo thẳng thắn: “Này k gian, ch rình rp nhà người công chính, cũng đng phá phách nơi h . Vì chính nhân có ngã by ln cũng đng lên được, còn k ác c lo đo hoài trong cnh tai ương (Cn 24:15-16). Kẻ mê muội càng ngày càng lú lẫn vì miệt mài đi trên con đường tối tăm, tự làm mình mù lòa nên không thích ánh sáng và cũng chẳng thấy được ánh sáng.

Còn những người công chính, dù có những lúc đã trượt té – thậm chí là “té đau”, nhưng họ quyết tâm đứng dậy, không nằm lì, thế nên họ được Thiên Chúa thương xót độ trì. Vấn đề không phải trượt té mà là đứng dậy ngay hay không. Cảm nghiệm được điều này, tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hi tôi t Chúa, hãy dâng li ca ngi, nào ca ngi danh thánh Chúa đi! Chúc tng danh thánh Chúa, t gi đây cho đến mãi muôn đi!” (Tv 113:1-2).

Thiên Chúa vô cùng nhân từ, nhưng Ngài cũng rất mực công minh. Ai có công được thưởng, ai có tội bị phạt. Chúng ta chỉ là như những “bức tượng” được Điêu khắc gia Thiên Chúa tạo nên. Bức tượng không thể biết nhà điêu khắc thế nào. Tượng tự, cũng chẳng ai có thể hiểu được đường lối của Ngài: “Chúa siêu vit trên hết mi dân, vinh quang Người vượt xa tri cao thm. Ai sánh tày Thượng Đế Chúa ta, Đng ng chn cao vi, cúi xung đ nhìn xem bu tri trái đt?” (Tv 113:4-6).

Chỉ là thụ tạo, là bụi cát, nhưng chúng ta được Thiên Chúa hết lòng yêu thương đến cùng, dù chúng ta đã từng trái lệnh Ngài. Không chỉ được Ngài xót thương, chúng ta còn được Ngài phong chức tước và ban ân lộc, như tác giả Thánh Vịnh đã minh định: “K mn hèn, Chúa kéo ra khi nơi cát bi, ai nghèo túng, Người ct nhc t đng phân tro, đt ngi chung vi hàng quyn quý, hàng quyn quý dân Người” (Tv 113:7-8). Quả thật, điều đó tưởng chừng là “không tưởng”, nhưng đó lại là sự thật minh nhiên. Chúng ta cần phải nhận biết mà tạ ơn Ngài suốt đời.

Thánh Phaolô nói về việc cầu nguyện và tạ ơn: “Tôi khuyên ai ny dâng li cu xin, khn nguyn, nài van, t ơn cho tt c mi người, cho vua chúa và tt c nhng người cm quyn, đ chúng ta được an cư lc nghip mà sng tht đo đc và nghiêm chnh. Đó là điu tt và đp lòng Thiên Chúa, Đng cu đ chúng ta, Đng mun cho mi người được cu đ và nhn biết chân lý” (1 Tm 2:1-4). Cầu nguyện không chỉ là cầu xin, nhưng chúng ta thường chỉ cầu xin, và thích xin theo ý mình ch không xin theo ý Chúa.

Có lẽ vì vậy mà khi cầu xin không đúng ý mình, đức tin của chúng ta bị lung lay, thậm chí có người còn mất đức tin. Thật vậy, đã thấy có người vì “nguyên nhân tế nhị” nào đó mà họ theo Phật giáo. Mỗi năm, phụ nữ này vẫn về khu phố cũ nhờ người quen xin lễ cho thân nhân, còn chính chị ta lại tỏ ra sùng đạo Phật. Không thể hiểu nổi!

Nếu có một lý trí bình thường và không cố ý phủ nhận sự thật khi nhìn vào thiên nhiên – đơn giản nhất là mối quan hệ giữa không khí và sự sống, chúng ta dễ dàng nhận biết Đấng Tạo Hóa duy nhất. Đó chính là Đấng làm chủ vũ trụ – theo phàm ngôn, chúng ta gọi Ngài là Thiên Chúa, là Đức Chúa Trời, là Deus, là Dieu, là Dios, là Dio, là God, là Gott,… (theo ngôn ngữ của dân tộc mình). Thật vậy, Thánh Phaolô phân tích và trần tình: “Ch có mt Thiên Chúa, CH CÓ MT Đng trung gian gia Thiên Chúa và loài người: đó là mt con người, Đc Kitô Giêsu, Đng đã t hiến làm giá chuc mi người. Điu này đã được chng thc vào đúng thi, đúng bui. Và đ làm chng v điu này, tôi được đt làm người rao ging và làm Tông Đ – tôi nói tht ch không nói di – nghĩa là làm thy dy các dân ngoi v đc tin và chân lý” (1 Tm 2:5-7).

Các chuỗi DNA “liên kết” sự sống trong các sinh vật thật kỳ diệu – từ sinh vật bé nhỏ nhất tới sinh vật to lớn nhất, con người không thể nào hiểu hết. Tế bào thế nào thì khỏe hoặc yếu, tốt hay xấu,… Chữa được bệnh này thì sinh bệnh khác. Y học không ngừng tìm tòi xưa nay mà vẫn không ngăn cản được sự chết, không thể làm cho con người bất tử hoặc trường sinh. Thế mà người ta vẫn muốn chối bỏ Đấng làm chủ Sự Sống. Kiêu ngạo quá đỗi!

Thiên Chúa đã ra quy luật đời đời dành cho phàm nhân: “Ngươi là bi đt, và s tr v vi bi đt” (St 3:19). Thực tế đã chứng minh chân lý đó: Socrates chết, Sigmund Freud chết, Khổng Tử chết, Lão Tử chết, Thích Ca Mâu Ni chết,… kể cả những người tự nhận mình là “sống mãi trong lòng mọi người”. Nói chung, AI CŨNG PHẢI CHẾT và KHÔNG THỂ TỰ TÁI SINH. Sự thật minh nhiên đó đã được Thánh Phaolô xác định: “Phn con người là phi chết mt ln, ri sau đó chu phán xét” (Dt 9:27).

Chỉ có một Đấng bị người ta ghen ghét mà giết chết nhưng Ngài lại phục sinh khải hoàn: Đức Giêsu Kitô. Thật là hạnh phúc và cũng thật là “may mắn” vì chúng ta nhận biết Ngài, tôn thờ Ngài là Thiên Chúa thật duy nhất. Vì thế, chúng ta luôn cần Ngài. Nếu cần Ngài thì phải cầu nguyện như Thánh Phaolô ước mong: “Tôi mun rng người đàn ông hãy cu nguyn bt c nơi nào, tay giơ lên tri, tâm hn thánh thin, không gin hn, không xung khc” (1 Tm 2:8). Nói như vậy không có nghĩa là đàn ông mới cần cầu nguyện, mà bất cứ ai cũng cần cầu nguyện – cầu nguyện liên lỉ.

Cầu nguyện là “hơi thở” của con người, cầu nguyện là NÓI VỚI CHÚA, điều này quan trọng hơn là NÓI VỀ CHÚA. Cầu nguyện cũng quan trọng hơn các hoạt động khác. Cầu nguyện liên quan đức tin, vì có tin tưởng mới cầu xin. Thật vậy, học giả Antoine-Frédéric Ozanam (1813-1853, người Pháp) đã xác định: “Chúng ta ch vĩ đi khi chúng ta cu nguyn”. Bác học Louis Pasteur (1822-1895, người Pháp) vẫn miệt mài cầu nguyện bằng Kinh Mai Côi bất cứ ở đâu hoặc lúc nào. Hai con người giỏi giang này đáng để chúng ta xem lại đức tin của mình lắm đấy!

Trình thuật Lc 16:1-13 nói về dụ ngôn “người quản gia bất lương” và cách sử dụng vật chất – cụ thể là tiền bạc. Tiền chỉ là những tờ giấy vô tri vô giác được ghi giá trị bằng những con số do con người quy ước. Cũng 100 đồng, đơn vị hoàn toàn bằng nhau, nhưng giá trị tiền mỗi nước khác nhau xa. Chúng ta phải làm chủ nó, nếu nó làm chủ chúng ta thì sinh nhiều “phiền toái”.

Tiền bạc là thứ cần thiết nhưng đừng để lòng “dính líu” tới nó. Nhóm Pharisêu vì mê tiền bạc mà sống giả nhân giả nghĩa. Thánh Phaolô xác định: “Ci r sinh ra mi điu ác là lòng ham mun tin bc” (1 Tm 6:10).

Người Việt có câu: “Đng tin lin khúc rut”. Đó là thứ “quyền lợi” bất khả xâm phạm. Vì tiền bạc hoặc vật chất mà người ta dám làm mọi thứ, bất chấp tất cả, ngay cả thâm tình huyết thống cũng không đủ sức làm cho người ta “chùng tay” mà nghĩ lại. Thực tế cho thấy đã có những vụ án mạng giữa tình mẹ con, cha con, anh chị em ruột, họ hàng, xóm giềng,…

Thật là đáng sợ! Rõ ràng tiền bạc có mãnh lực làm lệch lạc lý trí của con người, ngay cả các giáo sĩ cũng bị tiền bạc làm nao núng, điên đảo, nếu họ mù quáng trước đồng tiền. Thực tế đã và đang cho chúng ta thấy sự thật phũ phàng như vậy. Có một số linh mục coi xứ chỉ “quen” với những ai cung phụng cho họ. Thiên Chúa rất đau lòng!

Qua ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã nghiêm túc và thẳng thắn nói về các mục tử bất xứng: “Nhng người canh gác Ít-ra-en đui mù hết, chng hiu biết gì; c bn chúng là lũ chó câm, không biết sa, ch mơ mng, nm dài và thích ng thôi. Chúng còn là lũ chó đói, ăn chng biết no. Thế mà chúng li là mc t, th mc t chng biết phân bit gì” (Is 56:10-11). Các câu Kinh Thánh đại loại như vậy khiến người ta khó chịu, tránh né, và họ ghét ai đề cập.

Mục tử mê tiền thì chỉ lo nhàn thân, bỏ mặc đoàn chiên, thậm chí còn “bòn rút” chiên như đỉa hút máu vậy. Người tông đồ đầu tiên vì mê tiền mà hóa đốn hèn là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt. Đó là tấm gương “mờ” nhưng vẫn cần soi vào để có thể nhận biết mình có nhòa nhạt hay không. Ngày nay cũng không thiếu loại mục tử như thế, có khi họ ở ngay bên chúng ta! Loại mục tử này cũng tìm cách tạo “vây cánh” cho mình. Người ta nói ông này hay ông nọ có “gốc gác” TO lắm, MẠNH lắm. Khốn khổ thay cho đoàn chiên nào “bị gặp” loại mục tử dỏm như thế!

Đó là quyền tự do chọn lựa của mỗi người đối với tiền bạc. Thiên Chúa vẫn tôn trọng quyền tự do của họ. Hệ quả tất yếu là điều không thể tránh khỏi! Chúa Giêsu “phục vụ” mà họ “được phục vụ” – ngược với Ngài (Mt 20:28).

Đức Giêsu nói về nhà phú hộ kia có người quản gia lươn lẹo, mánh khóe, qua mặt chủ. Người ta tố cáo với ông chủ về việc anh ta phung phí của cải nhà ông. Ông gọi anh ta đến mà bảo anh ta tính sổ và sa thải anh ta. Vốn tính giao xảo, anh ta tìm mưu kế, vì anh ta nghĩ mình cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi.

Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến. Anh ta hỏi người thứ nhất về món nợ với chủ, người ấy nói là “một trăm thùng dầu ô-liu”. Anh ta bảo người ấy cầm lấy biên lai và viết năm chục. Rồi anh ta hỏi người khác về số nợ, người ấy nói là “một ngàn giạ lúa”. Anh ta cũng bảo người ấy viết lại giấy sợ là “tám trăm giạ lúa”. Biết được thâm kế của tên quản gia bất lương, ông chủ khen anh ta đã hành động khôn khéo. Chúa Giêsu nói rõ: “Con cái đi này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi x s vi người đng loi”.

Ngày nay, người ta giả dối tinh vi lắm. Các công trình vừa được khánh thành chưa được bao lâu đã hư hỏng, tình trạng này người ta gọi là “rút ruột công trình”. Thật không thể tưởng tượng được khi người ta đành lòng làm những cột điện rỗng, vỏ xi-măng mỏng và lót bao ni-lông,… Ông to cắn miếng lớn, ông vừa cắn miếng vừa, chú kia mút cái, chú nọ liếm cái, thế thì tiêu! Ngay cả tiền và đồ cứu trợ còn bị “ăn” thì còn gì để nói nữa chứ? Có bị lộ thì kẻ này đổ lỗi cho kẻ khác: cục đường ăn cả, cục muối chia đôi, quả lựu đạn đùn đẩy cho nhau. Thật khốn nạn!

Nói là vì công ích nhưng thật ra chỉ vì tư lợi. Nhiều cơ sở tôn giáo hoặc nơi tu trì đều bị người ta tìm cách chiếm giữ: Đan viện Thiên An (Huế), Nữ tu viện Phaolô (Hà Nội), Nữ tu viện MTG Thủ Thiêm (Q.2, Saigon),… và mới nhất là Chùa Liên Trì (Q.2, Saigon). Đáng quan ngại hơn là vấn đề môi trường, người ta dám coi rẻ sự sinh tồn của hàng triệu người mà làm ngơ trước cách làm ô nhiễm môi trường của Formosa, và rồi chấp nhận sự bồi thường rẻ mạt: 500 triệu USD. Mà dân nghèo có được đồng bạc lẻ nào không? Người ta thích cách chọn lựa như thế. Tội ác!

Ai cũng phải cố gắng trung tín trong việc sử dụng Tiền Của – cả vật chất và tâm linh. Chúa Giêsu đã khuyến cáo: “Hãy dùng Tin Ca bt chính mà to ly bn bè, phòng khi hết tin hết bc, h s đón rước anh em vào nơi vĩnh cu”. Đó là cách chọn lựa khôn ngoan. Và rồi Ngài lý luận rất cụ thể: “Ai trung tín trong vic rt nh thì cũng trung tín trong vic ln; ai bt lương trong vic rt nh thì cũng bt lương trong vic ln”. Đó là hệ lụy tất yếu vậy!

Tại sao? Chúa Giêsu giải thích bằng cách đặt vấn đề: “Nếu anh em không trung tín trong vic s dng Tin Ca bt chính thì ai s tín nhim mà giao phó ca ci chân tht cho anh em? Và nếu anh em không trung tín trong vic s dng ca ci ca người khác thì ai s ban cho anh em ca ci dành riêng cho anh em?”.

Lời Chúa luôn cụ thể, ngắn gọn mà súc tích, nhẹ nhàng mà nhức buốt, dễ hiểu mà cũng khó hiểu – vì người ta cố ý tránh né và không muốn hiểu: “Không gia nhân nào có th làm tôi hai ch, vì hoc s ghét ch này mà yêu ch kia, hoc s gn bó vi ch này mà khinh d ch n. Anh em không th va làm tôi Thiên Chúa, va làm tôi Tin Ca được”.

Ngày nay người ta coi trọng bề ngoài, đề cao vật chất, đó là dấu hiệu nhắc nhở chúng ta về điều vô cùng quan trọng: Thời Cuối Cùng, Thời Cánh Chung, Ngày Tận Thế. Ngoài vấn đề mê tiền ham của, Thánh Phaolô cho biết thêm nhiều dấu hiệu khác: “Người ta s ra ích k, ham tin bc, khoác lác, kiêu ngo, nói lng ngôn, không vâng li cha m, vô ân bc nghĩa, phm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhn, nói xu, thiếu tiết đ, hung d, ghét điu thin, phn trc, nông ni, lên mt kiêu căng, yêu khoái lc hơn yêu Thiên Chúa; hình thc ca đo thánh thì h còn gi, nhưng cái chính yếu thì đã chi b” (2 Tm 3:2-5).

Ly Thiên Chúa, xin giúp con biết chp nhn và biết cách qun lý nhng gì con được s hu t cách làm vic lương thin. Con cu xin Ngài tha th nhng khi lòng con hướng v vt cht, xin thương cho con được hóa đá và được nm trong Núi Đá Ngài mãi mãi. Con cu xin nhân danh Thánh T Giêsu, Đng cu đ nhân loi. Amen.

Về mục lục

.

DÙNG CỦA CẢI PHÙ DU ĐỂ MUA MỘT CHỖ Ở VỮNG BỀN

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Người quản lý trong Tin mừng hôm nay, khi biết chủ sắp sa thải mình và biết rằng lúc đó thì anh không còn nơi nương tựa, không còn cơm ăn áo mặc như xưa nay, nên anh nghĩ ra một diệu kế:

Anh khôn khéo gọi các con nợ của chủ đến, dùng quyền hạn chủ trao cho mình, tha bớt phần nợ cho họ. Khi làm như thế, anh hy vọng mai đây, khi anh bị đuổi việc, những con nợ nầy sẽ đền ơn anh và sẽ đón rước anh vào nhà họ.

Hành động khôn khéo nầy cũng đã được một người khác thực hiện và đã được ghi lại trong sách xưa như sau:

Thời Chiến Quốc, tại Nước Tề có một vị tướng quốc tài hoa lỗi lạc là Mạnh Thường Quân. Ông là người giàu có, lại có lòng nghĩa hiệp, hào phóng với hết mọi người. Trong nhà lúc nào cũng tấp nập khách thập phương thăm viếng, chuyện trò, ăn uống. Danh tiếng Mạnh Thường Quân vang khắp các lân bang thời ấy.

Một hôm, Mạnh Thường Quân sai một người bạn tên là Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi lên đường, Phùng Nguyên hỏi Mạnh Thường Quân rằng : “Ngài có muốn tôi mua thứ gì bên đó về cho ngài không?” Mạnh Thường Quân trả lời : “Ngươi xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.”

Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên triệu tập các con nợ của Mạnh Thường Quân lại và yêu cầu họ xuất trình giấy nợ. Sau khi nắm được số liệu giấy tờ, thay vì đòi họ thanh toán hết tiền gốc tiền lãi, Phùng Nguyên nhân danh Mạnh Thường Quân tuyên bố tha hết nợ cho dân và truyền cho các đầy tớ đem tất cả giấy nợ ra đốt sạch.

Thế là trong phút chốc, bao nhiêu nợ nần xưa nay biến tan theo làn khói; tất cả các con nợ thở phào nhẹ nhõm và ghi tâm khắc cốt ân đức của Mạnh Thường Quân.

Mấy hôm sau, thấy Phùng Nguyên trở về tay không, Mạnh Thường Quân hỏi: “Nhà ngươi đã thu được bao nhiêu tiền nợ? Đã mua được thứ gì?”

Phùng Nguyên trả lời : “Theo thiển ý của tôi thì trong nhà của ngài chẳng thiếu gì cả, có chăng là thiếu ơn nghĩa dành cho người túng cực mà thôi. Chính vì thế, tôi đã trộm phép ngài để mua ơn nghĩa cho ngài. Tôi hy vọng là ngài sẽ rất hài lòng.”

Về sau, Mạnh Thường Quân bị hàm oan và bị bãi quan, phải về nương náu tại đất Tiết. Dân chúng nơi đây nhớ ơn vị đại ân nhân đã tha nợ cho họ năm xưa, rủ nhau ra đón rước thật tưng bừng và thân mật. Mạnh Thường Quân vui sướng quay lại nói với Phùng Nguyên: “Nhà ngươi xem, chắc hẳn đây là cái ơn nghĩa mà trước đây nhà ngươi đã mua giùm cho ta!”

Dù hôm nay tôi cố hết sức bám trụ vào mặt đất nầy bằng cách củng cố thật vững địa vị của tôi, nắm ghì thật chặt chiếc ghế của tôi, ra sức thu gom thật nhiều tiền bạc, tài sản, ruộng vườn… thì mai đây, tôi cũng sẽ bị bứt ra khỏi cuộc đời nầy như chiếc lá lìa cành trong cơn lốc dữ…

Tất cả những gì tôi mua sắm được hôm nay, người khác sẽ sử dụng. Những gì tôi đang sở hữu sẽ thuộc về người khác… Còn lại gì cho tôi?

Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su dạy phải lấy của cải phù du để đổi lấy tài sản tồn tại muôn đời và biết tận dụng những gì hiện có để mua sắm cho mình một nơi cư ngụ vĩnh cửu trên thiên quốc. Cụ thể là hãy dùng những ân huệ Chúa ban cho ta quản lý như sức khoẻ, thời giờ, tài năng, trí tuệ, tiền bạc… để mua nghĩa, mua bè bạn, mua lấy một chỗ ở trong Nước Trời, bằng cách tận dụng những “tài sản” nầy để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.

Người tôi tớ bất lương trong Tin mừng hôm nay quả là rất khôn ngoan khi biết lợi dụng tài sản mà anh được người chủ trao cho quản lý tạm thời để mua lấy bạn hữu và mua lấy nơi ăn chốn ở cho mình trong những ngày khốn đốn.

Phùng Nguyên cũng đã rất khôn khéo khi dùng tiền bạc của Mạnh Thường Quân để mua ơn, mua nghĩa cho bạn của mình, nhờ đó mà sau nầy ông cùng Mạnh Thường Quân được hưởng phúc trong lúc sa cơ.

Phúc thay cho những người có tầm nhìn xa. Họ như thuyền trưởng phát hiện được tảng băng từ xa, nên có đủ thời giờ quay mũi tàu thoát hiểm. Họ như người săn tìm ngọc quý, bán đi những gì tầm thường mình có để mua cho bằng được một viên ngọc tuyệt vời.

Lạy Chúa, xin cho Lời khôn ngoan của Chúa đánh thức chúng con khỏi mê đắm những thứ phù phiếm đời nầy và biết khôn ngoan đánh đổi những thứ phù du để thu về những điều vĩnh cửu.

Về mục lục

.

KHÔN NGOAN CỦA CON CÁI SỰ SÁNG

Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh

Chúng ta vừa kỷ niệm tròn 15 năm, chủ nghĩa khủng bố tấn công nước Mỹ, giết chết gần 3.000 người cùng lúc (11.9.2001 – 11.9.2016). Kể từ đó đến nay, khủng bố như bóng ma kinh hoàng ám ảnh nhân loại.

Mạng lưới khủng bố ngày càng mạnh, càng lan rộng nhiều vùng, nhiều quốc gia và càng tấn công nhiều nơi trên thế giới hơn. Hành động của chúng táo tợn hơn, tàn bạo hơn. Chúng điên cuồng và hăng máu hơn. Chúng tấn công bất kể người đó là ai, cho dù trẻ con hay phụ nữ. Đối với chúng, càng sát hại được nhiều, càng gây tiếng vang lớn, càng làm cho mọi người hoang mang, càng thành công.

Những kẻ  ấy là ai? Đó là những kẻ rất khôn ngoan, biết suy nghĩ, khả năng tính toán rất cao. Vì thế họ biết cách chọn lựa những phương án hành động tội ác, nhưng kín đáo, không ai có thể phát hiện. Rất tiếc sự khôn ngoan ấy đã bị lạm dụng, đã đặt sai chỗ, vì thế trở nên quá nguy hiểm cho nền hòa bình của thế giới, nguy hiểm cho sự sống của con người.

Trong đời sống thường nhật, chúng ta vẫn nghe nhiều đến sự khôn ngoan. Một người ăn nên làm ra, người ta bảo anh ta khôn ngoan. Ai đó ăn nói lợi khẩu, nói những lời duyên dáng, khoan thai, nói những lời hay, ý đẹp không làm phật ý người nghe, họ được gọi là khôn ngoan.

Hay ai đó có thể đoán biết ý đồ xấu của người khác, và tránh né được sự hãm hại dành cho mình, cũng là người khôn ngoan. Một em học sinh khôn ngoan biết chăm lo cho việc học tập của mình, học ngày một tiến tới. Ngay cả một người giỏi mánh khóe, xu nịnh, làm giàu bằng móc ngoặc, ăn cắp của công, hối lộ, tham nhũng… cũng được gọi là khôn ngoan.

Cũng vậy, hôm nay trong dụ ngôn Người quản lý, một bên Chúa Giêsu gọi anh ta là bất lương, bên kia Chúa cũng dùng một kiểu nói mà thói thường người đời vẫn nói: Đó là gọi người quản lý bất lương kia đã hành động khôn khéo. Vì anh ta đã sử dụng trí thông minh, sự gian dối, xảo quyệt của mình để hưởng lợi, để thỏa mãn những tính toán vụ lợi cho riêng mình.

Ở đây có một vấn đề được đặt ra là: Vậy Chúa khen ngợi người quản lý bị coi là bất lương ấy? Bởi đó cũng sẽ là bài học cho chúng ta? Chắc không ai ngây thơ đến nổi nghĩ như thế. Vì ngay sau đó, Chúa Giêsu đã phân biệt rạch ròi: “con cái thế gian” và “con cái sự sáng”.

Đã gọi là con cái thế gian, nó chẳng bao giờ thuộc về thế giới của con cái sự sáng, nhưng nó chỉ thuộc về cuộc đời này, đi xa hơn, nó tắm mình và chìm đắm trong cuộc đời này. Vì thuộc về thế gian, con cái thế gian sẽ giỏi mọi ngóc ngách, mọi luồn lách để có thể có được càng nhiều, càng tốt những bảo đảm cho bản thân khi sống trong cuộc đời này.

Bởi vậy, nếu chỉ nhìn về phía thế gian với một tâm hồn chỉ toàn chiếm hữu, vụ lợi, ích kỷ…, thì đúng là “con cái thế gian khôn ngoan hơn con cái sự sáng”.

Phân biệt rạch ròi giữa “sự sáng” và “thế gian” cho thấy sự tối tăm của thế gian là đêm tối giăng mắc đầy hiểm nguy. Làm sao bóng tối ấy lại có thể là bài học cho chúng ta!

Chúa Giêsu cũng không khen ngợi việc làm bất lương của người quản lý. Đúng hơn, Chúa chỉ nhắm đến việc sử dụng trí thông minh, sự khôn ngoan sao cho phù hợp, đúng nơi, đúng lúc, nhằm mang lại hiệu quả tốt nhất cho đời sống của mình.

Trên hết, ta phải hiểu đây là một so sánh, Chúa đưa ra để giúp ta chọn lựa thái độ sống theo đòi hỏi của đức tin. Vì nếu con cái thế gian dùng sự khôn ngoan của nó để sống, thì con cái của ánh sáng hãy dùng sự khôn ngoan trong đức tin để đạt đến sự sống đời đời.

Vậy, qua câu chuyện người quản lý bất lương, Chúa kêu mời chúng ta rút ra từ đó những ý nghĩa, những bài học cần thiết cho đời sống đức tin của mình. Vì có khi đổ vỡ của người khác, ngay cả tội lỗi của chính mình hay của ai đó, cũng có thể là bài học kinh nghiệm cần thiết cho chúng ta sống tốt hơn, đến gần Chúa hơn, biết xa tránh mọi dịp tội hơn. Vì nếu chiếc xe trước đã đổ trên lối mòn, thì xe sau phải tìm lối khác mà đi cách đường hoàng hơn, an toàn hơn.

Đó là sự khôn ngoan. Đó cũng chính là “con cái của sự sáng”. Vì sự khôn ngoan của con cái sự sáng là luôn biết nhận ra chính mình, để không bao giờ tự biến mình thành mối nguy cho mình hay cho anh chị em.

Còn hơn thế, sự khôn ngoan của con cái sự sáng sẽ dẫn họ đi trên con đường có tên Giêsu để mỗi ngày tự hoàn bị mình nhờ chính mẫu gương sống của Chúa Giêsu và Lời Người dẫn lối. Tắt một lời, sự khôn ngoan của người tín hữu Kitô là đi trên Chính Lộ mà chính Chúa Giêsu đã vạch ra.

Chính Lộ ấy, sự khôn ngoan ấy là một lối sống được tóm gọn trong Tám mối Phúc thật như sống nghèo khó, hiền lành, chấp nhận Thánh giá, khao khát sự công chính, thương yêu anh chị em, giữ tâm hồn thanh sạch để sống thánh thiện, biết gây bầu khí hòa bình, chấp nhận mọi thử thách vì lòng yêu mến Chúa. Đi trên chính lộ do chính Chúa Giêsu khai mở, ta sẽ chẳng bao giờ phải lo lạc lối.

Bạn thân mến, là Kitô hữu, bạn và tôi có chính đời sống của Chúa Kitô làm mẫu mực và có chính Lời của Người làm chuẩn mực cho mọi suy nghĩ, hành vi, lối sống của mình. Bởi vậy, vì là Kitô hữu, sự khôn ngoan của bạn và tôi, không phải là sự không ngoan mà ta vẫn nghe thấy trong đời thường quanh mình, càng không thể chấp nhận thái độ chỉ chọn lựa sống khôn ngoan theo thói đời mà làm cho đời sống đức tin trở thành tăm tối.

Sự khôn ngoan của Kitô hữu chỉ có một con đường, đó là ướm mình theo khuôn mẫu của đời sống Chúa Kitô và sống theo Lời Người dạy mà tám mối phúc thật là bảng tóm gọn của những lời dạy ấy.

Từ những hình ảnh cụ thể của tội ác khủng bố, đến hình ảnh của một người khéo vun quén cho đời sống trần gian của mình mà Chúa Giêsu cho thấy trong vụ ngôn Người quản lý bất lương, chúng ta rút ra bài học đáng giá cho mình: sự khôn ngoan của người tín hữu là trở nên giống Chúa Kitô để được Thiên Chúa yêu thương, đón nhận.

Bạn ạ, đời sống Kitô hữu có một nỗi giằng co lớn lắm. Đó là vì ta cũng giống như anh chị em mình: rất say mê cuộc đời, say mê không thua bất kỳ ai. Nhưng ta cũng lại rất say mê vĩnh cửu, say mê đến tận cùng.

Bởi vậy chúng ta hãy làm sao để có thể gặp cái vĩnh cửu trong cái mau qua; vui chơi như mọi người nhưng vẫn tìm niềm vui thiên quốc; làm việc và sống trong cuộc đời, nhưng cũng thăng tiến Nước Trời trong chính cuộc đời ấy.

Sự khôn ngoan của chúng ta, những người Kitô hữu đó là sự khôn ngoan biết để Chúa đi vào toàn bộ cuộc đời mình.

Về mục lục

.

KHÔN NGOAN ĐÍCH THỰC

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Có người khôn “lỏi”. Có người khôn mà không “ngoan”, khôn mà không được người khác thương. Có người ngây thơ như thể là dại, nhưng lại được nhiều người thương. “Ai khôn thời dại, ai dại thời khôn”. Sự khôn ngoan đích thực hệ tại đâu?

Khôn theo kiểu thế gian

Người quản lý trong dụ ngôn Đức Yêsu kể, thật là khôn theo kiểu thế gian. Anh ta toan tính và cư xử rất khéo và có lợi cho anh ta. Anh ta được lợi ngay trước mắt, sẽ được người ta đón tiếp một khoảng thời gian nào đó; nếu tiếp tục để tồn tại, anh ta phải toan tính làm những điều không lương thiện tương tự, để có thể sống mà không cần phải làm việc. Nhưng, anh ta có thật sự hạnh phúc không? Một người lương thiện có thể coi anh ta là người bạn chân thành không? Nếu tất cả mọi người đều lợi dụng lẫn nhau, và khi không còn lợi cho mình nữa, thì chấm dứt mọi tương quan. Nếu cuộc sống chỉ là vậy, có chi là hạnh phúc!

“Còn bạc còn tiền còn đệ tử, hết cơm hết gạo hết ông tôi”. Những người khôn kiểu này, người Việt Nam mình gọi là khôn lỏi, khôn mà không ngoan, khôn mà dại. Có nhiều người trong cuộc sống, vẫn chọn và hành xử theo kiểu khôn ngoan này. Họ vẫn chọn tiền bạc, mua bán đổi chác trong mọi chuyện, kể cả tình yêu. Có nhiều bậc cha mẹ vô tình hay hữu ý vẫn khuyến khích con mình khôn ngoan theo kiểu “dại” như vậy.

Khôn ngoan đích thực

Người khôn ngoan đích thực, phải là người thấy được điều lợi không phải ngay lúc này, nhưng còn cả ở tương lai xa nữa. Thứ ba vừa qua khủng bố đã xảy ra ở New York làm chết trên dưới năm ngàn người. Sống trong một nước văn minh, con người làm chủ những luật lệ thiên nhiên, biết thời tiết nắng mưa, nóng lạnh gần như chính xác, thấy được những biến chuyển của những cấu trúc và thiết bị nhân tạo. Con người gần như cảm thấy an toàn, làm chủ tất cả. Biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001, làm con người run sợ. Cái chết có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Con người run sợ trước sự dữ con người làm cho nhau. Sự khôn ngoan đích thực hệ tại đâu? Được gì nếu cái chết xảy đến ngay cả khi mình giầu sang quý phái nổi tiếng? Ở trên ngôi nhà cao, nổi tiếng, vẫn là điều làm người ta vinh dự; lúc tai nạn xảy ra, toà nhà nổi tiếng đó trở thành mối hoạ, sống trên đó lại là cái hại khủng khiếp.

Khôn chết, dại chết, biết cũng chết. Sự khôn ngoan đích thực không phải chỉ toan tính cho ở đời này. Nếu chết là hết, toan tính ở đời này là đủ; nhưng chết không phải là hết, mà là khởi đầu một đời sống mới vĩnh cửu, mà nếu không chuẩn bị cho cuộc sống đó, mà chỉ lo cuộc sống đời này, thì quả là dại. Khôn ngoan đích thực, là sống theo luật yêu thương của Đức Yêsu trong cuộc sống thường ngày. Khôn ngoan đích thực, làm con người sống hạnh phúc trong đời sống mai hậu và ngay trong cuộc sống này.

Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ

Thiên Chúa là Đấng muốn mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. Thiên Chúa muốn mọi người nhận biết Ngài yêu thương con người, để khi nhận biết Ngài yêu thương con người, con người được tự do và hạnh phúc. Thiên Chúa không muốn sự dữ, không muốn con người đau khổ.

Đau khổ và sự dữ do con người gây ra cho nhau. Biến cố cướp máy bay và cố tình gây ra thật nhiều cái chết, làm nhiều người đau khổ. Và sự dữ này kéo theo sự dữ khác, chẳng hạn muốn báo thù, muốn hủy diệt sự dữ bằng sự dữ khác.

Khôn ngoan đích thực, là chính thái độ sống yêu thương mà Đức Yêsu đã dạy con người bằng chính cuộc sống của Ngài. Sự khôn ngoan đích thực không phải là bài học lý thuyết con người có thể học được trong vài phút, nhưng là chính cuộc sống của mỗi người. Trên thập giá, Đức Yêsu cầu nguyện: “xin Cha tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết”. Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá, kiên nhẫn chịu đựng những bất công người ta gây ra cho con mẹ. Cách sống của Đức Yêsu và Đức Mẹ, là cách sống làm con người sống bình an hạnh phúc. Sự dữ kéo theo sự dữ, làm con người luôn sống trong bất bình an. Tha thứ, cầu nguyện cho người ghét mình, làm con người được bình an tận trong lòng, và giúp kẻ làm ác có cơ hội thống hối. Đức Yêsu và những môn đệ của Ngài đã không lấy ác báo ác, nhưng lấy tình thương đáp trả sự dữ. Đây là cách hành xử của những người tuyệt vời. Khôn ngoan đích thực được thể hiện trong cuộc sống với những hành vi cụ thể cho dù nhỏ bé.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Điều gì làm cho bạn khổ nhất? Tại sao vậy?
  2. Con người có thể sống hạnh phúc không? Khi nào?
  3. Đức Yêsu và Đức Mẹ có hạnh phúc ở đời này không? Xin trình bày quan điểm của bạn cho người khác!

Về mục lục

.

KHÔN DẠI CÕI TẠM

AM. Trần Bình An

Warren Buffett từng nói: “Tôi chỉ ngồi trong văn phòng và đọc suốt ngày.” Ông ước tính đã dành khoảng 80% một ngày làm việc để đọc và suy nghĩ. Khi được hỏi làm thế nào để khôn ngoan hơn, Buffett từng đưa ra một chồng giấy và nói: “Hãy đọc 500 trang như thế này mỗi ngày. Đó là cách mà kiến thức hình thành, giống như lãi kép.”

Tờ The Omaha World-Herald viết: “Khi bắt đầu công việc đầu tư, ông ấy thậm chí còn đọc tới 600, 750 trang, thậm chí là 1.000 trang mỗi ngày.” Nhưng cách bạn đọc cũng là một vấn đề. Bạn luôn phải phản biện và động não. Bạn cần phải có chính kiến. Buffett từng nói rằng công việc của ông là thu lượm thông tin, đôi khi xem xét xem liệu thông tin đó có dẫn tới hành động nào không.

Lấy đâu ra thời gian để đọc? Đó là trích ra khoảng 1 giờ trong thời gian biểu để dành riêng cho bản thân. Trong một bài phỏng vấn cho tờ The Snowball, Buffett đã kể một câu chuyện: Charlie, một luật sư còn rất trẻ, có thể kiếm được 20 USD/ giờ. Và ạnh đã tự hỏi rằng: “Ai sẽ là khách hàng đáng giá nhất của mình?” Rồi anh quyết định người đó chính là bản thân. Vì thế, anh đã bán cho chính mình một giờ mỗi ngày. Cứ mỗi sáng sớm, anh lại dành một giờ đó để nghiên cứu các dự án xây dựng và các thương vụ bất động sản. Ai cũng nên là khách hàng của chính mình, bán cho bản thân một giờ mỗi ngày, rồi sau đó làm việc cho người khác.”

Tuy nhiên, đọc thôi chưa đủ. Chẳng có ai không đọc nhiều mà lại khôn ngoan cả. Bạn phải có tinh thần tiếp thu các ý tưởng và xét đoán. Một cách khác để khôn ngoan hơn ngoài việc đọc sách, là hãy giao lưu với những người không ngại phản biện lại ý tưởng của bạn. (Nguyễn Thảo, Warren Buffett làm gì để khôn ngoan hơn mỗi ngày? Business Insider)

Sự khôn ngoan của tỷ phú Warren Buffett làm giàu đời này, có thể nêu gương sáng cho tín hữu Kitô học cách làm giàu đời sau. Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu kêu gọi mọi người hãy trở nên người quản lý trung tín và khôn ngoan.

 Lectio Divina 

Thay vì chúi mũi theo dõi, nghiên cứu, các chỉ số chứng khoán Dow Jones, Nasdaq, Nikkei, Eur,…nhấp nháy, trồi sụt trên Phố Walls, thì người Kitô hữu cảo thơm lần giở trước đèn, tìm đọc Lời vàng ý ngọc cao quý, luôn cập nhật. “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.” (Lc 4, 22)

Hiện nay, Giáo Hội đang tích cực cổ suý tất cả thành phần dân Chúa thực hiện Lectio Divina. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II giải thích cặn kẽ: “Cách đặc biệt, việc lắng nghe Lời Chúa cần phải trở nên một cuộc gặp gỡ đầy sức sống, theo truyền thống xa xưa, những vẫn còn hiện đại của Lectio Divina, cho ta rút ra từ bản văn Kinh Thánh, một lời sống động chất vấn, hướng dẫn và đào luyện cuộc sống.” (Tông thư Bước Vào Thiên Niên Kỷ mới, 2001) 

Lectio Divina bắt đầu bằng việc ĐỌC (lectio) đoạn Kinh Thánh, gợi lên một câu hỏi, nhằm hiểu biết chính xác nội dung đích thực của đoạn văn, tự nói lên điều gì? 

Sau đó là SUY GẪM (meditatio) đặt câu hỏi: Đoạn Kinh Thánh nói gì với chúng ta? 

Tiếp đến là CẦU NGUYỆN (oratio) đưa ra một câu hỏi khác: Đáp lại Lời Chúa, chúng ta nói gì với Chúa? 

Sau cùng là CHIÊM NIỆM (comtemplatio) để phán đoán về thực tại, chúng ta nhìn bằng chính cái nhìn của Thiên Chúa, như một hồng ân Chúa ban. Chúng ta tự hỏi: Chúa yêu cầu chúng ta hoán cải trí, lòng và cuộc sống thế nào? (Sứ điệp Thượng Hội Đồng GM khoá XII, Lời Chúa trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội)

Lời Chúa luôn mãi hữu ích, sáng giá, cập nhật, viên mãn, bất biến và vĩnh cửu, không bao giờ xa xưa, cũ kỹ, lạc hậu: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những Lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.” (Lc 21, 33)

Tóm lại, Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi (Tv 119, 105). Ai nghe và đem thực hành Lời Chúa là đầu tư khôn ngoan, dẫu thế gian mãi chê bai, là dại khờ.“Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe Lời Tôi và tin vào Ðấng đã sai Tôi, thì có sự sống đời  đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống.(Ga 5, 24)

Hãm mình

Warren Buffett ước tính đã dành khoảng 80% một ngày làm việc để đọc và suy nghĩ. Không buông mình hưởng thụ lạc thú do tiền tài đem lại, luôn giam mình trong văn phòng, vắt kiệt sức lực, khả năng, luôn hăng say tìm kiếm, tái đầu tư vào những lãnh vực tiềm năng. Tài sản Warren Buffet không ngừng tăng từng ngày.

“Thời cùng tận của vạn vật gần đến rồi. Anh em hãy sống chừng mực và tiết độ để có thể cầu nguyện được.” (1Pr 4, 7) Vậy, người Kitô hữu cũng khôn ngoan noi theo gương chiến đấu bản thân, chẳng dại dột, xung phong làm nô lệ cho bản năng, xác thịt, tiền tài, cám dỗ vị kỷ, ảo ảnh phù phiếm. Chỉ có thể trục xuất ma thiêng quỷ dữ ra khỏi tâm khảm bằng vũ khí cực kỳ tiến bộ, lợi hại. Đó chính là bom tấn ăn chay, cầu nguyện, khấn xin Chúa Thánh Thần không ngừng trang bị, trợ lực chiến đấu.“Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện.”(Mt 17, 21)

Cho đi

Năm 2015, Warren Buffett đã tặng khoảng 2,84 triệu USD cổ phiếu của Berkshire Hathaway cho Qũy Bill and Melinda Gates Foundation, một quỹ từ thiện tập trung vào cải thiện vấn đề chăm sóc sức khỏe, giáo dục và xóa đói giảm nghèo. Tuy con số đóng góp vào từ thiện khá ấn tượng, nhưng đó chỉ là số lẻ nhỏ nhoi, so với thu nhập cả năm của tỷ phú Buffet. Người theo Đức Kitô không chỉ đóng góp của thặng dư, mà còn cần cho đi hơn nữa, như chia sẻ cả miếng bánh hàng ngày của mình với tha nhân. Thay vì tích luỹ tài sản, nô lệ cho lòng tham vô độ, thì chia sẻ, biếu, tặng, cho đi của cải, để tích luỹ tài khoản ở Ngân hàng Thiên Quốc, luôn hoạt động 24/7,“nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi.” (Mt 6, 20)

 “Quả vậy, trong Đức Kitô Giêsu, anh em đã trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe Lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người.” (1Cr 1, 5) Một khi đã thấm đậm Tin Mừng, cùng đem thực hành, người Kitô hữu chẳng còn nghèo nàn tình thương, không còn vô cảm với tha nhân cùng cực, đau khổ, không còn vị kỷ, cũng chẳng còn chịu giam hãm trong bản thân hẹp hòi, đố kỵ, ganh ghét, gian dối, mà sẵn sàng cho đi tất cả, đến cả mạng sống. 

Do vậy, cho đi, khoan dung, tha thứ, yêu thương còn là một mối quan trọng trong Bát Phúc: “Phúc cho những người biết xót thương, vì họ sẽ được thương xót.” (Mt 5, 7) Thánh Phaolô đã tâm sự với các kỳ mục tại Hội Thánh Êphêsô về vấn đề yêu thương cho đi: “Tôi luôn tỏ cho anh  em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ Lời Chúa Giêsu đã dạy: Cho thì có phúc hơn là nhận.” (Cv 20, 35)

“Con đừng hoài nghi lúc thấy đường hy vọng vắng bóng những người mà thế gian cho là khôn ngoan. Chúa Giêsu đã báo trước: “Lạy Cha, con đội ơn Cha vì Cha đã ẩn dấu những điều này cho những người thông minh, khôn ngoan và Cha đã bày tỏ cho kẻ thấp hèn.” Con chỉ cảm tạ Chúa, vì đã ban cho con biết sự khôn ngoan thật.” (Đường Hy Vọng, số 551)

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con tránh say mê tích luỹ tài sản trần thế, mà luôn tích cực quan tâm tích luỹ tài sản trên trời, qua sự chỉ bảo của Tin Mừng.

Khấn xin Mẹ cầu bầu, nâng đỡ, giúp sức chúng con trở nên người quản lý trung tín và khôn ngoan. Xin Mẹ luôn nhắc nhủ chúng con siêng năng cầu nguyện, cũng như biết hãm mình, yêu thương tha nhân, cùng sẵn sàng cho đi mọi sự. Amen.

Về mục lục

.

SỬ DỤNG TIỀN BẠC CHO ĐÚNG

An Phong

Tin mừng Chúa Nhật 25 Thường Niên C là dụ ngôn về người quản lý bất lương, bị ông chủ đòi tính sổ và không còn được làm quản lý nữa. Nhưng người quản lý này đã khôn ngoan và táo bạo để toan tính cho tương lai sắp tới của mình: gọi các con nợ đến và giảm nợ. Ông chủ đã khen ngợi hành vi đó. Tiếp đến, Đức Giêsu đưa ra những lời khuyên thực tế về việc sử dụng tiền bạc thế nào cho đúng: để mưu cầu hạnh phúc đời đời.

Đức Giêsu luôn gây những điều bất ngờ và nghịch lý. Những dụ ngôn “nghịch lý” như: Vị quan tòa bất chính (Lc 18,1-8), Người phú hộ ngốc nghếch (Lc 12,16-21), Người tá điền sát nhân (Mt 21,33-43)… đã minh chứng điều này. Dường như Đức Giêsu nhận ra những yếu đuối, thiếu sót và cả những “hào nhoáng” trong những nhân vật được xem là đáng kính trọng? Dường như có một chút hài hước và cay đắng đối với những người được xem là “đạo đức”? Điều này xem ra làm cho những người nghe Người bị sửng sốt. Thực vậy, khi đến trần gian, Đức Giêsu thường “bầu bạn” với những người tội lỗi. Người đến để cứu vớt những người tội lỗi. Như Thiên Chúa đã sáng tạo con người bằng bụi đất, và khi làm như thế Người chẳng sợ “dơ tay”, thì Đức Giêsu sẽ tái tạo nên một nhân loại sáng ngời, mới mẻ từ giữa những người tội lỗi. Điều này thể hiện lòng nhân từ của vị Thiên Chúa đến với con người.

Nhưng nhất là trong hoàn cảnh quyết liệt và bi đát, lòng nhân từ này vẫn rộng mở và gây nhiều ngạc nhiên. Dụ ngôn người quản lý bất lương là một tiêu biểu.

Người quản lý trong dụ ngôn này gây ngạc nhiên cho chúng ta, bởi lẽ anh ta bất lương, không trung thực trong việc quản lý của mình. Anh ta đã phải nhận lấy thảm họa cho chính mình. Anh đã biết sử dụng những “mánh khóe” và những quyết định tức thời để toan tính cho tương lai của mình trong một hoàn cảnh bi đát như thế. Điều ngạc nhiên hơn nữa là ông chủ đã khen ngợi cách hành xử của người quản lý này. Ông chủ đã thể hiện lòng nhân từ vượt quá lẽ thường tình. Theo lẽ thường, ông chủ sẽ tức giận, và không đồng ý lối giải quyết của người quản lý bất lương như trong câu chuyện.

Như thế, khi chúng ta phải đương đầu với những hoàn cảnh bi đát, bị loại trừ, chúng ta hãy dám hành xử một cách “táo bạo” và “sáng suốt” để mưu cầu hạnh phúc vĩnh cửu cho mình, như người quản lý đã làm.

Lối hành xử táo bạo và sáng suốt này nghĩa là sao? Là dám tin tưởng vào lòng nhân từ vượt quá lẽ bình thường của Thiên Chúa. Là nghĩ đến tương lai và mưu cầu hạnh phúc đời đời cho chính mình. Là luôn hy vọng và cậy trông dù trong hoàn cảnh bi đát nhất.

Những lời giáo huấn của Đức Giêsu về cách sử dụng tiền bạc: “Tiền bạc là một ông chủ xấu, nhưng lại là một đày tớ tốt”. Tiền bạc được nói ở đây được xem như là đại diện những thực tại trần thế vốn chẳng tốt cũng như chẳng xấu; nó tốt hay xấu là tùy người sử dụng.

Người kitô hữu không “từ chối” tiền bạc nhưng biết cách “từ chối” phục vụ chúng, coi chúng như là một ông chủ. Chỉ có một đời sống nhưng với hai phương diện khác nhau: một là trong tương quan với Thiên Chúa hoặc đời sống tâm linh (cầu nguyện cá nhân, tham dự thánh lễ…), và một là trong tương quan với đời sống thường ngày (công ăn việc làm, nghỉ ngơi, giải trí…). Nhưng hai đời sống này (tâm linh và thường ngày) chỉ là một, chúng tác động lẫn nhau. Điều quan trọng là cách thế hành xử đặt Thiên Chúa lên trên hết, là định đúng bậc thang giá trị của mọi thực tại trần thế.

Như thế người kitô hữu tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, đồng thời cũng “táo bạo” và “sáng suốt” để đạt cho được hạnh phúc vĩnh cửu. Hơn nữa, tìm kiếm Nước Thiên Chúa nhưng không xao lãng việc xây dựng xã hội trần thế.

Lạy Chúa Giêsu,

Người là Đấng Cứu thế khoan dung và nhân từ.

Là ánh sáng chiếu vào đêm tối chúng con.

Là bạn của con người. Chúa không chê ghét một ai.

Trái tim Người không khép kín

trước những toan tính ích kỷ của con người.

Xin cho chúng con tình yêu,

lòng thương xót và dịu hiền của Chúa.

Về mục lục

.

HÃY BIẾT LO CHO TƯƠNG LAI

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Cần biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa bằng những việc bác ái.

Ngày nay, chúng ta nhận thấy rất nhiều người dùng tiền để mua chuộc, để thăng quan tiến chức; hay có những người giàu vì làm ăn bất chính, nên họ thường rửa tiền để tránh sự dòm ngó của người khác. Những người như thế thường bị xã hội lên án vì hành động bất nhân của họ. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu kể dụ ngôn “Người quản gia bất trung” đã làm thiệt hại cho ông chủ, nên đã bị ông chủ thải hồi. Nhưng, mặt khác, Chúa Giêsu lại khuyên họ hãy học theo gương người quản gia, vì ông ta đã biết dùng tiền của bất chính để mua chuộc bạn hữu, đã biết lo cho tương lai vận mệnh của mình. Phải chăng Chúa khen và cổ súy cho hành vi sai trái này của người quản gia? Vậy, nếu điều đó là tốt thì tốt ở chỗ nào? Và, nếu sai thì sai ở đâu? Chúng ta cùng nhau suy niệm.

  1. Người quản gia bất trung là ai?

Thoạt đầu, mới nghe dụ ngôn này, chúng ta rất dễ bị hiểu lầm. Tuy nhiên, chúng ta cần phải đặt mối tương quan của chúng ta vào toàn bộ tổng thể bản văn, cũng như văn hóa của người Dothái thời bấy giờ, thì mới hiểu được ý Chúa muốn dạy chúng ta điều gì!

Với người Do thái thời bấy giờ, có nhiều người giàu có, họ thường lắm đồn điền ở nhiều nơi. Ông chủ không thể hiện diện cùng lúc tại nhiều chỗ được, vì thế, họ thường đặt những quản gia để trông nom kho lẫm và thay mặt mình để quản lý, điều hành mọi công việc.

Như vậy, người quản gia có một thế giá rất đặc biệt trong e kíp lãnh đạo. Ông chỉ đứng đằng sau chủ của ông; và có quyền thay mặt cũng như đại diện ông chủ khi ông vắng nhà; đồng thời có toàn quyền sắp xếp công việc cho những người làm công. Tuy nhiên, ông ta không có lương như những người làm công bình thường, ông ta chỉ có quyền thu xếp công việc và tìm cách làm lợi cho ông chủ. Khi không có lương như vậy, ông ta tìm cách cắt xén và ghi tăng thêm số lượng để lấy những nguồn lợi bất chính đó về cho mình. Quả thật, người quản gia trong bài Tin Mừng hôm nay đã tận dụng cơ hội “quyền huynh thế phụ” để làm ăn bất chính, hầu thu tích của cải cho mình. Nhưng thật không may, ông ta đã bị chủ phát hiện và quyết định đuổi việc: “Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa!” (Lc 16,2).

Trong hoàn cảnh này, ông ta suy tính: “Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” (Lc 16, 3-4). Quả thật, không lẽ từ một người quản gia mà nay lại đi cuốc đất, hay đi ăn mày? Ông ta không thể làm được những chuyện đó vì những mâu thuẫn với con người và vai trò của ông! “Cái khó ló cái khôn”, trước khi bị đuổi chính thức, ông vẫn còn đủ tư cách là đại diện cho ông chủ, và trong thời gian chờ đợi để bàn giao sổ sách, giấy tờ, ông ta tìm cách lấy lòng và tạo bạn hữu bằng việc giảm nợ cho cho những con nợ: “… ‘Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?’  Người ấy đáp: ‘Một trăm thùng dầu ô-liu.’ Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi.’  Rồi anh ta hỏi người khác: ‘Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy?’ Người ấy đáp: ‘Một ngàn giạ lúa.’ Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi’” (Lc 16, 5-7). Một cách giải quyết hết sức khôn khéo. Ông vừa được tiếng là tốt bụng, lại còn thêm được rất nhiều bạn bè, hòng khi bị đuổi việc, ông được người ta đón rước mình như một vị đại ân nhân của họ. Và cuối cùng, ông chủ đã khen người quản lý bất lương đó hành động thật khôn ngoan.

Như vậy, Chúa Giêsu có phải khen người quản gia bất lương vì sự bất lương của hắn ta không? Thưa không! Ngài khen là khen cái tài khôn khéo, biết tính trước cho tương lai vận mệnh của mình, và biết dùng tiền của bất chính để tạo nên bạn hữu. Qua câu chuyện này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy biết lo cho tương lai của mình, bởi vì “sinh hữu hạn, tử bất kỳ”. Cuộc sống là một cái gì mong manh, ta có thể ra đi bất cứ lúc nào, nên: “không biết lo xa, ắt phải rầu gần”. Phần cuối của dụ ngôn, như một mệnh lệnh, Chúa Giêsu nói:  “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” (Lc 16, 9); mặt khác, Ngài cũng dạy chúng ta phải biết khôn ngoan trong việc sử dụng tiền của ở đời này, làm sao tiền của trở thành nô lệ, đày tớ cho chúng ta, chứ đừng biến nó thành ông chủ của mình: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13).

  1. Sứ Điệp Lời Chúa

Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta biết rằng: mọi sự đều là của Chúa, và chúng ta chỉ là người quản lý mà thôi. Mà nếu chỉ là quản lý, thì phải biết giới hạn, phải biết được vai trò của mình đến đâu và phải lo chu toàn trách vụ mà ông chủ trao cho, vì thế, ta phải trung thành và giữ chữ tín trong khi làm việc: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”(Lc 16,13).

Cần tránh những hình thức lạm quyền và sa đà vào tình trạng tội lỗi. Hãy biết chia sẻ cho người khác để làm giàu trước mặt Thiên Chúa và có lợi cho phần hồn của mình. Chia sẻ bác ái được ví như một sự cầu lần, nay người, mai ta: “Người giàu giúp kẻ nghèo ở đời này, nhưng người nghèo giúp kẻ giầu trong đời sau”. Thật thế, “Thương xót kẻ khó nghèo là cho Đức Chúa vay mượn, Người sẽ đáp trả xứng đáng việc đã làm”(Cn 19,17).

Cuối cùng, ta phải biết lo cho tương lai của chính mình như người quản gia trong Tin Mừng hôm nay: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” (Lc 16,9). Hãy mua lấy Nước Trời và làm giàu trước mặt Thiên Chúa là trách nhiệm hàng đầu của chúng ta. Thật vậy, tiền của vật chất rồi sẽ qua đi, nhưng chỉ có Chúa là tồn tại, vì thế hãy tìm mọi cách mà xây dựng, mua lấy Nước Trời cho cuộc sống mai hậu. Hãy biết lo cho tương lai của mình cách cẩn trọng.

  1. Sống Lời Chúa Hôm Nay

Thế nhưng, trong xã hội hôm nay, nhiều người có những tư tưởng tự cao và cho rằng: ta có được như vậy là nhờ công khó của chính chúng ta, mà họ quên mất một điều căn bản rằng: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm” ( (Tv 127,1)). Vì vậy, hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa khi ta còn có thể tìm được. Hãy nhạy bén và biết hành xử khôn khéo như người quản gia trong bài Tin Mừng hôm nay.

Câu cảm thán của Chúa Giêsu hôm nay đáng làm cho chúng ta suy nghĩ: “…Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” (Lc 16,8). Đây là câu nói mang tính khiển trách của Chúa Giêsu về thái độ nhạy bén với những giá trị Nước Trời của mỗi chúng ta. Quả thật, nhiều khi chúng ta gặp phải những cám dỗ, thay vì tìm mọi cách để vượt ra khỏi tình trạng tội lỗi, thì ta lại như “thiêu thân”, cứ muốn lao mình vào. Biết là những tội đó nguy hại cho phần rỗi của mình, nhưng vẫn cứ ung dung tiến đến và muốn ở lại luôn trong đó, bởi vì nơi đó là vũng lầy, nhưng lại là “vũng lầy êm ái”.

Lý do: vì chúng ta không tha thiết gì đến cuộc sống mai hậu, thậm chí lại còn tìm mọi cách để thoát ra khỏi sự sống thần linh và thay vào đó là một sự sống thể lý thuần túy. Nhưng dù muốn dù không, chúng ta đều phải chân nhận với nhau rằng: cuộc sống trên trần gian này là cuộc sống tạm bợ, hữu hạn. Cuộc sống mai sau mới là cuộc sống vĩnh cửu. Vì thế, ngay lúc này, hãy biết làm giàu trước mặt Thiên Chúa bằng những việc bác ái; đồng thời biết sử dụng tiền của là những vật hư nát để mua lấy Nước Trời, và, “Trong mọi sự phải nhắm chắc cái cùng đích” hầu chuẩn bị cho một tương lai tốt đẹp.

Lạy Chúa, xin cho chúng con nhận ra sự yếu hèn của mình, hầu thoát ra khỏi những sự chóng qua ở đời này mà biết lo tìm phần rỗi cho mình trong cuộc sống mai hậu. Xin cho chúng con biết chọn Chúa và những giá trị tốt trong cuộc đời. Amen.

Về mục lục

.

BIẾT ĐỂ SỐNG

Lm. Jos. DĐH

Sự cuốn hút ở đời mà người ta thường bị thuyết phục đó là xinh đẹp, mạnh khỏe, biết cư xử có lý có tình. Để làm kinh tế hiệu quả, đối tượng tài giỏi, khôn ngoan, luôn được trọng dụng, ưu ái hơn. Bậc làm cha mẹ thời nào cũng vất vả nuôi dạy con cháu, không những cần có tâm có đức, có phương pháp giáo dục, mà cần cả kỹ năng sống nữa. Trong khi cộng đồng xã hội phát triển, mở ra nhiều con đường, nhiều cơ hội dẫn tới thành công, quân sư ‘Khổng Minh’ lại quả quyết rằng : mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.

Lạc quan một chút chúng ta vẫn thấy có người nhờ biết đầu tư theo kiểu : mượn đầu heo nấu cháo, cuộc sống khó khăn của họ sớm được cải thiện. Do hoàn cảnh không thuận lợi, không ít người nhờ biết xoay sở tình thế : giật đầu cá, vá đầu tôm, niềm vui của họ mau chóng được ổn định. Biết để né tránh đau khổ, giảm bớt rủi ro, hay biết để có cuộc sống tốt đẹp, có tương lại huy hoàng rực rỡ hơn, nhiều người vẫn đang chung mơ ước đó. Tính hấp dẫn của thị trường không phải là có các sản phẩm rẻ tiền, nhưng là có nhiều khách hàng ưa thích, hàng hóa tiêu thụ tốt hơn.

Khởi đi từ quan niệm : quan nhất thời, dân vạn đại, nhiều người đã co cụm lại, không muốn dấn thân phục vụ công ích xã hội, lên án công kích cả những ai tham gia hoạt động tôn giáo. Đồng ý rằng, chủ trương làm tà tà ăn cơm cà với muối, không phải do bất mãn hay suy nghĩ tiêu cực giầu nghèo gì cũng khổ, tài giỏi bằng cấp rồi cũng đến ngày quy tiên. Ngay từ khi còn tấm bé, mỗi người đều được khích lệ để ý thức : học ăn, học nói, học gói học mở, tiếp thu kiến thức, và mai này biết chia sẻ, xây dựng xã hội phồn vinh. Rõ ràng biết để sống tốt, biết để được hạnh phúc, luôn cần đến yếu tố thời gian.

Bài học khôn ngoan và trung tín của Chúa Giêsu thật là một bất ngờ, khó hiểu đối với các môn đệ, với nhiều người chúng ta hôm nay. Trong khi xã hội nào cũng chủ trương chống thất thoát, công minh sổ sách giấy tờ, phải kiểm soát chặt chẽ thu chi… Thế mà mà Chúa Giêsu lại nói, “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : hãy dùng tiền của bất chính mà mua lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón anh em vào nơi vĩnh cửu”. Khôn ngoan, biết tính toán, nhằm mưu ích cho chủ, cho mình thì dễ hiểu ; nhưng biết sử dụng tốt nhất điều kiện, khả năng, mình đang có để chiếm lấy hạnh phúc Nước Trời, không hề dễ dàng.

Biết rằng có sinh thì có tử, có học phải có hành, được chủ tín nhiệm, giao phó chức quyền, phải có lúc báo cáo cho chủ về việc làm của mình, đó là quy luật. Nhưng để có thời gian như người quản lý nhanh chóng tận dụng tốt nhất cơ hội của mình, thật là quý báu. Biết lấy ngắn nuôi dài, biết tính toán để thu lợi nhuận, thì người ta cũng phải biết đầu tư cho tương lai, biết tìm kiếm hạnh phúc hiện tại, hẳn cũng phải biết xây dựng hạnh phúc bền vững mai sau. Kinh nghiệm tiền nhân cũng nói rằng : thế gian chuộng của chuộng công, nào có ai chuộng người không bao giờ. Nếu không đóng góp công sức, không chung tay xây dựng giang sơn, sẽ chẳng ai lưu truyền danh phận ta cho hậu thế làm gì.

Chúa Giêsu cũng gián tiếp nhắc nhớ chúng ta như người quản lý, rất cần biết đến nghệ thuật sử dụng tiền của, như một minh chứng cho sự khôn ngoan và trung tín về tình yêu của ta đối với Ngài. Để biết công việc quản lý hiện tại của mình là linh mục, tu sĩ, là cha mẹ, ông bà…, hoặc biết số tài sản, khả năng hiểu biết của mình, không khó. Nhưng để biết những gì ta đang có là ơn ban, là trách nhiệm, cần sử dụng cách khôn ngoan, hợp lý với thời gian, rất cần đến sự nhanh nhạy như Chúa nói : “ai trung tín trong việc nhỏ, cũng sẽ trung tín trong việc lớn”.

Tục ngữ có câu : không tiền không gạo, mạnh bạo xó bếp. Đúng là nghèo hèn thì chẳng làm gì được, người nhà khinh trước, làng nước khinh sau. Không tài giỏi, không đức độ, cũng trở nên vô dụng trước xã hội trần thế này. Nhưng không phải thế, với niềm tin Kitô giáo, được sinh ra làm người, mỗi chúng ta đã là một công trình của Thiên Chúa. Ngài trao ban chức quản lý, và môi trường gia đình, xã hội, chính là điều kiện để nuôi dưỡng đức tin, và phát triển ơn ban, chu toàn bổn phận của ta với Thiên Chúa là Đấng yêu thương. Mỗi người Kitô hữu chính là những quản gia, chúng ta phải biết để sống cho hạnh phúc tương lai, để trả lẽ về ơn ban, về quỹ thời gian mà mỗi chúng ta đang trung tín sử dụng nhưng thế nào rồi. Amen.

Về mục lục

.

NGƯỜI QUẢN GIA BẤT LƯƠNG

 Lm. Gia-cô-bê Tạ Chúc

Sống là một hành trình luôn chuyển động, như tiết trời mưa nắng bốn mùa: xuân, hạ, thu đông. Con người là một hữu thể xác hồn. Đa chiều và đa phức. Ngoài nhu cầu ăn uống, hưởng thụ, con người còn cần đến nhu cầu  tâm linh. Trong thực tế, nhất là trong một thế giới phát triển cực độ của ngày hôm nay. Hình như người ta chỉ nghĩ đến một phần của thân xác, còn phần tinh thần đôi khi bị xem nhẹ hay thậm chí bị bỏ rơi. Đức Giê-su muốn mỗi người hãy có những cách thức hành xử khôn khéo, để chẳng những mang lại lợi ích cho trần đời, mà cũng không mất phần thưởng Nước Trời.

Đừng vội vã để cho rằng, Chúa Giê-su khen anh Quản gia bất lương, vì bất lương làm sao để làm gương được cho mọi người. Chúa Giê-su khen cái cách mà anh ta hành xử, khi phải đối diện với thực tế đe dọa đến vận mệnh, và tương lai của mình: mất việc, mất hết tất cả, thay đổi sẽ vô vàn khó khăn, vì cuốc đất thì không nổi, ăn mày hổ ngươi. Trước tình cảnh này, như người ta hay bảo: “ 

Cái khó, ló cái khôn”, và cái khôn của anh Quản gia là cách nhạy bén để có lối hành xử hết sức khôn ngoan, để một khi không còn được sự tín nhiệm của ông chủ, thì lại được bạn hữu tiếp rước, và vẫn có thể sống sung túc có khi còn hơn lúc đang làm quản lý. Từ câu chuyện thực tế của người Quản gia, Chúa Giê-su muốn dạy mỗi người, hãy có những cách thức khôn ngoan để thoát ra những cạm bẫy, những cám dỗ, làm tổn hại đến đời sống tâm linh của con người. Khi chúng ta rơi vào những hoàn cảnh éo le, hay những tình huống đe dọa nghiêm trọng đến đời sống luân lý hay đức tin, chúng ta sẽ làm gì để thoát ra? Đứng trước những chọn lựa: phá thai, ngoại tình, giết người, trộm cắp, thờ ngẫu tượng…Lương tâm chúng ta sẽ có những lối hành xử sao cho không rơi vào tội lỗi. Nhiều lúc chúng ta ngụy biện hay cảm thấy bình an với lương tâm sai lầm, hoặc đã chai lì như: cứ phạm tội rồi xưng tội, hay điều tôi làm là đúng mà. Thật khó để biện phân cho những việc làm cụ thể, và cũng khó tách rời giữa một đàng là thân xác, cùng với những nhu cầu, xem ra đôi khi hết sức là bản năng. Trong khi những phẩm giá cao cả của con người luôn được mời gọi, để không ngừng hoàn thiện như Đấng vốn vô cùng trọn hảo, tốt lành. Chúa không cấm làm giàu, nhưng làm giàu để sống có mục đích, như người quản lý khôn ngoan, dùng tiền của để mua lấy bạn hữu, để khi mất hết thì còn có người tiếp đón mình. Hay khi cuộc sống trần gian không còn nữa thì cánh cửa nước Trời lại mở ra, và ông chủ là Thiên Chúa cùng với các bạn hữu là những Thánh nhân sẽ đón tiếp chúng ta. 

Không ai có thể làm tôi hai chủ, mỗi người có tự do để chọn lựa cho mình một lối đi riêng. Sao cho có thể nhạy bén để thích nghi, và khôn ngoan để tìm kiếm những chân lý trường tồn, cho mình và cho tha nhân. 

Lạy Chúa Giê-su, xin ban ơn soi sáng để giúp chúng con thực thi lời dạy của Chúa một cách đúng với thánh ý Chúa và đẹp lòng Ngài. Amen.

Về mục lục

.

BẢO VỆ SỰ SỐNG ĐÒI ĐỜI

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

 “Ông chủ khen anh quản gia bất lương đã hành động khôn khéo”. Đó là lời Chúa Giêsu khẳng định trong dụ ngôn mà Tin Mừng theo thánh Luca (16, 1-13) ghi lại. Ông chủ là ai? Chúa dùng hình ảnh ông chủ để ám chỉ chính Chúa. Hóa ra, Chúa Giêsu lại khen ngợi kẻ bất lương? Hay chúng ta phải hiểu thế nào?

Thật ra, Chúa không khen người quản gia bất lương vì chính sự bất lương. Chúa chỉ khen vì tính toán của anh ta nhanh nhạy, hành động của anh ta khéo léo. Dù gian lận, nhưng trong việc làm gian lận, anh ta xử lý hoàn cảnh của mình hết sức hợp lý, đúng thời điểm, đúng đối tượng cần thiết.

Khi anh quản gia đối diện với tình huống đe dọa sự sống của mình: sắp bị đuổi việc, bản thân tự biết rõ: cuốc đất không nổi vì không quen lao động chân tay. Nhưng đi ăn mày thì xấu hổ, vì từng làm việc quan trọng, ai cũng biết tiếng. Anh ta nhanh nhạy tạo tương quan, nhỡ sau khi mất việc, anh ta có thể có điều kiện để sống. Biết đâu anh còn được người ta đón tiếp, coi như ân nhân của họ. Chúa khen là khen điều ấy.

Ngay sau khi khen người quản gia bất lương khéo léo, Chúa Giêsu trao cho dụ ngôn một cái kết: “Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng”. Dựa vào câu nói của Chúa, chúng ta bàn về sự khôn ngoan của con cái Thiên Chúa, bởi họ phản chiếu ánh sáng của Thiên Chúa. Họ trở thành con của sự sáng.

Khi cho biết con cái thế gian khôn khéo hơn con cái ánh sáng, là Chúa muốn nói rằng: Chúng ta không biết tính toán, thậm chí không thèm phản ứng để hành động chống trả những chước cám dỗ, những hoàn cảnh có thể làm cho bản thân sai đường.

Thực tế đời sống chứng minh: Đã quá nhiều lần, ta không nhanh nhạy để gìn giữ sự sống đời đời của mình. Những khi đồi diện với cám dỗ, nhất là những cơn cám dỗ về tội trọng đe dọa sự sống đời đời, dù biết mình là con cái sự sáng, ta đâu có tìm cách gấp rút thoát ra. Có khi ta lại còn muốn ở lỳ trong tội. Chính vì thế, ta đâu chỉ một lần phạm tội. Có thể nói, dấu ấn về tội lỗi là điều rất thật trên cuộc đời của từng con người.

Sở dĩ những con cái sự sáng không phản ứng đủ, kịp lúc để bảo vệ sự sống đời đời, là do ta ít để ý đến sự sống ấy, ít để nó lưu trú trong tâm trí ta. Trong cuộc đời, có quá nhiều thứ để con người quan tâm. Nhưng lý tưởng đời sống thiêng liêng để vươn tới sự sống đời đời, lẽ ra phải là mối quan tâm trên hết mọi quan tâm, dù là con cái sự sáng, nhưng lại không quan tâm, không thèm đếm xỉa, không tha thiết với nó.

Một trong những mối bận tâm, thậm chí trở thành đam mê, gây nên tội lỗi mà những con cái sự sáng vướng vào, đó là tham lam của cải. Chính trong bài Tin Mừng, Chúa trách thói tham lam này: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”.

Hơn bao giờ hết, thời đại mà mỗi chúng ta cùng đồng hành, đang bị nền kinh tế thị trường cuốn hút và vạch lối. Con người dễ có khuynh hướng tập trung vào sự sống thân xác, quên đi sự sống tinh thần. Lắm khi người ta còn sẵn sàng hủy diệt cả sự sống tinh thần, để phục vụ sự sống thân xác, nhằm tạo cảm giác sung sướng hơn, thỏa mãn nhiều hơn.

Đồng tiền dễ xâm lăng, chiếm ngôi “ông chủ” trong tâm trí nhiều người. Bởi thế, người ta dễ đánh giá nhau dựa trên giá trị vật chất. Người ta yêu nhau cũng nhìn vào túi tiền của nhau. Cha mẹ lập gia đình cho con cũng nhắm sự giàu có của kẻ sẽ phối ngẫu với con mình. Lập bè lập bạn, người ta cũng tìm sự tương đồng vật chất. Kẻ giàu tìm cách trưng bày sự giàu có. Kẻ nghèo cảm thấy mặc cảm, xa lánh nhiều người, nhiều hoàn cảnh…

Ước gì chúa ban cho ta giàu có, nói theo ngôn ngữ của Chúa: mua lấy bạn hữu đời này, để đời sau, có cả một đoàn thánh nhân đón nhận ta vào Nước Chúa.

Và nếu ta chưa giàu như người, ta cũng không lấy đó làm bức bối, tủi thân, mặc cảm, nhưng luôn biết hiến dâng sự thiếu thốn, sống tinh thần của mối Phúc đầu tiên: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Trong chính sự nghèo khó của mình, càng là điều kiện tốt để ta đồng cảm, yêu thương, chia sớt, trải lòng với anh chị em bên cạnh hơn.

Đừng để mình sống rồi cuối cùng phải xa Nước Chúa, bị đuổi khỏi tôn nhan Chúa đời đời. Có mấy điểm chúng ta cần rút ra cho chọn lựa để bảo vệ sự sống đời đời, để trở thành con cái sự sáng:

Luôn hướng về Chúa, luôn để Chúa làm chủ đời mình. Tiền bạc của cải không là điểm tựa, không là cứu cánh mà chỉ là phương tiện. Con cái sự sáng vừa say mê cuộc đời này vừa say mê vĩnh cửu. Giữa cái mau qua họ tìm gặp vĩnh cửu, họ làm việc vui chơi như mọi người, nhưng họ luôn để Thiên Chúa đi vào toàn bộ cuộc đời họ.

– Sống chân thật và tín trung. Chân thật trong lời nói, trong tư tưởng, trong hành động; thật tình trong cư xử; thật hiếu hạnh trong gia đình; thật tín nghĩa ngoài xã hội; thật trung thành trong niềm tin. Trung tín sống đức tin, trung tín trong lời hứa, có tinh thần trách nhiệm cao, trung tín trong việc trau dồi những nhân đức, tập sống vươn lên trong sự thánh thiện, trong lòng yêu mến Chúa.

–  Khôn ngoan Thập Giá. Họ chấp nhận thập giá và hiến mình cho Thiên Chúa để mang lại lợi ích cứu độ cho chính họ và cho muôn người.

Vậy, trong từng ngày sống, chúng ta hãy thường xuyên tập luyện cho mình ngày càng biết khôn ngoan để thờ phượng Chúa, khôn ngoan luôn luôn để Chúa hướng dẫn và điều khiển đời mình.

Chúng ta cần sống siêu thoát với mọi của cải thế gian, để luôn đẹp lòng Chúa, luôn trung thành với lề luật Chúa suốt cả đời mình. Có như thế, chúng ta sẽ thật sự trở thành con cái của Sự Sáng, con cái của chính Thiên Chúa, Đấng luôn muốn ta thuộc về Người, Đấng sẽ ban sự sống đời đời cho ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chọn Chúa làm lẽ sống của cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con biết học đòi bắt chước nơi Chúa về sự khôn ngoan chọn lựa sống theo chân lý Chúa ban, để luôn luôn đứng trên mọi thứ cám dỗ trần thế gây bất lợi cho ơn phần rỗi của chúng con. Amen.

Về mục lục

.

BẤT LƯƠNG HAY KHÔN KHÉO?

JM, Lam Thy

Theo Từ nguyên thì “đầu cơ” là hành vi của chủ thể, lợi dụng cơ hội của thị trường đi xuống để  tích lũy sản phẩm, hàng hóa và sau khi thị trường ổn định trở lại thì bán ra để thu lợi. Đầu cơ chủ yếu là thu lợi nhờ chênh lệch về giá. Đầu cơ thường đi liền với tích trữ là hành động mua rất nhiều những hàng hóa, đồ dùng có giá trị, đợi nó lên giá rồi bán ra để kiếm lợi nhuận. Cứ tưởng cái cảnh gian lận và đầu cơ chỉ có ở thời đại văn minh tiến bộ ngày nay, thật không ngờ cách đây hơn 2.000 năm đã diễn ra tai It-ra-en. Bài đọc 1 hôm nay (CN XXV/TN-C – Am 8, 4-7) trình thuật cơn giận của Đức Chúa đối với “bọn người gian lận và đầu cơ, đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ”. Đầu óc bọn họ luôn luôn “thầm nghĩ: “Bao giờ ngày mồng một qua đi, cho ta còn bán lúa; bao giờ mới hết ngày sa-bát, để ta bày thóc ra? Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm; Ta sẽ làm lệch cán cân để đánh lừa thiên hạ. Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần, đem đôi dép đổi lấy tên cùng khổ; cả lúa nát gạo mục, ta cũng đem ra bán.” 

Vấn đề gian lận trong việc cân đong mua bán (“lường thưng, tráo đấu”) ở Việt Nam đã có từ khuya. Về “cân” thi dùng loại quả cân nặng khi đi mua gom, tới lúc bán lẻ cho người tiêu dùng thì lại dùng loại quả cân nhẹ. Đến việc “đong” như đong thóc, gạo, ngô (bắp). đỗ (đậu), thì khoét những cái đấu, cái thưng (bằng gỗ xoan, gỗ mít) tuy rất đúng kích cỡ với khuôn mẫu, nhưng lòng đấu (thưng) nông hơn khiến dung tích (sức chứa) ít hơn. Ở miền Nam VN, thì dân có thói quen dùng lít để đong thóc, đong gạo. Khuôn mẫu là một lon sắt có dung tích 1 lít nước, khi đong thóc hay gạo thì xúc cho đầy, rồi dùng một khúc cây (gỗ hoặc tre, dài khoảng 20 cm) gạt miệng lon. Nguyên tắc thì khúc cây này phải thật thẳng, nhưng thường bị chuốt hai đầu (gần giống hình con thoi dệt cửi) để khi gạt thì mặt gạo ở miệng lon bị trũng xuống; ngoài ra, còn dùng búa hoặc chày đóng vào đáy lon cho lồi lên. Mặt gạo (thóc) ở phía trên miệng lon bị trũng xuống. ở dưới đáy bị trồi lên, khiến dung tích bị giảm bớt, mỗi lon gian lận được một ít gạo thóc, bán số lượng nhiều sẽ gian lận được số lượng lớn (“tích tiểu thành đại”). Thời gian gần đây sử dụng cân bàn thì tìm cách sửa lò xo cho kim chỉ nặng hoá nhẹ (khi mua) hoặc nhẹ hoá nặng (khi bán) xảy ra nhan nhản.

Đến bài Tin Mừng hôm nay (CN XXV/TN-C – Lc 16, 1-13) thì lại trình thuật cái tính gian lận của một người quản gia. Đó là dụ ngôn “Người quản gia bất lương”. Anh ta bị mất vịêc chỉ vì bản tính “là anh này đã phung phí của cải nhà ông chủ”. Nghĩ đến cái tương lai đen tối của mình, với bản tính bất lương ấy, anh ta lên kế hoạch bằng cách giảm nợ cho các con nợ của chủ, nhằm mục đích được hưởng sự đền ơn đáp nghĩa của họ (“để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” – Lc 16, 4). Hành động ấy đến tai chủ, ai cũng tin chắc chủ sẽ nổi cơn thịnh nộ, không ngờ chủ lại khen là khôn khéo. Cổ học tinh hoa Việt Nam cũng có một truyện kể về người quản gia có hành động tương tự (xoá nợ cho những con nợ của chủ mình), nhưng mang một ý nghĩa khác, đó là truyện  “MUA NGHĨA” :

“Mạnh Thường Quân nhà giàu cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ. Lúc sắp đi, Phùng Huyên hỏi: “Tiền nợ thu được, có định mua gì về không?” Mạnh Thường Quân nói : “Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu thứ gì, thì mua.” 

Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên cho gọi dân lại, bảo rằng: “Các ngươi công nợ bao nhiêu, Thường Quân đều cho cả.” Rồi đem văn tự ra đốt sạch. Lúc về, Phùng Huyên thưa với Mạnh Thường Quân rằng: ‘”Nhà tướng quân châu báu đầy kho, chó ngựa đầy chuồng, người đẹp đầy nhà, không còn thiếu gì nữa. Chỉ còn thiếu một cái “nghĩa”, tôi trộm phép  Tướng quân, đã mua về.” 

Mạnh Thường Quân nghe nói thế, cũng không hỏi gì đến tiền nữa. Sau, Mạnh Thường Quân phải bãi quan về ở đất Tiết. Dân đất Tiết nhớ đến ơn xưa, ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân bấy giờ mới ngoảnh lại bảo Phùng Huyên rằng: “Trước tiên sinh vì tôi mua ‘nghĩa’, cái nghĩa ấy ngày nay tôi mới trông thấy.” (Quốc Sách – “Cổ học tinh hoa”, quyển Thượng, tr. 157). 

Hai con người có cùng một cương vị (quản gia), cùng một việc làm, nhưng ý nghĩa khác hẳn nhau, ấy cũng chỉ vì mục đích của vịêc làm trái ngược nhau. Người quản gia trong Cổ học tinh hoa” xoá nợ cho các con nợ của chủ, vì nghĩ đến tương lai khi chủ mình không còn đắc thế như hiện tại, sẽ không bị lâm vào cảnh “giàu sơn lâm lắm kẻ tìm, khó giữa chợ ít người hỏi”, chẳng ai đoái hoài. Tất nhiên khi làm việc này, người quản gia cũng không quên nghĩ rằng lúc chủ được hưởng kết quả việc làm của mình sẽ không quên ơn mình (“vinh cùng hưởng, hoạ cùng chịu” là vậy). Còn người quản gia trong bài Tin Mừng thì hoàn toàn khác hẳn. Anh ta chỉ nghĩ đến cá nhân mình (“Mình sẽ làm gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” – Lc 16, 3-4). 

Cũng đã có nhiều bài chia sẻ cho rằng Đức Giê-su Ki-tô muốn dạy môn đệ nên làm theo việc làm của người quản gia bất lương (vì được chủ khen). Thực chất, nếu đọc kỹ câu nhận định của Đức Ki-tô khi kết thúc dụ ngôn (“Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.” – Lc 16, 8), thì vấn đề sáng tỏ ngay. Có thể diễn nôm câu này: Con cái trần gian ranh ma quỷ quyệt hơn con cái Thiên Chúa. Rõ ràng Đức Ki-tô không dạy nên bắt chước làm theo tên quản gia bất lương. Bởi tiếp liền sau dụ ngôn này, Người dạy “trung tín trong việc sử dụng tiền của” (“Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?” – Lc 16, 10-12).

Cái hấp lực (sức quyến rũ) của tiền bạc quả thực là ghê gớm. Có nó là có tất cả, bởi “Đồng tiền liền khúc ruột”, và cũng bởi “Đồng tiền là tiên lả phật, Là sức bật của tuổi trẻ, Là sức khoẻ của tuổi già, Là cái đà của danh vọng, Là cái lọng để che thân”. “Mạnh vì gạo, bạo vì tiền” là vì thế. “Có tiền mua tiên cũng được” cũng là vì thế! Đến như Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm còn phải thốt lên: “Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử, Hết cơm, hết gạo, hết ông tôi”, hoặc như Nguyễn Du trong Đoạn Trường Tân Thanh: “Trong tay đã sẵn đồng tiền, Dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì.” Thật đúng là “Hoàng kim hắc thế tâm” (tiền vàng làm đen tối lòng người). Vì tiền bạc mà vợ chồng lục đục, cha mẹ con cái bất hoà, anh em chia rẽ, gia đình ly tán. Rộng ra hơn nữa, trong hội đoàn, làng xóm thì chia bè kết phái tranh giành đấu đá nhau. Đến như một quốc gia, hay trên thế giới, các cuộc chiến tranh (tuy có nhiều hình thái và khoác nhiều bộ mặt khác nhau), nhưng chung quy phần lớn đều do tiền bạc của cải mà ra cả. 

Suy cho cùng, tiền của là do con người sáng tạo ra để trao đổi mua bán thực phẩm, vật dụng phục vụ cho đời sống, đáng lẽ ra con người phải làm chủ và dùng nó như một phương tiện mưu sinh. Không dè đến một lúc nào đó, nó lại quay ngược làm chủ con người, khiến con người trở nên như một đầy tớ, và từ đó sinh ra đủ thứ chuyện, đủ thứ tội ác. Vâng, của cải tiền bạc thế gian có thể là một tên đầy tớ trung thành, nhưng cũng có thể trở thành một ông chủ bất lương. Ăn thua là người có nhiều tiền của đã coi nó như một phương tiện sống, hay quỵ luỵ nó và coi nó như một ông chủ với thế lực vạn năng. Chính vì thế, Đức Giê-su mới dạy: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được.” (Lc 16, 13). 

Nói về tiền của thì không biết thế nào là cùng, dù ai cũng luôn miệng bô bô “tiển của chỉ là phù vân”. Trong kinh Lạy Cha, lời cầu xin đầu tiên cho bản thân là “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”. Muốn có lương thực thì phải lao động, phải vã mồ hôi, vắt sức ra, chớ không thể “há miệng chờ sung rụng”. Có thể không trực tiếp làm ra lúa gạo lương thực, nhưng vẫn có thể làm công việc khác kiếm tiền để mua lương thực. Kiếm tiền mưu sinh là lẽ đương nhiên, Chúa không cấm cản, nhưng kiếm tiền theo kiểu bất lương như anh chàng quản gia trong bài Tin Mừng thì dứt khoát không được. 

Nếu là dùng những phương cách chân chính mà kiếm được nhiều tiền của trở nên những phú gia địch quốc, những đại gia vô địch thì đó không phải là một cái  tội; nhưng khi sử dụng những tiền của ấy thì phải biết cách sử dụng, phải coi nó chỉ là phương tiện giúp ích cho đời sống, chớ không thể coi nó như một ông chủ, một bà chúa. Làm giàu bằng chính mồ hôi nước mắt của mình thì chẳng có gì đáng trách, nhưng làm giàu bất chấp thủ đoạn, làm giàu theo kiểu “ích kỷ hại nhân”, thì dứt khoát không chấp nhận. Khi sử dụng tiền của của chính mình thì không xa hoa phung phì, phè phỡn phô trương, chỉ cốt “ăn để mà sống chớ không sống để mà ăn”. Của cải dư thừa thì phải nhớ đến những anh em bất hạnh hơn mình, nghèo khổ hơn mình… mà chia sẻ từng miếng cơm manh áo. Chỉ có như thế, vâng, thực sự chỉ có như vậy mới xứng đáng “vác thập giá mình mà theo Đức Ki-tô”. Vẫn còn đó tấm gương tổ phụ Ap-ra-ham (St 13, 1-4); ông  Gia-cóp (St 13, 1-43); ông Gióp (1, 1-3; 42,10-15); vua Sa-lô-môn (2Sb 9, 22; Gv 2, 9) là những người giàu có nhưng khôn ngoan biết nghe Lời Đức Chúa mà thương người nghèo khổ, hoạn nạn. 

Tóm lại người Ki-tô hữu chân chính hãy khắc ghi trong lòng Lời dạy: “Trung tín trong việc sử dụng Tiền Của: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn… Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được.” (Lc 16, 9-13). 

Vâ nếu có đầu cơ tích trữ thì xin hãy dùng những tiền của mình tích trữ được mà gửi vào kho tàng Nước Trời, như Lời dạy của Đấng rất nghèo ở trần thế nhưng lại rất giàu – giàu vô kể – tại Nước Trời. Đó chính là Đức Giê-su Ki-tô Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót, Người đã dạy: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi.” (Mt 6,19-20; Lc 12, 33-34). Nói cách cụ thể là hãy đến với “những kẻ đang sống bên rìa ngoài cùng của xã hội”, mà chia sẻ những của cải mình đã tích trữ được (Tông chiếu Dung Mạo Lòng Thương Xót “Misericordiae Vultus” số 15). Ước được như vậy. Amen.

Về mục lục

.

MÌNH BIẾT PHẢI LÀM GÌ RỒI?

Lm Uyen Nguyen

Là một lựa chọn sau một lúc khẩn trương suy nghĩ đi đến quyết định gắn với hành động. Hành động nhằm vượt qua bước ngoặc đang rối bời, đối phó với khủng hoảng trầm trọng bất lợi cho bản thân đang xảy đến. Lời như thế không ai cũng có thể dễ dàng nói được.

Phần ĐGS, sau khi giải bày thiên ý Chúa Cha cho những người Pharisêu và kinh sư phải có tâm tình và ứng xử thế nào dành cho tội nhân, họ đã rõ. Người quay lại nội bộ nói với các môn đệ về vai trò người phục vụ, phục vụ như một người làm công cho ông chủ phú gia. Điều này ĐGS đã không ít lần giáo huấn các môn đệ. Như trước đây ở chương 12, nói về tác phong trọn hảo đáng thưởng của người đầy tớ tín trung, sẵn sàng gác cửa luôn trong tư thế gìn giữ bản thân thật tốt chờ đợi ông chủ đi ăn cưới về. Phêrô lên tiếng hỏi: ‘Thầy nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người’? Người đáp: ‘Vậy ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc’? Chủ bao giờ cũng dạy bảo và nhắc nhở người quản gia phân phát phần cho mỗi người phải chính xác đúng người đúng công, không mưu tính thêm bớt gây uy thế hay lợi lộc về phía mình. 

Với ba bài đọc của CN hôm nay, có nội dung hòa quyện làm tăng lực xác tín giáo huấn của ĐGS.

            Bài đọc 1, trích sách Amos. Ở đây Amos nhận lệnh Chúa sai đi đến với mọi người cảnh báo họ để phòng về cách sống thao túng lạm quyền của một số người vô đạo. Là những người đáng ra phải rất trân trọng những ngày truyền thống cố hữu thì lại coi thường, còn mong cho những ngày ấy chóng qua để được tự do hành động tránh phạm luật, như những ngày mồng một đầu năm, ngày Sabat trong tuần. Với người nghèo khó, cô thế cô thân, họ dùng đủ mọi chiêu trò bóp chẹt, ăn chận mà không hề nghĩ lại để còn dành chút thương xót. Chúa thề với Amos: ‘Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng’ (c.7). 

            Bài đọc 2, Phaolô trong tư cách người được Chúa chọn đặt làm người rao giảng và làm tông đồ, nghĩa là Chúa đặt ngài làm Thầy dạy các dân ngoại về đức tin và chân lý (c.7), Ngài truyền cho Timôthê hãy khuyên bảo mọi người: ‘Ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh’ (cc.1-2). Với Phaolô, ngài không chỉ khuyên dạy mà còn làm tất cả mọi sự nơi bản thân ngài như một gương sáng đỉnh cao dành cho hết mọi người để mọi người trở nên đẹp ý Chúa. 

            Bài đọc 3, ĐGS trong Tin Mừng Luca, đã kể cho các môn đệ câu chuyện về người quản gia giúp việc ông chủ siêu phú gia. Ông này, sau một thời gian làm việc ở nhà ông chủ, tai tiếng xấu về hành vi quản gia đã đồn thổi đến tai ông chủ. Ông chủ cho gọi lên và cho biết ông bị cách chức quản gia. Từ đầu câu chuyện đến kết thúc, không nghe thấy một lời hạch tội, phê phán chỉ trích. Chỉ đơn giản gọi bằng một danh gọi tổng quát, một thuật ngữ ‘quản gia bất lương’. Thế mà ông lại được chủ ngợi khen là ‘quản gia khôn khéo’. Đức tính ‘khôn khéo’ ở đây là trọng tâm giáo huấn của ĐGS dành cho các môn đệ. Người muốn các môn đệ có được và trở nên như vậy. 

Ở lãnh vực nào ĐGS ngợi khen ông là khôn khéo? Khôn khéo: ưu tiên là tự biết mình. Ông biết ông là ai ở giữa đời này với bao khó khăn chồng chất: ăn mày thì hổ ngươi, cuốc đất không sức làm. Ông nhìn về tương lai tìm ra ánh sáng giữa hàng trăm hằng ngàn con nợ của chủ mà ông thừa biết đã qua, sống chết còn dan díu, từ hôm nay nữa, dưới năm ngón tay cầm bút ký của ông. Ông nhận ra tương lai ông còn tràn hi vọng từ những người nợ ông chủ ấy. Ông hiểu ra cách để có được cuộc sống an thân những ngày tương lai ấy bằng xóa giảm nợ của chính ông áp đặt cho mỗi người tùy theo trước đây ông đã tính toán và ghi sổ làm bằng chứng để trả. Kẻ ít người nhiều miễn sao không phải lo hậu sự vì xâm hại đến tài sản và quyền lợi của chủ. Khám phá ra ánh sáng, lấy phần mình, áp dụng thiết thực hiện tại nhắm đến hạnh phúc tương lai như thế là bài học khôn khéo của người quản gia bất lương mà ĐGS muốn các môn đệ khắc ghi vào tâm khảm. Người quản gia còn quẩn quanh vì một tương lai trên cõi thế. Phần các môn đệ thì giải pháp đó là liệu pháp ưu việt để đối phó với tương lai trong mỗi bước thẳng tiến về Nước trời, cõi phúc đời đời. Người môn đệ đích thực là lữ khách muôn phương, ra đi chỉ để, thao tác bất cầu lợi, gieo hạt yêu thương vào đời như Thầy chí Thánh làm người trên dương thế. Có như thế mới xứng với lời TM từ miệng ĐGS đúc kết, đã nên danh ngôn TM: ‘Anh em không trung tín trong việc xử dụng tiền của bất chính, ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em’? (c.11). 

Đến dây, thử nhìn về những kết quả từ giáo huấn của ĐGS vừa suy niệm, kết quả thấy được từ các môn đệ? Và ngày nay từ GH và Kitô hữu nói chung? Chắc ít nhiều cũng có. Nhưng thiết thân cũng có lắm lắm cá nhân thiếu thấm nhuần. Chẳng bao lâu khi này những ngày tới đây, Giuda cho thấy bài giáo huấn của Thầy không hiệu quả, vì ông ham tiền mà phản bội, bán Thầy để lấy tiền. Tệ hơn người quản gia bất lương. Với Kitô hữu ở thời đại nỗi trội về một nên văn minh tin học ngày nay, không bao người bằng lòng với lời cầu xin như Thầy đã dạy: ‘Hằng ngày dùng đủ’ hay tin vào lời TV 126: ‘Dù bạn có thức khuya hay dậy sóm, khó nhọc làm ăn cũng hoài công. Người được Chúa thương dầu có ngủ, cũng được Chúa ban đủ tiêu dùng’ (c.3-4). Bởi gốc cội vấn đề là ở lòng muốn của con người. Không ai không muốn có. Có những gì mình chưa có hay đã có, nhưng khổ nỗi có ít không thỏa. Vì lòng muốn như vậy, nên lòng trong sạch dù có muốn giữ lấy, thật cũng khó: Phải chăng ‘Giáo huấn bất tòng tâm’? 

Lạy ĐGS Thầy chí thánh. Con yêu mến Người. Con hằng khát khao chăm học với Người. Xin cho con đủ can đảm thực hành giáo huấn ‘tẩy trắng, trong sạch’ lòng trước mọi hình thức cám dỗ từ vật chất để được nhẹ bước tiến theo Thầy về cõi trời vinh quang.

Về mục lục

.

LÀ CON CÁI ÁNH SÁNG

Lm. Giuse Nguyễn

“Trong những lúc mệt mỏi và chán chường, chúng ta hãy nhớ lời Chúa mời gọi chúng ta đến với Ngài để đuợc nghỉ ngơi và vơi nhẹ. Đôi khi sự mệt mỏi của chúng ta phát xuất từ việc tin tưởng nơi các sự vật không phải là điều nòng cốt, và vì chúng ta đã xa rời điều thực sự có giá trị trong cuộc sống”. Đức Thánh Cha đã nói thứ thế với mấy chục ngàn tín hữu hành hương sáng thứ Tư 14/09/2016 vừa qua tại Vatican.

Thực vậy, đến với Đức Giêsu để chúng ta được sự sáng của Ngài hướng dẫn cho chúng ta biết mình là con cái Ánh Sáng. Một cách đặc biệt trong năm nay, chúng ta mong ước sự sáng của Đức Giêsu dẫn chúng ta đến với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha. Ánh sáng đó được thể hiện một cách cụ thể qua phụng vụ Lời Chúa hôm nay để chúng ta biết “điều nào là điều nòng cốt và thực sự có giá trị trong cuộc sống”.

 

I.  PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

  1. Bài Đọc I: Am 8, 4-7

Đoạn này Amos lên án những kẻ ham mê tiền bạc và những sự thuộc về thế gian này. Họ vẫn giữ luật lệ của cha ông họ trong những “ngày mồng một, ngày sabat”, nhưng họ cứ mong cho những ngày ấy mau qua để họ làm những việc sai trái: “Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm”. Họ mua nô lệ, tuy giá của họ chỉ bằng một đôi dép, nhưng họ cũng không có tiền để chuộc… Những người này không mến Chúa cũng chẳng yêu người. Vì vậy Thiên Chúa đã thề rằng: “Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng”. Chúng không thuộc về Thiên Chúa, không thuộc về con cái ánh sáng.

  1. Tin Mừng: Lc 16, 1-13

Câu chuyện bài Tin Mừng hôm nay là câu chuyện của anh quản gia bất lương mà Đức Giêsu khen là hành động khôn khéo. Sự khôn khéo của anh ở chỗ biết sắp xếp “để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà”. Anh ta đã dùng chính những đồng tiền của ông chủ để bảo đảm đời sống cho mình. Qua đó Đức Giêsu dạy cho các môn đệ: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết, hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Sự khôn ngoan của con cái ánh sáng là biết sử dụng tiền của, mà họ chỉ là người quản lý như một phương tiện phục vụ tình nghĩa anh em, củng cố tình liên đới và sự chia sẻ, xây dựng sự hiệp thông giữa con người với nhau… chứ đừng để nó trở thành một sức mạnh thống trị họ.

Đức Giêsu kết luận những lời huấn dụ hôm nay bằng một triết lý để con cái ánh sáng phải chọn làm châm ngôn sống cho mình: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”. H. Cousin đã nhận định: “Qua cung cách sử dụng tiền của, người Kitô hữu phải chứng tỏ mình chỉ lệ thuộc một mình Thiên Chúa mà thôi”.

Lời Chúa hôm nay là ánh sáng để chúng ta chiêm ngắm Đức Giêsu Kitô là Đấng đến thế gian này mà không bị lệ thuộc bởi những giá trị vật chất: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có chỗ gối đầu”. Ngài rao giảng và làm chứng cho một giá trị cao cả, đó là tình yêu thương: “Người ta cứ dấu này mà biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau”. Tình yêu thương chính là giá trị cốt lõi của Nước Trời mà suốt cuộc đời Đức Giêsu đã sống và rao giảng. Ngài muốn các môn đệ của Ngài phải biết chọn lựa “giá trị nào là nòng cốt và thực sự có giá trị của cuộc sống”. Qua những giáo huấn và thực tế của cuộc sống, con cái ánh sáng phải biết rằng đó không phải là đồng tiền, là của cải vật chất, mà: “yêu thương là điều duy nhất để cho con vuông tròn nghĩa ân”.

 

II.  LÀ CON CÁI ÁNH SÁNG

Chúng ta bước đi theo Đức Giêsu là Ánh Sáng đã đến thế gian này, nhờ vậy chúng ta cũng được trở thành con cái Ánh Sáng. Vì vậy chúng ta phải cảnh giác trước sức mạnh của đồng tiền, đồng thời phải biết sống chia sẻ với nhau theo gương của Đức Giêsu là Ánh Sáng thật và là hình ảnh của lòng thương xót.

  1. Cảnh giác trước sức mạnh của đồng tiền

Phải cảnh giác vì “đồng tiền là ông chủ xấu, nhưng lại là tên nô lệ tốt”. Cho nên phải luôn luôn ý thức để sử dụng đồng tiền đúng đắn, kẻo chính nó sẽ điều khiển cuộc đời chúng ta.

Có những người vì lý do làm ăn kiếm tiền mà không thể đến nhà thờ dự lễ; có những người để có tiền, họ sẵn sàng làm những nghề bất chính như thầu số đề, cò cá độ, hay chứa chấp mại dâm… Hơn thế nữa, để có tiền, có những người trộm cắp, cướp giật, gian lận… Đối với những người đó, họ đã tôn thờ đồng tiền, nó đã trở thành ngẫu tượng, đã trở thành ông chủ điều khiển cả cuộc đời của họ…

Trong khi đó có những người đã bắt đồng tiền trở thành nô lệ để phục vụ cho những giá trị tốt đẹp.

Người ta truyền tai nhau thông tin có một Công ty ở Sài Gòn, không rõ làm gì, nhưng điều người ta để ý là trong công ty đó có một ngôi nhà nguyện thật đẹp dành cho công nhân và những ai có nhu cầu tâm linh đến viếng Chúa, cầu nguyện, hoặc tĩnh tâm. Điều này làm cho tôi phải suy nghĩ đến việc giữa một xã hội mà người ta tận dụng mọi thời gian, mọi cơ hội để kiếm tiền, thì vẫn còn có người quan tâm đến nhu cầu tâm linh của chính mình và người khác. Thái độ đó cho thấy kiếm tiền là điều cần thiết (mới lập Công ty), nhưng không để đồng tiền chi phối cuộc sống mình (vẫn dành không gian và thời gian cho Chúa).

Chính khi người môn đệ Đức Giêsu dành ưu tiên cho đời sống tâm linh, cho những giá trị tinh thần, cho việc thờ phượng Chúa, thì họ thực sự trở thành ánh sáng cho xã hội hôm nay.

Tuy nhiên điều quan trọng là làm sao để họ đừng để sức mạnh của đồng tiền chi phối đời sống của họ. Thế cho nên cần phải có sự cảnh tỉnh luôn luôn để đừng bị đồng tiền chi phối.

  1. Sống chia sẻ với nhau

Ngoài việc cảnh tỉnh với sức mạnh của đồng tiền, ánh sáng Tin Mừng hôm nay còn đòi hỏi con cái Ánh Sáng phải biết sống chia sẻ với nhau.

Đức Giêsu dạy các môn đệ: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè”, Người cắt nghĩa:  “Phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Đây không chỉ là lời khuyên đạo đức, mà nó còn là cách sử dụng của cải trong mối tương quan với sự sống vĩnh cửu. Hành động của người quản gia là lấy phần lợi của mình để san sẻ cho người khác, hầu mai này họ tiếp đón mình. Đức Giêsu không kêu các môn đệ học hỏi thái độ của người quản gia bất lương, nhưng hãy bắt chước cái nhìn và ý hướng của anh ta, tìm cách để được bảo đảm cho sự sống mình, và đó là cách biết cho đi. Khi chúng ta biết chia sẻ, nó không chỉ là một cách ăn ở tốt, mà còn là chứng tá cho đời sống đức tin, vì chúng ta tin tưởng vào sự sống đời sau.

Nói tóm lại, phụng vụ lời Chúa hôm nay dạy cho con cái ánh sáng phải biết đề phòng trước sức mạnh đồng tiền, phải biết sử dụng đồng tiền cho đúng đắn hầu mưu ích cho cuộc sống đời này và cả cuộc sống đời sau. Đồng thời phải biết chia sẻ, cho đi để làm nên ý nghĩa của cuộc đời.

Về mục lục

.

HÃY LÀ QUẢN GIA TRUNG TÍN VÀ KHÔN NGOAN

Dã Quỳ

Cuộc sống trên trần gian là một hành trình đầy vất vả. Có người thì sung sướng nhẹ nhàng hơn trong công việc làm ăn, có người gian nan khó nhọc lao động, và mọi người gần như cả cuộc đời lao mình vào kiếm tiền để lo cho nhu cầu cuộc sống của mình và gia đình. Đó là sự thật của đời người và là con đường chung của phận người. Thế nên, mỗi người sẽ là quản gia quản lý cuộc đời mình, của cải mình làm ra, cũng như chính sức khỏe, tài trí và những ơn phúc thiêng liêng Chúa ban. Vậy, làm thế nào người Kitô hữu có thể là một quản gia khôn ngoan và trung tín với của cải vật chất và tinh thần để biết lo cho cuộc sống hiện tại và nhất là lo tìm kiếm Nước Trời? Chúng ta hãy lắng nghe những gì Chúa nói với ta qua Tin Mừng hôm nay.

Trước Thiên Chúa, mỗi người chúng ta chỉ là một “Quản lý” chứ không phải ông chủ. Thiên Chúa nhân lành đã ban tràn muôn ân huệ cho chúng ta. Tất cả những gì chúng ta có như: sự sống, tài năng, trí tuệ, sức khỏe, của cải… Chúa đã tin tưởng trao phó cho chúng ta quản lý, nên ta không có quyền phung phí những ân huệ Chúa ban. Vậy ta có thể tiếp tục quản lý hay không là do chính chúng ta. Ta sẽ phải đến trước mặt Người và trả lời về tất cả những của cải vật chất và tinh thần mà ta đã, hay không làm phát triển và sinh lợi khi Người hỏi “Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Anh hãy phúc trình về công việc quản lý của anh.”Vì thế, Chúa muốn chúng ta hãy là một người quản lý tốt lành và trung tín về tất cả những ân phúc ta đã lãnh nhận.

Người quản lý bất lương trong Tin Mừng đã lo lắng về việc bảo đảm cho tương lai, nên anh ta  tranh thủ thời gian còn là quản gia để chuẩn bị  “Mình sẽ phải làm gì đây…để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” Nhưng anh ta chỉ khôn khéo tính toán và lo cho cuộc sống nơi cõi trần tạm bợ! Đối với người Kitô hữu, chúng ta có biết lo cho đời sống tương lai sau cuộc đời nơi trần thế như vậy không? Cuộc sống của chúng ta nơi trần gian, những hành động, lối sống của chúng ta sẽ quyết định tương lai vĩnh cửu của ta. Chúa Giêsu đã không ngừng nhắc nhở chúng ta “Hãy bán tất cả của cải mình mà bố thí. Hãy sắm những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời.”( Lc 12,33)

Chúng ta thấy nhận xét của ông chủ thật hài hước “Ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động  khôn khéo!” Lời khen ngợi này chắc hẳn không thật và không là của một ông chủ bình thường trong cuộc sống. Chắc chắn Chúa Giêsu không cổ vũ cho hành động bất lương của anh quản gia này. Nhất là hành động gian lận của cải của người khác. Chính vì thế, Chúa đau lòng nhận thấy “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái sự sáng khi xử sự với người đồng loại!” Chúa cũng không lên án vấn đề làm kinh tế hay quản lý tài sản bởi vì trong lãnh vực này, đòi người quản lý khôn khéo và thông minh để làm sao cho sinh lợi, nhất là trong thời đại hôm nay. Tuy nhiên, Chúa căn dặn chúng ta, những Kitô hữu đừng có cùng sự khôn lanh và tài trí như người quản gia này đối với những “Công việc tinh thần“. Vì chúng ta không thể đạt được gia tài Nước Trời bằng sự khôn khéo thế gian.

Chúng ta có đặt tất cả những tài năng, trí khôn để phục vụ Nước Trời không? Đây là điều Chúa muốn chúng ta, những Kitô hữu “Con cái ánh sáng“, con của Cha chúng ta là Thiên Chúa Tình Yêu và Sự Sáng. Chúa mong chúng ta hãy chiếu tỏa ánh sáng chân thật, công bằng, tình yêu, bác ái…để đẩy lui và xóa tan đi bóng tối trong cuộc sống. Đừng chỉ giữ điều tốt lành, đức hạnh cho riêng mình. Hãy bận tâm và khôn khéo để sinh lợi, để loan báo Tin Mừng và làm cho Nước Chúa hiển hiện. Bởi vì “Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn.” Đối với Chúa, việc lớn đó là “Sự sống vĩnh cửu“, là của cải thiêng liêng, là kho tàng trong Nước Trời. Trái lại, tiền bạc chỉ là việc nhỏ.Vì thế, hãy nhớ “Việc nhỏ thì ít quan trọng“, đó chỉ là cái tạm bợ, chóng qua, nhưng gia tài thiêng liêng mới là điều quan trọng hơn, để rồi ta xứng đáng là một quản lý trung tín và khôn ngoan.

Tiền bạc cũng không phải là của chân thật đối với con người. Sự giàu có không chắc làm cho chúng ta trở thành người tốt, cũng chẳng làm cho ta thông minh, hạnh phúc hay đạo đức hơn. Giá trị chân thật không ở nơi tiền bạc. Vì thế, với Chúa, tiền bạc là một vật bên ngoài. Đó là cái chúng ta “Có” chứ không phải “Là”. Chúng ta có thể có rất nhiều  mà vẫn là một người cùng cực, khổ tâm, bất hạnh…Chúa không đưa ra lời kết án về tiền bạc, nhưng trái lại, Người nói với chúng ta “Hãy dùng tiền của bất chính“, hãy học để có thể trở thành một quản lý tốt biết “quản lý của cải chân thật” của chúng ta.

Ở một phương diện nào đó, bản chất tiền bạc thường được coi là gian dối, vì nó đối nghịch với Thiên Chúa. Với Chúa Giêsu, tiền bạc thường “Bất chính“, là “mammon độc ác“, nên Người đã căn dặn “Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em?” Chúa biết ý nghĩa thông thường của tiền bạc: rất khó kiếm được và rất ích lợi, nó là hoa trái của lao động. Nhưng nếu tiền bạc có được từ sự ức hiếp, gian lận hay tham ô, hà tiện…thì đó là bất chính vì là tước đoạt của những người khác. Và khi ấy người ta đã làm tôi tiền bạc và coi nó là mục đích tối hậu. Trái với anh quản lý bất lương gian lận của cải của chủ để mong những con nợ đón tiếp anh ta sống qua ngày sau khi mất việc, Chúa muốn chúng ta khôn khéo trong việc sử dụng tiền của do chính bàn tay lao động của chúng ta để đạt được gia tài Nước Trời.

Thế nên, Chúa chỉ cho môn đệ “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè“, vì tiền của có thể phục vụ chúng ta và trở thành phương tiện chuyển tải tình yêu, đó là ý nghĩa sâu xa của dụ ngôn này. Mỗi người chúng ta cũng là những quản lý gia sản của mình, Chúa mong ta biết dùng để tìm kiếm Nước Trời bằng hành động bác ái chia sẻ như lời thánh Phaolô khuyên “Hãy chịu khó dùng đôi tay của mình mà làm ăn lương thiện để có gì chia sẻ với người túng thiếu.”( Ep 4,28b) Đây là điều phúc cho chúng ta, có thể dùng tiền của để đạt được Nước Trời qua việc giúp đỡ anh em nghèo khó “Tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu.” Vì chỉ khi biết yêu thương chia sẻ với anh em ngay nơi trần thế này, ta mới xứng đáng hưởng tình yêu xum họp với họ trong Nước Trời.

Của cải và tiền bạc chính nó không phải là xấu. Nó chỉ là phương tiện, được sử dụng để phục vụ con người. Chúa muốn chúng ta hãy biết quản lý nó cách khôn ngoan và trung tín. Không để tiền bạc điều khiển ta hay làm chủ ta, bởi vì Kitô hữu “Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được.” Xin Chúa Thánh Thần luôn soi sáng và hướng dẫn để chúng ta biết tỉnh thức, khôn ngoan mà sử dụng của cải đời này để đạt được hạnh phúc và vinh quang trên Nước Trời.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con ơn khôn ngoan theo Tin Mừng, để chúng con biết tích lũy cho mình kho tàng trong Nước Trời bằng đời sống bác ái, cho đi cách quảng đại và biết sử dụng tất cả những ân huệ Chúa ban cách trung tín.  Amen.

Về mục lục

.

LUÔN BIẾT KHÔN NGOAN CHUẨN BỊ CHO TƯƠNG LAI

Lm. Đan Vinh

I.  HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Lc 16,1-13

(1) Đức Giêsu còn nói với các môn đệ rằng: “Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông anh này đã phung phí của cải nhà ông. (2) Ông mới gọi anh ta đến mà bảo: “Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Anh hãy phúc trình về công việc quản lý của anh. Vì từ nay anh không được làm quản gia nữa”. (3) Người quản gia liền nghĩ bụng: Mình sẽ làm gì đây? Vì ông chủ đã cắt chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. (4) Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ !”. (5)  Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: “Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?”(6) Người ấy đáp: “Một trăm thùng dầu Ôliu”. Anh ta bảo: “Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi”. (7) Rồi anh ta hỏi người khác: “Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy?” Người ấy đáp: “Một ngàn thùng lúa” Anh ta bảo: “Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi”. (8) Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. (9) Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. (10) Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tin trong việc lớn. Ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. (11) Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? (12) Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em? (13) Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ. Vì hoặc ghét chủ này mà yêu chủ kia. Hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”.

  1. Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay dạy các môn đệ phải khôn ngoan, biết nhìn xa để chuẩn bị cho tương lai sau này. Đức Giêsu kể câu chuyện về một quản gia bất lương, đã lợi dụng những giờ phút cuối khi đang còn giữ chức quản lý, để làm ơn cho các con nợ của chủ bằng cách hạ thấp số nợ của họ xuống, với hy vọng sau này sau khi anh bị mất việc thì họ sẽ đền ơn đón anh về nhà họ. Cuối cùng Chúa dạy phải dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi giờ chết đến bị mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp vào chốn an nghỉ đời đời.
  2. CHÚ THÍCH:

– C 1-4: + Một nhà phú hộ kia có một người quản gia: Theo luật Do thái thì người quản gia không phải thuộc hạng tôi tớ được trả lương. Anh ta có quyền thay mặt chủ lo liệu mọi sự. Trường hợp viên quản gia làm thất thoát tiền bạc của chủ, luật pháp cũng không có biện pháp nào bắt anh ta phải hoàn lại của cải đã bị thất thoát. Hình phạt cùng lắm chỉ là sa thải, kèm theo bị mất uy tín mà thôi. Sau khi nhận được giấy sa thải, người quản gia sẽ phải tính sổ sách, liệt kê tài sản. Trong thời gian này, người quản gia vẫn là đại diện cho chủ, và được hành động nhân danh chủ. Trong bài dụ ngôn, việc người quản gia đã phung phí tài sản của chủ để gây thiện cảm với các con nợ tức làm lợi cho mình. Có thể nói anh ta đã “mượn đầu heo nấu cháo”! Nhưng anh cũng là người khôn khéo biết lợi dụng thời gian ngắn đang còn tại chức để làm ơn cho các con nợ của chủ, hầu đến khi bị chủ cách chức thì anh hy vọng họ sẽ đền ơn giúp lại anh.

C 5-7: + Một trăm thùng dầu: Thùng dầu là đơn vị chứa khoảng từ 21 đến 45 lít. + Một ngàn thùng lúa: Thùng lúa hay giạ lúa, một đơn vị có số lượng lớn gấp 10 lần thùng dầu nói trên.

C 8-10: + Ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo: Đức Giêsu khen việc biết chuẩn bị cho tương lai của anh quản gia là hành động khôn khéo. + Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại: Con cái đời này ám chỉ những kẻ thuộc về thế gian. Con cái ánh sáng là những người thuộc về Nước Trời. Con cái thế gian thường bén nhậy trong việc tìm kiếm tiền bạc vật chất, đang khi con cái Nước Trời lại thường khờ dại, không biết xử dụng ơn Chúa để lo cho mình được hưởng ơn cứu độ. + Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè: Người quản gia đã hành động khôn khéo. Còn các môn đệ là con cái sự sáng, cũng phải dùng tiền bạc mà mua lấy bạn hữu. Tiền của bất chính trong câu này không có nghĩa là có nguồn gốc bất chính như trộm cắp gian tham, nhưng bất chính vì tiền bạc thường làm cho người ta ra hư hỏng. Hãy sử dụng nó để giúp đỡ người nghèo, tức là biến nó trở thành đồng tiền có giá trị ở đời sau. + Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn: Tiền của là một vật để trắc nghiệm lòng trung tín. Ở đây Đức Giêsu dạy môn đệ phải trung thành trong việc nhỏ là sử dụng tiền bạc, để biến đồng tiền ấy trở thành của cải chân thật có giá trị lớn lao ở đời sau (x. Mt 25,21; Lc 19,17).

C 11-13: + Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ: Đức Giêsu nhân cách hóa tiền bạc vật chất vì nó có thể sai khiến người ta như một tà thần. Kiểu nói “làm tôi” ở đây mang ý nghĩa “lụy phục”, “phượng thờ”, làm cho tiền của trở thành tà thần đối nghịch với Thiên Chúa. Vì thế Đức Giêsu đòi các môn đệ phải dứt khoát chọn tôn thờ một mình Thiên Chúa thay vì vừa tôn thờ Thiên Chúa lại vừa tôn thờ tiền của.

  1. CÂU HỎI: 1) Tại sao người quản gia bị đánh giá là bất lương? 2) Đức Giêsu muốn các môn đệ của Người noi gương khôn khéo của người quản gia kia thế nào? 3) Khi nói: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè”, phải chăng Đức Giêsu dạy các tín hữu dùng tiền lừa đảo trộm cắp hay tham nhũng để giúp đỡ kẻ nghèo? 4) Khi nào tiên bạc trở thành ông chủ? Ta phải làm gì để biến nó nên đầy tớ của ta? 5) Tiền bạc sẽ đem lại hậu quả thế nào một khi trở thành ông chủ?

II.  SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13b).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) CHỈ MUA ĐƯỢC BẰNG LOẠI TIỀN CHO ĐI MÀ THÔI:

Một người kia suốt đời chỉ biết thu gom tiền bạc chứ không chịu chi ra, nên ông ta ngày một giàu thêm. Rồi một hôm ông ta bị đau nặng sắp chết. Trước khi nhắm mắt, ông cho gọi vợ con lại bên giường và trăn trối như sau: “Khi tôi chết, bà nó hãy đem tất cả số vàng tôi đã dành dụm bấy lâu bỏ vào trong quan tài cho tôi, vì tôi sẽ cần dùng tới nó trong thế giới bên kia”. Sau khi ông ta chết, vợ ông đã làm y như lời trăn trối của ông. Trên đường về thế giới bên kia phải đi ngang qua một cái chợ, ông nhà giàu ghé vào xem và thấy người ta mua bán nhiều thứ rất ngon, giống như các chợ dưới trần gian. Ông ta chỉ vào một ký thịt bò tươi và hỏi cô bán hàng giá bao nhiêu. Cô ta trả lời: “Giá một đồng”. Ông nghĩ bụng: “Rẻ thật !”. Ông lại quay sang hỏi nhiều món hàng khác đang bày bán chung quanh, và vật gì giá cũng chỉ một đồng. Ông nhẩm tính với số tiền mang theo khi chết ông sẽ có thể sống sung sướng trong cả ngàn năm nữa. Nhưng đến khi trả tiền để lấy hàng, ông nhà giàu bỡ ngỡ khi người bán không chịu nhận đồng tiền của ông. Cô ta nói với ông rằng: “Ở đây chỉ xài loại “tiền cho đi” mà thôi ! Còn tiền của ông là loại “tiền thu vào”, không có giá trị thanh toán !” Bấy giờ ông nhà giàu rất buồn rầu và thất vọng, vì tiền của bấy lâu nay ky cóp giờ chẳng còn chút giá trị nào cả ! Qua câu chuyện trên, chúng ta rút ra bài học này: Chỉ những “đồng tiền cho đi” mới là “đồng tiền để dành” có giá trị thanh toán ở đời sau và mới thực sự đem lại hạnh phúc đời đời cho ta.

2) ĐẠO SĨ THAM TIỀN:

Có một nhà giàu kia đã mời mấy vị đạo sĩ tới nhà lập đàn để giải trừ tai nạn. Trong số đó có một đạo sĩ tính tình tham lam, muốn một mình được hưởng trọn số tiền công của chủ nhà, nên đã  nhận đứng ra bao thầu trọn gói việc lập đàn cúng bái. Sau đó ông ta một mình làm việc ngày đêm không hề ngơi nghỉ. Cứ như thế đến ngày thứ ba thì bị kiệt sức, ông ta tự nhiên bất tỉnh ngã vật ra đất. Chủ nhà sợ ông đạo sĩ chết ở nhà mình thì mang hoạ, liền thuê mấy người lao công đến khiêng ông về miếu. Đạo sĩ nghe chủ nhà trao đổi như vậy, dù đang kiệt sức nhưng ông ta vẫn cố ngước đầu lên thì thào như sau: “Ông chủ đừng mất công thuê người khiêng cáng cho tôi làm chi. Cứ đưa tiền thuê ấy cho tôi. Tôi sẽ tự bò về miếu cũng được mà !”

3) KHÁC BIỆT GIỮA HAI LOẠI KÍNH:

Một lần kia có một người giàu có nhưng keo kiệt đến gặp vị giáo trưởng của ông và xin giáo trưởng ban phép lành cho ông. Vị giáo trưởng đón tiếp ông nhà giàu một cách thân thiện và đưa vào phòng khách. Rồi giáo trưởng dẫn ông đến cửa sổ nhìn xuống đường phố và nói: “Ông hãy nhìn ra kia và nói cho tôi biết ông thấy gì”.

“Tôi thấy người ta đi qua, đi lại”, ông nhà giàu đáp.

Rồi giáo trưởng đem ông ta ra khỏi cửa sổ, dẫn ông ta đến trước một tấm gương to và nói: “Ông hãy nhìn vào tấm gương này và ông thấy gì”.

“Tôi thấy chính tôi”, ông nhà giàu đáp.

“Thế đấy, ông bạn, hãy để tôi giải thích ý nghĩa điều ấy cho ông. Cửa sổ làm bằng kính cũng giống như tấm gương này. Tuy nhiên, kính của tấm gương có tráng lên một lớp bạc. Khi ông nhìn qua kính thường, ông thấy người khác. Nhưng khi ông tráng bạc, ông không còn thấy người khác nữa mà chỉ thấy chính mình. Khi ông chỉ quan tâm đến tiền bạc, ông không còn thấy người khác nữa mà chỉ còn nhìn thấy bản thân mình”.

4) THÀ BỊ CHỘT MỘT MẮT CÒN HƠN MẤT TIỀN CHỮA TRỊ:

Bác sĩ A.J. Gordon kể: ngày nọ, có một ông nhà giầu keo kiệt đến khám mắt. Sau khi khám, bác sĩ cho biết ông ta phải chữa trị cả hai mắt, nếu không muốn bị mù. Ông ta liền hỏi :

– Giá chữa trị mỗi con mắt là bao nhiêu?

– Là 100 đôla. Bác sĩ trả lời.

Nghe vậy, ông nhà giầu thừ người ra suy nghĩ một lúc. Sau đó ông ta nói với bác sĩ: “Tôi chỉ yêu cầu bác sĩ chữa cho tôi một mắt với giá 100 đôla thôi. Vì tôi nghĩ: chỉ cần còn một mắt cũng có thể thấy đường đi và đếm được tiền rồi. Còn chữa hai mắt phải tốn tới 200 đôla là quá nhiều!

5) ANH LÍNH ỨNG XỬ KHÔN NGOAN:

Có một anh lính ba gai, không bao giờ làm hài lòng viên đại tá là cấp chỉ huy của mình. Mỗi lần trình diện đại tá, anh ta luôn bị quở trách: Khi thì đôi giày bẩn, lúc thì súng không chịu lau chùi, cũng nhiều khi lại đến tập họp trễ mấy phút. Môtỵ hôm được xả trại và được tự do đi chơi tới 20g00. Đến hồi 19g45 mà anh lính này vẫn đang lang thang trên đường phố. Bấy giờ đột nhiên anh thấy chiếc xe của đại tá đang tiến đến gần. Anh liền rẽ vào một con hẻm gần đó nhưng không kịp: Viên đại tá đã chạy xe kịp đến và dừng ngay trước mặt anh. Đại tá ra lệnh:

– Đúng 20g anh phải trình diện tôi tại bộ chỉ huy, nếu không anh sẽ bị giam 3 ngày.

Anh lính liền suy nghĩ: Từ lúc này đến 20g00 chỉ còn 15 phút nữa. Nếu ta chạy nhanh vẫn không về kịp, mà đón xe ngoài thì giờ này không còn xe nào chạy. Thế là anh liền chạy nhau đi sau chiếc xe díp của ông đại tá. May thay cốp xe phía sau vẫn đang mở và anh vừa kịp leo lên rồi chui vào trong xe mà ông đại tá vẫn không phát hiện ra. Ông đại tá cho xe díp chạy vòng vòng qua mấy ngã đường rồi trở về doanh trại vào đúng 20g00. Khi chiếc xe vừa dừng lại thì anh lính cũng vừa nhảy xuống xe và đến trình diện vị đại tá. Bấy giờ đại tá xem đồng hồ và khen cậu lính như sau:

– Anh đã hành xử khôn ngoan đó anh lính trẻ. Hôm nay tôi không thể phạt anh. Nhưng từ nay trở đi anh cũng phải biến biến báo không ngoan để duy trì được kỷ luật tập thể nghe không?

  1. SUY NIỆM:

Có người đã phát biểu về giá trị tương đối của đồng tiền như sau: “Tiền bạc có thể mua vỏ bọc ngoài của các sự vật nhưng không thể mua được điều cốt lõi của chúng được. Nó có thể đem đến cho bạn thức ăn nhưng không đem đến sự ngon miệng; có thể mang thuốc men nhưng không phải mang sức khỏe, mang sự quen biết nhưng không mang bạn bè, mang tôi tớ giúp việc nhà nhưng không phải là lòng trung tín, mang đến những ngày đầy lạc thú xác thịt nhưng không phải là sự bình an và hạnh phúc”. (Henrik Ibsen)

Nhìn vào thế giới ngày nay, chúng ta cũng thấy còn đầy dẫy những bất công: Có những người giầu có lối sống hưởng thụ xa hoa hoang phí đang khi nhiều người nghèo ăn không đủ no, mặc không đủ ấm và còn thiếu tất cả những nhu cầu tối thiểu. Sở dĩ có sự giàu nghèo bất công như vậy một phần là do hoàn cảnh xã hội tạo ra, nhưng chủ yếu là do lòng tham của con người, khi mà người giàu chỉ biết ích kỷ để tìm lo cho bản thân, mà không biết nghĩ đến những người nghèo đói bất hạnh ở ngay bên cạnh mình. Qua dụ ngôn về người quản gia bất lương trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu muốn các môn đệ và các tín hữu chúng ta cũng phải có thái độ khôn ngoan để biết nhìn xa và có những hành động phù hợp có lợi cho tương lai của mình sau này.

Qua dụ ngôn người quản lý bất lương nhưng khôn ngoan trong bài Tin Mừng, chúng ta cần lưu tâm mấy chi tiết sau:

1) Tội tham nhũng tiền bac: Hằng ngày qua các phương tiện truyền thông nghe nhìn, chúng ta thấy nhiều người đã phải vào tù ra khám vì đã phạm tội tham lam, ăn cắp tài sản của người khác hay thâm lạm vào công quỹ. Những người này không thuộc diện đói nghèo, mà trái lại, họ còn là những kẻ giàu có dư ăn dư mặc. Căn bệnh của họ là lòng tham tiền bạc của cải bất chính.

2) “Tôi nghe người ta nói gì về anh đó?: Người quản gia trong dụ ngôn hôm nay có nhiệm vụ điều hành mọi việc nhà của chủ, và cũng có quyền đại diện cho chủ để giao dịch làm ăn buôn bán. Tuy nhiên, anh quản lý này đã lợi dụng sự tín nhiệm của ông chủ: Thay vì làm lợi cho chủ, anh ta lại cắt xén bớt tiền bạc của chủ để làm lợi riêng cho bản thân mình. Cuối cùng việc làm bất chính của người quản gia đã bị phát hiện. Chủ cho gọi anh ta đến mà bảo: “Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Anh hãy phúc trình về công việc quản lý của anh. Vì từ nay anh không được làm quản gia nữa” (Lc 16,2).

3) “Mình sẽ làm gì đây?”: Trong hoàn cảnh sắp bị sa thải, anh quản gia thuần suy tính: “Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ !” (Lc 16, 3-4). “Cái khó ló cái khôn”, cũng may trong thời gian tại chức vắn vỏi này, anh vẫn còn có tư cách đại diện cho ông chủ. Anh đã quyết định giảm nợ cho các con nợ của chủ: Từ Một trăm thùng dầu Ôliu, anh cho giảm nợ xuống còn năm chục; Từ một ngàn giạ lúa anh hạ xuống còn nợ tám trăm thôi (Lc 16, 5-7). Qua lối hành xử khôn khéo này, anh đã làm ơn cho các con nợ của chủ vời hy vọng họ sẽ đền ơn lại cho anh sau khi anh bị mất việc. Đức Giêsu đã khen anh ta hành động khôn khéo vì đã biết dùng tiền bạc của chủ để làm lợi cho tương lai của mình.

3) Khôn ngoan là biết dùng tiền của bất chính để tạo ra bạn bè: Đức Giêsu không khen hành động gian dối ích kỷ hại nhân của người quản gia bất lương, nhưng khen thái độ biết khôn ngoan tiên liệu của anh ta bằng cách sử dụng tiền của bất chính để tạo thêm bạn hữu cho mình như lời Đức Giêsu kết luận: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” (Lc 16,9); Hơn nữa, Đức Giêsu cũng dạy chúng ta phải biết khôn ngoan trong việc sử dụng tiền của ở đời này, hãy biến đồng tiền trở thành đầy tớ, chứ đừng để nó biến thành ông chủ của chúng ta, vì: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13). Đồng tiền sẽ là một đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu.

4) Học sống Lời Chúa hôm nay:

Trung thực trong việc quản lý tiền bạc: Điều Đức Giêsu muốn dạy các tín hữu chúng ta hôm nay là phải có lối hành xử công chính về tiền bạc. Có người đã nói: «Lấy lửa thử vàng; lấy vàng thử đàn bà; và lấy đàn bà thử đàn ông». Một người không trung thực về tiền bạc không thể là một người tốt, thành thật và đáng tín nhiệm được. Một người được người khác nhờ cậy giao tiền cho một người thứ ba, đã gửi số tiền ấy vào ngân hàng để lấy lãi cho mình, thì người đó không thể có lòng đạo đức thực sự. Hiện nay, có nhiều người giữ những địa vị cao trong xã hội, nhưng lại thiếu trung thực trong việc quản lý tiền bạc của tập thể. Đức Giêsu đã đưa ra tiêu chuẩn: “Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em?”. Qua đó, Chúa muốn dạy chúng ta rằng: Công bình là nền tảng của bác ái, và bác ái là nền tảng của một lòng đạo đức thực sự.

Phải hành động cách khôn khéo: Nếu “con cái đời này” mà còn biết cách làm lợi cho bản thân mình, thì tại sao “con cái sự sáng” lại không biết sử dụng của cải Chúa ban trong giây phút hiện tại để lo cho phần rỗi đời đời của mình sau này? Nếu người quản gia bất lương biết dùng tiền của bất chính để mua lấy bạn hữu, đề phòng khi mất việc…, thì tại sao người tín hữu chúng ta lại không biết sử dụng của cải chóng qua đời này bằng cách quảng đại chia sẻ cho người nghèo khổ để có thêm bạn hữu, hầu đến giờ chết những người đó sẽ đi đón rước chúng ta vào hưởng Nước Trời là hạnh phúc vĩnh hằng?

 Đồng tiền cho đi: Nên nhớ rằng: Chúng ta sẽ không trở nên giàu có trước mặt Thiên Chúa với những đồng tiền “nhận lãnh”, nhưng là với những đồng tiền “cho đi”. Chỉ khi biết quảng đại ban phát của cải cho những kẻ thiếu thốn, chúng ta mới thực là những người quản gia trung tín và khôn ngoan biết làm theo ý chủ. Chỉ khi biết coi tiền của là phương tiện phục vụ tha nhân, chúng ta mới chứng tỏ mình là tôi trung của Thiên Chúa. Các Rabbi Do thái có câu này: “Kẻ giàu giúp kẻ nghèo ở đời này, nhưng kẻ nghèo sẽ giúp kẻ giàu ở đời sau”. Khi chú giải truyện người giàu ngu dại xây kho vựa lớn hơn để tích trữ nhiều của cải, thánh Ambrosiô đã nói: “Bụng của người nghèo, nhà của bà goá, miệng của trẻ nhỏ là những kho vựa tồn tại mãi ở đời đời.” Người Do thái tin rằng của bố thí cho kẻ nghèo được ghi vào trương mục đời sau của kẻ cho. Do đó, sự giàu có thật của con người không hệ tại ở những gì mình đang nắm giữ, nhưng căn cứ ở những gì mình quảng đại cho đi. 

Làm chủ hay đầy tớ đồng tiền?: Mỗi người chúng ta hãy tự hỏi mình: Tôi hiện đang làm chủ hay đang làm đầy tớ cho đồng tiền?

Tôi sẽ là chủ đồng tiền nếu dám chia sẻ số tiền mình đang có cho người khác, dám cho vay mượn, dám lập tức trả lại cho chủ của khi phát hiện ra đồng tiền mình đang chiếm giữ không phải của mình. Nhất là khi bị mất cắp, tôi sẽ không quá đau buồn như kẻ mất hồn, đến nỗi chẳng còn thiết tha làm bất cứ việc gì khác!

Tôi sẽ là đầy tớ đồng tiền nếu năng nghĩ đến nó, thích mang ra nhìn ngắm và đếm đi đếm lại nhiều lần trong ngày; Năng đề cập đến tiền bạc trong câu chuyện và đề cao sức mạnh vạn năng của nó; Có thái độ tôn trọng đồng tiền hơn mọi thứ có giá trị khác; Sẵn sàng làm bất cứ việc gì dù vi phạm luật pháp hoặc bất công và bất nghĩa… miễn sao có nhiều tiền cho đầy túi tham.

  1. THẢO LUẬN: 1) Bạn có đồng ý với lời nhận định: “Đồng tiền là một người đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu” không? 2) Hiện giờ bạn đang làm chủ hay đang làm tôi cho đồng tiền? 3) Bạn cần làm gì để tiền bạc trở thành đầy tớ phục vụ cách đắc lực cho các nhu cầu chính đáng của bạn và của tha nhân?
  2. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊSU. Hôm nay Chúa đã lưu ý chúng con về việc sử dụng tiền bạc của cải. Trước tiên Chúa dạy chúng con phải phụng thờ một mình Thiên Chúa. Chúa cấm chúng con gian lận, nhưng dạy chúng con phải khôn khéo xử dụng đồng tiền trần gian để biến nó thành của cải thiêng liêng có giá trị ở đời sau.

– LẠY CHÚA GIÊSU, từ nay chúng con sẽ qui hướng trọn cuộc sống về cho Thiên Chúa, từ việc nhỏ đến việc lớn. Xin Chúa giúp chúng con dứt khoát nói “không” với bất cứ cám dỗ nào xui giục chúng con tìm kiếm những đồng tiền bất chính, để chúng con xứng đáng trở thành những môn đệ thực sự của Chúa: luôn sống theo Lời Chúa dạy và mãi mãi thuộc trọn về Chúa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN_C

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.  Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su kể cho chúng ta nghe dụ ngôn người quản lý mà chúng ta gọi là bất lương, để khuyên dạy chúng ta là những người tin mến Người, biết chú ý đến và tìm kiếm Nước Trời, cũng như biết khôn khéo sử dụng những ơn lành hồn xác Chúa ban cho chúng ta đời này để biết lo xa và biết đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu đời sau.  Thế nhưng chúng ta phải đặt dụ ngôn này vào giữa những bài Kinh thánh Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe để chúng ta có thể nhận ra và hiểu rõ ràng điều gì Chúa muốn nói hay muốn dạy chúng ta.

Vì vậy chúng ta hãy tìm hiểu bài đọc 1 trích sách tiên tri A-mốt, thật vậy, giáo huấn của Chúa dạy nằm ngay trong bài đọc này.  Vào khoảng 1 ngàn 7 trăm 5 mươi năm trước Chúa Giê-su Ki-tô giáng sinh, nước Do thái, đặc biệt là miền Bắc, có nền kinh tế và tài chánh phát triển mạnh và rất thịnh vượng, vì vậy dân chúng có một cuộc sống giàu có và hưởng thụ, nhưng đời sống và những sinh hoạt buôn bán, thương mại không còn tinh thần đạo đức, công bằng và bác ái gì cả.  Họ không còn chú ý đến đời sống tôn giáo, tinh thần và không còn trung thành với Chúa.  Họ tỏ ra rất thờ ơ trước những giới luật Chúa dạy về các ngày lễ và những ngày nghỉ để cầu nguyện và thờ phượng Chúa.  Trong bối cảnh này, A-mốt được Chúa chọn làm tiên tri sai đi rao giảng lời Chúa dạy dỗ dân chúng.  Ông lên tiếng khuyến cáo dân chúng về đời sống tinh thần, cũng như những hậu quả sẽ đến nếu họ không cảnh tỉnh và ăn năn quay trở lại.  A-mốt cho họ biết ngày Sa-bát, bây giờ là ngày Chúa nhật và những ngày lễ là những ngày nghỉ, họ phải đóng cửa tiệm và không được buôn bán, để dành thời giờ cầu nguyện và thờ phượng.  Dân làm ăn, buôn bán, thương mại thù ghét ông và họ ghét những ngày như vậy, vì họ nghĩ bị thiệt thòi không buôn bán được gì. Thậm chí họ tỏ ra rất bực bội và khó chịu vì họ cho rằng làm mất thời giờ và cản trở công việc kiếm tiền của họ.  Họ sốt ruột chờ những ngày ấy qua đi để mở lại cửa tiệm.  Họ chỉ ao ước chú trọng đến một việc có tiền và phải làm sao cho có thật nhiều tiền không trừ bất cứ hình thức nào. Dân chúng đã coi tiền bạc hơn Chúa. Họ đã bỏ Chúa mà thờ tiền. Vì vậy, A-mốt cho họ biết, nếu họ không từ bỏ cuộc sống này, thì như lời Chúa đã thề: “Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc chúng làm cho đến cùng.” Tiên tri cảnh báo họ sẽ phải lãnh nhận những hậu quả do việc họ làm.

Ðó là ý nghĩa và là bài học của lời Chúa trong bài đọc 1 cho chúng ta hôm nay, và đưa chúng ta đến bài Tin Mừng theo thánh Lu-ca. Chúng ta sẽ thấy ở đây bài học chính không phải câu chuyện người quản lý bất lương, nhưng là lời khuyên, lời dạy bảo của Chúa về thái độ của chúng ta đối với tiền bạc, nhất là phải biết chú ý đến và tìm kiếm Nước Trời, cũng như biết khôn khéo sử dụng những ơn lành hồn xác Người ban cho chúng ta đời này để biết lo xa và biết đầu tư cho cuộc sống đời sau. Thật vậy, tác giả Lu-ca thường hay dùng một câu chuyện để đưa vào một bài học. Ở đây câu chuyện là sự khéo léo xoay xở của một người quản lý bất lương. Vì là điều phụ thuộc, nên Luca không quan tâm cho chúng ta biết đầy đủ mọi chi tiết của câu chuyện. Người quản lý này bất lương ở chỗ nào, chúng ta không được rõ. Chỉ biết anh ta bị tiếng phung phí, phá tiền của chủ. Ông chủ gọi anh ta đến để báo tin ông ta sẽ cho anh nghỉ việc. Thật là một tin bất ngờ sét đánh. Bị tống ra khỏi nhà anh sẽ đi đâu? Sinh sống thế nào? Cuốc mướn thì không có sức, đi ăn mày thì xấu hổ. Vậy chỉ còn một cách tìm được người để nhờ vả.  Anh vội vàng gọi các con nợ của chủ đến làm ơn cho họ để sau này họ sẽ giúp đỡ anh.  Chúng ta thấy cư xử như vậy đối với chủ là bất lương nhưng đó là sự khôn ngoan thế gian. Chúa Giêsu khen sự khôn ngoan đó vì Người thấy con cái đời này khôn khéo hơn con cái sự sáng. Người đã không khen các việc làm của người quản lý kia vì anh ta là kẻ bất lương mà! Nhưng Chúa phải nhận rằng anh ta khôn khéo và mau lẹ. Và chúng ta nhận thấy Chúa cảm thấy đau lòng khi nghĩ tới bình diện Nước Trời và khi người ta, nhất là những người tin vào Chúa, không mau lẹ và khôn khéo như vậy.

Ông bà anh chị em thân mến.  Vì yêu thương Chúa Giê-su đã vâng lời Thiên Chúa Cha và khiêm nhường hạ mình sinh xuống trần, đem ơn cứu độ đến trong lời giảng dạy, qua những phép lạ lớn lao, biểu lộ lòng thương nhân từ và thương xót, cũng như gương sáng của Người, nhưng tại sao người ta hững hờ, lạnh nhạt, thờ ơ và thậm chí nhẫn tâm từ chối Chúa như vậy!  Gioan tẩy giả vị tiên tri tiền hô cho Chúa đã nói rằng: rìu đã được mang đến đặt dưới chân cây, Thiên Chúa sắp phán xét thái độ của loài người, thế mà người ta vẫn lững thững. Họ không chuẩn bị sẵn sàng, mau lẹ sử trí đối với Nước Trời như người quản lý ở bất lương kia đã mau trí lanh lẹ đối với sự việc ở đời này. Và đó là điều đau lòng và đáng trách!

Ông bà anh chị em thân mến.  Nếu con cái đời này biết phải làm gì và làm cách nào đối với tiền của để to liệu cho ngày mai, thì tại sao chúng ta là những người có đức tin, là những Ki-tô hữu và cũng là con cái sự sáng lại không biết sử dụng ơn Chúa ban trong hiện tại để lo cho phần rỗi của mình ở tương lai?  Nếu người quản gia bất lương biết dùng tiền của để mua lấy bạn hữu, sao chúng ta lại không biết sử dụng của cải tạm bợ, chia sẻ với người nghèo khó, hay quảng đại làm sáng danh Chúa để mua lấy Nước Trời!  Nếu người ta căn cứ vào cách dùng tiền của để biết được lòng người có trung tín hay không, thì tại sao chúng ta lại không trung tín trong việc nhỏ là sử dụng tiền của để bảo đảm cho chúng ta của cải chân thật đời sau? Thật vậy, chúng ta không trở nên giàu có với những điều mình đã nhận lãnh, mà là với những điều chúng ta đã trao ban, chúng ta chia sẻ, chúng ta quảng đại. Chỉ khi nào chúng ta biết quảng đại trong việc bác ái và tốt lành, chúng ta mới thực là những quản gia biết làm theo ý chủ, những quản gia trung tín và khôn ngoan. Chỉ khi nào chúng ta biết coi tiền của là phương tiện phục vụ cho cùng đích là Nước Trời chúng ta mới thực sự làm tôi Thiên Chúa“.

Chúng ta khôn ngoan tính toán và chuẩn bị cho tương lai, không phải chỉ cho những năm tháng sống tại trần gian này, mà còn phải cho cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời. Tiền của vật chất đời này có thể làm cho chúng ta quên đi, thờ ơ và lạnh nhạt với đời sống tinh thần, và nhiều khi có thái độ khó chịu trước những giá trị tinh thần lời Chúa dạy bảo.  Chúng ta phải chú ý, những ơn lành Chúa ban cho chúng ta đời này phải là phương cách đưa chúng ta đến gần, hay sống mật thiết với Chúa, đừng để tiền bạc, của cải, vật chất trở thành ông chủ và làm cho chúng ta xa Chúa.

Về mục lục

.

Exit mobile version