Lời Chúa Năm A Các bài suy niệm Chúa Nhật 19 Thường Niên A

Các bài suy niệm Chúa Nhật 19 Thường Niên A

CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN – A

Lời Chúa: 1V. 19, 9a.11-13a; Rm. 9, 1-5; Mt. 14, 22-33

——- 

Mục lục

  1. Chính Thầy Đây(Lm. Jos DĐH.Gp. Xuân Lộc)
  2. Sóng Lòng(Thiên San,  MTG.Thủ Đức)
  3. Tình Phụ Tử Của Thiên Chúa Quan Phòng (Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB)
  4. Đừng sợ  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  5. Chung tay đánh bại Covid (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
  6. Hãy bước ra  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
  7. Thiên Chúa là Đấng không làm sợ  (Jorathe Nắng Tím)
  8. Con Thiên Chúa (Lm. Vũ Đình Tường)
  9. Từ sóng gió con thuyền Phêrô đến sóng gió cuộc đời (Lm. Phaolo Phạm Trọng Phương)
  10. Làm nên những việc lạ lùng (Maria Phạm Anh,  MTG.Thủ Đức)
  11. Cấp cứu  (Trầm Thiên Thu)
  12. Sức mạnh của tình yêu (Lm. Jos DĐH.Gp. Xuân Lộc)
  13. Thuộc về Chúa  (Lm. Giuse Nguyễn)
  14. Có dừng chân nhưng không đứng lại  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
  15. Thiên Chúa của chúng ta (Lm. Bosco Dương Trung Tín)

 

Mục lục

1. Hãy nhận ra Chúa Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Con đường của Chúa (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. An tâm vì luôn có Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

4. Điểm tựa Giê-su (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5. Sợ hãi và tin tưởng (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

6. Đi trên mặt biển  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

7. Đức tin hiện tại  (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)

8. Mời Chúa lên thuyền (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)

9. Nhìn thấy Chúa trong cuộc sống  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

10. Trên biển đời  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

11. Suy niệm Chúa Nhật XIX Thường niên – Năm A (Lm. Anthony Trung Thành)

12. Điểm tựa duy nhất trên cõi đời  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

13. Uy quyền  (Lm. Trần Việt Hùng)

14. Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ (P.Trần Đình Phan Tiến)

15. Chúa Nhật XIX Thường niên – A  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

16. Ba đào  (Trầm Thiên Thu)

17. Thuyền ra khơi (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

18. Liên kết (Lm. Vũ Đình Tường)

19. Yếu bóng vía hay yếu đức tin? (JM. Lam Thy, ĐVD)

20. Cứ an tâm, chính Thầy đây, đừng sợ  (Fx. Đỗ Công Minh)

21. Thầy đây, đừng sợ!  (Pio X Lê Hồng Bảo)

22. Không có lòng tin mạnh ta sẽ chìm (Lm. Bosco Dương Trung Tín)

23. Tín thác vào quyền năng Thiên Chúa  (Lm. Đan Vinh)

24. Chúa Nhật 19 Thường niên_A (Lm. Antôn)

 

CHÍNH THẦY ĐÂY

Tuần 19 TN-A: Mt 14, 22-36

Lm Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc

Có phải chỉ đứa trẻ mới đặt câu hỏi, tại sao biển khơi lúc nào cũng đầy sóng gió, đầy nguy hiểm ? Chắc không phải ai cũng đủ bản lĩnh chiến đấu với kẻ gian ác, trong khi mọi người đều tự do để sống tinh thần: ba cây chụm lại nên hòn núi cao. Người già, người trẻ, khác nhau về nhận thức, kinh nghiệm, nhưng luôn có chung khao khát đầy đủ “năng lượng”, cùng nhau sống bình an hạnh phúc. Thực tế, dù văn võ song toàn cũng chẳng ai muốn đối đầu với kẻ ngông cuồng gian ác, hoặc phải biết sống dĩ hoà vi quý: một sự nhịn chín sự lành. Khó khăn, phức tạp, nơi cuộc sống là điều không thể tránh, việc cần làm là lựa chọn cách thức để vượt qua. Tình thầy trò, tình bạn hữu, tình đôi lứa, tiêu chí đẹp chính là bình đẳng, sống thân thiện, cởi mở, dễ dàng trong giao tiếp, hãy trân trọng tình liên đới hiệp thông.

Năm xưa Thầy Giêsu cắt ngang niềm vui nơi các học trò, sau khi Thầy thực thi đức yêu thương và quyền năng cho đám đông được ăn no, Thầy giục các ông xuống thuyền vượt biển hồ. Trên con thuyền vượt biển vắng bóng Thầy, phải đối diện với đêm đen gió lớn, khiến các ông hoảng loạn, nhìn nhận sự việc không còn chuẩn, “ma kìa” ! Các chuyên gia cho rằng: tiền là thứ sắc sảo nhất, tiền có thể cắt được những thứ mà dao kéo không thể cắt, đó là tình yêu và tình bạn. Trong khi đó, “nghi ngờ”, lại là nguyên nhân phá hỏng các mối tình thân thương nhất. Đức Giêsu có mặt đúng lúc, đúng hoàn cảnh “bi đát” của các học trò, với lời trấn an: “chính Thầy đây, đừng sợ”. Vâng, khổ đau, sợ hãi, làm người ta mất bình tĩnh, dẫn đến sai lạc đủ điều; sóng gió, tại biển hồ hôm đó, khiến các học trò không nhận ra sự có mặt kịp thời của Thầy !

“Chính Thầy đây, đừng sợ” ! Có phải vì nghi ngờ, hay vì sự nhanh nhạy nhất trong số môn đệ, ông Phêrô buột miệng nói: “nếu phải là Thầy, xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy”. Có lẽ Đức Giêsu không phải “lỡ yêu”, đúng hơn, Vị Thầy muốn cho Phêrô và cả thế giới nghe thật rõ lời yêu thương: “chính Thầy đây, đừng sợ”. Mang thân phận người, không ai hoàn hảo, chẳng có phương tiện nào tuyệt đối an toàn, chẳng có hành trình nào không có “sóng gió”, hiểu cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Cũng không có đối tượng nào mà Thiên Chúa tạo dựng lại không quan tâm, Đức Giêsu đến trần gian không phải vì người công chính, dù tội nhiều, lỗi ít, vẫn nằm trong chương trình của Chúa, hãy tin tưởng kêu cầu: “lạy Thầy, xin cứu con”. Thầy Giêsu giơ tay cứu Phêrô và Thầy tỏ cho các học trò nhận biết tình yêu thương của Thiên Chúa.

“Chính Thầy đây”, sẽ còn là điều kỳ diệu cho con người mọi thời đại, nếu cuộc đời gặp giông tố, bão táp, hãy khiêm tốn thân thưa: “lạy Thầy, xin cứu con”. Thời gian là thứ quý giá mà cuộc sống ban tặng mỗi người, thời gian có thể làm ta quên mình là ai, thời gian có thể giúp ta biết rút kinh nghiệm mà sống có ý nghĩa hơn. Hãy quên lời quở trách “đồ hèn tin, tại sao lại nghi ngờ”, ở mọi hoàn cảnh, hãy ghi vào con tim khối óc của mình: “chính Thầy đây, đừng sợ”. Đức Giêsu không hứa sẽ cho chúng ta một con thuyền vĩ đại, chắc chắn, cũng không ban cho con người phương tiện hiện đại nào để không có sóng gió, bão táp nguy hiểm ! Ở trong con thuyền giáo hội, mọi người sẽ cảm nhận được bình an vì có sự hiện diện của tình yêu Giêsu.

Hành trình đời người đầy nguy hiểm phức tạp, dù không thể đương đầu hoặc né tránh sóng gió, với ơn ban tự nhiên, ai cũng có tự do ít là để tự vệ: khoẻ dùng sức, yếu dùng mưu. Cuộc đời cao quý lắm, hãy chân thành và sống hết tình, hết mình, đừng nuối tiếc những thành quả đã gầy dựng, hãy hướng đến hành trình hạnh phúc ở phía trước. Lời trấn an từ sâu thẳm nơi mỗi người: “chính Thầy đây, đừng sợ”, hãy tin, sóng gió cuộc đời sẽ dịu êm, khi ta biết cậy dựa vào sức mạnh tình yêu Giêsu. Đau khổ, thất bại, gió lốc, bệnh tật, đang mài giũa ta thành “hình tròn”, nghĩa là ta sẽ tròn đầy nhân đức, lăn xa mãi đến đích hạnh phúc. Năm xưa các môn để hoang mang sợ hãi không phải chỉ vì sóng gió, chính xác vì thiếu sự hiện của Thầy Giêsu. Trên con thuyền giáo hội hôm nay, chúng ta không sợ đói khát, điều đáng sợ là chúng ta thiếu niềm tin, thiếu sức mạnh tình yêu Chúa để chiến thắng sự dữ, sự xấu.

“Chính Thầy đây”, sẽ còn vang vọng suốt hành trình vượt biển trần của mỗi chúng ta, dù không phản ứng nhanh nhạy như Phêrô “lạy Thầy, xin cứu con”, Đức Giêsu vẫn đang hiện diện trên con thuyền cuộc đời của ta. Có một anh thanh niên tìm đến thiền viện xin sư phụ nhận làm đệ tử, thiền sư hỏi: bạn đến với ta để tìm hư danh, tìm sự thông thái, trường thọ, hay tìm phú quý ? Người thanh niên: dạ thưa thầy, con đến thiền viện này, rất ước mong phản ánh được một chút thánh đức của thầy. Vượt biển trần gian, đúng là không thể tự sức mình mà đến bến bờ, có chăng chỉ là ảo tưởng, người thanh niên đã ý thức sự đơn độc của mình, thật khôn ngoan để vượt biển trần, với sự thông hiệp của thiền viện. Không ai ở ngoài kế hoạch tình yêu thương của Thiên Chúa, hãy tin và hãy xin, bạn sẽ nghe được lời trấn an: “chính Thầy đây, đừng sợ”.

Về mục lục

SÓNG LÒNG

Thiên San, MTG. Thủ Đức

Sau khi đã cho dân chúng ăn no nê, Chúa Giêsu giục các môn đệ xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Chiều đến, Người vẫn ở đó một mình. Còn chiếc thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió. Các môn đệ vất vả chèo chống. Khoảng canh tư, Đức Giêsu đi trên mặt biển mà đến cùng các ông (Mt 14, 22-33). Có qua nhiều con sóng dữ dội mà cả Thầy và trò phải đối diện.

Đứng trước những lời khen ngợi, tung hô ai trong chúng ta chẳng thấy vui sướng. Dường như chúng ta cứ muốn ở lại mãi trong cảm giác lâng lâng, tê tê của sự thành công. Đức Giêsu và các môn đệ vừa làm một việc thật quá tuyệt vời. Chỉ với năm cái bánh và hai con cá mà cả đám đông dân chúng được no nê.Thầy tài giỏi thì trò cũng sướng lây. Ấy thế mà Chúa Giêsu lại không muốn các môn đệ của mình ảo tưởng, ở lại trong sự tung hô, vui sướng ấy. Người muốn các ông đi xuống thuyền, qua bờ bên kia trước. Phận làm trò không dám cãi lệnh thầy, các ông vâng lời xuống thuyền, bỏ lại sau lưng những lời ca khen nức mũi. Lòng hãy còn chút quyến luyến, ra giữa khơi các ông lại phải chống chọi với cơn sóng dữ của biển cả. Sóng lòng chưa đủ hay sao mà nay còn thêm sóng biển. Chắc hẳn các ông ai cũng mệt mỏi vì phải tự mình chống chọi với sóng biển khi không có Thầy bên cạnh. Sự đời khó là ở chỗ đó.

Đức Giêsu đã ở lại trên bờ, lên núi cầu nguyện cho đến khoảng canh tư mới đi trên mặt biển mà đến với các ông. Đức Giêsu biết rằng, đám đông đang muốn tôn mình làm vua. Người đang phải đối diện với cơn sóng trong lòng. Dường như đám đông chỉ muốn tôn Ngài làm vua của họ. Còn Thiên Chúa, Ngài muốn Con Một yêu dấu làm vua toàn cõi địa cầu, làm vua tình yêu. Sóng lòng cũng nổi lên từ đó. Đứng trước cơn sóng ấy, Đức Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha. Ngài chỉ muốn làm theo thánh ý Cha vì lương thực của Ngài là thi hành thánh ý Cha. Bởi đó, Ngài chọn cách rút lui, lên núi cầu nguyện một mình, bỏ lại sau lưng những khen chê.

Vượt qua cơn sóng lòng, Đức Giêsu đến với các môn đệ trong con sóng biển đang gầm thét, lấy hết sức lực của các môn đệ. Trời nửa tối, nửa sáng, các môn đệ hoảng hốt khi nhìn thấy Thầy đi trên mặt biển mà đến với mình. “Ma kìa!”, các ông hoảng hốt la lên. Trước sự dữ tợn của biển cả, lại có Người cả gan đi trên mặt biển, các ông tưởng ma là phải. Phêrô muốn chứng thực nên xin Thầy cho mình được đi trên mặt biển mà đến với Ngài. Một lời đề nghị thật táo bạo. Được Thầy cho phép, ông hiên ngang bước đi trên mặt biển. Nhưng vừa bước được mấy bước và khi thấy sóng biển nổi lên, ông đâm sợ. Khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (Mt 14, 30). Phêrô được một phen hết hồn hết vía. Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay (Mt 14, 31-32).

Đi giữa biển đời, nhiều lần chúng ta cũng phải trải qua những đợt sóng dữ dội. Nó không kém gì với những cơn sóng của Thầy trò Chúa Giêsu hôm nay. Cơn sóng đó có thể được tạo nên từ sự xung khắc của những chọn lựa. Chọn sống theo giáo huấn của Chúa hay chọn theo kiểu sống của người đời? Chọn được ca khen, tung hô hay chọn âm thầm phục vụ? Chọn sống theo khuôn phép hay chọn sống buông thả, dễ dãi? Đứng trước những cơn sóng lòng, chúng ta hãy rút lui, cầu nguyện như Chúa Giêsu đã làm. Cầu nguyện để ta có thể bình tâm chọn lựa đúng đắn. Khi bắt đầu “chìm” thì hãy khiêm tốn kêu cầu Chúa như Phêrô đã làm. Đừng ngại khi nghe Thầy trách mắng. Hãy vững tâm và tin rằng, dù chuyện gì xảy ra đi nữa thì chúng ta cũng đang ở trong tầm ngắm của Chúa. Ngài thấy và biết rõ chúng ta đang phải đối diện vưới khó khăn, thử thách và Ngài sẽ xuất hiện đúng lúc. Lúc bấy giờ, biển sẽ lặng và gió sẽ ngưng.

Về mục lục

TÌNH PHỤ TỬ CỦA THIÊN CHÚA QUAN PHÒNG

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB

        Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Thường Niên XIX, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: chúng ta đã được phúc gọi Thiên Chúa là Cha, nên chúng ta phải ngày càng hiếu thảo với Người, để chúng ta đáng được hưởng gia nghiệp mà Thiên Chúa đã hứa ban.

Thật vậy, Chúa Nhật XIX Thường Niên là Chúa Nhật của tình phụ tử, tình Cha chí ái: các bản văn Lời Chúa được các nhà phụng vụ lựa chọn đều xoay quanh chủ đề này. Mở đầu bằng bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Hôsê cho thấy: Thiên Chúa như người cha nhân từ, bị con cái đối xử bạc bẽo: Khi Ítraen còn là đứa trẻ, Ta đã yêu nó, từ Aicập Ta đã gọi con Ta về, nhưng ta càng gọi chúng, chúng càng bỏ đi. Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi. Mặc dù, bị con cái đối xử bạc bẽo, nhưng, ngôn sứ Hôsê cho biết: Thiên Chúa vẫn một dạ xót thương, và Người không hành động theo cơn nóng giận. Điều này được sách các Vua quyển thứ nhất nói đến trong bài đọc một của thánh lễ: Ngôn sứ Êlia đang bị bách hại, ông những mong Thiên Chúa ra tay can thiệp, tiêu diệt những kẻ đang truy cùng diệt tận ông. Tuy nhiên, Thiên Chúa không hành động theo cơn nóng giận: không ở trong gió bão, không ở trong trận động đất, không ở trong lửa, nhưng, lại hiện diện qua làn gió hiu hiu…

Bài đọc hai của giờ Kinh Sách trích từ sách Đối Thoại của thánh Catarina về Thiên Chúa là Cha Quan Phòng, thánh nữ có cùng tâm tình với thánh Phaolô khi nói: Làm sao con có thể yên tâm khi thấy con được hưởng sự sống, còn dân Chúa lại chìm trong sự chết? Trong bài đọc hai, thánh Phaolô viết cho những tín hữu Rôma: là những người dân ngoại, thánh nhân cho biết: mặc dù, họ không phải là con cháu của các tổ phụ về mặt huyết thống, nhưng, họ vẫn thuộc về dõng dõi của các ngài, vẫn là con cái của Thiên Chúa, và khi thánh Phaolô nói điều này, thì ngài đã cam chịu bị nguyền rủa bởi những người đồng bào của mình, và chấp nhận bị xa lìa Đức Giêsu về mặt huyết thống.

Bài Đáp Ca, với Thánh Vịnh 84, vịnh gia cho thấy Thiên Chúa là Cha nhân ái qua việc Người tỏ lòng nhân hậu và ban ơn cứu độ cho chúng ta. Thiên Chúa nhận chúng ta làm nghĩa tử qua việc Người ban cho chúng ta Ngôi Lời, Con Một của Người, làm Đấng trung gian hòa giải giữa chúng ta với Người, để: tín nghĩa, ân tình được hội ngộ; hòa bình, công lý được giao duyên. Người sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Người, để vinh quang của Người hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta.

Trong bảy ơn Chúa Thánh Thần, ơn đạo đức đi trước ơn kính sợ, khi nghe nói tới “đạo đức”, chúng ta nghĩ ngay tới các nhân đức. Tuy nhiên, ơn đạo đức (Piety, don de piété) dịch đúng phải là: ơn hiếu thảo, là đạo làm con. Một người con năng chạy đến với cha là người con có hiếu. Ơn kính sợ cộng với ơn hiếu thảo khiến ta: kính sợ Chúa như con cái yêu mến, kính sợ Cha hiền. Ơn hiếu thảo là một ơn riêng của Chúa Thánh Thần, và với ơn này, chúng ta mới dám gọi Thiên Chúa là Cha của mình (x. Ga 4,6; Rm 8,15). Các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin cho mình: ngày càng hiếu thảo với Chúa, để ta đáng được hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban.

Chúng ta phải hiếu thảo với Chúa bằng cách nào? Thưa, bằng cách tin tưởng, phó thác như con thơ trong tay Cha nhân hiền. Chắc hẳn, chúng ta đã từng chứng kiến cảnh: ông bố tung đứa con bé nhỏ của mình lên không trung, có em thì thích thú, phấn khởi, bảo bố tung nữa đi, nhưng, cũng có em lại quấy khóc, và đòi bố mau mau bỏ mình xuống đất, đâu là điểm khác nhau giữa hai em bé này?

Chúng ta ở trong trời đất này, đầu đội trời chân đạp đất, chúng ta không thể đi trên nước, nhưng, thánh Phêrô lại xin được đi trên mặt nước mà đến với Đức Giêsu. Khi tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, thánh nhân đã đi được trên nước, nhưng, khi thấy gió nổi lên, thì đâm sợ, mà bị chìm xuống, và bị Chúa trách: kém lòng tin. Nếu chúng ta tin tưởng mình đang ở trong vòng tay của Chúa như con thơ đang được bố tung hứng, thì sóng gió cuộc đời có hề chi, ngược lại, chúng ta lại còn thấy thích thú, phấn chấn nữa là khác.

Bài Tin Mừng cho thấy Thiên Chúa là Cha quan phòng, luôn có mặt để giải cứu con cái mình thoát những điều nguy hại. Tin Mừng thuật lại: Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!” Thiên Chúa không tạo dựng vũ trụ, rồi để mặc cho nó vận hành theo những quy luật của nó, nhưng, Thiên Chúa là Cha nhân hậu, Người luôn nhập cuộc, Người đã xuống thuyền cùng với con người, đồng cam cộng khổ với con người. Con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, ấy thế mà, Thiên Chúa lại muốn trở nên giống con người trong thân phận phàm nhân. Người đã lấy nhân tính khốn cùng và tội lỗi của Ađam làm đám mây che khuất thần tính vĩnh cửu của Người. Thiên Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho những ai kính sợ Người. Kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan, nhưng, chúng ta kính sợ Chúa: không như người đầy tớ khiếp sợ ông chủ hà khắc, mà là, kính sợ Chúa như con thơ kính sợ Cha hiền. Xin cho chúng ta biết ngày càng sống hiếu thảo với Chúa để đáng được hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban. Ước gì được như thế!

Về mục lục

ĐỪNG SỢ

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Trong những ngày này, làn sóng thứ hai của đại dịch Covid-19 đang bùng phát và có nguy cơ lây lan nhanh chóng trong cộng đồng tại đất nước chúng ta. Mọi người đều lo lắng hoang mang, nhất là tại một số tỉnh thành có nhiều người nhiễm bệnh, được coi như ổ dịch. Những biện pháp phòng và chống dịch bệnh đã được triển khai với hy vọng dịch bệnh sẽ sớm bị khống chế. Giữa bối cảnh đầy lo âu và hoang mang lo lắng, Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta: “Đừng sợ!”.

Mặc dù đã theo Chúa được một thời gian, quan niệm và niềm tin của các môn đệ vào thày mình vẫn còn non nớt và lệch lạc. Nhiều lần họ bị Chúa quở trách là yếu lòng tin, hoặc chỉ nhìn mọi việc theo quan niệm trần tục. Thánh Matthêu hôm nay kể lại, khi thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ, các ông tưởng là ma và sợ hãi kêu la. Chúa Giêsu trấn an các ông: “Cứ yên tâm, chính Thày đây, đừng sợ!”. Xem ra ông Phêrô vẫn chưa tin đó là Thày Giêsu, nên đưa ra một đề nghị đồng thời cũng là một thách thức: “Nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”. Những gì được trình bày tiếp theo trong trình thuật cho chúng ta thấy: nếu Chúa sẵn sàng chấp nhận thách thức đó, thì con người lại không đủ can đảm và niềm tin. Phêrô cũng bước đi trên mặt biển, nhưng chẳng vững được bao lâu, vì đức tin của ông dao động, nên ông có nguy cơ chết đuối. Sự sợ hãi của con người khiến họ nghi ngờ quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Cũng vì sợ hãi, mà có nhiều người tín hữu mang một niềm tin hỗn tạp, tức là vừa tin vào Chúa và cũng tin vào các thần linh qua những thực hành mê tín dị đoan đi ngược lại với giáo huấn của Chúa. Như thế, niềm tín thác vào Chúa đòi hỏi vượt lên mọi nghi ngờ, đến mức chấp nhận mọi rủi ro, vì tin có Chúa luôn phù giúp.

Giữa cơn hoạn nạn do đại dịch Covid-19, có những câu hỏi được đặt ra: Thiên Chúa ở đâu mà không cứu giúp con người? Câu hỏi này không mới, nhưng nó được đặt ra ở mọi thời đại, giữa chiến tranh tàn khốc, giữa các cuộc diệt chủng, giữa nạn đói hoặc thiên tai. Thiên Chúa vẫn hiện diện giữa chúng ta. Đau khổ luôn là một huyền nhiệm. Con người cố gắng tìm hiểu mà không có câu trả lời thoả đáng. Tuy vậy, chúng ta xác quyết rằng: Thiên Chúa không bao giờ là nguyên nhân gây nên sự dữ, vì như thế là đối nghịch với bản tính của Ngài là tốt lành và nhân hậu bao dung. Đau khổ do chính con người tạo ra, bằng cách này hay cách khác, chủ quan hay khách quan. Thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh, đói khát là do con người tàn phá thiên nhiên, làm mất đi sự quân bình sinh thái Chúa đã tạo dựng. Một số người giàu sống ích kỷ co cụm. Một số quốc gia độc tài không quan tâm đến công bằng xã hội và quyền lợi nhân phẩm của con người. Cũng phải kể đến sự lãng quên Thiên Chúa, thậm chí loại trừ Ngài ra khỏi gia đình và cuộc sống. Sự kiêu ngạo lớn nhất của con người thời nay là tự coi mình có khả năng giải quyết mọi vấn đề liên quan đến sinh mạng, cuộc sống, hiện tại và tương lai. Họ không cần đến Thiên Chúa. Họ coi Ngài như vật cản đà tiến của xã hội và hạn chế tự do của con người. Giữa một cuộc đời đầy bất ổn, Chúa vẫn nói với chúng ta: Đừng sợ!”.

“Đừng sợ!”, vì Chúa là Đấng quyền năng. Ngài tạo dựng nên vũ trụ và muôn vật muôn loài từ hư vô, đồng thời điều khiển vũ trụ trong trật tự kỳ diệu. Chúng ta gọi Chúa là Đấng Quan phòng, tức là Ngài yêu thương, che chở và hướng dẫn chúng ta là tạo vật của Ngài. Tin vào quyền năng của Chúa sẽ giúp con người tìm thấy bình an. Bài đọc I kể với chúng ta: ngôn sứ Elia đang gặp nguy hiểm trước sự truy đuổi của vua Akháp, sau khi thách thức với 450 tiên tri thờ thần Ba-an trên núi Carmen. Trong khi các tiên tri thần Baan kêu cầu, hô hoán, rạch mình mẩy mà không có hiệu quả, thì ông Elia đã chiến thắng khi cầu nguyện xin lửa từ trời xuống thiêu đốt của lễ. Sau cuộc đấu này, vua Akháp và hoàng hậu tìm giết ông. Ông tìm đến núi Khôrép để gặp Chúa. Cuộc gặp gỡ này giúp ông xác tín vào sứ mạng, đồng thời giúp ông lấy lại tinh thần và nghị lực để tiếp tục thi hành sứ mạng Chúa trao. Thiên Chúa không tỏ mình trong bạo lực, động đất, núi lửa, nhưng trong làm gió hiu hiu, tượng trưng cho sự thanh bình, khiêm tốn và an hoà.

“Đừng sợ!”, vì Chúa là Cha yêu thương. Đức Giêsu đã dùng nhiều câu chuyện dụ ngôn để diễn tả tình thương vô bờ của Thiên Chúa. Ngài là Cha nhân hậu, luôn muốn cho con cái mình những điều tốt lành. Ngài cũng luôn bao dung tha thứ những lầm lỗi của con người, với ước mong cho họ được hạnh phúc đời này cũng như đời sau. Tín thác vào tình thương của Chúa, chúng ta không còn sợ hãi, nhưng cảm nhận sự bình an trong cuộc đời, nhất là sự bình an nội tâm, “tâm bất biến giữa cuộc đời vạn biến”.

“Đừng sợ!”, vì Chúa là Đấng chữa lành những vết thương tinh thần và thể xác của con người. Chúa Giêsu là gương mặt dịu hiền đầy thương xót của Chúa Cha. Người đã chữa lành mọi thứ bệnh tật, kể cả sự chết và tội lỗi. Hãy đến với Chúa để được Ngài băng bó tâm hồn tổn thương của chúng ta. Hãy đến với Chúa để được Ngài chữa lành những bệnh tật thể xác và tâm hồn. “Đức tin đã cứu con!”, nhiều lần Chúa Giêsu đã tuyên bố như thế. Đến với Chúa mang theo niềm tín thác cậy trông, chúng ta sẽ được Chúa chữa lành.

“Đừng sợ!”, vì Chúa là Đấng Thẩm phán chí công. Cuộc sống hôm nay, thật giả lẫn lộn, nhiều người mất niềm tin nơi đồng loại. Hãy chuyên tâm làm việc thiện, không phải lấy tiếng khen của người đời, nhưng là để thực hiện lời Chúa dạy. “Đong đấu nào, sẽ nhận lại đấu ấy”, Chúa không để ai bị thiệt thòi và không để lòng quảng đại bị quên lãng. Thực tế đã chứng minh điều ấy. Mặc dù bị hiểu lầm, Tông đồ Phaolô vẫn không nản chí, vì ông tin có lương tâm và có Chúa Thánh Thần làm chứng cho sự trung tín ngay thẳng của mình (Bài đọc II).

“Đừng sợ!”, vì Chúa vẫn luôn hiện diện trong cuộc đời, dù nhiều khi ta không nhận ra Ngài. Đừng nghĩ là một “bóng ma” ám ảnh đời ta, nhưng là Ánh sáng, là Đấng soi đường về chân hạnh phúc. Hãy kêu cầu Chúa và hãy xác tín nơi Ngài. Trình thuật của Mátthêu cho thấy lòng tin của ông Phêrô các môn đệ đã được phục hồi sau khi Chúa nắm lấy tay Phêrô để kéo ông lên. Các ông bái lạy Người và thốt lên: “Quả thật Người là Con Thiên Chúa”. Các ông đã mạnh mẽ tuyên xưng Đức tin và đẩy lui nỗi sợ hãi.

Giữa cuộc đời bấp bênh và đầy nguy cơ này, chúng ta hãy đến với Chúa. Xin Người kéo chúng ta lên khỏi nỗi sợ hãi trước những hiểm nguy đang rình rập chúng ta. Có Chúa, cuộc đời chúng ta sẽ vui tươi và an bình.

Về mục lục

CHUNG TAY ĐÁNH BẠI COVID

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

Quý vị có bao giờ rơi vào vũng lầy khổ đau tuyệt vọng, hay bối rối hoang mang trước khókhăn của cuộc đời không? Có lẽ trong những lúc gặp bất trắc xảy đến thì điều chúng ta cần chính là có một cánh tay tình thương chạm vào ta và truyền thêm sức mạnh, để vết thương trong ta được xoa dịu, để lòng ta được bình yên hầu can đảm vượt qua những đoạn đường nghiệt ngã.

Đây là bàn tay nâng đỡ mà ai cũng cần ít nhất vài lần trong đời, vì sống trong cuộc đời có mấy ai luôn mỉm cười thanh thản trước những đổi thay bất chợt, mà dường như luôn sững sờ lo sợ trước đổi thay!  Vì biển đời mênh mông vô tận, trong lòng nó luôn chất chứa những đợt sóng ngầm, nó sẽ sẵn sàng kéo con thuyền ta ra xa và nhấn chìm bất kỳ lúc nào nếu ta không kịp tỉnh táo và đủ sức để đối phó.

Nhìn vào đàn ngỗng bay hình chữ V cũng là một bài học về sự trợ giúp lẫn nhau mới vượt xa ngàn dặm để tránh mùa đông. Khi chúng bay theo hình chữ V thì nhịp vỗ cánh của con bay sau sẽ tiếp sức cho nhịp vỗ cánh của con bay trước, cứ thế mà chúng tiết kiệm được 70% công lực thay vì bay một mình. Điều lý thú là khi con dẫn đàn thấm mệt thì nó sẽ lùi lại để con thứ hai hoán vị với mình, nó không bao giờ độc tài lãnh đạo cả.

Vì thế mà sự khôn ngoan người xưa nhắc nhở ta rằng :

Đi như một bầy chim 
Vượt vùng trời băng giá
Đừng một mình ra khơi
Biển đời nhiều sóng cả 

Cuộc đời chúng ta ngoài sự nương tựa để dìu nhau qua gian khó, còn có một bàn tay sẵn sàng dìu dắt chúng ta qua biển đời gian nguy, đó chính là bàn tay Thiên Chúa. Ngài luôn đồng hành cùng chúng ta. Ngài luôi dõi bước theo hành trình cuộc đời chúng ta. Hành trình cuộc đời chúng ta không đơn độc nhưng luôn có Chúa đi bên cuộc đời chúng ta.
Bài phúc âm Chúa nhật 19 Năm A kể rằng vào canh tư đêm tối, khi thấy con thuyền các tông đồ đã ra giữa biển khơi, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió. Chúa Giê-su đã đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: “Ma kìa!”, và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng.

Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!”. Và Phê-rô đã muốn thể hiện sự can đảm của mình liền xin đi trên mặt nước như Thầy, nhưng lòng ông bất an. Sóng gió đã nhấn chìm ông dần dần cùng với sự sợ hãi. Trong hoảng loạn ông đã đưa tay ra xin Chúa nắm lấy và cứu ông ra khỏi sự dữ.

Và hôm nay, trong đại dịch Covid, dường như Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta hãy trao vào tay Chúa những lo lắng, những sợ hãi vì sự dữ đang bủa vây chung quanh. Hãy tin Thiên Chúa vẫn luôn  dõi mắt theo hành trình của chúng ta. Ngài không bao giờ để chúng ta đơn độc. Ngài mời gọi chúng ta hãy vững tin vào Ngài. Con người chúng ta có thể bất lực trước sự dữ nhưng với quyền năng Thiên Chúa sẽ luôn thắng vượt sự dữ. Ngài sẽ đánh bại sự dữ vì Ngài đã từng nói: “anh em đừng sợ vì Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33)

Đồng thời, Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy nương tựa vào nhau để cùng nhau vượt qua sóng gió trên dòng đời. Chúa muốn chúng ta hãy là chứng nhân cho tình thương và hiệp nhất của anh em con một Cha trên trời. Đây là điều mà Đức Thánh Cha Phanxico cũng từng nhắc nhở chúng ta, khi ngài viết: “Giống như một cơn bão bất ngờ, cơn khủng hoảng virus corona đã khiến tất cả chúng ta đau khổ, và với tình cảnh bi thảm này cho thấy rõ bản tính dễ tổn thương của con người, bị giới hạn , nhưng nó lại cho chúng ta cơ hội để hướng cuộc sống chúng ta trở về với Thiên Chúa; nó mời gọi chúng ta dùng cuộc sống phục vụ tha nhân, và cuối cùng ngài mời gọi các tín hữu đừng để mình nhiễm Corona nhưng hãy để mình nhiễm tình yêu Thiên Chúa để chúng ta có thể “Truyền nhiễm” tình yêu từ trái tim này sang trái tim khác.

Truyền nhiễm tình yêu thương qua việc sống tiết kiệm, thanh đạm để có thể liên đới và chia sẻ cho những người đang đối diện với thiếu thốn hay khổ đau trực tiếp vì Covid.
Truyền nhiễm tình yêu thương còn là ý thức của cộng đồng cùng chung tay đánh bại Covid. Mỗi người hãy biết sống mình vì mọi người và đừng bắt mọi người vì mình. Mình vì mọi người qua việc ý thức đeo khẩu trang, giữ vệ sinh chung nơi công cộng và thực hiện giãn cách để tránh lây lan. . .

Cuộc đời ai mà không cần sự nâng đỡ, bao bọc của người khác. Thật không ngoa khi nói rằng chúng ta đều lớn lên trong tình thương giúp đỡ của người khác cụ thể là cha mẹ, là thầy cô, bạn bè … Thế nên, hãy sống có ích cho tha nhân. Hãy đến với tha nhân để xoa dịu nỗi đau cho họ, để dìu họ đi qua những khổ đau, để giúp họ đứng dậy làm lại cuộc đời.

Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta lòng mến nồng nàn để sẵn lòng  mang tình yêu và lòng nhân ái đến cho anh chị em chung quanh. Nguyện xin Chúa ban thêm đức tin và đức cậy để chúng ta luôn biết cậy dựa vào ơn trợ giúp của Chúa và an bình sống trong sự quan phòng của Ngài. Amen

Về mục lục

HÃY BƯỚC RA

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Khi Chúa gọi Abram bỏ thành Ur, nơi ông đã có một gia sản, cuộc sống ổn định, ra đi đến một miền đất mới chưa bao giờ biết tới.

Khi Chúa gọi ông Abraham hiến tế đứa con duy nhất do lời hứa của ông.

Khi Chúa gọi Moisê, người đang chăn chiên, đi về nói chuyện với Pharaô phóng thích dân của ông khỏi kiếp nô lệ.

Khi Chúa dẫn dân của Người qua hành trình 40 năm hoang mạc…

Biết bao lần Chúa thử thách lòng tin của dân Người.

Và khi Chúa Giêsu xuất hiện tại Galilê, gọi các môn đệ bỏ thuyền, bỏ lưới để theo chân Người không nơi tựa đầu.

Và khi Chúa dùng chỉ năm chiếc bánh và hai con cá để nuôi năm ngàn người.

Và hôm nay Chúa lại gọi Phêrô bước xuống mặt nước và đến với Chúa đang đi trên mặt biển.

Khi Chúa gọi bạn đang lo âu nhiều chuyện, chỉ có một chuyện cần?

Khi Chúa mời bạn đi vào thanh vắng, khi bên ngoài đang ồn ào huyên náo?

Khi bóng tối đang bao trùm, sự dữ tràn lan, Chúa gọi bạn bước ra vùng ánh sáng.

Khi bạn đang sống tự do cá nhân chủ nghĩa, hưởng thụ, Chúa gọi bạn từ bỏ để bước vào lối sống Tin Mừng.

Khi bạn đang cố chiếm hữu, Chúa bảo bạn hãy từ bỏ.

Khi bạn đang hận thù ghen ghét, Chúa bảo bạn hãy tha thứ và khoan dung.

Có lẽ còn nhiều và nhiều điều nữa Chúa đang mời gọi: “Hãy đến!”, “Hãy bước ra”

Về mục lục

THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG KHÔNG LÀM SỢ

Jorathe Nắng Tím  

Một chân lý vô cùng quan trọng là Thiên Chúa của Đức Giêsu không bao giờ làm sợ, vì Ngài là Tình Yêu (1 Ga 4,8), “điều Chúa phán là lời chúc bình an” (Tv 84,9), và ở Ngài “tín nghiã ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên. Tín nghiã mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao” (Tv 84,11-12).

Chân lý ấy đã thực hiện nơi ngôn sứ Êlia, khi ông bị truy lùng bởi Giêraben đã  đến được núi Hôrép sau bốn mươi đêm ngày trốn chạy vất vả, ở đây, ông đã được gặp Thiên Chúa và Ngài đã không chỉ an ủi, nâng đỡ ông mà còn tỏ cho ông và dân Ngài biết: Thiên Chúa của họ là Thiên Chúa không làm sợ hãi như “ngẫu thần” mà thiên hạ tin thờ, nhưng yêu thương, nhân hậu và đến với con người trong cơn gió nhẹ nhẹ của bình an khi phán với ông: “Kià Đức Chúa đang đi qua. Gió to bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa không ở trong cơn gió bão. Sau đó là động đất, nhưng Đức Chúa không ở trong trận  động đất. Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa là tiếng gió hiu hiu” (1 V 19,11-13).

Tin Mừng Mátthêu thì thuật lại sự kiện Đức Giêsu đi trên mặt nước vào khoảng canh tư đến với các môn đệ đang hoảng sợ trên thuyền “khi thuyền đã xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió”(Mt 14,24).

Đến với các ông đang hoảng hốt vì thuyền sắp chìm, cũng như khuyến khích Phêrô cứ đến với Ngài khi bước đi trên mặt nước, Đức Giêsu đã tỏ uy quyền của Ngài trên sự dữ và trấn an các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ !” (Mt 14,27).

“Đừng sợ!” là tâm tình Đức Giêsu gửi trao chúng ta trong mọi hoàn cảnh đắng đót, tình huống thất vọng; là lời chúc bình an phục sinh của Ngài cho chúng ta giữa những thử thách tưởng không thể vượt qua; là lời hứa cứu độ của Ngài cho chúng ta, những tội nhân biết ngước trông lên và cầu khẩn Ngài thương xót, như Ngài đã “ban bình an” cho các môn đệ của Ngài sau khi sống lại (x. Ga 20, 19; Lc 24,37).

Vâng, con thuyền chòng chành tưởng như sắp chìm vì bị sóng đánh và ngược gió là thuyền đời của mỗi người và là thuyền Giáo Hội. Như thánh Phaolô đã chia sẻ: “Có Đức Kitô chứng giám, tôi xin nói sự thật, tôi không nói dối, và lương tâm tôi, được Thánh Thần hướng dẫn, cũng làm chứng rằng: lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi” (Rm 9,1-2), chúng ta cũng đau khổ, ưu phiền như ngài, và  Giáo Hội cũng không ngừng bị thử thách đủ cách, đủ mức độ. Nhưng có Thiên Chúa là Đấng không bao giờ làm sợ, nhưng luôn có mặt chở che, bênh đỡ, ban bình an như Ngài đã từng can thiệp trong đời sống cá nhân và đời sống Giáo Hội, chúng ta có đủ lý chứng và nền tảng để tin vào Lời Hứa của Đức Giêsu, Thiên Chúa: “Thầy đây, đừng sợ !” (Mt 14,27) vì “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).

Về mục lục

CON THIÊN CHÚA

Lm Vũđình Tường

Sau khi cho năm ngàn người ăn no, Đức Kitô nói với các tông đồ xuống thuyền đi qua bờ bên kia, Ngài lưu lại giải tán dân chúng và cầu nguyện. Gốc ngư phủ, các tông đồ có nhiều kinh nghiệm sóng to, bão lớn, các ông tiếp tục chèo chống con thuyền tiến tới. Trong đêm tối, các ông trông thấy sự lạ. Điều này chưa từng xảy ra, có người bước trên đầu sóng tiến về phía các ông. Các ông sợ hãi. Đây là sự thật hay do quáng gà, mệt mỏi, vất vả, thiếu ngủ khiến mắt nhìn cò hoá quốc. Rồi các ông nghe được giọng nói quen thuộc, ‘Thầy đây, đừng sợ’. Vẫn còn hoài nghi, Phêrô lên tiếng, ‘Nếu quả là Thầy, xin cho con đi trên mặt nước đến với Thầy’ c.28a. Được phép, Phêrô nhảy xuống nước tiến về phía Đức Kitô, thình lình cơn sóng khổng lồ trào đến che khuất tầm mắt, ông hoảng sợ, la lớn, ‘Thầy ơi, cứu con’ c.30. Sau khi hai thầy trò lên thuyền, Đức Kitô ra lệnh cho gió yên, sóng lặng. Mọi người trong thuyền kinh ngạc, bái lậy Ngài xưng tụng, ‘Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa’ c.33. Điều này chứng tỏ Đức Kitô có toàn quyền trên thiên nhiên. Ngài có quyền ban sự sống và trên thần chết.

Phúc Âm không cho biết ai là chủ thuyền? Chắc chắn không phải là một trong số các tông đồ. Có thể Đức Kitô mượn hoặc thuê thuyền của ai đó. Điều quan trọng trong bài không phải là chủ quyền của con thuyền. Hình ảnh con thuyền chính là hình ảnh của Giáo Hội Chúa nơi trần gian. Con thuyền Giáo Hội gặp hoạn nạn ngay từ buổi sơ khai. Từ những ngày đầu tiên và liên tục kéo dài cho đến hiện nay, chưa lúc nào con thuyền Giáo Hội thiếu sóng to, gió cả. Bắt bớ, tù đầy, chém giết, đốt sách vở, tịch thu tài sản, chiếm đoạt nhà đất, bão táp do tham vọng lãnh tụ, vua chúa trần gian tạo ra liên tục. Bao triều đại đã đi qua, bao vua chúa đã ngã gục, bao chính thể bị đào thải, bao í thức hệ bị loại bỏ, bao chủ thuyết bị xoá sổ, con thuyền Giáo Hội vẫn tiến, lúc nhanh, lúc chậm. Có lúc con thuyền Giáo Hội như mất hút, chìm sâu dưới làn sóng, trào lưu, rồi con thuyền đó lại vượt sóng tiến lên. Tương tự như các tông đồ, vất vả chèo, chống, mệt mỏi, đói khát, kiệt sức, mất ngủ, các ngài vẫn kiên trì, giữ vững tay chèo. Các nhà lãnh đạo trong Giáo Hội bị đánh tơi bời, bị giải thể, bị đầy ải. Tử vì đạo sớm gặp Đức Kitô. Kẻ sống sót tiếp tục chèo chống, chờ đợi lâu hơn, rồi cũng có ngày gặp Đức Kitô. Tin vào Đức Kitô xác định rõ mục đích và điểm đến của cuộc lữ hành. Hiện nay con thuyền Giáo Hội phải đương đầu về cả đối nội lẫn đối ngoại. Vấn đề xấu hổ, muối mặt hoàn cầu chính là việc lạm dụng tình dục trẻ em trong hàng ngũ tu sĩ. Kế đến là thiếu ơn gọi tu trì và ít người tham dự các buổi lễ cuối tuần làm cho đời sống sinh hoạt Giáo Hội bị nghèo nàn. Vấn đề chọn người lãnh đạo có khả năng, tài ba cũng là vấn nạn lớn. Ngoài xã hội các phong trào mọc lên như nấm, như phong trào bình quyền, phong trào đòi tái định nghĩa truyền thống gia đình do tổ chức đồng tình luyến ái phát động. Phong trào áp đặt chủ nghĩa quốc gia, dân tộc vào tôn giáo. Vấn đề thay đổi lề lối suy nghĩ, đòi tự làm chủ cuộc sống, đòi đặt tài năng và trí tuệ con người lên trên sự không ngoan Thiên Chúa. Giới thương mại có đủ tài chánh thu hút thành phần có khả năng quảng bá chủ trương tiêu thụ, cạnh tranh, giai cấp, chọn phái tính và hưởng lạc, chính xác hơn, nhanh hơn, bắt khách hơn. Tiếng nói của Giáo Hội bị coi là thứ yếu, đơn độc một mình lên tiếng phản đối, khuyến cáo về vấn đề đạo đức suy đồi, tha hoá và các hủ hoá xã hội.

Cá nhân cũng như đoàn thể đều có những khó khăn riêng, bệnh tật, già nua bị đào thải. Tất cả những điều đó cho thấy con người bất toàn. Cuộc sống là một hành trình và thế giới luôn có những bất ổn do xu hướng chính trị khác nhau tạo ra. Tư tưởng mở mang bờ cõi đã lỗi thời. Cá nhân này chiếm của người này, đoạt của người khác đã bị loại bỏ. Ngày nay người ta học sống chung hoà mình. Thời gian tranh chấp đã lỗi thời, xa xưa, đã mãn, đã đi vào dĩ vãng. Hầu hết lãnh tụ các quốc gia đã từ bỏ tư tưởng chiếm đất, lấn biển. Người ta dồn hết khả năng tài chánh và năng lực trí óc vào việc thám hiểm vũ trụ, tìm kiếm cách chống tác hại môi trường; tìm cách cung cấp rau xanh, thực phẩm tốt, nước uống trong lành cho mọi người, cho mọi dân tộc. Các phòng thí nghiệm tìm cách diệt vi khuẩn, chữa bệnh các loại và cùng nhau làm cho cuộc sống thoải mái hơn, đời bớt đau khổ hơn.

Bên cạnh thiên tai và khó khăn do con người gây nên, cuộc sống vẫn rất tốt, vẫn có nhiều niềm vui. Chúng ta sống trong lo sợ và hy vọng, sống vừa cạnh tranh để cùng tiến vừa nâng đỡ. Trên đường đi đến bờ bên kia, tông đồ Đức Kitô gặp gian nan, khốn khó, chèo chống con thuyền ngoài khơi. Cuối cùng các ông gặp Đức Kitô và sống yên bình. Kitô hữu không sống trong bi quan, nhưng sống lạc quan bởi Đức Kitô cùng đồng hành với ta trong cuộc sống. Kitô hữu luôn khiêm nhường nhận biết cuộc sống trần thế luôn có quyết định sai, luôn có hành động trái. Đời sống luôn có bất ổn kèm theo. Bất ổn do lãnh đạo tạo ra cũng có. Bất ổn do chính mình gây nên cũng nhiều. Kitô hữu luôn nhớ rằng khi khó khăn xảy đến Đức Kitô đưa tay cứu vớt. Khi nào Ngài dơ tay, cá nhân ta không có quyền quyết định. Đức Kitô tự Ngài quyết định bởi Ngài biết khi nào và làm ra sao là do của Ngài. Kitô hữu cần học hỏi cách đón nhận. Chúng ta xin học biết ơn đón nhận ơn Chúa ban.

Về mục lục

TỪ SÓNG GIÓ CON THUYỀN PHÊRÔ ĐẾN SÓNG GIÓ CUỘC ĐỜI

Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương

Từ việc bị lật xe tại Quảng Bình làm chết 15 người; từ việc nổ nhà máy tại Beirut, Lebaon, làm chết hàng trăm người và bị thương hơn 5000 người; lũ lụt, chấu chấu xuất hiện đầy dẫy, động đất và thiên tai đang hoành hành gần 3 tháng nay tại Trung Quốc; nhất là gần 1/2 năm đại dịch Virus Covid 19, đã giết chết gần triệu người, bị nhiễm bệnh với con số khủng lồ không đếm hết được vì đang lây lan từng giây phút trên toàn thế giới,….

Con thuyền của các môn đệ đã bị gió cản trở làm cho việc chèo chống khó khăn và mệt mỏi! Con thuyền bị ngược gió này đang nhắc nhở các môn đệ, nhất là Phê-rô rằng con thuyền không có Thầy là con thuyền đầy gian nan và thử thách; con thuyền vắng bóng sự hiện diện của Thầy Giê-su là con thuyền đối diện với nhiều sự cản trở của ác thần và sự dữ! Con thuyền ngược gió của các môn đệ cần sự trợ giúp của Chúa hơn là tự sức mình chèo chống; (chuyện cá nhân, gia đình hay tập thể sẽ khó giải quyết nếu thiếu đi đời sống cầu nguyện, sự phó thác và lòng trông cậy vào Chúa; ví dụ: gia đình gặp phải sự suy đồi của một người con, người chồng rượu chè, cờ bạc, nghiện ngập,…) Đây là sóng gió cuộc đời, đây là sóng gió của gia đình, nếu tự mình chèo chống và giải quyết thì sinh ra phàn nàn, kêu ca, chán chường, thất vọng và đương nhiên sẽ rất khó đạt được kết quả, nhưng ngược lại, như các môn đệ, khi có sự hiện của Đức Giê-su trên thuyền thì gió đã lặng im và thuyền đã cập bến an toàn, cũng vậy, đứng trước sự chông chênh con thuyền gia đình, mỗi chúng ta hãy biết mời Chúa đi vào con thuyền đó để “gió” sẽ yên và “biển” sẽ lặng! Mọi chuyện sẽ qua kèm theo bình an và hạnh phúc nếu trong từng giây phút của cuộc đời, mỗi người trong chúng ta biết dành một vị trí cho Chúa trong “chiếc thuyền cuộc đời”! Vì “không có Thầy anh em chẳng làm được gì” (Ga 15,5), vì thế, để mọi đường đi nước bước của chúng ta trên “con thuyền cuộc đời” vượt qua được sóng gió là đau khổ, bệnh hoạn tật nguyền, là cô đơn hẻo lánh, là tai ương hoạn nạn,… chúng ta phải biết cầu nguyện, đọc Lời Chúa, Viếng Thánh Thể, là Lần Chuỗi Mân Côi, nhất là siêng năng tham dự Thánh lễ mỗi ngày để qua đó mỗi người luôn luôn gặp gỡ Chúa và được Ngài ở cùng trong mọi biến cố vui buồn của cá nhân, của gia đình!

Quả thật, con thuyền cuộc đời không thể không có gian nan và thử thách, điều quan trọng là chúng ta phải chấp nhận đối diện và chèo chống! Tuy nhiên, nếu chúng ta tự cậy sức mình, tự cho mình là giỏi, tự hào mình giàu có, khôn ngoan, mà không cần sự trợ giúp của người khác, hay loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi “cuộc chơi”, ra khỏi con thuyền thì không chóng thì chầy, con thuyền cuộc đời đó không những gặp khó khăn và gian nan, nhưng sẽ mau chìm bởi quá kiệt sức và đầy “nước” của những thất vọng và đau thương! Vì thế, sự hiện diện của Chúa nơi con thuyền cuộc đời và cuộc sống hết sức cần thiết cho nhân loại nói chung, cho mỗi chúng ta nói riêng! Vì thế, mỗi người hãy tìm mọi cách làm sao “mời” cho được Chúa ngồi vào một vị trí quan trọng trong con thuyền đời mình để có Chúa sẽ có bình an, có Chúa sẽ có hạnh phúc, có Chúa sẽ dễ dàng chèo chống con thuyền đó dẫu có “ngược gió” bởi những lo toan, nhân tai và thiên tai! Được như thế, mỗi người chúng ta sẽ luôn vui vẻ và dấn thân trên mọi nẻo đường mà không ngại khổ và ngại khó! Được như thế, chúng ta dễ dàng mang niềm vui, bình an và hạnh phúc đến cho anh chị, nhất là cho những người đang phải gồng mình vất vả chèo chống những “ngược gió” trên đường đời bởi họ “chưa biết” hay không chịu đón nhận sự trợ giúp của ai đó, nhất là sự trợ giúp của Thiên Chúa Tình Yêu, là Vị Thiên Chúa luôn sẵn sàng đến – gõ cửa và vào nhà nếu người nhà mở cửa và sẽ ở lại để ban ơn giúp sức cho người ấy và chắc chắn rằng gia đình đó, cá nhân đó sẽ được chữa lành và nhận được ân lộc tràn đầy cho con thuyền cuộc đời! Amen!

Về mục lục

LÀM NÊN NHỮNG VIỆC LẠ LÙNG

Maria. Phạm Anh

Chúng ta cảm thấy thán phục khi nhìn thấy những em khiếm thị thổi sáo, đánh đàn thật hay. Và cả những người khuyết tật, họ làm được những việc mà có lẽ nhiều người trong chúng ta không thể làm được, như anh Nick Vujicic, tuy là một người khuyết tật cả tay và chân nhưng anh lại là một nhà diễn thuyết nổi tiếng. Hôm nay, chúng ta cũng thấy ngạc nhiên về hình ảnh ông Phêrô đi trên mặt nước mà đến với Đức Giêsu, chuyện này con người chẳng thể làm được. Đó là một phép lạ. Cũng vậy, trong cuộc sống, chúng ta có thể thực hiện được những việc mà tưởng chừng như chưa bao giờ chúng ta làm được. Nhưng làm sao có thể thực hiện được những điều ấy? Phải chăng phép lạ xảy đến là điều tự nhiên chẳng có khó khăn gì?

Chúng ta mong muốn có những phép lạ xảy ra trong cuộc đời chúng ta lắm chứ! Nhưng đã bao giờ chúng ta dám mơ ước những điều vượt ra khỏi “vùng trời” quen thuộc của bản thân? Chẳng hạn, có khi nào chúng ta dám đứng trước đám đông, hay bứt phá đi ra khỏi vùng quê của mình để lập nghiệp, hoặc thử sức lãnh trách nhiệm trong một hội đoàn, trong giáo xứ, ở nơi làm việc? Và còn khó khăn hơn khi chúng ta can đảm dám bước ra khỏi chính bản thân, ra khỏi những “lời dị nghị, đàm tiếu” của người khác để đến với tha nhân, đến với một người đã xúc phạm đến chúng ta. Tâm hồn rộng mở, quan điểm đổi mới để chúng ta tha thứ cho người khác, đón nhận người khác khi họ sai lỗi, hư hỏng trở về! Thật là khó! Nếu chúng ta chỉ nhìn vào bản thân, chúng ta không thể thực hiện những chuyện ấy được. Nhưng giống như Thánh Phêrô: “từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu” (Mt 14, 29), chúng ta can đảm xin Chúa cho con được thực hiện, và dám mơ ước, dám bước ra khỏi những gì là “thói quen” để làm được những điều vĩ đại. Theo kinh nghiệm của Thánh Augustino, ngài đã nói: “ông này bà kia nên thánh, tại sao tôi không nên thánh”?, trong khi ngài đang ở trong tình trạng tội lỗi, ăn chơi, dùng những lý luận sắc bén để phản bác lại Giáo hội. Thế mà khi trở về ngài đã trở thành một vị đại thánh, ngài làm Giám mục, và dùng khả năng mà Chúa đã ban để bảo vệ đức tin của Hội thánh. Chúng ta hãy bước ra khỏi “lối sống cũ” để đi đến “những chân trời mới”, ở đó Thiên Chúa sẽ thực hiện những phép lạ mà chúng ta không thể ngờ tới

Việc bước ra ấy chẳng dễ chút nào như kinh nghiệm của ông Phêrô đi trên mặt nước, khi thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và ông đã chìm (Mt 14, 30). Quả thật, việc bước ra ấy là cả một quá trình chiến đấu, chiến đấu với chính bản thân và cả những khó khăn của hoàn cảnh nữa. Chẳng hạn, khi lập nghiệp, chúng ta ngại đến một môi trường mới, bởi “vốn liếng” chưa có, không người thân giúp đỡ, sợ thất bại. Hay khi lãnh trách nhiệm trong giáo xứ, chúng ta sợ mất thời gian, công sức và e dè do không có khả năng. Hoặc khi chúng ta đi bước trước đến với tha nhân, chúng ta sợ người khác coi là hèn nhát, không có bản lĩnh, chịu thua… Tất cả những điều đó là những sóng lớn làm cho chúng ta không dám bước ra khỏi “vùng an toàn”, chúng ta chẳng còn gì để bám víu. Nhưng chính lúc đó, chúng ta hãy học gương của Thánh Phêrô, hãy thưa lên với Đức Giêsu: “Thưa Ngài, xin cứu con với” (Mt 14, 30). Ban đầu, có thể, chúng ta không nhận ra được dấu vết, và bàn tay Thiên Chúa đang hành động ,nhưng chúng ta hãy tin tưởng. Ngài luôn có đó, Ngài đang hiện diện và cùng đồng hành với chúng ta. Ngài không thực hiện những việc hoành tráng như chúng ta vẫn nghĩ, nhưng là sự âm thầm. Trong kinh nghiệm của Tiên tri Giêrêmia: Thiên Chúa không ở trong bão tố, động đất, lửa, nhưng Người ở trong tiếng gió hiu hiu (x 1V 19, 11-13a). Chính những lúc khó khăn ấy, chúng ta hãy thinh lặng để cảm nhận, và giữ lấy bình an- nguồn sức mạnh chúng ta tựa nương. Chắc hẳn, chúng ta biết bài hát Dấu chân (Thông Vi Vu) diễn tả hình ảnh Thiên Chúa đang đi song hành bên ta, và khi chúng ta mệt nhoài, cô đơn và tưởng như phải chống trả một mình, nhưng chính lúc đó, Thiên Chúa đã ẵm chúng ta trên cánh tay của Ngài. Chúng ta hãy cứ tin tưởng và can đảm cộng tác vào những ơn mà Thiên Chúa ban, để chúng ta cùng Ngài thực hiện trong công trình tốt đẹp của Ngài dành cho mỗi người chúng ta.

Lạy Chúa, đã từ lâu con chỉ ngồi trong cái vỏ ốc- khung trời của con mà mong phép lạ xảy ra, con đã ở yên vị trong đó mà không dám bước ra. Giờ đây, xin cho con can đảm, dám mơ ước những điều cao xa và dám buông bỏ để Chúa thực hiện phép lạ trên cuộc đời của con. Con biết với sức riêng con thì không thể, bởi con sợ, sợ vất vả, sợ tổn thương, sợ thất bại,… Nhưng xin cho con luôn nhớ và tin tưởng có Chúa luôn hiện diện ban ơn cho con, cùng đồng hành với con. Giống như một đứa trẻ đang tập đi, dù biết ngã nhiều lần và rất đau, nhưng khi nhìn thấy ánh mắt yêu thương của ba mẹ đang mong chờ nó tiến tới, thì nó nhanh nhảu bước tới. Cũng vậy, dù khó khăn đến mấy, con cũng hăng hái chạy tới để sà vào vòng tay yêu thương của Chúa đang sẵn chờ con. Amen.

Về mục lục

CẤP CỨU

Trầm Thiên Thu

Có nhiều dạng cấp cứu, không thể trì hoãn – tai họa, tai nạn, bệnh tật, áp bức, bách hại,… cụ thể và rõ ràng nhất là những người nhiễm covid-19 trong thời gian này: “Lạy Chúa, vì danh dự của Ngài, xin cho con được sống. Bởi vì Ngài công chính, xin cứu con khỏi bước ngặt nghèo.” (Tv 143:11)

SOS là tín hiệu cấp cứu phát bằng vô tuyến điện báo hoặc cách phát khác, nghĩa là có sự nguy hiểm nghiêm trọng, cấp bách đang đe dọa và yêu cầu trợ giúp. Quy ước tín hiệu SOS được đề xuất lần đầu tiên tại Hội nghị Quốc tế về Liên lạc Điện tín trên biển ở Berlin năm 1906, được quốc tế phê chuẩn năm 1908 và được sử dụng rộng rãi từ đó.

Để dễ nhớ, SOS có thể được hiểu là “Xin Cứu Tàu Chúng Tôi” (Save Our Ship – Titanic là con tàu đã sử dụng tín hiệu SOS khi bị đắm vào tháng 4-1912), “Xin Cứu Linh Hồn Chúng Tôi” (Save Our Souls), hoặc “Xin Gởi Cứu Trợ” (Send Out Succour), và còn các nghĩa khác… Thật ra không có ý nghĩa riêng nào nên hoàn toàn sai khi đặt các dấu chấm giữa các mẫu tự đó. SOS được chọn vì là tín hiệu ngắn, dễ nhận biết và có thể gửi đi nhanh chóng.

Có nhiều thứ sóng – tốt và xấu, nhưng thường là sóng dữ. Khi nói đến sóng, người ta nghĩ ngay tới biển với những con sóng. Sóng có lúc rất hiền hòa, rất thơ mộng khi sóng “mơn man vỗ mạn thuyền,” do đó mà người ta áp dụng nghĩa này cho vấn đề trừu tượng và gọi là “lãng mạn.” Sóng cồn dù dữ dội nhưng là sóng nổi, không đáng sợ bằng sóng ngầm, không thể nhìn thấy. Sóng còn khủng khiếp hơn nếu đó là sóng bạc đầu hoặc sóng thần, điển hình là sóng thần tại Nhật Bản ngày 11-03-2011 đã cuốn mất khoảng 16.000 người và quét sạch mọi thứ vào lòng biển khơi. Biển vừa hiền vừa dữ, sâu thẳm và bao la, lòng biển không bao giờ lặng, luôn động, dù có lúc nhìn biển rất tĩnh.

Biển đời cũng vậy, có đủ loại sóng. Sóng còn gọi là ba đào (dậy sóng – ba: sóng, đào: nổi dậy.) Chúng ta đang miệt mài hành trình lữ hành trần gian, lênh đênh trên biển đời, luôn gặp những loại sóng đời – đủ dạng và đủ cỡ. Không vững tay chèo là thuyền đời chìm ngay. Vì thế, lúc nào chúng ta cũng phải phát tín hiệu báo khẩn: SOS, lạy Thiên Chúa! Thật vậy, ngày nay sóng dữ “bách hại tôn giáo” nổi lên khắp nơi. Có phải là lúc đang ứng nghiệm chương 11 sách Đaniel chăng? Nói về vua phương Bắc mặc sức tung hoành, chống lại vua phương Nam.

Thiên Chúa hiện diện mọi nơi và thể hiện trong mọi sự, kể cả những thứ chúng ta cho là không tốt, nhưng Thiên Chúa tốt lành, không bao giờ làm điều xấu. Các loại đau khổ và những thứ không tốt xảy ra cho chúng ta, không phải Ngài không biết, nhưng Ngài cho phép nó xảy ra theo tự nhiên để dạy chúng ta bài học giá trị. Có thể đó là hậu quả do sai lầm của chúng ta hoặc của người khác, nhưng cũng có thể là để làm vinh danh Chúa – như trường hợp người mù bẩm sinh. (Ga 9:1-3) Tội lỗi cũng có tính liên đới: Xả rác bừa bãi gây ô nhiễm môi trường, không ngăn nắp gây dơ bẩn, rồi bệnh tật,… Lối sống thụ động cũng gây hệ lụy tất yếu. Có rất nhiều liên đới như vậy.

Ngày xưa, ông Êlia vào một cái hang và nghỉ đêm tại đó. Chúa hỏi ông làm gì ở đó. (1 V 19:9) Rồi Ngài nói với ông: “Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Đức Chúa. Kìa Đức Chúa đang đi qua.” (1 V 19:9) Gió to, bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa KHÔNG ở trong cơn gió bão. Sau đó là động đất, nhưng Đức Chúa KHÔNG ở trong trận động đất. Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng KHÔNG ở trong lửa. Sau lửa có tiếng gió hiu hiu.

Vừa nghe tiếng đó, ông Êlia lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang. Ông nhận biết Đức Chúa đang ở trong làn gió nhẹ đó. Quả thật, lúc đó có tiếng hỏi ông như trước: “Êlia, ngươi làm gì ở đây?” (1 V 19:13) Ông thưa: “Lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, nung nấu con, vì con cái Israel đã bỏ giao ước với Ngài, phá huỷ bàn thờ, dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài. Chỉ sót lại một mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng con.” (1 V 19:14) Ông phải chạy trốn làn sóng bách hại. Thiên Chúa đã cấp cứu ông.

Quả thật, không dễ dàng lắng nghe tiếng Chúa hoặc nhận biết ý Chúa, vì thế mà chúng ta phải không ngừng cố gắng lắng nghe để nhận biết ý Ngài, rồi tiếp tục cố gắng chấp nhận và thực hiện, người có lòng nhiệt thành đối với Chúa thì sẽ để ý Chúa nên trọn chứ không mong ý mình nên trọn. Về lĩnh vực này, chúng ta lại thường có xu hướng trái ngược, vì chúng ta luôn thích “xin được như ý” theo kiểu theo ý mình chứ không theo ý Chúa.

Với kinh nghiệm tâm linh, Thánh Vịnh gia chia sẻ: “Tôi LẮNG NGHE điều Thiên Chúa phán, điều Chúa phán là lời chúc bình an cho dân Người, cho kẻ trung hiếu và những ai hướng lòng trí về Người. Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa, để vinh quang của Người hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta.” (Tv 85:9-10) Thiên Chúa đại lượng, nhưng Ngài chỉ ban ơn cho những người cần, Ngài không ép ai.

Chắc chắn ở đâu có Chúa thì mọi sự đều tốt đẹp. Gặp “xui xẻo” thì phải xét lại cách sống của mình. Thánh Vịnh gia nói: “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên. Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao. Vâng, chính Chúa sẽ tặng ban phúc lộc và đất chúng ta trổ sinh hoa trái. Công lý đi tiền phong trước mặt Người, mở lối cho Người đặt bước chân.” (Tv 85:11-14) Điều này cũng có nghĩa là ở đâu vắng bóng Thiên Chúa thì sẽ hoang vu, thậm chí là nguy hiểm và ảnh hưởng tính mạng.

Vậy phải làm sao? Không gì hơn là mau chóng gọi cấp cứu và đón Chúa vào lòng, càng sớm càng tốt, trước khi công lý được áp dụng, trước khi hết thời gian thương xót. Thiên Chúa vẫn kiên trì chờ đợi chúng ta trở về như người cha nhân hậu mong ngóng đứa con hoang đàng trở về. (Lc 15:11-32) Ai khôn ngoan thì biết tỉnh thức đợi chờ Ngài như mười trinh nữ khôn ngoan chờ đón chàng rể, (Mt 25:1-13) vì thời gian như thoi đưa, không chờ đợi ai. Lý do? Bởi vì “Chúa đã gần đến,” (Pl 4:5) “ngày Chúa quang lâm đã gần tới,” (Gc 5:8) và “thời giờ đã gần đến.” (Kh 1:3; Kh 22:10) Đó là không ngừng rèn luyện Đức Tin, để khi gặp thử thách sẽ không bị chao đảo, không như hạt giống rơi vào đất sỏi đá hoặc bụi gai.

Bất cứ ai biết tỉnh thức chờ Chúa như vậy thì không thể ngồi yên, luôn như biển động, luôn nổi sóng bồn chồn – lúc mạnh, lúc nhẹ. Thánh Phaolô cũng đã đứng ngồi không yên. Ông thề có Đức Kitô chứng giám, rồi nói sự thật chứ không nói dối, nhờ Thánh Thần hướng dẫn: “Lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi.” (Rm 9:2) Tại sao vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô, tôi cũng cam lòng. Họ là người Israel, họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban tặng các giao ước, lề luật, một nền phụng tự và các lời hứa; họ là con cháu các tổ phụ; và sau hết, chính Đức Kitô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ. Người là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Rm 9:3-5) Có Chúa thì hạnh phúc và vinh dự, cụ thể là luôn thản nhiên, bình an.

Tuy nhiên, con người thường có tính xấu: nói rồi quên, hứa rồi thôi. Phàm nhân thật là khốn nạn, vì không chỉ nghe người khác nói mà chứng kiến tận mắt, thế mà vẫn chưa tin. Ôi, con người thật tồi tệ!

Trình thuật Mt 14:22-33 đề cập việc Phêrô xin cấp cứu: Vào một buổi chiều nọ, có lẽ trời quang mây tạnh, đẹp lắm, thú vị lắm. Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn no, Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Ngài giải tán dân chúng, vì chắc chắn dân chúng lưu luyến Ngài, khoái Ngài lắm, không thể về được, dù trời đã gần tối. Mãi mới giải tán được. Khi giải tán họ xong, Ngài lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến, Ngài vẫn ở đó một mình.

Chúa Giêsu luôn thích sống tĩnh lặng để kết hiệp với Chúa Cha qua lời cầu nguyện. Ngài luôn căn dặn mọi người phải cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. (Lc 22:40-46) cầu nguyện là sức sống và sức mạnh của linh hồn: Thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hoạt động.

Trong lúc Chúa Giêsu ở một mình và cầu nguyện, chiếc thuyền chở các môn đệ đã ra xa bờ vài cây số, bị sóng đánh vì ngược gió. Lúc đó khoảng canh tư – tức là quá nửa đêm về sáng, Ngài đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. Thấy Ngài đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy!” Họ sợ hãi và la lên. Ngài liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14:27) Nghe vậy, ông Phêrô bán tín bán nghi nên liền thưa: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.” (Mt 14:28) Ngài ôn tồn: “Cứ đến!” Ông Phêrô mạnh dạn bước ngay xuống khỏi thuyền, đi trên mặt nước mà đến với Ngài. Rất ngon lành. Thế nhưng khi thấy GIÓ thổi, ông đâm SỢ, hồn xiêu phách lạc, chín vía lên mây ráo trọi, và bắt đầu CHÌM, ông la toáng lên: “Sư Phụ ơi, xin cứu đệ tử với!” (Mt 14:30) Đức tin cần thiết nhưng không đơn giản.

Và cuộc đời của mỗi chúng ta cũng vậy, chẳng hơn gì Phêrô đâu. Biển đời chỉ mới gợn sóng lăn tăn thôi, vậy mà thuyền đời của chúng ta đã tròng trành tưởng chừng chìm đến nơi. Lòng tin tích góp bao năm, bỗng “bốc hơi” như muốn cạn kiệt; cây đức tin vun tưới bao năm, bỗng héo úa mau chóng. Ôi, lạy Chúa! Đức tin chỉ “sống” khi dòng đời êm ả, khi tiệc tùng linh đình, khi ung dung rung đùi, khi được người ta tâng bốc lên tận mây xanh,… Còn khi gặp phải gió xoáy hoặc gió lốc, con-thuyền-đức-tin quay tít như chong chóng, mất cả phương hướng. Kém cỏi thật, và khổ thật!

Khi thấy đệ tử Phêrô ngoi ngóp trong dòng nước, Chúa Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà KÉM TIN vậy! Sao lại HOÀI NGHI?” (Mt 14:31) Lời trách nhẹ nhàng mà đau điếng. Đó cũng là lời trách mà Thầy Giêsu đang nói với mỗi chúng ta hôm nay, ngay bây giờ. Lời trách thẳng thắn nhưng đầy ắp yêu thương, vì Ngài muốn chúng ta thực sự trưởng thành trong đức tin.

Sau khi hai thầy trò đã lên thuyền thì gió yên, biển lặng ngay. Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Ngài và nói: “Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa!” (Mt 14:33) Đó là bài học đức tin vô giá mà Chúa Giêsu dạy chúng ta ngay trong những lúc chúng ta gặp cơn sóng gió của cuộc đời. Ước gì chúng ta khả dĩ nhận biết mình yếu kém về đức tin, nhờ đó mà có thể cố gắng chăm sóc cây đức tin ngày càng lớn mạnh, luôn đổ thêm nhiên liệu đức tin để ngọn đèn tâm linh không lúc nào lu mờ.

Về thể lý, có thể có người chưa phải cấp cứu; nhưng về tâm linh, chắc chắn chúng ta đã nhiều lần cần cấp cứu. Thật vậy, cuộc đời không như thảm lụa hoặc như chiếu trải hoa hồng. Thiên nhiên còn lúc nắng, lúc mưa, lúc hạn hán, lúc mưa dầm, thậm chí là áp thấp hoặc bão tố. Cụ Nguyễn Công Trứ đã đã đặt vấn đề: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?” Giữa sóng gió cuộc đời, dù nhỏ hay lớn, ước gì chúng ta vẫn luôn khả dĩ xác tín với Đức Giêsu Kitô: “Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa!” (Mt 14:33) Đặc biệt là luôn gọi tổng đài Thiên Đàng để được Thầy Giêsu cấp cứu: “SOS, Chúa ơi!”

Thánh Tiến sĩ Teresa Avila xác định: “Tất cả tội lỗi đều do thiếu đức tin mà ra.” Câu này đáng để chúng ta “giật mình” để cố gắng tự chấn chỉnh và làm cho đức tin phát triển mỗi ngày một hơn.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, gian trần đầy bất trắc, xin cấp cứu chúng con, gia tăng tín lực và ái lực để chúng con kiên vững trong mọi hoàn cảnh như Tổ Phụ Ápraham, Thánh Gióp, Đức Maria và Đức Giuse, nhất là trong loại sóng dữ corona vỗ mạnh hiện nay. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

SỨC MẠNH CỦA TÌNH YÊU

Lm. Jos DĐH.

Bằng kinh nghiệm, tiền nhân chúng ta rất tự tin khi quả quyết: nắng tốt dưa, mưa tốt lúa. Khởi đi từ trái tim biết rung nhịp cảm mến: gia đình huyết tộc, bà con anh chị em giữa tình làng nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn có nhau, người người xa gần không ngại gắn kết với nhau: bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. Nhờ có đời sống nghiêm túc, kỷ luật, biết làm chủ bản thân, những nguy hiểm, đau khổ, sự thất bại, không làm cho họ phải khiếp sợ hay gục ngã, bỏ cuộc. Bằng những kiến thức phổ thông, người ta phân biệt được trắng đen, tính toán được lợi nhuận trong công việc làm ăn. Nhờ chiếc điện thoại thông minh, dù xa xôi cách trở, ai cũng có thể nhìn thấy hình ảnh của nhau, tham khảo ý kiến người khôn ngoan, bậc hiền tài.

Nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu, tất cả những ai đi trên con thuyền giáo hội vượt biển trần gian, đều đến bến bờ bình an. Tiến trình Phêrô và các bạn của ông năm xưa, chèo chống con thuyền vượt sông nước đầy khó khăn, song quả là kỳ diệu, khi tình yêu thương và quyền năng Đức Giêsu được thể hiện. Cha ông chúng ta thật chí lý khi nói: nhìn người đẹp thì thích mắt, ở gần người tài giỏi thì không phải ưu tư lo lắng, trước mọi tình huống ; nhưng ta sẽ bình an, tự tin, khi sống với bậc khôn ngoan, có lý có tình trong cư xử. Các môn đệ sợ hãi bởi thuyền ngược gió, bởi sự khôn ngoan và sức mạnh của các ông quá giới hạn so với biển cả trần gian bủa vây tư bề. Đức Giêsu đã cho các môn đệ và những người ở trên con thuyền thấy điều gì ? Có phải đó là sức mạnh của niềm tin hiệp nhất, sức mạnh của tình yêu Giêsu, hay sự hiện diện đầy quyền năng của Thầy Giêsu ?

“Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ”. Tiếng gọi mời, lời trấn an, đầy thân thương, còn đó khi người ta đặt tin tưởng, kêu cầu như các môn đệ, như Phêrô: “lạy Thầy, xin cứu con”. Sức mạnh của quyền lực trần gian cùng lắm bảo vệ ta vượt qua phút chốc vinh dự tạm thời: còn tiền, còn bạc, còn đệ tử, ….! Sức mạnh của đôi trai tài gái sắc, chỉ bảo đảm trong khung thời gian tương đối: tình chỉ đẹp khi còn dang dở ! Sức mạnh của tình yêu quê hương, liệu có bền vững không ? hay chỉ tồn tại trong ký ức tuổi thơ: quê hương là chùm khế ngọt, quê hương là con diều biếc, quê hương là con đỏ nhỏ, … ! Sức mạnh của tình Chúa, sẽ mở ra một khung trời mới đầy tình người, không toan tính hơn thiệt: “lạy Thầy, nếu quả là Thầy, xin truyền cho tôi đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy. Chúa Giêsu trả lời Phêrô: hãy đến”.

Trong giáo dục, bậc tiền bối vẫn nhắc: nhặt được tiền của rơi rớt đã là hiếm, tình yêu ở đời thì đầy, nhưng tình yêu thật biết tìm nơi đâu ? Trên con thuyền vượt biển, tất nhiên là có nguy hiểm, nhưng nếu không tin vị thuyền trưởng và các thuỷ thủ, bạn hãy tìm phương tiện khác, kẻo vì bạn mà hành trình trở nên rắc rối. Con thuyền đầy ắp kỷ niệm có Phêrô và các bạn, con thuyền hiện tại và tương lai, đều có sức mạnh Giêsu tình yêu, nếu có sự bất an hoặc nghi ngờ, ta nên suy xét mình sống vô kỷ luật hoặc đang đi nhầm thuyền. Chính vì thiếu niềm tin nơi Vị Thầy, những học trò năm đó mới hoảng loạn trông gà hoá cuốc: “ma kìa”. Cũng vì còn nặng tính “tham – sân – si” ở đời, nên các môn đệ chưa nhận biết quyền năng vượt trội nơi sức mạnh của tình yêu Giêsu.

“Chính Thầy đây, đừng sợ”. Lời yêu thương đó, Đức Giêsu còn mơ ước cả nhân loại chúng ta hôm nay phải nghe được. Lời cầu cứu hết sức khẩn thiết của Phêrô: “lạy Thầy, xin cứu con”, chắc chắn Chúa Giêsu còn muốn cả người tội lỗi và người thánh thiện, hãy tiếp tục nghe, tin tưởng cậy trông, sức mạnh tình yêu Chúa. Đức Giêsu sẽ rất vui, khi đoàn thuỷ thủ và tất cả mọi người ở trên con thuyền giáo hội, cập bến an toàn. Trong tình huống lo lắng hoảng sợ của các môn đệ, ít nhiều cũng nhắc nhớ hậu thế, đừng bao giờ sống vu vơ vô kỷ luật đến độ Chúa phải quở trách: “người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ”. Chúa Giêsu sẽ mãi mãi là hiện thân lòng thương xót nơi trần thế, hãy ở trong con thuyền giáo hội, dù giông bão, vẫn có Thầy.

Trong ngôn ngữ tình yêu có câu: thuyền ai lơ lửng bên sông, có lòng đợi khách hay không, hỡi thuyền ? Bến bờ thì mọi lúc mọi thời đều mong đợi thuyền cập bến, bến bờ còn thao thức ở trên thuyền các thành viên đều vượt qua gian khổ trong an vui hạnh phúc. Hành trình vượt biển hồ năm xưa có sự chỉ đạo của Thầy Giêsu, các môn đệ cho thấy nhờ sức mạnh đầy quyền năng của tình yêu Giêsu, các ông chiến thắng mọi ưu tư sợ hãi, nhờ các ông tin, các ông nghe được tiếng trấn an: “chính Thầy đây, đừng sợ”. Trong tương quan giữa tình Chúa và tình người, dấu hiệu khả thi nhất vẫn là hãnh diện vì có bình an và hạnh phúc. Trong hành trình vượt biển trần đời, mỗi người đều được mời gọi hãy ở trên con thuyền của giáo hội, hãy sống kỷ luật, sống trong tình yêu và sức mạnh của tình yêu, bến bờ Giêsu luôn trông ngóng đợi chờ con thuyền cập bến có thật đông đủ các thành viên chúng ta. Amen.

Về mục lục

THUỘC VỀ CHÚA

Lm. Giuse Nguyễn

Trang Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một vấn đề căn bản trong đời sống đức tin: Khi ta chọn Chúa, khi ta theo sự hướng dẫn của Chúa thì đời ta bình an, hạnh phúc dù dưới chân ta sóng thần, động đất đang ập đến, dù trước mặt ta sóng gió phong ba đang ùa về, dù chung ta quanh ta ngàn hiểm nguy đang bủa vây giăng mắc… Ngược lại, những lúc ta không chọn Chúa, ta không hướng lên Chúa thì là những lúc ta cảm thấy sợ hãi và mất bình an dù xung quanh ta có đủ đầy mọi thứ, cũng chẳng có sự dữ nào… Phêrô xin Chúa cho ông đi trên mặt biển mà đến với Chúa, Chúa cho ông làm được điều đó. Nhưng khi gặp gió nổi lên thì ông sợ hãi và bắt đầu chìm xuống. Cũng may lúc đó ông còn nhớ đến Chúa và van xin: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” Chúa đã đưa tay nắm lấy ông và hai thầy trò cùng nhau lên thuyền, lúc đó trời yên biển lặng. Hình ảnh Phêrô có thể đi trên mặt nước là vì ông đang tin tưởng vào Chúa, ông đang nhắm mục đích đời mình là đến với Chúa. Đến khi sóng gió nổi lên, ông sợ quá không còn nhìn lên Chúa nữa mà nhìn xuống dưới chân mình nên ông đã bắt đầu chìm.

Có một vị tu sĩ trẻ đến gặp Mẹ Têrêxa để than phiền về việc bề trên của thầy đã thuyên chuyển thầy đi chỗ khác trong khi thầy đang phục vụ người cùi. Anh ta nói với Mẹ Têrêxa: “Thưa Mẹ, ơn gọi của con là phục vụ người cùi, vậy mà bề trên của con đã thuyên chuyển con đi lo việc dạy học, con rất bất bình về việc này”. Mẹ Têrêxa từ tốn nhìn thẳng vào mắt chàng tu sĩ trẻ và nói: “Ơn gọi của con không phải là lo cho người cùi, cũng không phải lo cho học sinh, nhưng ơn gọi của con là thuộc về Đức Kitô. Ơn gọi chúng ta không phải là làm được điều này việc nọ chuyện kia, nhưng làm sao để chúng ta thuộc về Đức Kitô. Đây cũng là kinh nghiệm của tôi tớ Chúa, ĐHY Px. Nguyễn Văn Thuận. Khi ngài bị bắt và biệt giam trong tù. Ban đầu ngài không chấp nhận nổi việc mình là một Giám Mục trẻ, tài năng, Giáo Phận và Giáo hội đang mong đợi sự dẫn dắt của mình. Vậy mà bây giờ mình bị biệt giam, không làm gì được cho Giáo hội… Bỗng một hôm có tiếng từ đáy lòng nói cho ngài biết: “Con phải biết phân biệt giữa Chúa và việc của Chúa. Những việc con làm cho Giáo hội, cho Giáo phận là tốt, nhưng đó là việc của Chúa chứ không phải là chính Chúa. Nếu Chúa muốn con giao những việc đó lại cho Chúa thì con cứ giao lại cho Ngài, Ngài làm tốt hơn con nhiều, phần con hãy chọn Chúa chứ đừng chọn việc của Chúa”. Và từ lúc đó ngài nhận ra cùng đích của cuộc đời mình là thuộc về Chúa, là sống gắn bó với Chúa, chứ không phải để làm những việc của Chúa. Khi đã thuộc về Chúa, khi đã gắn bó với Chúa thì Chúa muốn mình làm việc gì, Chúa muốn mình ở đâu, Chúa định đoạt số phận mình ra sao, mình cũng sẵn sàng vâng theo, vì mình đang chọn Chúa, nên chọn luôn thánh ý của Chúa.

Đời sống đạo của ta phải là sự chọn theo Chúa một cách liên lỉ. Ngày xưa dân Do Thái đã đi khập khiểng, lúc chọn Chúa, lúc chọn thần Ba-an, lúc chọn thần A-sê-ra… Thiên Chúa gọi đó là tội ngoại tình. Ngày hôm nay thần minh của ta không còn là Ba-an, hay A-sê-ra nữa, nhưng ta vẫn tôn thờ nhiều vị thần minh khác. Ta chưa hẵn loại trừ Chúa, nhưng ta tôn thờ những thần minh khác ngang hàng với Thiên Chúa.

Những thần minh đó là tiền bạc. Sở dĩ gọi tiền là thần vì chúng ta tôn thờ nó, ta lệ thuộc vào nó và để cho nó chi phối cuộc sống mình. Để có được đồng tiền ta cậy dựa vào “thần bài”, “thần đề”, “thần gà”, “thần sắc” và nhiều phương thế bất chính khác. Còn khi ta sử dụng đồng tiền như phương thế để làm cho đời sống thêm hạnh phúc hơn, và là dịp để ta làm việc bác ái thì quá tốt.

Thần minh của ta đôi khi là “con heo”, biểu tượng của những đam mê nhục dục, của những ăn uống say sưa, bài bạc rượu chè.

Thần minh của ta đôi khi là “con công”, biểu tượng của những ăn mặc diêm dúa, lố bịch, chạy theo những kiểu thời trang hiện đại, những siêu xe, những điện thoại thông minh đời mới và hàng loạt những máy móc khác… Tất cả những điều này nếu không để ý nó sẽ là “thần minh” để lôi kéo ta khỏi Chúa, nó làm cho ta không còn giờ để nghĩ về Chúa, và lúc đó thuyền đời ta sẽ rất bấp bênh vì không có Chúa cùng đồng hành, cuối cùng sẽ có nguy cơ bị nhấn chìm giữa lòng đại dương.

Mặt khác, một khi đã xác định lý tưởng đời mình là “thuộc về Chúa”, thì ta sẽ hướng lên Chúa để nghe lời Chúa dạy, để theo đường Chúa đi và làm theo những điều Chúa hoạch định.

Tuy nhiên, làm sao để ta luôn hướng lên Chúa mới là điều quan trọng. Một số lý do để ta không còn hướng lên Chúa.

Lý do trước tiên là vì ta hướng đến những đối tượng khác ngoài Chúa. Khi ta để cho tâm hồn mình bị một “bóng hồng” nào đó lôi kéo thì ta không còn thời giờ, sức lực, năng lực hướng đến Chúa nữa. Có “anh thanh niên” lâu ngày không đi lễ, hỏi ra mới biết thất tình. Cô gái dễ thương, xinh đẹp, ngoan hiền, đạo đức lâu ngày không thấy sinh hoạt với cộng đoàn, tìm hiểu kỹ mới biết cô đã là “thư ký riêng” của một giám đốc…  Rõ ràng vì một đối tượng nào đó đã làm cho ta xa Chúa.

Lý do thứ hai để ta không hướng lên Chúa là vì ta đang “hướng xuống” những xấu xa, những thấp hèn. Sở dĩ Phêrô đi được trên mặt biển là vì ông hướng nhìn lên Chúa. Đến khi ông nhìn xuống mặt biển, thấy hãi hùng quá nên ông đã sợ và mất niềm tin. Khi tâm hồn ta cao thượng, nghĩa là ta hướng đến những giá trị cao siêu trên trời, thì chúng ta sẽ gặp Chúa. Nhưng khi tâm hồn ta bị những thứ thấp hèn lôi kéo thì ta không thể thấy Chúa được. Những thứ thấp hèn đó là những đam mê, những nết xấu, nó cứ trì trệ khiến con người của ta không thể vươn lên được mà cứ ì ạch mãi thôi. Có người tốt lành lắm, nhưng bị nhục dục lôi kéo làm điều lỗi đạo với gia đình. Có người siêng năng làm việc lắm, nhưng làm được bao nhiêu tiền là đổ vào sòng bạc…

Khi đã nhìn thấy được hai nguyên nhân chính để ta không thể hướng lên Chúa là vì ta hướng đến đối tượng khác ngoài Chúa, hoặc vì ta nhìn xuống những thứ thấp hèn, thì chúng ta hãy biết nhìn lại chính mình đang bị những thứ nào lôi kéo để ta biết gỡ bỏ những ràng buộc đó, cho tâm hồn của mình thanh thoát để thuộc về Chúa.

Một sự thật làm ta thêm mạnh mẽ là Chúa vẫn hiện diện trong từng biến cố vui buồn của cuộc đời ta. Dù ta thế nào Chúa vẫn yêu thương ta. Nhưng nếu ta không hướng về Chúa, không làm theo những gì Chúa chỉ dạy, con người của ta sẽ dần hư hoại và mất đi bình an, hạnh phúc. Chúa vẫn hiện diện và cứu giúp ta trong từng biến cố. Vì vậy ta hãy biết gạt bỏ những lôi kéo, những ràng buộc để hướng nhìn lên Chúa, nhất là trong những lúc khó khăn, nguy hiểm để nói như thánh Phê rô: “Lạy Chúa xin cứu giúp con”.

Xin Chúa qua lời bầu cử của Mẹ Maria, thánh cả Giuse, Cha Phanxicô và các thánh, cho con thanh thoát, nhẹ nhàng mà sống theo thánh ý Chúa để con mãi thuộc trọn về Chúa thôi!

Về mục lục

CÓ DỪNG CHÂN NHƯNG KHÔNG ĐỨNG LẠI

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

 Là Kitô hữu, chúng ta thường nghe cụm từ “hành trình đức tin”. Tin là một quá trình bước đi không ngừng, tiến mãi về phía trước để gặp Đấng vô hình. Thỉnh thoảng có dừng chân nhưng không bao giờ đứng lại.

Sau khi hỉ hoan về phép lạ cả thể mà Thầy đã thực thi cho gần vạn người no nê, các tông đồ lại phải chưng hửng lần nữa vì lệnh của Thầy: Hãy lên đường! Hãy xuống thuyền mà qua bờ bên kia! Cám dỗ dừng chân đứng lại và nghỉ ngơi trên thành công, trên chiến thắng vẫn luôn có đó với phận người. Sau khi khánh thành một công trình hoành tráng, sau khi hoàn thành một cuộc lễ hay một cuộc tổ chức lớn bé, thì dừng chân, ngồi lại để lượng giá, kiểm thảo để rút kinh nghiệm là điều cần thiết, nhưng để đứng lại chiêm ngắm vinh quang là một cám dỗ triền miên và thật khó lường hậu quả.

Khi xây dựng một công trình nào đó thì chuyện hay đi lui đi tới ngắm nghía công trình là chuyện bình thường như cơm bữa. Ai lại không thích ngắm nghía vinh quang của mình. Ai lại không thích nghe người ta trầm trồ về cái gọi là thành công của mình. Hễ có khách đến thăm thì phải tìm dịp giới thiệu cho được những gì mình đã “ra tay”.

Các tông đồ năm xưa chẳng hơn gì chúng ta hôm nay. Dù chỉ là những người giúp phân phát bánh – cá, nhưng các ngài làm như chính tay mình thực thi kỳ công “phép lạ hóa bánh”. Theo Tin mừng thánh Gioan thì việc người dân muốn tôn Chúa Giêsu làm vua có thể là do dân chúng tự phát nhưng rất có thể là do sự gợi ý có chủ đích của nhóm mười hai, những vị rất tham “ngồi bên hữu, bên tả Thầy trong vinh quang” (x.Mc 10,35-40). Đêm đã về. Dân chúng đã no nê. Chúng mình cũng đáng được hả hê nghe bao lời chúc tụng chứ. Chuyện bất ngờ đã đến, dù không ai thích thú chút nào. Thầy ra lệnh tất cả xuống thuyền ngay. Còn Người thì giải tán dân chúng và lên núi cầu nguyện một mình.

Bỏ vinh quang, bỏ thành công rực rỡ để ra đi là một điều không dễ chút nào. Cảnh đời phía trước mịt mùng khó tiên liệu và sóng gió ba đào là chuyện dường như khó tránh. Các tông đồ hôm ấy đã phải đương đầu với hiện thực ấy. Sóng thì to, gió thì lớn. Thuyền đang chơi vơi nghiêng ngã. Lòng các ngài cũng ngã nghiêng theo gờ cạnh con thuyền. Tâm trạng của tiên tri Êlia năm nào cũng không khác gì. Sau chiến tích oanh liệt hạ gục những 450 sư sãi thần Baal, Êlia đã phải trốn chạy khỏi sự truy đuổi, tìm diệt của hoàng hậu Giêdabel. Sau vinh quang thì tai họa liền kề.

“Ra đi là chết trong lòng một ít”. Chẳng có sự dứt bỏ nào mà chẳng có xót xa hay đau đớn, nhất là phải từ bỏ những thành công huy hoàng hay những hạnh phúc êm ả, cho dù chúng là hữu hạn của đời thường. Hạnh phúc đích thực vẫn ở phía trước. Đó là Thiên Chúa, Đấng không chỉ chờ đợi mà đang tiến tới để đón gặp chúng ta.

Tin là bước đi, là ra đi, tiến về phía trước, về nơi chưa hề biết như Abraham ngày nào. Bỏ quê hương, xứ sở, bỏ cả gia tộc thân yêu để lên đường. Có đó sự xót dạ khi ra đi và nỗi bâng khuâng khi tiến về phía trước. Nào là sóng gió cuộc đời, nào là phong ba tình người, tất thảy như đang chờ đợi để dập vùi, đánh đắm con thuyền đời ta. Một Phaolô hết lòng hết dạ với người đồng hương Do Thái đã khẳng định: “Quả vậy, giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và lìa xa Đức Kitô, thì tôi cũng cam lòng” (Rm 9,3). Hiểu cho đúng thì Phaolô không quay lưng với tôn giáo tổ tiên mà tiến lên một tầm cao mới trong hành trình đức tin khi đã được diện kiến Đức Kitô phục sinh, Đấng Thiên Sai mà tổ tiên ông hằng mong đợi, thế mà ngài vẫn mãi bị người đồng hương xem là phản đạo, bội giáo, bỏ đạo để rồi luôn tìm cách bắt giết. Một khi đã ra đi, tiến về phía trước thì cái giá cần trả không chỉ là gian nguy, khốn khó mà cả sự lo âu, phiền muộn. Ngài thú nhận: “Thưa anh em, có Đức Kitô chứng giám, tôi xin nói sự thật. tôi không nói dối, và lương tâm tôi, được Thánh Thần hướng dẫn cũng làm chứng cho tôi rằng: lòng tôi rất đổi ưu phiền, và đau khổ mãi không ngơi” (Rm 9,1-2).

Với Êlia, với Phaolô hay với các tông đồ khi ở trên thuyền chòng chành giữa biển đầy sóng gió, Thiên Chúa không bao giờ để các ngài cô đơn một mình. Người hằng ở với họ. Người luôn đồng hành với họ. “Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14,27). “Ơn Ta đủ cho con” (2Cr 12,9). “Thầy sẽ không để các con mồ côi” (Ga 14,18). Dù giữa biển khơi hay giữa đêm tối của cuộc đời, Đấng làm người mãi ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (x.Mt 28,20). Chỉ một điều là hãy nhắm đích và tiến thẳng trong niềm tin.

Thỉnh thoảng cũng nên biết dừng chân để tự kiểm để định hướng hay chỉnh hướng, nhưng không được phép đứng lại. Đứng lại là một trong những thái độ tự hài lòng về thành công của chính mình. Từ chỗ hài lòng đến chỗ tự cao tự đại là một khoảng cách không mấy xa. Và hậu quả của sự tự kiêu, tự mãn như đã nhãn tiền. Chưa tính đến chuyện Chúa hạ kẻ tự kiêu và nâng cao người phận nhỏ (x.Lc 1,52), thì chính kẻ cao ngạo, họ đã tự đặt mình vào vị thế cheo leo và sẽ ngã chìm không biết lúc nào như Phêrô trong lần được Thầy ban cho cái ơn đi trên mặt biển (x.Mt 14,22-33).

Đứng lại cũng là một hành vi tỏ dấu sự nghi ngờ. Khi thiếu niềm tin hay khi lòng tin yếu kém thì ta rất dễ bị cám dỗ dừng lại, không can đảm tiến lên. Những cái sợ như sợ khó, ngại khổ, sợ thất bại…nhiều khi nhấn chìm chúng ta trong các trở ngại khách quan vốn dĩ không thể tránh của kiếp người.

Không ai là không một lần gặp chông gai, sóng gió. Không ai là không đã từng nhiều lần ngã quỵ vì gian truân, khốn khó. Chuyện ngã, chuyện té là chuyện bình thường của phận người. Điều quan trọng là biết chỗi dậy và tiến lên. Trong niềm tin vào tình yêu của Đấng đã tự nguyện làm bạn đời của ta là Đức Giêsu, ước gì chúng ta được như thánh tông đồ dân ngoại là “quên đi những gì phía sau để lao mình về phía trước” (Pl 3,13).

Về mục lục

THIÊN CHÚA CỦA CHÚNG TA

Lm. Bosco Dương Trung Tín

   “Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Đức Chúa. Kìa Đức Chúa đang đi qua” (Is 19,11).

   Có 4 hình ảnh mà ngôn sứ Ê-li-a đã thấy. Đó là gió bão, động đất, lửa và gió hiu hiu. Qua đó, sẽ cho thấy Thiên Chúa chúng ta là Đấng nào.

   Hình ảnh thứ nhất: Gió bão. “Gió to bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá trước nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa không ở trong gió bão” (x. Is 11,19b).

  Trên khắp thế giới, hằng năm chúng ta nghe thấy có nhiều cơn bão và đặc biệt có những cơn bão lớn gây thiệt hại nặng nề về tài sản cũng như thương vong cho con người. Đi kèm với bão là những cơn gió mạnh, chúng thổi bay tất cả. Người ta gọi đó là thiên tai. Dầu vậy, nếu không có bão, chắc cũng ít có mưa, nên bão cũng có lợi phần nào đó.

   Thế nhưng khi gặp những cơn bão lớn, con người chúng ta cũng hay than trời trách Chúa lắm. Tại sao Chúa lại để xảy ra như vậy? Người chết thì mất xác; người sống thì mất nhà mất của.

   Lời Chúa nói : “Nhưng Đức Chúa không ở trong gió bão”. Điều đó có nghĩa là Chúa không làm ra gió bão. Chúa không dùng gió bão để trừng phạt con người. Vì nếu khi trừng phạt thì Chúa sẽ trừng phạt người xấu; đằng này, khi có gió bão thì cả người tốt lẫn người xấu đều bị ảnh hưởng. Nói cho cùng, gió bão chỉ là những hiện tượng tự nhiên, mà khoa học đã chứng minh và tìm ra được nguyên nhân. Và nguyên nhân đó không phải là Chúa; mà là do khí áp nóng và lạnh chênh lệch quá lớn.

   Qua đó cũng nói lên rằng Chúa không phải là Đấng “tàn bạo”.

     Ngày nay, hình như càng có nhiều cơn bão lớn, không phải vì tội lỗi của con người nhiều mà do con người ngày càng phát minh ra những điều hay và đi kèm đó cũng gây ra không kém những tác hại cho môi trường sinh thái. Như rác thải nhựa hay các linh kiện điện tử; chặt cây, phá rừng,……..

  Hình ảnh thứ hai là động đất. “Sau đó là động đất, nhưng Đức Chúa không ở trong động đất” (x. Is 19,11c).

   Động đất cũng là một hiện tượng tự nhiên. Chúng gây là những thiệt hại kinh hoàng nếu kèm theo sóng thần. Theo các nhà khoa học, động đất là do các vụ nổ mạnh ở trong lòng đất, làm cho bề mặt của trái đất rung chuyển. Nếu nhỏ thì ta cảm thấy như có một làn sóng nhẹ bò qua chân của ta. Nếu mạnh từ 5 độ rích-te trở lên, sẽ làm rung chuyển các tòa nhà. Những tòa nhà cao tầng, đưa qua đưa lại như chiếc võng, người ta chạy ra ngoài mà sợ phát khiếp vì không biết chúng sẽ sụp đổ lúc nào. Còn các tòa nhà không xây kiên cố sẽ sụp đổ tan tành ngay thức khắc. Sự thiệt do động đất không nhỏ chút nào, nào là người chết, nào nhà cửa không còn. Động đất cũng không là hình phạt của Chúa. Và Chúa cũng không phải là “Tên bạo chúa”.

   Hình ảnh thứ ba là lửa. “Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa” (x. Is 19,12).

   Lửa ở đây, chúng ta có thể hiểu là những cuộc phun trào của các núi lửa. Ngày nay, vẫn còn các ngọn núi lửa phun. Chúng như một cột lửa khổng lồ, phun trào nham thạch; chúng chảy xuống núi như nước biển tràn và đốt cháy tất cả những gì chúng đi qua, với nhiệt độ trên 4000 độ. Ngay tại miệng núi lửa, chúng như cái chảo khổng lồ đang sôi sùng sục. Đó cũng chỉ là hiện tượng tự nhiên.

   Chúa không ở trong lửa, có nghĩa là Chúa không dựng nên núi lửa và cũng không dùng núi lửa phun để trừng phạt con người chúng ta. Chúa cũng không là Đấng Nóng Nảy như bà La-xát trong phim Tây Du Ký, muốn tru diệt con người đâu. Chúa Giê-su có dùng hình ảnh lửa này trong hỏa ngục. “Con người sẽ sai các Thiên Thần của Người tập trung mọi kẻ làm gương xấu, gương mù và mọi kẻ làm điều gian ác, mà tống ra khỏi Nước của Người, rồi quẳng chúng vào lò lửa, ở đó chúng phải khóc lóc và nghiến răng”(x. Mt 13,41-42).

   Hình ảnh thứ bốn là gió hiu hiu. “Sau lửa có tiếng gió hiu hiu” (x. Is 19,12b).

  Tiếng gió hiu hiu là tiếng gió thổi nhẹ, man mác, trái lại với gió to bão lớn; không mạnh mẽ như động đất; không ào ào, nóng bỏng như núi lửa phun. Nói cách khác trong gió hiu hiu có Chúa.  Thiên Chúa của chúng ta là “Thiên Chúa nhân hậu, từ bi; hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín” (x. Xh 34,6).

   Thiên Chúa ở trong thinh lặng và nhẹ nhàng. Thiên Chúa chúng ta giàu lòng xót thương; không dữ dằng; không tàn bạo; không trừng phạt con người như chúng ta nghĩ đâu. Chúa hằng yêu thương và ban mọi ơn lành cho mọi người, mọi nơi và mọi lúc. Ơn Chúa ban như mặt trời chiếu sáng trên kẻ xấu cũng như người tốt; như mưa xuống trên kẻ bất lương cũng như trên người công chính (x. Mt 5, 45).

    Quả thật, Chúa hằng mong muốn cho con người chúng ta được sống bình an và hạnh phúc ở đời này cũng như ở đời sau. Qua những hiện tượng tự nhiên đó, chúng ta càng phải thêm tin tưởng, hy vọng và yêu mến Chúa hơn. Thế nhưng, chúng ta là những người kém lòng tin như Phê-rô, cứ mãi hoài nghi và than trách Chúa thôi. Dầu vậy, như Phê-rô, chúng ta cứ an tâm mà đến với Chúa. Nếu có sợ hãi chi thì xin Chúa cứu giúp: “Lạy Chúa, xin cứu, xin giúp chúng con, Chúa ơi !!!”.

   Và nhất là chúng ta phải cố gắng sống tốt lành và thánh thiện, theo Lời Chúa dạy, để chúng ta đứng vững và không phải vào lửa hỏa ngục đời đời kiếp kiếp. Ngôi nhà của chúng ta sẽ không sụp đổ : “Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà mình trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây nhà trên nền đá” (x. Mt 7, 24-25).

   Chúa chỉ ở trong “tiếng gió hiu hiu” thôi, nên chúng ta hãy đến với Chúa trong sự thinh lặng và âm thầm. Trong cuộc sống sô bồ và sôi động của thế giới này, chúng ta hãy dành những giờ phút âm thầm và thinh lặng để gặp gỡ Chúa, để nói chuyện với Chúa; để cầu nguyện với Chúa. Ta sẽ có được sự bình an và sức mạnh để sống và làm việc trên trần gian này.

Về mục lục

 

HÃY NHẬN RA CHÚA

Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Cuộc sống bon chen tính toán lôi cuốn chúng ta và làm cho chúng ta lãng quên sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời. Đàng khác, có những lúc chúng ta tin Chúa nhưng tự tạo ra một hình ảnh Thiên Chúa theo ý riêng mình, nhằm đáp ứng những đam mê lầm lạc của mình. Và, khi không được như vậy, thì chúng ta bất mãn bỏ Chúa.
 
Thánh Matthêu kể lại, vào lúc các môn đệ đang chèo thuyền trong đêm tối, Chúa Giêsu đi trên mặt nước để đến với các ông. Mặc dù mới lúc buổi chiều, các ông còn ở với Chúa, vậy mà giờ đây, các ông không nhận ra Người. Nỗi ám ảnh về quyền lực của biển cả, cộng với đêm tối, đã khiến các ông không nhận ra Thày mình. Không những thế, các ông còn hoảng hốt và nói với nhau :”Ma kìa”. Cách thức và ngôn từ cho chúng ta thấy các ông như những đứa trẻ, đưa hình ảnh ma quỷ để hù dọa nhau. Những chi tiết này phần nào phản ánh cuộc sống của chúng ta trong quan niệm về Thiên Chúa. Có những lúc hình ảnh của Ngài bị con người làm cho biến dạng. Có những khi Ngài được trình bày và quan niệm giống như một “thây ma” của quá khứ. Nhiều người đã quá tự tin vào khả năng của mình. Họ không cần đến Thiên Chúa và họ quả quyết: “Thiên Chúa đã chết rồi!”. Tuy vậy, Thiên Chúa không phải là sản phẩm của trí tuệ con người để họ có thể tạo nên và giết chết. Dù con người tin hay không thì Thiên Chúa vẫn hiện diện. Dù họ ghét bỏ hay yêu mến thì Ngài vẫn là Đấng nhân hậu bao dung. Những ai nhận ra Ngài thì được Ngài chúc phúc.
 
“Hãy nhận ra Chúa và hãy tôn thờ Ngài!”. Đó là thông điệp mà Phụng vụ muốn gửi đến chúng ta trong Chúa nhật này. Thời nào cũng có những người thử Chúa như ông Phêrô. Ông muốn sự hiện diện của Chúa phải được chứng minh bằng một dấu hiệu cụ thể, đó là việc ông đi trên mặt hồ. Chúa đã làm như ông xin. Tuy vậy, nếu Chúa là Đấng luôn ban cho con người những sức mạnh và khả năng phi thường, thì con người lại tự “chìm xuống” bởi nghi ngờ, sợ hãi, yếu đuối và thiếu niềm cậy trông. Nỗi sợ của Phêrô quá lớn, kể từ lúc những người anh em nói với nhau:”Ma kìa” lúc này vẫn còn ám ảnh ông và làm cho ông chìm xuống nước. Phải chăng vì thế mà cuộc đời chúng ta nhiều lúc bị “chìm sâu” trong biển đời và cảm thấy đang đi lạc loài trong đêm tối?
 
Chúa Giêsu đã quở trách ông là kẻ kém lòng tin. Có thể Chúa cũng đang quở trách chúng ta như đã quở trách ông Phêrô. bởi lẽ nhiều lúc chúng ta thiếu tin tưởng ở nơi Người. Điều đó thể hiện qua cách sống, cách cầu nguyện và mối tương quan của chúng ta hằng ngày.
 
Ngôn sứ Elia đang bị vua Akháp đuổi và ông trốn chạy (Bài đọc I). Trong cơn gian nan, ông trở về núi Khôrép, thường được gọi là núi của Thiên Chúa. Về nơi này, ông như về với cội nguồn của đức tin. Chính nơi đây, ông gặp lại Thiên Chúa và được Ngài ban cho ông sức mạnh. Về nơi này, ông cũng ngộ ra một điều, là Thiên Chúa không hiện diện trong giông bão, trong bạo lực và trong cách xử sự theo kiểu con người. Khi “chiến đấu” với vua Akháp và hoàng hậu Idêben, ông chưa có niềm xác tín trên đây, nên ông còn hoảng sợ. Trong cuộc trốn chạy, đã có lúc ông xin được chết, vì ông cảm thấy đang đứng trước ngõ cụt của sứ mạng. Trên núi Khôrép, Chúa đã cho ông được bình an và cảm nhận sự dịu dàng của Ngài. Bài học Chúa muốn dạy ngôn sứ Elia, đó là hãy tìm gặp Chúa với tâm hồn thanh thản nhẹ nhàng, trong một không gian tĩnh lặng thanh thoát và với một trái tim khiêm nhường rộng mở. Những tâm hồn chất chứa đầy bon chen tính toán và hận thù sẽ chẳng bao giờ được gặp Chúa.
 
“Quả thật, Người là Con Thiên Chúa!”. Đó là lời tuyên xưng đức tin của các môn đệ. Mọi sợ hãi đã qua, còn lại là sự bình an thanh thản. Mọi nghi ngờ đã hết, nhường chỗ là niềm xác tín và tôn thờ. Đó là kết quả mà các ông đã đạt được nhờ việc nhận ra Chúa. Giữa những khó khăn, thử thách và thậm chí là mưu mô chống đối, Thánh Phaolô vẫn kiên trì xác tín. Ông biết rõ Chúa luôn bênh vực và chở che, vì Ông đang thực hiện thánh ý Chúa và xuất phát từ lòng yêu mến dành cho Ngài (Bài đọc II).
 
Giữa cuộc đời bấp bênh và đầy nguy cơ này, chúng ta hãy đến với Chúa. Hãy nhận ra Ngài và tuyên xưng nơi Ngài niềm xác tín. Đừng sợ! Người sẽ kéo chúng ta khỏi những hiểm nguy đang rình rập chúng ta. Có Chúa, cuộc đời chúng ta sẽ vui tươi và an bình.

Về mục lục

.

CON ĐƯỜNG CỦA CHÚA

Tgm. Ngô Quang Kiệt.

Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, nuôi năm ngàn người ăn uống no nê, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ xuống thuyền đi qua bờ bên kia. Rồi Người một mình lên núi cầu nguyện suốt đêm. Tại sao Chúa có thái độ kỳ lạ như thế? Tại sao Chúa Giêsu bắt ép các môn đệ ra đi? Tại sao giữa lúc dân chúng đang phấn khởi tinh thần, giữa lúc uy tín của Người dâng cao như núi, Người lại bỏ đi? Trong Phúc Âm, thánh Marcô và thánh Matthêu không nói rõ lý do. Nhưng Phúc Âm thánh Gioan thì nói rõ: “Chúa Giêsu bỏ đi vì Người biết dân chúng muốn tôn Người lên làm vua” (Ga 6,14-15). Thật là một quyết định khác thường. Theo thói thường, ta sẽ khuyên Chúa Giêsu lên ngôi làm vua rồi đi khắp nơi làm phép lạ nuôi người ta ăn uống no nê, mọi người sẽ theo Chúa và chịu phép rửa tội, cả thế giới sẽ thuộc về Chúa, khỏi mất công truyền giáo khổ cực.

Không, con đường của Chúa thì khác với con đường của ta.

Con đường của ta là con đường kiêu ngạo trong khi con đường của Thiên Chúa là con đường khiêm nhường. Ta luôn tìm cách nâng mình lên, còn Thiên Chúa luôn tìm cách hạ mình xuống. Ta muốn xưng mình là Chúa trong khi Thiên Chúa lại muốn xuống làm người. Không chỉ làm một người bình thường, nhưng còn mặc lấy thân phận nghèo hèn, yếu ớt, thậm chí bị coi như một người tội lỗi nữa. Khi nâng mình lên, ta thường hạ người khác xuống. Còn Thiên Chúa tự hạ mình xuống để nâng con người lên làm con Thiên Chúa. Con người và Thiên Chúa đều sử dụng bậc thang, nhưng theo những mục đích khác nhau. Con người sử dụng bậc thang để leo lên cao. Ai cũng muốn lên cao trong đời sống vật chất. Ai cũng muốn leo cao trong địa vị xã hội. Ai cũng muốn leo cao trong bậc thang danh vọng. Còn Thiên Chúa lại sử dụng bậc thang để đi xuống. Từ trời Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Từ một người bình thường, Chúa còn xuống làm một người nghèo hèn, một người tội lỗi, một người thất bại.

Con đường ta chọn là con đường rộng rãi, dễ dãi. Còn con đường của Chúa là con đường chật hẹp khó khăn. Ta luôn tìm sự dễ dãi: làm sao cho đời sống đỡ vất vả, làm sao cho có những tiện nghi phục vụ đời sống, làm sao cho cuộc đời thành công tốt đẹp. Còn Thiên Chúa lại chọn con đường chật hẹp, bé nhỏ, khiêm nhường. Trong nghệ thuật quảng cáo, người ta hứa hẹn cho khách hàng mọi sự tiện nghi thoải mái. Còn Chúa Giêsu thì hứa với những kẻ muốn theo Người rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16, 24). Trong các trường đại học người ta quảng cáo: ai học trường này sẽ thành công, sẽ lên chức, sẽ lên lương. Còn Chúa Giêsu lại dạy các môn đệ: “Trong anh em, ai lớn nhất thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22,26).

Chính Chúa Giêsu không đi vào con đường rộng rãi thênh thang, nhưng đã chọn con đường bé nhỏ, chật hẹp. Người không chọn cứu chuộc con người bằng những thành công lẫy lừng, những phép lạ kinh thiên động địa. Nhưng Người đã chọn cứu chuộc nhân loại bằng con đường đau khổ, con đường thập giá, con đường tử nạn. Chính vì thế, hôm nay, vì sợ đám đông tôn Người lên làm vua, đi xa con đường khiêm nhường bé nhỏ, Người đã bỏ đám đông mà đi. Người sợ các môn đệ bị nhiễm thói kheo khoang, phô trương, quyền lực, nên thúc giục các ông xuống thuyền sang bờ bên kia trước.

Đây không phải lần đầu tiên Chúa gặp cơn cám dỗ loại này. Trong sa mạc ma quỉ đã xui giục Người bỏ con đường khiêm nhường, đau khổ để đi vào con đường vinh quang, dễ dãi. Đây cũng chưa phải là cơn cám dỗ cuối cùng. Cám dỗ sẽ còn trở lại với lời khuyên của Phêrô khi ông ngăn cản Thầy ra đi chịu chết (x. Mt 16,23). Cơn cám dỗ khốc liết tiếp tục trong vườn Giệt-sê-ma-ni khiến Người nao núng hầu như muốn tháo lui (x. Mt 26, 39). Cơn cám dỗ không buông tha cả khi Người đã bị treo trên thánh giá với lời thách thức của mọi người: “Nếu Ông là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi tin” (x. Mt 27, 42). Nhưng Người đã chiến thắng tất cả những cám dỗ của ma quỉ, kiên quyết đi vào con đường thánh ý Chúa Cha, con đường khiêm nhường, vâng lời, hi sinh gian khổ.

Bản thân ta và Hội Thánh, nếu muốn trung thành với Chúa, không thể có chọn lựa nào khác ngoài con đường của Chúa đã đi.

Quá khứ đã minh chứng: Chính khi giàu sang, quyền thế, thì Hội Thánh sa sút, khủng hoảng. Trái lại những khi gặp khó khăn, nghèo khổ, bắt bớ, Hột Thánh lại phát triển mạnh mẽ, vì đang đi vào con đường của Chúa.

Là môn đệ Chúa, ta hãy mạnh dạn bước theo Chúa vào con đường khiêm nhường bé nhỏ, vào con đường chật hẹp từ bỏ mình, vào con đường thánh giá đau khổ. Tuy khó khăn, đau đớn, nhưng đó mới là con đường dẫn ta đến với Chúa, ơn cứu độ của ta.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Chúa bỏ đi, Chúa thúc giục các môn đệ bỏ đi vì sợ người ta tôn làm vua. Tôi có lựa chọn nào khiến Chúa phải bỏ đi không?

2) Tôi mong muốn Hội Thánh có khuôn mặt nào: uy quyền giàu sang hay nghèo khó, khiêm nhường?

3) Tôi có sẵn sàng đi vào con đường của Chúa không?

Về mục lục

.

AN TÂM VÌ LUÔN CÓ CHÚA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Chúa Nhật vừa qua, chúng ta nghe thánh Matthêu thuật lại phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều (x. Mt 14, 13-21), tiếp theo là biến cố Chúa biến hình trên núi (x. Mt 17, 1-9) và hôm nay chúng ta nghe tiếp Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ (x. Mt 14, 22-33).

Êlia và Phêrô là hai nhân vật nổi bật của tuần này. Êlia chứng kiến ba sự kiện trên trái đất là gió bão, động đất và lửa, Thiên Chúa đều không hiện diện ở đó. Giữa sức mạnh của vũ trụ với tiếng gió hui hui, Êlia phải học phân định để nghe thấy lời trong thinh lặng, hay trong chính bản thân mình (x.1 V 19, 9a. 11-13a).

Trước khi đề cập đến Phêrô, chúng ta không thể không nói đến các môn đệ được Chúa Giêsu ” giục xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước ” (14, 22), còn dân chúng, những người Do thái được giải tán, theo một nghĩa nào đó, họ là ” những người ở bên này “. Việc các môn đệ phải “sang bờ bên kia”, nghĩa là các ông phải vượt qua những thực tại hữu hình, tạm thời của thân xác, bước sang sự vĩnh cửu vô hình. Dĩ nhiên, các ông không thể cập bờ bên kia trước Chúa Giêsu ; các ông phải trải qua kinh nghiệm không có Thầy, họ không thể tới bến bình an.

Có chuyện gì mà Chúa Giêsu buộc các môn đệ phải xuống thuyền ? Phải chăng là để chống lại cơn cám dỗ và các tình huống khó khăn ? Chắc chắn có một cơn giống tố trong lòng các ông và ở biển hồ Galilêa. Vì chưa hiểu dấu chỉ phép lạ hóa bánh ra nhiều, nên các ông đã theo dân chúng muốn tung hô Chúa làm vua ! Giờ đây họ cảm thấy thế gian sợ hãi và xao xuyến biết bao ! 

“Người lên núi cầu nguyện một mình ” (Mt 14, 23). Người cầu nguyện cho ai ? Chắc chắn là cho dân chúng vừa giải tán, sau khi đã được ăn bánh no nê, họ không biết phải làm gì. Chúa Giêsu cũng cầu cho các môn đệ, ở giữa biển khơi đang bị kiệt sức bởi sóng đánh vì ngược gió khỏi mọi sự dữ. Chính nhờ lời cầu nguyện của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha mà các môn đệ không bị chìm vì sóng to gió lớn. 

Còn Phêrô, được Chúa Giêsu mời gọi bằng kinh nghiệm đức tin. Ông xin Thầy cho được đi trên mặt nước (x. Mt 14, 28). Chúa Giêsu đã ban cho ông quyền đi trên biển. Biển, tượng trưng cho mãnh lực của sự dữ và sự chết ; Chúa Giêsu đi trên mặt biển, là đi trên sự chết, thể hiện sự chiến thắng của Người trên sự dữ và sự chết. Toàn bộ mầu nhiệm Phục sinh là ở chỗ Chúa Giêsu chiến thắng sự chết và biển cả. Theo quan niệm của người Do thái, biển là sào huyệt của sự chết. Đi trên biển là liều chết. Chính sự rủi ro này mà khi Phêrô đáp lại lời gọi của Chúa Giêsu, “xuống khỏi thuyền, bước đi trên mặt nước”(Mt 14, 29), là ông giẫm chân trên sự chết. Nên không có lạ, khi ông nghi ngờ. 

Chỉ khi Phêrô tin và phó thác vào Thầy, ông mới có thể đi trên mặt nước. Ông bị chìm xuống lúc ông nghi ngờ. Thấy gió mạnh, ông sợ, sự sợ hãi trước tai ương của thế gian này lại giúp cho ông tin vào quyền năng của Thầy. Chính lúc ông thôi tin vào Chúa, ông mất quyền đi trên biển, và chìm xuống. Khi đi được trên mặt nước chứng tỏ Phêrô tin, lúc chìm xuống cho thấy ông không tin. Thật là đức tin ngược đời, vì chính lúc ông không cậy dựa vào Chúa, ông bị chìm, ông lại kêu Chúa cứu. 

Với lời kêu cứu của Phêrô : ” Lạy Thầy, xin cứu con! ” (Mt 14, 30) Chúa Giêsu đáp lại bằng cử chỉ và lời. Người giơ tay nắm lấy ông và trách : “Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?” (Mt 14, 31) Khi gió thổi mạnh, nỗi sợ hãi và nghi ngờ về quyền năng của Chúa đột nhập vào Phêrô, một con người yếu lòng tin. Cứu ông lên khỏi nước, Chúa Giêsu dạy ông rằng, tình thầy trò không phải là đức tin của người môn đệ, nhưng là lòng trung thành của Thầy. Cảnh tượng trên phơi bày sự cao cả cũng như thấp hèn của người môn đệ. “Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: “Thật, Thầy là Con Thiên Chúa” (Mt 14, 32-33). Quả thật, niềm tin vào Con Thiên Chúa chỉ có được sau một hành trình dài của đau khổ, chết và phục sinh của Đức Giêsu Con Thiên Chúa.

Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ trên biển : “Thầy đây, đừng sợ. Ma đâu có xương có thịt như Thầy có đây”, cũng là lời Chúa nói với các ông sau khi Chúa phục sinh ” Tại sao các con run sợ, tại sao các con nghi ngờ… chính Thầy đây, hãy xem tay chân Thầy đây”. Hai khung cảnh khác nhau về thời gian nhưng đều có một điểm chung là run sợ, kém lòng tin và nghi ngờ, cả hai lần Chúa Giêsu đều khẳng định ” chính Thầy đây mà ” (x. Lc 24 ; Mt 14).

Ở cuối trình thuật, các môn đệ được mô tả là những người tin khi sấp mình xuống thờ lạy Chúa. Còn Phêrô, mỏng giòn, yếu đuối, Chúa Giêsu lại trao Giáo Hội cho ông. Chúa Giêsu sẽ đồng hành cùng Giáo Hội. Như Phêrô, người yếu tin, chúng ta cần có bàn tay của Chúa kéo chúng ta lên, bước vào con thuyền Giáo Hội để sang bờ bên kia.

Phần chúng ta, nếu một ngày nào đó chúng ta phải đương đầu với các cơn cám dỗ không thể tránh được, hãy nhớ rằng Chúa Giêsu buộc chúng ta xuống thuyền ; từ bờ bên này sang bờ bên kia không thể không có sóng gió. Và khi chúng ta thấy những khó khăn, vất vả, mệt nhọc giữa đời vây quanh ta, thuyền của chúng ta đang ở giữa đại dương mênh mông, với những cơn sóng đang tìm cách nhấn chìm đức tin của chúng ta. Chúng ta hãy vững tin rằng, Con Thiên Chúa sẽ đi trên mặt nước đến gần chúng ta, giơ tay kéo chúng ta lên; Chúa chỉ mong đợi chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Chúa. 

Lạy Mẹ Maria, gương mẫu về lòng tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa, xin giúp chúng con vững tin vào Chúa, để giữa bao bận tâm, lo lắng, khó khăn giữa biển cả cuộc đời đang làm chúng con giao động, chúng con vẫn nghe thấy lời trấn an của Chúa Giêsu, Con Mẹ : “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ! ” ( Mt 14, 27) Amen.

Về mục lục

.

ĐIỂM TỰA GIÊ-SU

Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Nhà vật lý học Archimède đã từng nói: “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng quả đất lên”. Câu nói của ông giúp chúng ta nhận ra một điều vô cùng quan trọng trong cuộc sống đó là “một điểm tựa”.

Một điểm tựa sẽ an ủi, nâng đỡ khi trong cuộc sống chúng ta cảm thấy hẫng hụt, thất vọng, dằn vặt, đau đớn. . . Cho nên, đừng ngạc nhiên khi một lúc nào đó có ai đó gục đầu vào vai chúng ta mà nức nở, dù đó là người khác giới! Hãy lặng im nghe từng giọt nước mắt rơi thấm dần trên vai ấm nồng. Hãy để cho người ấy ôm chặt lấy chúng ta mà khóc, khóc cho tan đi tất cả những muộn phiền.

Và chính chúng ta khi gặp gian nan, thất bại, hiểm nguy chúng ta cũng cần đến một điểm tựa để vượt qua. Điểm tựa ấy có thể là niềm tin, là kỳ vọng, là ước mơ, là mục đích… và còn có thể là tình yêu nữa. Không ai biết trong cuộc đời mình điểm tựa nào là quan trọng, có khi là cái này, có khi là cái khác, thậm chí có người cho rằng họ chẳng cần điểm tựa để tồn tại, họ rời bỏ, và họ cô đơn… Song một lúc nào đó họ nhận ra điểm tựa của mình rồi chấp nhận có khi nó chỉ là một điểm tựa bình thường nhỏ nhoi.

Cuộc sống luôn cần một điểm tựa, để những khoảnh khắc yếu lòng mà sai đường, nhưng vẫn có người, ở đó, chờ đợi và sẵn sàng giang rộng cánh tay bao dung tha thứ cho chúng ta.

Cuộc sống cần một điểm tựa, để những khi thấy nhớ, lạc lõng , cô đơn, chúng ta vẫn có người để điện thoại, để nhắn tin và được nghe giọng nói an ủi, nâng đỡ mà chẳng hề cáu giận dù đêm khuya, nhưng luôn đồng cảm với chúng ta.

Hôm nay Tin mừng cho ta thấy một điểm tựa thật vững chắc là Thầy Giê-su. Khi các môn đệ đang chơi vơi giữa giòng đời, đang chao đảo trước sóng gió, Chúa đã đến với các ông đã an ủi nâng đỡ các ông. Lòng các ông đã bình an khi nhận ra Thầy đang hiện diện giữa các ông.

Sứ điệp lời Chúa hôm nay như vẫn đang mời gọi chúng ta:”Anh em đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian”. Thầy đã thắng thế gian, đó cũng là tiếng mời gọi các môn đệ của Chúa là chúng ta, hãy cùng với Chúa để chiến thắng sự dữ, để đẩy lùi cái ác ra khỏi thế gian, để xoa dịu những đau thương mất mát trong cuộc đời. Và Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta hãy trao vào tay Chúa những khó khăn của cuộc đời để Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi hiểm nguy.  Đồng thời Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy là điểm tựa để nâng đỡ anh em đang chơi vơi trên dòng đời. Chúa muốn chúng ta hãy là chứng nhân cho tình thương và lòng nhân ái của Chúa, khi chúng ta cùng cầm tay nhau vượt qua những thăng trầm của cuộc đời. Khi chúng ta biết chạnh lòng thương xót trước những bất hạnh của tha nhân. Khi chúng ta không phủi tay trốn tránh trách nhiệm trước những nhu cầu của thời đại. Vâng cuộc đời sẽ ấm áp hơn nếu mỗi người biết liên đới và chia sẻ cho nhau để làm vơi đi những khổ dau, những lắng lo trong cuộc sống.

Chúng ta có thể không có khả năng làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, nhưng chúng ta có khả năng trao vào tay Chúa một chút lương thực ít ỏi, để Chúa có thể nhân rộng cho hàng ngàn người hưởng dùng.

Chúng ta có thể không có khả năng đi trên mặt nước, nhưng chúng ta có thể nâng đỡ, dìu dắt anh em qua những khó khăn của cuộc sống.

Chúng ta có thể không khiến cho sóng gió ba đào im lặng, nhưng chúng ta có thể góp phần đầy lùi sự dữ và xoa dịu những đau thương bằng lòng quảng đại và nhân ái của chúng ta.

Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta lòng mến nồng nàn để sẵn lòng  mang tình yêu và lòng nhân ái đến cho anh chị em chung quanh. Nguyện xin Chúa ban thêm đức tin và đức cậy để chúng ta luôn biết cậy dựa vào ơn trợ giúp của Chúa và an bình sống trong sự quan phòng của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

SỢ HÃI VÀ TIN TƯỞNG

Lm. Giuse Hoàng Kim Toan

Sợ hãi thường nghịch chiều nhau. Khi quá sợ hãi niềm tin tưởng thường là quá ít và ngược lại niềm tin tưởng đủ lớn thì nỗi sợ hãi càng nhỏ lại. Vấn đề không thể dứt bỏ hoàn toàn sợ hãi vì niềm tin tưởng là một quá trình phát triển chưa bao giờ toàn vẹn cho đến khi chết mới hết.

Sợ hãi mang tính tiêu cực:

Sợ hãi có thể gây ra tình trạng thu lại về chính mình, rút vào trong cô đơn, phòng thủ, và nặng hơn rơi vào trầm cảm hoặc tự kỷ. Không sợ hãi thái quá có thể rơi vào tình trạng liều mạng, mất kiểm soát nỗi sợ khi phê ma túy đá hoặc không đủ phân định kết quả tốt xấu…

Nguyên nhân của sợ hãi, theo các bác sỹ thần kinh cho biết, có nhiều nguyên nhân: Sợ hãi khi đã trải qua thực tế – sợ hãi thực sự trong tình huống đáng sợ – sợ hãi do chính mình phóng đại sự việc và lo lắng những tình huống do suy luận mông lung – Sợ hãi do suy nhược thần kinh…

Sợ hãi mang tính tích cực.

Đã có kinh nghiệm vượt qua nỗi sợ hãi và kiểm soát được chúng nhờ có nghị lực và luôn suy nghĩ tích cực trong mọi tình huống. Sợ hãi với những người này luôn biết mình cần thận trọng hơn trong lời nói trong công việc. Kiểm soát được những tiêu cực từ những dư luận không tốt, khi đang chịu áp lực tấn công từ người đang ghét mình (gato: ghen ăn tức ở). Và sợ hãi về chính mình giúp điều chỉnh và tự kiểm soát, để canh chừng chính mình không rơi vào sợ hãi tiêu cực.

Sợ hãi tích cực có thể thấy nơi Thánh Phêrô trong các tình huống:

Ngày đầu gặp Chúa bên bờ hồ Ghennêxarét, sau mẻ cá đầy, ông sợ hãi trước quyền năng của người lạ này, vì sau cả một đêm với kinh nghiệm thuyền chài của ông chẳng bắt được gì mà chỉ lời nói ra khơi thả lưới theo lời người lạ này mà có mẻ cá đầy. Ông đã đến quỳ trước Chúa: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simon và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc.” (Lc 5, 8 – 9). Và từ ngày ấy Phêrô bước theo Chúa. Sợ hãi này là nhận biết người đang tiếp xúc có uy quyền trong lời nói và việc làm, để chịu khuất phục và đi theo Chúa. Đó là nỗi sợ mỗi người cần có để nhận ra Chúa trong cuộc đời.

Sợ hãi vì thiếu tin tưởng: Khi Chúa Giê su nói ông Phê rô bước đi trên mặt biển để đi đến với Chúa, ông đã lo sợ hoảng hốt: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (Mt 14, 30). Sợ hãi vì thiếu tin tưởng luôn là vấn đề trong cuộc sống. Kinh nghiệm để thêm tin tưởng đúng với nhiều khía cạnh, nhưng về khía cạnh niềm tin vào Chúa thì không hẳn. Tin vào Chúa là một niềm tin tiệm tiến, đầy bất ngờ, khác với những suy nghĩ của mình với Chúa. Thế nên khi Thánh Phê rô xin Chúa ban thêm niềm tin cho con là một lời cầu xin không ngừng vì niềm tin luôn gặp nhiều thử thách.

Sợ hãi vì khác những gì mình suy nghĩ. Chúa Giê su đặt câu hỏi: Người ta bảo Thầy là ai? Phê rô đã tuyên tín ngay “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống”, nhưng ngay sau khi Chúa nói Thầy phải chịu nhiều đau khổ, bị nộp vào tay người đời, chịu chết và ngày thứ ba sẽ sống lại. Phê rô đã ngăn cản: “Thầy không thể như thế được” (Xem Mt 16, 13 – 23). Cuộc đời người tin theo Chúa cũng ngỡ ngàng nhiều lần như thế, đôi khi mình đã làm việc hết lòng vì Chúa vì anh chị em mà phải chịu nhiều ganh ghét và gièm pha. Lúc này người tin vào Chúa cũng rơi vào sợ hãi, nhưng Chúa là câu trả lời cuối cùng cho Phê rô và cho những người tin vào Chúa. “Hãy lặng thinh trước mặt Chúa và đợi trông Người. Bạn chẳng nên nổi giận với kẻ được thành công hay với người xáo trá. Dừng cơn phẫn nộ và chớ mãi nổi xung, đừng nổi giận kẻo sinh ra tội lỗi,” (Tv 36, 7 – 8).

Sợ con người dễ thay đổi của mình. Trong bữa tiệc ly, Chúa nói trước về sự vấp ngã của các môn đệ, Phê rô đã thưa: “Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không.”” Mc 14, 29). Sau đó Phê rô lại chối Chúa ba lần tại dinh thượng tế. Đấy là con người thật của mỗi chúng ta, nhưng Chúa sẽ chữa lành, nếu chúng ta nhận ra sai lỗi của mình và Chúa lại mở ra một tương lai mới: “Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22, 32).

Sợ Chúa không còn yêu thương mình nữa. Có lẽ Phê rô rất buồn sau khi nghe gà gáy, ngài đã nhớ đến lời Chúa nói: “Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư? Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần.” (Ga 13, 38). Nhìn thấy ánh mắt Chúa, ngài đã ra ngoài khóc lóc thảm thiết (Mt 26, 74). Có lẽ, Phê rô đã nhớ lại lần Chúa nói: “Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 10 33). Nỗi buồn sâu thẳm trong lòng, ngài đã về lại nghề đánh cá trước kia của mình, mà chẳng đạt được kết quả gì. Nỗi buồn thấm sâu, còn nghị lực nữa đâu mà làm gì được. Đang nỗi buồn sâu thẳm, Chúa lại đến bên bờ hố Tibêria, hạnh phúc tràn đầy khi nghe Gioan nói Chúa đó, ngài đã vội bơi vào bờ để được gặp lại Chúa. Tưởng rằng Chúa đã bỏ mình, nhưng Chúa lại hỏi ba lần :”con có yêu mến Thầy không?”. Câu hỏi đúng lúc như vỡ bờ hạnh phúc, ngài đã thưa: “Thầy biết, con yêu mến Thầy!” (Xem Ga 21).

Lạy Chúa, có những nỗi sợ về chính con người yếu đuối và dại khờ của chúng con. Nhưng, Chúa đã yêu thương tất cả những thiếu sót đó của chúng con, để chúng con không còn sợ khi có Chúa ở cùng con. Xin ban thêm niềm tin cho chúng con.

Về mục lục

.

ĐI TRÊN MẶT BIỂN

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Câu chuyện Chúa Giêsu đi trên mặt biển có gió to sóng lớn và biển lặng như tờ khi có sự hiện diện của Người gây ấn tượng không nhỏ đối với nhiều người và ghi dấu đậm nơi tâm hồn của những người có lòng tin. Thiên Chúa là Đấng tạo nên vũ trụ, trái đất và dựng nên con người. Ngài có toàn quyền trên vũ trụ, thiên nhiên, và ngay cả trên sinh mạng con người. Bài Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay là một trong những bằng chứng để quả quyết điều đó.

Thánh Matthêu trình bày cho chúng ta một toàn cảnh hết sức ý nghĩa và gây nhiều ấn tượng cho con người. Khía cạnh thứ nhất, trình thuật Tin Mừng diễn tả việc Chúa Giêsu cầu nguyện trên núi, Ngài cầu nguyện ở một nơi cao, xa, chứng tỏ Ngài xa cách, không còn vướng bận, không để ý, không quan tâm đến những gì đang xảy đến xung quanh, đặc biệt trong hoàn cảnh các tông đồ đang gặp thử thách lớn, phải chống chọi, chèo thuyền giữa phong ba bão táp trên biển hồ Galilêa.Hồ lúc đó đang gặp bão: sóng to, gió lớn.Các tông đồ đang phải đối diện với thử thách lớn lao, các ngài đang phải chống chọi hết sức khó khăn với nguy hiểm.Mặc dù, các ngài là những ngư phủ lành nghề, đã quen với bão tố cuồng phong, nhưng hôm nay phong ba bão táp lớn đến nỗi gây nguy hiểm cho thuyền, cho ngay chính sinh mạng của các ngài. Hai khía cạnh Tin Mừng đề cập xem ra hoàn toàn không có liên hệ gì với nhau cả, Chúa như vẫn xa lạ, vẫn ở xa khi biến nguy hiểm xẩy đến. Tuy nhiên đó chỉ là lý luận, chỉ là suy nghĩ. Chúa luôn có mặt luôn hiện diện nhưng vì các tông đồ còn yếu đức tin và ngay cả chúng ta cũng nhiều lúc còn quá yếu đức tin. Bởi vì, các tông đồ đã được Chúa mời gọi đi theo Người và ở với Người tương đối đã lâu,Chúa dạy dỗ, uốn năn, làm gương và làm nhiều phép lạ lớn lao như làm cho người chết sống lại, kẻ mù thấy được, kẻ què đi được, chữa lành người phong cùi, làm cho cá và bánh hóa nên nhiều…Chính vì thế, các tông đồ tin mãnh liệt vào Chúa quyền năng, có lần các ngài sau khi được Chúa sai đi rao giảng, đã trở về hân hoan, phấn khởi thuật lại cho Chúa những thành công, những việc tỏa sáng các ngài đã làm được và các ngài đã thưa với Chúa Giêsu :” Ma quỷ đã chạy trốn khi nghe đến Danh thánh của Người “ ( Lc 10, 7 ). Nhưng cái trớ trêu Tin Mừng thuật lại hôm nay, Chúa đã đi trên mặt biển mà đến với các ngài lúc canh tư đêm tối, lúc gian nan giông tố và khi Chúa mời gọi họ đi trên biển mà đến với Chúa thì Phêrô đã vâng lời, nhưng khi thấy gió thổi mạnh, sóng nhô lên to, cảnh mặt hồ náo động, Phêrô đã không còn làm chủ mình, đã quên quyền năng của Chúa, đã quên hết những lời tuyên xưng của mình trước đây với Người, để rồi sợ hãi, hốt hoảng, mất lòng tin đến nỗi sắp chìm xuống biển hồ, Phêrô la tuếnh lên :” Thưa Ngài, xin cứu con với “.Chúa đã trách ông: “Người đâu mà kém tin vậy ! Sao lại hoài nghi “. 

Vâng, chúng ta đã theo Chúa, làm con Chúa qua bí tích rửa tội.Chúng ta đã được học Giáo lý, đọc Kinh Thánh, nghe những lời Giáo huấn của Giáo Hội. Chúng ta đã tin và tin nhận Thiên Chúa là Đấng đầy quyền năng, là Đấng yêu thương, chăm sóc và luôn trung thành với chúng ta. Ngài chậm giận nhưng giầu lòng tha thứ. Tuy nhiên, có những lúc chúng ta cũng rơi vào tâm trạng như Phêrô, nên khi gặp thử thách, khó khăn, trắc trở trong cuộc sống, trong cuộc hành trình đức tin, đôi khi chúng ta cũng mất niềm tin nơi Chúa, nơi Đấng mà chúng ta luôn luôn tin tưởng, tín thác.

Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho chúng con, để chúng con tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, luôn biết lắng nghe Lời của Chúa và đem Lời Chúa ra thực hành trong đời sống hằng ngày. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1. Tại sao các môn đệ lại sợ khi sóng to gió lớn nổi lên ?
2. Việc Chúa Giêsu đi trên mặt biển và Phêrô đi trên mặt nước nói gì ?
3. Trong cuộc sống nếu hoài nghi chúng ta sẽ ra sao ?
4. Đức tin giúp gì cho chúng ta ?
5. Bài học Tin mừng hôm nay dạy chúng ta điều gì ?

Về mục lục

.

ĐỨC TIN HIỆN TẠI

Anna Cỏ May

Tiếng gà gáy, tiếng đồng hồ reng reng, mặt trời từ từ xuật hiện, báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Mọi người háo hức đón ngày mới với bao niềm vui; cũng có khi ta bắt đầu ngày mới với bao âu lo. Xế chiều, kết thúc ngày một làm việc, tạm gác lại mọi công việc và học tập, mọi người cùng trở về với gia đình thân yêu của mình. Mọi người cùng quây quần bên nhau, cùng nhau trò chuyện và giải trí, cùng giữ mái ấm gia đình hạnh phúc.

Với các môn đệ cũng vậy, sau một ngày đi với Thầy, cùng Thầy phục vụ mọi người, Thầy tìm cách đưa các ông rời khỏi dân chúng để cho các ông được nghỉ ngơi. Các ông đi xuống thuyền qua bên bờ bên kia trước, còn Ngài ở lại giải tán dân chúng. Sau khi giải tán dân chúng xong, Ngài trở về với gia đình của mình. Gia đình đầu tiên là Chúa Cha. Ngài đã lên núi để gặp gỡ và trò chuyện với Chúa Cha. Ngài dâng mọi sự và kín múc tình yêu từ suối nguồn vô tận là Chúa Cha. Dừng lại ở điểm này, chúng ta thấy Chúa Giêsu như đang khắc họa đời sống của chúng ta. Chúng ta cũng có hai gia đình. Gia đình trên trời và gia đình trần gian. Gia đình trên trời là nơi Thiên Chúa ngự trị, chúng ta chọn Ngài là Chúa, là Cha, chúng ta có bổn phận yêu mến và hiếu thảo với Ngài. Sự hiếu thảo ấy chúng ta thể hiện mỗi ngày ngay từ khi thức dậy và kết thúc ngày sống. Chúng ta hiếu thảo qua Thánh lễ, trong giờ kinh và giờ cầu nguyện trong gia đình. Ngài cho chúng ta tự do lựa chọn thời gian gặp Ngài. Ngài chờ chúng ta đến với Ngài trong tin tưởng, phó thác và cả trái tim. Ngài muốn chúng ta đến với Ngài để kín múc tình yêu và ân sủng như Ngài đến với Chúa Cha. Ngài đến với Chúa Cha để kín múc tình yêu và nguồn sinh lực để đem về cho các môn đệ. Ngài đã trao ban cho các môn đệ khi các ông đang vật lộn với sóng gió. Ngài đã đi trên mặt biển mà đến với các ông. Các ông thì đang lảo đảo trên thuyền, từ xa xuất hiện một người đi là là trên mặt biển. Các ông hoảng sợ và la lên: “Ma đấy!” (Mt 14,26). Sự hoảng hốt nơi các ông là điều dễ hiểu. Bởi vì, những ai muốn đi qua bờ bên kia phải đi bằng thuyền, bằng đò hay tàu. Trong khi ấy, Ngài không đi bằng phương tiện nào, Ngài đi bằng quyền năng của Ngài. Cũng lúc ấy, màn đêm bao phủ, không còn ai hoạt động trên biển. Vì thế, trong lòng họ lúc ấy sợ và chỉ nghĩ đến là ma thôi. Nghe các môn đệ la, Chúa Giêsu liền bảo: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây đừng sợ!” (Mt 14, 27). Để chắc ăn là Thầy, Phêrô lên tiếng: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”. Đức Giêsu bảo: “Cứ đến” (Mt 14, 28-29). Phêrô đã bắt đầu tin, ông từ thuyền bước xuống. Ông đang đi thì gió thổi lên, ông sợ, ông không nhìn Chúa nữa, ông cúi xuống nhìn mặt nước. Ông thấy mình bắt đầu chìm. Đức tin của ông là lúc này đây. Ông đã mất niềm tin vào Chúa ngay lúc gặp khó khăn. Đức tin là chúng ta phải đón nhận, xác tín, phó thác, trung tín và làm chứng cho Chúa. Với ông Phêrô, ông cần một đức tin phó thác vào Thầy mình. Ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!”. Thánh Âu tinh đã nhấn mạnh đức tin theo nghĩa phó thác rằng: “Chúa đã nói là tin vào Ngài chứ không phải tin. Ma quỷ tin Chúa nhưng không tin vào Chúa.”

Trong các bài Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu luôn khiển trách các môn đệ nhiều nhất, không phải vì các ông kém yêu nhưng là kém tin, thiếu lòng tin. Điển hình, trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa đã nói: “Hỡi kẻ kém lòng tin. Sao lại hoài nghi?”  Chúa đã trách các ông thiếu tin tưởng, phó thác vào Chúa. Có lẽ, lời khiển trách ấy không chỉ dành cho các môn đệ mà cho cả chúng ta nữa. Ngày hôm nay, chúng ta ít tin tưởng và phó thác nơi Chúa, vì thế chúng ta dễ chán nản, thất vọng, thiếu sự bình an trong tâm hồn. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu vào lúc cuối đời cũng có lần tuyệt vọng. Chị bị cám dỗ sẽ tự tử từ trên lầu của nhà dòng. Chị đã ghì chặt lan can không rời tay. Khi gặp thách đố, chúng ta hãy bám chặt vào Chúa và phó thác vào Chúa. Đức tin rất cần cho chúng ta, ơn đức tin đến từ Chúa và chúng ta phải nài xin Chúa ban cho chúng ta ơn ấy.  Sợ hãi làm cho các tông đồ không nhận ra Thầy. Sợ hãi khiến Phêrô hoài nghi và bị chìm. Chúng ta sợ hãi bao nhiêu thì đức tin của chúng ta tỏ ra mạnh hay yếu bấy nhiêu. Làm sao để hết sợ hãi? Sợ hãi đến từ sự thiếu tin tưởng và quá lo lắng. Chúng ta hãy để cho lời Chúa hướng dẫn mà bước đi. Khi biết mình có Chúa, lòng ta sẽ bình an và thôi sợ hãi. Chỉ có một điều đáng sợ thôi, đó là: “Anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt được cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”. ( Mt 10, 28).

Lạy Chúa! Cuộc sống của chúng con luôn có những cơn gió nhẹ, có những cơn sóng và cả bão tố vẫy vùng. Những lúc ấy, chúng con dễ đánh mất đức tin. Xin Chúa cho chúng con luôn biết sẵn sàng để Chúa nắm tay kéo lên thuyền. Con thuyền có Chúa, biển sẽ lặng và tâm hồn con cũng an vui. Amen.

Về mục lục

.

MỜI CHÚA LÊN THUYỀN

Bông hồng nhỏ

 “Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc người giải tán dân chúng.” (Mt 14, 22).

Sau khi cho dân chúng ăn no nê, Thầy và trò đều được ca tụng. Thầy làm phép lạ chỉ xuất phát từ tình thương và muốn dạy cho các môn đệ bài học về tình thương vô điều kiện. Các môn đệ thì phấn khởi và hân hoan. Thầy được ca tụng cũng có nghĩa là các môn đệ cũng được khen ngợi, được cảm kích. Chắc chắn sau phép lạ hóa bánh này, danh tiếng Thầy Giêsu sẽ còn nổi hơn nữa. Thầy biết rõ tất cả và chính khi lòng các môn đệ bắt đầu dính bén với vinh quang trần thế và hiểu sai việc Thầy làm thì Thầy “liền bắt các ông xuống thuyền qua bờ bên kia”.

Đi đâu khi trời đã tối? Sang bên kia biển hồ mà trên thuyền không có Thầy ư? Lòng các ông không hề muốn xuống thuyền, các ông dùng dằng muốn ở lại, vậy mà Thầy nỡ tâm “bắt các ông xuống thuyền qua bờ bên kia.” Chắc chắn, các ông đã mệt lắm rồi vì cả ngày hôm nay tất bật phụ Thầy chữa bệnh cho đám đông, xế chiều còn luôn tay chia bánh và cá cho hơn năm ngàn người ăn. Sức người có hạn, vậy mà Thầy không biết các học trò đã mệt ư? Vượt biển trong đêm tối không phải là điều dễ dàng. Các ông lên thuyền mà lòng không yên. Chỉ mới đây thôi, bên tai các ông còn tiếng khen và câu ca tụng, người ta quý mến, quyến luyến các ông không muốn rời cũng là chuyện đương nhiên. Chỉ mình Thầy ở lại giải tán dân chúng. Đêm khuya, Thầy vẫn ở trên núi vắng vẻ mà trút bầu tâm sự cùng Chúa Cha. Từ xa, Thầy vẫn thấu suốt tâm tư và những gì xảy đến cho từng người học trò.

Con thuyền lênh đênh trên biển và bị sóng đánh vì ngược gió. Thuyền lướt sóng mà tay chèo mỏi mệt. Cả ngày tất bật bên Thầy tuy mệt nhưng các ông có động lực để phục vụ, lòng các ông phấn khởi vì ít ra người ta vẫn xuýt xoa khen ngợi, mỏi mệt được vơi đi bội phần. Bây giờ, các ông mỏi mệt chèo thuyền mà tâm hồn và trái tim đã gửi lại với dân chúng rồi, vì thế cái mỏi mệt lại nhân lên. Chèo thuyền mà lòng không hiệp nhất thì sóng đến từ trong tâm hồn.

Thầy hiểu rõ tâm tư và nỗi lòng người môn đệ. Đến canh tư, Thầy đi trên mặt biển mà đến với các ông. Trông thấy Thầy, các ông lại tưởng là ma nên hốt hoảng và sợ hãi. Mệt mỏi và sợ hãi khiến các ông mất cảm thức về sự hiện diện của Thầy. Có những khi bao nỗi gian truân bủa vây, giăng mắc khiến lòng ta lo buồn, mỏi mệt và sợ hãi, Thầy đến bên ta mà ta không nhận ra. Thầy trấn an người môn đệ: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” ( Mt 14, 27). Ông Phêrô nghe tiếng Thầy rồi nhưng để chắc chắn hơn, ông xin Thầy một điều lạ lùng: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.” Ông tin vào quyền năng của Thầy nên nếu ông có thể đến với Thầy như cách ông xin thì chỉ có Thầy mới có quyền năng ban cho ơn ấy. Những khi gặp khó khăn thử thách, ta có dám thưa lên cùng Chúa khát vọng vượt lên trên nỗi sợ để đến cùng Giêsu không? Thầy cho phép ông xuống thuyền và quả thật chân ông đang bước đi nhẹ nhàng trên mặt nước bao la. Có những điều ta thực hiện được không phải đến từ chính năng lực của bản thân mà là nhờ ơn Chúa ban nhưng không. Gió thổi khiến ông sợ hãi và ông bị chìm. Không phải khi đã nhận được ơn Chúa ban là ta đã chắc chắn đạt được điều mình xin nhưng hành trình đến với Chúa cần có một lòng tin kiên vững và không nghi nan dù gặp hiểm nguy. Khi đã vấp ngã và sắp chết chìm, liệu ta có đủ can đảm để xin Thầy: “Thầy ơi, xin cứu con với”! Một ngư phủ tài giỏi như ông chắc chắn biết bơi. Ta cũng vậy, có những khi vì quá tin vào khả năng của bản thân mà ta tự xoay sở với khó khăn mà không cần ai giúp đỡ. Chính sự kiêu ngạo và tự mãn đã nhận chìm ta trong thất bại. Thầy Giêsu đưa tay kéo ông lên mà quở trách: “Hỡi kẻ kém lòng tin! Sao lại hoài nghi?” ( Mt 14, 31). Dù bị quở trách nhưng ông được Thầy thương hơn, thương vì sự yếu đuối của chính ông. Người yếu đuối luôn được quan tâm và nâng đỡ, điều chính yếu là ta có dám tỏ cho Thầy biết sự yếu đuối của bản thân. Không dễ gì để nói cho người khác biết mình yếu đuối. Người ta thường cố tỏ ra mạnh mẽ trong mọi lúc, ngay cả khi người khác biết rõ mình đang gặp khó khăn. Thầy và trò lên thuyền thì biển lặng. Con thuyền không còn chao đảo nữa. Biển đã lặng sóng và tâm hồn người môn đệ cũng không còn sợ hãi nữa. Thầy đang ở cùng các ông và các ông nhận ra: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!” ( Mt 14, 33). Ta hãy mời Thầy lên con thuyền của cuộc đời mình. Có Thầy, đời ta sẽ an vui và bình an.

Lạy Chúa! Thuyền trên biển không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, nhưng có những khi sóng đánh vì ngược gió và có cả những con sóng dậy lên từ những tâm hồn bất an. Xin Chúa bước lên con thuyền cuộc đời con, để nhờ đó, con biết đặt cuộc đời con trong quyền năng và tình thương của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

NHÌN THẤY CHÚA TRONG CUỘC SỐNG

Lm. GB. Trần Văn Hào

Thánh Augustinô đã viết : “Có một thời để sống, một thời để chết và một thời để đi vào vĩnh cửu. Thời để sống là lúc chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa. Thời để chết là lúc chúng ta đến gặp gỡ Chúa và thời đi vào vĩnh cửu là lúc chúng ta chiếm hữu Ngài cách trọn vẹn”. Tiếp nối triền suy tư ấy, thánh nhân đã dâng lên Chúa lời cầu nguyện : ‘Lạy Chúa, linh hồn con khao khát tìm kiếm Chúa, cho tới khi được nghỉ ngơi trong tay Ngài’(trích trong sách Confessio). Như vậy, cuộc lữ hành trần gian của chúng ta hôm nay là một chặng đường dài, trong đó con người phải luôn khát khao đi tìm kiếm Thiên Chúa. Ngài là cùng đích, là đối tượng duy nhất mà chúng ta phải vươn hướng về. Nhưng, chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa ở đâu, gặp dưới dạng thức nào và làm sao chúng ta có thể nhận ra Ngài trong các biến cố cuộc sống đời thường ? Các bài đọc lời Chúa hôm nay gợi mở những phương cách để giúp chúng ta thực hành điều này.

Thiên Chúa đang hiện diện trong cuộc sống của mỗi người

Nietzche, một triết gia vô thần đã ngạo nghễ tuyên bố : “Thiên Chúa đã chết rồi”. Ông muốn khai tử Thiên Chúa và cho rằng, con người ngày nay đã đạt đến cao điểm của nền văn minh khoa học, nên Thiên Chúa không còn lý do để hiện hữu. Ông đã phạm một sai lầm rất lớn khi muốn loại bỏ Thiên Chúa và vào cuối đời, ông đã chết trong tuyệt vọng. Cũng tương tự, triết gia Jean Paul Satre đã trở thành con người vô thần khi chối từ Thiên Chúa. Ông cảm thấy cuộc đời của mình hoàn toàn trống rỗng và vô nghĩa như một cơn buồn nôn. Để diễn tả tâm trạng bất an ấy, ông đã viết cuốn sách ‘La Nausée’ (cơn buồn nôn). Cho dù nhiều người đang cố gắng đào thải Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống để chạy theo chủ nghĩa vô thần hiện sinh, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn hiện hữu. Tuy nhiên, chỉ khi nào chúng ta đi sâu vào cảm thức đức tin, chúng ta mới có thể khám phá ra sự hiện hữu của Thiên Chúa và tiếp cận được Ngài.

Trong bài đọc 1, tác giả sách Các Vua đã thuật lại câu truyện về ngôn sứ Elia trên đường đến núi Hô-rep để gặp Chúa. Chúa không ở trong những tiếng động ầm ĩ của bão tố, cũng không ở trong những tiếng rung chuyển của cơn động đất hay trong ngọn lửa hừng hực phun trào trên đỉnh núi cao. Cuối cùng, Chúa đã đến với Elia trong tiếng gió hiu hiu rất âm thầm và nhẹ nhàng. Trong cuộc sống của chúng ta hôm nay cũng vậy, có biết bao tiếng động ồn ào làm cản che đôi tai khiến chúng ta không nghe được tiếng Chúa nói, hoặc bịt kín đôi mắt khiến chúng ta không thể nhận ra dung mạo của Ngài. Sự ồn ào gây nên không phải bởi những tiếng gầm rú của xe cộ ngoài đường phố hay bởi những loa nhạc mở hết công suốt tại các phòng trà. Trên hết, đó là những tiếng động xào xạc của tiền bạc, của lòng tham vô đáy nơi con người khi họ đang hướng về một lối sống hưởng thụ và ích kỷ. Chính cuộc sống duy vật ấy đang dần khai tử Thiên Chúa, và hình ảnh của Thiên Chúa đang trở nên mờ nhạt trong tâm hồn con người ngày hôm nay.

Cũng tương tự như thế, trong trình thuật Tin Mừng, thánh Matthêu thuật lại giai thoại Chúa Giêsu đi trên biển để đến với các môn đệ, nhưng các ông tưởng là thấy ma. Con thuyền lênh đênh giữa biển khơi đầy sóng to và gió lớn khiến các ông khiếp sợ. Sự sợ hãi đã khiến các ông không nhận ra Chúa. Trong cuộc sống hôm nay cũng vậy, chúng ta sẽ không thể nhận ra sự hiện diện của Chúa cho dù Ngài đang đứng bên cạnh chúng ta, đặc biệt mỗi khi chúng ta chìm ngập trong sợ hãi và bị những bóng ma cản che con mắt đức tin. Đó là bóng ma của tiền bạc, của lạc thú, của một nếp sống hưởng thụ khi chỉ nghĩ đến bản thân mình một cách ích kỷ. Phêrô đã dần dần nhận ra Chúa và muốn đến với Ngài. Nhưng khi nỗi sợ hãi dâng cao, ông lại từ từ lún chìm giữa lòng biển khơi ngập sóng. Những bóng ma trong đêm tối dễ làm cho con người chúng ta khiếp sợ. Sự khiếp hãi làm sói mòn đức tin và nó đốt cháy lòng tín thác của chúng ta đặt để nơi Chúa.

Thưa Ngài, xin cứu con với

Đây là lời cầu cứu của thánh Phêrô lúc ông đang từ từ lún chìm vì sợ. Con thuyền của các tông đồ đang lênh đênh giữa biển khơi đầy sóng to và gió lớn khiến các Ngài hoảng loạn. Nỗi sợ hãi tăng cao khi các ông tưởng nhìn thấy một bóng ma đang lù lù tiến đến. Cũng vậy, khi cuộc đời chúng ta cứ bình lặng êm trôi, chúng ta rất dễ hướng lòng về Chúa. Song, khi gặp nhiều thử thách với bao sóng dữ như muốn nuốt chửng, chúng ta dễ bị chao đảo và vuột mất niềm tin nơi mình. Triết gia Karl Marx đã từng mỉa mai nói rằng : “Thiên Chúa chỉ là một sản phẩm của trí tưởng tượng nơi phận người đầy khổ đau, là tiếng kêu cứu của một con người bị áp bức mà không biết bấu víu vào đâu. Ảo tưởng đó sẽ bị xóa bỏ, khi xã hội con người đạt đến tự do bình đẳng, không còn người bóc lột người và tất cả được no cơm ấm áo”. Nhận định của ông rất phiếm diện và ngày nay, học thuyết Marxism đang dần dần bị con người đào thải. Niềm tin tôn giáo không phải là một thứ thuốc phiện gây mê như ông đã từng nói. Càng sống sung túc về đời sống vật chất, con người lại càng cảm thấy nhu cầu cần đi tìm kiếm một thực tại linh thánh để có thể khỏa lấp những khát khao sâu xa nơi mình. Chỉ Thiên Chúa mới có thể làm cho con người thỏa mãn những khát vọng sâu xa ấy.

Chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương của thánh Phaolô được nói đến trong bài đọc 2 hôm nay. Vị Thánh Tông đồ đã trải qua nhiều đau khổ, nhưng luôn kiên định  trong niềm tin vào Đức Giêsu. Thánh nhân viết : “Lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không nguôi. Nếu tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô, thì tôi cũng cam lòng” (Rm 9,2-3). Ngài viết tiếp : “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi Đức Kitô, phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ hay gươm giáo (Rm 9,35). Phaolô đã vượt qua được những sóng gió vì Ngài đã cắm sâu vào mầu nhiệm Thập giá cùng với Đức Kitô, đã vượt qua mọi sợ hãi để luôn bình thản trước những cơn sóng dữ của cuộc đời. Vì vậy Thánh nhân đã kết luận : “Không gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, thể hiện nơi Đức Kitô” (Rm 9,39).

Đào sâu cảm thức đức tin

Có rất nhiều nhà khoa học lỗi lạc đã thể hiện niềm tin sâu xa vào Thiên Chúa như Louis Pasteur, Copernic, Newton, Thomas Edison,v…v… Chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương của ông Louis Amstrong, phi hành gia đầu tiên người Mỹ đã đặt chân lên đến mặt trăng. Vừa sau khi phi thuyền đáp xuống, ông đã quỳ gối, giơ tay làm dấu Thánh giá để biểu thị đức tin nơi mình. Cũng vậy, ông Newton, một khoa học gia lỗi lạc, khi nhìn ngắm trăng sao để nghiên cứu bầu trời, đã cảm thấy con người rất nhỏ bé trước sự hùng vĩ của thiên nhiên, là kiệt tác do bàn tay Thiên Chúa tạo thành. Ông luôn sống khiêm tốn để ngày càng đi sâu vào cảm thức đức tin. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa nói với Phêrô : “Hỡi kẻ kém lòng tin, sao lại hoài nghi”. Đây cũng là lời trách cứ Chúa nói với chúng ta, mỗi khi đức tin của chúng ta bị chao đảo. Để đức tin nơi chúng ta được nuôi dưỡng và được kiện cường, điều kiện tiên quyết là phải có một tấm lòng biết mở rộng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Đức Maria là thầy dạy đức tin và cũng là khuôn mẫu nội tâm để chúng ta học hỏi thái độ đức tin nơi Ngài.

Kết luận

Thiên Chúa luôn hiện diện và đang đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường cuộc sống. Dấu chân của Ngài luôn in đậm nét trong mọi biến cố cuộc sống đời thường của mọi người, nhưng nhiều khi chúng ta chưa hoặc không nhận ra Ngài. Kinh nghiệm mà thánh Phêrô cũng như các tông đồ đã trải nghiệm năm xưa trên biển hồ Galilê cũng thường được lập lại trong cuộc sống hiện sinh của chúng ta ngày hôm nay. Cùng với Thánh Phêrô, chúng ta hãy thưa lên với Chúa : “Thưa thầy, xin hãy cứu con. Xin hãy gia tăng lòng tin yếu kém nơi chúng con”.

Về mục lục

.

TRÊN BIỂN ĐỜI

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Trong cuộc xuất hành của dân Do thái từ Ai cập về Đất Hứa, có một phép lạ lớn lao trên biển. Đó là phép lạ vượt qua Biển đỏ. Khi dân Do thái rời bỏ Ai cập đến Biển Đỏ thì quân Ai cập đuổi theo sát phía sau lưng. Được lệnh Thiên Chúa, ông Môsê giơ tay trên biển làm cuồng phong nổi lên, nước biển liền rẽ ra làm hai để lộ đất khô ráo, dân Do thái đi vào lòng biển khô cạn, quân Ai cập đuổi theo. Đến sáng, khi người Do thái cuối cùng đi sang bờ bên kia. Thiên Chúa ra lệnh cho Môsê giơ tay trên biển, nước trở lại như cũ. Quân Ai cập bị nhấn chìm trong biển, chết không còn một ai sống sót. Ngày đó, Thiên Chúa đã cứu dân Do thái thoát khỏi dân Ai cập. Đó là một phép lạ lớn lao Thiên Chúa đã làm trên biển. Phúc Âm hôm nay kể một phép lạ Chúa Giêsu làm trên biển. Đó là biển hồ Galilê. 

Biển hồ Galilê có hình bầu dục dài 21km rộng 12km, còn được gọi là hồ “Giênêzarét” (Lc5,1). Thánh kinh cựu ước gọi là biển “Kinnerét” (Ds 34,11; Gs 12,13) hay còn gọi là “biển Tibêria” (Ga 6,1). Tibêria hiện nay là một thành phố sầm uất ở Galilê, nằm trên bờ tây nam biển hồ. Nằm về hướng bắc Giêrusalem 100Km, biển hồ Galilê là nơi mà dòng sông Jordan đổ vào trước khi chảy qua biển Chết. Thung lũng và sông Jordan mang một sắc thái địa lý rất đặc biệt, duy nhất trên thế giới vì thấp hơn mực nước biển:208 mét tại biển hồ Galilê và 300 mét tại biển Chết. Thực vật ở đây thuộc dạng nhiệt đới, chung quanh biển hồ núi non bao phủ, lẫn vào con sông Jordan, thời tiết bất thường ở miền đất từ miền nam đến biển Chết, đó là những yếu tố hình thành những vùng gió giật và giông bão xảy ra bất ngờ trên biển hồ (Mt 8,23-27; 14,22-23). 

Đối với Tân ước, biển hồ Galilê được nói đến nhiều vì là một trong những trung tâm hoạt động của Chúa Giêsu. Rất nhiều biến cố đã xảy ra tại đây: Bão tố ngừng lại (Mt 8,24-26), Mẻ lưới kỳ diệu (Lc 5,4-14), Đức Giêsu rảo trên thuyền (Mc 4,1), đi trên biển (Ga 6,16-21). Những thành ven bờ hồ như Khôrazin, Bếtsaiba, Caphanaum, Magđala là những nơi Chúa Giêsu thường lui tới, qua nhiều thế kỷ, biển hồ Galilê được gọi dưới nhiều tên: Hồ Kinnêzét, hồ Giênêsarét, và biển hồ Tibêria. 

Biển hồ và những vùng lân cận, có rất nhiều di tích liên hệ đến cuộc đời của Chúa và các môn đệ Ngài. Galilê là vùng có núi đồi khô cằn, nhưng các thung lũng phì nhiêu trải dài từ biển Địa trung Hải cho đến biển hồ Galilê. Chính trong các thung lũng này đã hình thành nhiều đồn điền trái cây nổi tiếng đem lại nguồn lợi xuất khẩu. Vào năm 1960, biển hồ là điểm xuất phát cho ngày quốc gia tưới tiêu, chính quyền Israel cho đào một con kênh lớn dẫn nước từ tận biển hồ đến sa mạc Negew. Công trình thuỷ lợi mang lại nguồn lợi kinh tế to lớn cho một nước mà địa dư, khí hậu đa phần được xem là không mấy thuận lợi. Nhiều nước trên thế giới đã gởi người tới học tập. 

Trở lại bài Phúc âm, Thánh Matthêu kể chuyện: trên Biển hồ Galilê, khi có trận cuồng phong từ thung lũng Baka thổi vào thì tất cả các ngư phủ vốn quá quen đi thuyền ngang dọc trên biển hồ cũng phải sợ hãi. Các ngài là những ngư phủ trên biển hồ Galilêa này, và có thể nói là đã quen thuộc với những cơn sóng to gió lớn. Vậy mà đêm hôm đó họ đã trải qua một phen hải hùng, sóng to nổi lên, gió lớn thổi ngược, phải chống chèo rất vất vả các ông mới giữ vững được con thuyền. Và rồi đã xảy ra một sự kiện bất ngờ. Chúa Giêsu đi trên mặt nước đến với các môn đệ. Vốn đã khiếp đảm vì biển động sóng gió, các môn đệ nay hoảng sợ la lên vì họ tưởng là gặp ma. Thế nhưng khi nghe tiếng nói quen thuộc trấn an : “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”, các ông mới nhận ra Chúa, lập tức Phêrô xin phép đi trên mặt nước đến gặp Chúa. Chúa bằng lòng. Phêrô bước ra khỏi thuyền đến với Chúa, nhưng đức tin của ông còn yếu kém, ông hồ nghi và lo sợ nên bị chìm dần xuống nên kêu xin Chúa cứu giúp. Chúa đưa tay cầm lấy tay ông và trách nhẹ : “Người đâu mà kém tin vậy, sao lại hoài nghi ?”. Khi Chúa và Phêrô đã lên thuyền, sóng gió liền yên lặng và mọi người tuyên xưng : “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa”. 

Tuần vừa rồi, tôi đi thăm các gia đình giáo dân trong giáo xứ. Tôi đi với hai ông trong hội đồng mục vụ. Đến cổng một gia đình, có con chó to sủa lớn xông ra như muốn vồ lấy. Chúng tôi hoảng sợ đứng im. Bé Hoa 6 tuổi từ trong nhà chạy ra, bé nạt con chó: lu lu, đi vô mau. Con chó to hung dữ bỗng ve vẫy đuôi, trở lại hiền lành chạy vào nhà. Con chó to vậy mà nghe lời cô gái nhỏ vì bé Hoa là chủ của nó. Còn tôi và mấy ông tuy to con nhưng không phải chủ nó nên nó chẳng sợ mà còn định nhảy vào cắn. Hôm đó tôi miên man nghĩ về câu chuyện Phúc âm Chúa Nhật này. Các môn đệ sợ hãi trước sóng to gió lớn bão tố sấm sét. Chúa Giêsu ra lệnh: hãy im đi, tức thì sóng yên biển lặng. Chúa Giêsu có quyền trên mọi sức mạnh thiên nhiên vì Người là Thiên Chúa sáng tạo, là chủ muôn loài. 
Cả hai phép lạ: vượt qua Biển đỏ, Chúa Giêsu đi trên biển có một điểm giống nhau, đó là quyền năng Thiên Chúa trên mọi sức mạnh thiên nhiên. 

Trên biển đời, có biết bao bão tố phong ba bủa vây, tin vào Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo dựng vũ trụ và muôn loài, chúng ta sẽ sống bình an trước mọi giông bão cuộc đời. Hãy vững tin và tín thác nơi Chúa Giêsu.

1. Sự hiện diện của Chúa Giêsu, nguồn bình an 

Sau khi Chúa Giêsu lên thuyền, gió bỗng yên lặng. Sự hiện diện của Người đủ sức mang lại yên tĩnh và chế ngự phong ba bão táp. Biển theo nghĩa Kinh thánh tượng trưng cho quyền lực của sự ác. Đi trên biển chứng tỏ quyền năng và sự chiến thắng của Chúa Giêsu trên sự dữ, nguồn gốc của bất an, chia rẽ, đau khổ

Nhiều người Kitô hữu thờ phượng Thiên Chúa nhưng vẫn còn lo lắng, sợ hãi tà thần ma quỷ, nhiều khi còn mê tín dị đoan nữa. Hãy tin tưởng rằng: quyền lực của bóng tối không có gì đáng sợ khi Chúa đã hiện diện và hoạt động trong đời sống và công việc làm của chúng ta. Nếu biết lắng nghe, trong giông bão cuộc đời, chúng ta sẽ nhận ra tiếng Chúa “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ”. Nếu chúng ta tin tưởng vào lời Chúa hứa thì sự hiện diện của Chúa sẽ làm bão tố êm dịu và khủng hoảng được giải quyết (Pl 4,13).

Nơi đâu có Chúa Giêsu, ở đó có bình an. Cuộc đời người Kitô hữu không thể tránh khỏi những phong ba giông bão của cuộc sống. Cần phải đến với Chúa Giêsu. Nếu biết đặt Người ở trung tâm đời mình thì sẽ tìm kiếm được an bình nội tâm, cho dù có gặp biết bao gian truân thử thách. Chúa Giêsu hiện diện ngay trong cuộc sống của Kitô hữu nếu mọi người biết đến với Người qua việc nghe, thực thi lời Người, đón nhận Mình Máu Thánh Người và siêng năng cầu nguyện với Người. 

2. Tín thác cuộc đời trong tay Chúa Giêsu 

Các môn đệ vì sợ hãi sóng gió bủa vây nên không nhận ra Chúa Giêsu, ngộ nhận Người là ma. Chúa Giêsu trấn an họ: “Thầy đây, đừng sợ”. Hơn cả một lời trấn an, đây còn là một mạc khải : sự hiện diện của Chúa sẽ xua đi mọi nỗi sợ hãi; hãy tín thác cuộc đời trong tay Người. Khi Người xuất hiện thì gió yên biển lặng ; khi Người có mặt thì có sự bình an. Chính vì thế mà các môn đệ đã thờ lạy Người : Thầy quả thật là Con Thiên Chúa. Lời tuyên xưng này đồng thời cũng là lời biểu lộ một sự tín thác nơi Người. Tất cả mọi người trên thuyền cùng tuyên xưng một đức tin, cùng chung một lòng trông cậy. Một tỉ lệ thuận ngàn năm bất biến: tín thác vào Chúa, bình an tâm hồn.

Trong cuộc sống của mỗi người, niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô cần được thanh luyện và minh chứng qua thử thách gian nan. Nếu biết yêu mến và tín thác vào Chúa, thì càng khó khăn vất vả, càng vươn lên mạnh mẽ trong đức tin, luôn có được bình an nội tâm. Mọi gian nan thử thách đều trở nên tốt đẹp, hữu ích cho những ai yêu mến Chúa.

Lạy Chúa Giêsu,
Con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô, nhưng nhiều khi con cảm thấy sống đức tin
giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống.
Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng. Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ tênh mà bước những bước dài hướng
về Chúa. Amen (Mana). 

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN – NĂM A

Lm. Anthony Trung Thành

Có một người nọ ví cuộc đời của mình như một người lữ hành đang đi trên một bãi biển đầy cát. Khi nhìn lại cuộc hành trình, anh nhận ra hai điều kỳ lạ: 

Điều thứ nhất: Khi anh thành công, hạnh phúc, vui sướng… anh thấy có bốn dấu chân trên cát. Đó là hai dấu chân của anh và hai dấu chân của Chúa. Thiên Chúa đồng hành để chia sẻ niềm vui với anh.

Điều thứ hai: Khi anh thất bại, đau khổ, buồn sầu…anh chỉ thấy có hai dấu chân trên cát. Và anh nghĩ đó là hai dấu chân của mình. Thiên Chúa đã bỏ rơi khi anh thất bại. Thiên Chúa đã vắng bóng khi anh đau khổ.

Sau đó, anh thắc mắc với Chúa: “Khi con thành công, hạnh phúc thì Chúa lại đồng hành với con, đi với con. Nhưng khi con thất bại, đau khổ là những lúc con cần Chúa nhất thì Chúa lại bỏ rơi con. Tại sao Chúa lại đối xử với con như thế?”

Chúa trả lời: “Khi con vui thì Ta đi bên cạnh con, đi với con, song hành cùng con. Còn khi con buồn, đau khổ, thất vọng thì Ta lại vác con trên vai của Ta. Cho nên dấu chân trên cát là của Ta chứ không phải của con.” (Câu chuyện sưu tầm trên Internet).

Trong cuộc sống, có lẽ những lúc thất bại, đau khổ, buồn sầu chúng ta cũng có cảm giác bị Chúa bỏ rơi như người đàn ông trong câu chuyện trên đây. Nhưng trong thực tế, Ngài không bỏ rơi chúng ta, Ngài luôn ở với chúng ta, đồng hành với chúng ta trong mọi nẻo đường của cuộc sống. Ngài không chỉ đồng hành khi chúng ta hạnh phúc, thành công mà còn đồng hành với chúng ta, ở bên cạnh để an ủi và nâng đỡ mỗi khi chúng ta gặp khó khăn đau khổ. Các bài Lời Chúa hôm nay cũng chứng minh cho chúng ta thấy điều đó.

Bài đọc 1, trích từ sách Các Vua quyển thứ nhất: khi Êlia bênh vực cho dân Chúa, kéo dân Chúa khỏi sự thống trị của tà thần. Ông đã thắng được cả ngàn sư sãi thờ thần Baal của hoàng hậu và nhà vua. Nên ông bị bà hoàng hậu I-de-ven truy bắt. Ông đã phải chạy trốn lên núi Kho-rép. Trong quảng đường chạy trốn đó, có những lúc ông không còn tha thiết với cuộc sống nữa, nhưng Thiên Chúa luôn ở cùng ông. Thiên thần đã dọn bánh cho ông ăn khi đói và nước cho ông uống khi khát (x. 1V 19,1-8). Tại núi Kho-rép, ông còn được Thiên Chúa hiện ra với ông qua làn gió hiu hiu. Sau đó, Thiên Chúa sai ông đi xức dầu cho một số người làm vua và làm ngôn sứ: xức dầu phong Kha-da-ên làm vua A-ram; xức dầu Giê-hu con của Nim-si làm vua Ít-ra-en; xức dầu Ê-li-sa con Sa-phát, người A-vên Mơ-khô-la, làm ngôn sứ (x. 1V 19, 9-18).

Bài Tin mừng hôm nay tiếp nối bài Tin mừng Chúa Nhật tuần trước. Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng muốn tôn Đức Giêsu lên làm vua. Nhưng ý muốn của họ không phù hợp với sứ mạng của Ngài. Vì thế, Ngài đã giải tán dân chúng. Trước khi giản tán họ, Ngài đã bảo các môn đệ xuống thuyền đi sang bờ bên kia. Còn Ngài thì lên núi cầu nguyện một mình. Nhưng khi thuyền các môn đệ đi ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió. Cùng lúc đó, Đức Giêsu đi trên mặt nước mà đến với họ. Nhưng các môn đệ tưởng rằng đó là ma và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Ngay lập tức, Đức Giêsu trấn an các ông: “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!” Nghe vậy, Thánh Phê-rô đã xin Đức Giêsu “nếu thực sự là Thầy, xin truyền cho con đi trên mặt nước để đến với Thầy. Đây là một lời cầu xin đầy táo bạo và mang tính thách thức. Dầu vậy, Đức Giêsu vẫn chấp nhận lời cầu xin của ông. Phê-rô đã bước xuống khỏi thuyền và đi trên mặt nước. Đó là hành động của niềm tin. Bởi vì, nếu không có niềm tin chắc chắn không ai hành động như thế. Nhưng khi đi được nữa chừng, thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: “Lạy Thầy, xin cứu con!” (Mt 14,30). Đức Giêsu đưa tay cứu lấy ông, đồng thời trách nhẹ ông rằng: “Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?” Sau đó, Đức Giêsu đã làm cho sóng gió yên lặng. 

Câu chuyện của tiên tri Êlia và câu chuyện của Phê-rô cho chúng ta thấy phảng phất hình ảnh của Giáo Hội, của mỗi người kitô hữu chúng ta trong đó. Thật vậy, lịch sử Giáo Hội và cuộc đời mỗi người kitô hữu chúng ta giống như con thuyền chòng chành trên biển khơi. Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, Giáo Hội bị bách hại một cách khốc liệt và kéo dài suốt 300 năm. Hầu hết các Tông đồ đều chịu Tử đạo. Vô số các kitô hữu bị giết chết. Từ đó tới nay có lẽ không giây phút nào mà Giáo Hội không bị bách hại. Lịch sử cuộc đời mỗi người kitô hữu chúng ta cũng vậy: Có những khi chúng ta phải chạy trốn “ba thù” như tiên tri Êlia. Có những khi chúng ta bị nhận chìm xuống tận đáy của vực thẳm như Phê-rô bị nhận chìm xuống biển. Đúng như lời Đức Giêsu tuyên bố: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mỗi ngày mà theo Ta.”(Lc 9,23). Thập giá đó là những sự bắt bớ, tù đày, đòn vọt đến từ những người chống đối Giáo Hội. Thập giá đó là khi chúng ta chống chọi với những cám dỗ của thế gian, ma quỷ, xác thịt. Ngoài ra, thập giá cũng có thể là những đau khổ thể xác như bệnh tật, đói khát do thiên nhiên hay do người khác gây nên. 

Nhưng cho dù trong hoàn cảnh nào, Giáo Hội và các kitô hữu vẫn có thể vượt qua nếu biết nhìn lên Chúa, biết kêu cầu Ngài giúp đỡ. Vì thế, lời kêu cầu của Thánh Phê-rô “Lạy Chúa, xin cứu con,” cũng là lời kêu cầu của mỗi người chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Hãy xin Chúa cứu giúp khi chúng ta gặp thử thách đau khổ về thể xác cũng như tinh thần. Hãy xin Chúa cứu giúp khi chúng ta gặp thử thách trong đời sống đức tin. Hãy xin Chúa cứu giúp khi chúng ta gặp những thất bại trong cuộc sống. Trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, nếu chúng ta biết nhìn lên Chúa, kêu cầu Ngài, chắc chắn Ngài sẽ nắm lấy tay chúng ta và bảo rằng: “Cứ yên tâm, Thầy đây đừng sợ.”

Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời của chúng con nhiều khi cũng cảm thấy hoang mang lo sợ như tiên tri Êlia và Thánh Phê-rô ngày xưa. Xin cho chúng biết cảm nhận được Chúa ở bên cạnh, để luôn biết kêu cầu Chúa và xin Chúa hãy ra tay cứu giúp chúng con. Amen.

Về mục lục

.

ĐIỂM TỰA DUY NHẤT TRÊN CÕI ĐỜI

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Vào canh tư đêm ấy (khoảng ba giờ sáng), đang khi các môn đệ vất vả chèo lái con thuyền ngược gió giữa sóng cả trùng khơi thì bỗng phát hiện một bóng ma chập chờn trên sóng nước. Mọi người hốt hoảng la lên. Nào ngờ đó lại là Chúa Giê-su. Ngài trấn an họ: “Chính Thầy đây! Đừng sợ!”. Biết vậy, Phê-rô hăm hở đòi đi trên nước như Thầy: “Thưa Thầy, nếu quả là Thầy thì xin truyền cho con đi trên mặt nước và đến cùng Thầy.”

Được Chúa chấp thuận, Phê-rô bước ra khỏi thuyền, bước đi lảo đảo trên sóng nước như người say và đến khi gặp cơn sóng dữ ập đến, Phê-rô quá đỗi kinh hoàng nên bị chìm xuống và hoảng hốt kêu lên: “Lạy Thầy, xin mau cứu con!”

Lập tức, Chúa Giê-su nắm lấy tay Phê-rô, kéo ông lên rồi đưa ông vào thuyền bình an vô sự.

 Sống trên đời nầy, chúng ta cũng như Phê-rô đi trên mặt biển. Mọi sự chung quanh đều chao đảo, bấp bênh. Mạng người quá đỗi mong manh. Kiếp người như ngọn đèn lung linh trước gió, như giấc chiêm bao!

Cuộc đời đầy dẫy tai ương

Những thiên tai xảy ra dồn dập khắp nơi trên thế giới: bão tố, lũ lụt, động đất, sóng thần, lốc xoáy… đã gây ra tổn thất khủng khiếp và cướp đi rất nhiều nhân mạng.

Bên cạnh đó, những tai hoạ do con người gây ra cũng khủng khiếp và tàn bạo không kém: chiến tranh, bạo lực, khủng bố… ở nhiều nơi.

Trước những tai ương hoạn nạn đó, con người biết tìm đâu nơi nương tựa vững bền? Biết bám víu vào ai để bảo toàn mạng sống? Biết dựa vào sức mạnh nào để đương đầu?

Tìm đâu ra một điểm tựa vững bền?

Tựa vào tiền của ư? Tiền của không mua được sức khoẻ và sự sống. Những tỷ phú giàu nhất thế giới cũng không thoát khỏi bệnh tật, tai ương và chết chóc.

Tựa vào địa vị, chức quyền ư? Những tổng thống, vua chúa quyền lực nhất thế gian cũng chỉ được ngồi trên ngai trong thời hạn ngắn rồi bị truất phế và tất cả không trừ ai đã vùi thây dưới mộ.

Tựa vào khoa học kỹ thuật tiên tiến ư? Nền kinh tế lớn mạnh và trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến của Nhật cũng không cứu được dân tộc Nhật Bản khỏi đại họa sóng thần khủng khiếp tàn phá Nhật Bản vào ngày 11 tháng 3 năm 2011.

Mọi thứ đều bấp bênh

Hành trình của con người trên dương gian không khác chi lộ trình của Phê-rô trên mặt nước; nhìn trước, nhìn sau, nhìn lui, nhìn tới, mọi thứ đều chao đảo, tất cả đều bấp bênh, chẳng có gì vững bền như thi hào Nguyễn Công Trứ nhận định: “Ôi nhân sinh là thế: như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao.”

Biết nương tựa vào đâu?

Con người không thể dựa vào người khác vì tất cả những người khác cũng đang ở trong tư thế bấp bênh, chao đảo như mình. Một chiếc tàu sắp đắm không thể cứu vớt chiếc tàu khác cũng đang chìm đắm như mình.

Cần phải có một “quyền lực” nào đó ở bên trên, ở một bờ bến vững vàng, mới có thể cứu vớt những ai đang chìm đắm trong biển đời chao đảo.

Hãy nắm lấy bàn tay Chúa Giê-su

Duy chỉ có bàn tay Chúa Giê-su mới có đủ quyền năng cứu vớt mọi người trên dương thế và bàn tay ấy luôn đưa tay ra để nâng đỡ, dìu dắt, cứu vớt bao người.

Bàn tay Chúa Giê-su đã đẩy lùi bệnh tật cho bao người: chạm đến những người phong hủi khiến những người nầy được sạch (Mt 8,3); đặt lên “những người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn và họ được chữa lành” (Lc 4, 40).

Bàn tay Chúa Giê-su trả lại ánh sáng cho người mù tối: chạm đến mắt người mù khiến y được sáng (Mt 9,29. 20, 34).

Bàn tay Chúa Giê-su đã lôi kéo con người ra khỏi cõi chết: Ngài nắm lấy bàn tay một bé gái đã chết và trả lại sự sống cho em (Mt 9,24).

Và cũng chính bàn tay ấy đã đưa ra nắm lấy tay Phê-rô đang chới với giữa sóng gió hãi hùng, kéo ông khỏi bị chìm đắm và đưa ông vào trong lòng thuyền bình an vô sự (Mt 14, 31).

Lạy Chúa Giê-su,

Chỉ có Chúa và duy chỉ có một mình Chúa mới là điểm tựa duy nhất cho nhân loại đang chơi vơi, chao đảo giữa biển đời tăm tối hãi hùng.

Xin soi sáng cho nhân loại hôm nay khám phá ra bàn tay đầy quyền năng của Thiên Chúa Tình Yêu đang luôn vươn ra để che chở và cứu vớt mọi người.

Xin cho chúng con được trở thành bàn tay nối dài của Chúa, sẵn sàng đưa ra nắm lấy những bàn tay khác đang gặp sóng gió gian nan.

Về mục lục

.

UY QUYỀN

Lm. Trần Việt Hùng

Đoàn dân vui sướng ra về,

Ơn lành chan đổ, phủ phê cõi lòng.

Môn đồ từ giã theo dòng,

Xuống thuyền ra bến, cầu mong yên bình.

Giê-su cầu nguyện một mình,

Tâm tình cảm mến, hết tình yêu thương.

Chập chờn lo lắng vấn vương,

Thuyền khơi gối sóng, tựa nương nơi nào.

Biển đời báo tố thét gào,

Ra công chèo chống, biết bao cực hình.

Chúa thương bước tới thình lình,

Đi trên mặt nước, dủ tình cứu nguy.

Tông đồ sợ hãi nghĩ suy,

Tưởng rằng ma quái, tư duy nhiều điều.

Thầy đây! Đừng sợ sóng triều,

Phê-rô mong muốn, đánh liều bước theo.

Nặng chìm lo sợ kêu reo,

Xin Thầy cứu giúp, kéo theo đừng rời.

Uy quyền phán bảo một lời,

Gió yên biển lặng, cao vời quyền năng.

Trong khi các ông đang đối diện với sóng to và gió lớn, Chúa Giêsu đã đi trên mặt nước đến với các tông đồ. Các ông không nhận ra Chúa. Các ông quá sợ hãi và hoang mang. Các tông đồ đã không ngước nhìn lên mà chỉ loay hoay chèo chống với sóng biển. Các ông cậy dựa vào sức mình đối diện với thiên nhiên, nên đâm ra hoảng sợ và lo lắng.

Có biết bao nỗi sợ hãi vây hãm cuộc sống của chúng ta mỗi ngày. Chúng ta sợ bệnh hoạn, sợ mất mát, sợ đau đớn, sợ thất bại, sợ lỡ hẹn, sợ bóng tối và sợ chết. Chúng ta sợ vì chúng ta không làm chủ được chính mình, hơn nữa chúng ta không thể lường được những gì sẽ xảy ra quanh chúng ta. Chúa mời gọi chúng ta hãy nhận biết quyền năng của Thiên Chúa, Ngài quan phòng mọi sự và không gì xảy ra ngoài ý muốn của Chúa. Hãy biết phó thác mọi sự trong tay Chúa.

Bài phúc âm kể truyện các tông đồ thấy Chúa đi trên mặt nước, họ tưởng là ma, thế là sợ hãi. Chúa liền bảo: “Thầy đây – đừng sợ.” Lời Chúa thật dịu dàng và thân thương. Có Thầy đây, còn phải sợ hãi gì nữa. Thầy có quyền trên tất cả mà. Hãy cậy trông vào quyền năng của Chúa. Hãy chạy đến với Chúa bất cứ khi nào và hãy la lên, “Lạy thầy, xin cứu con.” Chúa sẽ giơ tay ra cứu chữa chúng ta như Chúa đã cứu Phêrô lên thuyền.

Hãy cầu nguyện và luôn tin tưởng vào Chúa.Truyện kể: Có một em học sinh chăm học luôn trả lời các câu hỏi một cách dễ dàng. Cậu bé hỏi lý do làm sao cô có thể nhớ và trả lời như thế. Cô bé trả lời: Trước khi học, tôi đã cầu nguyện. Cậu ta ngạc nhiên và thấy ý kiến hay. Cậu ta nói: Tôi sẽ cầu nguyện và đêm đó cậu đã cầu nguyện. Sáng hôm sau, khi đến lớp, cậu chẳng nhớ chi cả. Đành tìm cô bé để trách cứ vì đã lừa cậu ta. Cô ta nói rằng bạn đã không học được bài học khó này. Dĩ nhiên là không, vì tôi đã cầu nguyện thì tôi đâu cần  phải học nữa. Cô ta nói đó chính là vấn đề. Tôi đã nói với bạn rằng trước khi học, tôi cầu nguyện. Chứ không cầu nguyện thay cho việc học.

Bất cứ khi nào nhận ra tiếng Chúa mời gọi, chúng ta hãy mạnh dạn hướng nhìn thẳng vào Ngài và bước tới cùng Ngài. Chúa sẽ giơ tay đón nhận chúng ta. Cung cách ứng xử của Chúa đối với Phêrô thật nhẹ nhàng và yêu thương. Hãy tin tưởng phó thác cuộc đời của chúng ta trong vòng tay yêu thương của Chúa. Chúa cũng sẽ đón nhận chúng ta nếu chúng ta biết cậy dựa vào Chúa.   Lạy Chúa, xin cứu chúng con.

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU ĐI TRÊN MẶT BIỂN MÀ ĐẾN VỚI CÁC MÔN ĐỆ

P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn, cuộc sống trần thế của con người nhân thế, như một biển khơi, chúng ta sống trên trần gian khác nào chúng ta đang đi trên biển, nếu như chúng ta không tin vào Thiên Chúa, thì cuộc đời chúng ta chắn chắc sẽ chìm, chìm vì bởi đủ mọi thứ, chìm vì chính những nhu cầu, những công việc, những ích kỷ, những mưu mô xảo quyệt, nói chung sẽ bị chìm vì tội lỗi của chúng ta. Vâng, nếu Thiên Chúa không ban chính Con Một của Ngài là Đức Giêsu- Kitô đến trần gian để cứu độ chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ bị chìm, chìm đời đời và chìm trầm luân.

Tin mừng hôm nay ( Mt 14, 22 -33) cho chúng ta một hình ảnh rõ ràng về câu chuyện có thật chứ không phải dụ ngôn, đó là : “Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ”.

Hình ảnh của Tin Mừng hôm nay cho thấy biển mà tháh Phê-rô sắp chìm là biển thật, theo nghĩa đen, còn biển trần gian theo nghĩa bóng mà con người nhân thế chúng ta đang sống là chính cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Xét theo hiện tượng vật lý, người đời mang một trọng lượng nhất định, năng hơn không khí, vì vậy, khi xuống nước không có sức hút và lực đẩy, thì tự nhiên chúng ta sẽ bị chìm. Đó là hiện tượng tự nhiên. Vì vậy, khác với hiện tượng tự nhiên là “HIỆN TƯỢNG SIÊU NHIÊN”, hiện tương siêu nhiên phải được xảy ra với siêu nhiên.

Theo đó, việc Chúa Giêsu đi trên mặt nước mà đến với các môn đệ là Chúa biểu lộ Thiên Tính cho các môn đệ biết Người là Con Thiên Chúa.

Vâng, như chúng ta biết cuộc đời trần thế nặng nề đủ mọi chuyện chẳng khác nào “tảng đá”, vì vậy nó dễ chìm. Vì vậy, trang Tin Mừng hôm nay rất thiết thực và gần gũi với nhân thế, đặc biệt là người tín hữu.

Đức Phật nói : “ Nước mắt chúng sinh nhiều hơn biển cả”, vì “ Cuộc đời là bể (biển ) khổ ”. các nhạc sĩ cũng viết : “Cuộc đời là sóng gió , còn ta là con thuyền”. Đạo Cao Đài , họ gọi chiếc quan tài là “ thuyền”. Vâng, biển cuộc đời và đời sống của từng cà nhân trên trần gian, chính là một biển cả. Cụ Nguyễn Du cũng đã viết : “ Trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn lòng”

Nhưng, Đao Công giáo không bi lụy với đau khổ, không oán thán đau khổ, nhưng trái lại chấp nhận đau khổ, vì đau khổ là Thập giá, vì Chúa Giêsu nói : ” Ai không từ bỏ mình, vác thập già mình hằng ngày mà theo Ta, thì không xứng đáng làm môn đệ Ta.” .Đau khổ của người Công giáo là một hồng ân, chứ không phải là “án phạt”, bởi vì, chính Chúa Giêsu đã gánh lậy đau khổ cho chúng ta.

Qua Đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy khi các môn thấy Chúa đi trên mặt nước, thì các ông hoảng sợ la lên “Ma dấy !”, Chúa Giêsu bảo :” Chính Thầy đây, đừng sợ !”.

Vâng , thánh giáo hoàng Gioan Phaolo II đã dùng câu Lời Chúa hôn nay mà củng cố đức tin cho mọi Kitô hữu. Vâng, “Đừng sợ”, nhưng , phải có Thầy Chí Thánh Giêsu, nếu không chắc chắn chúng ta sẽ “bị chìm”. Có Chúa trong cuộc đời là một điều hạnh phúc thật sự, từ đó chúng ta “đừng sợ” đau khổ vì chúng ta có Chúa Giêsu.

Thánh Phê-rô sắp bị chìm vì thiếu lòng tin vào Chúa, nhưng ông đã biết kêu cầu Chúa “Thầy ơi, xin cứu con !”. Chúa Giêsu liền đưa tay ra cứu lấy Phê-rô.

Phê-rô vừa được Chúa đưa lên núi Thánh, được thị kiến Dung Nhan Thần Tính của Thầy Chí Thánh, bây giờ lại dược chúng kiến Thầy đi trên mặt nước, lại xin Thầy cũng cho mình đi trên mặt nước, nhưng ông lại yếu tín, liền bị Chúa quở trách, : “Sao kém tin thế !”. Như vậy, thánh Phê-rô thực sự rất yếu đuối, nhưng ngài được giao cho là Tông Đồ trưởng, bởi vì , Chúa không xét theo  giới hạn của Phê-rô, nhưng dựa vào “Lòng Thương Xót” vô biên của Thiên Chúa.

Vì vậy, khi đặt Phê-rô là “ĐÁ” điều đó nghĩa là : ” Chúa muốn xây dựng trên thánh Phê-rô một lòng khiêm nhường như đá, một lòng cứng rắn như đá, một lòng sắt son, chung thủy như đá, và một lòng tin mạnh mẽ như đá.”

Và như vậy, thánh Phê-rô có sức nâng dậy Hội Thánh của Chúa ngay tại trần gian. Đặc tính của đá thật là đáng ca ngợi, Thiên Chúa tạo thành loài người bởi bụi tro, là đất, nhưng, đặt chân lý Tin Mừng trên đá, vâng đó không phải là một mầu nhiệm sao !

Phê-rô là đá nhưng Phê-rô không bị chìm vì Phê-rô có Chúa Giêsu, Đấng “CỨU “mọi linh hồn.

Như chúng ta biết mọi tu luật của các dòng tu đều căn cứ vào đặc tính của ”ĐÁ”, không phải chỉ sự cứng rắn không thôi, mà chính là sự khiêm nhường, bên cạnh sự vững bền, sự cứng rắn, sự hiên ngang, đá mang đặc trưng của sự khiềm nhường muôn thuở.

Chẳng vậy, mà chúng ta thấy người có công xây dựng nhà thờ Đá Phát Diệm – Ninh Bình là cha Phê-rô Trần Lục, một con người Linh mục đa tài, đã chiêm niệm về đặc tính của đá, nên chi , đã để lại cho đời một di tích thờ phượng, đồng thời là một danh thắng đáng ca ngợi muôn đời.

Lạy Chúa Giêsu , Chúa đã đi trên mặt nước mà đến với các môn đệ, xin thương cũng đi trên cuộc đời của mỗi người Kitô hữu, để sóng gió cuộc đời họ được lặng yên vì có Chúa, và xin cho họ nhận ra chỉ có Chúa mới làm được điều đó mà thôi ./. Amen

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT XIX THƯỜNG NIÊN -A

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

“Cứ yêm tâm! Thầy đây đừng sợ”(Mt 14,27)

Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, Đức Giêsu giục các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia Biển Hồ trước. Còn Ngài thì ở lại giải tán dân chúng, rồi sau đó lên núi cầu nguyện một mình. Giữa đêm, con thuyền các môn đệ gặp sóng to bão lớn, các ông vô cùng sợ hãi. 

Chính lúc đó Đức Giêsu đi trên mặt nước mà đến với các ông. Ban đầu các ông tưởng là ma nên càng sợ hơn nữa. Nhưng khi đã nhận biết đó là Thầy mình thì các ông bình an trở lại và tuyên xưng “Thật Thầy là Con Thiên Chúa”(Mt 14,33). 

Câu chuyện là như thế nhưng chúng ta có rút ra được một bài học nào không? Tôi tưởng có một vài bài học rất cụ thể, rất cần cho chúng ta nhất là trong cuộc sống hôm nay. 

  1. Đức Tin Lúc An Bình Và Khi Gặp Sóng Gió

Hai hình ảnh về một lòng tin đã được thánh Matthêô nối kết với nhau, như một đối trọng, nói lên sự hiện diện của “Thiên Chúa ở cùng” luôn là điều cần thiết cho các môn đệ năm xưa, cũng như cho mỗi người chúng ta hôm nay. Lòng tin của chúng ta vào Thiên Chúa có những lúc phẳng lặng như một mặt hồ phản chiếu trong suốt soi rõ những vẻ đẹp thiên nhiên. Nhưng nhiều khi chỉ một làn gió nhẹ thôi cũng đủ làm nó gợn sóng, xao động và bao nhiêu vẻ đẹp đều tan biến. 

Nhìn lại những thăng trầm của cuộc đời, mỗi khi chúng ta được sống trong bầu khí an vui, được hài lòng với mọi sở nguyện, chúng ta dễ dàng xác tín và cảm nhận mạnh mẽ sự quan phòng của Chúa. Thế nhưng khi gặp phải những khó khăn thử thách, những điều bất hạnh, những nghịch cảnh xảy tới – như các môn đệ xưa giữa cơn sóng gió, chúng ta cũng dễ dàng hoang mang lo sợ và không nhận ra Chúa. Quả thật, lòng tin của chúng ta đã nhiều lúc thật yếu ớt và mong manh! 

Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia anh ta trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay anh bám được vào một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với anh: 

– Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp.

Nghĩ là làm. Anh lấy hết sức lực la lên thật lớn: 

– Lạy Chúa! 

Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và anh chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: 

– Lạy Chúa, nếu quả thật có Chúa thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa nữa. 

Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao: 

– Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế! 

– Không! lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất! 

Tiếng ấy trả lời: 

– Được lắm! Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra! 

Người vô thần thất vọng thốt lên: 

– Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao! (Trích “Món quà giáng sinh”) 

Mẹ Têrêxa Calcutta nói: “Đức tin là tình yêu trong hành động chứ không phải trong cảm giác. Sự vâng phục mau mắn, đơn thành, tối mặt, vui vẻ đối với Thiên Chúa là bằng chứng của đức tin.” 

 Có lẽ chúng ta cũng phải xin Chúa một điều như các tông đồ thuở xưa: “Lạy Thầy xin thêm lòng tin cho chúng con”(Lc 17,5) 

  1. Những Người Đi Trên Mặt Nước

Đức tin không bảo đảm cho người tin khỏi gặp sóng gió nhưng thêm sức cho người ấy có thể bước đi trên mặt nước giữa sóng gió tơi bời. Hiểu như thế thì không phải chỉ một mình Phêrô, mà còn rất nhiều người có thể đi trên mặt nước mà không sợ hãi. 

Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống bình an và hạnh phúc. 

Bà hỏi: 

– Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao? 

– Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao. 

Trong cuốn ký sự ghi lại những cuộc du hành của MARCÔ PÔLÔ, nhà hàng hải lừng danh của Italia vào thế kỷ thứ XVI, có thuật lại cuộc gặp gỡ của ông với một số nhà truyền giáo tại Biển Đen. Các nhà truyền giáo cho biết họ đang trực chỉ đến vùng Tarta. Nhìn chiếc thuyền quá đơn sơ của các Tu Sĩ, Marcô Pôlô mới buột miệng đưa ra câu nhận xét: 

– Có lẽ các ngài chưa lường hết được những hiểm nguy trên biển cả. Với một cuộc hành trình cam go như thế này mà các ngài lại không mang theo gì hết. Xin các ngài cho biết đã chuẩn bị những gì? 

Các nhà truyền giáo mỉm cười đáp: 

– Chúng tôi được trang bị bằng đức tin, đức cậy, đức mến, và Chúa chính là Đấng dẫn đường, chỉ lối cho chúng tôi. Chúng tôi nghĩ như thế cũng đầy đủ cho chúng tôi rồi!

  1. Tin Vào Sự Hiện Diện Của Thiên Chúa.

Cách viết của tác giả bài đọc I hàm chứa một bài học sâu sắc về sự hiện diện của Chúa. Khi ngôn sứ Elia đứng trong một hốc núi Horép, ông thấy một luồng gió mạnh xé núi dời non, nhưng Chúa không ở trong đó. Ông lại thấy một cơn bão rất mạnh làm cho đất rung động, nhưng Chúa không ở trong bão. Ông còn thấy lửa, nhưng Chúa cũng không ở trong lửa. Cuối cùng ông thấy một làn gió hiu hiu: ông được soi sáng cho biết có Chúa ở trong đó, ông liền cung kính lấy khăn che mặt đại để bước ra khỏi hang diện kiến Thiên Chúa. 

Vâng! Thiên Chúa không thích hiện diện trong những thứ ồn ào, uy phong, vĩ đại. Ngài thường hiện diện cách êm ả, âm thầm và nhẹ nhàng trong cái rất bình thường của đời sống. 

Chúng ta không nhận ra được sự hiện diện của Chúa bởi vì chúng ta cứ mãi tìm Ngài trong những sự phi thường. 

Nhà hiền triết Uddalaka thường dùng những dụ ngôn để dạy cho con ông biết nhận ra Thiên Chúa ngay trong cuộc sống thường ngày. Đây là một trong những dụ ngôn đó: 

Ngày nọ, ông nói với con ông: 

– Hãy bỏ nắm muối này vào nước và sáng ngày mai hãy trở lại gặp cha 

Người con làm đúng theo lời cha anh dạy. Hôm sau, cha anh bảo: 

– Con hãy lấy cho ta nắm muối con bỏ vào trong nước hôm qua. 

– Thưa cha, người con nói, con không thể làm được vì muối đã tan trong nước hết rồi! 

– Vậy con hãy nếm dĩa nước bắt đầu từ mép bên phải xem. Uddalaka nói. Con thấy mùi vị gì? 

– Muối. 

– Bây giờ, con hãy nếm phía mép kia của cái dĩa. Con thấy mùi vị gì? 

– Muối. 

–  Con hãy ném cái dĩa đi. Người cha nói. 

Người con làm y như thế và nhận thấy rằng sau khi nước bốc hơi, muối lại xuất hiện. Lúc đó Uddalaka bèn nói: 

– Con ạ, con không thể nào nhận ra Thiên Chúa ở đây, nhưng thật ra Người luôn có đó. 

Lạy Chúa! Xin giúp con luôn nhận ra sự hiện diện của Chúa trong những biến cố của đời con. Xin ban ơn giúp sức cho con để con vượt thắng mọi thử thách trên đường đời. Quyền năng và tình thương của Chúa luôn làm cho con vững dạ an tâm (Tv.23:4). Amen

Về mục lục

.

BA ĐÀO

Trầm Thiên Thu

Biển luôn có sóng, sóng ngầm hoặc sóng cồn, sóng to hoặc sóng nhỏ, nghĩa là biển luôn dậy sóng (dậy sóng – ba: sóng, đào: nổi dậy). Ba đào là con sóng lớn. Sóng không bao giờ lặng. Và người ta có câu: “Bình địa ba đào” – nghĩa là sóng gió nổi lên ở vùng đất bằng, ý nói cuộc tai biến bất ngờ có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong cuộc đời con người. Câu “bình địa ba đào” có lẽ phát xuất từ của thơ của cụ Nguyễn Du viết trong Truyện Kiều: “Gặp cơn bình địa ba đào, Vậy đem duyên chị buộc vào cho em” (câu 3065-3066).

Bình thường, khi nói đến sóng, người ta thường nghĩ ngay tới biển (chứ không nghĩ tới sóng phát thanh, truyền hình hoặc internet). Sóng có lúc rất hiền hòa, rất thơ mộng khi sóng “mơn man vỗ mạn thuyền”, do đó mà người ta áp dụng nghĩa này cho vấn đề trừu tượng và gọi là “lãng mạn”. Sóng cồn dù dữ dội nhưng là sóng nổi, thật đáng sợ nhưng không đáng sợ bằng sóng ngầm, bởi vì sóng ngầm không thể nhìn thấy. Sóng còn khủng khiếp hơn nếu đó là sóng bạc đầu hoặc sóng thần, điển hình là sóng thần tại Nhật Bản ngày 11-3-2011 đã cuốn mất khoảng 16.000 người và quét sạch mọi thứ vào lòng biển khơi.

Cố NS Trịnh Công Sơn đã dùng biển để triết lý về thế thái nhân tình: “Biển sóng biển sóng đừng xô tôi, đừng xô tôi ngã dưới chân người; biển sóng biển sóng đừng xô nhau, ta xô biển lại sóng về đâu?… Biển sóng biển sóng đừng xô tôi, đừng xô tôi ngã giữa tim người… Biển sóng biển sóng đừng âm u đừng nuôi trong ấy trái tim thù” (Sóng Về Đâu). Ca từ của ông chuyển tải đầy triết lý sống thâm thúy. Biển vừa hiền vừa dữ. Biển sâu thẳm và mênh mông, bao la tình yêu thương, vì thế mà lòng biển không bao giờ lặng, luôn xao động, dù có lúc nhìn biển rất tĩnh. Và biển cũng giống như cuộc đời của con người vậy!

Có nhiều loại sóng. Nhưng có loại sóng dữ dội và dai dẳng hơn các loại sóng, đó là “sóng đời”. Phàm nhân chúng ta đang miệt mài hành trình lữ hành trần gian, lênh đênh trên biển đời, chắc chắn không thể tránh được những đợt “sóng đời” – đủ dạng và đủ cỡ. Không vững tay chèo thì thuyền đời tròng trành, thậm chí còn có nguy cơ “chìm” bất cứ lúc nào. Vì thế, chúng ta luôn phải sẵn sàng phát tín hiệu khẩn cấp: “S.O.S., lạy Thiên Chúa, xin thương cứu con!”.

Mọi nơi và mọi lúc đều có sự hiện diện của Thiên Chúa. Ngài hiện hữu và tác động mọi sự, kể cả những thứ chúng ta cho là không tốt, nhưng Thiên Chúa không làm điều không tốt – nghĩa là Ngài chỉ làm điều thiện, bởi vì Ngài là Đấng Thánh (Lv 11:44-45; Lv 19:2; Lv 20:26; Lv 21:8; Tv 89:36; Tv 99:5 & 9; Is 6:3; Br 4:22; Hs 11:9; Am 4:2; 1 Pr 1:16; Ga 6:69) và nhân lành (Mc 10:18; Lc 18:19; Ga 10:11 & 14). Đau khổ và những thứ không tốt xảy ra cho chúng ta, không phải là Ngài không biết, nhưng Ngài cho phép nó xảy ra theo tự nhiên để cảnh tỉnh chúng ta bằng bài học giá trị. Có thể đó là hậu quả do sai lầm của chúng ta hoặc của người khác, nhưng cũng có thể đó là để làm vinh danh Chúa – như trường hợp người mù bẩm sinh (x. Ga 9:1-3). Quả thật, tội lỗi cũng có tính liên đới.

Một đêm nọ, khi ông Êlia vào một cái hang để nghỉ ngơi, Đức Chúa hỏi ông: “Êlia, ngươi làm gì ở đây?” (1 V 19:9). Rồi Ngài truyền lệnh cho ông: “Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Đức Chúa. Kìa Đức Chúa đang đi qua” (1 V 19:11).

Cơn gió lồng lộng, cơn bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa không ở trong những “sự kiện” đó. Sau đó là động đất, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong trận động đất. Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa có tiếng gió hiu hiu. Ôi, Ngài dịu dàng quá! Vừa nghe tiếng đó, ông Êlia lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang. Ông nhận biết Đức Chúa đang ở trong làn gió nhẹ đó. Quả thật, lúc đó có tiếng hỏi ông như trước: “Êlia, ngươi làm gì ở đây?” (1 V 19:13). Ông thưa: “Lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, nung nấu con, vì con cái Ít-ra-en đã bỏ giao ước với Ngài, phá huỷ bàn thờ, dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài. Chỉ sót lại một mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng con” (1 V 19:14).

Thiên Chúa luôn phán dạy nhưng không dễ để lắng nghe tiếng Ngài hoặc nhận biết ý Ngài, vì thế mà chúng ta phải không ngừng cố gắng lắng nghe để nhận biết ý Ngài, rồi tiếp tục cố gắng chấp nhận và thực hiện, người có lòng nhiệt thành đối với Chúa thì sẽ để ý Chúa nên trọn chứ không mong ý mình nên trọn. Về lĩnh vực này, chúng ta lại thường có xu hướng trái ngược, vì chúng ta luôn thích “xin được như ý”.

Rất chân thánh, Thánh Vịnh gia chia sẻ: “Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán, điều Chúa phán là lời chúc bình an cho dân Người, cho kẻ trung hiếu và những ai hướng lòng trí về Người. Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa, để vinh quang của Người hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta” (Tv 85:9-10).

Thiên Chúa là Đấng nhân lành, thế nên bất cứ nơi nào Ngài hiện diện thì mọi sự đều tốt đẹp: “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên. Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao. Vâng, chính Chúa sẽ tặng ban phúc lộc và đất chúng ta trổ sinh hoa trái. Công lý đi tiền phong trước mặt Người, mở lối cho Người đặt bước chân” (Tv 85:11-14). Điều này cũng đồng nghĩa với điều này: Ở nơi nào vắng bóng Thiên Chúa thì mọi sự sẽ hoang vu, tiêu điều và nguy hiểm. Thật đáng sợ!

Và vì thế, nghĩa là ai biết sợ cảnh “thiếu vắng Thiên Chúa” thì phải mau đón Chúa vào lòng, càng sớm càng tốt, trước khi công lý được áp dụng, trước khi chấm dứt “thời gian thương xót” của Ngài. Thiên Chúa vẫn kiên trì chờ đợi chúng ta trở về như người cha nhân hậu mong ngóng đứa con hoang đàng trở về (Lc 15:11-32). Ai khôn ngoan thì biết tỉnh thức đợi chờ Ngài như mười trinh nữ khôn ngoan chờ đón chàng rể (Mt 25:1-13), vì “thời gian không chờ đợi ai – time waits for no man”. Lý do? Bởi vì “Chúa đã gần đến” (Pl 4:5), “ngày Chúa quang lâm đã gần tới” (Gc 5:8), và “thời giờ đã gần đến” (Kh 1:3; Kh 22:10). Đó là không ngừng rèn luyện Đức Tin, để khi gặp thử thách sẽ không bị chao đảo, không như hạt giống rơi vào đất sỏi đá hoặc bụi gai.

Ở trong tình trạng “tỉnh thức chờ đón Chúa” như vậy thì không ai có thể ngồi yên, cõi lòng luôn như biển động, luôn nổi sóng, khi sóng nhỏ, lúc sóng to, nhưng không bị dao động. Thánh Phaolô cũng đã luôn đứng ngồi không yên. Ông thề có Đức Kitô chứng giám, rồi nói sự thật chứ không nói dối, nhờ Thánh Thần hướng dẫn: “Lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi” (Rm 9:2). Tại sao như vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô, tôi cũng cam lòng. Họ là người Ít-ra-en, họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban tặng các giao ước, lề luật, một nền phụng tự và các lời hứa; họ là con cháu các tổ phụ; và sau hết, chính Đức Kitô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ. Người là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Rm 9:3-5). Ôi chao, có Chúa thì hạnh phúc và vinh dự như thế đấy!

Thế nhưng cứ nói rồi quên, hứa rồi thôi. Phàm nhân thật là khốn nạn lắm thôi. Đôi khi không chỉ nghe người khác nói mà còn chứng kiến tận mắt, thế mà chúng ta vẫn chưa dám tin thật. Ôi thôi, con người ơi! Hỡi tôi ơi!

Rồi vào một buổi chiều, có lẽ hôm đó trời quang mây tạnh, đẹp lắm và thú vị lắm. Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn no, Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Ngài giải tán dân chúng, vì chắc chắn dân chúng lưu luyến Ngài, khoái Ngài lắm, không thể về được, dù trời đã nhá nhem tối. Mãi mới giải tán được đám đông. Khi giải tán họ xong, Chúa Giêsu lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến, Ngài vẫn ở đó một mình. Chúa Giêsu luôn thích sống tĩnh lặng để kết hiệp với Chúa Cha qua lời cầu nguyện. Ngài luôn căn dặn mọi người phải cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ (Lc 22:40-46), cầu nguyện còn là sức sống và là sức mạnh của linh hồn. Thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hoạt động. Thật lạ, “người ta chỉ vĩ đại khi cầu nguyện” (Bác học Ampère). Thảo nào Chúa Giêsu bảo chúng ta phải cầu nguyện không ngừng, cầu nguyện liên lỉ.

Lúc Chúa Giêsu chỉ còn một mình và cầu nguyện, chiếc thuyền chở các môn đệ đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, và bị sóng đánh vì ngược gió. Vào khoảng canh tư – tức là quá nửa đêm về sáng, Ngài đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. Thấy Ngài đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy!”, và sợ hãi la lên. Đức Giêsu liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14:27). Nghe vậy, ông Phêrô bán tín bán nghi nên liền thưa: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài” (Mt 14:28). Đức Giêsu ôn tồn bảo ông: “Cứ đến!”. Ông Phêrô hí hửng bước ngay xuống khỏi thuyền, đi trên mặt nước mà đến với Đức Giêsu. Vô tư. Rất ngon lành. Thế nhưng khi thấy gió thổi, ông đâm sợ, hồn xiêu phách lạc, chín vía lên mây ráo trọi, và khi bắt đầu chìm, ông la toáng lên: “Sư Phụ ơi, xin cứu đệ tử với!” (Mt 14:30).

Giữa biển đời, chúng ta cũng vậy, có hơn gì ngư phủ Phêrô đâu. Biển đời chỉ mới gợn sóng lăn tăn thôi, vậy mà thuyền đời của chúng ta đã tròng trành, tưởng chừng chìm đến nơi. Lòng tin tích góp bao năm, giờ bỗng “bốc hơi” gần cạn kiệt; cây đức tin vun tưới bao năm, giờ bỗng héo úa mau chóng. Lạy Chúa tôi! Đức tin chỉ “sống” khi dòng đời êm ả, khi tiệc tùng linh đình, khi ung dung rung đùi, khi được người ta tâng bốc lên tận mây xanh,… Còn khi gặp phải gió xoáy hoặc gió lốc, con-thuyền-đức-tin cứ quay tít như chong chóng, như con cù, chẳng còn biết đâu là phương hướng!

Nhìn thấy đệ tử Phêrô ngoi ngóp trong dòng nước, có thể cũng “no nước” rồi, Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà KÉM TIN vậy! Sao lại HOÀI NGHI?” (Mt 14:31). Lời trách nhẹ nhàng mà đau điếng. Và đó cũng chính là lời trách mà Thầy Giêsu đang nói với mỗi chúng ta hôm nay, ngay lúc này.

Phêrô được cứu mạng. Thầy trò cùng lên thuyền. Gió yên, biển lặng ngay lập tức. Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Ngài và nói tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa (Mt 14:33). Đó là bài học đức tin vô giá mà Chúa Giêsu dạy chúng ta ngay trong những lúc chúng ta gặp cơn sóng gió của cuộc đời. Ước gì chúng ta khả dĩ nhận biết mình yếu kém về đức tin, nhờ vậy mà có thể cố gắng chăm sóc Cây Đức Tin càng ngày càng phát triển tốt hơn.

Ai cũng biết rằng cuộc đời không như thảm lụa hoặc như chiếu trải hoa hồng. Thiên nhiên còn lúc nắng, lúc mưa, lúc hạn hán, lúc mưa dầm, thậm chí là áp thấp hoặc dông bão kia mà! Cụ Nguyễn Công Trứ đã đặt vấn đề: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?”. Giữa sóng gió cuộc đời, dù nhỏ hay lớn, ước gì chúng ta vẫn luôn khả dĩ xác tín với Đức Giêsu Kitô: “Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa!” (Mt 14:33). Đó là sống đức tin, là làm chứng nhân giữa đời thường bằng chính khả năng của mình.

Có lúc Chúa Giêsu dẹp yên sóng đời để cứu chúng ta, nhưng có lúc Ngài cứ để cho biển đời dậy sóng để dẹp yên sóng lòng của chúng ta. Thánh Ý Chúa mầu nhiệm. Đề cập vấn đề đức tin, Thánh Tiến sĩ Teresa Avila xác định: “Tất cả tội lỗi đều do thiếu đức tin mà ra”. Câu này đáng để chúng ta phải “giật mình” mà cố gắng tự chấn chỉnh và chăm sóc Cây Đức Tin lắm. Tất nhiên không thể quên cấp báo: “S.O.S., lạy Thiên Chúa của con!”.

Mong sao các Kitô hữu luôn biết sống theo Tin Mừng để đem làm chứng sống động về niềm tin, lòng ngay chính và tình yêu thương tha nhân trong hoàn cảnh và môi trường của mình.

Lạy Thiên Chúa, xin cứu khổ cứu nạn và xin giúp con biết tín thác vào Ngài trong mọi hoàn cảnh – như Tổ Phụ Ápraham, như Thánh Gióp, như Đức Maria, và như Đức Giuse, nhất là những lúc biển đời đầy những đợt sóng vỗ vào thuyền đời của con, lúc mạnh lúc nhẹ. Xin giúp con vững tay chèo chống, khéo léo bát cậy, để có thể cập bến an toàn. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

THUYỀN RA KHƠI

Lm. Jos. DĐH.

Tất cả những con thuyền đều có chung một sứ mệnh vượt sông suối biển cả, chuyên chở người, chở hàng, đến bến bờ theo lịch trình xuất phát của chủ nhân. Không phải tự nhiên mà cha ông ta có được kinh nghiệm: thuyền to sóng lớn, dẫu biết rằng thuyền nhỏ hay lớn vẫn có những khó khăn và giới hạn riêng. Thuyền ra khơi, thuyền sẽ cập bến, con thuyền gặp sóng yên biển lặng hay phải đối diện với nguy hiểm gió bão, chủ nhân của chúng luôn xem đó là một quy luật: biển khơi không sóng gió thì đó la ao tù. Tầu thuyền không ra khơi, là thuyền tầu kiểng, chúng được tạo ra để trưng bày, ngắm nhìn. Người không biết lắng nghe, không thể chia sẻ, không màng đến hạnh phúc của mình, chẳng quan tâm đến thao thức của đồng loại, đó chỉ là bức tượng vô cảm mà thôi.

Tiền nhân chúng ta để lại cho hậu thế kinh nghiệm: sông có khúc, người có lúc ; hoặc, người có lúc vinh lúc nhục, nước có lúc đục lúc trong. Nước dưới sông hết trong phải đục, vận người hết thịnh phải suy, không mấy ai còn thắc mắc, vì đó là quy luật. Sau khi hiểu phép lạ hoá bánh ra nhiều đến từ tình yêu thương của Thầy Giêsu, các môn đệ vâng lời Thầy xuống thuyền vượt biển hồ, vì đó là ơn gọi tin yêu và sống tinh thần phục vụ theo Thầy đến cùng tận. Thuyền ra khơi là bắt đầu hành trình, dù dài hay ngắn, thuận lợi hay khó khăn vì thời tiết, tất cả các thuyền viên đều cố gắng với khả năng giới hạn của mình và mong tầu thuyền cập bến bình an.

Cuộc đời mỗi người có thể sánh ví như con thuyền ra khơi, tầu thuyền dù lớn, dù nhỏ, có ra khơi mới có đến được bến bờ. Thuyền lớn thuyền to, người tài giỏi đức độ, người thấp kém giới hạn tội lỗi đều phải đối diện với nhiều thách thức sóng gió trong hành trình, cũng vì thế mà chúng ta có câu: ba chìm bảy nổi chín lênh đênh. Thuyền ra khơi với hy vọng đến bến bờ bình an, người Kitô hữu ra khơi với đầy hứa hẹn hạnh phúc khi tới bến bờ ; và bằng một niềm tin yêu, các thuyền viên mới nghe được lời trấn an của Chúa Giêsu: “hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ”. Thuyền ra khơi, thuyền sẽ cảm nhận được thế giới tự nhiên và thế giới siêu nhiên đầy “kỳ bí”. Người tín hữu có sống hành trình làm con Chúa, ắt sẽ thấy và hiểu, nhờ có sự hiện diện của Chúa Giêsu, người ta mới có niềm vui hạnh phúc thật.

Thuyền ra khơi tuy không cùng một thời điểm, nhưng chắc chắn không có thuyền tầu nào xuất phát lúc thời tiết đang giông bão. Thiên Chúa yêu thương cho ta sinh ra làm người, làm con Chúa, Ngài ban cho ta có điều điện, cơ hội, hầu vượt biển trần gian, Thiên Chúa còn ban Đức Giêsu để trợ giúp ta thắng vượt sóng gió cuộc đời mà đến bến bờ hạnh phúc. Biển có sóng gió, nên các thuyền viên cần phải cảnh tỉnh, không đưỡc phép chủ quan, dù tầu thuyền có to lớn hiện đại như “Tầu Titanic”. Môi trường sống niềm tin của người môn đệ không thể thuần tuý là thuận buồm xuôi gió, vì thế mà người học trò của Đức Giêsu phải vâng nghe, hiểu và tín thác trong ơn gọi theo Ngài.

Trong binh nghiệp người ta nói: thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu ; trong công việc làm ăn buôn bán, người ta nói thất bại là mẹ thành công, đại ý là: nghiêm túc, chăm chỉ và kiên nhẫn, ba điều cần thiết. Ở đời, sóng gió đến với mỗi người nhất định không phải vì hên xui, vô tình, hẳn chúng ta cũng đủ kinh nghiệm là giầu nghèo, thông thái, khờ khạo, đều có cái khó riêng: mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh. Gió bão, khổ đau, mỗi người, mỗi gia đình kitô giáo, hiện tại không phải là hình phạt, mà là dịp để chúng ta minh chứng niềm tin yêu của ta đối với Thiên Chúa thế nào. Ông Phêrô có nói được: “thật, Thầy là Con Thiên Chúa”, ông đã phải trải qua giữa sóng biển gầm thét, ông sợ hãi vì sắp chìm, ông bị Thầy Giêsu quở trách, đồ hèn tin.

Sinh ra trong đời, dù con nhà giầu hay con đại gia, đầu óc bác học hay nông dân, chúng ta đều là con Thiên Chúa, ai cũng được mời gọi hướng về phía trước, nói thật ra là “phải vượt đại dương”. Thuyền ra khơi, có khi là một trăm năm, có khi chỉ vài chục năm, dài, ngắn, không quan trọng bằng việc ta biết vâng nghe và sống tín thác vào sự hiện diện của Thầy Giêsu đến mức độ nào ? Trong quan hệ làm ăn người ta nói: vì sông nên phải luỵ thuyền, những như đường liền ai phải luỵ ai ? Trong tương quan yêu thương, không phải là “nợ nần”, hay quỵ luỵ theo lý lẽ kẻ trên người dưới, đúng hơn, vì ơn gọi tới bến bờ hạnh phúc, luôn cần mỗi người phải minh chứng tình yêu đối với Chúa và với anh chị em mình.

Hành trình ra khơi của các môn đệ cho thấy: có phúc đẻ con biết lội, có tội đẻ con biết trèo, cả hai vế đều có ý nói biết lội hay biết trèo chưa phải là được hay là mất. Phêrô biết lội, biết bơi, nhưng cũng sợ chết đi được, nếu ông quên không kêu cầu Chúa cứu, có phúc hay có tội, cũng bất lực trước sóng gió cuộc đời, nếu người ta thiếu vắng tình yêu Chúa. “Lạy Thầy xin cứu con”, đó là tiếng kêu cầu đầy kinh nghiệm của người thuyền viên mang tên Phêrô, ông đã nhận ra sức lực ông quá nhỏ bé so với biển cả đầy sợ hãi. Con thuyền của mỗi chúng ta hôm nay đang vươn khơi đến đâu, có thể ta không rõ lắm, nhưng Thầy Giêsu thì biết. Ngài không hiện diện hữu hình, nhưng tình yêu thương của Ngài vẫn thấu biết tất cả, dù ta mến yêu, và sống tín thác vào Ngài nhiều hay ít. Xin Chúa Giêsu tiếp tục củng cố niềm tin và hướng dẫn tất cả những ai theo Chúa đều đến được bến bờ bình an và hạnh phúc. Amen.

Về mục lục

.

LIÊN KẾT

Lm Vũđình Tường

Người ta thường ăn mừng sau khi tổ chức thành công một công việc. Trong tiệc mừng có vang tiếng ca tụng lẫn nhau, có nhạc nhộn nhịp và có cụng li chúc mừng thành công. Niềm vui sáng rực trên khuôn mặt người tổ chức và hầu như ít ai để í đến vấn đề chính đưa đến thành công nằm ngoài khả năng kiểm soát của con người. Đó là điều kiện khí hậu. Chính khí hậu khô nắng, buổi sáng đẹp trời, nắng ấm là điều kiện tiên quyết mời gọi con người lên đường tham dự ngày đại hội. Con người làm việc vất vả nhưng phải lệ thuộc vào đất trời để có được thành công mơ ước. Nhưng khi tổ chức mừng thành công mấy ai để í đến cám ơn trời mà chỉ nghĩ do công khó của mình làm nên điều đó.

Sau khi nuôi năm ngàn người ăn Đức Kitô sai các môn đệ sang phía bên kia biển hồ, Ngài lưu lại để tổ chức tiệc mừng. Tiệc mừng của Ngài không có nhạc vàng, không có cụng li, có những lời ca tụng, nhưng không phải ca tụng công lao người khác, mà ca tụng Thiẹn Chúa. Tiệc mừng của Ngài là liên kết với Chúa Cha trong tâm tình cảm tạ. Khi các tông đồ khi khỏi Ngài ra bờ biển hướng nhìn về phía các tông đồ, Ngài một mình âm thầm nơi bờ biển, trong cái yên tĩnh của đêm tối. Tâm thần hoà gió bay bổng trời cao, tấm lòng trải rộng trên sóng nước, Ngài nghe tiếng gió biển nhè nhẹ thổi, mắt nhìn ánh trăng mờ chiếu trên sóng bạc, hai gối quì âm thầm cầu nguyện cùng Chúa Cha. Phúc âm không ghi lại Ngài nói gì, những lần trước đó Ngài dâng lời cảm tạ Chúa Cha. Trong tâm tình Ngài không tự nhận công của Ngài nhưng dâng lời Cảm Tạ, liên kết cuộc sống, việc làm hàng ngày cùng Chúa Cha.

Lậy Cha, Con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời Con. Phần Con, Con biết Cha hằng nhậm lời Con, nhưng vi dân chúng đứng quanh đây, nên Con đã nói để họ tin là Cha đã sai Con .Gn 11,41-42.

Nuôi năm ngàn người là do Chính Thiên Chúa nuôi dưỡng. Các tông đồ có nhiệm vụ phân phát bánh và cá. Các ông báo cho Đức Kitô biết em nhỏ có bánh và cá. Việc làm cho bánh ít hoá nhiều là do chính Thiên Chúa. Làm cho bánh hoá nhiều giúp các tông đồ hiểu ít nhiều về việc Chúa dùng chính thân thể mình để nuôi dưỡng nhân loại qua Bí Tích Thánh Thể, Ngài sẽ lập trong bữa Tiệc Li. Điều này cũng nhắc cho nhân loại biết Thiên Chúa là Đấng duy nhất biến đổi bánh rượu thường thành Mình Máu Thánh Con Chúa. Linh mục dâng lễ là dụng cụ của Thiên Chúa và lập lại trên bàn thờ những gì Đức Kitô kêu gọi làm để nhớ đến Ngài Lc 22,19-20. Thiên Chúa biến đổi bánh thành Thịt Ngài và rượu thành Máu Thánh Ngài.

Đức Kitô sai các môn đệ ra đi trong khi Ngài ở lại cảm tạ Thiên Chúa. Khi sóng yên, biển lặng các ông cảm thấy an tâm và làm công việc cách bình thường. Khi sóng to, gió lớn các ông vất vả chèo chống, mệt mỏi lại sợ hãi khi thấy có bóng người đang xuất hiện từ phía xa xa. Trong hoảng hốt và không đường thối lui các ông chỉ biết dán mắt vào hình bóng kia và khi hình bóng đó đến gần các ông vui mừng vì nhận ra đó là hình ảnh Thầy đang lướt sóng đến với các ông. Phêrô vội lên tiếng xin đến cùng Đức Kitô. Một cơn sóng vượt quá đầu bao phủ tầm nhìn và ông đã hoảng hốt xin Thầy cứu. Sau khi cả hai lên thuyền an toàn, Đức Kitô ra lệnh cho sóng êm, gió lặng và các ông càng kinh ngạc hơn khi biết ngay cả sóng biển, bão tố cũng vâng lời Đức Kitô.

Lần nữa các ông hiểu thêm về bí mật quyền năng Thiên Chúa. Dù xưng ra Ngài là Con Thiên Chúa nhưng các tông đồ không hiểu rõ về điều các ông tuyên xưng bởi quyền năng Thiên Chúa vượt khỏi trí tưởng tượng của loài người và con người chỉ có thể nhận biết phần nào Chúa cho tỏ lộ quyền năng Ngài.

Về mục lục

.

YẾU BÓNG VÍA HAY YẾU ĐỨC TIN?

JM. Lam Thy ĐVD.

Bài Tin Mừng hôm nay (CN XIX TN/A – Mt 14, 22-33) trình thuật về biến cố Đức Giê-su đi trên mặt biển, khiến các môn đệ hoảng hồn lại tưởng là ma! Người bộc lộ rõ nhất tâm trạng này lại chính là thánh Phê-rô. Như vậy thì có phải thánh nhân là người “yếu bóng vía” hay không? Nếu tìm hiểu kỹ thì chắc chắn thánh Phê-rô không phải típ người “ngoài mịêng thì hùng hồn, nhưng trong lòng thì… thỏ đế có hạng”. Thánh nhân có một đức tính bộc trực, ngay thẳng, trong lòng nghĩ sao thì nói ra như vậy, không hề màu mè, tô vẽ. Cũng vì đức tính ấy, nên ngài đã nhiều lần bị Thầy quở trách, thậm chí có lần còn bị gọi là “Xa-tan” ngay sau khi vừa tuyên xưng Thầy là Con Thiên Chúa ( “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” – Mt 16, 23). Rõ ràng thánh nhân chẳng “yếu bóng vía” một chút nào.

Nếu không yếu bóng vía thì tại sao vừa mới chia tay Thầy ở bờ bên kia, bây giờ thấy Thầy đi trên mặt biển trở lại với mình, thánh nhân lại la lên “ma đấy”? Thầy đã trấn an: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!”, vậy mà còn đặt điều kiện “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.” Tuy nhiên, Đức Giê-su vẫn bảo ông: “Cứ đến!” Ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giê-su. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” Đức Giê-su liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!” (Mt 14, 28-33). Cuối cùng thì có thể kết luận: Thánh Phê-rô (kể cả các môn đệ khác nữa) không “yếu bóng vía”, mà là “yếu đức tin”. Lời Thầy quở trách đã quá rõ ràng “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?”

Cũng chính vì “yếu đức tin” nên không chỉ lần này thánh nhân tuyên xưng “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!”, mà sau này còn khẳng định chắc nịch “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16, 16); để rồi sau đó lại chối Thầy 3 lần trong một đêm, trước một đứa tớ gái nhà Cai-pha. Hành trình đức tin của người Ki-tô hữu ngày nay cũng có thể so sánh với cuộc đọ sức của Phê-rô đã trải qua trên mặt biển. Phê-rô có những bước đầu chắc chắn, mạnh dạn. Chúng ta cũng đã có những bước khởi đầu như thế để đi theo Chúa. Rồi năm tháng trải qua, gió ngược nổi lên, bắt đầu nhen nhúm những nghi ngờ khiến lòng hoang mang lo sợ. Và thế là, con người nặng dần và muốn chìm đắm trước sóng gió cuộc đời. Ngày xưa Phê-rô chối bỏ đức tin chỉ vì một đứa tớ gái nhà Cai-pha, ai cũng cho là thỏ đế; nhưng ngày nay còn hơn thế nữa, có không ít người chẳng bị ai cật vấn, tra hỏi, chỉ mới nghe đồn, nghe nói thôi, đã vội vàng cất giấu bàn thờ để chưng ảnh lãnh tụ. “Chưa khảo đã xưng” (tục ngữ VN), chưa ai bắt đã vội vàng khai là “không tôn giáo”! Hoá cho nên, rất cần phải có liều thuốc chữa căn bệnh “yếu bóng vía” và “yếu đức tin”, đó là điều tất yếu.

Để chữa được căn bệnh “yếu bóng vía” thì điều tiên quyết là bản thân phải có một quyết tâm, tiếp theo là phải thực sự va chạm với thực tế các sự kiện diễn ra trong cuộc sống, trong thiên nhiên, để mở rộng đầu óc mà hiểu rằng có một Đấng Quyền Năng quan phòng mọi sự trong vũ trụ. Đấng ấy chỉ có thể là “ông Trời”, là “Thượng đế”, là “Thiên Chúa” mà thôi. Tin vào Đấng ấy, thì ma mị quỷ quái chẳng làm gì được. Còn căn bệnh “yếu đức tin” thì cũng đừng vội bi quan, bởi đó cũng là căn bệnh của những người “yếu bóng vía” và nói chung, của tất cả mọi người trần thế. Duy chỉ có điều, muốn chữa được căn bệnh này, ngoài vấn đề hết sức cần thiết là trau giồi, củng cố cho bản thân một niềm tin vào duy nhất một Thượng đế, còn cần phải ý thức rằng con người là mỏng giòn, là yếu đuối, không thể tự mình làm được công việc to tát ấy nếu không biết cậy dựa vào Đấng Bảo Trợ, Người sẽ bảo vệ và trợ giúp đắc lực tuyệt đối cho những kẻ tin vào Người. Đấng ấy cũng chính là Thượng đế, là Thiên Chúa, và đó chính là Ngôi Ba Thánh Thần vậy.

Xin đừng bao giờ nói: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”, mà hãy luôn luôn nói, mạnh dạn nói, tha thiết nói, nói với tất cả chân tình: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” Vâng, “Libera me, Domine”, Lạy Chúa, xin thương xót con, xin cứu vớt con, bây giờ và mãi mãi, bây giờ và trong giờ lâm tử. Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con đã được phúc gọi Chúa là Cha; xin cho chúng con ngày càng thêm lòng hiếu thảo, hầu đáng được hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN XIX/TN-A)

Về mục lục

.

CỨ AN TÂM, CHÍNH THẦY ĐÂY, ĐỪNG SỢ

Fx Đỗ Công Minh

Bài Tin mừng hôm nay tiếp theo đọan Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho dân chúng được ăn no nê, Người lên núi cầu nguyện rồi trở ra biển gặp các môn đệ. Một bài học để lại cho chúng con hôm nay: Sau những giờ phút hoạt động, hãy dành thời gian lui vào nơi vắng lặng, đặt mình trước mặt Thiên Chúa và cầu nguyện.

Giữa lúc các môn đệ gặp sóng to, gió ngược, các ông phải gồng mình chống đỡ giữa biển khơi trong lo sợ, mệt mỏi. Đức Giêsu đã đi đến với các ông. Người đi trên biển như đi trên đất, khiến các ông tưởng chừng như gặp ma. Chính lúc ấy Người đã trấn an các ông “Chính Thầy đây, đừng sợ “. Nhưng không hẳn các ông đã tin vào nhửng lời ấy, ông Phêrô lên tiếng dò ý: “ Thưa Ngài, NẾU quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài “.Con người chúng con là như thế ! Vẫn dò dẫm, vẫn nửa tin, nửa ngờ với từ “NẾU “. Một niềm tin mỏng dòn, non yếu. Ngược lại, Đức Giêsu không hề chấp nhất, Người khuyến khích ông: “Cứ đến “. Đến, nhưng trong bụng vừa mừng vừa sợ nên chỉ vài bước Phêrô đã chìm xuống biển. Một biểu hiện lặp đi lặp lại trong cuộc đời của mỗi người chúng con. Theo Chúa nhưng vẫn ngập ngừng, vẫn mặn mà với thực tại trần thế. Và khi thấy hụt hơi mới cầu cứu đến Chúa “ Thưa Ngài, xin cứu con với “.

Hòan cảnh của các môn đệ trên biển khơi ngày ấy,  hôm nay vẫn diễn ra nơi cuộc đời con. Sứ mạng lên đường Chúa truyền dạy, con vẫn vui vẻ chấp hành. Con tưởng mình có thể làm được mọi chuyện theo thiện ý của con, theo năng lực, tài trí của con. Thế nhưng gặp lúc sóng gió biển đời, con tự tin có thể tự mình chèo chống, điều đó chỉ do bản năng sinh tồn của con người. Con quên rằng con vẫn phải cậy dựa nơi Chúa. Chúa để các môn đệ ra khơi nhưng Người vẫn dõi theo các ông, Người không để các ông phải đơn côi. Người đã đi bước trước đến với các ông, đến với nhân lọai này. Những lúc con tưởng chỉ có mình con chống chọi với bao sóng gió cuộc đời thì Chúa vẫn đến bên con. Người vẫn hằng ngỏ lời:  “ Chính Thầy đây, đừng sợ “. Phần con, con có nhận ra Người vẫn ở bên con?  có nhận ra tiếng Người nói với con? Hay chỉ tự vùng vẫy, cậy bằng sức của mình? Những lúc tứ bề quân thù, kẻ dữ, sa đọa, đam mê tội lỗi vây quanh, con tưởng mình đủ lực để vượt thóat. Nhưng rồi con đã vấp ngã, vì cậy sức con, không cậy vào Chúa.

Xin cho con luôn biết cậy dựa vào Chúa. Có Chúa trong cuộc đời, con sẽ đứng vững. Lòng tin của con luôn được củng cố từ nơi Chúa, đấng cứu độ con.

 Lạy Chúa !

Con tưởng rằng con vững tin, tin vào Chúa là Cha nhân hiền, khi đời sống nhẹ trôi êm đềm ,với tháng ngày lặng lẽ bình yên. Nhưng khi đường đời gieo nguy khó, bên trời ngập tràn cơn giông tố, con lo âu lạc bến xa bờ, con mới biết rằng con chưa vững tin.

Thì lạy Chúa, Chúa biết con yếu đuối và đổi thay, con luôn cần đến Chúa từng phút giây. Nhờ ơn Chúa con kiên trì tín thác kể từ đây, khi an vui cũng như khi sầu đầy. . .( Cho con vững tin – Nguyễn Duy )

Về mục lục

.

THẦY ĐÂY, ĐỪNG SỢ!

Pio X Lê Hồng Bảo

Một câu nói ngắn gọn nhưng đầy uy lực! Chúa Giêsu biết các môn đệ tuyệt đối tin vào Người nên mới nói thế.

Khi tôi còn nhỏ, tôi cũng thường nghe cha tôi nói với tôi như thế trong những tình huống nguy hiểm. Đứa bé nghịch ngợm leo lên cây ổi, cây mận; đến chừng muốn xuống không biết làm sao! Thằng nhóc lắc xắc nhảy xuống chiếc xuồng nghịch ngợm đến nỗi chiếc dây neo bị đứt, xuồng xoay xoay giữa dòng, mặt mũi thằng nhóc méo xệch… Những lúc đó, bóng dáng Ba thật vững chãi và câu nói: “Ba đây, đừng sợ!” mang một uy lực thiêng liêng làm sao! Khi tôi lớn lên thì câu nói ấy thưa dần rồi mất hẳn. Ba tôi biết rằng tôi đã có nhiều lựa chọn khác hơn là tin vào vóc dáng tiều tụy còm cõi của Ba. Thế mà, với các môn đệ dù đã trưởng thành, Chúa Giêsu vẫn không ngại phán một câu đầy quyền uy cỡ đó.

Nỗi sợ có lẽ cũng khai sinh đồng thời với con người trên trần gian này. Từ nguyên thủy, con người đã sợ thua kém Thiên Chúa nên mới phát sinh tội nguyên tổ! Tuy nhiên, có đến hơn 90% nỗi sợ của con người phát sinh từ sự ám thị: Sợ ma, sợ bóng tối, sợ độ cao, sợ gián, sợ chuột… Thêm nữa, ai ai cũng sợ chết dù biết rằng không ai thoát khỏi cái chết, nhưng lại rất ít người sợ sa hỏa ngục!

Trong xã hội ngày nay, con người lại còn lắm cái để sợ, nói chung là sợ mất: Sợ mất việc, sợ mất trộm, sợ mất thể diện, sợ mất uy tín, sợ mất lòng, sợ mất mặt… Nhưng cũng lại rất ít người sợ mất linh hồn!

Có thể nói, sợ đã thành nỗi ám ảnh trong suốt cuộc đời:

  • Người buôn bán nhỏ sợ bị cân đong thiếu, sợ bị quỵt…
  • Người kinh doanh sợ bị cạnh tranh, sợ bị ăn cắp thương hiệu, sợ đối tác không thực thà…
  • Nhà sản xuất sợ nạn đình công, sợ công nhân bớt xén hay trễ nãi…
  • Nhà chứng khoán sợ chỉ số lên xuống, giá vàng trồi sụt…
  • Nhà cầm quyền sợ nạn bè phái, vây cánh; sợ dân chúng phản đối, biểu tình…
  • Bác nông dân sợ mất mùa, mất giá…
  • Công nhân viên chức sợ bị cắt thưởng, cắt lương…
  • Em học sinh sợ bị lưu ban, sợ thầy cô trù dập…
  • Chàng ca sĩ & nàng diễn viên sợ xìcăng-đan, sợ nạn sao chép phim đĩa lậu…
  • Anh xe ôm & chị hàng rong cũng bâng quơ sợ chuyện nắng, mưa…

Bị bao vây giữa bao nhiêu nỗi sợ đó, liệu có ai nghe âm vang của Lời Chúa hôm nao: “Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ!” Niềm tin của tôi vẫn mong manh hơn hạt cải: “Nếu quả thực là Chúa, xin truyền cho tôi đi được trên nước mà đến với Người”. Chúa cũng thông cảm cho thân phận mỏng giòn của tôi: “Được, hãy đến đây!” Chúa vẫn đó, trước mặt tôi. Một cơn gió thoảng qua, tôi đâm sợ và… bắt đầu chìm!

“Lạy Chúa, xin cứu con!” Thật may mắn là Phêrô vẫn nhìn thấy Chúa trước mặt và vội vã cầu cứu. Còn tôi? Tôi loay hoay, tôi vùng vẫy, tôi suy nghĩ thiệt hơn, tôi tính toán lợi hại… Và cuối cùng, tôi quên mất Chúa vẫn đứng đó, vẫn hiện diện trong suốt hành trình trần thế của tôi.

Bài học của Phêrô còn đó! Sông nước là môi trường quen thuộc của một ngư phủ như Phêrô. Vậy mà, một chút sóng, một chút gió cũng hoảng lên: “Thầy ơi, chúng con chết mất!” (Mt. 8, 25) Hầu như Phêrô không còn tin chút gì vào bản lĩnh của mình, sở trường của mình khi có Chúa đồng hành. Lắm lúc tôi tự hỏi: Phêrô có phải là một ngư phủ thật sự không? Ngư phủ gì mà vụng về, đuểnh đoảng! Sóng to, gió lớn là cầu cứu Thầy; hì hục cả đêm không được gì, chỉ biết “Vâng lời Thầy, con thả lưới!” (Lc. 5, 5)

Không, Phêrô mới chính là ngư phủ khôn ngoan nhất thế giới. Một ngư phủ khôn ngoan sẽ chọn gì giữa biển khơi khi một bên là chiếc thủy đỉnh mạnh mẽ, tiện nghi, đầy nhiên liệu và một bên là chiếc phao cứu sinh bé tí? Tất nhiên là chọn chiếc thủy đỉnh! Kiến thức và năng lực của bản thân ta chỉ tựa như chiếc phao cứu sinh bé tí kia thôi, Phêrô đã mạnh dạn vứt bỏ đi để bám vào thủy đỉnh vững chãi an toàn, là Thiên Chúa, là Đá Tảng Cứu độ. Một lựa chọn vô cùng sáng suốt của một người ít học, chính vì thế mà Chúa Giêsu đã phải thốt lên: “Con xin tạ ơn Cha vì đã giấu những điều bí nhiệm ấy đối với những người thông thái mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn” (Mt. 11, 25).

Còn lựa chọn của tôi, phản ứng của tôi?

– Sợ người khác có “ảnh hưởng” hơn mình, mới nghe ai ca ngợi người ấy, tôi liền kiếm cách dèm pha để triệt ngay một thần tượng mới… manh nha.

– Sợ thanh danh, uy tín mình bị tổn hại, tôi sẵn sàng “ăn thua đủ” với bất cứ ai hoặc bất cứ lời đồn đại nào.

– Sợ bị thất thiệt tài sản, tôi nghi ngờ soi mói những ai có hành vi khác lạ.

– Sợ không kiếm được việc làm, tôi phải chạy ngõ sau, luồn ngõ trước…

– Sợ bị sa thải, tôi phải khéo léo lấy lòng cấp trên, chà đạp cấp dưới…

– Sợ mất mối làm ăn, tôi khai thác triệt để những đòn phép, những mánh lới, những thủ đoạn…

– Sợ không thành công, tôi đi đường tắt bằng cách thực hiện những ý đồ đen tối của loài người.

– Sợ phải phụng dưỡng cha mẹ già, tôi phải vận dụng tất cả sự khôn khéo để đẩy phần đó sang anh chị em.

Có lúc nào tôi phản ứng bằng cách thốt lên: “Lạy Chúa, xin cứu giúp con!” chưa? Hay chỉ vì tôi có trình độ, có kiến thức, có mưu lược, có óc kinh bang tế thế… và tôi cứ bám chặt vào mớ hổ lốn đó cho đến khi mệt nhoài thở ra: “Thời đại bây giờ… sao khó quá!” Trong khi đó, luôn có một Đấng mời gọi chúng ta: “Hãy đến với Ta, hỡi những ai vất vả, khó nhọc và gánh nặng. Ta sẽ cho nghỉ ngơi, bồi dưỡng” (Mt. 11, 28). Đấng ấy đang hiện diện trong Nhà Tạm, bên ngọn đèn chầu leo lét và dường như đang rất cô đơn!

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nhận ra Chúa giữa đêm đen cuộc đời, xin cho chúng con biết thắng vượt mọi nỗi sợ hãi khi nghe tiếng Chúa: “Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ!”, xin cho chúng con biết phản ứng trong mọi hoàn cảnh bằng cách thân thưa: “Lạy Chúa, xin cứu con!” để từ nay: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv. 62, 2). Amen.  

Về mục lục

.

KHÔNG CÓ LÒNG TIN MẠNH TA SẼ CHÌM

Lm. Bosco Dương Trung Tín 

Thánh Phao-lô nói: “Quả vậy, giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Ky-tô thì tôi cũng cam lòng”(x. Rm9.3). 

Đó là nỗi lòng của thánh Phao-lô, Ngài mong muốn dân Ít-ra-en được ơn cứu độ. Vì dân Ít-ra-en chỉ tin vào Thiên Chúa và Mô-sê chứ không tin vào Đức Giê-su. Dầu vậy, thánh Phao-lô cũng chỉ “muốn” thôi chứ không thực hành. Có một người đã thực hành điều đó, người đó chính là Đức Giê-su Ky-tô. 

Đức Giê-su, vì muốn cứu độ con người mà Ngài phải từ trời xuống thế; có nghĩa là Ngài phải “xa lìa” Thiên Chúa Cha. Và Ngài cũng đã chịu nạn chịu chết trên cây thập giá. Tức là Ngài bị nguyền rủa và bị Chúa Cha ruồng bỏ. Trên thập giá Đức Giê-su đã nói: “Êli, êli, rê-ma xa-bác-tha-ni”, nghĩa là “Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ con”(x.Mt27,46).  

Thánh Phao-lô cũng nói: “Khi vì chúng ta, chính Người trở nên đồ bị nguyền rủa, vì có lời chép: Đáng nguyền rủa thay mọi kẻ bị treo trên cây gỗ”(x.Gal 3,13). Lời chép đó trong sách Đệ nhị luật: “Vì người bị treo là đồ bị Thiên Chúa nguyền rủa”( x.Dnl 21,23). 

Đức Giê-su đã bị treo trên cây gỗ là cây thập giá; Người bị Thiên Chúa nguyền rủa vì con người chúng ta. Thế nhưng Đức Giê-su đó lại là Thiên Chúa, “Người là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự”(x.Rm9,5). Hôm nay trong bài Phúc Âm, Đức Giê-su đã vượt trên biển, đã đi bộ trên sóng nước. Cũng như theo Bài đọc một, Thiên Chúa đó, không ở trong gió bão, nhưng ở“trên” gió bão; Thiên Chúa đó không ở trong động đất nhưng ở “trên” động đất. Thiên Chúa đó không ở trong lửa, nhưng ở “trên” lửa. Thiên Chúa đó ở trong gió hiu hiu, trong sự thinh lặng, trong sự dịu dàng. Có được Thiên Chúa đó thì ta không sợ; có Thiên Chúa đó ta an lòng.  

Quả thật, khi thấy gió bão; động dất, sóng thần, núi lửa phun, lũ lụt,…tức là những thiên tai, làm cho nhiều người chết và đau khổ nên ta sợ. Nhưng có Chúa ta không sợ gì cả. Tại sao? Vì có Chúa là có tất cả; có Chúa là có đời sau. Thật vậy, nếu không có đời sau, cuộc sống của con người trên trần gian này sẽ vô nghĩa. Ta sống trên trần gian để làm gì? Chẳng lẽ chỉ để ăn, để làm, để chơi và để chết sao?  

Và những đau khổ, những mất mát và sự chết ta không thể lý giải được. Tại sao con người phải khổ; tại sao ta phải chết. Người lành phải khổ, phải thiệt thòi, phải chết oan; còn người xấu thì được sung sướng, được gặp may, được sống lâu sao? Công lý ở đâu, nếu không có Chúa, không có đời sau để trả lại công bằng. 

Điều đó đòi hỏi ta phải tin có Thiên Chúa, phải tin vào Thiên Chúa. Chúng ta là những tín hữu ky-tô, chúng ta có đức tin, thế nhưng đức tin của ta mạnh hay yếu; chắc là giống như Phê-rô thôi. Gặp thấy gió mạnh là sợ; thấy động đất, sóng thần là sợ; bị bệnh hay ung thư là sợ; thấy vất vả, cực nhọc là sợ; thấy thất bại là sợ, vv… Con người của chúng ta là vậy.  

Bởi đó mà ta cần đến sự trợ giúp của Chúa, của ơn Chúa. Muốn được vậy, ta phải cầu nguyện. Khi gặp tai ương ta xin Chúa cứu giúp; khi gặp khó khăn hay bệnh tật, ta xin Chúa dủ lòng thương. Khi ta yếu hèn, tội lỗi, ta xin Chúa thứ tha. Như thế tâm hồn ta sẽ bình an và thư thái; có sức vượt qua mọi kho khăn. Nếu có chết thì ta cũng mỉm cười mà nhắm mắt, vì được về thiên đàng với Chúa. 

Vậy ta hãy luôn tin tưởng vào Thiên Chúa và chấp nhận mọi sự xảy ra trong cuộc đời mình cũng như những thiên tai xảy ra trên thế giới. Chúa không làm ra những sự xấu đó. Nếu có những thiên tai xảy ra, ta hãy cầu nguyện cho người cho người sống cũng như người chết. Người sống thì được cứu giúp; còn người chết thì được về thiên đàng.

Nếu ta chỉ tin cái miệng thôi, đức tin của ta yếu lắm, thì coi chừng ta sẽ bị chìm như Phê-rô đó. A-men.

Về mục lục

.

TÍN THÁC VÀO QUYỀN NĂNG THIÊN CHÚA

Lm. Đan Vinh

I.  HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mt 14, 22-33

(22) Đức Giê-su liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán đám đông. (23) Sau khi giải tán đám đông, Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện. Chiều đến, Người vẫn ở đó một mình. (24) Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ nhiều dặm, bị sóng đánh vì ngược gió. (25) Vào khoảng canh tư, Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. (26) Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: “ma đấy !” và sợ hãi la lên. (27) Đức Giê-su liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ !”. (28) Ông Phê-rô liền thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”. (29) Đức Giê-su bảo ông: “Cứ đến!” Ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giê-su. (30) Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với !”. (31) Đức Giê-su liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy ! Sao lại hoài nghi ?”. (32) Khi Thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. (33) Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa !”.

  1. Ý CHÍNH: ĐỨC GIÊ-SU KHỐNG CHẾ BIỂN CẢ ĐỂ BÀY TỎ THIÊN TÍNH:

Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều (x. Mt 14,13-21), Đức Giê-su lên núi cầu nguyện và thuyền các môn đệ thì đã ra khơi và gặp khó khăn vì ngược gió. Khoảng 3 giờ sáng, Người đã đi trên mặt biển mà đến với thuyền các ông. Người đã trấn an khi các môn đệ sợ hãi vì tưởng mình thấy ma. Người cũng cho phép Phê-rô được đi trên mặt nước và lập tức cứu ông khỏi bị chìm và đưa ông lên thuyền bình an khi ông biết cậy trông kêu cầu Người. Chứng kiến phép lạ này, các môn đệ đã tin người là Con Thiên Chúa.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 22-24: + Đức Giê-su liền bắt các môn đệ xuống thuyền: Sau phép lạ hóa bánh, dân chúng phấn khởi đoi tôn Đức Giê-su lên làm Vua Thiên Sai trần thế và các môn đệ cũng phấn khích không kém. Đức Giê-su đã giục các môn đệ xuống thuyền sang bờ bên kia để tránh cho các ông ảo tưởng về sứ mệnh của Người (x. Ga 6,14-15). + Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện: Đức Giê-su thường dành thời gian yên tĩnh ban đêm để cầu nguyện với Chúa Cha (x. Lc 6,12), nhất là trước khi phải giải quyết những việc trọng đại (x. Mt 26,36; Lc 9,27). + Chiều đến, Người vẫn ở đó một mình: Ở một mình là không có người khác bên cạnh, trừ một mình Chúa Cha hằng ở với người (x. Ga 8,29). + Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ nhiều dặm: Bờ hồ đây là Biển hồ Giê-nê-sa-rét hay cũng gọi là Ti-bê-ri-a hoặc Ga-li-lê (x. Ga 6,1). Biển Hồ này có hình bầu dục dài 21 km, rộng 12 km, mực nước thấp hơn Địa Trung hải 208 mét. Vì quá lớn, nên Biển Hồ thường có sóng to gió lớn (x. Mt 8,23). + bị sóng đánh vì ngược gió: Bấy giờ thuyền các môn đệ đã ra giữa biển và đang bị sóng đánh chập chờn không tiến xa được vì ngược gió. Con thuyền tượng trưng cho Hội thánh ở trần gian phải đương đầu với nhiều trở lực.

– C 25-27: + Khoảng canh tư: Vào thời Đức Giê-su, dân Do Thái cũng theo người Rô-ma, chia ngày thành 12 giờ từ 6 giờ sáng đến 18 giờ chiều, và chia đêm thành 4 canh, mỗi canh kéo dài 3 giờ. Canh tư tức là vào khoảng từ 3 đến 6 giờ sáng. + Người đi trên mặt biển: Cựu Ước nhiều lần nói tới Thiên Chúa đi trên biển (x. G 9,8; Tv 77,20). Người đã từng tỏ uy quyền trên sự hỗn mang khi tạo dựng trời đất, và khống chế Biển Đỏ để giải thoát dân Người. Ở đây Đức Giê-su muốn ám chỉ Thiên Chúa có quyền trên sức mạnh của biển khơi. + Các ông hoảng hốt bảo nhau: “ma đấy !” và sợ hãi la lên: Các môn đệ thấy bóng Đức Giê-su đi trên mặt nước đến gần thuyền thì sợ hãi la lên vì tưởng mình thấy ma. + “Cứ yên tâm, đừng sợ !”: Đức Giê-su đã trấn an các ông. + Chính Thầy đây: Trong Cựu Ước Thiên Chúa hay tự xưng với các tổ phụ Do Thái: “Chính là Ta”, “Ta là Gia-vê”, “Ta là Đấng Hiện Hữu” (x. St 46,3 ; Xh 3,14). Ở đây, khi xưng mình: “Chính Thầy đây”, Đức Giê-su ngầm mạc khải Người là Thiên Chúa.

– C 28-31: + “Nếu quả là Ngài”: Phê-rô vẫn còn nghi ngờ không biết có phải Thầy hay không. + “Thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”: Câu này cho thấy Phê-rô là một người tính khí bốc đồng thiếu chín chắn vì “Mau nói mau lỗi!”. + “Cứ đến !”: Phê-rô được chia sẻ quyền năng siêu nhiên là đi trên mặt nước giống như Thầy. Tuy nhiên ông làm được là nhờ đặt trọn niềm tin và Đức Giê-su. + Thấy có gió thổi thì ông đâm sợ: Đức Giê-su có lần đã ban quyền chiến thắng sự dữ cho Phê-rô (x. Mt 16,18b), nhưng ông có nhận được quyền năng ấy hay không tuỳ vào lòng tin mạnh hay yếu. Bao lâu Phê-rô tập trung vào Đức Giê-su, thì ông còn khống chế được sức mạnh của biển cả. Nhưng khi bắt đầu hoài nghi, thì ông sợ hãi và bị chìm xuống. + “Thưa Ngài, xin cứu con với”: Câu này tương tự như lời các Tông đồ cầu cứu khi thuyền các ông sắp bị gió bão nhấn chìm (x. Mt 8,25). Trong Thánh Vịnh cũng có nhiều lời cầu nguyện của dân Do thái xin Chúa giúp họ vượt qua sức mạnh của nước biển đe dọa (Tv 69,15-16; 144,7). + Đức Giê-su liền đưa tay nắm lấy ông: Trước lời cầu xin thiết tha của Phê-rô, Đức Giê-su đã mau mắn đáp lại bằng việc đưa tay nắm lấy ông. + “Người đâu mà kém tin vậy ! Sao lại hoài nghi ?”: Lời Người vừa trách yêu đức tin yếu kém của ông, lại vừa khích lệ ông hãy kiên vững đức tin vào Người.

– C 32-33: + Gió lặng ngay: Sự hiện diện của Đức Giê-su đủ đánh tan cơn sóng gió và đem lại bình yên cho con thuyền của các môn đệ. + Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa !: Lời tuyên xưng này mới chỉ nhìn nhận Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, đồng nghĩa với Đấng Cứu thế. Tuy nhiên, Tin Mừng Mát-thêu lại muốn mượn lời tuyên xưng này để trình bày đức tin của Hội thánh thời sơ khai: “Đức Giê-su Ki-tô là Con Một Thiên Chúa, đồng bản tính với Đức Chúa Cha !”.

  1. CÂU HỎI:

1) Tại sao Đức Giê-su bắt các môn đệ xuống thuyền sang bờ bên kia ngay ? 2) Đức Giê-su lên núi làm gì ? 3) Bạn biết gì về Biển hồ được đề cập trong Tin Mừng hôm nay ? 4) Tại sao con thuyền các môn đệ bị chập chờn không tiến xa được ? 5) Canh tư tức là mấy giờ sáng ? 6) Ý nghĩa của việc Đức Giê-su đi trên mặt biển là gì ? 7) Thái độ của các Tông đồ ra sao khi thấy có bóng người đi trên mặt biển đến gần và Đức Giê-su đã làm gì để trấn an các ông ? 8) Qua câu nói: “Chính Thầy đây”, Đức Giê-su đã ngầm mạc khải Người là ai ? 9) Khi xin được đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy, Phê-rô đã biểu lộ tính khí thế nào ? 10) Tại sao Phê-rô đang đi trên mặt biển lại bị chìm đắm và ông làm gì để được Chúa cứu giúp ?

 

II.  SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ !”. Phê-rô thấy gió thổi thì ông đâm sợ và khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với !” (Mt 14,30).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) CHÚA CHỈ BÁN HẠT GIỐNG CỦA NHỮNG ƯỚC MƠ MÀ THÔI:

 Cha Antony de Mello kể lại giấc mơ  của Paquita như sau : Nàng rảo quanh các quầy hàng của một trong những cửa tiệm lớn nhất hành tinh. Bỗng nhiên nàng nhận ra  Thiên Chúa sau một quầy hàng :

– Lạy Chúa, Ngài bán gì vậy ?

– Tất cả những gì mà lòng con mong ước.

– Con muốn mua sự bình an trong tâm hồn, tình yêu, sự khôn ngoan, những liều thuốc chữa trị mọi thứ sợ hãi.

 – Tốt  lắm, nhưng ở đây không bán trái mà chỉ bán hạt giống thôi.

(André Sève, Sương mai)

2) HÃY TÍN THÁC VÀO QUYỀN NĂNG THIÊN CHÚA:

     Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tĩnh trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hy vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi :

– Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao ?

        – Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là một người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.

 3) GIÁ TRỊ CỦA ƠN CHÚA TRONG CUỘC ĐỜI NGƯỜI TÍN HỮU:

Hôm ấy, tại công trường thành phố lớn kia, dân chúng tụ họp đông đảo để xem cuộc đấu giá một chiếc đàn vĩ cầm cũ kỹ, mặt đàn bị méo mó và trầy trụa. Người bán đấu giá thầm nghĩ là chẳng bõ công để tiêu phí nhiều thì giờ về cây đàn violon, tức là cây đàn vĩ cầm cũ kỹ này. Vừa giơ cây đàn vĩ cầm cũ lên ông vừa nói:

– Tôi phải ra giá cho người bạn thân yêu của tôi bao nhiêu đây?

Ông ta lớn tiếng hơn:

-Ai sẽ bắt đầu ra giá giùm tôi? Một đôla, một đôla thôi. Ai sẽ trả hai đôla nào? Hai đôla, ba đôla. Ai sẽ trả ba đôla? Ba đôla lần thứ nhất, ba đôla lần thứ hai… Tiếp tục vẫn chỉ được ba đô mà thôi.

Kế đó, từ cái phòng ở phía sau, một người đàn ông có bộ tóc bạc tiến tới và cầm cây đàn vĩ cầm lên tay. Sau khi phủi bụi bám đầy trên cây đàn và so lại những sợi dây đàn, ông chơi một giai điệu thanh trong và ngọt ngào. Tiếng đàn ngưng lại và người bán đấu giá lên tiếng với giọng nói nhẹ nhàng, trầm trầm:

– Tôi sẽ ra giá cho cây đàn cũ kia bao nhiêu đây?

Vừa nói ông vừa giơ cây đàn vĩ cầm lên cao:

Một ngàn đô, một ngàn đô. Ai sẽ trả hai? Hai ngàn đô. Ai sẽ trả ba? Ba ngàn đô lần thứ nhất, ba ngàn đô lần thứ hai.

Rồi nhất quyết ông nói:

– Thôi !

Đám đông hò reo, nhưng cũng giữa đám đông có mấy người la lên,

– Chúng tôi chẳng hiểu gì cả. Cái gì đã thay đổi giá trị cây đàn vĩ cầm cũ kỹ kia?

Người bán đấu giá đáp:

– Đó là ngón đàn của người bậc thầy.

Thật vậy, họ đã không nhận ra rằng trong đám đông cuộc bán đấu giá ấy có một ông già là tay chơi đàn vĩ cầm rất lão luyện. Cây đàn vĩ cầm vẫn là cây đàn cũ kỹ không thay đổi, nhưng chính năng khiếu của đôi tay người nhạc công bậc thầy đã làm phát sinh những âm thanh tuyệt vời và làm cho cây đàn có giá trị hơn trước cả ngàn lần.

Mỗi người chúng ta có thể ví như cây đàn vĩ cầm trong câu chuyện trên. Chúng ta sẽ chẳng có giá trị bao nhiêu, nếu không có ơn Chúa trợ giúp. Nhưng nếu chúng ta biết mở lòng ra để thưa chuyện với Thiên Chúa, chúng ta sẽ làm được những việc lớn lao vượt quá sức của chúng ta như lời Chúa Giê-su: “Vì không có Thầy, anh em không làm được gì”.

4) HÃY LUÔN NGƯỚC MẮT LÊN TRỜI CAO:

 Vào lúc mới có thuyền buồm, một cậu bé nọ xin đi biển để học làm thủy thủ. Một hôm biển có bão, người ta bảo cậu leo lên trên cột buồm. Leo được nửa phần đầu thì dễ dàng vì cậu cứ đưa mắt gắn chặt vào bầu trời.  Nhưng đến lưng chừng cậu lại phạm một sai lầm. Cậu nhìn xuống mặt nước biển trong cơn bão, thế là cậu bị chóng mặt và sắp sửa ngã xuống.

Thấy thế, một thủy thủ già la to lên với cậu :”Này nhóc, ngước nhìn lên lại bầu trời đi ! Nhìn lên lại bầu trời đi”. Cậu bé nghe theo lời chỉ dẫn và cuối cùng đã leo lên được an toàn.

     Lỗi lầm của cậu bé, giống hệt lỗi lầm của Phê-rô trong bài Tin mừng.  Cậu ta đã rời mắt khỏi đích nhắm của mình và đã nhìn xuống mặt biển giông tố giống như Phê-rô đã rời mắt khỏi Chúa Giêsu và nhìn xuống mặt biển giông tố.

 5) SỨC MẠNH BIẾN ĐỔI CỦA LỜI CẦU NGUYỆN:

Câu chuyện sau đây chứng minh sức mạnh linh thiêng của lời cầu nguyện; Khi thánh Gioan Maria Vianey tới làng Ars nhỏ bé không mấy ai biết tới, một vài người mỉa mai nói với Ngài: “ở đây không có việc gì làm cả.” Thánh nhân trả lời: “Như vậy là có mọi chuyện để làm rồi đó.” Và Ngài làm ngay. Vậy ngài đã làm gì?

Thức dậy từ 2 giờ sáng. Ngài đến cầu nguyện gần bàn thờ trong ngôi thánh đường tối tăm nhiều giờ. Tràng hạt trong tay, mắt chăm chú nhìn lên nhà Tạm. Với sự miệt mài cầu nguyện của thánh nhân, Chúa Giêsu và Ðức Mẹ Ðồng Trinh dần dần lôi kéo các tâm hồn đền giáo xứ nghèo nàn này, và ngôi nhà thờ nhỏ bé đã trở nên chật chội không đủ chứa đám đông. Nơi tòa giải tội của Cha Sở thánh chen chúc những hàng dài hối nhân không dứt. Cha sở thánh bắt buộc phải giải tội từ 10, 15 đến 18 giờ một ngày.

Sự biến đổi đã xảy ra như thế nào? Từ một ngôi nhà thờ nghèo nàn, một bàn thờ tư lâu không dùng đến, một nhà Tạm bỏ trống, một tòa giải tội cũ kỹ và một linh mục kém tài bất lực, giờ đây, bộ mặt sinh hoạt của giáo xứ cũng như tâm hồn của các tín hữu đã hoàn toàn thay đổi.

Nguyên nhân nào đưa đến sự thay đổi xứ Ars, đến nỗi hàng trăm ngàn, và có lẽ hàng triệu người từ khắp nơi trên thế giới kéo về đây. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm những biến đổi như thế: “Những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có” (1 Cor.1:28).

Ta phải hoàn toàn quy hướng về Ngài, qua sức mạnh của lời cầu nguyện, qua sức mạnh thần linh vô biên của phép Thánh Thể và chuỗi Mân Côi.

6) PHẢI KIÊN TRÌ CẦU NGUYỆN:

Ông Paden Powell kể : Có hai con ếch té nhào vào trong một lu sữa to lớn. Cả hai dẫy dụa và mệt lử. Một con nản lòng và chết đuối. Con kia cũng thất vọng, nhưng mà điều đó càng khiến nó vùng vẫy đến nỗi nó trèo được lên đỉnh một khối bơ, vì nhờ vậy mà nó thoát chết.

7) LỜI CẦU NGUYỆN ĐEM LẠI BÌNH AN CHO TÂM HỒN

KÉT MIU-LƠ ( Keith Miller) tác giả cuốn sách tựa đề “Hương rượu mới” (The taste of new Wine), đã thuật lại một biến cố xảy ra làm thay đổi cả cuộc đời của ông như sau:

Vào một đêm nọ, trên đường về nhà, Két bị một chiếc xe từ sau tông làm anh té nằm bất tỉnh bên lề đường suốt một tiếng rưỡi đồng hồ, chờ xe cứu thương đến mang đi. Khi tỉnh dậy và ý thức tình trạng của mình, anh bắt đầu cầu nguyện với Chúa. Sau khi cầu nguyện xong, tự nhiên anh cảm thấy tâm hồn mình được bình an lạ lùng. Két viết: “Tôi nghĩ thật đáng xấu hổ biết bao khi mà mãi đến bây giờ tôi mới khám phá ra giá trị của lời cầu nguyện. Từ khi ấy, dù đang phải đối diện với cái chết, nhưng tôi không cảm thấy sợ hãi chút nào. Tôi có cảm giác Chúa luôn hiện diện bên tôi và sẵn sàng ra tay cứu giúp tôi”. Sau đó, Két đã được các bác sĩ kịp thời cứu sống và mau chóng bình phục. Anh trở lại đại học và được bầu làm chủ tịch lớp sinh viên năm thứ hai. Nhưng về sau, bị các hoạt động xã hội lôi cuốn, anh đã thôi không đến nhà thờ nữa và lại tiếp tục lún sâu vào các đam mê tội lỗi như trước.

Sau khi tốt nghiệp đại học, anh lập gia đình và làm việc cho một hãng xăng dầu ở tiểu bang Tếch-sớt (Texas). Nhưng cuộc sống gia đình và công việc đã không suông sẻ như anh mong ước. Một hôm Két chơi bài và đã bị thua một số tiền lớn. Bao nhiêu tiền bạc dành dụm bấy lâu giờ đây bị thua hết sạch! Anh bị vợ nặng lời mạt sát và đòi ra tòa ly hôn. Anh buồn chán đánh xe chạy vọt đi mà không biết phải đi về đâu. Sau khi chạy được một lúc, anh tấp xe vào bên lề đường, tắt máy rồi ngồi đó im lặng hút thuốc. Trước đây mỗi lần gặp phải điều gì buồn phiền, anh chỉ cần đi về nhà uống vài ly rượu mạnh rồi nằm vật ra giường ngủ một giấc đến sáng hôm sau là hết. Thế nhưng bây giờ sự thể lại không đơn giản như thế. Anh đã bị dồn đến bờ vực bị phá sản chỉ vì một phút lỡ lầm! Anh nhìn lên trời và la to lên rằng: “Nếu Chúa muốn gì nữa thì xin hãy lấy tất cả đi. Con thực sự muốn như vậy đó!” Ngay lúc ấy, đột nhiên anh cảm thấy tâm hồn được bình an, một cảm giác mà cách đây mười mấy năm anh đã từng trải qua khi bị thương nằm bất tỉnh bên đường. Ngay lúc đó, anh đã hạ quyết tâm phải thay đổi cuộc sống. Dù không có những tia sấm chớp trên trời, cũng chẳng có tiếng nói mầu nhiệm nào của Thiên Chúa, nhưng Két cũng nhận biết rõ điều Chúa muốn anh thực hiện. Người không cần tiền bạc, thời giờ hay sức lực của anh. Người chỉ cần anh dâng cho Người quyết tâm đổi mới ấy, thì Người sẽ lại ban sự bình an cho anh. Có thể nói: Két đã thực sự tái sinh một lần nữa để trở nên một người mới hoàn toàn thuộc về Chúa.          

  1. SUY NIỆM:

Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy nhìn vào mình. Khi chúng ta cảm thấy tâm hồn bất an, chính là lúc chúng ta đã bỏ không nhìn lên Chúa. Khi bị chìm sâu trong các đam mê tội lỗi, là lúc chúng ta hoài nghi tình thương của Chúa và bỏ làm việc đạo đức. Chúng ta hãy noi gương thánh Phê-rô cầu xin với Chúa Giê-su: ‘Lạy Ngài, xin cứu con với!”. Chắc chắn Chúa sẽ đưa tay ra nắm lấy chúng ta và ban bình an cho chúng ta.

1) “CỨ YÊN TÂM, CHÍNH THẦY ĐÂY, ĐỪNG SỢ !”:

Khi để chúng ta gặp phải những tai ương, bệnh tật và đau khổ là Chúa muốn huấn luyện đức tin của chúng ta. Đức Giê-su luôn quan tâm đến mỗi người chúng ta và sẵn sàng giúp chúng ta chiến thắng ma quỷ và sự dữ. Nếu thực sự tin vào Người thì chúng ta sẽ không sợ hãi khi gặp bất cứ thử thách nào, nhưng luôn vững tin Chúa sẽ rút từ sự dữ ra sự lành để ta được ơn cứu độ.

2) “THƯA NGÀI, XIN CỨU CON VỚI”:

Tin tưởng và luôn nhìn vào Chúa, ông Phê-rô đã có thể đi trên biển cả giống như thầy mình. Nhưng khi gió mạnh ào đến làm lung lạc đức tin, thì ông bắt đầu bị chìm xuống. Ông vội kêu lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!”. Bàn tay Đức Giê-su đã kịp thời đưa ra nắm lấy ông và đưa ông lên thuyền bình an, kèm theo lời trách nhẹ: “người đâu mà kém tin như vậy! Sao lại hoài nghi?”

3) LUÔN TÍN THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG VÀ QUYỀN NĂNG CỦA CHÚA:

Nhiều khi chúng ta có cảm tưởng đã bị Chúa bỏ rơi khi Người để chúng ta liên tiếp gặp phải các tai nạn rủi ro như người ta thường nói: “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”. Nhưng thực ra đó lại là cách Chúa dùng để huấn luyện đức tin cho chúng ta. Người muốn thử thách đức tin của chúng ta như: “Lửa thử vàng, gian nan thử đức!”. Nếu gặp những tai ương hoạn nạn mà chúng ta lo lắng sợ hãi, bỏ cầu nguyện dự lễ và tin theo bói toán, bùa ngải… thì đức tin nơi ta đã chết. Nhưng nếu chúng ta vẫn trung thành với Chúa, vẫn luôn chu toàn các việc đạo đức và càng năng xin Chúa ban ơn soi sáng để biết mình phải làm gì và làm như thế nào; vẫn luôn tín thác mọi sự xảy đến cho Chúa quan phòng… thì mới chứng tỏ đức tin của chúng ta mạnh mẽ, và chắc chắn chúng ta sẽ nhận được ơn cứu độ của Chúa.

4) PHƯƠNG CÁCH CẦU NGUYỆN TRONG MỌI LÚC:

Đức Tin mạnh biểu lộ qua việc năng cầu nguyện với Chúa. Tuy nhiên, chúng ta thường hay chữa mình: Tôi bận quá không có thời giờ nào rảnh để “vào sa mạc” mà cầu nguyện. Nhưng thật ra Chúa luôn ở bên cạnh và ở trong lòng ta. Chỉ cần thành tâm và có một chút cố gắng là ta có thể tạo ra khung cảnh sa mạc cho bản thân mình. Chẳng hạn: Mỗi ngày chúng ta có biết bao giờ rãnh rỗi để đi chơi, uống một ly cà phê, tán gẫu với chúng bạn hay ngồi hàng giờ trước vô tuyến truyền hình… tại sao ta lại không bớt ra một vài phút để vào sa mạc tâm hồn mà cầu nguyện với Chúa. Mỗi ngày có rất nhiều cơ hội gặp Chúa, mà vì lười biếng, vì thiếu đức tin hay do biết giá trị của lời cầu nguyện mà chúng ta đã bỏ lỡ cơ hội để gặp gỡ Chúa. Chẳng hạn: Những lúc cửa hàng vắng khách, khi xe tạm dừng để chờ đèn xanh… Khi bị kẹt xe hay khi bất ngờ bị cúp điện không thể tiếp tục làm việc bình thường được. Thay vì bực bội khó chịu, chúng ta hãy ý thức Chúa đang ở trong ta và thưa với Người về công việc đang làm, về những điều ta đang lo lắng đối phó.

  1. THẢO LUẬN:

1) Mỗi người chúng ta cần học nơi thánh Phê-rô điều gì về sự cầu nguyện ? 2) Chúng ta có thể cầu nguyện với Chúa lúc nào ? 3) Khi gặp thất bại hay rủi ro trái ý, ta cần làm gì để biểu lộ lòng tín thác noi gương thánh Phê-rô ?

  1. CẦU NGUYỆN:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hội Thánh ngày nay đang gặp rất nhiều khó khăn trở lực nhiều khi không thể tiến triển được. Xin cho các mục tử trong Hội Thánh luôn tin cậy vào tình thương và quyền năng của Chúa. Xin cho chúng con biết chu toàn sứ vụ làm chứng cho Chúa bằng sự quên mình vị tha và yêu thương phục vụ tha nhân. Xin cho chúng con sẵn sàng góp công góp của để cộng tác vào sứ mệnh loan báo Tin Mừng của Hội Thánh.

– LẠY CHÚA. Chúa muốn con phải luôn vững tin vào Chúa mỗi khi gặp thử thách gian nan. Ngày nay vẫn có những cơn sóng gió làm chúng con bị hoài nghi và suy giảm lòng tin vào Chúa, khiến chúng con ngày một chìm sâu trong các đam mê tội lỗi. Mỗi khi con sắp bị chìm đắm, xin Chúa hãy động viên con như đã động viên các môn đệ trong Tin Mừng hôm nay: “cứ yên tâm. Chính Thầy đây, đừng sợ!”. Xin hãy nắm chặt tay con khi con sắp quỵ ngã, xin hãy nâng đỡ đức tin yếu hèn của con, giúp con đứng vững trước bao sóng gió cuộc đời. Nhất là xin cho con biết luôn ngước nhìn lên Chúa là nguồn hy vọng và là sự trông cậy độc nhất của con.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN_A

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.  Là những Ki-tô hữu, chúng ta biết đức tin có sức mạnh đảo ngược tình cảnh hay đời người, giúp chúng ta vượt được gian nan, khó khăn và làm được những việc quá sức tự nhiên của mình, vì vậy chúng ta phải luôn nhìn mọi sự việc xảy ra chung quanh với đôi mắt đức tin, và phải xác tín vào Chúa và quyền năng của Ngài, luôn tin cậy và phó thác vào Chúa. 

Sau khi làm phép lạ hóa bánh cá ra nhiều cho hàng ngàn người ăn, Chúa Giê-su bảo các môn đệ xuống thuyền ra khơi trước và đợi Ngài ở phía bên kia Biển Hồ.  Sau khi giải tán đám dân chúng, Chúa lên núi cầu nguyện một mình, trong khi đó thì thuyền của các môn đệ ra khơi và gặp sóng gió lớn sắp chìm.  Sau mấy tiếng đồng hồ chèo chống, lúc ấy vào khoảng canh tư, nghĩa là vào khoảng ba giờ sáng, các môn đệ đã rất mệt mỏi, Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các ông.  Vừa mệt mỏi và trong đêm tối, các môn đệ thấy có bóng người đi trên mặt biển tưởng là ma nên hoảng sợ. Chúa đã lên tiếng nói với các ông: “Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ!”  Khi nghe được tiếng nói quen thuộc trấn an các ông nhận ra Chúa, và Phêrô xin phép được đi trên mặt nước đến gặp Chúa và Chúa bằng lòng. Nhưng vì sóng gió lớn, ông lo sợ và đâm ra hồ nghi, do đó bị chìm dần xuống.  Lúc đó ông lên tiếng kêu xin Chúa cứu giúp: “Lạy Thầy, xin cứu con!” Chúa đã đưa tay ra cứu giúp và trách nhẹ: “Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?”  Sau khi Chúa và Phêrô đã lên thuyền, sóng gió liền yên lặng và mọi người tuyên xưng Chúa: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa.”

Ông bà anh chị em thân mến. Qua bài Tin Mừng này Chúa Giê-su muốn dạy chúng ta điều gì?  Thứ nhất, Chúa muốn cho chúng ta biết và tin vào Ngài là Thiên Chúa, Đấng tạo dựng muôn loài, vì thế Chúa có quyền năng trên thiên nhiên và vạn vật.  Đối với Chúa, việc đi trên mặt biển không có gì là khó khăn, nhưng còn minh chứng quyền năng Thiên Chúa của Ngài. Các môn đệ hôm đó đã chứng kiến tận mắt và ghi nhận quyền năng tỏ tường của Chúa trên sóng biển và truyền cho chúng yên lặng. Vì thế, lòng tin của các môn đệ càng gia tăng.  Là những Ki-tô hữu, chúng ta phải xác tín vào Chúa một cách tuyệt đối, bằng cách sống những lời Chúa dạy, bởi vì như thánh Giacôbê  cho chúng ta biết đức tin không có việc làm là đức tin chết.

Bài học thứ hai, chúng ta phải thú nhận đức tin của chúng ta còn yếu kém và hay thay đổi, nên chúng ta phải thành khẩn cầu xin Chúa rất nhiều, như Phêrô khi thấy Chúa đi trên sóng nước, ông phấn khởi và tin Chúa, nên xin Chúa cho ông đi trên mặt nước đến với Chúa.  Lúc đó lòng tin của ông mạnh mẽ nên ông đi được trên mặt nước.  Nhưng khi thấy gió to, sóng lớn, biển động, ông hoảng sợ và sắp chìm, lòng tin thay đổi yếu kém đi, vì vậy ông đã la lên kêu xin Chúa: “Lạy Thầy, xin cứu con!”  Chúng ta thấy dù sao đây cũng biểu lộ lòng khiêm nhường sâu thẳm, và cũng là lời kêu xin chân thành và đích thực của Phê-rô.  Ông ý thức đức tin yếu kém của mình trước bảo tố, sóng to gió lớn, và sắp bị chìm xuống biển sâu, và thực sự cầu xin Chúa cứu giúp.  Trong cuộc sống, chúng ta thành thực thú nhận sự yếu kém đức tin trước những khó khăn, gian nan và nguy hiểm, vì thế chúng ta cần phải thành khẩn cầu xin Chúa.

Bài học thứ ba mà Chúa muốn dạy chúng ta là nếu có sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống thì mọi sự sẽ thay đổi tốt đẹp hơn.  Chúng ta thấy đang khi các môn đệ gặp sóng gió thì Chúa xuất hiện, và vì sự hiện diện của Chúa cho nên trong khoảnh khắc mọi sự đều thay đổi: sóng gió trở nên yên lặng, sợ hãi biến thành vui mừng, yếu kém trở nên vững mạnh.  Điều này cho chúng ta biết cuộc đời sẽ có bão gió và ở đâu có Chúa là có ân sủng, bình an và hy vọng.  

Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta nhận ra hiểm họa chiến tranh, xung đột có thể bùng nổ bất cứ lúc nào, những cuộc đàn áp và xâm lăng đang diễn ra, khủng bố và bách hại đang đè nặng trên cuộc sống của mọi người.  Xã hội Hoa kỳ mà chúng ta đang sống đang diễn ra những cuộc tranh chấp, bạo động và tội ác khắp nơi; gia đình vợ chồng bất hòa; con người sống trong lo âu, sợ hãi và bất an; luân lý, công bằng và ngay thẳng bị loại ra; và nhiều người sống không có đức tin.  Đây có thể coi là một thời điểm “biển động sóng gió” khắp nơi và có người không tin là có Chúa.  Thật vậy, chiến tranh, khủng bố, thù hằn, xâm lăng, tội ác, gian dối và bất an xảy ra vì con người không tìm đến, tin và sống lời Chúa mà thôi!

Ông bà anh chị em thân mến. Cuộc đời của chúng ta cũng có những lúc phải đối diện với gió bão, gian nan và khó khăn, và chúng ta cố gắng dùng sức của mình chèo chống nhưng thất vọng, không thành công.  Hôm nay, Chúa muốn nói với chúng ta đừng bao giờ thất vọng và nghĩ rằng Chúa bỏ rơi chúng ta, hay không để ý đến chúng ta.  Chúa muốn chúng ta đến với Chúa, xác tín và mời Chúa vào hiện diện trong đời sống mỗi người, và vào trong gia đình của chúng ta.  Chúa muốn hiện diện và đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường và Chúa sẽ sẵn sàng trợ giúp chúng ta nếu chúng ta thành khẩn cầu xin Ngài.    

Ông bà anh chị em thân mến.  Nếu chúng ta chú ý đến bài học này thì chúng ta sẽ ý thức khi gặp, đối diện với những gian nan, khó khăn và thử thách, chúng ta hãy vững tin, đến với Chúa và khiêm tốn cầu xin: “Lạy Chúa, xin cứu giúp con!”  Thái độ khiêm tốn và lời cầu xin chân thành biểu lộ lòng xác tín của chúng ta vào quyền năng của Chúa, tôi tin rằng vì yêu thương, Chúa sẽ sẵn sàng cứu giúp chúng ta, và Chúa cũng sẽ nói với chúng ta như đã nói với các môn đệ: “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!” 

Có sự hiện diện của Chúa, chúng ta sẽ được bình an như lời Tin mừng thuật lại: “Khi Chúa Giêsu lên thuyền thì gió liền yên lặng”, và đức tin của chúng ta sẽ gia tăng, vững mạnh hơn.  Xin bình an và ơn sủng của Chúa luôn hiện diện trong cuộc sống mỗi người, mỗi gia đình và trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta.

Về mục lục

.

Exit mobile version