Tâm hồn vĩ đại trong tình yêu đơn sơ khiêm hạ và phó thác

120

THÁNH NỮ TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU

TÂM HỒN VĨ ĐẠI TRONG TÌNH YÊU ĐƠN SƠ KHIÊM HẠ VÀ PHÓ THÁC

———————————-

Khoa-Hoc-Tinh-YeuMừng lễ thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu hôm nay, chúng ta sẽ có cảm tưởng như còn thiếu sót một điều gì, nếu người Kitô hữu chưa bao giờ học hỏi, bình tâm suy gẫm… để giới thiệu một mẫu gương sống đạo tuyệt vời cho tuổi trẻ sống đức tin, nhất là ngày nay tinh thần thế tục đang tác động mạnh vào đời sống đạo làm nguy cơ bị lạc điệu, lạc hướng…..

 

  1. Têrêsa là con đường nhỏ của Tình Yêu khiêm hạ, nhưng là tâm hồn vĩ đại.

Là nữ tu Dòng Kín Carmelite tại Lisieux, chị sống khiêm hạ, đơn sơ bé nhỏ và phó thác, kín múc từ Lời Chúa nói : “Nếu anh em không trở lại mà hóa nên như trẻ nhỏ thì chẳng được vào Nước Trời. Ai tự hạ, coi mình như trẻ nhỏ này sẽ là kẻ lớn nhất trong Nước Trời…” (Mt.18, 2-6 ; 19,14-15). Qua hồi ký “Một Tâm hồn”, tác phẩm hấp dẫn từ thế kỷ XX đến nay, Têrêsa đã để lại một sứ điệp về sức mạnh của “tình yêu khiêm tốn-đơn sơ phó thác”, đã làm rung động biết bao con tim tận hiến, đã thu hút nhiều tâm hồn biết noi gương thánh nữ chiêm ngắm Tình Yêu của Thiên Chúa trên cây Thánh Giá. Có thể nói, chị thánh đã giới thiệu cho chúng ta một “cầu thang máy lên trời “.

Têrêsa chào đời ngày 02-01-1873 tại Alencon, nước Pháp. Cụ Louis Martin và Bà Zélie Guérin có 9 người con. Còn lại 5 chị em gái lần lượt dâng mình cho Chúa trong Dòng Kín và Dòng Thăm Viếng. Têrêsa là cô gái út, nét mặt vui tươi, thông minh tháo vát. Vừa được 4 tuổi, Têrêsa mồ côi mẹ. Từ đó, bé Têrêsa có vẻ đa cảm dễ buồn dễ khóc, nhưng luôn rất nhạy bén…. Hoàn cảnh “gà trống nuôi con”, cụ Louis Martin lui về Lisieux sinh sống. Gia đình vốn đạo đức thánh thiện, cụ rất yêu thương, tận tình chăm sóc và giáo dục con tiến bước trên đường nhân đức. Chị Pauline thay mẹ chăm sóc các em….Về sau, Têrêsa đã thú nhận với mẹ bề trên : “Con không thể viết ra hết cách thức của cha thương yêu, chăm sóc con…”.  Người ta phải ca ngợi gia đình cụ Martin là tấm gương sáng cho các bậc làm cha mẹ của các gia đình Công Giáo, và các ngài được phong phân phước ngày 19-10-2008.

Têrêsa sống tuổi thơ ấu vui buồn lẫn lộn. Có lẽ đây là lúc Chúa Giêsu đoái nhìn, đã nắm chặt lấy tay Têrêsa, và Chúa đã soi trí mở lòng cho bé mồ côi này sớm nhận ra chân lý cuộc đời, đó là : Trần gian chỉ là quán trọ, là một chỗ dừng chân….? Vì thế từ nhỏ, Têrêsa chỉ biết hướng về những sự trên trời, say mê tìm kiếm Chúa Giêsu là hạnh phúc đời mình, quyết không từ chối Chúa điều gì. Có một buổi chiều tối Chúa Nhật, hai cha con rảo bước trên đường về nhà, Têrêsa bỗng reo lên: “Cha ơi ! Kìa xem, tên con đã được ghi trên trời”.

Năm 10 tuổi, Têrêsa rước lễ lần đầu. Được cha giải tội khuyên bảo, Têrêsa rất yêu mến Mẹ Maria Mân Côi. Người ta còn thấy, bé Têrêsa thích đeo cây thánh giá ngang lưng, giống các vị Thừa sai truyền giáo. Cũng chính năm ấy, sau khi chị Pauline vào Dòng, Têrêsa bị một cơn bệnh nặng, Chúa đã làm sự lạ, cho Têrêsa nhìn thấy một vực sâu thăm thẳm chung quanh giường nằm. Têrêsa sợ hãi la lên. Các chị không hiểu, hoảng sợ quỳ gối quanh giường em khóc than cầu nguyện, làm tuần 9 ngày khấn xin Mẹ Mân Côi cứu em khỏi bệnh. Đức Mẹ đã nhận lời. Têrêsa đã thú nhận: “Con thấy tượng Mẹ xinh đẹp lạ thường, dung nhan Mẹ rất dịu dàng hiền hậu, tượng Mẹ đã cử động đến gần con và Mẹ đã mỉm cười rất xinh. Khi ấy con khỏe mạnh như thường…”  Têrêsa rất yêu mến Chúa Giêsu trên Thánh Giá, luôn cầu nguyện và thống hối để đền đáp Tình Yêu Chúa đã chết để cứu rổi các linh hồn. Sau lễ Giáng Sinh năm 1886, như được ơn Chúa Hài Đồng thôi thúc, chị quyết định sống ơn gọi tu trì. Têrêsa khao khát được vào Dòng Kín, sớm tận hiến cho Chúa, nhưng bị ngăn trở vì chưa đủ tuổi. Têrêsa đem hết tâm hồn cầu nguyện tín thác vào Chúa Giêsu. Lời Chúa phán trên Thập Giá  “TA KHÁT ! ” luôn vang dội tâm hồn chị, như  thiêu đốt tâm hồn chị sớm được hy sinh tận hiến để sớm chịu thật nhiều đau khổ với Chúa để cứu các linh hồn… Nhân chuyến hành hương Roma, thánh nữ trực tiếp đến xin Đức Thánh Cha Lêô XIII ban đặc ân miễn chuẩn, ngài nói : Nếu Chúa muốn. Đến Rôma, khi đặt chân ở nơi các vị Tử Đạo đổ máu, Têrêsa quỳ gối hôn kính và ước mơ ơn phúc được tử đạo….

Đức Giám mục Bayeux đã ban phép chuẩn, tháng 4 năm 1888, Têrêsa được đón nhận vào Dòng ở tuổi 15, nhận danh hiệu “Têrêsa Hài Đồng Giêsu và Thánh Nhan”. Là nữ đan sĩ Dòng Kín sống đời tận hiến,Têrêsa chỉ chú tâm cầu nguyện, hết tình nung nấu lòng yêu mến Chúa Giêsu bằng lý tưởng sống Đơn Sơ và Phó Thác, thực hiện Lời Chúa “Ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ, sẽ là kẻ lớn nhất trong Nước Trời “.

Têrêsa quyết nên thánh, tự ý coi mình như  bông hoa hướng dương luôn quay mặt về với Chúa Giêsu Thánh Thể. Nhớ lại ngày  được đi tung hoa rước kiệu Thánh Thể, chị quyết làm mọi việc hy sinh, chịu nhiều đau khổ, làm thành những bông hoa nhỏ đẹp tươi để được tung bay lên trước Thánh Nhan Chúa, chị viết : “Lạy Chúa Giêsu, con không còn cách nào khác để chứng minh lòng con yêu mến Chúa hơn là tung hoa cho Chúa”.  Chị quyết tâm không bỏ qua một việc hy sinh nhỏ nào, biến đau khổ thành sở thích và niềm vui, từ một lời nói, một việc làm hèn hạ, một ánh mắt nhìn…thậm chí còn vui mừng khi gặp chị em gai chướng, và hân hoan được phục vụ một nữ tu già khó tính…! Chị muốn thu gom thật nhiều việc hy sinh đau khổ để kết thành mũ triều thiên có nhiều bông hoa muôn sắc để trang điểm ngai Bạn Chí Thánh. Ngày khấn dòng chị cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin cho con ơn bình an và tình yêu vô biên, phúc tử đạo con vẫn hằng mơ ước”.

Sống cộng đoàn,Têrêsa chấp nhận mọi đau khổ hiểu lầm,  mọi đổ lỗi vu oan, bị bề trên đối xử nghiêm khắc, bị chèn ép ganh tị bất công, bị thử thách đủ loại… chị luôn vui mừng tươi cười chấp nhận vì tình yêu. Chị viết : “Vâng, con cảm thấy khi con yêu chị em là chính Chúa đang hoạt động trong con. Con càng kết hợp với Chúa, con càng yêu mến chị em nhiều”. Khi gặp điều gì bị đau ở thân xác, chị cố tỏ ra bình thường để không ai biết, đến nỗi như để đánh lừa cả Chúa Nhân Lành nhìn bề ngoài cũng không biết mình bị đau ….! Tuy sức khỏe của chị không khả quan vì bị bệnh,Têrêsa vẫn khắc phục bản thân bằng ý chí sắt đá, quyết tâm từ bỏ mọi ý riêng, miễn sao làm đẹp lòng Chúa Giêsu là Bạn Chí Thánh. Mọi tư tưởng và hành động, mọi ước muốn và trái tim,Têrêsa kết hợp hoàn toàn với Chúa Giêsu để cứu rỗi các linh hồn, chị đã viết: “Lạy Chúa Giêsu, con hân hoan được kết hợp với Chúa để sinh sản nhiều linh hồn cho Chúa. Nhưng con cảm thấy còn nhiều ước muốn :

Con ước muốn làm Vệ-Sỹ cảm tử để bảo vệ Giáo Hội.

Con ước muốn làm Linh-Mục để nắm gọn Chúa trong tay con.

Con ước muốn làm Tông Đồ, làm Tiến Sĩ để chạy khắp thế giới rao giảng Danh Chúa, dựng cao cây Thánh giá trên khắp miền dân ngoại, dù ở nơi hẻo lánh xa vời, dù giữa nơi trùng dương bát ngát.

Điều con ao ước hơn cả là được ơn phúc Tử Đạo…”

Thân xác, linh hồn và trái tim Têrêsa chỉ còn là của Chúa Giêsu yêu dấu : Chúa Giêsu đang đau khổ tả tơi, Chúa Giêsu đang buồn sầu cô đơn, Chúa Giêsu mang đầy thương tích tê tái và đau đớn chết ô nhục trên thập tự, Chúa Giêsu vinh quang trên Trời, Chúa Giêsu ngự trong phép Thánh Thể… Đau khổ nhất của Têrêsa là không thể rước lễ khi bị thổ huyết. Chị đã viết một bài tình ca để tâm sự với Chúa Giêsu sau mỗi lần được rước Chúa vào lòng :

….Chết vì tình , Ôi tử đạo êm ái,

Phúc trọng này con mong mãi từ lâu,

Hỡi Chérubim ! Đã bắt đầu chưa ?

Tiếng đàn mừng…xem chừng con sắp chết !

Chết vì tình, lý tưởng con tha thiết.

Thực hiện đi !…Ôi Giêsu, lạy Chúa…!

.

  1. Têrêsa rất yêu mến Giáo Hội : “Giữa lòng Hội Thánh, Hiền mẫu của con, con là Tình yêu.”….

Biết mình không thể có được những ân sủng để hoạt động, làm được những việc cao trọng trong Hội Thánh như các thánh Tông đồ, các Tiên tri, các Tiến sĩ..v..v…nhưng chỉ còn Tình Yêu, chị lại khát vọng được có mặt trong mọi ân sủng của Giáo Hội, và ước muốn có chỗ đứng trong lòng Hội Thánh.

Trong khi suy gẫm về Giáo Hội, bị những khát vọng giày vò, Têrêsa cầu nguyện, mở Kinh Thánh, rồi đọc thư  thánh Phaolô xin Ngài hướng dẫn. Tình cờ gặp một đoạn trong thư thứ 2 gửi Côrintô, thánh Phaolô nói về các ân huệ Chúa Thánh Thần, đó là : Hội Thánh có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Nhiều hoạt động khác nhau nhưng chỉ một Chúa. Như một thân thể có nhiều chi thể khác nhau, mọi chi thể đều hoạt động, nhưng phục vụ một thân thể… Têrêsa nản chí, vì thấy mình không thuộc chi nào trong Giáo Hội, nhưng chị luôn ước muốn mình có mặt trong mọi chi thể của Giáo Hội. Têrêsa không thất vọng khi đọc đến câu Phaolô nói : “Trong mọi ân huệ, anh em hãy tìm kiếm ơn cao trọng nhất” (2Cor.12, 31). Tiếp theo ở Bài ca Đức ái, (2Cor. 13), chị như được thánh Phaolô giải thích rõ : “Mọi ơn huệ cao cả nhất cũng chẳng là gì, nếu không có tình yêu. Đức ái là con đường tuyệt hảo dẫn tới Thiên Chúa. Chỉ có tình yêu tồn tại mãi mãi….” Têrêsa cảm thấy nhẹ nhàng, rất thỏa mãn và bình an. Chị viết :  “…Em hiểu rằng, Hội Thánh có một thân thể và nhiều chi thể khác nhau. Hội thánh cũng có một trái tim luôn bừng cháy tình yêu. Tình yêu đã thôi thúc mọi chi thể hoạt động, khiến các vị Tông đồ đi rao giảng, các vị tử đạo đổ máu…v.v…”Tình yêu bao trùm mọi ơn gọi, bao trùm tất cả…” Thế là Têrêsa vui mừng khôn tả như vừa tìm được lời giải đáp. Chị xác tín ơn gọi của mình là Tình Yêu và biết mình đã có chỗ đứng trong Hội Thánh.Chị ngất ngây, sung sướng  reo lên : “Ôi Chúa Giêsu, Tình Yêu của con….Ơn Gọi của con, Chúa đã ban cho con….Trong lòng Hội Thánh, Hiền Mẫu của con…con là tình yêu…con sẽ là tất cả. ” ( phỏng theo Tự thuật của Th.Têrêsa)

  1. Tâm hồn Têrêsa luôn hướng về cánh đồng truyền giáo ở Châu Á và ước mơ ơn tử đạo

Là một nữ tu Dòng Kín, kỷ luật nghiêm ngặt cửa cao tường kín, tinh thần truyền giáo là điểm đặc biệt trong tư tưởng và đời sống tu trì của chị thánh. Têrêsa luôn hướng về cánh đồng truyền giáo ở Châu Á và ước mơ ơn tử đạo. Chị hứa mỗi ngày dâng việc hy sinh để cầu nguyện cho việc truyền giáo. Chị rất yêu mến và viết bài ca tụng vị linh mục thừa sai truyền giáo ở Việt Nam là Cha Jean Théophane Venard (Cha Ven) tử đạo ngày 02-2-1861 tại Cầu Giấy, Hà Nội. Têrêsa ước mơ đến Dòng Kín Hà Nội. Tháng 01-1896, được Bề trên chấp thuận. Chị đã làm tuần 9 ngày khấn xin với Cha Thánh Ven tử đạo để chờ ngày lên đường. Chẳng may ngày thứ Sáu Tuần Thánh 1896, sau khi gẫm Đàng Thánh Giá, chị ngã bệnh nặng với dấu hiệu lao phổi nên phải đình hoãn. Từ đây, những tháng cuối đời, chị chịu đau khổ vì bệnh là một cuộc tử đạo dũng cảm.

Cơn bệnh càng trầm trọng hơn, ngày 05-6-1897, cả nhà dòng làm tuần 9 ngày khấn xin Đức Mẹ Mân Côi can thiệp, xin Chúa chữa lành bệnh cho Têrêsa. Nhưng lần này, Chúa nhân lành và Mẹ Mân Côi từ chối, muốn hái “Bông hoa Tình Yêu” đẹp muôn sắc này về hưởng Thánh Nhan Chúa. Thấy bệnh trầm trọng, không còn hy vọng cứu sống, nhà dòng phải đưa chị xuống nhà kẻ liệt. Ở đây có tượng Thánh Giá và tượng Đức Mẹ Mân Côi. Têrêsa thích nhìn ngắm Mẹ và thấy tượng Mẹ sáng ngời đẹp quá. Một buổi chiều, Têrêsa đã kêu lên : “Ôi Maria, con mến Mẹ. Con yêu Mẹ lắm lắm…! Nếu con được làm linh mục, con sẽ rao giảng Mẹ rất dịu dàng.”

Sau hết, cơn hấp hối đã đến gần, càng đau đớn, Têrêsa càng vui sướng. Mẹ bề trên ngạc nhiên hỏi : “Sao nét mặt em vui thế ? Hôm nay em có đau nhiều không ? Têrêsa thưa lại: “Vâng, con đau lắm, nhưng con rất vui. Chúa ban gì con cũng vui thích…”

Chiều tối ngày thứ Năm, 30-9-1897, chị thánh nhìn thánh giá lần cuối và kêu lên : “Ôi Giêsu, con yêu Chúa nhiều, con yêu mến Chúa vô cùng…” Chị thưa với mẹ bề trên : “Thưa mẹ, phải chăng đây là giờ con hấp hối ? Con sắp chết ư ?…Trên trời cao, con sẽ làm mưa hoa hồng”. Chị thánh qua đời, về với Chúa năm 24 tuổi, được 9 năm đời tận hiến.

Sắc lệnh ngày 10-6-1914 của Đức Thánh cha Bênêđictô XV tiến hành hồ sơ phong thánh. Tháng 4-1923 chị được phong chân phước. Hai năm sau, Đức Piô XI phong chị là hiển thánh ngày 17-5-1925. Năm 1927, ngài đặt thánh nữ làm Bổn Mạng xứ Truyền Giáo, sau thánh Phanxicô Xaviê. Ngày 19-10-1997, Đức Gioan Phaolô II tôn phong chị lên bậc tiến sĩ Hội Thánh.

Lạy thánh nữ Têrêsa, từ trời cao, xin tiếp tục làm mưa hoa hồng xuống Hội Thánh. Xin cho mọi người biết nhìn ngắm Tình Yêu Chúa trên cây Thập Tự, như hoa hướng dương luôn quay về mặt trời. Ngày nay, người ta thích nhìn chứng nhân. Xin cho mọi thành phần Dân Chúa, đặc biệt cho hàng giáo sĩ, tu sĩ biết noi gương thánh nữ : thành tâm, khiêm tốn, quên mình, để được tràn ngập tình yêu Chúa,được thấm nhuần Lời Chúa, biết làm chứng tá cho Chúa trong lời giảng dạy, và trong việc làm cụ thể, để Danh Chúa được tôn vinh. Amen.

Lm. Jos. Đỗ Văn Nguyên, GP. Xuân Lộc