Các Bài Suy niệm Lễ Giáng Sinh

1619

LỄ GIÁNG SINH – LỄ ĐÊM

Lời Chúa: Is 9,1-6; Tt 2,11-14; Lc 2,1-14.

——-

 

Mục lục

  1. Lịch Sử Nhân Loại: Lịch Sử Cứu Độ(Lm Ngọc Dũng, SDB)
  2. Tình Người Đêm Đông (Lm. Jos. DĐH-GP.Xuân Lộc)
  3. Niềm vui và an bình (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  4. Phép mầu đêm đông (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  5. Tình yêu nhập thể  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
  6.  Ai thực sự mừng lễ Chúa Giáng sinh (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
  7.  Đêm thánh – Đêm chan hòa ánh sáng (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)
  8. Loan báo Tin mừng Giáng sinh thế nào? (Lm. Đan Vinh)
  9.  Đêm Thánh (Trầm Thiên Thu)
  10. Một người con được tặng ban cho nhân loại (Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)
  11. Suy niệm lễ Đêm Giáng sinh  (Lm. Anthony Trung Thành)
  12. Tin mừng trọng đại (P.Trần Đình Phan Tiến)
  13.  Hài Đồng Giêsu mỉm cười trong đêm nay (Tiến sĩ Trần Mỹ Duyệt)

 

LỄ GIÁNG SINH – LỄ BAN NGÀY

Lời Chúa:  Is 52,7-10;  Dt 1,1-6;  Ga 1,1-18

———

Mục lục

  1. Thiên Chúa làm người để con người làm con Thiên Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

  2. Hãy để Chúa đồng hành cùng gia đình  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

  3. Giáng sinh, món quà tuyệt vời Thiên Chúa ban tặng (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

  4. Khai mở thời kỳ hồng phúc (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

  5. Đón nhận Đấng Cứu Thế (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

  6. Mầu nhiệm cổ xưa nhất (JM. Lam Thy, ĐVD)

  7. Ngôi Lời tự hủy để nên người phàm (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)

  8. Ánh sáng Đức Kitô  (Trầm Thiên Thu)

  9. Đức Giêsu là ánh sáng chiếu soi cho mọi người trên thế gian (Lm. Đan Vinh)

  10.  Đức Giêsu, Con Thiên Chúa (Lm. Trần Thanh Sơn)

  11. Giàu sang phú quí (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

  12. Nơi tình yêu bắt đầu  (Lm. Giuse Nguyễn)

  13. Suy niệm lễ Giáng sinh  (Lm. Anthony Trung Thành)

 

LỊCH SỬ NHÂN LOẠI: LỊCH SỬ CỨU ĐỘ

(Is 9:1-6; Tt 2:11-14; Lc 2:1-14)

Lm Ngọc Dũng, SDB

Mầu nhiệm đêm nay là mầu nhiệm ánh sáng của Thiên Chúa: Ánh sáng mà đưa dân Chúa ra khỏi bóng tối tử thần. Trong bài đọc 1, Ngôn Sứ Isaia nói về ánh sáng huy hoàng mà Thiên Chúa ban cho dân Ngài trong ngày “một trẻ thơ được sinh ra.” Trong ngày đó, dân Chúa sẽ được hưởng những điều sau: (1) không còn bước đi trong bóng đêm tội lỗi; (2) được ban cho chan chứa niềm vui; (3) được giải thoát khỏi ách nô lệ [thói hư tật xấu]; (4) được hưởng sự bình an. Chúng ta đã được hưởng bốn điều này chưa? Nếu chưa, chúng ta hãy xin Thiên Chúa ban cho chúng ta để chúng ta có được sự bình an thật để đón mừng con Chúa: “Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình. Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó” (Is 9:5-6). Đêm hôm nay là đêm Thiên Chúa hoàn thành lời hứa của Ngài với con cháu Adam. Ngài là Thiên Chúa trung thành. Chúng ta cũng được mời gọi để sống trung thành với Thiên Chúa và với nhau.

Về phần mình, Thánh Phaolô nhắc nhở Titô về ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho con người. Theo thánh nhân, “ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2:12). Những người sống trong ân sủng là những người sống theo sứ điệp sám hối, đó là thay đổi lối sống cũ của mình để hoàn toàn sống cho Thiên Chúa. Họ là những người sống trong niềm hy vọng của ngày hồng phúc, “ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (Tt 2:13). Bên cạnh đó, Thánh Phaolô cũng chỉ ra mầu nhiệm hôm nay là mầu nhiệm tự hiến của Chúa Giêsu khi sinh ra trong xác phàm con người: “Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2:14). Đêm nay, chúng ta được Chúa Giêsu biến thành dân riêng của Ngài, chúng ta được mời gọi đến một đời sống hăng say làm việc thiện.

Khung cảnh ra đời của Chúa Giêsu được thánh Luca đặt trong một khung cảnh lịch sử cụ thể của nhân loại, đó là “thời ấy, hoàng đế Augúttô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyri” (Lc 2:1-2). Những lời này cho thấy lịch sử con người trở thành lịch sử cứu độ khi Chúa Giêsu bước vào trong thời gian. Chi tiết này nhắc nhở lịch sử cuộc đời của mình. Khi chúng ta để Chúa Giêsu bước vào cuộc đời của mình, thì lịch sử đời mình sẽ trở thành những trang sử đầy yêu thương của Thiên Chúa. Liệu chúng ta có để Chúa Giêsu sinh ra trong cuộc đời của chúng ta ngay giây phút này không?

Chi tiết thứ hai chúng ta quan tâm là bối cảnh gia đình mà trong đó Chúa Giêsu sẽ được sinh ra: “Ai nấy đều về thành của mình mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse cũng từ thành Nadarét, miền Galilê, lên thành vua Đavít gọi là Bêlem, miền Giuđê, vì ông thuộc gia đình và dòng tộc vua Đavít. Ông lên đó khai tên cùng với bà Maria là người đã thành hôn với ông, lúc ấy bà đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2:3-7). Chi tiết này tiếp tục tư tưởng mà chúng ta vừa trình bày ở trên, đó là việc Chúa Giêsu sinh ra trong lịch sử con người. Tuy nhiên, Ngài không sinh ra trong một ‘nơi chung chung,’ nhưng trong một gia đình, một dòng tộc. Hình ảnh của hai người trực tiếp liên quan đến sự ra đời được nêu trong những lời trên là Thánh Giuse và Mẹ Maria. Chúng ta thấy, điều Thánh Giuse mang lại cho Chúa Giêsu là ‘dòng tộc Đavít,’ còn Mẹ Maria mang lại cho Chúa Giêsu là ‘thân xác’ để hiện diện trong ‘lịch sử’ nhân loại. Còn chúng ta, chúng ta sẽ có điều gì để dâng lên cho Chúa Giêsu hôm nay không?

Những người đầu tiên được đón nhận tin vui của giáng sinh là “những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật” (Lc 2:8): “Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ sợ hãi kinh hoàng. Nhưng sứ thần bảo họ: ‘Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa’” (Lc 2:8-11). Tại sao những người chăn chiên là những người đầu tiên được đón nhận tin vui Giáng Sinh? Bản văn cho chúng ta thấy rằng họ là những người “thức đêm” hay đúng hơn là có thái độ “canh thức đợi chủ về.” Tuy nhiên, tin vui mà những người chăn chiên nhận được không chỉ dành riêng cho họ mà dành cho ‘toàn dân.’ Chi tiết này mời gọi chúng ta chia sẻ niềm vui có Chúa cho mọi người. Những người có Chúa trong cuộc đời của mình là những người không tìm kiếm niềm vui cho riêng mình, nhưng tìm kiếm và loan báo niềm vui cho người khác. Họ là những người biến cuộc đời của mình thành Tin Mừng.

Dấu hiệu để nhận ra Đấng Cứu Thế thật đơn sơ: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2:12). Chi tiết này nhắc chúng ta về sự hiện diện đầy khiêm nhường của Thiên Chúa [Chúa Giêsu] trong thế giới và trong cuộc đời chúng ta. Khác với cái nhìn của người đời, Thiên Chúa không đến từ những nơi cao sang quyền quý. Ngài được tìm thấy ở những nơi bần cùng, nghèo hèn và trong những người không ‘có nơi nương thân.’ Ngài hiện diện cách kín ẩn trong một ‘trẻ sơ sinh,’ thật yếu đuối, thật đơn sơ, thật vô tội. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng đi tìm Chúa trong những nơi cao sang quyền quý, trong những con người thông minh và quyền lực. Nhưng Chúa không hiện diện ở đó. Chúng ta chỉ tìm ra Chúa khi chúng ta sống tinh thần của trẻ thơ, nhìn mọi sự với ánh mắt kinh ngạc và đầy yêu thương, như “trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.”

Sự ra đời của Chúa Giêsu mang lại hai hệ quả: Vinh danh Thiên Chúa và bình an cho con người: “Bỗng có đạo binh thiên quốc đông đảo hợp với sứ thần cất tiếng ca tụng Thiên Chúa rằng: ‘Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương’” (Lc 2:13-14). Những lời này, một cách nào đó trình bày cho chúng ta biết sứ vụ của Chúa Giêsu trong thế gian này, đó là làm vinh danh Thiên Chúa và cứu rỗi con người. Đây cũng chính là sứ điệp của mùa Giáng Sinh: Mỗi người chúng ta hôm nay cũng được sinh ra với Chúa Giêsu, chúng ta phải biến cuộc đời của mình thành lời ca tôn vinh Thiên Chúa và nguồn bình an cho những người chúng ta sẽ được sai đến để phục vụ.

 

Về mục lục

TÌNH NGƯỜI ĐÊM ĐÔNG

Lễ đêm Giáng Sinh: Lc 2, 1-14

Lm. Jos DĐH, GP. Xuân Lộc

Sinh ra làm người, hạnh phúc nhất khi có cha có mẹ, nhà giầu nhà nghèo, đêm đông hay ngày nóng, vẫn phản ánh đủ giá trị thật của tình yêu: ơn cha nghĩa mẹ. Đúng hay sai, lạnh lẽo nhất không phải khi mùa đông sang, bực tức nóng giận đến đâu phải vì đói khát, nhưng bởi sự vô tâm hời hợt từ người mà bạn đã từng xem là tất cả ! Một khi tôi biết người bạn yêu thương nhất trên đời là ai, tôi sẽ nói cho bạn biết bạn là mẫu người nào ! Hãy nhẫn nại, lạc quan, theo quy luật: ở hiền gặp lành, sau cơn mưa trời lại sáng. Hãy tạ ơn Chúa, vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. (Tv 117). Đâu phải cứ nhiều tiền lắm của gọi là tài giỏi, cũng chẳng ai nghĩ: bằng cấp nhiều, địa vị cao, là thành công ? Nói đúng lúc, đúng chỗ, có thể làm giảm căng thẳng, biết nói lời yêu thương chân tình, có thể giúp anh chị em nhẹ vơi nỗi khổ đau, lời nói gói vàng, là thế đó.

Đêm đông năm xưa ít là có một gia đình rất cần đến sự ấm áp của tình người, vị gia trưởng hiền mẫu đầy ưu tư lo lắng cho việc con mình chào đời, quả là “ái ngại” như câu thành ngữ: đàn ông đi biển có đôi, đàn bà vượt biển đơn côi một mình. Sau việc hạ sinh êm xuôi, cặp đôi đó để lại hậu thế nhiều bài học: thiếu tình người, nhưng không được thiếu tình Chúa, thiếu tình đồng đội, nhưng không được thiếu tình yêu thương. Trong đời sống tự nhiên mọi người đều phải nghĩ tới “cái ăn cái mặc”, đối diện với đời sống tinh thần ai mà không sợ phải cô đơn ! Trong tương quan xã hội, mấy ai chẳng nghe: nghèo nhưng không được hèn; khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương. Đêm đông hôm nay, tình người lúc này, chúng ta có để cho niềm tin yêu phủ lấp tâm hồn mình không ? Chúng ta đang sống nén bạc Chúa trao thế nào, khi mà khắp nơi đều hát vang: Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm.

Lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô kêu gọi phải trở về quê hương mình đăng trình, Giuse vô tình, hay bản chất Giuse luôn vâng phục Thiên Chúa và người đời ? Có phải tình người mùa đông năm ấy giới hạn theo quy luật chung: nhất thân nhì thế ? Vâng, sự táo bạo làm lớn lên đức can đảm, trong khi do dự lại tăng lên nỗi sợ hãi. Ông Giuse không thể tìm được nơi trú ngụ, nên tìm đến chốn hang bò lừa ! Tình người, tình đời, tình yêu, đưa đẩy Giuse tới một khái niệm: người bi quan phản nàn về cơn gió, người lạc quan mong cơn gió đổi chiều, người thực tế điều chỉnh lại cánh buồm. (William Arthur). Trong khi sinh em bé ở ngoài đồng lạnh giá, khác với sinh em bé ở bệnh viện, ấy vậy mà các nhà đạo đức cho rằng: nếu lòng bạn có bình an, ở đâu cũng thấy như đang ở nhà. Hẳn muôn dân trên khắp địa cầu, sẽ còn tiếp tục suy gẫm về hoàn cảnh Con Thiên Chúa giáng trần, về niềm tín thác của gia đình Thánh Gia.

Tình người đêm đông, tình người đêm nay, chỉ mang lại ý nghĩa khi nối kết được với tình Chúa, vì ở trong mối dây hiệp thông, mỗi người sẽ không phải lo lắng ưu tư ta đang ở đâu, làm gì để có hạnh phúc thật. Khung cảnh và thời gian của “chữ tình xưa nay” rất khác nhau, do đó, vui buồn, tuỳ tâm trạng mỗi người đang cộng tác làm nên bức tranh yêu thương sống động như thế nào ? Giuse, Maria, các mục đồng, năm xưa đã nghe, đã gặp, đã tin: “các người đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng trọng đại, đó cũng là tin mừng cho toàn dân. Hôm nay Chúa Kitô, Đấng cứu thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Đavít”. Đêm hôm nay, khắp nơi trên thế giới đang vui mừng kỷ niệm Con Thiên Chúa làm người: hang đá, cây thông, ngôi sao, ông già noel, vẫn mãi là biểu tượng về niềm vui giáng sinh. Nhưng chắc chắn Hài Nhi Giêsu thích nhất “hang đá” tâm hồn của mỗi người, cho dù mỗi người thích cụ thể, vắn gọn: Vinh Danh trên trời, bình an dưới thế”.

Tình người đêm đông, tình người hôm nay, vẫn khoác chung một ước mơ hạnh phúc: không còn nghèo đói, không còn áp bức, nhưng có cùng ngôn ngữ tin yêu và hoạt động dấn thân phục vụ. Xã hội hiện đại không phân biệt giầu nghèo, không nhầm lẫn tình địch với tình người, nhưng mỗi người luôn có tự do để yêu, để thương, để Hài Nhi Giêsu ngự thật nơi tâm hồn mình. Sống mà thiếu đi cảm xúc thì chỉ là tồn tại, tin yêu mà không có hành động để minh chứng, chỉ là giả dối, môi miệng. Mong chờ Chúa đến, tìm kiếm niềm vui giáng sinh, nhưng hang đá lòng mình còn bề bộn, thiếu sự chuẩn bị, có khác gì bạn đang tìm kiếm niềm vui thế gian ? Kinh nghiệm cho thấy: giá lạnh đêm đông đối với cảnh nghèo đã là khổ rồi, tình người bị quên lãng, bị chối bỏ, dù sống cũng như chết, nói chi là khổ đau ! Con Thiên Chúa đến trần gian trong thân phận em bé, đó là niềm tin, Con Thiên Chúa sinh ra nơi máng cỏ hang lừa, đó là lúc tự do tình người sử dụng thiếu chuẩn mực. Xin Hài Nhi Giêsu là Ánh Sáng đã đến thế gian: thức tỉnh, mở lòng, sưởi ấm chúng con. Amen.

Về mục lục

.

NIỀM VUI VÀ AN BÌNH

Gm Giuse Vũ Văn Thiên
 .
Lời Chúa trong ba thánh lễ: thánh lễ Đêm, thánh lễ Rạng đông và thánh lễ Ban ngày đều nhấn mạnh tới chủ đề Niềm vui và an bình. Biến cố Thiên Chúa làm người không chỉ là niềm vui của một nhóm nhỏ những người được chứng kiến, cũng không chỉ là niềm vui của dân tộc Do Thái, là niềm vui của toàn dân (Lc 2,10). Vì thế mà ngôn sứ Isaia muốn hét to lên để loan truyền cho tới tận cùng trái đất rằng ơn cứu độ đang tới. Cảnh hoang tàn sầu khổ và thân đơn goá bụa đã chấm dứt. Không còn nước mắt nữa, bù vào đó sẽ là niềm vui. Niềm vui này lan toả đến mọi tâm hồn, nhất là với những ai thành tâm thiện chí. Không vui sao được, khi được chứng kiến Chúa can thiệp và lật đổ những kẻ quyền thế hùng mạnh, những chiếc áo choàng đẫm máu đào sẽ bị đốt đi (Bài đọc I). Chiến tranh sẽ không còn và thay vào đó là vương quyền của Vua Hoà bình, từ nay sẽ lãnh đạo thế giới bằng tình thương và lòng nhân hậu.
 
Ngày Chúa đến là ngày hân hoan vui mừng, cũng là ngày khai mở kỷ nguyên hoà bình. Ý tưởng an bình được nhắc tới rải rác trong các bài đọc Thánh Kinh. Trước hết bình an đến từ trời cao, vì Đấng Cứu thế từ trời xuống thế để đem bình an cho nhân loại. Bình an còn đến từ trần thế, nơi những tấm lòng chân thành rộng mở để đón Chúa. Đức Maria, Thánh Giuse, các mục đồng ở Belem, họ là những người trước hết đã góp phần tạo nên đêm bình an kỳ diệu ấy. Hài Nhi mới sinh say sưa trong giấc điệp, Bà Maria và Ông Giuse chiêm ngắm tôn thờ, các mục đồng cung kính suy tôn. Đó là khung cảnh bình an tuyệt diệu, như thiên đàng nơi trần thế. Đất với trời “xe chữ đồng”, cùng gặp gỡ nhau để rồi không bao giờ xa nhau nữa, vì Con Thiên Chúa là trung gian nối kết giữa trời với đất, như chiếc cầu nối hai bờ của một dòng sông để nhờ cây cầu ấy mà mọi người qua lại trong tình thân thiện.
 
Trong niềm vui và an bình ấy, Phụng vụ mời gọi chúng ta suy tư: Đấng Cứu thế là ai vậy? Thánh Gioan trả lời: Người là Ngôi Lời của Thiên Chúa (Tin Mừng lễ Ban ngày). Đức Giêsu không chỉ là con người, mà còn là Thiên Chúa. Thánh Gioan đã tìm đến tận nguồn gốc thiên linh của Người. Người là Ngôi Lời hằng hữu, hiện diện bên Chúa Cha từ thời sáng tạo. Người không phải là một tạo vật, nhưng là Thiên Chúa và đồng bản thể với Chúa Cha. Người có từ trước muôn đời. Phụng vụ muốn chúng ta xác tín giáo huấn này, để khi đến chiêm ngưỡng Chúa Hài Đồng tại hang đá máng cỏ, chúng ta vượt lên những dấu chỉ khả giác bề ngoài để tôn thờ Thiên Chúa, Đấng đã xuống đời để cứu chuộc chúng ta.
 
Con Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận con người và đến trần gian cách đây hơn hai ngàn năm. Có rất nhiều người đã mở rộng tâm hồn đón Chúa, và họ được ánh sáng của Người chiếu soi. Tuy vậy, suốt bề dày lịch sử, cũng có những người khước từ lời mời gọi đón Chúa, thậm chí phủ nhận sự hiện diện của Người. Thánh Gioan đã nhắc lại một sự thật nghiệt ngã: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Để đón Chúa, mỗi chúng ta phải can đảm vượt lên chính mình, phải để cho ánh sáng của Chúa chiếu soi những góc khuất trong tâm hồn. Đón Chúa đến trong đời cũng như người can đảm chấp nhận uống những liều thuốc đắng, nhưng có thể chữa khỏi mọi bệnh hoạn tật nguyền. Những ai đón nhận Chúa, Người sẽ ban cho họ niềm vui, nhất là được quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ sẽ tìm được sự bình an đích thực, từ trong nội tâm và tồn tại vững bền.
 
Hơn hai ngàn năm đã qua, biến cố Giáng Sinh vẫn được long trọng cử hành, như điểm mốc khởi đầu của kỷ nguyên mới. Chính Chúa Giêsu là trung gian của lịch sử. Người đến để đem cho con người niềm vui và an bình. Ai đón nhận người sẽ tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời. Nhờ giáo huấn của Người mà con người sẽ trở nên “người” hơn trong mối tương quan với đồng loại. Chúa Giêsu dạy chúng ta: người với người không phải là thù địch hay lang sói, nhưng là anh chị em với nhau và có cùng một Chúa là Cha.
 
Niềm vui và an bình khởi đi từ Hang Đá Máng Cỏ Belem năm xưa và nay đang được tỏa lan đến mọi miền thế giới, đến với mọi người, mọi nhà. Ước mong mỗi Kitô hữu, khi mừng lễ Giáng Sinh, đều cảm nhận được niềm vui và an bình, như quà tặng mà Con Thiên Chúa mang đến cho trần gian. Không chỉ thế, người tin Chúa còn được mời gọi trở nên những sứ giả đem niềm vui và an bình đến mọi nẻo đường của cuộc sống, để rồi qua lời nói và những nghĩa cử tốt lành, họ làm toả hương thơm của tình Chúa tình người. Đó là những chứng từ mạnh mẽ và hiệu quả về sự hiện diện của Con Thiên Chúa giữa trần gian.Xin Chúa cho chúng ta được hưởng trọn vẹn niềm vui và an bình của ngày lễ Giáng Sinh. Amen.

Về mục lục

.

PHÉP MẦU ĐÊM ĐÔNG

Lm. Jos. DĐH.

Có những khổ đau tưởng chừng không vượt qua nổi: vợ chồng ly biệt, cha mẹ đầu bạc tiễn người tóc xanh, cho dù họ đã ý thức, sau cơn mưa trời lại nắng. Có những giọt nước mắt tuôn trào vì sung sướng, lại không hiếm gặp những giọt lệ rơi vì tủi thân tủi phận, dẫu biết rằng, cả một đời người sống trong nhung lụa, hoặc ngán ngẩm kiếp nghèo đeo đẳng, kết thúc đời người chỉ là ba tấc đất. Không phải người nghèo, người đau khổ mới chờ mong phép mầu, đâu phải chỉ nơi bệnh viện, trạm xá, mới là nơi lý tưởng để bậc cha mẹ sinh con vàng con ngọc. Đêm đen thì sợ hãi, đêm đông thì lạnh lẽo, đêm cô đơn lại dễ tuyệt vọng, chỉ có đêm an bình, người ta mới đủ cảm nhận đó là phép mầu tình yêu thương.

Nếu có một chút ưu tư, người ta sẽ không khỏi thắc mắc tại sao có sự bất bình đẳng, kẻ ăn không hết người lần không ra ? Vì sao có sự chênh lêch giữa kẻ thông thái uy quyền và người khờ khạo dân đen hay bị phân biệt đối xử ? Cuộc sống có quá nhiều phức tạp, biết bao bế tắc cần được tháo gỡ cho thông thoáng, rất nhiều rạn nứt cần được hàn gắn, biết bao người tính khí hung hăng ích kỷ, cần được biến đổi. Người thận trọng sẽ chờ đợi tướng tài, tướng giỏi, xuất hiện nhằm xua đuổi những khổ đau bất trắc. Người quá tự tin sẽ tự mình tìm cách giải quyết khó khăn. Chỉ những ai đặt niềm tin vào Thiên Chúa, người ấy mới trông chờ quyền năng của phép mầu cứu độ.

Phép mầu đêm đông không phải là một tập hợp sức mạnh binh pháp, phép mầu đêm đông sẽ không giống như đôi đũa thần trong truyện cổ tích, họ giải gỡ mọi bí ẩn cuộc đời bằng quyền phép của đũa thần. Phép mầu đêm đông dẫn dắt những tâm hồn thành tâm thiện chí đến bên hang đá Belem, chính phép mầu giúp cho người người bình an, họ xem thấy, họ hiểu tình người giáng sinh là Thiên Chúa ở giữa nhân loại. Đêm hôm nay có khác đêm hôm qua không, khung cảnh và thời gian không giống nhau, được vui hay còn buồn là tuỳ tâm tư của mỗi người đã chuẩn bị, đã cộng tác làm cho phép mầu của đêm đông thực sự có ý nghĩa cho hành trình sống đức tin của mình.

Phép mầu đêm đông đang thực sự ấm lên với nhiều hoạt động khác nhau, nhiều món quà bất ngờ đã đến với người nghèo, nhiều niềm vui xí xoá đi những giận hờn trong tình yêu đôi lứa. Ngay tại ngôi thánh đường của chúng ta đây, không có lệnh kiểm tra dân số, nhưng tiếng loa của các thiên thần vẫn vang lên trong tâm trí, thức tỉnh lòng người cùng hướng tới việc thờ lạy Hài Nhi Giêsu. Phép mầu đêm đông sẽ còn sống động với những lý lẽ rất linh thánh: tài giỏi chớ khoe khoang, giầu sang đừng kênh kiệu. Các mục đồng là những thành phần lam lũ với đàn súc vật ngoài đồng, ấy vậy họ đã vinh dự được các thiên thần mang đến tin vui, mời gọi họ đến nơi Belem.

Phép mầu đêm đông sẽ mãi mãi chỉ là câu hỏi tại sao, đối với những ai sử dụng tài trí của mình để khám phá tính cao đẹp của tình yêu giáng sinh. Phép mầu đêm đông sẽ toả sáng hơn với tất cả những tâm hồn đã chuẩn bị trong bốn tuần vừa qua, ít nhiều gì thì họ cũng gặp gỡ được niềm vui bình an như các mục đồng rất thành tâm thiện chí. Ngày hôm nay, trong gia đình người mang lại nhiều kinh tế là người nắm giữ quyền lực, ngoài xa hội, người giầu sang địa vị là người có tiếng nói mạnh mẽ hơn, như thế bình đẳng vẫn chỉ là lý htuyết. Nếu như tục ngữ có câu: người tài giỏi khó chơi, người ươn lười khó thuyết phục, thì quả thật, phép mầu đêm đông vẫn đang phải hoạt động hết công suất để phủ lấp cả người tài giỏi, người ương bướng và cả người đặt tin tưởng vào tình yêu Chúa.

Phép mầu đêm đông mà các mục đồng cảm nhận đó là thông điệp yêu thương, niềm vui và chia sẻ. Con Thiên Chúa đến trần gian trong thân phận một em bé, dù người nghèo đến thờ lạy, người mục đồng loan tin vui, nhưng phép mầu đó vẫn giá trị đến khắp mọi miền thế giới. Phép mầu đêm đông mà Hài Nhi Giêsu sẽ còn nói với nhân loại đó là Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế. Người đời mong đợi phép mầu vật chất, phép mầu tinh thần, nhưng người kitô hữu lại mơ ước phép mầu niềm vui ơn cứu độ. Phép mầu đêm đông sẽ còn vang vọng mãi, nhất là khi mỗi người cùng đồng lòng, đồng sức, góp phần xây dựng nền hoà bình yêu thương theo thánh ý Chúa. Amen.

Về mục lục

.

TÌNH YÊU NHẬP THỂ

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Đêm nay là đêm vui nhất trong Giáo Hội Công giáo chúng ta, cũng là đêm linh thiêng nhất, vì đêm nay Giáo hội loan báo tin vui cho toàn thể nhân loại, cho mọi người và từng người: “Hôm nay, Ðng Cu Thế đã giáng sinh cho chúng ta” (đáp ca).

Nghe lại những lời trên của Thiên Thần báo cho các mục đồng tuy xa xưa những vẫn luôn mới mẻ trong đêm nay, giúp chúng ta sống lại bầu khí linh thiêng của Ðêm Thánh, Ðêm mà cách đây 2017 năm tại Bêlem, Con Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại đã thân hành xuống thế, giáng sinh làm người giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi, và cư ngụ giữa chúng ta. Đây là cuộc hòa mình của Thiên Chúa vào trong lịch sử nhân loại.

Hôm nay, Ðng Cu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”. Đây là lời loan báo vang vọng trong đêm đen cho những ai đang tỉnh thức, như các mục đồng tại Bêlem; Lời ấy vang lên cho những ai đã sống theo đòi hỏi của Mùa Vọng và một khi đã tỉnh thức trong đợi chờ, sẵn sàng tiếp nhận sứ điệp của niềm vui, được hát lên trong Thánh lễ đêm nay.

Khi nghe những lời trên Giáo hội hết sức vui mừng, niềm hy vọng dâng trào và đức tin được củng cố. Noel là lễ Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, gần gũi với con người, đã từ bỏ tất cả vì chúng ta. Con Trẻ nằm trong máng cỏ là Thiên Chúa thật. Thiên Chúa không hiện hữu đơn độc, nhưng là một cộng đoàn Ba Ngôi, với tình yêu hỗ tương trong sự cho đi và nhận lại. Ngài là Cha, Con và Thánh Thần. Hài Nhi Giêsu không chỉ biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại, nhưng còn hiến mạng vì chúng ta, mà không đòi hỏi một đặc quyền nào hết. Thánh Iréné khi suy niệm về Mầu Nhiệm Nhập Thể của Chúa Con đã viết : “Thiên Chúa làm người đ con người được tr nên thiên chúa”.

Chúa Cha đã yêu thương nhân loại đến nỗi trao tặng Người Con Một, Người Con ấy là Ân Sủng của Thiên Chúa, đem ơn cứu độ đến trần gian (x. Tt 2, 11 ), là Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta. Cuộc giáng sinh diệu kỳ của Con Một Chúa đã đánh dấu bước điểm khởi đầu mới của lịch sử. Ngôi Lời đã nhập thể vì chúng ta và sống giữa chúng ta. Nơi bàn tiệc Thánh Thể mỗi ngày có sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa ở giữa chúng ta.

Nếu xưa kia tại Bêlem, các thiên thần ca hát, hôm nay đây chúng ta vẫn cùng với các Thiên Thần và Tổng Lãnh Thiên Thần hát ca mỗi lần dẫn vào mầu nhiệm Thánh Thể : “Thánh! Thánh! Thánh! Chúa Thiên Chúa các đo binh !

Trong đêm cực thánh này, Chúa Kitô đã từ trời cao sinh xuống giữa chúng ta. Ngôi Lời nằm khóc trong máng cỏ, được gọi là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa cứu độ “bi vì Ngài s cu dân Ngài khi mi ti li” (Mt 1,21). Không phải trong một lâu đài mà Ðấng cứu chuộc sinh ra, nhưng trong một chuồng loài vật; và sống giữa chúng ta. Người sinh xuống trần gian, từ cung lòng của một Người Nữ được chúc phúc hơn mọi nguời nữ; Người là Con Ðấng Tối Cao, sự giáng sinh của Người đã làm cho chúng ta được ơn cứu rỗi.

Quả thật, khi chiêm ngắm liên lỉ dung mạo của Chúa Giêsu, chúng ta khám phá được rằng, tình yêu của Thiên Chúa là chung kết và tối thượng, nghĩa là ở ngay từ một Hài Nhi bé bỏng đã mang đến cho chúng ta một tình không bao giờ vơi cạn. Tình yêu ấy chấp nhận bước vào cuộc đời này trong một thân phận không thể thấp hèn hơn được nữa, để những ai trong Đêm Giang Sinh dù không có một mái nhà, dù đang đau khổ vì tình yêu bị phản bội, khổ đau vì bị con cái hắt hủi thì nhìn vào mái ấm gia đình ở nơi hang đá vẫn cảm thấy trong cuộc đời này có ai đó đồng cảm và thông cảm được với mình.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con chiêm ngắm Chúa, xin hãy làm cho chúng con trở nên những chứng nhân của tình yêu Chúa, tình yêu đã thôi thúc Chúa cởi bỏ vinh quang Thiên Chúa, để sinh ra sống giữa con nguời và chịu chết vì chúng con.

  Xin hãy làm cho ánh sáng của đêm nay, sáng hơn ban ngày, chiếu sáng trên tương lai và hướng dẫn những bước tiến của nhân loại trên con đường Hòa Bình.

 Lạy Chúa, Chúa Giêsu, Hoàng Tử Bình An, Ðấng Cứu Chuộc nhân loại, đã giáng sinh vì chúng con, xin thi ân giáng phúc cho chúng con! Amen.

Về mục lục

.

AI THỰC SỰ MỪNG LỄ GIÁNG SINH

Lm JB. Nguyễn Minh Hùng 

Chắc bạn cùng đồng ý với tôi khi nói: Đêm mừng Chúa giáng sinh trở thành đêm hội của mọi người và của thế giới. Tôi thấy đường đi đông quá: người đi xe, kẻ đi bộ nườm nượp. Tôi cũng để ý, nét mặt mọi người đều ánh lên vẻ vui tươi, hân hoan. Hình như đêm nay ít người ở trong nhà, nhưng người ta ra khỏi nhà nhiều hơn. Rõ ràng, Giáng sinh trở thành đêm hội của mọi người. Chắc bạn cũng như tôi đều hãnh diện vì lễ Giáng sinh không chỉ là lễ của người có đạo mà nó là lễ của mọi người. Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người đã được mọi người biết đến. Thế nhưng trong niềm hãnh diện đó, tôi lại cảm thấy một cái gì băn khoăn, ray rứt, xót xa. Chính lời thiên thần hát trong đêm giáng sinh làm tôi phải âu lo. Âu lo không vì thiên thần hát, cũng không phải vì lời hát của thiên thần. Lời ấy làm cho lòng tôi thêm yêu mến và thánh thiện. Có thể bạn sẽ cho tôi là bi quan. Tôi lo vì nhìn vào thực tế, nhận ra sự vô tâm của nhiều người. Lời của thiên thần hát là lời gì? Thiên thần hát rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Đêm nay có bao nhiêu tâm hồn làm vinh danh Thiên Chúa? Và nếu hiểu “thiện tâm” là thành tâm thiện chí thì có bao nhiêu người thành tâm thiện chí tôn thờ Chúa để được bình an vì đại đa số nhân loại đã làm mất ý nghĩa của lễ Giáng sinh? Thay vì kỷ niệm Ngôi Hai nhập thể làm người, để hướng tâm hồn chuẩn cho ngày Người trở lại, người ta biến đêm hội giáng sinh thành đêm của ăn chơi sa sỉ. Đêm nay biết bao nhiêu nhà hàng vũ trường mở rộng để đón khách, và sẵn sàng mở mọi dịch vụ để chìu chuộng khách, dù cho có những dịch vụ hết sức đê hèn. Biết bao nhiêu tụ điểm vui chơi đang hoạt động rầm rộ. Chúng ta nghĩ đến Palextina mà cảm thấy ngậm ngùi. Thành phố Bêlem, nơi Đấng Cứu Thế đã từng cất tiếng khóc đầu tiên, đêm giáng sinh lại không thể sống trong hòa bình. Trên chính quê hương của Chúa Giêsu, nơi mà hai ngàm năm trước, Người đã sinh ra, lớn lên. Và Tin mừng được rao giảng cho cả thế giới cũng khởi đi từ đất nước này, khi mà cả thế giới nô nức tưởng niệm Chúa Giêsu sinh ra, Palextin lại chìm trong chiến tranh. Người ta đang giết hại lẫn nhau. Và một khi bức tường ngăn cách được dựng lên, sự xích mích vốn không thể làm hòa từ bấy lâu nay, lại càng đào sâu thêm chia rẻ, giết chóc và thù hận. Khúc hát thiên thần: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” không có được trên chính quê hương của Chúa Giêsu.  Biết bao nhiêu tụ điểm ca nhạc, có thể là những bài ca rất Giáng sinh, ca ngợi Thiên Chúa. Nhưng những ca sĩ và những người nghe những bài hát đó có được một tâm hồn ca ngợi Thiên Chúa không, hay chỉ là một thứ vui chơi nào đó? Biết bao nhiêu chàng trai cô gái ra khỏi nhà để vui đêm hội Giáng sinh? Và trong dòng người trẻ đó, chắc hẳn có rất nhiều thanh niên nam nữ có đạo đánh đổi việc thờ phượng Thiên Chúa bằng những thú vui vô giá trị mà những người không có niềm tin đang say mê? Và có biết bao nhiêu chàng trai cô gái choi choi, ào ra đường bằng những chiếc xe phân khối lớn để lạng lách, để đua xe hết tốc độ, để rồi gieo không biết bao tai họa? Nếu đêm Chúa sinh ra – đêm hội Giáng sinh là dịp để người lao động vất vả, cả lương lẫn giáo có thời gian nghỉ ngơi, có dịp vui chơi giải trí lành mạnh, đêm mà mọi người tạm quên đi những gánh nặng, những lo âu của cuộc đời vốn đã có quá nhiều đắng cay. Nếu đêm hội Giáng sinh làm cho người ta hạnh phúc như vậy, thì nó mới đúng ý nghĩa của mầu nhiệm Chúa làm người. Cách riêng, đối với người Công giáo, đêm Giáng sinh phải là đêm đặc biệt của việc tôn thờ Thiên Chúa. Đêm kính nhớ tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. Chính nhờ tình yêu này, mà Chúa Giêsu đã giáng sinh làm người, chia sẻ kiếp người của mỗi chúng ta. Có tôn thờ Thiên Chúa thật lòng như thế, thì Thiên Chúa trên trời mới được vinh danh trong tâm hồn của mỗi người. Và tâm hồn chỉ dành cho Thiên Chúa mà thôi, tâm hồn mới có bình an. Tin rằng bạn và tôi là những người thành tâm, thiện chí tôn thờ Thiên Chúa. Xin hãy tạm quên những lo toan, những vất vả hằng ngày. Hãy tạm gác lại một bên những gì làm chúng ta xôn xao, chia trí, gác lại một bên cái nghèo, cái khổ của cuộc đời để bạn và tôi thực sự được bình an trọn vẹn trong thánh lễ này. Có như vậy, chúng ta mới dâng thánh lễ Giáng sinh, thờ phượng Thiên Chúa cách sốt sắng và ý nghĩa. Xin kính chúc mọi người một đêm an bình, vì chúng ta là những người thiện tâm, đúng như lời thiên thần hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm”.

Về mục lục

.

ĐÊM THÁNH – ĐÊM CHAN HÒA ÁNH SÁNG

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Có rất nhiều người thuộc các tôn giáo bạn thường hay thắc mắc: “Tại sao lễ Giáng Sinh lại được cử hành vào ban đêm?” Khi mừng lễ như vậy liệu có tính lịch sử không?”.

Thực ra thời khắc Con Thiên Chúa hạ sinh không đề cao ý nghĩa và giá trị lịch sử cho bằng ý nghĩa thần học, thiêng liêng của ngày lễ.

Vì thế, khi cử hành lễ Giáng Sinh vào đêm ngày 24, rạng sáng ngày 25, Giáo Hội muốn làm nổi bật lên vai trò và sứ mạng của Đấng Thiên Sai, vì Ngài là: “Ánh Sáng đến để chiếu soi nhân loại”.

 

1.         Ánh sáng tách lìa bóng tối

Khi nói đến ánh sáng trong lịch sử cứu chuộc, chúng ta thấy nó xuất hiện ngay từ thủa nguyên sơ bình minh của nhân loại. Sách Sáng Thế đã cho thấy rõ vai trò của ánh sáng khi ánh sáng xuất hiện trong công cuộc tạo dựng.

Lúc ban đầu, mọi sự còn trong tình trạng hỗn mang, nhưng khi ánh sáng hiện hữu, tức thì một lằn ranh giữa ánh sáng và bóng tối xuất hiện. Nhờ vào ánh sáng, mọi vật được quang hợp và nhờ đó mà có sự sống. 

Sau khi sáng tạo trời đất và con người, Thiên Chúa đã dùng ánh sáng để phân biệt ngày và đêm cũng như để cho con người được sống trong ánh sáng. 

Như vậy, tác giả sách Sáng Thế cho thấy: ánh sáng được biểu trưng cho sự sống. Còn bóng tối là hình ảnh của sự chết. 

Tuy nhiên, vì bóng tối là hình ảnh của sự chết, nên nó đối lập với ánh sáng là biểu tượng của sự sống! Vì vậy, nó đã không ngừng len lỏi vào trong tâm khảm của con người, khiến con người hướng chiều về nó và muốn thoát ra khỏi ánh sáng để mong ước đạt được một cái gì đó tốt đẹp hơn hiện tại! 

Chính vì sự yếu đuối và ngộ nhận này mà Nguyên Tổ của chúng ta là Ađam và Evà đã đi theo bóng tối và có một sự khát khao cuồng tín rằng: khi đã thoát ra khỏi ánh sáng thì sẽ được ngang hàng với Đấng Tạo Hóa là nguồn Ánh Sáng. 

Nhưng sự hoang tưởng này đã không đem lại cho ông bà như ý muốn, mà cả hai đã nhận một cái kết đầy đắng cay, đó là: bị Thiên Chúa trừng phạt và đẩy lùi về với bóng tối khi Người đập tan ý định kiêu ngạo, phá ta niềm hy vọng hão huyền, và đã đuổi ông bà ra khỏi Vườn Địa Đàng là nơi đầy ánh sáng và bình an. Cũng kể từ đó, ông bà không được hưởng hạnh phúc thủa ban đầu, không còn tình nghĩa với Đấng dựng nên mình và cũng kể từ đó, Thiên Chúa đã đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng loé, để canh giữ đường đến cây trường sinh (x. St 3,24). 

Cứ thế, trong suốt giai đoạn Cựu Ước, dân chúng đã lầm lũi bước đi trong bóng tối của sự chết. 

Đây chính là thảm họa buồn mà nhân loại phải lãnh nhận do Nguyên Tổ loài người gây ra. 

Trước thực trạng ấy, dân mong chờ ánh sáng biết chừng nào! Họ mong chờ một nguồn ánh sáng đến để giải cứu họ thoát khỏi bóng tối tử thần, thoát khỏi sự đau khổ, chết chóc và thân phận nô lệ đắng cay.

 

2.         Đức Giêsu là Ánh Sáng chiếu soi thế gian 

Niền hy vọng của họ đã thấu tới trời cao và đã được Thiên Chúa xót thương khi sai Con của Người xuống thế là Đức Giêsu Kitô. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã thực thi sứ vụ Thiên Sai trong vai trò giải thoát và chiếu giãi Ánh Sáng vào trong bóng đêm tội lỗi. 

Đây là niềm vui mừng khôn xiết, vì: “Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết”; “Họ sẽ vui mừng trước nhan Chúa, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt lúa, như những người thắng trận hân hoan vì chiến lợi phẩm, khi đem của chiếm được về phân chia. Vì cái ách nặng nề trên người, cái gông nằm trên vai, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Mađian” (x. Is 9, 1-3). 

Như vậy, khi mừng sinh nhật của Đức Giêsu vào lúc nửa đêm, lúc mà ngày cũ đã chấm dứt và nhường chỗ cho một ngày mới bắt đầu, Giáo Hội muốn làm toát lên ý nghĩa cũng như giới thiệu cho mọi người biết rằng: Đức Giêsu chính là Ngày Mới của Thiên Chúa. Ngày Mới này tràn ngập ánh sáng như thủa ban đầu. 

Cuộc hạ sinh của Đức Giêsu cũng được ví như một cuộc tạo dựng mới. Một cuộc tạo dựng hoàn toàn tinh tuyền không vướng nhơ tội lỗi bởi một người Mẹ là Đức Maria đồng trinh, bởi một vị cha nuôi là thánh Giuse – Đấng Công Chính, và trên hết, Đức Giêsu xuất phát từ “Ánh sáng bởi Ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật” (Kinh Tin Kính). 

Chính vì lẽ đó mà Đức Giêsu đã khẳng định: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12).

 

3.         Đón nhận và bước đi trong Ánh Sáng

Đi theo ánh sáng hay sống trong bóng tối? Đây là câu hỏi muôn thủa được đặt ra cho chúng ta. Đây cũng là thách đố đầy cam go và kịch tính mà ai ai cũng phải đối diện trong đời sống thường ngày. 

Chính vì thấu hiểu sự giằng co này mà thánh Gioan đã phải thốt lên: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). 

Đây là câu chuyện buồn của hơn 2000 năm qua. Đây cũng là sự giằng co nội tâm của mỗi người chúng ta. Một cuộc nội chiến không ngừng diễn ra ngay trong nội tại của mỗi người. 

Chính vì vậy, đã biết bao lần, chúng ta không ngừng chiến đấu để mình thuộc về Ánh Sáng và đẩy lui bóng tối ra khỏi cuộc đời mình. Tuy nhiên, bóng tối bao giờ cũng hấp dẫn và ánh sáng bao giờ cũng là kẻ thù của bóng tối, vì thế, lằn ranh giữa ánh sáng và bóng tối rất mong manh, khiến cho biết bao người đã ngã quỵ trước ma lực của bóng tối. 

Đứng trước thách thức đó, thánh Phaolô đã mời gọi chúng ta: “… phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (Tt 2, 12- 13). Thi hành điều đó, ấy là chúng ta đang đi trong ánh sáng của đường lối cứu chuộc mà Đức Giêsu đã đem lại cho nhân loại. Đồng thời cũng trở thành con người xứng đáng với tước vị làm Con Thiên Chúa (x. Ga 1,12). 

Tuy nhiên, tin và bước theo Ánh Sáng không thôi thì chưa đủ, mà phải trở thành ánh sáng soi đường cho người khác để họ cũng được hưởng niềm vui do ánh sáng đem lại như lời Đức Giêsu đã nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”; và: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời” (Mt 5, 14.16). 

Vậy ánh sáng của chúng ta là gì? Thưa! Ánh sáng của chúng ta chính là một đời sống đạo chân thành; một mối tương quan thật thà thẳng thắn; lương thiện trong công việc; khiêm nhường trong cuộc sống; bác ái, yêu thương, liên đới với người nghèo…. Những đức tính này giúp ta và anh chị em của mình vượt ra khỏi bóng tối là sự ích kỷ, kiêu ngạo, bảo thủ, ghét ghen, dửng dưng, vô cảm, gian dối, thất tín…. 

Mong sao mỗi khi mừng lễ Giáng Sinh, chúng ta hãy khao khát cho mình được thuộc về Ánh Sáng để được cứu độ. Đồng thời cũng không ngừng khát khao loan truyền Ánh Sáng sự sống ấy cho mọi người chung quanh bằng chính cuộc sống gương mẫu của mình. Amen.

Về mục lục

.

LOAN BÁO TIN MỪNG GIÁNG SINH THẾ NÀO?

Lm. Đan Vinh

  1. LỜI CHÚA: “Này tôi báo cho anh em một Tin mừng trọng đại, cũng là Tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Vua Đa-vít. Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa” (Lc 2,10-11).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) CHÚA CỨU THẾ ĐÃ GIÁNG SINH CHO CHÚNG TA:

Ở nước Nga thời trung cổ, có một hoàng tử tên là A-lếch-xích (Alexis) có lòng bác ái yêu thương những người nghèo khổ bệnh tật. Mỗi ngày hoàng tử dành nhiều thời giờ đến thăm hỏi và sẵn sàng rộng tay giúp đỡ những ai cần được trợ giúp. Có điều lạ là hoàng tử thấy dân chúng lại tỏ vẻ dửng dưng và thờ ơ khi thấy chàng đến thăm. Về sau hoàng tử được biết sở dĩ dân chúng không mấy phấn khởi khi gặp chàng vì chàng không đáp ứng được các nhu cầu thực tế của họ. Từ đó hoàng tử A-lếch-xích tìm cách giúp dân chúng cách thiết thực hơn.

Sau một thời gian, một hôm dân chúng lại thấy một người ăn mặc đơn sơ đến thăm họ. Anh ta thuê một túp lều trong hẻm sâu làm nơi trú ngụ. Hàng ngày anh đến từng nhà và khám bệnh bốc thuốc miễn phí cho các người nghèo. Chẳng bao lâu sau, anh ta gây được thiện cảm của mọi người chung quanh. Uy tín anh ngày một gia tăng khiến nhiều người nghe tiếng đã tìm đến nhờ anh giúp đỡ giải quyết những khó khăn đang gặp phải. Hôm nay anh dàn xếp được một cuộc tranh chấp đất đai giữa hai gia đình. Hôm sau, anh lại làm cho một đôi vợ chồng sắp ly hôn làm hòa với nhau và yêu thương nhau như trước. Anh động viên mọi người tương trợ lẫn nhau và nhờ đó ai cũng yêu mến anh vì anh đã hy sinh tận tình giúp đỡ cho họ.

Thật ra ông thầy lang ấy chính là hoàng tử A-lếch-xít. Hoàng tử đã rời bỏ cung điện phú quí, đến sống giữa đám dân nghèo đói dốt nát, và hòa mình với họ. Về sau khi biết được ông thầy lang chính là hòang tử A-lếch-xít hóa thân thì dân chúng lại càng quý trọng hòang tử gấp bội.

Hoàng tử A-lếch-xít trong câu chuyện trên là hình ảnh của Đức Giê-su Đấng Cứu Thế. Người đã giáng sinh trong cảnh nghèo hèn để chia sẻ cảnh nghèo khổ với lòai người chúng ta. Người đã yêu thương chúng ta và tình nguyện xuống trần gian để ban lại cho chúng ta sự sống đời đời.

2) NGƯỜI VỐN DĨ VÔ TỘI NHƯNG ĐÃ TRỞ THÀNH TỘI NHÂN VÌ CHÚNG TA:

Một vị quan lớn gửi thiệp mời các người thân quen đến dự tiệc mừng sinh nhật thất tuần của ông. Tất cả quan khách đến dự buổi liên hoan đều ăn mặc sang trọng và có xe ngựa sang trọng đưa rước. Một vị quan cao tuổi là bạn chí thân của quan chủ tiệc cũng đến dự. Do già yếu nên khi bước xuống xe, chẳng may ông bị trượt chân té xuống một vũng nước dơ khiến các gia nhân gần đó đều cười ồ lên. Trước tình trạng quần áo bị hoen ố nước dơ, vị quan cảm thấy xấu hổ trước trăm con mắt đang nhạo cười mình và quyết định lên xe ra về. Viên quản gia hiện diện đã đến năn nỉ hết cách mà vị quan kia nhất định không vào trong nhà dự tiệc. Bấy giờ chủ nhà được gia nhân cấp báo liền vội vàng chạy tới. Khi ngang qua vũng nước, ông lại cố tình té ngã vào vũng nước và quần áo ông cũng vấy bẩn không khác vị quan khách kia bao nhiêu. Lần này bọn gia nhân không ai còn dám cười nữa. Sau đó chủ nhà đã nắm tay vị khách quý mời vào phòng dự tiệc, và ông này không còn viện lý do gì để từ chối nữa.

Việc làm của chủ nhà trong câu chuyện trên là hành động tế nhị và đầy tình người, khiến chúng ta hiểu được phần nào lý do tại sao Đức Giê-su vốn là Con Thiên Chúa nhưng lại hạ mình xuống làm một phàm nhân. Người đã trở nên giống như chúng ta để ban ơn cứu độ cho chúng ta.

  1. SUY NIỆM:

1) ĐÊM THÁNH VÔ CÙNG:

– Vào dịp lễ Giáng Sinh, chúng ta lại được nghe những bài hát du dương thánh thót có khả năng lay động lòng người, nhất là bài SAI-LÂN NAI, HÔ-LI NAI (Silent Night, Holy Night), lời Việt là “Đêm Thánh vô cùng, giây phút tưng bừng”. Quả thực, đêm Giáng Sinh thật là một Đêm thiêng liêng, vì là giờ phút linh thiêng, đất trời hòa hợp nhờ việc Con Thiên Chúa giáng sinh làm người. Mùa Vọng là thời gian trông mong Đấng Cứu Thế đến. Hôm nay, Thiên Chúa đã đáp lại sự mong mỏi của nhân loại bằng việc sai Con Một xuống thế làm người, đầu thai trong lòng Trinh Nữ Ma-ri-a, trở thành một con người “giống như chúng ta mọi đàng, chỉ trừ không có tội” (Dt 4,15).

– Làm sao hiểu được chuyện đó ? Làm sao Thiên Chúa lại trở thành một phàm nhân yếu đuối nghèo nàn ? Làm sao Đấng Vô Cùng lại có thể trở thành một con người hữu hạn ? Làm sao Đấng siêu thời gian lại đi vào trong thời gian và chịu sự chi phối của thời gian ? Làm sao Đấng Tạo Hóa hằng sống lại phải trở thành một loài thụ tạo hay chết ? Tóm lại: Tại sao Thiên Chúa lại giáng sinh làm người ? Chúng ta chỉ có thể trả lời rằng: Tất cả là do Tinh Thương.

2) GIÁNG SINH LÀ LỄ CỦA TÌNH THƯƠNG:

– Vì yêu thương loài người chúng ta và vì muốn cứu độ chúng ta, Con Thiên Chúa đã xuống thế để ở cùng chúng ta, để dạy loài người chúng ta nhận biết Đấng tạo dựng nên mình và mở ra cho loài người một con đường sống, để về trời hưởng hạnh phúc với Chúa Cha. Chúa Giê-su đã thể hiện tình thương của Thiên Chúa bằng việc thiết lập một Nước Trời là Hội Thánh, và đã chịu chết trên cây thập giá để đền tội thay cho loài người, rồi sống lại để trả lại sự sống cho loài người. Tóm lại đêm nay kỷ niệm “Con Thiên Chúa giáng trần làm con loài người, để con loài người được nên Con Thiên Chúa”.

– Như thế, lễ Giáng Sinh là lễ của tình thương. Tin mừng trong ngày lễ Giáng Sinh hôm nay công bố sứ điệp: Thiên Chúa yêu thương loài người nên đã sai Con Một xuống thế để công bố cho loài người biết tình thương bao la của Thiên Chúa. Người muốn chúng ta đáp lại tình thương của Ngài bằng việc yêu mến Ngài và yêu thương nhau.

3) DẤU CHỈ NHẬN BIẾT ĐẤNG THIÊN SAI LÀ SỰ NGHÈO KHÓ:

– Chúa Giáng Sinh là một Tin mừng cho mọi người thiện tâm trên trần gian. Dấu chỉ để các mục đồng nhận ra Người là “Một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”.

– Các mục đồng sau khi được thiên thần báo tin đã lập tức lên đường tìm kiếm Hài Nhi và cuối cùng đã gặp được Người. Rồi họ lại đi loan Tin mừng cho kẻ khác. Đấng Cứu Thế đã chọn mang thân phận nghèo hèn đến với nhân loại, để chia sớt nỗi khổ đau với những người nghèo.

4) THI HÀNH SỨ VỤ LOAN TIN VUI GIÁNG SINH:

Ngày nay Chúa Giê-su vẫn tiếp tục đến với chúng ta qua những dấu chỉ khiêm tốn và nghèo hèn. Người trở thành một tấm bánh với vẻ bề ngoài tầm thường, Người hiện thân trong những kẻ tàn tật què quặt đui mù, Người đến trong những người nghèo khó bị người đời hắt hủi bỏ rơi.

– Trước dấu chỉ nghèo khó này, các chủ quán giàu có ở Bê-lem đã xua đuổi hai ông bà Giu-se Ma-ri-a khỏi nhà trọ của họ đang khi các mục đồng nghèo hèn lại vui mừng đón nhận Tin mừng Giáng Sinh của Người. Còn chúng ta sẽ đối xử thế nào đối với người nghèo là hiện thân của Chúa Giê-su?

– Qua cách ứng xử với tha nhân mà chúng ta biết mình thuộc hạng người nào: Là chủ quán giàu có ở Be-lem khi thiếu lòng từ tâm xua đuổi người nghèo ra đường giữa đêm khuya? Hay là các mục đồng nghèo khó, sẵn sàng đón nhận Tin mừng Chúa Giáng Sinh và đi tìm kiếm Chúa ? Chúng ta sẽ làm gì để giới thiệu Chúa là Tin Mừng Cứu Độ cho tha nhân chung quanh chúng ta ?

  1. LỜI CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU, Cách đây hơn 20 thế kỷ, Chúa đã giáng sinh làm người trong âm thầm lặng lẽ giữa đêm khuya, khi người đời đang chìm trong giấc điệp. Chúa đã đến với chúng con để ban ơn cứu độ cho chúng con. Chúa đến để dạy loài người con đường lên trời là đường chật hẹp, gai chông và ít người chịu đi, nhưng lại là đường duy nhất dẫn đến sự sống đời đời. Chúa đến để nối kết mọi người trên trần gian lại với nhau, trở thành anh chị em của nhau vì cùng có chung một Cha trên trời. Hôm nay mùa Giáng Sinh lại đến: Trần gian rực sáng, cờ xí giăng đầy, người người nô nức mừng Chúa giáng sinh trong những bữa tiệc vui vẻ sang trọng, rượu thịt ê hề. Nhưng những khách lữ hành năm xưa vẫn còn đang lỡ bước và đang tiếp tục bị xua đuổi trong đêm nay, vì các chủ quán năm xưa vẫn còn đó: Những ai đi xe hơi và ăn mặc bảnh bao sẽ được chủ nhà ân cần đón tiếp, còn người nghèo khó lại bị đuổi ra lề đường !

– LẠY CHÚA. Xin cho chúng con biết luôn nhìn thấy Chúa đang hiện thân trong những người nghèo khó, những cụ già neo đơn không người chăm sóc, những trẻ em mồ côi bụi đời… để chúng con ân cần thăm hỏi và sẵn sàng khiêm nhường phục vụ họ như phục vụ chính Chúa. Nhờ đó chúng con sẽ nên môn đệ đích thực của Chúa.- AMEN.

Về mục lục

.

ĐÊM THÁNH

Trầm Thiên Thu

THÁNH TỬ GIÁNG THẾ YÊU THƯƠNG CỨU ĐỘ

NHÂN GIAN HÂN HOAN HẠNH PHÚC BÌNH AN

Đêm nay là đêm cực thánh, đêm ứng nghiệm lời tiên tri từ hàng ngàn năm trước. Lời hứa của Thiên Chúa đã thực sự nên trọn. Cả trời đất hân hoan đồng ca: “Đêm thánh vô cùng, giây phút tưng bừng, đất với trời, xe chữ đồng. Đêm nay Chúa Con thần thánh tôn thờ, canh khuya giáng sinh trong chốn hang lừa…” (Đêm Thánh Vô Cùng – Still Nacht! Heilige Nacht! – Nhạc: Franz Xaver Grüber, lời Việt: Hùng Lân). [1]

Đêm nay Con Thiên Chúa giáng trần, nhập thể và nhập thế – mặc xác phàm và ở với nhân loại. Không còn niềm vui nào hơn nữa. Niềm vui khôn tả khi người dưới được người trên đến thăm; thần dân vô cùng hạnh phúc khi được nhà Vua ghé vào “tệ xá” của mình; dân tình khốn khổ vì thấp cổ bé miệng sẽ trở nên sung sướng khi được tổng thống lưu ý. Thế thì niềm vui sướng tột cùng, hơn mọi niềm vui sướng khác, bởi vì chính Vua của các vua và Chúa của các chúa đích thân vi hành, đích thân đến với chúng ta.

Giáo hội quen dùng tán tụng ca của các thiên thần hát vang trong đêm Con Chúa sinh tại Bêlem: Gloria in excelsis Deo (Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời). Ngôn ngữ loài người không thể đủ để diễn tả niềm hạnh phúc tuyệt đỉnh này! Nhà soạn nhạc Johann Sebastian Bach đã sáng tác bản nhạc tôn giáo “Gloria” vào năm 1733, và khoảng năm 1745, ông viết bản “Gloria in excelsis Deo” [2] cũng theo “phong cách” như bản “Gloria”. Cả hai bản đều được viết ở âm thể Si Trưởng. Bản “Gloria in excelsis Deo” đã được cất tiếng hát vang vào ngày lễ Giáng Sinh năm 1745 để mừng đón hòa bình sau những đợt chiến tranh Salesia giữa Áo quốc và Prussia.

Ngày xưa, ngôn sứ Isaia đã xác định: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9:1). Tại sao? Ngôn sứ Isaia liệt kê nhiều lý do: “Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm. Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Mađian. Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa. Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta” (Is 9:2-5a).

Có hàng ngàn lần một trẻ thơ trở thành một đức vua, nhưng chỉ có một lần một Đức Vua trở thành một Trẻ Thơ. Độc nhất vô nhị. Trẻ Thơ đó chính là Con Thiên Chúa, là Đấng đến giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi và quyền lực của bóng tối. Đêm nay là Đêm Nhiệm Mầu, Đêm Thánh Ân, Đêm Bình An, Đêm Giao Hòa Đất Trời, là Giờ Hạnh Phúc, là Ngày Độc Lập, là Ngày Quốc Khánh Tâm Linh của cả nhân loại chúng ta.

Đấng Cứu Thế đầy uy lực và với nhiều danh hiệu: “Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình” (Is 9:5b). Không dừng ở mức đó, mọi sự vẫn không ngừng tiếp diễn: “Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đavít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó” (Is 9:6).

Ngày Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta chan hòa niềm vui mừng. Niềm vui nối tiếp nỗi mừng kể từ hôm nay, và Ngài chính là Đức Kitô, là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đấng cứu độ các tội nhân chúng ta. Vì thế, chúng ta phải thể hiện niềm vui sướng đó theo cách mà Thánh Vịnh gia đã làm, đó là “reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn” (Tv 95:2). Chắc hẳn có những người rất muốn biết lý do cho hai năm rõ mười. Và đây là lý do: “Bởi Đức Chúa là Chúa Trời cao cả, là Đại Vương trổi vượt chư thần, nắm trong tay bao vực sâu lòng đất, giữ chủ quyền muôn ngọn núi vút cao. Đại dương Chúa đã tạo thành là của Chúa, lục địa do tay Người nhào nắn cũng thuộc về Người” (Tv 95:3-5).

Thánh vịnh gia không thể giấu được niềm vui nên đã phải mời gọi mọi người đồng tâm nhất trí: “Hãy vào đây, ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt” (Tv 95:6-7). Được tôn thờ Ngài là đại phúc đối với chúng ta. Thật vậy, việc chúng ta ca tụng Ngài chẳng thêm gì cho Ngài, nhưng lại sinh ích lợi và kéo hồng ân xuống cho chính mỗi chúng ta. Một dạng tác động kỳ diệu vô cùng!

Chính Thánh Phaolô đã xác nhận: “Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người” (Tt 2:11). Tuy nhiên, “ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2:12). Thánh Phaolô giải thích cặn kẽ: “Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2:14). Vấn đề quan yếu là “hăng say làm việc thiện”, vậy mới là sống tích cực, chứ không chỉ sống tiêu cực là “xa điều xấu, tránh điều ác”.

Trình thuật của Thánh sử Luca cho biết: “Thời ấy, hoàng đế Augúttô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên được thực hiện thời ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyri. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nadarét, miền Galilê, lên thành vua Đavít tức là Bêlem, miền Giuđê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đavít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ”.

Lời kể ngắn gọn nhưng súc tích, chất chứa cả một khoảng thời gian dài, khoảng không gian mênh mông và ẩn chứa biết bao nỗi cơ cực trong hành trình đó. Đường sá xa xôi, trời lại tối tăm và giá lạnh, tìm chỗ nghỉ đêm thì bị từ chối thẳng thừng, không được ai bố thí cho chút lòng trắc ẩn – dù chỉ là thương hại. Cứ tưởng tượng cũng thấy gian nan vô cùng. Khổ thật!

Thế nhưng trong cái xui luôn có cái hên. Tại vùng xa xôi hẻo lánh đó có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng dưng sứ thần Chúa đứng ngay bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Bất ngờ và lạ quá, thế thì sợ đến chết đứng như Từ Hải luôn chứ nói chi tới hãi hùng. Đang khi trời tối đen như đêm 30, đen thui như mõm chó, trăng không có, điện đóm cũng không, thế mà bỗng dưng sáng chói lói hơn cả đèn cao áp, đẹp hơn cả “những ánh mắt hỏa châu”, mà họ chỉ là những trẻ mục đồng nghèo hèn và thất học – như Việt Nam gọi là lũ trẻ chăn trâu hoặc chăn bò, thế thì hỏi sao không hốt hoảng cho được? Nhưng đâu còn có đó.

Sứ thần biết họ đang lo sợ nên đã động viên họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2:10-11). Các mục đồng chẳng là gì trước mặt người đời, thế mà họ lại là những người đầu tiên được đón nhận Tin Mừng. Họ quả là đại phúc!

Và rồi Thiên Thần “mách nước” cho họ: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một TRẺ SƠ SINH bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2:12). Dấu chỉ rất ư bình thường mà lại rất lạ lùng. Và như để củng cố niềm tin cho họ, bỗng dưng muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14). Điệu lý giáng sinh thật tuyệt vời!

Và kìa, hình như văng vẳng tiếng bổng trầm, du dương, êm đềm và nhịp nhàng của Đức Mẹ đang nhẹ ru Hài Nhi Giêsu:

À ơi, Con hãy ngủ ngoan

Mai kia khôn lớn hiến thân cứu đời

Đêm nay Thánh Tử làm người

Danh Chúa rạng ngời, nhân loại bình an

Lạy Thánh Phụ giàu lòng thương xót, chúng con cảm tạ Cha đã ban chính Ngôi Con đến thế gian để cứu độ chúng con. Lạy Chúa Thánh Thần, chúng con cảm tạ Ngài đã dẫn đường chỉ lối và soi sáng để chúng con nhận biết Hài Nhi sinh ra nơi hang lừa là Đấng Cứu Thế.

Lạy Đức Mẹ Maria và Đức Thánh Giuse, chúng con cảm ơn nhị vị đã vâng lời Thiên Chúa mà chấp nhận mọi gian nan để trao Đấng Cứu Thế cho chúng con. Lạy Thánh Nhi Giêsu, chúng con cảm tạ Ngài đã đến ở với chúng con. Xin thương ban cho dân Việt chúng con được hưởng bình an và tự do đích thực, xin giúp chúng con hưởng trọn Niềm Vui Giáng Sinh và được hưởng Hồng Ân Cứu Độ. Nhờ Thánh Danh Hài Đồng Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

MỘT NGƯỜI CON ĐƯỢC TẶNG BAN CHO NHÂN LOẠI

Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu

Dân Israel là dân riêng của Thiên Chúa, được Người tuyển chọn giữa muôn dân, có nhiệm vụ thay cho nhân loại đón nhận Đấng Cứu Độ mà Người đã hứa, ngay sau khi Nguyên tổ phạm tội (x. St 3,15).

Tuy nhiên, thay vì trung thành với sứ vụ của mình, thì dân Israel đã nhiều lần bất trung. Nhưng dù dân Israel có bất trung, thì Thiên Chúa vẫn luôn tín trung. Người dùng miệng các ngôn sứ mà lặp lại lời hứa cứu độ và làm cho dân Israel nhớ lại lời hứa ấy.

Isaia là một trong những ngôn sứ được Thiên Chúa sai đến để làm công việc ấy. Ngôn sứ Isaia đã loan báo rằng: “Đoàn dân đang lẫn bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng… Chúa sẽ ban cho họ chứa chan niềm vui mừng, hoan hỉ… Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người là Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình. Người sẽ mở rộng quyền bính và lập nền hòa bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít…” (x. Is 9,1-6).

Người con được ban tặng cho nhân loại mà ngôn sứ Isaia loan báo, đó chính là Đức Giê-su. Người là Ngôi Lời vĩnh cửu, là Con Một Chúa Cha, được Chúa Cha sinh ra từ thuở đời đời, muôn vật muôn loài nhờ Người mà được tạo thành…. Nhưng Người cũng là con của Đức Maria và thánh Giuse khi xuống thế làm người và làm Đấng cứu độ, Người được thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, chứ không phải do tác động của nam nhân, Người được sinh ra nơi hang chiên lừa nghèo hèn, giữa trời đêm đông, trong cánh đồng Bê-lêm mà chẳng có ai hay ai biết, chỉ có thần thánh trên trời và các mục đồng mà thôi.

Dù được sinh ra trong hoàn cảnh như vậy, nhưng Người được gọi là ‘Tin mừng trọng đại cho toàn dân, là Đức Ki-tô và là Đức Chúa’. Người đến để làm cho lời hứa cứu độ được nên trọn, khai mở một kỷ nguyên mới cho nhân loại, kỷ nguyên ‘Thiên Chúa ở cùng con người mọi ngày cho đến tận thế’ (x. Mt 28,20), kỷ nguyên Thiên Chúa yêu thương và bảo vệ sự sống con người và giá trị của hôn nhân, gia đình.

Quả thật, Thiên Chúa là Đấng sáng tạo, Chúa có trăm ngàn cách để cứu độ nhân loại, nhưng Chúa đã chọn cách thế làm người và làm người nghèo hèn nhất trong thế giới loài người, dưới dáng hình của một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ, cần được yêu thương, chăm sóc và bảo vệ.

Giáng sinh trong hoàn cảnh như thế, Chúa muốn dạy con người bài học về giá trị và phẩm giá con người. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, cần phải được tôn trọng bảo vệ. Sự sống con người là vô giá và linh thánh. Vô giá và linh thánh đến nỗi ‘không có gì trên trần gian này đổi được mạng sống con người’ (x. Mc 8,37), Thiên Chúa đành phải sai Con mình xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết và sống lại, để cho con người ‘được sống và sống dồi dào’ (x. Ga 10,10).

Hơn nữa, khi xuống thế làm người, với quyền uy của mình, Con Thiên Chúa có thể ‘xé trời mà xuống’ (Is 63,19), đâu cần đến gia đình, xã hội và tôn giáo. Nhưng cũng như mọi người, Chúa đã chọn sinh ra trong một gia đình có mẹ có cha (Đức Maria và thánh Giuse) và thuộc về một dân tộc, xã hội và tôn giáo nhất định (dân tộc, xã hội và tôn giáo Do-thái).

Lựa chọn như thế, Chúa có ý tôn trọng và bảo vệ định chế hôn nhân, gia đình và xã hội mà Chúa đã thiết lập, đồng thời Chúa cũng mời gọi mọi người hãy tôn trọng và bảo vệ các giá trị của hôn nhân, gia đình, xã hội và tôn giáo.

Tiếc thay, dù Chúa đã xuống thế làm người hơn hai ngàn năm và hàng năm sứ điệp giáng sinh của Chúa vẫn luôn được nhắc lại ít nhất một lần, nhưng xem ra phần đông nhân loại vẫn khước từ và dửng dưng trước sứ điệp của Người. Khủng bố, bạo lực, vi phạm nhân quyền, xúc phạm nhân phẩm, hủy diệt sự sống, đàn áp tôn giáo, phá vỡ định chế hôn nhân và gia đình vẫn luôn xảy ra khắp nơi trên thế giới.

Riêng ở Việt Nam dường như sự sống con người, nhất là trẻ em và những người nghèo, bị bỏ rơi và phó mặc cho những thế lực đen tối thao túng, khiến người dân phải sống trong cảnh bất an và cơ cực… Đặc biệt trong những ngày gần đây, qua các phương tiện thông tin đại chúng, người dân rúng động bởi những vụ việc ‘bà nội giết cháu ruột ở Thanh Hóa, chồng giết vợ…, vợ giết chồng rồi chặt xác phi tang ở Bình Dương…’ Phải chăng đó là hậu quả của một xã hội và một nền giáo dục được định hướng bởi chủ nghĩa “Tam vô”: vô tổ quốc, vô gia đình và vô tôn giáo ?

Trước một xã hội dửng dưng, vô cảm và đầy bóng tối như thế, người Ki-tô hữu phải sống sứ điệp của Chúa giáng sinh một cách vui tươi và linh động, để làm chứng và biểu lộ tình thương, ân sủng của Chúa đang hiện diện và hoạt động trong chúng ta và trong thế giới này. Nghĩa là ‘chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này’ (x. Tt 2,12), chấp nhận những hy sinh lớn lao, vượt qua mọi khó khăn thử thách để sống trung thành với Chúa, tôn trọng và bảo vệ sự sống con người trong mọi hoàn cảnh, nhiệt thành trong công việc tông đồ và bác ái xã hội, chăm lo cho con cái được giáo dục toàn diện về thể dục, trí dục, cũng như đức dục và tâm linh.

Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng con, dưới hình hài một trẻ thơ bé nhỏ trong gia đình Thánh Gia, cần được yêu thương, chăm sóc và bảo vệ của xã hội và tôn giáo. Xin cho chúng con và thế giới này biết tận dụng mọi phương thế để tôn trọng nhân phẩm và bảo vệ sự sống con người, bảo vệ định chế hôn nhân và gia đình mà Chúa đã thiết định an bài. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM LỄ ĐÊM GIÁNG SINH

Lm. Anthony Trung Thành

Tình cờ tôi đọc được câu chuyện hết sức cảm động về tình Cha trên Internet. Câu chuyện được kể lại như sau: Cha mẹ nó lớn tuổi mới cưới nhau. Hồi đó gia đình nghèo khó. Mẹ mất sớm, cha tần tảo nuôi 3 anh em nó nên người. Nhà gần sông, nhưng cha đau yếu, ít khi có được con cá mà ăn. Bữa nào có cá là thịnh soạn lắm với anh em nó rồi.

Mỗi lúc ăn cá, cha thường bảo: “Để tao ăn đầu và xương”.

Nó nhanh nhẩu: “Tại sao hả cha?”

Cha nó nói vẻ mặt nghiêm nghị: “Vì cha già rồi, hay đau đầu, nên ăn đầu thì nó sẽ bớt đau – cái này gọi là ăn óc bổ óc, hiểu không? Xương yếu, ăn xương thì sẽ cứng cáp hơn. Có vậy mà cũng không hiểu hả?”

Nó và hai đứa em đinh ninh là cha nói thật. Đến bữa nó nhanh nhẩu xẻ đầu và xương cho cha, ba anh em tranh nhau phần thịt.

Anh em nó lớn lên, có thể thay cha đi đò, đi sông, mò cua, thả cá, đời sống gia đình nó khấm khá hơn. Chúng đã hiểu và đủ nhận ra cha “nói dối” chuyện ăn đầu và xương cá. Vì thế mà cha nó đã được ăn thịt cá.

Bây giờ nó đã thành đạt, vợ đẹp, con ngoan. Dù cuộc sống hối hả, nhưng nó chẳng bao giờ phải “thích” ăn cái đầu hay miếng xương cá, vì vợ nó bỏ đi, chỉ mang phần thịt lên mâm cơm.

Hôm nay là ngày giỗ lần thứ 10 của cha nó. Nhìn di ảnh ba gầy còm, nở một nụ cười tươi sáng. Nhìn con cá chiên to đùng, vàng tươm mỡ vợ đặt lên bàn thờ, nó chợt bất giác rơi lệ. Một cơn đau từ đâu hiện về nhói lòng vô tận.

Nó phải giấu vợ con, quay mặt lau nước mắt. Nhưng nó không thể xóa đi được hình dáng cha già còm cõi, xiêu vẹo bước đi bên sông. Cha đi thả cá mùa nước nổi, rồi sau đó là những trận thương hàn triền miên hành hạ ông. Nó không thể xóa đi được cái ý nghĩ “nếu cha ăn nhiều thịt hơn, thì đã không già yếu như thế”.

Vừa khấn vái, nó lại bất giác kêu lên những tiếng “cha” từ trong cổ họng.

Đến lúc ra bàn ăn. Nhìn vợ đang xẻ thịt con cá, để bỏ đi phần đầu và xương. Nó giữ tay vợ lại:“Em, để anh ăn đầu, đừng bỏ đi”.

Vợ hiểu, nên bỏ đầu cá qua cho chồng. Chỉ có cô con gái nhỏ là thắc mắc “Sao hôm nay ba lại ăn đầu, nó lắm xương, nó sẽ làm đau ba đấy”.

Nó xoa đầu con gái, nuốt tiếng nấc đang chầu chực nơi cổ họng vào trong, bảo “Dạo này ba hay đau đầu, nên ăn đầu sẽ hết đau con gái à, cái này gọi là ăn đầu bổ đầu đấy con yêu”.

Nó vừa ăn, vừa cố cho những giọt nước mắt không tràn xuống bát cơm.

Là người con trong gia đình, nghe câu chuyện trên không ai mà không mủi lòng, thương cho người cha đã hy sinh hết mình vì con cái. Câu chuyện cũng diễn tả được cảm nhận của người con về tình thương của người cha đối với mình, cho dù sự cảm nhận đó có vẻ hơi muộn màng.

Hôm nay, toàn thể thế giới đang long trọng mừng lễ Giáng sinh, kỷ niệm sinh nhật lần thứ 2017 của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa Giáng sinh làm người. Mầu nhiệm giáng sinh diễn tả tình yêu thương của Đức Giêsu đối với loài người. Tình thương và sự hy sinh của người cha trong câu chuyện trên phần nào phản ảnh tình thương và sự hy sinh của Đức Giêsu đối với loài người chúng ta. Đúng như lời trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng: “vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế.” Thánh Phaolô cũng diễn tả sự hy sinh đó trong thư Philipphê rằng: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2,6-8).

Như vậy, khi chấp nhận làm người, Đức Giêsu chấp nhận những gì thuộc về con người: sinh, bệnh, lão, tử (ngoại trừ tội lỗi). Ngài được cưu mang trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria, sinh ra trong đêm đông lạnh lẽo, thiếu thốn. Tin mừng cho biết: “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.” (Lc 2, 7). Tiếp đó, Ngài được đặt tên, được cắt bì theo tục lệ Do Thái, được hai ông bà dâng trong đền thánh, phải lánh nạn sang Aicập vì bị vua Hêrôđê lùng bắt, làm thợ mộc và các công việc khác để phụ giúp Đức Mẹ và Thánh Giuse. Sau 30 năm đời sống ẩn dật, Ngài bắt đầu ra đi rao giảng Tin mừng, được dân chúng ủng hộ vì lời giảng dạy của Ngài có uy quyền, và vì đi liền với lời giảng dạy Ngài còn làm nhiều phép lạ. Các phép lạ Ngài làm đều phát xuất từ tình yêu thương: cho kẻ đói ăn, kẻ què đi được, người mù xem thấy, kẻ điếc được nghe, kẻ chết sống lại…Nhưng cũng có rất nhiều kẻ chống đối Ngài. Đa số những kẻ chống đối đó đến từ nhóm Luật sĩ và Biệt phái. Vì sự chống đối này, nên cuối cùng Ngài đã bị bắt, chịu các nhục hình, vác thập giá, chịu đóng đinh và chết tất tưởi trên thập giá. Trước khi về trời, Ngài đã thiết lập Giáo hội, thiết lập các Bí tích để ở lại với loài người. Không thể kể hết những gì Ngài đã dành cho chúng ta, đã hy sinh vì chúng ta. Tất cả những gì Ngài làm, Ngài chịu là “vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta”. Đúng như lời Thiên thần loan báo trong Tin mừng hôm nay: “Đấng Cứu Thế sinh ra cho chúng ta.” (x. Lc 2,11). Đó cũng là tâm tình của Bài đọc 1, trích sách Sứ ngôn Isaia hôm nay: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi…Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta.” (Is 9,1.5).

Trở lại câu chuyện trên đây chúng ta thấy, những đứa con khi lớn lên mới hiểu hết những gì mà người cha dành cho mình, hy sinh cho anh em mình, nên đã thương cha hơn, làm hết sức mình để bù đắp cho người cha. Nhưng khi đã trưởng thành, cuộc sống có điều kiện hơn một chút thì người cha lại không còn trên cõi đời này nữa.

Còn chúng ta thì sao? Đứng trước tình thương và sự hy sinh vô bờ bến của Đức Giêsu, chúng ta phải làm gì?

Chúng ta phải yêu mến Ngài, vì “Tình yêu đáp lại tình yêu”. Nhưng phải yêu mến Ngài như thế nào? Chúng ta phải yêu mến Ngài hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự. Nghĩa là phải luôn đặt Chúa lên trên hết: Trên cha mẹ, trên của cải, trên chức quyền danh vọng và mọi thứ ở trần gian này. Yêu mến Chúa là phải tuân giữ các giới răn của Ngài. Đức Giêsu đã nói: “Ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy.”(Ga 14,21). Yêu mến Chúa là phải từ bỏ tội lỗi. Trong bài đọc II hôm nay, Thánh Phaolô khuyên rằng : Ân sủng của Thiên Chúa dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này (x. Tt 2,12).

Yêu mến Chúa, chúng ta cũng phải yêu thương tha nhân. Thánh Gioan Tông đồ nói: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4,20). Nhưng yêu thương tha nhân như thế nào?

Đức Khổng Tử nói: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (điều mình không muốn, thì cũng đừng làm cho người khác). Chắc chắn không ai trong chúng ta muốn người khác nói xấu, vu khống, bỏ vạ, cáo gian hay làm hại mình…thì chúng ta cũng đừng làm những điều đó cho tha nhân. Trong xã hội chúng ta đang sống, người ta thường dùng bạo lực để giải quyết vấn đề. Hằng ngày có biết bao nhiêu câu chuyện đau lòng liên quan đến bạo lực xảy ra đây đó trên đất nước chúng ta. Chẳng hạn: bà giết cháu, cha giết con, vợ giết chồng, bảo mẫu hành hạ trẻ em…Đó là những cách hành xử thiếu vắng tình thương. Là người kitô hữu, là con cái của Chúa, chúng ta không được làm như thế với tha nhân. Trái lại, chúng ta phải lấy tình thương đáp lại tình thương, lấy tình thương đáp lại hận thù. Thánh Phanxicô Assisi dạy chúng ta: “Đem yêu thương vào nơi oán thù. Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục. Ðem an hoà vào nơi tranh chấp. Ðem chân lý vào chốn lỗi lầm.”

Kinh Thánh dạy: Điều mình muốn người khác làm cho mình thì cũng hãy làm cho người khác (x. Mt 7,12). Chắc chắn chúng ta luôn muốn điều tốt, điều lành, may mắn, hạnh phúc…đến với mình thì cũng hãy làm những điều đó cho tha nhân. Có lẽ cách tốt nhất là chúng ta thực hành lời dạy của Kinh Thương Người Có Mười Bốn Mối: cho kẻ đói ăn; cho kẻ khát uống; cho kẻ rách rưới ăn mặc; viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc; cho khách đỗ nhà; chuộc kẻ làm tôi; chôn xác kẻ chết; lấy lời lành mà khuyên người; mở dậy kẻ mê muội; yên ủi kẻ âu lo; răn bảo kẻ có tội; tha kẻ dể ta; nhịn kẻ mất lòng ta; cầu cho kẻ sống và kẻ chết.

Nếu chúng ta làm được như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ kéo dài tình thương của đêm Noel đến với mọi người. Nguyện xin Chúa Hài Đồng Giêsu giúp nhân loại hôm nay nhận biết và yêu mến Thiên Chúa và biết sống yêu thương nhau hơn. Amen.

Về mục lục

.

TIN MỪNG TRỌNG ĐẠI

Phê-rô Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn, Đêm Giáng Sinh là một Đêm hồng phúc, đêm mà dường như mọi tạo vật sững sờ, ngóng trông, chiêm ngưỡng một kỳ quang, một kỳ quang của Thiên Chúa trao ban cho nhân loại. Đó là “ Cứu Thế Giáng Sinh” như lời tiên tri Isaia đã tiên báo từ ngàn xưa : “ Kìa có một con trẻ sinh ra vì chúng ta, trẻ sinh cho ta đấy!” (Is 9, 6)

Vâng, từ ngàn xưa, Đấng Cứu Thế được loan báo sẽ Giáng Sinh vì nhân thế, vì dân đang sống trong tối tăm, được thấy ánh thiều quang xuất hiện. Như vậy, cảnh hồng phúc ấy khác nào một sự nô lệ được cứu thoát, một cảnh sống lưu đày được trở lại cố hương, một cơn nước biển đỏ nhấn chìm quân Ai-cập để giải thoát dân Israel, một màn đêm bao phủ được kéo xuống.

Nhưng, hôm nay đây, Tin Mừng theo thánh Luca cho chúng ta thấy hoàn cảnh Giáng Sinh của Đấng Cứu Thế như thế nào !?

Tin Mừng theo thánh Luca ( Lc 2, 1-14) : Đức Giêsu Giáng Sinh và những người chăn chiên đến viếng thăm. Theo đó, Tin Mừng hôm nay có thể có hai phần chính :

  • Phần thứ nhất : Hoàn cảnh Giáng Sinh

Từ câu 1 đến câu 7, chúng ta thấy hoàn cảnh ra đời của Đấng Cứu Thế là như thế đó. Trong một bối cảnh ”dầu sôi, lửa bỏng”, hoàn cảnh chính trị đang kiểm soát người dân, ai nấy phải về quê quán để khai sinh, vì đây là cuộc kiểm tra đầu tiên . Nhìn chung, một vị Vua Trời Đất mà ra đời như thế thì thật là quá” bi đát”, nhưng chính là để ứng nghiệm lời tiên tri đã loan báo từ ngàn xưa là : “Đấng Cứu Thế sẽ giáng sinh trong thành vua Đavit”. Từ đó, chúng ta thấy Đấng Cứu Thế giáng sinh trong thời gian và không gian nhất định, có niên lịch chính xác, cụ thể.

Để chu toàn bổn phận công dân, thánh Giuse cùng Đức Maria cũng trở về quê quán, từ thành Nazaret, miền Galile lên thành Bê-lem , miền Giu-đê , là thành Vua Đa-vít. Vì thánh Giuse thuộc hoàng tộc Đa-vít. Như vậy, Đấng Cứu Thế giáng sinh tại thành Bê-lem, miền Giu-đê, vì Bê-lem là thành Vua Đa-vit.

Như vậy, chúng ta thấy hoàn cảnh lịch sử ra đời của Đấng Cứu Thế ứng nghiệm với Lời Thánh Kinh, nhưng nhìn chung thật là một hoàn cảnh quá “ bi đát”, vì hai ông bà không tìm được chổ trọ, lúc ấy Đức Maria đã có thai bởi phép Chúa Thánh Thần qua Mầu Nhiệm Truyền Tin. Thì đến ngày “ mãn nguyệt khai hoa”. “ Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chổ trong nhà trọ” ( c 7)

Theo đó, người ta nói Lễ Giáng Sinh là Lễ của “gia đình”, nhưng Vị Chúa Tể Trời Đất, ra đời để cứu nhận độ thế, nhưng không được sinh ra trong vàng, điện ngọc, mà chọn sinh ra trong máng cỏ, nơi súc vật ăn nghĩ. Tại sao, Chúa Giêsu không sinh ra làm con của vị vua trần thế đương thời, mà chọn sinh ra nơi một người Mẹ nghèo, và một dưỡng phụ không có gia sản. Nhưng, có ai trên trần thế nầy được sinh ra như Đấng Cứu Thế không ?

Như vậy, Thiên Chúa đã gạt bỏ, đã loại trừ những gì mà thế gian cho là “hạnh phúc”, để dạy cho nhân thế một gương tự hạ cao  cả đó là “sự vâng lời”, hành trình cứu độ của Đức Kitô mặc lấy sự khiêm hạ tột cùng của kiếp người. Như vậy, Thiên Chúa đã đồng hóa với người nghèo rốt cùng trong xã hội, một sự đồng hóa cao cả, để nâng dậy tất cả những ai bất hạnh, hèn kém.

Thiên Chúa luôn cứu vớt người bất hạnh, yêu thương kẻ bần cùng, phải chăng là bước nền tảng của ơn Cứu Độ, Thiên Chúa từ bò, lột bỏ tất cả trên chính sự nhập thể và nhập thế của Người. Thiên Chúa từ bỏ để không còn gì để từ bỏ nữa. Phải chăng trước khi “chịu treo lên” Thập giá, Chúa Giêsu đã hoàn toàn trút bỏ mọi vinh quang của trần thế.

Thiên Chúa không đề cao sự nghèo, nhưng Thiên Chúa nghiêng mình cứu vớt người nghèo, đồng hóa với kẻ nghèo, để tất cả những ai bước theo Người không thể có tư tưởng nào khác hơn Thầy Chí Thánh Giêsu. Nghèo ở đây có nghĩa là không đặt ngang của cải trần thế với Ân Sủng Nước Trời. Điều đó có nghĩa là : sự hư vô và sự bền vững, sự hữu hạn và sự vĩnh hằng, sự tự nhiên và vô biên. Sự siêu nhiên và trần tục.

Vì thế, Thiên Chúa đã mặc khải cho những người bé mọn, đó là những người chăn chiên.

  • Phần Thứ hai : Thiên Chúa mặc khải mầu nhiệm Giáng Sinh cho những người bé mọn.

Chúng ta thấy hoàn cảnh và điều kiện Giáng Sinh của Đấng Cứu Thế thật đơn sơ, hèn hạ, nếu không muốn nói là “bi đát”. Nhưng, thật phù hợp, vì Người không biểu lộ cho bậc vương giả, phú quý, sang giàu , quyền tước, mà Người biểu lộ cho các mục đồng là những người nghèo khó, chăn thuê súc vật, hoặc có khi chủ của những đàn gia súc. Họ thức đêm canh giữ gia súc ngoài đồng. Và kìa sứ thần hiện đến với họ, một hiện tượng hiếm có, mộ sự kiện lạ lùng , hy hữu, hào quang chiếu tỏa sáng ngời, khiến họ hãi hùng kinh khiếp. Nhưng, sứ thần bảo họ : “ Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân : Hôm nay một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vit, Người là Đấng Kitô , Đức Chúa. Anh em cứ dấu nầy mà nhận ra Người : Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã , nằm trong máng cỏ.” ( Lc 2, 10 -12)

Như vậy, Thiên Chúa đã Giáng Sinh, tự hạ để làm Người, món quà vĩ đại mà Thiên Chúa dành cho con người là chính một Ngôi Vị Thiên Chúa đã hạ cố xuống trần. Nhân thế luôn mong chờ một kỳ công xuất hiện, thì này đây, Đêm nay , Đêm Cực Thánh nầy, Thiên Chúa đã từ bỏ Ngai Trời tối cao để mặc lấy nhân tính để ở cùng nhân loại.Theo đó, Thiên Chúa ra đời vì nhân loại nhưng ưu tiên cho người nghèo, nghèo vật chất, nhưng phải giàu tâm hồn, nghĩa là người nghèo đó phải có tâm hồn đơn sơ, thuần khiết hiền hậu, chấp nhận nghèo vì của cải vật chất, nhưng tâm hồn cao thượng, biết từ bỏ như Đấng Cứu Thế, vâng, chính là những “tâm hồn mục đồng”, Đấng Cứu Thế vì người nghèo, có nghĩa là người đã từ bỏ trước. Người đã từ Trời xuống thế. Nên không còn gì để có thể cao hơn nữa.

Bài Đọc II, thánh Phao-lô cho chúng ta biết ( Tt 2, 11 -14) :” Ân sủng của Thiên Chúa đem ơn Cứu Độ đến cho mọi người là ân sủng dạy chúng ta phải từ bỏ tất cả đam mê, dục vọng.”

Theo đó, Mầu Nhiệm Giáng Sinh là Mầu Nhiệm từ bỏ mọi vinh quang giả trá, để mặc lấy chính Thiên Chúa mà thôi.

Lời nguyện Lễ Giáng Sinh

Lạy Chúa, Chúa đã sáng tạo con người cách kỳ diệu, lại còn phục hồi phẩm giá con người cách kỳ diệu hơn nữa: xin ban cho chúng con được chia sẻ chức vị làm con Chúa với Đức Kitô là Đấng đã chia sẻ kiếp người với chúng con . Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở, muôn đời./.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã từ trời xuống thế trong cung lòng vẹn sạch Đức Nữ Đồng Trinh, đã sinh ra nơi hang đá Bê-lem, là nơi thấp hèn , để dạy cho nhân thế sự khiêm nhường cao cả. Xin cho chúng con trong Đêm Cực Thánh nầy biết nhận ra và tường tận chân lý Giáng Sinh nơi Chúa là Đấng Cứu Độ duy nhất mà noi theo ./. Amen

Về mục lục

.

HÀI ĐỒNG GIÊSU MỈM CƯỜI TRONG ĐÊM NAY

Tiến Sĩ Trần Mỹ Duyệt

Thấm thoát mà đã 2017 lần kỷ niệm ngày Giêsu giáng trần. Mỗi năm mỗi khác, và mỗi nơi cũng mỗi khác. Có những năm trời mưa, giông bão, tuyết rơi. Có những năm thanh bình, và cũng có những năm chiến tranh. Nhiều nơi người ta mừng Giáng Sinh một cách nhộn nhịp, tưng bừng. Nào hang đá, bò lừa, nào cây Noel, nhạc hòa vang réo rắt… Người ta ăn chơi và tha hồ mua sắm, tặng quà. Ngược lại, cũng có những nơi, mà phần đông là thế, ở đó cơm không có ăn, áo quần không đủ mặc. Nhiều người phải co ro, run rẩy lần mò trong đêm tối để đến thánh đường. Đối với những con người nghèo hèn như vậy thì Giêsu kể như lỗ, vì họ chẳng có gì mà mừng, mà tặng; ngược lại, Maria, Giuse và Giêsu còn phải móc túi ra để tặng quà cho họ nữa. Đúng ra, Thánh Gia cũng nghèo nên chẳng có quà cáp gì theo cái nghĩa trần thế, ngoại trừ những ơn phước lành mà các Đấng tuôn đổ xuống trên những ai thiện chí như lời thiên sứ đã hát mừng trong đêm đầu tiên Giêsu giáng trần: “Vinh danh Chúa cả trên trời. Bình ăn dưới thế cho người thiện tâm.”

Mỗi lần Giáng Sinh về, gần đến ngày kỷ niệm, Maria và Giuse thường hay ngồi cùng nhau ôn lại những kỷ niệm đã qua kể từ ngày ấy tại đồng quê Belem. Nghĩ lại mà thấy xót xa cho Hài Nhi, sinh xuống để cứu đời, mà đời đối xử với Ngài quá tệ. Giuse còn nhớ rất kỹ, không một ai, không một nhà trọ nào trong cái thành Giêrusalem đã đón tiếp ông bà ngoại trừ cái chuồng bò bỏ trống ngoài đồng quê Belem. Đêm đó, cũng may mà trong cái chuồng bò đó có cái máng cỏ, và ông đã phải vất vả lau chùi, rửa sạch. Tội nghiệp cho Giêsu, cái máng cỏ như vậy thì sao mà ngủ cho nổi. Vừa tanh, vừa hôi, lại vừa lạnh lẽo nữa. Cũng nhờ mấy con bò, con lừa và bầy chiên do các mục đồng dẫn tới hà hơi sửa ấm, nếu không một trẻ sơ sinh vừa chào đời như vậy cũng phải chết cóng.

Còn Maria thì lần nhớ lại cái cảnh đêm hôm đó. Do linh tính của người mẹ báo cho biết gần đến ngày sinh, nên trên đường theo Giuse về Belem kiểm kê dân số, bà cũng mang theo được mấy tấm khăn, vài ba thước vải làm tã lót. Và đó là chăn ấm, nệm êm của Giêsu với cái nôi có một không hai là chiếc máng bò lừa ăn đã được lau sạch.

Nhưng cái kỷ niệm mà cả Giuse, Maria, và có lẽ Giêsu nữa vẫn nhớ như in, đó là cũng vào giáng sinh năm đó, khi các mục đồng đang sắp sửa ra về, còn ba vua cũng đang nói những lời từ giã với Giuse, thì bỗng nhiên có một bà già từ đâu xuất hiện. Tóc bà bạc phơ, thân hình bà tiều tụy, nét mặt buồn rầu, đáng dấp rất mỏi mệt. Lưng bà gù gập xuống gần sát đất như thể bà đang mang trên người sức nặng ngàn cân. Bà đến Belem.

Bà là ai? Tại sao lại đến đây? Hay bà là một phù thủy ở quanh quẩn đâu đó cạnh Giêrusalem muốn đến để hãm hại Hài Nhi? Trong lúc Maria hồi hộp đưa mắt dõi theo con người ấy, thì Giuse chỉ có chiếc gậy mà ông đã mang theo suốt cuộc hành trình từ Nazareth về Belem. Nhưng chỉ có Giêsu bé thơ thì vẫn nằm im và không tỏ dấu gì hoảng sợ. Maria và Giuse đưa mắt nhìn xem và hỏi ý, thì dường như Hài Nhi muốn được gặp bà.

Thế là bà tiến lại gần bên máng cỏ. Bà khóc. Bà trút tất cả những nỗi niềm chất chứa có lẽ từ rất xa xưa lên tấm thân bé bỏng của Giêsu. Trước con mắt lo sợ của Giuse, của Maria bà thò tay vào túi lấy ra một vật gì như trái táo đưa cho Giêsu. Và như một phép nhiệm mầu, khi Giêsu vừa đưa tay đón lấy nó, bà bỗng trở nên trẻ, đẹp và hạnh phúc lạ thường. Rồi âm thầm như lúc đến, bà đã ra khỏi hang đá và biến mất trong bóng đêm. Mãi đến sau này, khi Giêsu chết treo trên thập giá, lúc ấy Maria mới hiểu rõ hơn về vật mà hôm đó người đàn bà kỳ lạ đã trao cho Người, đó là trái táo, trái táo vườn địa đàng, trái táo Evà đã hái và đưa cho Adong. Hệ quả của nó là sự chết và tội lỗi.  Mỗi lần nhớ đến đó, cả Giuse lẫn Maria không ngừng cảm ơn Thiên Chúa, và ghi nhớ mãi giây phút giao hòa đất trời, giây phút con người được Thiên Chúa thương yêu và tha thứ như thế nào.

Giáng Sinh năm nay, cũng một Giáng Sinh như mọi khi nhưng có lẽ lại là một Giáng Sinh rất ý nghĩa thêm vào những kỷ niệm của Maria và Giuse. Hình như lịch sử lập lại.

Lẫn trong đoàn người đến hang Belem năm nay là một cặp vợ chồng. Họ đến từ rất xa, xa lắm. Trông họ rất mệt mỏi, tiều tụy và già nua! Lưng họ gù xuống có lẽ do những gánh nặng của cả tâm hồn lẫn thể xác đang đè nặng trên họ. Cái gì đó như một trái đắng lúc nào cũng đốt nóng và làm quặn đau trong lòng người vợ. Còn người chồng thì có cái gì đó như một cục đá cứ mãi làm cho lòng ông nặng và chìm xuống. Cái khổ của cả hai người là không nói được với nhau, và cũng không kể cho nhau nghe được những khổ lụy của mình để hy vọng nhận được một lời chia sẻ và khích lệ. Và vì thế cả hai đều câm nín và cay đắng!

Họ đến hang đá để làm gì? Họ chắc không phải là vị vua thứ tư đến từ phần đất lạ? Hay họ đến để trút bỏ những khối nặng nề nào đó trong cuộc đời, trong tâm hồn lên Giêsu bé nhỏ? Hoặc cũng có thể họ đến để kể lể và đổ lỗi cho nhau trước mặt Giêsu?!  Nếu vậy thì làm phiền giấc ngủ của Hài Nhi quá. Vì những kẻ ra, người vào tấp nập chỉ gây ồn ào và đánh thức giấc ngủ của Ngài. Tuy nghĩ là nghĩ như vậy, nhưng dường như mắt của Maria đã bắt gặp ánh nhìn của người vợ. Bà ta đến để gặp Chúa thật lòng. Không đến để phiền hà, nhưng đến để trao Ngài niềm hy vọng với đức tin đơn sơ, mặc dù vẫn đang mang trong lòng những ưu tư chồng chất. Còn người chồng của bà ta nữa. Âm thầm, lặng lẽ, và rất suy tư. Vầng trán nhăn nheo kia chứng tỏ ông từng đã bị dày vò cả tâm lý lẫn thể lý. Sức ép của công việc, sức chịu đựng với vợ, với con nhiều năm khiến cho ông qụy ngã sau những tháng ngày trong đời sống hôn nhân gia đình. Và cũng như vợ ông, ông trông có vẻ thành khẩn và thật tâm.

Rút ra từ những đắng đót của cuộc đời chính mình, đặc biệt khi bị Giuse hiểu lầm và định bỏ mình để ra đi âm thầm. Cũng rút ra từ kinh nghiệm đắng đót của Giuse vì phải chịu đựng một thử thách quá lớn mà dù được gọi là “công chính”, con người ấy cũng sắp bị qụy ngã nếu như trừ trên cao Thiên Chúa đã không ra tay can thiệp. Kinh nghiệm hôn nhân gia đình ấy, đã khiến Mẹ tại tiệc cưới Cana đánh bạo đòi hỏi cho đôi tân hôn một phép lạ. Ký ức của Maria vừa đến đó cũng là lúc cặp vợ chồng kia đến bên máng cỏ. Một điều trùng hợp, cùng lúc Hài Nhi Giêsu mở mắt mỉm cười với hai vợ chồng đau khổ kia.

Cũng như tổ phụ Evà trong đêm Giáng Sinh đầu tiên đã run run dâng Chúa trái táo mà bà đã hái từ cây táo giữa vườn địa đàng, trái táo oan khiên cho bà, cho ông, và cho toàn thể nhân loại. Cặp vợ chồng này cũng rút ra từ trong túi áo của họ, dâng lên Hài Nhi một trái táo: Trái táo cuộc đời. Trái táo mà họ đã hái cho nhau ăn trong những ngày dong chơi ở khu vườn tình ái. Thời gian đó, khi ăn trái táo ấy họ cảm thấy ngọt lịm bờ môi, chất ngất và xôn xao cõi lòng. Nhưng với thời gian, nó đã trở thành trái đắng tiết ra nhiều độc tố khiến họ bị ngộ độc. Họ không còn khả năng tiêu hóa những vấn đề trong cuộc sống. Hệ thống hô hấp và tuần hoàn bị tắc nghẽn khiến cho hơi thở nhiều lúc nặng nề, hổn hển và không còn mang được những dòng máu nóng của tình yêu chuyển vào trái tim đang ngày càng trở nên cằn cỗi, khô héo. Và nó cũng chặn lại những dòng oxy dẫn đến não bộ, kết quả là những suy tư của họ trở nên đơn điệu, một chiều và rất chủ quan.

Và sau khi ngỏ lời cảm ơn Maria, Giuse, và Hài Nhi, họ lặng lẽ ra về sau màn đêm âm u mà trong lòng cảm thấy nhẹ nhõm.  

Đêm nay Chúa Giáng Trần. Ngài đến để mang bình an và giải thoát cho những tâm hồn thiện chí, mà họ là những người lãnh nhận được sự giải thoát và phép lành bình an ấy. Trong đêm thâu, giữa không gian giá lạnh, trên đường trở về họ đi bên nhau, nép vào gần nhau cho đỡ lạnh. Và mỗi người đều cảm thấy nụ cười mà Hài Nhi đã mỉm cười với họ.

Về mục lục

.

.

THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI

ĐỂ CON NGƯỜI LÀM CON THIÊN CHÚA

Lm. Antôn Nguyn Văn Đ

Nhìn ngắm Hài Nhi Giêsu dưới dáng dấp của một Hài Nhi đơn sơ nằm trong máng cỏ, quả là một mầu nhiệm cao cả tuyệt vời của đức tin. Sự ra đời của Chúa Giêsu đánh dấu “thời viên mãn” đã tới. Vì tội lỗi của ông bà nguyên tổ, con người mất đi sự hiệp thông với Thiên Chúa. Nhưng nay Thiên Chúa đầy lòng từ bi đã xót thương đến sự buồn tủi của con người mà sai Chúa Con hằng có đời đời, sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria, làm người để cứu chuộc chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi.

Bằng cách sử dụng các công thức có chiều kích thần học sâu xa, thánh Tông đồ Gioan đã giải thích cho chúng ta : “T nguyên thy đã có Ngôi Li, và Ngôi Li vi Thiên Chúa, và Ngôi Li là Thiên Chúa” (Ga 1,1). Gioan gọi ngôi vị thứ hai trong Chúa Ba Ngôi là “Ngôi Lời”, Con Thiên Chúa. Ngài còn thêm: “Và Ngôi Lời đã nhập thể làm người, và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14). Ngôi Lời đã hóa thành xác thịt nơi cung lòng của Mẹ. Đấng vĩnh cửu đã bước vào thời gian. Thiên Chúa đã đến cắm lều và cư ngụ giữa con người.

Đó chính là lý do ngày hôm nay chúng ta cử hành, và mừng lễ. Thật ngỡ ngàng, khi chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu vừa chào đời. Một Hài Nhi mới sinh ra … nhưng  đồng thời Hài Nhi ấy cũng là Thiên Chúa toàn năng. Thiên Chúa làm người và giờ đây đang ở giữa chúng ta.

Con Thiên Chúa đến trên địa cầu để làm cho chúng ta sống trên mặt đất này trở nên con Thiên Chúa. Vì thế, toàn trái đất hãy vui mừng và hải đảo hãy hân hoan, vì ơn cứu độ đã được ban tặng cho thế giới. Như lời thánh Gioan giải thích, “phàm bao nhiêu k đã tiếp nhn Người, thì Người cho h được quyn tr nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12). Trở nên con Thiên Chúa ư! Thật không thể tưởng tượng được, mầu nhiệm cao vời khôn thấu này. Thánh Gioan Kim Khầu nói : “Con Thiên Chúa đã tr nên con ca loài người đ làm cho con người tr nên con Thiên Chúa“.

Thiên Chúa làm người. Các tác giả Tin Mừng đều chứng minh cho chúng ta thấy điều đó. Thiên Chúa làm người không chỉ là mượn thân xác con người, mà làm một con người thực thụ, như bao con người khác sống trong kiếp nhân sinh, chỉ trừ tội lỗi. Mầu nhiệm này diễn tả mối tương quan gần gũi giữa Thiên Chúa và con người. Sự kiện Giáng sinh không chỉ là một câu chuyện cổ tích, nhưng là sự hiện diện của Thiên Chúa làm người và ở với nhân loại cho đến ngày tận thế.

Chúng ta tìm kiếm Người và khi đã tìm được thì hãy tiếp nhận Người : vì chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới có ơn cứu độ ; chỉ mình Chúa Giêsu mới mang lại cho chúng ta ý nghĩa đầy đủ về cuộc sống và khổ đau. Vì vậy, chúng ta hãy đọc Tin Mừng, chiêm ngắm Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người ở giữa chúng ta và cố gắng sống theo lời Chúa dạy. Chúng ta sẽ thấy sự thật như thế nào khi chúng ta đang nỗ lực làm cho thế giới chúng ta đang sống ngày một tốt đẹp hơn.

Vâng, Noel Thiên Chúa làm người, Thiên Chúa đã đến trần gian, “và nhng ai đón nhn Người, thì Người cho h quyn tr nên con Thiên Chúa(Ga 1,12). Bên Hang đá máng cỏ, hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta trở nên những con người đích thực, để rồi nhờ đó mà chúng ta trở nên con của Đấng Tối Cao. Amen.

Về mục lục

.

HÃY ĐỂ CHÚA ĐỒNG HÀNH CÙNG GIA ĐÌNH

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Mơ ước hạnh phúc luôn là một khát khao thẳm sâu trong trái tim con người. Ai cũng mong hạnh phúc. Ai cũng chờ hạnh phúc. Ai cũng mơ ước vượt qua cái khổ để được bình an hạnh phúc.

Nhất là trong gia đình niềm khát khao ấy lại càng dâng cao. Ai cũng mong gia đình bình yên. Gia đạo hạnh phúc. Vợ chồng biết thương nhau. Con cái thuận hòa. Nhưng khi nhìn vào cuộc sống chúng ta thấy hạnh phúc sao quá khó đối với chúng ta. Gia đình nào cũng có những trục trặc. Cuộc đời nào cũng có những bể dâu. Theo thống kê số gia đình bất hạnh nhiều hơn số gia đình hạnh phúc. Cuộc sống đã mệt vì cơm áo gạo tiền lại thêm khổ đau vì thiếu tình yêu, thiếu sự cảm thông nơi gia đình lại càng thêm khổ đau.

Hôm nay chúng ta long trọng mừng lễ Chúa giáng sinh. Chúa đi vào trần đời ngang qua một gia đình. Chúa cúi xuống với gia đình để từ nay mọi gia đình có Chúa giáng sinh sẽ có niềm vui và hạnh phúc. Gia đình là nhà của Chúa. Chúa đến thăm gia đình của Chúa và muốn ở lại với gia đình ấy mãi mãi, nhưng theo thánh Gioan:

Người đã đến nhà mình,

nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. (Ga 1:11)

Người nhà đã không đón nhận Ngài nên niềm vui có Chúa ở cùng cứ mãi qua đi. Noel này rồi Noel khác, Chúa cứ việc giáng sinh trong hang đá rực rỡ đèn sao lấp lánh, còn tâm hồn người nhà Ngài vẫn cứ mãi mãi mù tôi như thủa nào. Chỉ vì

Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối,
và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. (Ga 1:5)

Có một cha xứ khi về nhận xứ liền đi thăm giáo dân. Gặp một đôi vợ chồng nghe nói đã bỏ lễ lâu năm. Cha hỏi vợ chồng không đi lễ vậy có đọc kinh chung với nhau không? Họ trả lời vì không có thời giờ do con cái phải đi học thêm hay phải đi làm theo ca. Gia đình vất vả làm ăn mà chẳng khấm khá hơn lấy đâu tinh thần đọc kinh. Bấy giờ cha xứ lại hỏi: “Nếu anh chị biết rằng nhờ đọc kinh mà một đứa con sẽ tránh được một cơn bệnh hiểm nghèo, tránh được một tai nạn; Nhờ đọc kinh tối mà gia đình có công ăn việc làm, con cái thành đạt; Nhờ đọc kinh mà các linh hồn tiên nhân ông bà cha mẹ và những người thân đã chết sẽ sớm được về thiên đàng… thì anh chị có tổ chức đọc kinh gia đình hàng ngày không ?” Họ trả lời rằng: “Có thể chúng con sẽ đọc”. Cha xứ lại hỏi: “Giả như gia đình làm ăn thất bại phải mang nợ tới 100 triệu đồng, khó lòng có thể trả được cả vốn lẫn lãi, mà nếu ngày nào có đọc kinh tối gia đình 15 phút, thì sẽ được chủ nợ trừ bớt số lời 100.000 đồng, thì ông bà có đọc kinh tối chung không ?”.

Bấy giờ ông kia hỏi lại: “Thưa cha, cha hỏi như vậy để làm gì ?” Bấy giờ cha xứ mới ôn tồn trả lời: “Tôi nói như vậy để cho thấy nguyên nhân gia đình ông bà không đọc kinh tối, không phải vì không có thời giờ hay vì bận làm việc, mà lý do chính là vì nghĩ rằng đọc kinh dự lễ hàng ngày là điều không cần thiết, chỉ cần đi lễ Chúa nhật là đủ. Tôi hỏi vậy để cho thấy việc đọc kinh tối cũng quan trọng không kém gì việc giữ gìn sức khỏe và sự an toàn của các người thân trong gia đình, cũng có giá trị như một số tiền thiêng liêng, giúp bớt phần phạt cho người thân là tiên nhân ông bà đã qua đời, và giá trị của việc đọc kinh cũng có thể tương đương với số tiền cần chi dùng hàng ngày”.

Năm nay Giáo hội với chủ đề “đồng hành cùng gia đình” như muốn mời gọi các gia đình hãy mời Chúa Giê-su đến trong gia đình bạn. Hãy để Chúa hiện diện và chúc phúc cho gia đình. Có Chúa chúng ta thêm ơn thánh để sống đẹp lòng Chúa, đẹp lòng nhau. Có Chúa chúng ta sẽ vượt thắng những yếu đuối bản năng để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa.

Cuộc sống hạnh phúc biết bao khi có Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chính Ngài sẽ ban tặng bình an cho con người. Chính Ngài sẽ dẵn dắt con người đi trong chân lý vẹn tuyền. Nhưng tiếc thay, con người vẫn cứ nuôi dưỡng hoài bão tự tạo bình an theo ý mình. Ai cũng đòi theo ý mình nên thế gian thường nổi loạn, chống đối và loại trừ nhau. Con người lấy mình làm trung tâm nên chẳng ai nghe ai, chẳng ai chịu ai dẫn đến một thế giới hỗn độn, cá lớn nuốt cá bé, người người tranh chấp tị hiềm nhau.

Ước gì lời cầu chúc Noel an bình là lời cầu chân thành ước mong cho Thiên Chúa ở cùng nhân loại chúng ta. Cầu cho mọi người trên trái đất đều tin nhận Thiên Chúa. Cầu cho mọi người biết quy phục Thiên Chúa và dành cho Ngài quyền tối thượng dẫn dắt nhân loại đi trong bình an và hạnh phúc.

Ước gì Thiên Chúa là Đấng Emanuel luôn ở cùng chúng ta và ban bình an hạnh phúc cho muôn nhà trong đêm Giáng sinh hôm nay. Amen

Về mục lục

.

GIÁNG SINH, MÓN QUÀ TUYỆT VỜI

THIÊN CHÚA BAN TẶNG CHO THẾ GIỚI ‘ĐỨC GIÊSU’

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Giáng sinh đem lại cho nhân loại, cho thế giới niềm hy vọng, niềm vui lớn lao : ” Thiên Chúa chính là người Cha nhân từ, người Cha chạnh lòng thương xót, người Cha luôn mở rộng lòng đón tiếp chúng ta.Tin mừng ngày lễ Giáng sinh còn dạy chúng ta bài học thực tế, bài học hết sức nhân văn, đó là chúng ta bốn bể đều là anh em của nhau.Sứ điệp của Lễ Giáng sinh đó là “ Từ gốc tổ Giêsê sẽ đâm ra một chồi. Khắp mặt đất sẽ tràn ngập vinh quang Chúa và mọi người sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ “ ( Is 11,1 ; 40,5; Lc 3, 6).

Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện sứ thần Gabrien truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria. Chuyện kể về việc truyền tin, gặp gỡ giữa sứ thần của Thiên Chúa với Đức Maria mang một dấu ấn rất ấn tượng và quan trọng. Mẹ Maria với niềm tin đơn sơ, nhưng hoàn toàn phó thác đã khiến cho lịch sử nhân loại được tràn đầy hồng ân và Mẹ đã đem ơn cứu độ, đem chính Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô cho nhân loại.Khi sứ thần Gabrien nói với Đức Maria :” Này bà sẽ thụ thai.Sinh hạ một con trai, Đặt tên là Giêsu” ( Lc 1, 31 ). Mẹ Maria với niềm tin sâu xa, đầy trách nhiệm, đã can đảm cộng tác với Thiên Chúa để cho “ Con của Thiên Chúa được trở thành con người giữa muôn người trong thế giới, trong trần gian. Qua lời thưa xin vâng làm theo thánh ý Chúa, Mẹ Maria đã trở thành khuôn mẫu lý tưởng cho mọi người tin trong Mùa Vọng.

Tin Mừng của Giáng Sinh là Thiên Chúa đã làm người và ở giữa nhân loại, ở giữa chúng ta.Tin Mừng ấy là “ Tất cả chúng ta hãy vui mừng trong Chúa,Vì Đấng cứu độ chúng ta đã sinh xuống gian trần.Hôm nay từ cõi trời cao thẳm, Bình an đích thực đến giữa chúng ta “. Tin Mừng ấy là “ Một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta và một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta “ ( Is 9,5 ). Thực tế, Chúa đã hóa thân làm người, để con người được trở nên con cái của Chúa.Thánh Gioan viết :” Những ai tin ở Người thì Người ban cho quyền được làm Con Thiên Chúa “ ( Ga 1, 12 ).

Thiên Chúa xuống làm người “ Emmanuen “ nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta “. Quyền năng mà Thiên Chúa đem lại cho mầu nhiệm Giáng sinh gồm hai mặt: một mặt Thiên Chúa là Cha và mặt khác chúng ta đều là anh em của nhau.Quyền năng hay sứ điệp của mầu nhiệm Giáng sinh là món quà quý giá Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta. Thánh Phaolô viết :” Đức Giêsu là quà tặng quý giá nhất Thiên Chúa trao gởi cho con người” ( Ga 3, 16 ). Giáng sinh mỗi người chúng ta cũng hãy dâng lên cho Thiên Chúa tấm lòng đơn sơ, chân thành của chúng ta và rồi như món quà vô giá là chính Đức Giêsu, chúng ta đã lãnh nhận nơi Thiên Chúa qua Mẹ Maria.Chúng ta cũng hãy trao tặng, chia sẻ niềm vui, vật chất cho những người nghèo, những kẻ cô đơn, vất vưởng, những kẻ bé nhỏ, khó nghèo. Hài Nhi Giêsu, chắc chắn đang mong chờ chúng ta thực hiện những điều đó.

Chúng ta hãy cùng một thi sĩ vô danh đã viết về Giáng sinh :
” Khi bài ca của các Thiên thần ngừng bặt,
khi ngôi sao trên bầu trời đã đi khỏi,
khi các Vua Chúa và Hoàng tử đã ở nhà,
khi các mục đồng đã cùng đàn súc vật trở về,
thì công việc Giáng sinh mới bắt đầu :

“để tìm lại những gì đã mất,
để hàn gắn những gì đã gẫy,
để người đói được ăn no,để tù nhân được giải phóng,
để các nước xây dựng lại,để đem lại hòa bình đến với mọi người,để hòa nhạc bằng trái tim “.

“ Lạy Chúa, Chúa đã sai Con một Chúa
là nguồn ánh sáng thật đến soi chiếu trần gian
làm cho đêm cực thánh này bừng lên rực rỡ.
Xin cho chúng con ngày nay ở dưới thế được
mầu nhiệm Giáng Sinh soi dẫn,
mai sau cũng được cùng Con Một Chúa
hưởng vinh phúc trên trời.
Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời “. Amen ( Lời nguyện nhập lễ thánh lễ ban đêm ).

Về mục lục

.

KHAI MỞ THỜI KỲ HỒNG PHÚC

Lm. Inhaxiô Trần Ngà 

Năm 1945, quân đội nước Đức do Hitler cầm đầu bị liên quân đồng minh đánh bại thê thảm, nước Đức trở nên hoang tàn đổ nát và sau đó, vào năm 1949, nước này bị chia cắt thành 2 quốc gia thù nghịch là Đông và Tây Đức.

Vào ngày 13 tháng 8 năm 1961, nhà cầm quyền Đông Đức cho xây lên một bức tường bê tông cốt thép cao 3,6 m và dài chừng 160 km dọc theo biên giới đôi bên, để ngăn chặn làn sóng người tỵ nạn từ Đông Đức tràn sang Tây Đức.

Ngoài ra, Đông Đức còn cho xây dựng tới 302 tháp canh tại những khu vực trọng yếu dọc bức tường này, gắn thêm nhiều đèn pha, bố trí nhiều lính canh cùng với đàn chó dữ canh phòng cẩn mật. Những người lính canh được lệnh bắn chết bất cứ ai tìm cách vượt qua bức tường này.

Thế là có hơn 170 người Đông Đức đã phải bỏ mạng khi tìm cách vượt qua tường thành này. Ngoài ra, có chừng 75.000 người Đông Đức đã bị tòa án luận tội vì mưu toan vượt tường trốn qua Tây Đức. Những người này có thể lãnh án 8 năm tù. Còn những ai giúp đỡ người chạy trốn còn có thể bị án tù chung thân.

Thế là bức tường ô nhục này đã chia cắt một nước Đức duy nhất thành hai quốc gia đối lập, xô đẩy đồng bào ruột thịt trong cùng một nước trở thành hai lực lượng đối kháng, đồng thời ngăn chặn không cho đồng bào ở 2 bên bức tường thăm viếng, gặp gỡ và chung sống hoà bình với nhau.

Thế rồi giờ phút lịch sử đã đến:

Vào ngày 9 tháng 11 năm 1989, sau khi có thông báo của nhà cầm quyền Đông Đức cho phép người dân Đông Đức có thể đi qua Tây Đức mà không phải xin phép như trước, thế là hàng ngàn, hàng vạn người từ Đông Đức tràn qua Tây Bá Linh ăn kem, uống cà-phê nghe nhạc, đi siêu thị mua sắm và ca hát vang đường. Một số thanh niên leo lên bức tường Bá Linh reo hò. Số người tập trung tại chân tường càng lúc càng đông… Nhiều người dùng búa, xà-beng và đủ các vật dụng khác… đập bỏ nhiều mảng của bức tường, rồi sau đó có cả những xe ủi tham gia phá đổ bức tường.

Thế là bức tường ô nhục chia cắt hai miền đất nước được triệt hạ và nhờ đó, người dân hai miền được chung sống trong hoà bình hạnh phúc.

Sự chia cắt của nước Đức trong suốt 28 năm bởi bức tường Bá Linh phản ánh một sự chia cắt đau thương và trầm trọng hơn rất nhiều, đó là sự chia cắt giữa Thiên Chúa và loài người do tội lỗi gây ra.

Từ ngày nguyên tổ phạm tội, một bức tường vô hình do tội lỗi dựng lên đã tạo nên ngăn cách giữa loài người với Thiên Chúa. Bức tường này tuy vô hình nhưng khả năng chia cắt của nó thật khủng khiếp.

Bức tường vô hình và ô nhục này giống như một con đê lớn, đã ngăn chặn không cho vô vàn hồng phúc của Thiên Chúa tuôn đến với loài người.

Bức tường quái ác này có tác dụng như một con dao sắc bén khổng lồ cắt đứt tình nghĩa giữa con người và Thiên Chúa.

Bức tường ô nhục này đã ngăn chặn không cho loài người trở về với Cha của mình là Thiên Chúa, không cho họ trở về quê thật của mình là cõi phúc thiên đàng, mà buộc họ phải sống lây lất, vất vưởng trên cõi đời ô trọc này trong bất hạnh và cuối cùng phải sa vào hoả ngục là chốn đau thương muôn đời muôn kiếp.

Thiên Chúa là Cha nhân lành không nỡ để cho loài người là con cái Ngài phải sống trong tình trạng khốn cùng này mãi, nên đã lên kế hoạch phá đổ bức tường quái ác này.

Theo kế hoạch này, Thiên Chúa Cha trao ban Người Con một của mình cho nhân loại và Con Một Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa đã chấp nhận xuống thế làm người,

Để triệt hạ bức tường ô nhục này,

Để giao hoà con người với Thiên Chúa,

Để cho muôn người được trở về với Thiên Chúa là Cha của mình,

Để cho tình thương và ân sủng của Thiên Chúa được thông ban chứa chan cho nhân loại, Để sự sống thần linh của Thiên Chúa được ban tặng cho muôn người, nhờ đó muôn dân được sống trong hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa trên thiên quốc.

Thế là nhờ biến cố quan trọng này, một trang sử mới được mở ra cho nhân loại, một thời kỳ hồng phúc được khai mở cho cả loài người.

Lạy Chúa Giê-su,

Chúng con hết lòng cảm tạ, tôn vinh, chúc tụng Chúa đã hạ mình xuống thế làm người phàm hèn như chúng con để triệt hạ bức tường ô nhục ngăn cách chúng con với Thiên Chúa, nhờ đó, muôn vàn hồng ân cao quý của Chúa được tuôn đến với chúng con.

Đây là hồng ân cao quý nhất và là nguồn hạnh phúc vô biên mà Chúa đã dành cho chúng con.

Xin cho chúng con biết chia sẻ hồng phúc này, niềm hạnh phúc vô biên này cho nhiều anh chị em chưa biết Chúa, bằng cách giúp họ nhận biết Chúa là Đấng cứu độ và đặt trọn niềm tin vào Chúa như chúng con. Amen.

Về mục lục

.

ĐÓN NHẬN ĐẤNG CỨU THẾ

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Ngày nay, để giới thiệu một nhân vật hoặc một sản phẩm mới, các nhà tổ chức phải tìm mọi cách để làm nổi bật nhân vật, sản phẩm mà họ muốn giới thiệu qua mọi phương tiện. Để giới thiệu về bản thân cho công chúng, các ca sĩ cũng phải mượn báo chí và các kênh thông tin, kể cả việc tạo ra những vụ lùm xùm để gây sự chú ý của cộng đồng. Trong việc đưa Con Thiên Chúa vào trần gian, Thiên Chúa đã không làm theo kiểu của con người, trái lại, Ngài để cho Con của mình bước vào đời một cách hết sức âm thầm, bình dị đến độ khó tin, khó chấp nhận.

Bài Tin Mừng hôm nay nối tiếp đoạn Tin Mừng chúng ta nghe đêm hôm qua. Thánh Luca thuật lại: Vào đêm Chúa Giêsu giáng sinh, sứ thần của Thiên Chúa đã hiện ra báo tin cho các mục đồng: Đây ta báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành của Đavít, Người là Đấng Kitô. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: Anh em sẽ thấy một trẻ sơ sinh, được bọc trong khăn, đặt nằm trong máng cỏ. Nghe sứ thần báo tin như thế, các mục đồng đã hối hả tìm tới nơi để gặp Đấng Cứu Thế.

Thiên Chúa có những cách hoàn toàn khác để thực hiện chương trình của Ngài. Những con người đầu tiên được báo tin vui giáng sinh không phải là những nhà báo hoặc giới truyền thông, nhưng lại là những trẻ chăn chiên chăn bò. Các mục đồng là thành phần thấp kém trong xã hội Do Thái, thường là những người nghèo phải đi chăn chiên thuê, họ bị khinh rẻ loại trừ. Thiên Chúa chọn các mục đồng là những người đầu tiên được đón nhận tin vui giáng sinh bởi vì họ là những người thiện tâm. Họ là những người nghèo trước mặt mọi người, nhưng lại giàu lòng yêu mến Thiên Chúa và khát khao đợi chờ Đấng Cứu Thế. Họ bị những người Do Thái khinh thường, nhưng trước mặt Thiên Chúa, không ai bị khinh thường và cũng không ai bị loại ra khỏi tình thương cứu độ của Ngài. Tiên tri Isaia khi tiên báo về ngày Đấng Cứu Độ cũng nhắc đến một thành phần thấp kém trong xã hội bấy giờ được ưu tiên đón nhận tin vui, đó là các thiếu nữ: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Kìa ơn cứu độ của ngươi đang tới, Ngài mang theo phần thưởng và các chiến lợi phẩm. Những ai đón nhận Đấng Cứu Thế thì được gọi là “dân thánh” là “những người được cứu chuộc”. Thiên Chúa sẽ thay đổi thân phận con người, mang lại cho con người phẩm giá cao quý: Phụ nữ trở nên có giá như cô gái đắt chồng, thành phố thì được yêu mến và không bị bỏ hoang nữa.

Khi đón nhận tin vui giáng sinh, các mục đồng lập tức chỗi dậy, lên đường tìm kiếm Đấng Cứu Thế ngay trong đêm. Họ đi với một tâm trạng hồ hởi vui mừng và mong chờ được gặp Đấng mà các tổ phụ, các tiên tri đã loan báo. Tin Mừng kể lại: Họ hối hả ra đi và gặp bà Maria, ông Giuse và Hài Nhi mới sinh đặt nằm trong máng cỏ. Khung cảnh họ nhìn thấy đầu tiên không phải là một tòa nhà sang trọng, mà là một gia đình đơn sơ nghèo nàn, nhưng mỗi thành viên lan tỏa ra sự thánh thiện. Họ cũng đã gặp được Hài Nhi mới sinh, bọc trong khăn và đặt trong máng cỏ như sứ thần đã báo trước. Mặc dù Tin Mừng không nói đến, nhưng chắc chắn các mục đồng đã tin và đã sấp mình thờ lậy trước Hài Nhi bé nhỏ. Các mục đồng sung sướng hạnh phúc vì thấy được một Thiên Chúa giống như họ, đồng cảm và chia sẻ cảnh nghèo khó đơn sơ và bị loại trừ như họ. 

Cuộc gặp gỡ của các mục đồng với Hài Nhi Giêsu quả thật là một cuộc gặp gỡ trong đức tin, đòi một bước nhảy dài. Các mục đồng phải vượt qua khung cảnh đơn sơ nghèo khó này, để tin Hài Nhi bé nhỏ yêu ớt kia là một vị Thiên Chúa, Đấng Tạo dựng và điều khiển mọi vật mọi loài. Các mục đồng đã hoàn toàn được biến đổi để trở thành những người tiếp tục loan báo tin vui giáng sinh cho mọi người. Tin Mừng kể tiếp: Họ kể lại cho mọi người những gì họ đã nghe và đã thấy về Hài Nhi. Những kẻ nghe họ kể lại cũng ngạc nhiên về những gì được thuật lại. Các mục đồng ra về,vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa, vì những điều họ đã được tai nghe mắt thấy. Điều đó cho thấy rằng, niềm vui giáng sinh đã thấm sâu vào tâm hồn các mục đồng và lan tỏa qua từng bước chân, từng lời nói của họ.

Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Ngài muốn ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người, những kẻ nghèo khó và người có tâm hồn thành tâm thiện chí được Thiên Chúa ưu tiên tỏ mình ra. Thánh Phaolô đã quả quyết như thế và còn nhấn mạnh rằng: Thiên Chúa yêu thương và ban ơn cứu độ cho ta, không phải vì ta đã làm những việc công chính, nhưng chỉ do tình thương của Chúa mà thôi. Nhờ ơn của Bí tích Rửa Tội, Thiên Chúa đã tái sinh chúng ta nên con người mới và Ngài còn ban Chúa Thánh Thần trên chúng ta nhờ Đức Giêsu Kitô. Chính nhờ Đức Giêsu Kitô mà chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời.

Tuần vừa qua, một linh mục thuộc Ủy ban Đòan kết đã lên tiếng xin chính phủ chấp thuận cho ngày lễ Chúa Giáng sinh trở thành ngày nghỉ toàn quốc. Việc thỉnh cầu này nếu được chấp thuận (mặc dù khó), kết quả của nó sẽ đem lại gì cho đời sống đức tin của người tín hữu? Giả dụ lễ Chúa Giáng Sinh trở thành ngày nghỉ, thì sớm muộn cũng sẽ chỉ còn là dịp lễ hội, lễ nghỉ, để mọi người đi chơi, xa hơn là đi lễ. Ngay thời điểm hiện nay, nhiều người tín hữu chỉ hòa mình vào niềm vui bên ngoài mà bỏ quên niềm vui đích thật trong tâm hồn. Nhiều người, nhiều gia đình tổ chức ăn uống, mừng lễ giáng sinh rất to, trang trí rất đẹp, nhưng hình như họ đã quên nhân vật chính và quên ý nghĩa chính của ngày đại lễ Chúa Giáng sinh. Các trang trí giáng sinh chỉ còn là những hình ảnh biểu tượng thế tục, các hình ảnh đơn sơ thánh thiện của hang đá, của Hài nhi và gia đình Thánh Gia, đã trở nên càng ngày càng hiếm. Nhiều người bị cuốn vào lễ hội Noel đường phố giống như ngày lễ của ông già Noel; các tụ điểm vui chơi, gọi là mừng lễ giáng sinh mà không biết ai giáng sinh, tức là một lễ giáng sinh không có Chúa. 

Tình trạng lễ Chúa Giáng sinh không có Chúa đang diễn ra không chỉ ở những trang trí và các lễ hội bên ngoài, nó bắt nguồn không chỉ từ phong trào tục hóa, mà từ nơi tâm hồn nhiều tín hữu. Nhiều người trong chúng ta không cảm nhận được tình thương cứu độ của Thiên Chúa dành cho mình. Nhiều người đã từ chối không tin, không đón nhận Chúa Giêsu là Chúa là Đấng cứu độ của mình. Vì thế đã bao mùa Giáng sinh trôi qua, họ vẫn không chuẩn bị gì cho tâm hồn, để khi mùa Giáng sinh qua đi giống như cây thông, và các đồ trang trí lại được dọn dẹp cất vào một chỗ để năm tới đem ra trưng bày như cũ, không thêm lòng tin, cũng không thêm lòng yêu mến và không biến đổi gì.

Sự tục hóa ngày lễ Chúa Giáng sinh đang ảnh hưởng trực tiếp trên người trẻ. Các thống kê cho thấy, cứ sau mùa lễ Chúa Giáng sinh, các ca nạo phá thai tại các bệnh viện và cơ sở y tế lại tăng mạnh. Lý do là đêm 24/12 trở thành dịp ăn chơi, sa đọa thâu đêm, khiến cho nhiều bạn trẻ không thể dừng lại, để mình bị bản năng, dục vọng điều khiển. Những bạn trẻ này không chỉ xúc phạm đến ngày lễ Chúa Giáng Sinh mà còn xúc phạm nặng nề luật Chúa, làm tổn thương đến cuộc đời mình và tiếp tục gây thêm tội ác giết hại các thai nhi.

Mừng lễ Chúa Giáng sinh, chúng ta cầu xin Chúa cho mình và cho mọi người, cách riêng cho người trẻ biết vui hưởng một mùa Giáng Sinh thật thánh thiện an bình. Xin cho tất cả mọi người chúng ta gặp được Chúa Giêsu Hài Nhi không chỉ trong hang đá, nhưng còn trong Bí Tích Thánh Thể khi ta đón rước Ngài vào tâm hồn. Xin cho chúng ta noi gương các mục đồng, ra về trong hân hoan và nói cho mọi người về những gì mình cảm nhận, đã nghe và đã thấy. Amen.

Về mục lục

.

MẦU NHIỆM CỔ XƯA NHẤT

JM. Lam Thy

 Trong Những Quy luật tổng quát về Năm Phụng vụ và Niên lịch “Normæ de Anno liturgico et Calendario” có viết: “Sau việc cử hành hàng năm mầu nhiệm Vượt Qua, Hội Thánh không có việc cử hành nào cổ xưa bằng việc kính nhớ Chúa Giáng Sinh và kính nhớ những lần tỏ mình đầu tiên của Người: đó là Mùa Giáng Sinh.” (AC, 32). Đó cũng là lý do khi chia sẻ về mầu nhiệm Giáng Sinh rất dễ mà cũng rất khó. Dễ vì về mặt tài liệu tham khảo, dẫn chứng thì có vô vàn vô số, không thể thống kê nổi (từ những văn kiện truyền thống của Giáo hội, đến những bài viết của hàng Giáo phẩm và của Ki-tô hữu giáo dân). Cũng rất dễ vì Lễ Giáng Sinh đã trở thành một lễ chung của thế giới (không phân biệt tôn giáo) diễn ra hàng năm trên khắp mặt địa cầu (từ phố thị đến thôn quê, từ những đại lộ thênh thang đến những hang cùng ngõ hẻm, từ những ngôi nhà nguy nga tráng lệ đến những mái là nghèo nàn đơn sơ…). Bài viết sẽ trở nên rất phong phú vì những tài liệu, những thực cảnh dẫn chứng vô cùng đa dạng và sinh động.

Tuy nhiên, lại cũng rất khó vì tính cách “không có việc cử hành nào cổ xưa bằng việc kính nhớ Chúa Giáng Sinh” (ibid). Gặp phải đối tượng là những khán thính giả khó tính, chỉ thích những gì “mới thật mới”, chắc chắn không khỏi nghe tiếng chẹp miệng phản hồi: “Ôi dào! Chuyện xưa như trái đất, có chi mà cứ lải nhải hoài”. Kẻ viết bài này không bi thảm hoá vấn đề đâu, vì đã có một số cây viết trên những trang web Công Giáo nói rằng những bài Thánh ca Giáng Sinh sáo mòn cũ rích năm nào cũng lặp đi lặp lại, ra rả bên tai một cách nhàm chán vô vị. Thế đấy! Mà thôi, mỗi người có cách nhìn (quan điểm) riêng và có thế mới gọi là “C’est la vie” (Đời mà! – “Đời là thế, thế thời phải thế!”). Chỉ xin cố gắng dàn trải những cảm nghiệm, suy nghĩ về một sự kiện rất cũ (cổ) và rất mới (kim) nhưng lại rất vĩ đại và có sức thu hút rất mãnh liệt này. Đó chính là một “Đệ nhất cổ kim kỳ sự” (sự kiện lạ lùng số một xưa nay): Con Thiên Chúa giáng trần.

Vâng, lễ Giáng Sinh lần thứ 2017 lại tới. Cũng vẫn như mọi năm, sự náo nức chuẩn bị mừng đón Đấng Cứu Tinh, những cây thông, những hang đá, những tượng ảnh tràn lan khắp nơi, trong một bầu khí nồng ấm nhộn nhịp vui tươi, với những bản thánh ca không bao giờ cũ (vì đã vượt cả thời gian và không gian). Cách đây 2017 năm, loài người cũng trông đợi Vua Tình Yêu đem an bình xuống cho nhân loại như vậy. Người đã đến và đêm Hoà Giải đã xảy ra, nhưng con người đã đón vị cứu tinh ấy bằng một Vua-sát-thủ Hê-rô-đê quyền lực “sai quân tru diệt hết các trẻ con tại Be-lem và toàn vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo thời gian ông đã hỏi kỹ nơi các đạo sĩ.” (Mt 2, 16).

Cách đây 20 thế kỷ, loài người đã đón tiếp vị Sứ giả Hoà Bình, đã đón nhận sự hoà giải như vậy đó. Cứ tưởng ở thời đại thượng cổ mới xảy ra như vậy, còn ngày nay trong một xã hội văn minh tiến bộ, thì làm gì có những chuyện đó. Vậy mà trải qua 2017 lần kỷ niệm ngày Hoà Giải, ngày nay cũng vẫn còn hàng loạt sinh mạng chết từ trong trứng nước (nạo phá thai, huỷ diệt trứng, tinh trùng), rồi cũng hàng loạt sinh mạng trưởng thành thuộc đủ mọi giai cấp, nhưng đa số vẫn là thường dân thuộc giai cấp thấp cổ bé miệng, chết vì chiến tranh, vì khủng bố. Loài người được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Người, vậy thì những sinh mạng mang hình ảnh Thiên Chúa ấy bị giết hại thì phải chăng loài người cũng chẳng kém gì Hê-rô-đê thủa xưa lùng giết Đức Giê-su Thiên Chúa vậy.

Với quyền năng của Thiên Chúa thì sá gì một Hê-rô-đê, mà dù cho có đến cả triệu triệu Hê-rô-đê đi chăng nữa cũng chỉ là số không. Nhưng với thân phận con người mà Ngôi Hai Thiên Chúa đã mặc lấy, thi chỉ cần một Hê-rô-đê thôi cũng đã khiến hàng loạt hài nhi bị giết, và Hài Nhi Giê-su phải trốn sang Ai Cập. Cứ nghĩ đến cuộc đối thoại giữa đám đông người Do Thái với Thánh Gio-an Tiền Hô (“Đám đông hỏi ông rằng: “Chúng tôi phải làm gì đây ?” Ông trả lời : “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.” Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông : “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì? ” Ông bảo họ: “Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh.” Binh lính cũng hỏi ông : “Còn anh em chúng tôi thì phải làm gì? ” Ông bảo họ “Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình.” – Lc 3, 10-14); rồi nhìn kỹ lại bản thân, nhiều khi kẻ viết bài này giật mình, sợ đến toát mồ hôi, vì thấy mình cũng – một cách nào đó – giống như Hê-rô-đê.

Thật thế, đã chẳng hơn một lần trong vai trò người thu thuế tôi đã gian lận, đã đòi hỏi quá mức ấn định cho mình, để rồi dùng số thặng dư đó vào những canh bạc đỏ đen; cũng đã hơn một lần trong vai trò thủ quỹ, tôi đã thụt két, đã biển thủ để có dịp lao vào đề đóm, cá độ bóng đá; cũng đã hơn một lần trong vai trò người lính, tôi đã mượn những chiêu bài bảo vệ an ninh, giữ gìn trật tự, để khảo của, tống tiền, hà hiếp người khác… Rồi biết bao nhiêu lần tôi không chỉ có 2 áo, mà là đùm đề áo đơn áo kép, mô đen nọ, kiểu dáng kía, nhưng tôi đã ngoảnh mặt đi khi thấy những người anh em co ro da bọc xương chìa tay xin. Cũng không biết bao nhiêu lần tôi đã làm ngơ trước những người anh em bệnh hoạn, tật nguyền, tù tội, hoặc cùng lắm là kiếm vài hộp sữa, vài gói mì tôm… rình rang ném cho họ với một thái độ dửng dưng chai đá đến lạ lùng. Chưa hết đâu, cũng không biết bao nhiêu lần tôi cố tình đào sâu những tị hiềm ghen ghét để đi đến chỗ “giết người không đao”; không những thế, khi thấy anh em bất hoà, kiện tụng nhau, tôi chẳng những đã không hoà giải, mà còn “xui nguyên giục bị” khiến họ càng chồng chất oán thù. Nhiều, nhiều lắm, nhiều quá lắm! Và như vậy thì tôi đâu thua kém gì Hê-rô-đê!

Cứ tưởng chuyện Hê-rô-đê-sát-thủ “xưa như trái đất”; thật không thể ngờ thời đại hoàng kim này vẫn còn nhan nhản những Hê-rô-đê-thời-đại. Chính vì thế, Lễ mừng Con Thiên Chúa Giáng Sinh rất cũ mà cũng rất mới. Cũ vì nó đã xảy ra trên 2.000 năm, nhưng rất mới vì ngày giờ nào Đấng Cứu Tinh cũng luôn luôn sẵn sàng Giáng Sinh không phải nơi hang bò lừa, mà là trong cung lòng mỗi người, mọi người (“Khi chiêm ngưỡng nơi Mẹ Thiên Chúa một cuộc đời hoàn toàn do Lời lên khuôn, ta hiểu được rằng cả ta nữa cũng được mời gọi bước vào mầu nhiệm đức tin, nhờ đó, Chúa Ki-tô tới cư ngụ trong đời ta. Thánh Am-brô-si-ô nhắc nhở ta rằng xét theo một phương diện nào đó, mọi tín hữu Ki-tô đều tượng thai và sinh hạ Lời Thiên Chúa; mặc dù chỉ có Mẹ Thiên Chúa là tượng thai bằng xương bằng thịt, còn chúng ta, Chúa Ki-tô là con cái mọi người chúng ta trong đức tin.” – Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini”, số 20). Duy chỉ có điều con người có sẵn sàng “lấp cho đầy mọi thung lũng tị hiềm thù hận, bạt cho thấp mọi núi đồi ngạo mạn kiêu căng, uốn cho ngay mọi khúc quanh co gian hiểm, san cho phẳng mọi đường lồi lõm ghét ghen” để đón tiếp Người, hay lại tiếp đón Người như một Hê-rô-đê-thời-đại, mà thôi.

Tóm lại, xin hãy lắng nghe lời dạy của ĐGH Phan-xi-cô: “Cả chúng ta nữa, hãy để cho Chúa Giê-su chất vấn và triệu mời chúng ta đến đêm nay, hãy đến với Chúa với lòng tin tưởng, bắt đầu từ nơi mà chúng ta cảm thấy bị thiệt thòi, từ những giới hạn của chúng ta. Hãy để cho mình đụng chạm đến được tình hiền dịu cứu chuộc. Hãy để cho mình xích lại gần Thiên Chúa, Đấng đã trở nên gần gũi; hãy dừng lại để ngắm nhìn hang đá, hình tưởng lại cuộc giáng thế của Chúa Giêsu: ánh sáng và bình an, nghèo hèn và bị chối từ. Chúng ta hãy bước vào Lễ Giáng Sinh thực sự với các mục đồng, chúng ta mang đến cho Chúa Giê-su những gì chúng ta đang có, là sự bỏ rơi, những vết thương không được chữa lành của chúng ta. Và như thế, trong Chúa Giê-su chúng ta sẽ cảm nếm được tinh thần thực sự của Lễ Giáng Sinh: vẻ đẹp của người được Thiên Chúa yêu thương. Cùng với Đức Maria và Thánh cả Giu-se chúng ta đang đứng trước máng cỏ, trước Chúa Giê-su giáng thế như bánh mì (1) cho cuộc đời chúng ta. Khi chiêm ngưỡng tình yêu khiêm hạ và vô biên, chúng ta hãy nói với Chúa lời tạ ơn: Tạ ơn Chúa vì Ngài đã thực hiện tất cả những điều đó cho con.” (xc. Bài giảng lễ Đêm Giáng Sinh 2016 của ĐGH Phan-xi-cô – nguồn: Vatican.net))

Ôi! Lạy Chúa! Con biết cung lòng con vô cùng nhơ nhuốc, mà Chúa vẫn sẵn sàng đến ngự, rồi còn mời gọi con “hãy dâng tất cả sự yếu đuối và tội lỗi của con cho Ta”. Vâng, con nguyện dâng Chúa tất cả cuộc đời của con, cúi xin Chúa chuẩn nhận và tha thứ hết mọi lỗi lầm, để cung lòng con được “tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an” (2Pr 3, 14) như máng cỏ Bê-lem thủa xưa được vinh dự mừng đón Chúa giáng trần. Xin cho con được cùng với các mục đồng dưới thế hoà ca cùng thần thánh trên cõi trời cao, mà tung hô rằng:

 

Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

Bình an dưới thế cho người thiện tâm.

 

————————

Chú thích: (1) ĐGH đã dùng nghĩa đen của chữ Bê-lem (Bethlehem) theo tiếng Do Thái có nghĩa là “nhà bánh mì” (xc. Bách khoa toàn thư mở “Wikipedia”).

Về mục lục

.

NGÔI LỜI TỰ HỦY ĐỂ NÊN NGƯỜI PHÀM

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Nếu lễ Đêm Giáng Sinh, Phụng Vụ Giáo Hội tập trung để giới thiệu Đức Giêsu là Ánh Sáng của Thiên Chúa. Ngài đến để chiếu soi nhân loại và giải thoát con người khỏi bóng đêm tội lỗi. Thánh lễ Rạng Đông thì nhấn mạnh đến tình yêu của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi các mục đồng là đại diện cho những người bé mọn, nghèo khổ và bị loại ra bên lề. Còn thánh lễ này, Phụng Vụ Lời Chúa muốn nhấn mạnh đến sự tự hạ của Đức Giêsu khi giới thiệu Ngài chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa, nhưng đã chấp nhận trở nên người phàm và cư ngụ giữa nhân loại để cứu chuộc con người.

  1. Vì yêu, nên Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể

Khởi đầu Tin Mừng thánh Gioan đã viết: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm
và cư ngụ giữa chúng ta”
 (Ga 1, 14). Đây là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm này vượt quá sự hiểu biết, suy tư của con người! Bởi vì theo lẽ thường thì hiểu sao được khi một vị Thiên Chúa toàn năng vô biên, trí tuệ khôn lường; Ngài là Đấng hằng hữu, trường cửu; Đấng tạo dựng đất trời và biển khơi; Đấng làm chủ không gian và thời gian; Đấng là nguồn mạch sự sống và mọi điều thiện hảo…. (x. Dt 1, 3; Cl 1,15). Thế mà hôm nay, Ngài lại trở nên một con người hữu hạn và chịu sự chi phối như một loài thụ tạo bình thường với những truyền thống và văn hóa của một dân tộc nhỏ bé.

Đây quả là điều rất khó hiểu đối với chúng ta!

Nhưng, theo thánh Gioan, chìa khóa để mở ra cho chúng ta hiểu được mầu nhiệm cao cả này, chính là hai chữ “tình yêu”.

Vì thế, ngài viết: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16 ). Lúc khác ngài khẳng định: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4, 16).

Chính vì yêu, Thiên Chúa Cha đã trao ban cho nhân loại món quà quý giá nhất là Con Một của Người. Cũng chính vì yêu, nên khi đến lượt mình, Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta (x. Ga 1, 14 ). Khi trở nên một Đức Giêsu – người, Ngài cũng trở thành Đấng Cứu Chuộc, Hoàng Tử Hòa Bình, Vua muôn thủa và Ánh Sáng chiếu soi mọi người để dẫn đưa nhân loại về với nguồn sự thật và sự sống để được hạnh phúc viên mãn.

Đây là điều mà chính Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta. “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa, và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” ( Ga 1, 18 ), Nhờ sự mạc khải đó mà: “Toàn cõi đất này được xem thấy: Ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta” (Tv 97, 3 ).

Tuy nhiên,  hơn hai ngàn năm đã trôi qua kể từ khi Ngôi Lời đặt chân trên trái đất. Ngài đã thắp lên ánh sáng trong bóng đêm. Ngài chính là Ánh Sáng chiếu soi mọi người (x. Ga 1,9). Tiếc thay, nhiều người đã chọn bóng tối, vì bóng tối dễ chịu hơn, dễ đồng lõa hơn (x. Ga 3,19). Vì thế, chúng ta không lạ gì khi Ngôi Lời đã đến nhà của Ngài, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (x. Ga 1,11).

  1. Đón nhận Ngôi Lời như thế nào?

Đây là một nỗi buồn cho nhân loại. Là tấm màn đen của thế giới con người. Là cảnh buồn và ảm đạm trong một thước phim vui. Vì thế, mỗi lần Giáng Sinh về, Giáo Hội không ngừng mời gọi con cái của mình không chỉ mừng lễ với những đèn sao nhấp nháy, tiệc tùng linh đình và những thứ bề ngoài khác. Ngược lại, Giáo Hội không ngớt lên tiếng thúc dục mọi thành phần hãy chuẩn bị tâm hồn cho thật xứng đáng, để đón nhận mầu nhiệm vĩ đại của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu vào trong tâm hồn của mình.

Một trong những cách thiết thực nhất thể hiện việc sẵn sàng đón nhận Chúa đến với mình, đó là mặc lấy tâm tình của Đức Mẹ Maria để suy đi nghĩ lại trong lòng những gì mắt thấy, tai nghe, ngõ hầu mọi sự diễn ra trước mắt lại được ngấm thật sâu trong tâm hồn mỗi người và toát ra nơi cuộc sống. .

  1. Hãy làm cho Ngôi Lời của Thiên Chúa được hiện hữu nơi chúng ta

Như vậy, việc mừng Lễ Giáng Sinh đối với người Công Giáo chắc chắn không phải là mừng một biến cố hay kỷ niệm hoặc lễ hội thuần túy, nhưng ngang qua đó, làm toát lên một mầu nhiệm vĩ đại, mầu nhiệm cứu chuộc.

Chính vì vậy mà ơn cứu độ của Đức Giêsu đem đến không phải chỉ một lần vào đêm Ngài giáng trần, cũng không chỉ là lời hứa hẹn cho cuộc sống mai sau, mà ơn cứu độ, sức sống mới của Đức Giêsu đã được trao ban cho chúng ta ngay ngày hôm nay và lúc này.

Vì thế, nếu Con Thiên Chúa đã nhập thể, đã chấp nhận từ chỗ vị trí là Ngôi Lời, là Thiên Chúa đến chỗ Ngôi Lời hóa thành nhục để làm người và để cứu độ con người đang lầm than tội lỗi. Thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải làm cho Ngôi Lời trở nên sống động và thiết thực trong cung cách sống của mỗi người.

Nói cách khác, chúng ta cũng hãy noi gương Ngôi Lời là Đức Giêsu để làm một cuộc nhập thế ngay trong môi trường, khung cảnh sống của mỗi người.

Sự nhập thế ấy ta hiểu như một sự hóa thân để từ chỗ là một người giàu sang, quyền quý trở nên người cận thân cận lân của những người ốm đau, bệnh tật, cô thế, cô thân, nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột, bỏ rơi. Trở nên những người cha, người mẹ đầy yêu thương của các trẻ em mồ côi nơi góc chợ, vỉa hè, trên đường phố hay gầm cầu, công viên. Trở nên người thầy – cô giáo tận tâm, hướng dẫn, dạy dỗ để chắp cánh cho tương lai đầy xán lạn nơi các học sinh thân yêu. Trở thành người có trách nhiệm với người khác như: bảo vệ môi trường, bênh vực công lý, xây dựng công bình và loan báo sự thật trong tin yêu và hy vọng.

Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải làm một cuộc nhập thể khác nữa, cần thiết hơn và cấp bách hơn, đó là một cuộc nhập thể ngay trong gia đình của mình.

Nếu là người cha/ chồng nơi gia đình, thì sự nhập thể chính là trở nên người chồng, người cha mẫu mực, biết yêu thương, lo lắng, dạy dỗ con cái nên người; biết quan tâm và sống có trách nhiệm cũng như chung thủy với vợ….

Nếu là người vợ / mẹ, thì sự nhập thể chính là biết sống hiền lành, nhã nhặn, vui vẻ, vun quén cho gia đình; biết giữ hòa khí yêu thương và biết chu toàn trách nhiệm làm vợ và làm mẹ….

Nếu là người con, thì sự nhập thể chính là biết ngoan ngoãn, hiếu thảo với cha mẹ và thầy cô giáo; chú tâm đến việc học văn hóa, giáo lý nơi nhà trường và nhà thờ; chu toàn bổn phận hằng ngày trong gia đình….

Đây chính là kết quả của việc lắng nghe, suy đi nghĩ lại và tuân giữ Lời Chúa trong lòng như Mẹ Maria. Đây cũng chính là sống tinh thần Mầu Nhiệm Giáng Sinh của Đức Giêsu. Và, đây cũng chính là một hành trình nhập cuộc theo gương Ngôi Lời Thiên Chúa.

Giờ đây, chúng ta tiếp tục dâng thánh lễ để cùng nhau đi sâu hơn khi cảm nghiệm và sống mầu nhiệm tự hủy của Ngôi Lời Thiên Chúa ngay trong Bí tích Thánh Thể sắp tới.

Đây chính là quà tặng vô giá mà Đức Giêsu không ngừng ban tặng cho nhân loại, để ai tin và đón rước thì được bảo đảm cho hạnh phúc và sự sống đời đời mai sau.

Lạy Ngôi Lời của Thiên Chúa, Ngài là Đấng Emmanuel, xin cho chúng con biết cảm nghiệm sâu xa tình yêu tự hủy của Chúa, để đến lượt chúng con, mỗi người cũng biết sống mầu nhiệm ấy trong cuộc đời của mình, ngõ hầu mang lại cho nhân loại niềm hy vọng, bình an và ơn cứu độ qua mầu nhiệm nhập thể làm người của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

ÁNH SÁNG ĐỨC KITÔ

Trầm Thiên Thu

VINH DỰ ĐỨC CHÚA TRÊN TRỜI MÃI MÃI

THÁI HÒA LOÀI NGƯỜI DƯỚI ĐẤT NƠI NƠI

Đó là lời hát của Ca đoàn Thiên thần vang vọng từ chốn cửu trùng trong Đêm Hồng Ân (Lc 2:14), khi Vương Nhi Giêsu mặc xác phàm và hạ sinh nơi hèn hạ nhất. Một Vua Nghèo nhưng lại đầy quyền lực và giàu có nhất. Ngài muốn dạy chúng ta bài học sống khó nghèo, sống khiêm nhường, sống yêu thương, thực sự quan tâm chăm sóc và chia sẻ với những người nghèo hèn nhất trong xã hội, bằng hành động cụ thể chứ không bằng lời nói suông. Chính Ngài tự nguyện trở nên Vị Vua Nghèo Nhất – Đệ Nhất Hàn Vương.

Bài Thánh Ca của Ca Đoàn Thiên Thần chứa một triết lý thâm thúy. Vế thứ nhất “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời” là điều tất nhiên, nhưng vế thứ nhì là điều chúng ta cần suy nghĩ: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Nếu chúng ta chưa được bình an vì chúng ta chưa thiện tâm. Chỉ những ai thiện tâm thì mới được Chúa thương, tức là được bình an tâm hồn. Bình an tâm hồn và bình an thể lý khác nhau. Có bình an thể lý chưa chắc có bình an tâm hồn. Có thể cuộc sống của chúng ta gặp khó khăn, bị bách hại, bị tù đày, bị phiền phức nhiều thứ,… nhưng vẫn có điều chắc chắn là tâm hồn luôn được bình an. Đó mới là bình an đích thực cần thiết.

Lịch sử đã có bằng chứng minh nhiên: Các vị tử đạo không hề bình an về thể lý vì họ bị voi giày, ngựa xéo, lăng trì, xử trảm,… và chết thê thảm, nhưng tâm hồn họ vẫn luôn bình an, bởi vì họ làm đúng lương tâm, đúng giáo huấn của Thiên Chúa.

SÁNG NGỜI NIỀM TIN

Cứ mỗi lần kỷ niệm Con Thiên Chúa giáng sinh, người ta lại thấy vang lên ca khúc “Mùa Sao Sáng” của NS Nguyễn Văn Đông, với lời thoại mở đầu là lời thơ của Thi sĩ Kiên Giang: “Lạy Chúa, con là người ngoại đạo, nhưng tin có Chúa ngự trên cao”.

Mặc dù không là Thánh Ca, nhưng ca khúc “Mùa Sao Sáng”vẫn nghe như thánh ca, giai điệu vừa đẹp vừa nhẹ nhàng và ca từ cũng đẹp: “Một mùa sao sáng, đêm Noël Chúa sinh ra đời. Người hẹn cùng tôi ngày về khi đất nước yên vui. Quỳ lạy Mẹ Maria, lòng Mẹ từ bi bao la, tấu khúc nhạc lên xin ơn trên ban cho nhà Nam. Từ mùa Đông trước qua mùa Đông tiếp theo sau này, người bạn còn đi mà niềm tin vẫn thắm trên môi… Lớp lớp đoàn chiên quyết sáng danh Chúa trên trời cao… Lạy Mẹ đồng trinh ban ơn, người Việt cùng thương nhau hơn, đất nước này đây sáng đức tin Chúa trên trời cao”. Trong niềm vui mừng Chúa giáng sinh, tác giả không quên cầu xin Đức Mẹ ban ơn, nếu không là tín hữu Công giáo thì khó có thể có tâm tình với Đức Mẹ như vậy.

Không biết ông có niềm tin Kitô giáo hay không, nhưng các ca từ ông viết nghe đầy “chất” Công giáo. Phải chăng ông là người ngoại đạo nhưng luôn hướng về Chúa, luôn tin rằng “lớp lớp đoàn chiên quyết sáng danh Chúa trên trời cao” và “đất nước này đây sáng đức tin Chúa trên trời cao”? Ca từ nói về nỗi day dứt trong thời chiến nhưng ngày nay vẫn thấy phù hợp, bởi vì tuy chiến tranh bom đạn không còn nhưng có dạng chiến tranh khác vẫn xảy ra hàng ngày đâu đó trên quê hương Việt Nam nhỏ bé này.

Tuy nhiên, Niềm Tin vẫn sáng ngời soi đường dẫn lối, và đó cũng là một cách rao truyền Ơn Cứu Độ, thật là “đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị” (Is 52:7). Chúng ta luôn sống “đời vọng” vì vững lòng tín thác vào Thiên Chúa: “Trước mặt muôn dân, Đức Chúa đã vung cánh tay thần thánh của Người: ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta, người bốn bể rồi ra nhìn thấy” (Is 52:10).

Trong niềm tín thác tuyệt đối, Thánh Vịnh gia đã cất cao lời tuyên xưng: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công. Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Người. Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ, mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân; Người đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ít-ra-en. Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò đàn hát. Đàn lên mừng Chúa khúc hạc cầm dìu dặt, nương khúc hạc cầm réo rắt giọng ca. Kèn thổi vang xen tiếng tù và, tung hô mừng Chúa, vị Quân Vương!” (Tv 98:1-6).

Thật hạnh phúc khi chúng ta được kế thừa đức tin Công giáo từ bao đời nay. Và quả thật, ánh sáng đức tin đã, đang và sẽ chiếu sáng dẫn đường cho chúng ta suốt cuộc lữ hành trần thế này. Chính ánh sáng đó cũng đã soi đường cho các mục đồng và các đạo sĩ năm xưa. Ánh sáng Đức tin liên quan Lòng Thương Xót.

SÁNG NGỜI LÒNG THƯƠNG XÓT

Mùa Giáng Sinh là Mùa Sao Sáng, Mùa Bình An, Mùa Yêu Thương, Mùa Hồng Ân Cứu Độ, đồng thời cũng là Lễ Hội không chỉ riêng ai – cả Kitô giáo và không Kitô giáo. Nhịp điệu Giáng sinh có gì đó rất độc đáo, khiến lòng người vừa lắng đọng vừa chộn rộn. Nỗi mong chờ càng rút ngắn, lòng người càng nôn nao, vì không ai lại không hạnh phúc khi được gặp “người mình yêu quý nhất”, huống chi được gặp chính Đấng Cứu Độ, vị đại ân nhân của mình.

Thời điểm Chúa Giêsu giáng sinh được người ta gọi theo Anh ngữ là CHRISTMAS. Chữ Christmas tạo thành bởi chữ CHRIST (Đức Kitô) và tiếp vĩ ngữ MAS (lễ). Do đó, Christmas nghĩa là Lễ Giáng Sinh (mặc nhiên hiểu là Chúa Giêsu giáng sinh). Tương tự, chúng ta cũng có Candlemas– tức là Lễ Nến (Lễ Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu, sau Lễ Giáng Sinh 40 ngày).

Thật kỳ lạ, người ta dùng “mốc” Chúa Giêsu giáng sinh để tạo nên công lịch (dương lịch), và rồi cả thế giới cũng đồng ý sử dụng. Ngay cả những người vô thần cũng phải công nhận như vậy. Tại sao? Bởi vì người ta thấy hoàn toàn chuẩn lý, chứ không chỉ là “đa số hơn tiểu số”. Không chỉ vậy, người ta còn gọi Năm Dương Lịch là “Year of our Lord”, nghĩa là “Năm của Chúa” (sát nghĩa là “Chúa của chúng ta”). Thật là kỳ diệu quá!

Chắc chắn rằng từ cổ chí kim, trên thế giới này không có vị lãnh đạo nào hoặc vị lập đạo nào được cả thế giới đón nhận minh nhiên như vậy. Tạ ơn Chúa và thật hãnh diện khi chúng ta được nhận ra Chúa Giêsu là Ánh Sáng của Thiên Chúa và Ánh Sáng soi chiếu thế gian.

Thánh Phaolô cho biết: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1:1). Trực tiếp chứ không qua trung gian ngôn sứ nào khác. Thánh Tử là Chúa Giêsu, là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đấng Yêu Thương (1 Ga 4:8 & 16). Thánh Phaolô nói rằng Ngài phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật Ngài là Đấng tẩy trừ tội lỗi, Ngài ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời, Danh hiệu Ngài được thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu thì Ngài lại trỗi hơn họ bấy nhiêu (Dt 1:3-4).

Xưa nay Thiên Chúa chưa hề nói với vị thiên thần nào như đã nói với Đức Giêsu: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con. Ta sẽ là Cha Người, và chính Người sẽ là Con Ta” (Dt 1:5). Khi đưa Trưởng Tử Giêsu vào thế giới loài người, chính Thánh Phụ cũng đã minh định: “Mọi thiên thần của Thiên Chúa phải thờ lạy Người” (Dt 1:6).

Chúa Giêsu là Trưởng Tử, là Huynh Trưởng, là Sư Phụ, là Mặt Trời Công Chính. Giáo huấn của Ngài giản dị và ngắn gọn nhưng hàm súc và thâm thúy: Yêu thương. Tất cả chỉ tóm gọn là mến Chúa và yêu người. Nghĩa là yêu thật, phải chứng tỏ bằng hành động chứ không nói suông. Như Thánh Giacôbê xác định:“Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2:17 & 26). Lời nói gió bay, làm thì mới đáng tin! Người ta rất sợ những người mang họ “hứa”. Đối với dụ ngôn Phú hộ và Ladarô (x. Lc 16:19-31), có lẽ người ta nghe riết có thể hóa… nhàm, nhưng đó là chuyện có thật chứ không là tiểu thuyết hoặc viễn tưởng. Chúa rất thực tế khi thể hiện lòng xót thương và dạy người ta yêu thương nhau, vì Ngài bảo không thể cho hòn đá khi người ta cần bánh hoặc cho con rắn khi người ta cần cá (Mt 7:9).

Mỗi khi thấy dân chúng lầm than vất vưởng, Ngài luôn chạnh lòng thương (x. Mt 9:35-37), và rồi Ngài đã thể hiện tình thương ấy rất nhiều lần và rất cụ thể. Ngài đã làm sáng ngời tình yêu thương ở bất cứ nơi nào Ngài tới, chúng ta là môn đệ của Ngài thì cũng phải chiếu loại ánh sáng ấy cho hết mọi người, mọi nơi. Trong thời cánh chung này, Chúa không sai ai mà đích thân Ngài đến để minh chứng tình yêu, để ban phát Lòng Thương Xót, đồng thời Ngài cũng thúc giục mọi người noi gương Ngài mà thể hiện Lòng Thương Xót với tha nhân như Ngài vậy. Trao tặng hoàn toàn miễn phí và vô điều kiện, đối với cả kẻ thù nữa. Ánh sáng Tình yêu dẫn tới Nguồn sáng Cứu độ.

SÁNG NGỜI ƠN CỨU ĐỘ

Con Người Giêsu chính là Ngôi Hai Thiên Chúa. Thánh Gioan xác định: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, không có Người thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1:1-3). Ngôi Lời đó đã hóa thành nhục thể, mặc xác phàm, trở nên hoàn toàn giống phàm nhân – trừ tội lỗi. Thật vậy, “điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1:4-5). Chính Ngôi Lời Nhập Thể là Ánh sáng chiếu soi muôn dân, là Ánh sáng Cứu độ.

Trước đó 6 tháng, Thiên Chúa đã sai Gioan đến để làm chứng về Ánh sáng, dù ông không là ánh sáng, mà chỉ để mọi người nhờ ông mà tin (x. Ga 1:6-8). Thánh Gioan là “nhân vật quan trọng” (VIP – very important person) bởi vì ông là người đi tiên phong để mở đường sửa lối cho Cứu Chúa Giêsu. Ông là vị “ngôn sứ giao thời” – ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước và là ngôn sứ nối kết với Tân ước. Trọng trách của ông rất đặc biệt, nhưng ông biết có một “siêu VIP” chính là Đức Kitô, đến sau mà có trước, như ông giải thích: “Người đến sau tôi nhưng trổi hơn tôi, vì Người có trước tôi” (Ga 1:15).

Trình thuật Phúc Âm hôm nay nhắc đi nhắc lại 5 lần danh từ “Ngôi Lời” và 8 lần danh từ “ánh sáng”. Hơn ai hết, Thánh Gioan biết rõ Ngôi Lời vô cùng quan trọng, vì “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (x. Ga 1:9).

Tuy nhiên, có 9 người thôi mà lại có tới 10 ý kiến, Phúc Âm gọi dạng đó là “lúa và cỏ lùng”, người đời gọi là “vàng thau lẫn lộn”. Thế nên, “Ngài Ở GIỮA thế gian, và thế gian đã NHỜ Ngài mà có, nhưng lại KHÔNG nhận biết Ngài. Ngài ĐÃ ĐẾN nhà mình, nhưng người nhà CHẲNG chịu đón nhận” (Ga 1:10-11). Quả thật, đó là một lời cảnh báo rất cấp bách đối với mỗi chúng ta ngày nay!

Thật vậy, chỉ những ai thực sự tiếp nhận Ánh sáng Đức tin và Ánh sáng Yêu thương thì mới xứng đáng lãnh nhận Ánh sáng Cứu độ. Chúng ta thật diễm phúc vì chính Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta – Emmanuel, chúng ta cũng đã được nhìn thấy vinh quang của Ngài là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật. Và rồi tất cả chúng ta còn được lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. Nếu chúng ta đã “được cho không thì cũng phải cho không như vậy” (Mt 10:8). Đó là công bình. Tất cả là Hồng ân (Rm 4:16) thế nên tất cả phải “miễn phí” hoàn toàn theo Tôn Ý của Chúa Giêsu.

Thánh “phượng hoàng” Gioan nói: “Ai giữ lời Ngài dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo” (1 Ga 2:5). Quả thật, “bạn rất khôn ngoan vì bạn mang Chúa Giêsu đến cho những tâm hồn chưa nhận biết Ngài” (Cn 11:30). Giáng sinh là bài học về sự nhập thế, là lên đường, là vào đời, là ra khơi,… để có thể đích thân đến với nhau, trao cho nhau nụ cười thân ái, bắt tay nhau thân thiện. Đó là cách kiến tạo hòa bình giản dị nhưng rất cụ thể.

Lạy Thiên Chúa, xin thương tha thứ, bởi vì chúng con là những tội đồ (Lc 18:9-14), lâu nay vẫn câu nệ đủ thứ, chưa thực sự thể hiện đức ái đúng như Ngài mong muốn. Xin giúp chúng con chiếu tỏa Ánh sáng Đức Kitô trong hoàn cảnh sống của mỗi chúng con, xin giúp chúng con can đảm và nhiệt thành dấn thân thực sự chỉ vì muốn làm sáng danh Ngài chứ không vì ý đồ riêng tư nào khác, nhờ vậy chúng con mới khả dĩ tận hưởng sự bình an đích thực trong cuộc sống. Chúng con cầu xin nhân danh Chúa Hài Đồng, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

ĐỨC GIÊSU LÀ ÁNH SÁNG CHIẾU SOI

CHO MỌI NGƯỜI TRÊN THẾ GIAN

Lm. Đan Vinh

  1. LỜI CHÚA: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người… Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,9.14).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) NGƯI KHÁCH CUI CÙNG VIẾNG THĂM HANG ĐÁ:

Sau khi đám mục đồng đến thăm viếng Hài Nhi Giê-su trở về nhà, cánh đồng Be-lem vẫn còn chìm trong bóng tối và Hài nhi Giê-su đang thiếp ngủ trong máng cỏ. Bỗng cửa hang mở ra và một bà lão xuất hiện. Bà có thân hình gầy guộc với đầu tóc bạc phơ, da mặt nhăn nheo và áo quần cũ rách. Bấy giờ Mẹ Ma-ri-a đang ngồi bên máng cỏ chăm sóc Hài Nhi Giê-su, thấy bà lão xuất hiện, mẹ đưa cặp mắt lo sợ nhìn bà lão bấy giờ đang đến gần máng cỏ nơi Hài Nhi nằm. Con trẻ Giê-su liền mở mắt ra nhìn bà lão và nhoẻn miệng cười thật tươi khiến bà lão cũng mỉm cười theo. Rôi bà lão thò tay vào túi áo lấy ra một vật đặt xuống bên Hài nhi Giê-su. Sau khi ngồi một lúc, bà đứng dậy và ra ngoài cửa hang đi về. Ra đến ngoài, như được tăng thêm sức mạnh, bà trở nên nhanh nhẹn sải bước mau và khuất sau một ngã quẹo. Bấy giờ Mẹ Ma-ri-a mới nhìn vào vật bà lão vừa để lại và kêu lên: ”Ôi, một quả táo vàng!”

Bà lão ấy không ai khác hơn là E-và, nguyên tổ của loài người khi xưa đã phạm tội ăn quả cây trái cấm và mang lại án phạt cho nhân loại. Giờ đây bà đến trao tặng Hài nhi Cứu Thê Giê-su quả táo năm xưa mang hình quả cầu nhỏ, như một lời nhắc nhở Hài Nhi về sứ mạng cứu thế của Người là phải tái tạo một “Trời Mới Đất Mới” nơi đầy tràn tình yêu, công bình và hạnh phúc của Thiên Chúa.

Hài nhi Giê-su chính là A-đam Mới, đến trần gian với sứ mạng xóa bỏ tội lỗi và giải thoát loài người khỏi bị chết, được trở nên con Thiên Chúa và được hưởng sự sống đời đời. Trong lễ Giáng Sinh hôm nay, chúng ta hân hoan vui mừng đón Đấng Cứu Thế đến mở ra một kỷ nguyên vui mừng và hy vọng, thiết lập một Nước Trời tràn đầy sự thật, ân sủng và bình an.

2) ĐÓN MỪNG CHÚA GIÁNG SINH LÀ ÁNH SÁNG CHO TRẦN GIAN:

Trong suốt 500 năm, mỗi năm cứ vào đêm Giáng Sinh, dân chúng tại một thành phố kia đều tập trung, không phải để mừng lễ Chúa Giáng Sinh, nhưng để cùng nhau đón chờ Chúa quang lâm. Trước nửa đêm, họ đốt đèn, hát thánh ca, rồi cùng nhau đi rước đến tập trung tại một giáo đường đổ nát. Tại đây, họ dựng nên một hang đá và quỳ gối cầu nguyện xin Chúa đến. Chính những ánh nến trên tay và những bài thánh ca đã có sức mạnh xua đuổi cái lạnh của đêm đông Giáng Sinh. Ngoại trừ một số ít người đau liệt ở nhà, còn hầu như mọi người trong thành đều hiện diện ở đây; Họ đều tin rằng: nếu tất cả mọi người đều thành tín cầu nguyện, thì vào lúc nửa đêm, Đức Ki-tô Giê-su sẽ tái lâm như Người đã hứa trong Tin Mừng. Nhưng rồi trong thực tế, ngày tận thế mọi người mong đợi vẫn chưa khi nào xảy ra. Khi được hỏi: “Bạn có thực sự tin rằng Đức Ki-tô sẽ trở lại vào đêm Giáng Sinh này tại thành phố của bạn không?” thì nhân vật chính của câu chuyện trả lời: “Không, tôi không tin như thế!” Rồi một câu hỏi khác lại được nêu lên: “Vậy, tại sao bạn cứ phải cùng đoàn người đến đây hằng năm vào lễ Giáng Sinh như thế?” Người nầy mỉm cười trả lời: “Tôi cần phải hiện diện mỗi năm, vì có thể các năm vừa qua Chúa Ki-tô chưa đến. Nhưng nếu như năm nay Người đến, thì chẳng lẽ tôi lại là nguời duy nhất vắng mặt ở đây hay sao ?”.

  1. SUY NIỆM:

1) Vì yêu thương mà Ngôi Lời đã hóa thành người phàm và cư ngụ giữa chúng ta: Trong hang đá Be-lem, một trẻ mới sinh được đặt nằm trong máng cỏ. Qua đó Thiên Chúa đã muốn nói với chúng ta tình yêu của Ngài bằng ngôn ngữ của loài người. Vì yêu thương Thiên Chúa đã vượt khoảng cách xa ngàn trùng để đến chia sẻ kiếp người với chúng ta. Ngài thể hiện tình thương bằng việc đến cắm lều ở giữa loài người và hiến thân mạng sống vì chúng ta. Thân xác bé thơ hôm nay đang rét run trong làn gió lạnh trong hang đá Be-lem, thì mai ngày sẽ run rẩy dưới những đòn roi, và chết nhục nhã trên cây thập giá. Tất cả đều nói lên tình yêu tột đỉnh của Thiên Chúa đối với chúng ta như lời Chúa phán: Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15,13).

2) Ngôi Lời của Thiên Chúa là Lời ban Ơn Cứu Độ: Tình yêu của Thiên Chúa không chỉ là cảm tính nhất thời, nhưng là một chương trình dài hạn. Lời Thiên Chúa nói với loài người không phải để làm vui tai, nhưng là mang lại ơn cứu độ. Chúa xuống thế làm người chính là chấp nhận nên bé nhỏ để chúng ta được lớn mạnh, chấp nhận nên nghèo khó để chúng ta được giàu có. Chúa nhập thể làm người để chúng ta được làm con Thiên Chúa.

3) Lời của Thiên Chúa là Ánh Sáng chiếu soi vào trần gian u tối: Tội lỗi là bóng tối bao phủ khiến loài người chúng ta bị mất phương hướng, mất ý nghĩa cuộc sống. Lời Thiên Chúa đã xuống thế làm người, mặc lấy xác phàm nhân loại để làm cho cuộc đời chúng ta có ý nghĩa. Ngài đã từ trời xuống thế để mở con đường về trời cho nhân loại chúng ta. Ngài đã chiếu ánh sáng vào đêm tối trần gian để ai đi theo Người sẽ không đi trong tăm tối nhưng có ánh sáng ban sự sống đời đời.

4) Làm gì để chiếu ánh sáng của Chúa trong Mùa Giáng Sinh năm nay?:

– Ánh Sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận Ánh Sáng: Đã hơn 20 thế kỷ nay, Ánh Sáng của Chúa Kitô đã chiếu soi vào trần gian u tối, nhưng hiện vẫn còn biết bao người chưa nhận biết Chúa hay chưa muốn tin nhận Người là Ánh Sáng đích thực từ trời đến ban ơm cứu độ.

– Trong thế giới hôm nay, quyền lực tối tăm của ma quỷ vẫn đang hoành hành. Bao tội lỗi và thói hư vẫn đang tồn tại và gia tăng, làm băng hoại nền luân lý tốt đẹp của nhân loại. Biết bao tín hữu đã đánh mất ý thức về tội: Họ coi việc phá thai, ly hôn, làm hôn thú giả, kết hôn giả… là những việc bình thường mà họ có quyền làm khi cần để đạt được mục đích, không cần biết các việc đó có phù hợp với giới răn của Chúa và lề luật Hội Thánh không ?

– Mỗi người chúng ta cần ý thức về tình thương cứu độ của Thiên Chúa: Thánh Nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su đã nói: “Tất cả đều là Hồng Ân”. Hôm nay Hội Thánh cũng mời gọi các tín hữu chúng ta hãy ý thức về hồng ân của Thiên Chúa là đức tin vào Chúa Giê-su để đón nhân ơn cứu độ. Rồi còn phải chia sẻ đức tin ấy cho những người thân quen chưa nhận biết Chúa nữa.

– Chia sẻ đức tin bằng việc làm bác ái là chiếu sáng tình thương của Chúa cho tha nhân bên cạnh: Mỗi người hãy tự hỏi mình: Trong lễ Giáng Sinh năm nay, tôi đã chia sẻ niềm vui Giáng Sinh được cho những ai ? Ngoài gia đình và bạn bè, tôi đã trao tặng được món quà nào cho những người bệnh tật, đau khổ và bất hạnh là hiện thân của Chúa hay không ?

  1. LỜI CẦU:

– Lạy Chúa Giê-su Hài Đồng. Giữa giá lạnh của mùa đông khắc nghiệt, xin cho con biết đi tìm Chúa đang ở trong những anh chị em nghèo khó không nhà, không cơm ăn áo mặc, phải ở nơi đầu đường xó chợ… để chia sẻ tình thương là sự quan tâm giúp đỡ họ.

– Lạy Chúa Giêsu. Xin cho con biết đón nhận tình thương của Chúa khi gặp những điều may lành như ý và cả khi gặp phải những điều trái ý cực lòng. Để con sẵn sàng cảm thông với những người nghèo khổ là hiện thân của Chúa bị bỏ rơi trên cây thập giá năm xưa, hầu con sẵn sàng thực thi ý Chúa Cha như Chúa đã cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể được, thì xin cho Con khỏi uống chén nầy. Nhưng xin đừng theo ý riêng Con, một xin vâng theo Thánh Ý Cha” (Lc 22,41).- AMEN.

Về mục lục

.

ĐỨC GIÊSU, CON THIÊN CHÚA

Lm. Trần Thanh Sơn

 Hôm nay cùng với Giáo Hội, và toàn thể thế giới, chúng ta hân hoan mừng ngày sinh nhật của Đức Giêsu, một Hài Nhi sinh ra nơi máng cỏ của súc vật cách đây hơn 2000 năm. Nếu ngồi lại suy nghĩ theo tự nhiên, có lẽ nhiều người trong chúng ta có thể đặt câu hỏi: Tại sao muôn người trên thế giới lại đi mừng sinh nhật của một con người bé nhỏ như thế? – Câu trả lời cũng thật đơn giản: Bởi vì Hài Nhi Giêsu bé nhỏ nằm trong máng cỏ nghèo hèn trước mắt chúng ta đây chính là Thiên Chúa thật. Với việc Nhập Thể của Ngôi Hai, Con Thiên Chúa đã làm người để đưa từng người chúng ta lên địa vị làm con Thiên Chúa.
Hài Nhi Giêsu đích thực là Thiên Chúa, cũng chính là điều mà Giáo Hội muốn từng người chúng ta xác tín qua phần phụng vụ lời Chúa trong thánh lễ hôm nay.

 1. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa
 Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy Tin mừng Gioan không có trình thuật về thời thơ ấu của Đức Giêsu như Phúc Âm Nhất Lãm. Phải chăng đây là một thiếu sót lớn khi thánh sử chẳng nói gì về nguồn gốc của Đức Giêsu, nhân vật chính yếu trong Phúc Âm của mình. Nhưng đọc kỹ, chúng ta sẽ thấy đây không phải là thiếu sót, nhưng là dụng ý thần học của thánh Gioan. Thánh sử không nói gì về ngày Giáng Sinh của Đức Kitô ở trần gian, nhưng thay vào đó, thánh sử lại có cả một thánh thi dài nói về nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu. Đây quả là một bổ túc thật cần thiết khi tìm hiểu về con người Đức Giêsu Kitô, nhờ đó, chúng ta thấy rằng Hài Nhi Giêsu bé nhỏ sinh ra tại nơi ở nghèo hèn của súc vật mà chúng ta vừa mừng kính cũng chính là Thiên Chúa thật. Như thế, cùng với Tin mừng Nhất Lãm, thánh sử Gioan đã cho thấy Đức Giêsu có hai bản tính. Ngài vừa là người thật và cũng là Thiên Chúa thật.
Chính vì lý do đó, mà trong thánh lễ ban đêm, chúng ta vừa nghe đọc đoạn lời Chúa nói về những chi tiết lịch sử xác định sự xuất hiện của Đức Giêsu trong thời gian, thì trong thánh lễ ban ngày này, Giáo Hội lại mời gọi chúng ta lắng nghe lời mở đầu của Tin mừng theo thánh Gioan, để thấy rõ Đức Giêsu được sinh ra trong lịch sử đó, cũng chính là Thiên Chúa hiện hữu từ muôn thuở.
Ngay từ những lời đầu tiên trong Tin mừng của mình, thánh sử Gioan đã xác định bản tính Thiên Chúa của Ngôi Hai: “Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa”. Ngài cũng chính là Con Thiên Chúa được sinh ra từ trước muôn đời như lời tác giả thư Do thái mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc hai: “Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã hạ sinh Con. Rồi Chúa lại phán: “Ta là Cha Người, và Người sẽ là Con Ta”.
Hơn nữa vì là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nên cùng với Chúa Cha, Ngôi Lời cũng là Đấng tác thành vạn vật như lời xác tín của thánh sử Gioan: “Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành…Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo”. Thánh sử còn viết tiếp: “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý”. Như thế, Ngôi Lời, Đấng Tạo Hoá, có từ muôn thuở đó, giờ đây đã được sinh ra trong thời gian, làm người ở giữa chúng ta. Đồng thời, với việc Nhập Thể của Ngôi Lời, mạc khải của Thiên Chúa bước sang một giai đoạn mới. Giai đoạn Thiên Chúa trực tiếp nói với con người như lời tác giả thư Do thái chúng ta vừa nghe: “Thuở xưa nhiều lần và dưới nhiều hình thức, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri. Trong những ngày sau hết đây, Ngài đã phán dạy chúng ta qua người Con”.

 2. Đức Giêsu, Đấng ban ân sủng
 Như thế, Hài Nhi Giêsu nhỏ bé mà chúng ta đang chiêm ngắm nơi máng cỏ đây không những là người thật mà còn là Thiên Chúa thật. Vì là Con Thiên Chúa nên Đức Giêsu có thể nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa, bởi vì: “Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Đấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mặc khải cho chúng ta”. Mặt khác, vì được sinh bởi Đức Maria, nên Đức Giêsu cũng là con người nên Ngài có thể cảm thông với bản tính mỏng dòn của chúng ta. Do đó, Ngài trở nên Đấng duy nhất có thẩm quyền giao hoà đất với trời, giao hoà con người với Thiên Chúa.
Không chỉ giao hoà, Đức Giêsu còn là nguồn ban ân sủng của Thiên Chúa cho từng người chúng ta, như xác quyết của thánh Gioan: “Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban lề luật qua Môisen, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Đức Giêsu Kitô”. Nhờ ân sủng của Ngài, chúng ta được giải thoát khỏi ách thống trị của tội lỗi, như lời tác giả thư Do thái chúng ta vừa nghe: “Người Con đó, nâng giữ vạn vật bằng lời quyền năng của mình, quét sạch tội lỗi chúng ta”.
Tóm lại, với việc cho con mình Nhập Thể làm người, Thiên Chúa một lần nữa chứng tỏ tình yêu bao la của Ngài dành cho chúng ta. Chính vì thế, mượn lời tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca, Giáo Hội không ngừng cất tiếng ngợi khen Ngài:“Chúa đã công bố ơn cứu độ, đã tỏ sự công chính Người trước mặt chư dân. Nguời đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành đối với nhà Israel”.

 3. Lời mời gọi loan báo Tin mừng
 Con Thiên Chúa đã làm người để đến ở với chúng ta, ban ơn cứu độ cho chúng ta. Đồng thời, Ngài muốn từng người chúng ta, sau khi đã nhận được ơn Ngài, cũng mau chóng lên đường loan báo và đem niềm vui cứu độ đó cho mọi người. Niềm vui được thông chia, niềm vui sẽ được nhân lên. Cảm hứng điều đó, ngôn sứ Isaia trong bài đọc một đã cất tiếng ngợi khen: “Đẹp thay chân người rao tin trên núi, người rao tin thái bình, người rao tin mừng, người rao tin cứu độ”
Rao tin mừng Ơn cứu độ phải chăng là loan báo ơn giao hoà! Giao hoà giữa đất với trời, giữa loài người với nhau. Ngay từ nguyên thuỷ, tội lỗi đã cắt đứt mối tương giao giữa con người với Thiên Chúa. Do đó, giây phút Nhập Thể của Ngôi Hai chính là lúc trời đất giao duyên, con người được giao hoà lại với Thiên Chúa. Giao hoà là đem lại sự bình an như lời sứ thần loan báo trong đêm Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”. Thiên Chúa đã đoái thương đi bước trước đến với chúng ta để hoà giải chúng ta với Ngài. Nhận được sự hoà giải này của Thiên Chúa, từng người chúng ta cũng phải biết sống hoà giải với anh chị em mình.
Tuy nhiên để thực sự có sự hoà giải này, từng người chúng ta cũng phải làm theo cách Con Thiên Chúa đã làm. Ngài đã đi bước trước đến với chúng ta, chấp nhận bị thua thiệt, sỉ nhục, bị lãng quên khi phải sinh ra trong nơi ở súc vật. Do đó, muốn sống tâm tình hoà giải, chúng ta cũng phải sẵn sàng dẹp bỏ đi những tự ái vụn vặt, chấp nhận bị lãng quên, coi thường để có thể đi bước trước đến làm hoà với anh chị em mình. Những người mình cần làm hoà trước hết là vợ chồng với nhau, là cha mẹ với con cái. Chúng ta cũng cần hoà giải với những người cùng sống, cùng làm việc với chúng ta. Điều này không dễ dàng gì, nhưng suy ngắm mầu nhiệm Con Thiên Chúa Giáng Sinh nơi hang đá bé nhỏ này sẽ là sức mạnh giúp chúng ta thực hiện được sự giao hoà đó. Lúc đó, niềm vui trong ngày Giáng Sinh không dừng ở những lễ hội tưng bừng, những bữa tiệc linh đình, những đèn hoa rực rỡ hôm nay, nhưng sẽ được tiếp tục bởi những nụ cười thân thiện, những ánh mắt thông cảm, những tấm lòng chân thành mở ra của từng người chúng ta đối với nhau. Nhờ đó, tâm hồn chúng ta sẽ thực sự bình an để hưởng trọn vẹn niềm vui của ngày lễ Giáng Sinh không chỉ hôm nay, nhưng tiếp tục và kéo dài trong suốt cuộc sống thường ngày của chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

GIÀU SANG PHÚ QUÍ

Lm. Jos. DĐH.

Sinh ra làm người, ai cũng được chăm sóc nuôi dạy để lớn lên, trưởng thành, rồi tiếp đến là mỗi người tự nhiên biết khao khát kiếm tìm hạnh phúc, tuy quan niệm về hạnh phúc có khác nhau. Không phải các học sinh sinh viên trước khi bước vào kỳ thi họ mới chăm chỉ học tập nghiêm túc. Không phải chỉ những ai hấp hối trên giường bệnh, họ mới là đối tượng cần tỉnh thức hy sinh hãm mình làm việc đền tội. Cũng không phải người lắm tiền nhiều của là họ được xã hội ban tặng cho biệt danh là giầu sang phú quý. Thời gian và cơ hội thì ai cũng có, còn làm việc chăm chỉ và sống nghiêm túc, hầu gặt hái được niềm vui hạnh phúc ra sao, tuỳ tự do của mỗi người.

Sức khoẻ, kiến thức, sách vở, sẽ là người thầy chỉ giúp chúng ta cách kiểm tiền, …đủ sống, còn trường đời, kinh nghiệm, sẽ là bài học giúp ta thực hành và trở nên giầu sang phú quý. Hàng năm, cứ mỗi dịp kỷ niệm Con Thiên Chúa đến trần gian, là người ta gởi thiệp, gởi những lời cầu chúc Giáng Sinh và năm mới anh lành cho nhau. Hàng ngày hàng tuần, mỗi người đang tận dụng thời giờ để làm giầu vật chất tiền của, làm giầu kiến thức xã hội. Nhưng để được giầu sang phú quý theo tinh thần Kitô giáo, nhất thiết tâm hồn chúng ta phải có Chúa, phải biết sống lời tin yêu có Chúa. No đủ về đời sống tâm linh, bình an và vui mừng sẽ không còn là khẩu hiệu, lý thuyết: khôn làm cột cái, dại làm cột con, vì tất cả chúng ta là những môn đệ đang sống hiệp thông trong sự giầu sang phú quý của Thiên Chúa.

Cha ông chúng ta có để lại lời răn dạy: giầu tình giầu nghĩa thì nên, giầu tiền giầu của chẳng cho là giầu. Bài học cụ thể mà các mục đồng năm xưa cho thấy, họ là những người nghèo, đủ ăn đủ sống, song bỗng chốc họ trở nên giầu sang, hạnh phúc, vì họ đã gặp, đã hiểu, đã tuyên xưng Hài Nhi Giêsu là Thiên Chúa làm người. Được hạnh phúc trong an bình khi gặp Chúa giáng sinh, nhưng sau đó các mục đồng trở về với đàn súc vật bằng một tâm hồn hân hoan vui sướng: “họ vừa đi vừa ca hát, chúc tụng Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy”. Tâm tình mà người thời nay không khỏi thắc mắc, người giầu có là ai ? Chúng ta sẽ không khó trả lời, thưa đó là người biết hài lòng với những gì mình đang có, là người mà tâm hồn luôn bình an trong ơn nghĩa Chúa.

Người thời nào cũng hiểu giầu sang phú quý theo quan niệm thế gian là lắm tiền nhiều của, là địa vị chức quyền, là tài giỏi xinh đẹp. Tại hang đá bò lừa năm xưa đã lý giải sự bình an niềm vui tâm hồn, mới đúng thật là người giầu sang trong tình yêu Chúa. Người thông thái là ai ? là người học được tất cả từ mọi tầng lớp: mưu cao trí dầy, hoặc kẻ nghèo hèn ít chữ. Người mạnh mẽ là ai ? là người kiểm soát được niềm đam mê của mình: khuyên ai ăn ở cho lành, kiếp này chưa gặp để dành kiếp sau. Kinh nghiệm cuộc sống cho thấy: danh vọng, tài sản, có thể rơi xuống từ bầu trời vũ trụ, sự giầu sang phú quý có thể tự tìm đến với ta, nhưng mỗi người phải tự đi tìm sự hiểu biết.

Nếu giầu sang phú quý như các mục đồng, chính là sự bình an tâm hồn. Mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng sẽ được biến đổi để thấy niềm vui hạnh phúc khi có Chúa, khi chúng ta hiểu tiếng hát của các thiên thần: Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm. Cha ông chúng ta có câu: khôn khéo lấy miệng mà sai, vụng dại lấy vai mà đỡ. Tuy không phải là người khôn khéo, cũng chẳng ai nỡ cho chúng ta danh hiệu là vụng dại, ý thức mình thuộc về Chúa đã là tốt rồi, song vì tình Chúa, tình người đang hoà nhập với ơn gọi nên lời tôn vinh chúc tụng.

Hài Nhi Giêsu tại hang đá đang thinh lặng, mẹ Maria và cha Giuse cũng không ồn ào, hát khen bằng môi miệng, tất cả như một lời mời gọi hãy đến bái thờ, kính viếng, hãy để tiếng hát của Thiên Thần tiếp tục vang lên ngợi khen tôn vinh. Sự giầu sang sẽ mãi là một nhắc nhớ: thành danh, thành người, hệ tại việc chúng ta vượt qua được những khổ đau, thất bại, mà vẫn không mất đi sự quyết tâm tin Chúa, theo Chúa. Xin tình yêu của Hải Nhi Giêsu tiếp tục sưởi ấm tâm hồn và thánh hoá sự giầu sáng phú quý của mỗi chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

NƠI TÌNH YÊU BẮT ĐẦU

Lm. Giuse Nguyễn

“Ta quen nhau đã bao lâu rồi” mà tại sao “Giọt buồn hoài vương trên môi mặn đắng?” Thưa bởi vì tình yêu đó mãi là giấc mơ. Vì vậy tác giả van xin “Này mùa đông ơi xin hãy làm tuyết rơi” Để làm chi? “Để chắn lối em anh về”, để cho em vì lạnh quá nên cần đến anh. Trong giấc mơ của nhạc sĩ Tiến Minh, mùa đông, nơi tuyết rơi là “nơi tình yêu bắt đầu”,vì nơi đó người ta cần đến nhau, người ta gặp gỡ nhau, người ta trao cho nhau hơi ấm để xóa tan giá lạnh của mùa đông.

Giáng Sinh năm nay, miền Nam Việt Nam thực sự cảm nhận được một mùa đông, vì lâu lắm rồi mới có cái lạnh đến xé da cắt thịt trong mùa Giáng Sinh. Trong mùa đông này chúng ta sống lại câu chuyện tình cách đây hơn 2000 năm tại cánh đồng Bêlem. Có thể nói Bêlem là “nơi tình yêu bắt đầu”, vì ở đó “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14a).

Thế nhưng “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga1, 11). Tình yêu đã được trao ban, nhưng con người đã từ khước. Vì con người từ khước Tình Yêu nên Con Thiên Chúa mới giáng sinh trong hang bò lừa giữa trời đêm đông giá rét, nơi cánh đồng hoang vắng. Vì con người từ khước Tình Yêu nên thánh Giuse phải dẫn Đức Maria bồng Hài Nhi Giêsu trốn sang Ai Cập để trốn sự truy sát của vua Hêrôđê. Sau cùng, vì từ khước Tình Yêu mà con người đã đóng đinh Đức Giêsu trên thập giá. Vì vậy có thể nói đối với một số người “nơi tình yêu bắt đầu” cũng là chỗ tình yêu kết thúc. Kết thúc vì sự ích kỷ, ghen tuông, cố chấp của con người.

Thời tiết ở Việt Nam năm nay lạnh hơn mọi năm, nhưng xã hội Việt Nam ngày càng nóng hơn bởi những vụ án khủng khiếp. Nào là bà giết cháu vì mê tín dị đoan ở Thanh Hóa, vợ chồng xung đột dẫn đến bạo lực và hậu quả là vợ giết chết chồng ở Bình Dương ; nào là nhiều vụ trẻ em bị bạo hành ở khắp nơi ; nhiều vụ học sinh đánh nhau một cách dã man; chưa kể đến hàng loạt vụ án tham ô, chiếm đoạt tài sản mà phạm nhân là những lãnh đạo cấp cao… Cái nóng của xã hội đó càng làm cho tâm hồn thêm lạnh, vì thay vì tình yêu bắt đầu để sưởi ấm con tim, thì nó đã kết thúc bởi sự vô cảm của con người.

Trong y học không có bệnh vô cảm. Đó là căn bệnh của cách hành xử, căn bệnh của lối sống. Lời dạy của cha ông ta “Thương người như thể thương thân”từ lâu đã trở thành đạo lý của người Việt Nam. Tính nhân văn, lòng nhân ái phải là ngọn lửa sưởi ấm, là ánh sáng trong cuộc đời mỗi con người, mỗi gia đình cũng như toàn xã hội. Thế nhưng ngày nay, bên cạnh nhiều nét đẹp vẫn luôn hiện hữu trong cuộc sống của chúng ta với những con người luôn biết cống hiến, đồng cảm, chia sẻ, cưu mang, giúp đỡ người khác, thì cũng có không ít kẻ sống ích kỷ, vô trách nhiệm, vô cảm, vô đạo đức. Vô cảm chính là sự trơ lì cảm xúc, dửng dưng, thờ ơ, “máu lạnh” với những hiện tượng đời sống xung quanh, chỉ quan tâm đến quyền lợi của bản thân. Ra đường gặp cái đẹp không mảy may rung động; gặp cái tốt không ủng hộ; thấy cái xấu, cái ác không dám lên án, không dám chống lại… 

Điểm nóng đó cũng đã ảnh hưởng đến đời sống gia đình, làm cho biết bao những gia đình phải tan vỡ hoặc gặp rất nhiều khó khăn. Thật trớ trêu khi những điểm nóng của xã hội lại làm cho gia đình lạnh tanh, rét buốt. Tiếp tục quan tâm đến đời sống gia đình, Giáo hội Việt Nam đã chọn chủ đề cho năm 2018 là “Đồng hành cùng các gia đình trẻ”; để giúp họ hiểu rằng: “hôn nhân là một hành trình dài, trong đó mỗi người phải gạt đi những ảo tưởng để đón nhận bạn đời của mình như họ là, cùng nhau nên hoàn thiện hơn mỗi ngày; hành trình này đòi hỏi sự kiên nhẫn, hiểu biết, hy sinh và quảng đại”. Nói tóm lại khi người ta biết yêu thương, biết quan tâm, biết mưu cầu hạnh phúc cho người khác thì chính tâm hồn của họ sẽ hạnh phúc, và gia đình, xã hội cũng sẽ hạnh phúc.

Mặc dù có vài nơi, vài người tình yêu đã kết thúc, nhưng rất nhiều người, rất nhiều nơi lấy mầu nhiệm Giáng Sinh làm “nơi tình yêu bắt đầu”. Ngày xưa các mục đồng là đại diện cho những người nghèo đã ấm lòng hơn khi đến kính viếng Hài Nhi Giêsu và chắc chắn chính họ đã loan truyền việc “một hài nhi giáng sinh”cho những người dân trong vùng. Các đạo sĩ phương đông cũng đã đến bái lạy Hài nhi Giêsu nhờ ngôi sao lạ, và khi trở về đất nước mình, chắc chắn họ cũng đã loan báo tin vui đó. Vì vậy mầu nhiệm Giáng sinh là nơi tình yêu bắt đầu.

Mùa Giáng sinh năm nay, mỗi người, mỗi gia đình chúng ta cũng hãy trở thành“nơi tình yêu bắt đầu” khi chúng ta cảm nhận được cái lạnh của thời tiết, cái lạnh của tâm hồn để chúng ta khắc phục bằng ngọn lửa tình yêu. Nhờ cái lạnh của thời tiết mà chúng ta thấy được có nhiều người già và trẻ em, nhiều gia đình khó khăn đang cần hơi ấm. Hãy bắt đầu bằng việc yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ cho những người nghèo đang sống chung quanh chúng ta. Nhờ cái lạnh của tâm hồn mà chúng ta thấy được đời sống gia đình đang rất cần sự thông cảm, tha thứ để nâng đỡ cho nhau. Hãy bắt đầu bằng việc có thiện chí để giải quyết những xung đột trong gia đình. Hãy cho nhau những cơ hội để sửa sai, để làm lại từ đầu,… Khi mọi người biết cho nhau tình yêu thương thì đó là “nơi tình yêu bắt đầu”, vì người ta sống để yêu và yêu để sống.

Xin tình yêu Giáng Sinh trong năm nay trở thành nơi bắt đầu để tình yêu chúng con được lan tỏa khắp nơi, và đó là liều thuốc để chữa trị căn bệnh vô cảm trong gia đình, trong xã hội hôm nay.

Về mục lục

.

SUY NIỆM LỄ GIÁNG SINH

Lm. Anthony Trung Thành

Hang đá Bê-Lem và Chúa Giáng sinh là hai sự kiện luôn gắn liền với nhau. Vì thế, hễ ở đâu có người Công Giáo thì ở đó sẽ có hang đá trong dịp lễ Giáng sinh. Người Công Giáo làm hang đá để làm gì? Thưa, để diễn tả lại quang cảnh lúc Chúa Giáng sinh. Trong hang đá thường có nhiều bức tượng nhưng không thể thiếu ba bức tượng sau đây:

Thứ nhất, bức tượng Chúa Hài Đồng Giêsu: Ngài được bọc trong một chiếc khăn trắng và đặt nằm trên những cỏng cỏ khô, nói lên sự thiếu thốn nghèo hèn của ngày Ngài sinh ra. Chiếc khăn trắng báo trước về chiếc khăn liệm xác Ngài sau này.

Thứ hai, bức tượng Đức Maria: Ngài đang chắp tay và đứng bên phải trong hang đá. Tư thế chắp tay nói lên niềm tin của Mẹ vào Hài Nhi Giêsu là Đấng Cứu Thế. Đồng thời, tư thế chắp tay cũng nói lên sự khiêm nhường thẳm sâu của Mẹ. Nhìn kỹ hơn nữa chúng ta sẽ thấy, khuôn mặt của Mẹ không dấu được sự băn khoăn lo lắng và đượm chút buồn sầu: buồn vì sự từ chối của con người để Hài Nhi phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn như vậy; băn khoăn lo lắng vì không biết rồi đây con trẻ lớn lên sẽ ra sao? Nhưng chắc chắn Mẹ vẫn tràn đầy niềm hy vọng phó thác vào Thiên Chúa tình yêu.

Thứ ba, bức tượng Thánh Giuse: Ngài thường được đặt phía bên trái trong hang đá, mặc chiếc áo choàng rộng, là cha nuôi của Hài Nhi, với sứ mạng bảo vệ Hài Nhi và Mẹ Người. Tin mừng cũng cho biết, đang khi Thánh Giuse đưa Đức Maria về quê quán để kê khai hộ khẩu thì Đức Maria đến ngày mãn nguyện khai hoa. Thánh Giuse đã tìm hết cách cho Đức Maria có được một nơi xứng đáng để sinh con, nhưng đều bị con người từ chối. Cuối cùng, Đức Maria đành phải sinh con trong hang đá nghèo hèn như vậy. Sau đó, Thánh Giuse tiếp tục sứ mạng của mình bằng cách chăm sóc bảo vệ Hài Nhi và Đức Maria: Đưa Hài Nhi và Mẹ Maria trốn sang Aicập khỏi sự lùng bắt của vủa Hêrôđê ; Cùng với Đức Mẹ đi tìm trẻ Giêsu khi Người lạc mất trong đền thờ ; Làm thợ mộc để nuôi sống Đức Maria và Chúa Giêsu…

Nhìn vào hang đá, chúng ta không thể không nghĩ đến cảnh nghèo nàn thiếu thốn của Thánh gia, nhưng chúng ta cũng không thể không nghĩ đến sự ấp áp đầy tình Chúa và tình người của Thánh gia. Cụ thể, sự hiện diện của Đức Maria và Thánh Giuse bên cạnh Hài Nhi Giêsu nói lên sự quan tâm chăm sóc của hai Đấng đối với trẻ Giêsu, điều đó muốn dạy cho mỗi người, mỗi gia đình chúng ta hôm nay bài học về sự quan tâm chăm sóc của người cha người mẹ đối với con cái.

Thật vậy, trong thời đại chúng ta đang sống, nhiều gia đình đang thiếu vắng tình thương, thiếu vắng sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ đối với con cái thể hiện một cách cụ thể qua các tình trạng đáng báo động sau đây:

Tình trạng phá thai : Nhiều người cha người mẹ đã khước từ con cái ngay từ khi còn trong bụng mẹ. Theo Vụ Sức khỏe Bà mẹ & Trẻ em – Bộ Y tế cho biết, mỗi năm nước ta có khoảng 250.000 – 300.000 ca phá thai được báo cáo chính thức. Đáng chú ý, tỉ lệ phá thai trên 12 tuần tuổi chiếm tới gần 80%. Trong khi đó, theo số liệu của Hội Kế hoạch hóa gia đình Việt Nam, 20-30% các ca phá thai là phụ nữ chưa kết hôn và 60-70% là sinh viên, học sinh, chủ yếu ở độ tuổi 15 – 19. (Nguồn: giadinh.net.vn)

Tình trạng trẻ em bị bỏ rơi: Vài năm gần đây, thông tin phát hiện trẻ sơ sinh, trẻ tật nguyền bị bỏ rơi ngày càng nhiều. Đáng quan tâm, không ít trong số đó, khi được phát hiện, có em đã tử vong, còn nhiều em, do bị vứt bỏ ở những nơi hoang vắng, được phát hiện muộn nên đã bị các loại côn trùng, động vật cắn, dẫn đến thương tật suốt đời. (Nguồn: baomoi.com).

Tình trạng trẻ em bị bạo hành trong gia đình và nhà trường: Các hình thức bạo lực đối với trẻ em là: chửi mắng thô tục, làm nhục, dùng đòn roi để trấn áp để lại hậu quả hết sức nặng nề về thể chất và tinh thần của trẻ. Các vụ việc bạo hành mà một số bậc cha mẹ, thầy cô, người thân gây ra cho trẻ em đã được phát hiện và đưa lên báo chí, khiến dư luận xã hội rất căm phẫn, đồng thời xã hội cũng lo ngại về sự xuống cấp của chuẩn mực đạo đức, sự thiếu vắng môi trường văn hoá chuẩn mực của giáo dục. (nguồn: congtacxahoi.net).

Tình trạng trẻ em bị bóc lột sức lao động: Những số liệu gần đây cho thấy, ở nước ta, trẻ em dưới 17 tuổi tham gia vào các hoạt động kinh tế chiếm khoảng trên dưới 30%, khoảng 60% trẻ lao động ở các cơ sở ngoài quốc doanh sống trong điều kiện khó khăn (ăn, ngủ, sức khỏe, vệ sinh không đảm bảo…), tiền công rẻ mạt, cường độ lao động cao; 71,2% trẻ làm việc từ 9 đến 10 giờ/ngày; 72% trẻ làm việc cả ngày Chúa Nhật. Nhóm trẻ độ tuổi 15-17 có tỷ lệ tham gia lao động tương đối cao (63,3% so với độ tuổi). Điều đáng chú ý là có khoảng 15% trẻ em làm thuê, phải làm các nghề với điều kiện nặng nhọc và độc hại như sản xuất gốm, sành sứ, vật liệu xây dựng dân dụng. Không ít trẻ em hiện nay đang nằm trong tình trạng bị lạm dụng sức lao động, thậm chí bị xâm phạm cơ thể và danh dự…(Nguồn: baomoi.com).

Tình trạng trẻ em bị lạm dụng tình dục: Theo số liệu từ Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, trong 5 năm từ 2011 đến 2015, cả nước có 5.300 vụ xâm hại tình dục trẻ em. Tính trung bình, cứ 8 giờ trôi qua lại có một trẻ em Việt Nam bị xâm hại. Đa số thủ phạm là người quen của nạn nhân. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng con số này chỉ là những vụ việc được báo cáo, còn rất nhiều vụ nạn nhân bị chính kẻ xâm hại dọa dẫm hoặc vì lý do nào đó đã không được thống kê. (Nguồn: news.zing.vn).

Là người kitô hữu, chúng ta hãy nói không với các tình trạng trên. Thay vào đó, chúng ta luôn phải biết tôn trọng sự sống, quan tâm và chăm sóc trẻ em, nhất là những người cha người mẹ hãy quan tâm chăm sóc con cái của mình, không được bỏ rơi chúng.

Bài báo với tựa đề: “Giáng sinh đầu đời không cha mẹ nhưng đầy ắp tình thương của em bé bị bỏ rơi” được đăng trên trang điện tử vietbao.vn đáng chúng ta suy nghĩ. Bài báo viết như sau: Giáng sinh là khoảng thời gian cả gia đình quây quần bên nhau, cùng nhau hưởng trọn cảm giác ấm áp tình yêu thương. Thế nhưng đâu đó vẫn có những đứa trẻ không nhận được hơi ấm gia đình khi bị bố mẹ bỏ lại giữa những ngày tiết trời lạnh xuống. Đó là trường hợp của bé gái chào tại Bệnh viện Từ Dũ (Sài Gòn) ngày 4/12, nặng 2,8 kg, hoàn toàn khỏe mạnh. Bé gái chào đời vào ngày 4/12. Theo chia sẻ từ các bác sĩ, bé gái được sinh tại bệnh viện và xuất viện sau đó. Tuy nhiên, 2 ngày sau bố mẹ em đã mang bé đến bệnh viện nhờ chăm sóc rồi bỏ đi với lý do không thể tiếp tục nuôi em. Mặc dù mọi người cố gắng liên lạc với người thân nhưng không được. Thông tin duy nhất mà các bác sĩ biết được đó là mẹ bé còn khá trẻ, 23 tuổi quê ở Kiên Giang. Bố mẹ bé gái đều còn khá trẻ và đã bỏ lại em khi không đủ khả năng nuôi dưỡng. Thế là hơn 2 tuần qua dưới sự chăm sóc của các bác sĩ nơi đây, đặc biệt là bác sĩ Nguyễn Thị Từ Anh, Trưởng khoa Sơ sinh, bé gái phần nào cảm nhận được tình yêu thương trong những ngày đầu đến với thế giới mới lạ. Không được bên bố mẹ nhưng em vẫn nhận được đầy đủ tình yêu thương từ các bác sĩ. “Chúng tôi muốn bù đắp phần nào cho con. Khi lớn lên, nhìn lại những bức ảnh này, con gái sẽ vững tin khi biết rằng con không cô đơn trong cuộc đời này”, bác sĩ Từ Anh chia sẻ. Chiếc mũ len Giáng sinh màu đỏ trên đầu bé gái chính là món quà nhỏ xinh mà mọi người nơi đây tự tay cắt may và mua thêm một vài vật liệu trang trí như cây thông Noel để tạo nên bức ảnh đầu đời thật ý nghĩa cho con. (Nguồn: vietbao.vn)

Lạy Chúa Hài Nhi, mặc dầu Chúa phải sinh ra trong hang bò lừa thiếu thốn đủ điều, nhưng thay vào đó Chúa lại được sưởi ấm bằng tình yêu thương của Mẹ Maria và Thánh Giuse. Xin cho các thai nhi và trẻ em hôm nay cũng được bảo vệ bởi những người có trách nhiệm, đặc biệt là người cha người mẹ, để các em được sinh ra, lớn lên xứng đáng là một con người, là con cái Chúa. Amen.

Về mục lục

.