CÁC BÀI SUY NIỆM LỄ CHÚA THĂNG THIÊN NĂM B

646

LỄ THĂNG THIÊN – Năm B

Lời Chúa: Cv 1,1-11; Ep 1,17-23; Mc 16,15-20

Mục lục

1. Quê trời (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Xuân Lộc)

2. Nhìn trời  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Thiên đường và Địa ngục (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Trách nhiệm loan báo Tin mừng  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

5. Truyền thông Tin mừng (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

6. Chúa Phục Sinh luôn hiện diện  (Lm. Giuse Dương Hữu Tình, Gp. Hải Phòng)

7. Vào đời để về Trời  (Trầm Thiên Thu)

8. Hãy đi loan báo Tin mừng  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB) 

9. Chúa Nhật Chúa Thăng Thiên  (Lm. Antôn, giáo xứ thánh Giuse, Tulsa)

10. Điểm hẹn yêu thương  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

11. Góp phần kiến tạo thiên đường đời sau ngay từ hôm nay (Lm. Đan Vinh)

12. Sức mạnh từ trời cao (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

QUÊ TRỜI

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, như chính Người đã khẳng định: “Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã trao cho con” (Ga 17,4). Và, như người lính sau khi hoàn thành nhiệm vụ trở về với ngành nguyệt quế chiến thắng, Đức Giêsu được cất lên trời trong vinh quang và giữa tiếng muôn thiên thần tung hô chúc tụng.”Được cất lên”, đó là kiểu nói của Kinh Thánh. Độc giả Do Thái dễ dàng liên tưởng đến trường hợp của ngôn sứ Elia và ông Enốc trong Cựu ước. Hai vị này đã được Chúa cất lên không trung, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ ngôn sứ.

Việc Chúa về trời trước hết diễn tả vinh quang chiến thắng. Qua sự phục sinh, Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần. Người cũng chiến thắng những cám dỗ của thế gian nhằm lôi kéo Người từ bỏ thực thi ý định của Chúa Cha. Chúa Giêsu về trời, đem theo những dấu tích của cuộc khổ nạn (dấu đinh), như bằng chứng của sự hy sinh tự hiến để thánh ý Chúa Cha được nên trọn.

Việc Chúa Giêsu về trời đánh dấu sự hoàn tất của công trình cứu độ được thực hiện qua biến cố thập giá. Tuy vậy, sự hoàn tất này lại mở ra một giai đoạn mới trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa. Lịch sử cứu độ đã sang một trang mới kể từ biến cố phục sinh. Nhận được lệnh truyền của Chúa, các môn đệ đã hân hoan ra đi thi hành sứ vụ. Đây là một cuộc lên đường mới, đầy hứng khởi nhiệt tình. Việc Chúa được cất lên trời không làm cho các môn đệ u sầu buồn bã, trái lại các ông lại hân hoan vui vẻ, vì tin chắc có Chúa ở với mình. Từ nay, các ông được trang bị bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, cùng với khả năng làm phép lạ mà chính Chúa đã ban cho các ông, như lời căn dặn trước khi Người về trời. Với lời “sai đi” của Chúa, lãnh vực truyền giáo không còn giới hạn trong xứ Palestina, nhưng đã mở ra những chân trời mới. Nước của Chúa không còn giới hạn ở những cột mốc lãnh thổ, nhưng lan rộng đến mọi nền văn hóa, đến mọi dân tộc. Chúa đã về trời. Cũng như trời rộng bao la mênh mông thế nào, thì vương quốc bình an mà Người đã khởi sự thiết lập cũng sẽ rộng lớn như vậy.

Chúa Giêsu đã nhập thể và mang lấy thân phận con người như chúng ta. Sau khi kết thúc cuộc đời trần gian, Người đã khải hoàn về thiên quốc. Việc Chúa Giêsu về trời cũng khẳng định với chúng ta, đất và trời từ nay không còn cách biệt nữa. Dưới đất này đã có trời, và trên trời cao đã có đất. Quả vậy, nếu định nghĩa trời là nơi Thiên Chúa ngự trị, thì trong “cõi người ta” này, Thiên Chúa đang hiện hữu để chúc lành và dẫn dắt chúng ta bằng cánh tay yêu thương của Ngài. Nếu định nghĩa đất là nơi con người sinh sống, thì trên trời, hiện đã có một “Con Người” là Đức Giêsu, mẫu mực chung cho tất cả mọi người về cách sống cũng như về sự hy sinh vì tha nhân. Vì thế, liền sau khi Chúa Giêsu được cất lên, trong khi các môn đệ còn bỡ ngỡ lưu luyến, thì hai sứ thần đã nói với họ: “Hỡi người xứ Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. Qua những lời này, các sứ thần muốn khẳng định với các ông rằng, các ông hãy quay về với bổn phận, vì tuy Chúa đã về trời, Người vẫn luôn hiện diện trên mặt đất này với các ông. Từ nay, mọi bước đường truyền giáo của các ông sẽ có Chúa đi cùng. Người hiện diện thiêng liêng, vô hình nơi trần gian, và Người sẽ  trở lại trong vinh quang vào thời tận cùng của lịch sử. Chính vì vậy, “Người lên trời không phải để lìa xa thân phận yếu hèn của chúng con, nhưng để chúng con là chi thể của Người, tin tưởng được theo Người đến nơi mà chính Người là Ðầu và là Thủ Lãnh của chúng con đã đến trước” (Kinh Tiền tụng lễ Thăng Thiên).

“Quê Trời” là niềm mơ ước của con người thuộc mọi nền văn hóa, dù khái niệm về trời rất mông lung bàng bạc. Trong quan niệm dân gian của người Việt, “Trời” không chỉ là cái vòm màu xanh ở tít trên cao, nhưng là một “Đấng”, một “Ông”, một “Vị”. Nơi “Ông Trời” người ta tin tưởng cầu xin ơn phù trợ để mọi sự tốt lành: “Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm” (Ca dao). Trời cũng là nơi ở dành cho các anh hùng dân tộc, những người có công với nước, như trường hợp Thánh Gióng, sau khi đánh giặc Ân, cưỡi ngựa về trời.

Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta: Quê trời là phần thưởng Chúa Cha dành cho người công chính. Hạnh phúc Nước trời là được chìm mình trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi, cùng với anh chị em mình. Đó là tình yêu vĩnh cửu, viên mãn, tồn tại muôn đời. Hạnh phúc Chúa Giêsu hứa ban không phải một thứ “bánh vẽ” xa vời, một thứ “thuốc phiện mê dân” ảo tưởng, Nước Trời đã hiện diện giữa trần gian, ngay ngày hôm nay, nơi cuộc đời của mỗi người chúng ta, nếu chúng ta biết đón nhận bằng con tim rộng mở và tấm lòng chân thành.

Về mục lục

 

NHÌN TRỜI

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Con người thường có hai thái độ sống đối nghịch nhau. Một bên là những người chỉ biết có việc đạo. Sống dưới đất nhưng lòng trí để cả ở trên trời. Không tha thiết gì với những người chung quanh. Không tham gia những sinh hoạt xã hội. Khinh chê tất cả những giá trị ở đời này. Ngược lại, bên kia là những người sống như chỉ biết có việc đời. Chỉ coi trọng những giá trị vật chất. Chỉ biết có đời này. Sống là còn. Chết là hết. Cả hai thái độ đều bất cập.

Việc Đức Giêsu lên trời và những lời Ngài truyền dạy trước khi từ giã trần gian giúp ta có một cái nhìn đúng đắn hơn đối với trời và đối với đất.

Đức Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.

Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh.

Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.

Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với súc vật. Súc vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.

Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.

Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.

Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời.

Chính Đức Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đấy. Đi đến đâu là gieo yêu thương đến đấy.

Hôm nay Chúa cũng sai các môn đệ và chúng ta đi gieo Tin Mừng khắp thế gian. Hãy đi làm mọi việc tốt đẹp cho mọi người.

Làm việc tốt đẹp ở trần gian đó là góp phần xây dựng nước trời. Góp phần xây dựng trần gian đó là dọn chỗ ở trên nước trời. Trần gian không phải là nơi cho ta bám víu vì không vĩnh cửu. Nhưng trần gian là cơ hội cho ta đạt tới nước trời.

Chính vì thế, người môn đệ của Chúa phải sống giữa trần gian, phải yêu mến trần gian, phải xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc.

Tuy nhiên người Kitô hữu làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết nỗ lực xây dựng trần gian trong niềm mong đợi hạnh phúc nước trời. Amen.

Gợi ý chia sẻ:

1) Tin có thiên đàng. Điều này có quan trọng đối với bạn?

2) Người môn đệ của Chúa phải có thái độ nào đối với của cải vật chất?

3) Khi ngắm thứ hai mùa mừng, đọc “Ta hãy xin cho được lòng ái mộ những sự trên trời”, bạn nghĩ gì? Bạn phải sống làm sao để thực hiện lời cầu nguyện này?

Về mục lục

 

THIÊN ĐƯỜNG VÀ ĐỊA NGỤC

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Con người từ cổ chí kim đều tin rằng có thiên đường và có hỏa ngục. Thiên đường là niềm khao khát của con người qua mọi thời đại. Không ai muốn sống trong hỏa ngục. Trái lại, ai cũng mong được sống trong thiên đường. Một cuộc sống thiên đường có bình yên, có hạnh phúc. Một cuộc sống thiên đường sẽ không còn những bon chen tranh giành, hận thù, chia rẽ mà chỉ có hòa thuận, chia sẻ, yêu thương.

Điều lạ là ai cũng thích thiên đường nhưng lại không ra sức xây dựng thiên đường. Cuộc sống luôn là chiến trường, là tranh giành, là đọa đầy khổ đau. Con người luôn phải đối mặt với biết bao bể dâu cuộc đời. Chính con người đã tạo ra hỏa ngục trong khi họ lại mơ ước thiên đường.

Cuộc sống xem ra nhiều khổ đau của hỏa ngục hơn là hạnh phúc của thiên đường. Con người dễ đầy đọa nhau hơn là nâng đỡ nhau. Nhu cầu hưởng thụ càng nhiều khiến con người loại trừ và làm khổ nhau nhiều hơn.

Người ta thường kể cho nhau về sự khác biệt giữa thiên đường và hỏa ngục qua câu chuyện sau:

Một người sùng đạo nói chuyện với Chúa “ Thưa Chúa, con rất muốn biết Thiên đường và Địa ngục là như thế nào?”. Chúa dẫn anh ta vào hai cái cửa…

Chúa mở cái cửa đầu tiên, người đàn ông nhìn vào.

Ở giữa phòng có một cái bàn tròn lớn. Ở giữa bàn có một nồi nước hầm bốc khói nghi ngút trông thật ngon và hấp dẫn.

Nhưng mọi người ngồi xung quanh bàn thì lại gầy guộc, xanh xao, cứ như là bị bỏ đói từ lâu vậy.

Mỗi người ai cũng đang cầm chiếc thìa có cán dài được buộc vào cánh tay. Họ có thể với chiếc thìa dài tới nồi nước hầm để múc, nhưng vì nó dài quá, và bị buộc vào tay, nên họ không thể cho vào miệng mình được.

Người đàn ông rùng mình trước cảnh tượng khổ sở như vậy. Chúa nói: “Đấy, con vừa nhìn thấy Địa ngục”.

Tiếp tục họ bước sang phòng thứ hai và mở cửa. Mọi thứ xung quanh đều giống phòng đầu tiên. Nhưng mọi người ở đây trông thật to khỏe, no nê, mãn nguyện, cười nói rôm rả.

Chúa nói “Đây chính là Thiên Đường”

Người đàn ông thắc mắc: “Con không hiểu, thưa Chúa”.

“Đơn giản thôi” – Chúa đáp – “Ở nơi này, mọi người biết cách đút cho nhau ăn”.

Thiên đường hỏa ngục khác nhau ở chỗ có tình yêu hay thiếu vắng tình yêu. Ở nơi đâu có tình yêu ngự trị sẽ mang lại thiên đường tại thế. Ở nơi đâu thiếu vắng tình yêu sẽ là hỏa ngục nơi đầy đọa nhau mà thôi.

Hôm nay Chúa về Trời là lời khẳng định cho chúng ta về một cõi thiên đường. Một thiên đường có Thiên Chúa sẽ làm no thỏa mọi hạnh phúc cho con người. Một quê Trời nơi đó con người sống thanh thoát khỏi những nhu cầu vật chất nên sẽ không còn bon chen, tranh giành, đầy đọa lẫn nhau. Một thiên đường hạnh phúc không phải một ngày mà là hạnh phúc miên trường.

Nhưng để về trời thì con người phải biết dựng xây thiên đường hạ giới bằng một đời sống thực thi Lời Chúa. Lời Chúa chỉ tóm gọn trong hai điều là mến Chúa yêu người. Yêu là cách chúng ta phá bỏ hỏa ngục để xây dựng thiên đường tại thế. Yêu là cách chúng ta đang gửi những viên gạch lên trời để xây dựng ngôi nhà vĩnh viễn trên thiên đường.

Ước mong cho mỗi người chúng ta được hưởng hạnh phúc thiên đường tại thế khi người người biết yêu thương nhau. Xin cho chúng ta biết xây dựng thiên đường hạ giới bằng yêu thương và phục vụ tha nhân như Chúa Giê-su đã sống và phục vụ. Đó cũng là phương thế đạt được hạnh phúc miên trường mai sau trong Nước Chúa. Amen

Về mục lục

 

TRÁCH NHIỆM LOAN BÁO TIN MỪNG

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Giáo Hội Công Giáo Hàn Quốc đang được coi là một mô hình phát triển năng động tại Châu Á. Như nhiều quốc gia khác trong khu vực, người dân Hàn Quốc cũng bị ảnh hưởng bởi các truyền thống văn hóa, tôn giáo Đông Phương. Tuy nhiên, trong những thập niên gần đây, Giáo Hội Hàn Quốc là nơi có số người trở lại đạo Công Giáo nhiều nhất. Cách đây hai mươi năm, người Công Giáo Hàn quốc chỉ chiếm chừng 7-8% (bằng với Việt nam hiện nay). Họ đang quyết tâm đạt đến mục tiêu 20/20, tức là 20% người Công Giáo vào năm 2020. Thực hiện được kỳ tích này là do nhiều yếu tố cộng lại, từ những chiến dịch cầu nguyện, kết thân với các gia đình lương dân đến các chương trình đồng loạt đến với lương dân, các công tác hỗ trợ đời sống kinh tế của các doanh nhân Công Giáo dành cho nông dân không phân biệt lương giáo đã khiến cho người Hàn có cảm tình và gia nhập đạo.

Tại Việt Nam, trải qua hơn 400 năm, từ khi hạt giống Tin Mừng được gieo vãi đến nay, tỷ lệ người Công Giáo vẫn chỉ dừng ở mức 7 – 8% trong tổng số 80 triệu dân. Thời gian đầu dù có rất nhiều khó khăn, trải qua các cơn bách hại, nhưng số người tin vào danh Chúa Giêsu lại gia tăng nhanh chóng. Thế nhưng trong vòng 50 – 60 năm trở lại đây, nhất là từ khi cuộc sống kinh tế, xã hội được thoải mái hơn thì dường như số người tín hữu gia tăng không đáng kể.

Giáo phận Xuân Lộc là một trong những giáo phận có tỷ lệ người Công Giáo cao. Số giáo dân trong Giáo phận là gần một triệu người, chiếm khoảng 30 – 35% tỷ lệ người Công giáo trong toàn tỉnh Đồng Nai. Hàng năm, số người lớn được rửa tội lên đến hàng ngàn người, nhưng phần lớn là để kết hôn, còn những người rửa tội vì gương sáng đời sống của người tín hữu thì rất ít. Số người lớn được rửa tội tính trên tỷ lệ trên số tín hữu chỉ chiếm khoảng 0,03%. Đó là một con số quá khiêm tốn, chưa tương xứng.

Mừng lễ Chúa Giêsu Lên Trời, Giáo Hội trình bày cho chúng ta nhiều điểm giáo lý quan trọng, nhưng đặc biệt, nhắc nhở mỗi chúng ta từ linh mục, tu sĩ đến giáo dân về trách nhiệm sống và loan báo Tin Mừng mà Chúa Giêsu để lại cho mỗi người. Sách Công vụ Tông đồ đã thuật lại sự kiện Chúa Giêsu lên trời như là điểm kết thúc sứ mạng của Ngài và mở ra sứ mạng của Giáo Hội dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúa về trời không phải Ngài thoái thác trách nhiệm, cũng không phải Ngài từ bỏ con người, nhưng Ngài hoàn tất nhiệm vụ Thiên Chúa Cha đã trao phó và trở về với Chúa Cha trong vinh quang của Ngài. Chúa lên trời, không có nghĩa là Ngài không còn hiện diện tại trần gian, nhưng là một sự thay đổi cách thức hiện diện. Ngài không hiện diện bằng xương bằng thịt như trước đây, nhưng vẫn hiện diện bằng quyền năng, bằng Thánh Thần và bằng sự quan phòng. Người được cất lên trước mặt các Tông đồ và có đám mây bao phủ lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Hình ảnh đám mây bao phủ lấy Ngài, Thánh Kinh muốn nói rằng, Ngài vẫn hiện diện ở bên mỗi người, chỉ có điều là mắt chúng ta bị mây che phủ nên không nhận ra Ngài.

Chúa về trời để chỉ cho ta rằng, mục đích của mỗi người và quê hương đích thực của chúng ta là Nước Trời. Chúa về trời là một bảo đảm chắc chắn cho tất cả những ai tin theo Chúa, thực hành những điều Chúa dạy, đi theo con đường của Ngài thì cũng sẽ được về trời với Ngài. Ngài là người mở đường, Ngài đi trước để dẫn lối cho chúng ta theo sau. Vì thế, mỗi người phải luôn nhớ hướng tâm hồn và cả con người mình về quê trời, là nơi Thiên Chúa là Cha yêu thương đang đón đợi chúng ta.

Tuy nhiên, việc hướng lòng về trời không làm cho chúng ta coi thường, bỏ quên những công việc và trách nhiệm trần thế. Hai Thiên thần đã hiện ra nói với các môn đệ : Hỡi người Galilê, sao còn mải đứng nhìn trời, hãy trở về Giêrusalem mà làm chứng về Chúa. Điều đó có nghĩa là người Kitô hữu không thể trốn tránh trách nhiệm trần thế, không thể sống lơ lửng trên không, nhưng vẫn phải bước đi trên mặt đất, đối diện với cuộc sống hiện tại cùng với vui buồn sướng khổ, thành bại. Chúng ta cùng bước đi với anh chị em chung quanh, sống trong hy vọng và chờ đợi Chúa trở lại, cùng chia sẻ mọi vui buồn của nhịp sống xã hội, cùng tham gia vào mọi lãnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục…, để làm cho xã hội và cuộc sống mỗi ngày thêm tốt đẹp hơn.

Sống trong hy vọng phải là thái độ không thể thiếu nơi người tín hữu. Chúng ta không thể để những khó khăn hoặc những đe dọa của con người, của xã hội làm chúng ta mất niềm hy vọng. Niềm hy vọng của người tín hữu không ảo tưởng, nhưng được đặt trên lời hứa của Chúa Giêsu. Ngài hứa sẽ ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, Ngài sẽ trở lại đem chúng ta về với Ngài và chung hưởng hạnh phúc với Ngài.

Từ niềm tin tưởng và hy vọng nêu trên, mỗi người được thúc đẩy thực thi mệnh lệnh của Chúa : Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Mệnh lệnh này mời gọi chúng ta phải liên tục nói về Chúa cho mọi người và mọi loài, đưa Chúa đến với mọi người và đưa mọi người về với Chúa. Việc loan báo Tin Mừng là trách nhiệm của hết mọi người. Tuy nhiên, nhiều người đã để mình ngủ quên trong nếp sống đạo thường ngày, đánh mất sự thao thức đem Chúa đến cho anh em. Vì thế, họ bằng lòng với những sinh hoạt hiện có mà quên rằng bên cạnh còn rất nhiều người chưa biết Chúa Kitô, chưa có cơ hội để nghe Tin Mừng yêu thương của Chúa.

Có người hỏi rằng : Tại sao anh em Tin Lành rất nhiệt tình để nói về Chúa cho người khác và họ nói một cách say sưa không mệt mỏi, còn người Công Giáo thì không bằng họ ? Đó là điều thực tế mà chúng ta cần tự vấn chính mình và cần sám hối. Chúng ta chỉ có thể nói về Chúa cho người khác khi chúng ta có Chúa, đồng thời, ta chỉ có thể nói về Chúa một cách không mệt mỏi khi chúng ta hoàn toàn xác tín vào Chúa. Trong khi anh em Tin Lành không hề ngại ngùng nói về Chúa Giêsu, thì dường như người Công Giáo lại rất ngại khi nói về niềm tin của mình. Lý do là vì đời sống của họ quá khác với đời sống của Chúa Kitô và của Tin Mừng. Họ sống đạo một cách hời hợt qua lần, không cầu nguyện, không lãnh nhận Bí tích. Nhất là nhiều người không tự tin về vốn giáo lý của mình, bởi vì họ không học hỏi, không trau dồi nên họ tránh né không dám nói về Chúa, không dám mạnh dạn bênh vực niềm tin của mình.

Nguyên nhân sâu xa là vì nhiều người Công Giáo đã không có thói quen đọc và suy niệm Lời Chúa, họ xa lạ với cuốn Kinh Thánh, họ không biết nhiều về Chúa Giêsu nên không thể nói về Chúa Giêsu cho người khác. (Bà Bill Clinton luôn mang cuốn Kinh Thánh trong giỏ xách, bất kể khi bà đi đâu). Nhiều người sống đạo hoàn toàn theo thói quen cha truyền con nối, không có những kinh nghiệm gặp gỡ cá nhân với Thiên Chúa, không yêu mến và không xác tín mạnh mẽ, vì vậy, họ chấp nhận im lặng hoặc thỏa hiệp khi phải nói về Chúa và về niềm tin của mình.

Để có thể mạnh dạn nói về Chúa cho người khác, cần phải có một xác tín thâm sâu, một lòng mến nồng nàn, và một sự nhiệt tâm không mệt mỏi dành cho Chúa. Muốn được như thế, chúng ta cần phải bắt đầu lại bằng việc siêng năng đến với Chúa qua Thánh lễ, các Bí tích ; siêng năng đọc và gẫm suy Lời Chúa, để cho Chúa biến đổi tâm hồn và con người của mình. Đồng thời, chúng ta cũng cần phải có một tâm hồn quảng đại với Chúa và với Giáo Hội, dám để cho Chúa sử dụng hết mọi khả năng trí tuệ, sức lực, thời giờ và con người của mình cho chương trình của Chúa.

Xin cho chúng ta cũng bị thôi thúc như thánh Phaolô : Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm, để rồi chúng ta biết ra khỏi chính mình, ra khỏi sự tiện nghi vốn có, dám bước đến với anh chị em để thực thi mệnh lệnh Chúa truyền cho mỗi chúng ta. Amen.

Về mục lục

 

TRUYỀN THÔNG TIN MỪNG

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

  1. Khát vọng

Vào đời Vua Hùng Vương Thứ Sáu có nạn giặc Ân bên Tàu. Chúng cậy thế mạnh nên hay sang quấy nhiễu nước ta. Vua truyền hịch đi khắp nơi để tìm người tài giỏi giúp nước diệt giặc. Bấy giờ ở làng Phù Đổng có một cậu bé đã 3 tuổi mà chỉ nằm ngửa không nói được một lời nào. Nghe sứ giả nhà vua rao hịch tìm người tài diệt giặc, cậu liền nhờ sứ giả xin với Vua, đúc cho cậu một cây roi sắt và cấp cho cậu một con ngựa bằng sắt, để cậu đi đánh đuổi ngoại xâm. Nghe lời người hiền tài nhắn gởi, Vua thuận ý. Cậu bé liền vươn vai thành người to lớn, khỏe mạnh. Cậu đứng dậy, cầm roi sắt, nhảy lên yên ngựa, oai phong đi đánh giặc Ân. Dẹp xong giặc, cậu phóng ngựa lên núi Sóc Sơn rồi về trời. Vua nghĩ là thiên thần của trời cao xuống trần cứu giúp nên liền xây một đền thờ gọi là đền Phù Đổng Thiên Vương để tạ ơn và tưởng nhớ.

Câu chuyện huyền sử nói lên khát vọng của một dân tộc nhỏ bé luôn bị ngoại bang quấy nhiễu. Một tiểu quốc hiền hòa trước một đại hán bá quyền bành trướng. Vì thế mà ước mơ có được sứ thần từ trời cao đến cứu giúp. Một khát vọng ngàn đời, được tự do và độc lập, được công lý và dân chủ.

Con người mọi thời đại luôn khát khao bay lên trời. Đi dưới đất, ngược xuôi trên biển trên sông, con người luôn ước vọng, phải làm sao lên được trời cao. Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần đầu tiên, hai anh em Mongolfiers, bay lên trời bằng khí cầu được 500 mét trước hàng ngàn người chứng kiến. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên bay ra khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I của Liên Xô. Đến ngày 16 tháng 07 năm 1969 hai phi hành gia người Mỹ là Armstrong và Aldrin bay lên tới mặt trăng. Cả thế giới đã hồi hộp theo dõi những phi hành gia bay vào vũ trụ. Và chuyến bay nào rồi cũng phải trở về trái đất.

  1. Chúa Giêsu Lên Trời

Hôm nay, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Người trở về nhà Cha, sau khi đã hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó. Sau thời gian 33 năm xa nhà, Người hồi hương trong vinh quang phục sinh và “được đưa về trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19).

Chúa Giêsu lên trời, một cảnh tượng thật huyền diệu. Thân xác Người nhẹ bay lên cao. Tay Người ban phúc lành cho các tín hữu. Dáng Người nhỏ dần và hòa biến vào không gian vô tận.

Trên trời cao, các thiên thần và triều thần thiên quốc đang tụ họp tổ chức nghi lễ đón tiếp Đấng Cứu Thế khải hoàn. Tác giả Thánh vịnh 23 đã chiêm ngưỡng và mô tả cuộc nghinh đón đó bằng ca khúc bất hủ : “Hỡi các khải hoàn môn và các vệ binh thiên quốc, hãy cất cao đầu lên. Hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu, hãy mở rộng ra, để Vua vinh hiển và đoàn tùy tùng tiến vào. Vua vinh hiển là ai? Thưa là Đức Giêsu uy hùng lẫm liệt, là Chúa oai phong chiến thắng. Hỡi các khải hoàn môn, hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu hãy cất cao đầu lên, để Vua vinh hiển tiến vào, Vua vinh hiển là ai ? Chính là Thiên Chúa hùng dũng uy linh”.

Đoàn tùy tùng theo Chúa về trời đông vô kể, các thánh thời Cựu Ước, các tổ phụ, các tiên tri, các người công chính…đang hoan hỉ vui mừng đi theo Chúa. Đặc biệt có thánh cả Giuse, thánh Gioan Tiền hô, Tổ phụ Abraham, Giacop, Môisê, thánh Giop, vua Đavid, các tiên tri, hân hoan cung nghinh Đấng Phục Sinh khải hoàn về thiên quốc.

Trên núi Cây Dầu cả cộng đoàn môn đệ đang ngây ngất chiêm ngưỡng, tâm trí như mất hút vào không gian vô tận, lòng rộn rã hân hoan: “Hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa. Hãy trổi cao kèn sáo, đàn ca lên dâng Người khúc ca tuyệt mỹ, Chúa là Vua khắp muôn dân, ngự trên tòa uy linh cao cả” (Tv 47, 2-3, 6-9).

Chúa về trời vì chính Người đã từ trời xuống thế: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời xuống” (Ga 3,13). Người đến nhân gian để nói với nhân loại về Nước Trời, mặc khải cho con người biết Thiên Chúa. Người giúp họ thay đổi quan niệm về Thiên Chúa cũng như quan niệm về con người.

  1. Hiện diện mới

Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.

Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.

Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Những người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Chúa Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói “ Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” ( Ga 14,23). Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho “ Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được”(Ga 15,5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người. Quả thật,đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.

  1. Trao Sứ Vụ

Chúa về trời mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống,dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.

Giáo Hội Thánh chọn lễ Thăng Thiên làm Ngày Thế giới Truyền thông. Ngày lễ Thăng Thiên gắn liền với mệnh lệnh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19). Các Tông Đồ lên đường truyền giáo, cộng đoàn Giáo Hội được thiết lập và những bước chân không mệt mỏi của người loan báo Tin Mừng đã làm nên lịch sử Giáo Hội. Có truyền giáo là có truyền thông, và bởi vì có truyền rao sứ điệp cứu rỗi của Tin Mừng nên mới có những người lắng nghe, đón nhận đức tin và được sống trong ơn cứu rỗi. Truyền giáo là nghĩa vụ “thông truyền điều đã thấy và đã nghe” (1 Ga 1,3) để mọi người được hiệp thông với Thiên Chúa. Đây là điểm khác biệt giữa truyền thông xã hội và truyền thông công giáo. Trong khi truyền thông xã hội khai thác thông tin theo quy luật cung cầu của thị trường, thì truyền thông công giáo lại xác định hướng đi của mình là mùa màng trong đời sống đức tin.

Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng. Trong Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội lần thứ 49, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Ngày nay các phương tiện truyền thông hiện đại, vốn là một phần thiết yếu của cuộc sống, cách riêng đối với những người trẻ”. Đức cha Giuse Vũ Duy Thống gọi những người làm truyền thông là những thừa tác viên mới trong công cuộc truyền giáo mới vì họ luôn gắn bó với một phương tiện mới.

Nếu Chúa Giêsu sinh ra trong thời đại này, Người sẽ dùng internet để rao giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu Kitô là nhà truyền thông đầu tiên, vĩ đại, đại tài vì sứ điệp của Người là Tin Mừng, là tin vui cho mọi người. Chúa Giêsu có mạng lưới gồm các Tông đồ thông truyền Tin Mừng cho nhân loại. Qua các môn đệ,Tin Mừng được loan truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.Chúa Giêsu không có các phương tiện hiện đại, Người có các Tông đồ, các môn đệ, các thế hệ nối tiếp nhau như mạng lưới phổ biến Tin Mừng khắp nơi trên thế giới.

Truyền thông chính là chia sẻ niềm vui Tin mừng cứu độ. Truyền thông có đặc điểm là khiêm tốn, nhẹ nhàng, nên mọi sự cho mọi người và xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ yêu thương. Từ đó giúp con người nhận ra tình yêu của Chúa. Đây là sứ vụ Chúa trao phó cho mỗi người tín hữu trong thời đại hôm nay.

Cảm tạ Thiên Chúa đã ban những phương tiện truyền thông hiện đại. Ước mong mỗi người tín hữu biết sử dụng các phương tiện truyền thông với đức tin, trong sự tuân phục sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, góp phần loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô.

Về mục lục

 


CHÚA PHỤC SINH LUÔN HIỆN DIỆN

VÀ HOẠT ĐỘNG TRONG GIÁO HỘI

Lm. Giuse Dương Hữu Tình

Hôm nay chúng ta cùng toàn thể Giáo hội mừng lễ Chúa lên trời. Thực ra thời gian đầu, lễ Chúa Giêsu lên trời và lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống được mừng chung với lễ Chúa phục sinh. Từ  thế kỷ IV, Giáo hội đã mừng riêng lễ Chúa lên trời vì dựa theo sách Công vụ Tông Đồ, bốn mươi ngày sau khi Chúa phục sinh, Chúa đã “được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (CVTD 1,9).

Khi cử hành lễ Chúa Giêsu lên trời đúng bốn mươi ngày sau lễ Phục sinh, Giáo hội có ý giúp con cái mình sống lại kinh nghiệm của Giáo hội sơ khai, một kinh nghiệm rất hữu ích và phong phú cho đời sống của những người con Chúa. Trong thời gian bốn mươi ngày, Giáo hội sơ khai đã vinh dự được sống những tháng ngày mà Thầy Chí Thánh “chiếu cố” gặp gỡ một cách hữu hình, và ngày thứ bốn mươi là lần cuối cùng họ được diễm phúc gặp gỡ Người một cách trực tiếp. Để rồi từ đây, họ sẽ vui mừng hơn nữa khi đã đủ khả năng để bước vào một kinh nghiệm lớn lao hơn, đó là kinh nghiệm gặp gỡ. sống và hoạt động tông đồ với Người, Đấng từ nay sẽ hiện diện một cách vô hình. Điều này đã được thánh Luca mô tả rất hay. Sau khi đã chứng kiến tận mắt Thầy Chí Thánh “được cất lên” và “có đám mây quyện lấy Người”, để rồi “không còn thấy Người nữa”. “Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ” (Lc 24,53).

Sống kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Phục sinh, là Đấng đang hiện diện cách vô hình, quả là một kinh nghiệm thiêng liêng vô giá. Chính vì thế, trong suốt thời gian của Mùa Phục Sinh, đặc biệt những ngày trong tuần Bát Nhật Phục Sinh, Giáo hội đã không ngừng cho chúng ta suy ngắm những sự kiện Chúa Phục sinh đến gặp cách tỏ tường với nhiều người, với Giáo hội. Đó là thời gian Giáo hội sơ khai chưa thoát ra được cái thói quen của sự gặp gỡ, đồng hành. Những ước mong được tận mắt trông thấy dấu đinh hay được tận tay đặt vào cạnh sườn Người (Ga 20,25) đâu phải chỉ có một mình thánh Tôma? Những ước muốn được ôm chặt và giữ lấy Người (Ga 20,17) đâu phải chỉ có một mình bà Ma-ri-a Mác-đa-la? Đó là ước mong, khao khát của hết mọi người, nhất là những người đã một thuở vui buồn có nhau. Chúa Phục sinh hiểu điều đó, bốn mươi ngày là thời gian Người “chiều theo” thói quen của họ, nhưng cũng là thời gian Người bắt đầu tập cho họ bước vào một kinh nghiệm hoàn toàn mới, đó là kinh nghiệm gặp gỡ và sống với Người, Đấng không còn phải hiện diện hữu hình nữa mà là vô hình. Hễ khi họ tưởng không có Chúa, vắng bóng Chúa, thì ngay lập tức Chúa hiện diện bên họ. Bốn mươi ngày là thời gian đủ để Chúa củng cố niềm tin và giúp Giáo hội sơ khai sống kinh nghiệm mới đó. Và một khi đã sống kinh nghiệm đó rồi, Giáo hội mới nhận ra cái kinh nghiệm hữu hình của thời gian đầu thật “buồn cười” làm sao! Và cũng từ đây, Giáo hội không ngừng xác tín và khẳng định Đấng Phục sinh luôn hiện diện vô hình ngay trong lòng Giáo hội.

Giáo hội đã sống niềm tin đó (Giáo hội mang tên là lữ hành trong đức tin), không ngừng rao giảng niềm tin đó và sẵn sàng chết cho niềm tin đó. Giáo hội sơ khai đã ra sức truyền lại cho chúng ta cái kinh nghiệm vô cùng quý báu đó: Chúa Phục sinh đang hiện diện, đang có mặt trong cuộc đời chúng ta, không phải chỉ khi chúng ta họp nhau cầu nguyện, không phải chỉ khi chúng ta ở trong nhà thờ, nhưng Người còn hiện diện trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời chúng ta. Khi thì như một người đang làm vườn (Ga 20,11-18), lúc thì như một người đi đàng (Lc 24,13-35), khi thì lại như một người đang cầu nguyện (Lc 24,50-53), lúc lại như một người thuyền chài (Ga 21,4-23). Chúa Phục sinh vẫn luôn đang hiện diện như vậy, không ngừng hiện diện như vậy với Giáo hội. “Lên trời” đấy, “ngự bên hữu Thiên Chúa” đấy; ấy vậy mà Giáo hội vẫn mạnh dạn khẳng định chắc chắn rằng: “Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16,20).

Cảm nghiệm được Chúa Phục sinh vẫn đang hiện diện với mình, đang cùng sống với mình, Giáo hội đã “mỉm cười” và “hoan hỷ” biết bao. Liệu đó có phải là kinh nghiệm của tôi không? Đã bao giờ tôi cảm thấy “hoan hỷ” và “mỉm cười” hạnh phúc vì biết rằng Chúa Phục sinh đang ở bên cạnh mình?

Về mục lục

 

VÀO ĐỜI ĐỂ VỀ TRỜI

Trầm Thiên Thu

Ai cũng muốn “về trời”, nhưng không phải ai cũng thật lòng muốn “vào đời”. Phải thực sự can đảm mới đủ sức dấn thân vào đời, vì trách nhiệm nhiều mà đau khổ cũng chẳng ít. Nhưng phải VÀO ĐỜI rồi mới có thể VỀ TRỜI với Đức Giêsu Kitô. Chính Ngài cũng đã vào đời và chịu nhiều đau khổ, thậm chí còn phải chết trên Thập Giá.

Là những người đi theo Ngài, chúng ta cũng không thể đi lối tắt hoặc đường khác mà về trời. Chắc chắn như thế! Thật vậy, trước khi Chúa Giêsu về trời, Ngài bảo chúng ta phải vào đời: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15). Tuy nhiên, chúng ta không lẻ loi hoặc đơn độc, vì Ngài hứa chắc: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Hơn nữa, chính Đấng Bảo Trợ là Thần Chân Lý sẽ dạy chúng ta những điều phải làm (x. Ga 14:26). Cứ an tâm mà vào đời! 

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã dạy bảo các Tông Đồ mà Ngài đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Ngài còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Ngài vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình. Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà họ đã nghe Ngài nói tới, đó là: “Ông Gioan làm phép rửa bằng nước, còn họ sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (Cv 1:5).

Đã có những người “vô tư” hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Nhưng Ngài đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7-8). Thời đó, người ta cứ tưởng Chúa Giêsu là một chính trị gia có thể đảo chính để cướp chính quyền mà khôi phục quốc gia Ít-ra-en. Nhưng ai cũng “bé cái lầm”, vì có lần Ngài đã xác định trước mặt tổng trấn Phi-la-tô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18:36).

Sau 40 ngày sống lại, Chúa Giêsu căn dặn xong, Ngài được cất lên ngay trước mặt các tông đồ, và rồi có đám mây quyện lấy Ngài, khiến họ không còn thấy Người nữa. Đang lúc các ông còn đăm đăm ngước lên trời, nhìn theo phía Ngài đi, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1:11).

Lên trời là một hiện tượng vô cùng lạ, các ông ngạc nhiên là điều tất yếu. Lên trời ở đây là “về trời” chứ không phải lên trời du lịch một thời gian, cũng chẳng phải như Chú Cuội bám gốc đa bay lên cung trăng, hoặc như Táo quân cưỡi cá chép bay lên trời. Đó chỉ là huyền thoại. Lại càng không phải như các phi hành gia bay lên cung trăng bằng phi thuyền. Đó chỉ là dạng lên trời không chính thức, họ lên trời nhưng không thể sống được nếu không có bình dưỡng khí. Phải trở lại đất cho nhanh, kẻo hết dưỡng khí là chết chắc. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác định với ông Ni-cô-đê-mô: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3:13)

Chúa Giêsu lên trời là sự kiện vô cùng kỳ lạ. Các ông đã từng ngơ ngẩn khi thấy Thầy Giêsu bị người ta giết chết, tưởng thế là hết, nào ngờ Thầy phục sinh. Hạnh phúc tràn ngập. Nay các ông lại càng ngơ ngẩn hơn vì Thầy đi rồi, còn lâu Thầy mới trở lại, tiếc hùi hụi, nhớ ngẩn ngơ, nhưng chắc chắn các ông phải vào đời. Và mỗi chúng ta ngày nay cũng vậy, ai cũng phải vào đời để hy vọng và mong chờ ngày về trời. 

Cuộc chia tay nào cũng có phần lưu luyến, thường buồn hơn vui, nhưng khi Chúa Giêsu chia tay lại không buồn vời vợi mà lại tràn đầy niềm hy vọng. Ngài về trời là dấu chỉ cho biết chắc chắn chúng ta cũng được về trời. Vậy là vui chứ không buồn. Tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3).

Chúa Giêsu thăng thiên, Ngài về trời, nơi Ngài đã xuất phát, chúng ta vui mừng khôn tả, tác giả Thánh Vịnh mô tả là “rộn rã tiếng hò reo, vang dội tiếng tù và, đàn ca kính mừng Ngài”. Nhưng cuộc sống đôi khi không êm đềm như thảm lụa, nên chúng ta luôn phải tiếp tục động viên nhau: “Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu, hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt mỹ. Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:8-9).

Trong mọi hoàn cảnh, sự khôn ngoan rất cần thiết, cần cho cả đời sống xã hội và tâm linh. Sự khôn ngoan đó không như khôn ngoan bình thường, mà đặc biệt hơn, đó chính là Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô cho biết: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu. Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, mà Người đã biểu dương nơi Đức Kitô, khi làm cho Đức Kitô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời” (Ep 1:17-20). Nhờ khôn ngoan, chúng ta đón nhận nhiều điều quý giá khác từ Thiên Chúa. Thật tuyệt vời! 

Thánh Phaolô giải thích và cũng là kết luận: “Như vậy, Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1:21-23).

Trước khi về trời, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15). Đó không chỉ là lời căn dặn, là lời người ra đi, mà còn là mệnh lệnh – tức là điều phải thực hiện bằng mọi giá. Ngài vừa hứa hẹn vừa cảnh báo: “Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án” (Mc 16:16). Đó là hệ lụy tất yếu chứ không là sự hù dọa. 

Đức tin rất quan trọng, tạo nên sức mạnh vô song, tạo nên điều kỳ diệu ngoài sức tưởng tượng của loài người. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác nhận: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh thì những người này sẽ được mạnh khoẻ” (Mc 16:17-18). Thực tế cũng đã và đang có những người làm được như vậy, đó là tặng phẩm mà Thiên Chúa trao cho ai thì người đó phải biết sử dụng hợp lý. Ai cũng có một tặng phẩm, người được tặng phẩm này, kẻ được tặng phẩm khác, có người được hai hoặc ba tặng phẩm, cũng như kẻ được một nén, ba nén, năm nén, nhưng dù nhiều hay ít cũng chỉ là để làm sáng danh Thiên Chúa, chứ không phải để cậy mình hoặc nhắm tư lợi nào đó. 

Thánh sử Mác-cô cho biết: “Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16:19-20). Rõ ràng, Chúa Giêsu về trời rồi thì các ông đã vào đời, làm chứng về Đức Giêsu Kitô “ba-trong-một”, với ba sự kiện: Chịu chết trên Thập Giá, phục sinh và lên trời. 

Vào đời như thế nào? Thánh Phaolô cho biết về phong cách vào đời: “Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tuỳ theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. Được ơn phục vụ thì phải phục vụ. Ai dạy bảo thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn thì cứ khuyên răn. Ai phân phát thì phải chân thành. Ai chủ toạ thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái thì vui vẻ mà làm” (Rm 12:6-8). Mỗi người mỗi việc, mỗi người mỗi hoàn cảnh và trình độ khác nhau, mỗi người là một các chi thể khác nhau nhưng vẫn chung một Nhiệm Thể Đức Kitô. Tất cả các chi thể phải đồng tâm nhất trí, cùng hợp lại để phát triển Nhiệm Thể Thánh. 

Thánh Phaolô nói thêm về phong cách vào đời: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa. Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà” (Rm 12:9-13). Được vậy thì thật hạnh phúc cho chúng ta, và Thiên Chúa cũng vui mừng vì Ngài được tôn vinh nơi chính mỗi chúng ta.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết “ái mộ những sự trên trời” bằng cách sống nhân bản, nên hoàn thiện hàng ngày, chứng tỏ sự sống dồi dào của Đức Kitô qua việc thể hiện lòng thương xót với mọi người, nhất là đối với những người hèn mọn. Xin Đức Maria và Đức Thánh Giuse hướng dẫn chúng con biết đi đúng lối về trời và đưa chúng con đến đích thật. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

Về mục lục

 

HÃY ĐI LOAN BÁO TIN MỪNG

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo!”

Tôi không muốn coi đây là một lệnh truyền, vì mệnh lệnh bao giờ cũng là điều do vị bề trên truyền xuống, chứ không xuất phát từ bản thân, từ một đòi hỏi thâm sâu của cõi lòng mình. Đối với Nhóm Mười Một, vào thời điểm họ nghe câu nói này, thì có lẽ đúng là họ nghe một mệnh lệnh; đơn giản là vì họ chưa hiểu được rằng các biến cố đang dồn dập xảy ra đích thị là Tin Mừng. Thậm chí họ còn lo âu, họ sợ hãi thì đúng hơn, trong biến cố khổ hình và thập giá đã đành, mà cả trong các lần Đấng Phục Sinh hiện ra với họ; phải đợi tới khi ‘Thần Chân Lý’ đến dạy đỗ trực tiếp, họ mới vỡ lẽ ra từ đáy lòng mình về ý nghĩa đích thực của nó (Ga 14:26; 16:12-13). Chỉ khi đó, phải, chỉ lúc đó mệnh lệnh Chúa truyền trước khi về trời mới trở thành một cảm nghiệm không thể cưỡng, vì nó thôi thúc họ từ bên trong (Cv 2:4).

Đối với Ki-tô hữu chúng ta hôm nay thì khác hẳn: ta có nhiều thời gian để suy tư, để cử hành biến cố tử nạn và phục sinh như một Tin Mừng đích thực; ta đã được ban ‘Thần Chân Lý’ để dạy cho biết mọi sự; vì thế, nếu là Ki-tô hữu chân chính của ngày hôm nay, ‘hãy đi khắp tứ phương thiên hạ… loan báo Tin Mừng’ chắc hẳn sẽ không còn là một lệnh truyền từ bên ngoài nữa, mà đã phải là một thúc bách từ niềm tin thâm sâu nhất từ bên trong.

Vậy, nếu Tin Mừng là một thôi thúc từ bên trong, thì quả thực sự hiện diện hữu hình của Đức Giê-su, cho dầu đã sống lại vinh hiển, sẽ không còn là cần thiết nữa. Người có thể yên tâm về trời, và còn nên sớm về trời nữa là đàng khác, với điều kiện làm sao các môn đệ nắm bắt được cuộc sống, sự chết và phục sinh của Người đích thị là Tin Mừng, Tin Mừng cho mọi người và cho từng người; chỉ lúc đó, vâng, chỉ lúc đó, như các Tông Đồ, tôi mới có thể ‘ra đi rao giảng khắp nơi’. Như thế thì sứ điệp chính mà Lời Chúa muốn gởi tới chúng ta hôm nay lại không chỉ là tưởng nhớ tới biến cố ‘Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa’, mà là một yêu cầu gửi tới mỗi người chúng ta làm cuộc tổng kiểm tra về những gì đã cử hành trong suốt hai tháng qua kể từ đầu Mùa Chay; đối với tôi, những cử hành này có phải thật sự là Tin Mừng hay không? Cuộc kiểm tra này càng cần thiết vì đồng thời nó làm cho ta nghiệm ra một điều nữa, đó là, trong tư cách Ki-tô hữu, ta cần không ngừng gia tăng ý thức về sự hiện diện của ‘Thần Chân Lý’ nơi chính mình, để sống với Người cách sâu xa hơn, và để nhờ Người và trong Người, sức mạnh Tin Mừng sẽ càng tác động tích cực trong thời gian tới của niên lịch phụng vụ (mùa Hiện Xuống).

Chính vì ý thức được Tin Mừng, với sức mạnh vô địch của nó, mà ta mới ngộ ra ‘những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin’ thực ra cũng chẳng có gì là lạ, là bất thường cho lắm: ‘trừ được quỉ’ – chẳng qua là hoàn lại sức sống tình yêu của Thiên Chúa cho nhiều tâm hồn; ‘nói được những tiếng mới lạ’ – chẳng qua là nhìn nhận Lời Thiên Chúa chính là Lời tình yêu và từ nhân, tha thứ và không hề luận phạt; ‘cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc thì cũng chẳng sao’ – sẽ là can đảm liều lĩnh gánh vác những công việc mà tự nhiên không ai thèm làm hoặc dám làm; ‘đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe’ – sẽ là thể hiện bằng mọi cách lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa cho những kẻ yếu hèn nhất. Vài dấu lạ được kể ra, cho dầu có gây đôi chút ấn tượng, thì cũng chỉ là vài nét chấm phá của một nội dung vô cùng phong phú Tin Mừng chứa đựng. Tất cả các điều này, kể cả sức mạnh vô địch của Tin Mừng, mỗi chúng ta đều đang được thụ hưởng, nhờ vào ơn gọi Ki-tô hữu của mình. Trong Thánh Thần, ta đã đón nhận Tin Mừng Đức Ki-tô Giê-su, Tin Mừng ‘Thiên Chúa hết lòng yêu thương thế gian’. Và một khi đã sở đắc được niềm tin này thì dù Chúa có hiện ra hữu hình hay ẩn mình vô hình, dù có được tận mắt chứng kiến phép lạ mặt trời quay cuồng như tại Fatima năm nào hay chỉ âm thầm sống tin yêu trong tăm tối như Mẹ Tê-rê-xa Can-cút-ta… thì cũng không mấy quan trọng. Sự lạ thì vẫn là sự lạ… nhưng chỉ tác động được bên ngoài nhất thời mà thôi. Chỉ có Tin Mừng mới có sức thúc đẩy ta ‘đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo’. Mẹ Tê-rê-xa đã không ngừng loan báo Tin Mừng cho những người hấp hối cùng cực nhất của thành phố Can-cút-ta bằng phục vụ âm thầm… chỉ vì Mẹ luôn thâm tín rằng: ‘Chúa thương yêu tôi không phải vì tôi tốt lành, nhưng tôi cố gắng trở nên tốt lành hơn vì biết rằng Chúa thương yêu tôi!’

Phải, chỉ duy những ai thấu hiểu được Tin Mừng tình yêu mới có thể lên đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân, bằng nhiều phương tiện và nhiều cách thức rất khác nhau.

Lạy Chúa, nếu trước khi về trời Chúa hứa ban cho con một điều ước, thì con sẽ ước gì đây? Con sẽ không ước được thấy Chúa đôi lúc hiện ra hữu hình, con sẽ không ước được khôn ngoan, lợi khẩu, được làm phép lạ hay gì gì khác nữa. Điều ước duy nhất của con phải là được ở lại sâu hơn trong tình thương của Chúa; được thấu hiểu sâu hơn Tin Mừng Chúa yêu thương. Xin đổ tràn Thánh Thần Tình Yêu vào tâm hồn con, để – vì thâm tín rằng mình được Thiên Chúa yêu thương – con sẽ lên đường loan truyền Tin Mừng tình yêu cho mọi người. A-men.

Về mục lục

 

CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta mừng lễ Chúa Thăng Thiên. Sau khi đã hoàn tất sứ mệnh cứu chuộc được Thiên Chúa Cha trao phó, và sau khi đã trao sứ mệnh này lại cho các môn đệ tiếp tục, Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, đã lên trời trở về với Thiên Chúa Cha.

Trong một dịp đến thành phố Chicago, tôi có ghé tham quan tòa nhà lớn có tên là Tribune. Bức tường bên ngoài của tòa nhà có những viên đá khác thường được đặt lồi ra bên ngoài. Trên những viên đá này có một bảng nhỏ cho biết xuất xứ của viên đá. Có viên đá được lấy từ kim tự tháp bên Ai cập; có viên đến từ tòa nhà Taj Ma-hah bên Ấn độ, có viên từ Khải hoàn môn bên Pháp, có viên từ bức tường Bá linh bên Đức. Mục đích của kiến trúc sư khi vẽ và xây tòa nhà Tribune này là muốn có sự hiện diện của các quốc gia thế giới. Chúng ta thấy ngày nay, với những phương tiện truyền thông hiện đại như internet hay vệ tinh, nếu người kiến trúc sư này muốn có sự hiện diện của thế giới thì chỉ cần có những màn ảnh vĩ đại để trực tiếp truyền hình từ các thủ đô trên thế giới. Hay nếu chủ nhân của tòa nhà Tribune và người kiến trúc sư   muốn thế giới hiện diện bằng xương bằng thịt thì chỉ cần đưa những người đại diện đến ngồi hay “trưng bày” họ ở ngoài phòng tiếp khách.

    Sự kiện này dẫn chúng ta đến một điểm quan trọng, đó là, có nhiều cách và mức độ, để tạo sự hiện diện của người nào hay điều gì đó. Như những người Việt hải ngoại, chúng ta có thể hiện diện với người thân thuộc ở Việt Nam bằng nhiều cách như gọi điện thoại, e-mail, video, facetime là phương cách nói và nhìn hình trực tiếp cùng một lúc, hay về thăm bằng xương bằng thịt. Cũng vậy, sự kiện lên trời của Chúa không chấm dứt sự hiện diện của Ngài nơi trần gian, nhưng chỉ thay đổi cách hiện diện và đánh dấu một giai đoạn mới trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Chúa Giêsu Kitô không còn hiện diện nơi trần gian bằng xương bằng thịt, bằng thân thể thông thường của con người, nhưng Chúa hiện diện qua Nhiệm Thể Tinh Thần, đó là Giáo Hội mà Chúa đã lập nên. Và sự kiện này cũng nói lên một điểm hết sức quan trọng khác mà chúng ta phải lưu ý, đó là, Chúa Giêsu Kitô không còn hoạt động nơi trần gian bằng những chi thể xương thịt trong thân thể con người, nhưng qua những phần tử trong Thân Thể Mầu Nhiệm của Người. Hay nói một cách khác, Chúa Giêsu không còn xử dụng miệng, âm thanh của thân thể để nói và dạy dỗ, hay không còn xử dụng con tim thân xác để yêu thương, và cũng không dùng cánh tay xương thịt để dẫn dắt. Nhưng Chúa hoạt động qua những phần tử trong Thân Thể Mầu Nhiệm của Người, trong Hội thánh. Chúa xử dụng tiếng nói và miệng của chúng ta để an ủi và dạy dỗ. Chúa xử dụng con tim của chúng ta để yêu thương. Chúa xử dụng bàn tay của chúng ta để dẫn dắt và che chở. Ngày nay, Chúa xử dụng những phương cách này để tiếp tục kế hoạch mang ơn cứu độ đến cho mọi người, và xây dựng Nước Chúa nơi trần gian.  

Ông bà anh chị em thân mến. Đó là điều vui mừng mà chúng ta cử hành trong ngày lễ Chúa Lên Trời hôm nay. Thật vậy, cách đây hơn 2 ngàn năm, Chúa đã trao ban cho chúng ta trách nhiệm và bổn phận thay mặt Chúa, trở thành những “Ki-Tô” hiện diện nơi trần gian, để tiếp tục nói Lời Chúa, tiếp tục mang Tin mừng đến cho mọi người, tiếp tục yêu thương những người nghèo khổ, bất hạnh, tiếp tục dẫn dắt người tội lỗi và chưa có đức tin đến với Chúa và Chúa cũng nhờ những cánh tay, con tim và lòng quảng đại của chúng ta để xây dựng Nước Chúa nơi trần gian. Chúa qua Thánh Thần thánh hóa, ban ơn và kêu gọi chúng ta hãy để cho Chúa tiếp tục hiện diện và hoạt động qua chúng ta, cũng như sai chúng ta đi mang Tin mừng ơn cứu rỗi của Thiên Chúa Cha đến cho mọi người.

Chúng ta thấy các bài Kinh thánh hôm nay diễn tả biến cố Chúa lên trời và trao ban sứ vụ rao giảng Tin mừng cho các môn đệ. Trong bài đọc 1, thánh Lu-ca tường thuật cả hai biến cố: Chúa lên trời và trao ban cũng như sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Bài đọc còn cho chúng ta biết trước ngày lên trời, Chúa Giê-su Ki-tô đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Sau khi sống lại, Người đã hiện ra nhiều lần trong bốn mươi ngày, để củng cố đức tin, chứng tỏ cho các ông thấy Người đã sống lại như lời Người đã tiên báo, sau khi đã chịu khổ hình chết trên thập giá, và nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. Chúa còn báo cho các ông biết các ông sẽ lãnh nhận Phép Rửa bằng Thánh Thần. Thật vậy, các Tông đồ lãnh nhận Phép Rửa này trong ngày Lễ Ngũ Tuần mà Hội thánh mừng vào lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống tuần tới. Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô cầu nguyện cho các tín hữu có thần trí khôn ngoan để hiểu Mầu Nhiệm Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa, được thực hiện qua Chúa Giê-su Kitô. Thánh Phao-lô xác định cho mọi người biết Chúa Giê-su Ki-tô là đầu của Hội thánh và chúng ta là thân thể của Người, ngài nói “Thiên Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài.” Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ phải đi rao giảng Tin Mừng, và Người ban quyền cần thiết để người khác tin vào lời các ông rao giảng. Đây là sứ mệnh và cũng là một sự thử thách mà Tin mừng đề cho chúng ta trong cuộc sống Ki-tô hữu.

Ông bà anh chị em thân mến. Muốn truyền thông, muốn rao giảng Tin mừng một cách thiết thực, chúng ta phải tha thiết, gắn bó, xử dụng và phải sống Tin mừng là Lời Chúa. Lời Chúa phải thấm nhuần trong đời sống chúng ta. Hôm nay, Chúa nói với chúng ta “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật.” Chúng ta hỏi lại chính mình “Tôi có gắn bó và tha thiết và với Lời Chúa không?”, “Tôi có lời Chúa trong trái tim tôi không?” “Tôi có Tin mừng trong đời sống tôi không?” Nếu chúng ta không có, không biết Lời Chúa, không có Lời Chúa trong trái tim, không thấm nhuần Lời Chúa trong đời sống, thì làm sao chúng ta có thể truyền thông, có thể rao giảng Tin mừng Lời Chúa cho ai được! Nếu tôi muốn rao giảng Lời Chúa cho ông bà anh chị em, thì tôi phải cố gắng tha thiết và gắn bó với Lời Chúa trong đời sống, phải cố gắng đọc Lời Chúa, phải soạn và sau đó mới truyền thông, mới rao truyền Lời Chúa.

Chúa Giêsu chỉ rao giảng Ơn Cứu Độ 3 năm ngắn ngủi nơi trần gian, rồi Người phải từ giã các môn đệ về trời ngự bên hữu Chúa Cha vinh hiển, và Chúa cũng muốn chúng ta “Người ở đâu thì chúng ta ở đó.” Vì vậy Người đã ban Chúa Thánh thần để hiện diện và giúp chúng ta chu toàn sứ mệnh Người đã giao phó cho chúng ta. Xin Chúa ban cho chúng ta có tâm hồn khao khát, có sự gắn bó và thành tâm sống Lời Chúa, để Lời Chúa thấm vào cuộc sống chúng ta. Xin Chúa ban cho chúng ta can đảm và sức mạnh để rao truyền Tin mừng trong môi trường chúng ta đang sống là gia đình, nơi làm việc và cộng đoàn giáo xứ, bằng những việc tốt lành, bác ái, yêu thương và hy sinh phục vụ xây dựng Nước Chúa. 

Về mục lục

.

 

ĐIỂM HẸN YÊU THƯƠNG

 Lm. Jos. DĐH

Giầu sang phú quí, địa vị danh vọng có thể là điểm nhắm của nhiều người đang gắng sức tìm kiếm. Lý tưởng của người lao động là có được lương cao, thao thức của người nhạc sĩ là có được tác phẩm để đời, người kiến trúc sư với mơ ước bản vẽ của mình được sử dụng. Đối với công trình lớn hay nhỏ, các chủ đầu tư đều đưa ra khẩu hiệu : an toàn là bạn, tai nạn là thù, đó cũng là mong ước của người lao động. Người ta dù cao sang hay nghèo hèn cũng được gọi công dân của một đất nước; từ khi chịu phép rửa tội, chúng ta đã được gọi là Kitô hữu, và đích điểm hạnh phúc vẫn là của mọi phần tử xã hội.

Vì thấy cuộc đời là “bể khổ”, nên giáo lý “Nhà Phật” chỉ đường cho chúng sinh cách giải thoát là “diệt dục”. Giáo lý Hội-thánh Công-giáo đặt nền tảng cho cuộc đời dựa trên “luật yêu thương”, con đường dẫn tới hạnh phúc của người Kitô hữu sẽ tùy thuộc chúng ta sử dụng khả năng, điều kiện, của mình như thế nào.

Sự kiện “Chúa Thăng Thiên” hay “Chúa về Trời”, là hoa trái của tình yêu Đức Giêsu hoàn tất “sứ mạng yêu thương” suốt 33 năm tại trần thế. “Chúa Thăng Thiên” là khởi đầu cho sứ mạng kế tiếp của các học trò Đức Giêsu, của từng người Tín hữu chúng ta. Sứ mạng tông đồ được mở ra với lệnh truyền : “các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi loài thọ tạo, ai tin và chịu phép rửa thì sẽ được cứu độ”.

Khi xưa tại Na-ra-rét, Đức Giêsu có 30 năm vừa học cầu nguyện vừa sống cầu nguyện, sau đó 3 năm tiếp theo, Chúa Thánh Thần dẫn Ngài thực thi sứ mạng yêu thương, và đến “điểm hẹn” Đức Giêsu đã thi hành trọn vẹn ý Chúa Cha. Sách Công vụ hôm nay diễn tả sự kiện Chúa Giêsu lên trời, và Thánh Thần tiếp tục hoạt động nơi các tông đồ, đó là ơn gọi làm chứng nhân tại Giêrusalem, các vùng Giuđêa, Samaria, và đến tận cùng trái đất. Điểm hẹn mà Thánh Phaolô nói nơi bài đọc 2 là hãy cầu nguyện, nhân danh Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô để ban cho các Tín hữu được ơn khôn ngoan của Thánh Thần.

Điểm hẹn giữa Chúa Giêsu và các tông đồ hôm nay không đơn giản chỉ là mệnh lệnh : “các con hãy đi khắp thế gian”; điểm hẹn mà các tông đồ phải đọc ra, đó là hạnh phúc được “lên trời ngự bên hữu Chúa Cha với Thầy Giêsu”. Sau nữa, điểm hẹn không chỉ là nơi hội ngộ, điểm hẹn còn cho thấy sức mạnh đầy quyền năng của Thánh Thần, có tình yêu Chúa cùng hoạt động ở hiện tại. Điểm hẹn của chúng ta hôm nay cũng được mang dáng dấp tình yêu thương, phải được bổ dưỡng hạnh phúc bằng cả vật chất lẫn tình thần, xem ra như thế mới đủ khỏe, đủ vui, đủ hấp dẫn cho những ai sống luật yêu thương.

Có một câu ca dao mà mhiều người trong chúng ta đã nghe : đi đâu cho thiếp theo cùng, đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam. Có một câu trong Tin mừng hôm nay : “đây là phép lạ đi theo những người đã tin, nhân danh Thầy họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải độc dược thì cũng không bị hại.” Cảm nhận về thủy chung, hiểu theo nghĩa chặt hay nghĩa rộng, đều đẹp, nói tới tình yêu là nhắc đến một sức sống mãnh liệt, dù tình yêu nặng về vật chất hay tinh thần.

Các tông đồ không thể hiểu hết về sự kiện Thầy lên trời, vì thế, các ông chỉ có thể trung thành với lời căn dặn của Thầy và không ngừng hiệp thông cầu nguyện. Ơn gọi của người tông đồ, của mỗi chúng ta theo Đức Giêsu phải có sự gắn bó như tình nghĩa phu thê, nếu ta tin Đức Giêsu vừa là Thầy vừa là Chúa. Thầy Giêsu là người tiên phong chiến thắng sự chết, Thầy là đường và cũng là người chỉ đường giúp chúng ta đạt tới điểm hẹn Nước Trời.

Người Việt Nam chúng ta quan niệm trời và đất xa nhau nhưng vẫn có liên hệ, trời chi phối tất cả mọi sinh hoạt của đất; vì thế mà dân gian có truyện “Cóc kiện trời”. Xảy ra lúc đó ở dưới đất nhiều năm không mưa, vạn vật khổ đau trăm bề, Cóc – Cáo – Cọp – Gấu là những con vật đại diện, tìm lối lên trời thưa kiện về việc hạn hán. Sau khi gặp gỡ được “Ngọc Hoàng”, không những khúc mắc được giải tỏa, “Ngọc Hoàng” còn cho “Cóc” một ân huệ, mỗi khi ở dưới đất cần mưa thì Cóc cứ nghiến răng ken-két. Dân gian còn đặt ra một câu vè, đề cao sự khăng khít giữa tương quan đất và trời : con Cóc là Cậu Ông Trời, hễ ai đụng đến là Trời đánh cho.

Tương quan giữa Chúa Giêsu với các tông đồ là yêu thương, sứ mạng Chúa Giêsu trao cho các ông là một diễm phúc, từ sự gắn bó yêu thương, các ông có thể chu toàn việc Thầy giao phó cách dễ dàng hơn. Do đó, Kinh Thánh đã diễn tả sức mạnh, quyền uy đi kèm với niềm tin của các ông : “nói được tiếng lạ, trừ được quỷ thần, chữa lành được các bệnh tật, cầm rắn trong tay, uống phải độc dược cũng không bị hại”. Điểm hẹn mà các tông đồ, và mỗi người tin theo Chúa đó là tình yêu hiệp thông, là hạnh phúc có Chúa cùng hoạt động, là niềm vui trọn vẹn vì được ở cùng Thầy Giêsu bây giờ và mai sau. Amen.

Về mục lục

.

GÓP PHẦN KIẾN TẠO THIÊN ĐƯỜNG ĐỜI SAU

NGAY TỪ HÔM NAY

 Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mc 16,15-20.

(15) Người nói với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. (16) Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu độ. Còn ai không tin, thì sẽ bị kết án”. (17) Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. (18) Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay lên những người bệnh, thì những người này cũng được mạnh khỏe. (19) Nói xong, Chúa Giê-su được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. (20) Còn các Tông đồ thì ra đi rao gảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.

  1. Ý CHÍNH:

Đức Giê-su trước khi về trời đã trao cho các Tông đồ sứ mạng tiếp tục công việc loan báo Tin Mừng Nước Trời cho mọi loài thụ tạo, để ai tin và chịu phép rửa thì được tái sinh làm con Thiên Chúa và được sống đời đời. Còn những kẻ không tin thì sẽ bị kết án. Chúa còn hứa ban quyền làm những dấu lạ cho các Tông đồ. Sau đó Chúa Giê-su đã được rước lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông đồ thì đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi với sự trợ giúp của Người.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 15-16: +Anh em hãy đi: Lệnh truyền này chỉ được công bố sau biến cố Phục Sinh cho thấy: mầu nhiệm Phục Sinh là nền tảng cho sứ mạng tông đồ. +Khắp tứ phương thiên hạ: Trong thời gian 3 năm rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su chỉ được sai đến cùng các con chiên lạc của nhà Ít-ra-en. Nhưng sau khi Phục Sinh, Người đã trao sứ mạng “loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo” cho các Tông đồ. +Loan báo Tin Mừng: Theo Hy ngữ, Tin Mừng ( Eu-ag-ge-li-on) là một “tin vui, tin hạnh phúc”. Có thể hiểu Tin Mừng Đức Giê-su theo hai nghĩa: Một là “Tin Mừng được Đức Giê-su công bố. Hai là “Tin Mừng về Đức Giê-su”, Đấng ban ơn cứu độ nhờ mầu nhiệm chết và sống lại của Người. +Cho mọi loài thọ tạo: Mọi loài thọ tạo mang ý nghĩa cánh chung, nghĩa là mọi dân mọi nước (x. Mt 28,19), Chúa sẽ biến đổi trần gian nên Trời Mới Đất Mới vào ngày Tận Thế (x. Kh 21,1). +Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu độ: Tin là mở lòng đón nhận Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. Chịu phép Rửa là nhận ơn tha tội và ơn tái sinh để nên người mới và nên dưỡng tử của Thiên Chúa. Nhờ đó họ sẽ được sống đời đời. + Còn ai không tin thì sẽ bị kết án: Thực ra, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ (x Ga 3,17). Còn kẻ không tin thì đã bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa nên đã tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ. Họ giống như cành nho bị tách lìa khỏi thân cây là Đức Giê-su, nên sẽ khô héo và sẽ bị quăng vào lửa hỏa ngục đời đời ở đời sau (x. Ga 15,5-6). +Còn những người không tin Đức Giê-su nhưng không do lỗi của họ thì có được hưởng ơn cứu độ không?: Những ai tuy không biết Đức Ki-tô, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành, thì “Chúa sẽ lo liệu cho họ có đủ phương tiện cần thiết để được rỗi linh hồn”. Chỉ những kẻ cố tình theo ma quỷ làm điều gian ác và cố chấp không hồi tâm sám hối, thì chắc chắn sẽ phải xuống hỏa ngục, nơi dành cho các đầy tớ bất trung, “những kẻ đạo đức giả. Ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (x. Mt 24,51a), cũng là nơi “dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25,41).

C 17-18: +Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: Ngay trong thời gian giảng đạo, khi sai các Tông đồ đi thực tập truyền giáo, Đức Giê-su đã ban cho các ông quyền trên các thần ô uế để xua trừ chúng và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền trong dân (x. Mt 10,1-5). Giờ đây trước khi về trời, Chúa Giê-su Phục Sinh đã trao lại cho các ông quyền làm các dấu lạ ấy. +Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay lên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe: Khi viết Tin Mừng (khoảng năm 65), các Tông đồ đã làm nhiều dấu lạ. Chẳng hạn: Vào lễ Ngũ Tuần, sau khi nhận được đầy ơn Thánh Thần, các Tông đồ đã nói các thứ tiếng khác lạ (x. Cv 2,4). Thánh Thần cũng ngự xuống gia đình Co-nê-li-ô và cho họ nói các thứ tiếng lạ (x. Cv 10,44-46). Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân qua các Tông đồ (x. Cv 5,12). Tông đồ Phê-rô đặt tay trên bệnh nhân hoặc chỉ cần bóng của ông phớt qua đã đủ để họ được lành bệnh, và thần ô uế cũng phải xuất ra (x. Cv 5,15-16). Còn tông đồ Phao-lô thì chữa lành một người bị bại chân tại Lýt-ra (x. Cv 14,8-10) ; Tại đảo Man-ta, Phao-lô đã bị rắn độc bám vào tay và cắn mà không hề hấn gì (x. Cv 28,1-6); Ông cũng đã cầu nguyện và đặt tay chữa lành nhiều bệnh nhân (x. Cv 28,8-9); Ngay cả chiếc áo ông đã mặc qua cũng có năng lực làm cho cơn bệnh biến đi và tà thần phải xuất ra (x. Cv 19,11; 20,9-12).

C 19-20: +Chúa Giê-su được rước lên trời: Như Ê-li-a thời Các Vua đã “lên trời trong cơn gió lốc” (2 V 2,11), thì thân xác Chúa Giê-su Phục Sinh cũng được rước lên trời trên các tầng mây. Từ nay Người không còn lệ thuộc vào không gian thời gian như khi còn sống nữa. +Và ngự bên hữu Thiên Chúa: Đức Giê-su đã được Chúa Cha tôn vinh (x Đn 7,13-14; Cv 2,34), được vào trong vinh quang của Chúa Cha, với quyền cai trị vũ trụ (x. Mt 28,18), ngang hàng với Thiên Chúa (x. Ep 1,21). Công Nghị Do Thái đã hiểu theo nghĩa này, nên đã đồng thanh kết án tử hình Đức Giê-su vì cho Người chỉ là phàm nhân mà dám phạm thượng khi nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa (x. Mc 14,62-64). Đức Giê-su lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa không có nghĩa là lìa xa con người, nhưng có nghĩa: Người được tôn vinh lên ngang hàng với Thiên Chúa. Là Thiên Chúa nhập thể làm người, là “Em-ma-nu-en” nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. + Ra đi rao giảng khắp nơi: Các Tông đồ đã vâng lời Chúa Giê-su, đi khắp nơi loan báo Tin Mừng, làm chứng cho Đức Giê-su tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri, và cho đến tận cùng trái đất (x. Cv 1,8). +Có Chúa cùng hoạt động với các ông…: Từ đây, Chúa Ki-tô sẽ luôn hiện diện trong Hội thánh (x Mt 28,20). Chúa Phục Sinh đã hiện ra thổi hơi ban Thần Khí cho các Tông đồ để ban quyền tha tội (x Ga 20,21-22), và vào lễ Ngũ Tuần, Thần Khí hay Thánh Thần đã được đổ xuống trên Cộng Đoàn Hội Thánh Sơ Khai để giúp Hội Thánh chu toàn sứ vụ ngôn sứ là loan báo Tin Mừng khắp thế gian (x. Cv 2,18).

  1. CÂU HỎI:

1) Mầu nhiệm Phục Sinh có tầm quan trọng thế nào đối với sứ mạng được sai đi? Các Tông đồ được Chúa Phục Sinh sai đến với những người nào?

2) Tin Mừng của Đức Giê-su có những ý nghĩa thế nào?

3) Để được hưởng ơn cứu độ của Đức Giê-su, đòi ta phải có những điều kiện nào?

4) Những ai chắc chắn sẽ bị kết án sa hỏa ngục? Những người tuy chưa có đức tin, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành có được Chúa ban ơn cứu độ không?

5) Trong thời gian giảng đạo, khi sai môn đệ đi thực tập truyền giáo, Đức Giê-su đã ban cho các ông những quyền nào?

6) Trườc khi về trời, Chúa Phục Sinh đã trao sứ vụ loan Tin Mừng cho các Tông đồ kèm theo những gì?

7) Lời Chúa tiên báo về các dấu lạ đi kèm với lời rao giảng của các Tông đồ đã được ứng nghiệm thế nào trong thời Giáo Hội Sơ Khai?

8) Trong thời Cựu Ước, ngôn sứ nào đã được rước lên trời? Thời Tân Ước hai nhân vật nào cũng được lên trời? Mầu nhiệm thăng thiên của Chúa Giê-su khác với mầu nhiệm mông triệu của Đức Ma-ri-a ra sao?

9) So sánh hai lệnh truyền của Chúa Giê-su trước khi lên trời trong Tin Mừng Mat-thêu “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…” (x Mt 28,19), và trong Công vụ Tông đồ “Hãy nên chứng nhân của Thầy…” (x Cv 1,8) giống và khác nhau thế nào?

10) Sau khi lên trời, Chúa Giê-su có còn hiện diện trong Hội thánh nữa không?

11) Chúa Phục Sinh thổi ban Thần Khí cho các Tông đồ nhằm mục đích gì?

II.SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Chúa Giê-su được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông đồ thì ra đi rao gảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng (Mc 16,19-20).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) Phải chăng không có Thiên Đàng ?

Do hiểu Thiên đàng chỉ là một nơi cực lạc về vật chất nên vào ngày 5.9.1961 Thủ tướng Liên xô cũ là ông KÚT-XẾP (Kroutchev) đã nói với ký giả SUN-BÉC-GƠ (Sulberger) rằng : ”Để điều tra trên trời có Thiên đàng thật như người ta nói hay không, chúng tôi đã gửi một thám tử lên không trung: anh GIU-RI GA-GA-RIN (Youri Gagarine). Anh này đã đi vòng quanh trái đất mà cũng chỉ quan sát thấy những bóng đen dầy đặc, chứ không có gì như thiên đàng cả.  Sau đó, chúng tôi đã suy nghĩ và gửi thêm một thám tử khác nữa lên là GIƠ-MEN TI-TỐP (German Titov). Chúng tôi đã bảo anh ta rằng : ”Hãy bay lâu hơn một chút nữa. Có lẽ Ga-ga-rin chưa trông thấy thiên đàng, vì chàng ta chỉ mới bay có một tiếng rưỡi đồng hồ thôi. Vậy chuyến này anh hãy nhìn cho kỹ”. Ti-tốp đã ra đi rồi sau khi trở về, anh đã xác nhận lời tuyên bố của Ga-ga-rin: ”Hư vô ! Chỉ có hư vô!” là đúng. Rồi cuối cùng Kút-xếp xoa tay kết luận: ”Cho nên chúng tôi không tin có đời sau”. (Information catholique ngày 1.10.1961, tr 14).

Tuy nhiên đối với những người không có đức tin vào Thiên Chúa và vào thế giới siêu nhiên, thì làm sao có thể nhìn thấy Thiên Chúa hay thấy Thiên đàng bằng cặp mắt thường được?

2) Thiên đàng hỏa ngục hai bên:

Cách đây ít lâu thập niên 50, ở miền Nam Việt Nam các trẻ em thường chơi trò mà nội dung có ý nghĩa giáo dục rất lớn về hạnh phúc Thiên Đàng và bất hạnh của Hỏa Ngục như sau:

Hai em được đề cử sẽ đứng đối diện với nhau và giơ hai cánh tay lên nắm vào nhau để làm thành cánh cửa Thiên Đàng. Các em khác thì xếp hàng một, người sau đặt hai bàn tay lên vai người trước và nối đuôi nhau đi qua cánh cửa Thiên Đàng, trong lúc mọi người chơi đều hát một bài ca đồng dao theo cung giọng chung như sau:

“Thiên Đàng địa ngục hai bên,

Ai khôn thì lại, ai dại thì qua.

Đêm nằm nhớ Chúa, nhớ Cha,

Đọc kinh cầu nguyện, kẻo sa linh hồn.

Linh hồn phải giữ linh hồn,

Đến khi mình chết được lên Thiên Đàng”.

Cuộc chơi bắt đầu khi các em vừa hát bài đồng dao vừa di chuyển chầm chậm chui qua cửa Thiên Đàng. Nhưng khi bài hát gần hết, các em sẽ phải đi nhanh hơn. Khi hát tới câu “Đến khi mình chết được lên Thiên Đàng”, thì cánh cửa Thiên Đàng do hai em trấn giữ sẽ đóng sập xuống. Những em chưa qua được cửa Thiên Đàng đương nhiên sẽ bị kẹt lại trong hỏa ngục, và phải chịu hình phạt như hít đất, thụt dầu hay nhéo lỗ tai, v.v…

3) So sánh Thiên đàng và hỏa ngục giống và khác nhau thế nào?

Ngày xưa có ông vua triệu vời một đạo sĩ vào triều để hỏi xem Thiên Đàng và Địa Ngục là có thật hay chỉ là sự hoang đường mê tín. Đạo sĩ mời vua nằm ngủ đầu dựa trên chiếc gối có phép mầu. Vua vừa nằm ngủ liền xuất hồn ra khỏi xác đi theo vị đạo sĩ, vào trong một căn phòng lớn. Giữa phòng có đặt một nồi cháo thật to đáng bốc khói, bốc ra mùi cháo thơm phức. Chung quanh nồi cháo có rất đông người ốm đói đang chen lấn nhau rất mất trật tự. Mỗi người cầm trên tay một cái muỗm có cán dài quá khổ. Ai nấy đều cố giành cho mình được quyền vào múc cháo trước. Nhưng vì cán muỗm quá dài, nên họ chỉ múc được cháo mà không thể đưa muỗm cháo tới gần miệng để ăn. Họ tranh cãi nhau ồn ào như một cái chợ. Có kẻ còn dùng muỗm đánh nhau làm cháo đổ văng tung tóe. Vua lắc đầu ngao ngán: “Đúng thật là hỏa ngục!”

Vua lại thấy hồn mình đi theo đạo sĩ bước vào căn phòng lớn thứ hai, cũng có nồi cháo thật to đang bốc mùi cháo thơm phức như vậy và có rất đông người đứng gần đó. Mỗi người đều cầm một cái muỗm có cán khá dài. Nhưng những người ở đây lại xếp hàng trật tự để lần lượt chờ tới phiên mình. Khi múc được cháo, họ không thể đưa vào miệng mình nên đã đưa muỗm cháo cho người ở bên cạnh ăn. Vị biết nhường nhịn và quảng đại chia sẻ cháo cho nhau nên mọi người đều được ăn no. Ai nấy đều cảm thấy vui và bầu khí trong phòng thật an bình hạnh phúc. Vua thấy vậy liền gật gù và nói: “Đây thật là một Thiên Đàng hạnh phúc!”

Câu chuyện trên cho thấy Thiên Đàng và Hỏa Ngục nói chung rất giống nhau. Chỉ khác nhau ở chỗ người ta có biết nghĩ đến nhau và biết cách ứng xử với nhau bằng tình thương hay không. Tình thương phải được thể hiện qua thái độ biết nghĩ đến nhau, nhẫn nhịn chịu đựng nhau và hay tha thứ cho nhau, biết tôn trọng lẫn nhau, tránh thói ích kỷ và biết khiêm tốn phục vụ và làm vui lòng nhau hay không thôi.

  1. THẢO LUẬN:

1) Thiên Đàng là gì? 2) Thiên Đàng ở đâu? 3) Ta phải làm gì ngay từ bây giờ để sau này sẽ được sống an vui hạnh phúc với Chúa trên Thiên Đàng?

  1. SUY NIỆM:

1) Thiên Đàng hay Địa Đàng là gì?:

– Thiên Đàng (Hy ngữ là Pa-ra-dei-sos) nghĩa là Hoa viên hay khu vườn đầy hoa thơm cỏ lạ (x St 2,8). Theo Kinh Thánh, Địa đàng là một khu vườn hoan lạc, nơi con người được sống trong bình an hạnh phúc. Đầu tiên Thiên Chúa đã dựng nên một khu vườn có nhiều hoa trái tươi xinh, có suối nước trong và rất nhiều thú vật hiền hòa đều sinh sống bình an hòa thuận với nhau. Rồi đến lượt ông bà nguyên tổ Ađam Evà được Chúa dựng nên và nhận làm nghĩa tử. Chúa cho hai người ở trong Vườn Địa Đàng (Eđen), và trao cho họ nhiệm vụ coi sóc canh tác vườn (Stk 2). Nhưng Nguyên tổ Ađam Evà do tội kiêu ngạo, đã cãi lệnh truyên của Thiên Chúa, nghe lời cám dỗ của con rắn ma quỷ để ăn quả cây Chúa cầm, hầu được theo sở thích của mình và không bị lệ thuộc vào Chúa nữa. Do phạm tội Tổ Tông này nên hai ông bà đã bị truất quyền làm nghĩa tử, bị đuổi ra khỏi Địa đàng, phải vào sống trong thung lũng trần gian đầy gai góc, nước mắt đau khổ với nhiều tai ương hoạn nạn bệnh tật và cuối cùng còn phải chết (x. St 3,7.16-19).

– Tuy nhiên, Thiên Chúa không bỏ mặc loài người chết trong tội lỗi muôn đời, nên đã hứa ban một Đấng Cứu Thế thuộc dòng dõi người nữ đến, với nhiệm vụ chịu hình phạt chịu đóng đinh chân tay vào thập giá để chịu chết đền tội thay cho loài người, hầu khôi phục lại tình trạng hoan lạc và hạnh phúc đời đời cho loài người (x. St 3,15). Đức Giê-su đã mở ra một con đường mới để dẫn đưa loài người về giao hòa với Thiên Chúa. Người biến trần gian là nơi lưu đầy trở thành Nước Trời bình an hạnh phúc, trở lại tình trạng Thiên Đàng ban đầu khi mới được tao thành (x. Ed 36,35; Is 51,3), trở thành “Trời Mới Đất Mới, nơi công lý ngự trị” (2 Pr 3,13; Kh 21,1), trở thành Miền Đất Hứa cho dân It-ra-en Mới là Hội Thánh trở về quê hương đời sau.

2) Thiên Đàng ở đâu?

– Thiên Đàng là nơi Thiên Chúa ngự trị, nơi đầy hoan lạc bình an và hạnh phúc. Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Phi-lip-phê đề cập đến quê hương Thiên Đàng như sau: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta, nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).

– Thiên Đàng không phải ở đâu xa, mà ở đâu có tình yêu, có hòa bình, không chém giết hận thù nhau, mọi người sống chung hòa hợp và hạnh phúc thì nơi đó là Thiên Đàng như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm về triều đại hòa bình của Đấng Thiên Sai:

“Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ, bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển” (Is 11,6-9).

Sách Khải Huyền cũng diễn tả về hạnh phúc Thiên Đàng đời sau: “Bấy giờ Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4).

Tóm lại, Nước Trời hay Thiên Đàng có thể không ở đâu xa, mà ở trong lòng mỗi người, trong cộng đoàn ta đang sinh hoạt. Thiên Đàng hay Triều Đại của Thiên Chúa không phải thuộc vật chất nên chúng ta không trông thấy được như lời Đức Giê-su nói: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: “Ở đây này!” Hay “Ở kia kìa!”, vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17,20-21). Ai yêu thương thì người ấy đang sống trong Nước Trời hay đang hưởng hạnh phúc Thiên Đàng vì “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,16). Còn ai không yêu thương sẽ bị loại ra ngoài Nước Trời, “Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 13,50).

3) Kiến tạo Thiên đàng đời sau bằng việc gieo việc tốt yêu thương từ đời này:

Ngày xưa có một chàng thanh niên hồ nghi về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Một hôm anh tìm đến một cha Bề Trên có tiếng là đạo đức của một dòng tu trong vùng và hỏi cha rằng:

– Thưa cha, cha có tin có Thiên Chúa không ?

Cha Bề Trên trả lời:

– Có chứ. Tôi tin.

– Nhưng dựa vào đâu mà cha lại tin như thế ?

– Tôi tin Thiên Chúa vì tôi biết Ngài. Tôi cảm nghiệm được Ngài ở trong tôi mỗi ngày.

– Nhưng làm sao mà cha cảm nhận được như thế ?

– Khi chúng ta yêu thì chúng ta sẽ cảm nghiệm được Thiên Chúa, và những nỗi hồ nghi trong ta sẽ tan biến như những giọt sương mai sẽ tự nhiên tan biến dưới ánh nắng mặt trời.

Chàng thanh niên suy nghĩ một lúc rồi hỏi tiếp :

– Xin cha chỉ rõ cho con phải làm gì để tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa?

– Bằng cách thực hiện những việc yêu thương. Anh hãy cố gắng yêu thương những người chung quanh anh, yêu thương tích cực và không ngừng. Khi anh học biết yêu thương ngày càng nhiều hơn thì anh cũng sẽ ngày càng xác tín hơn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự bất tử của linh hồn.

Cha bề trên chẳng nói gì khác hơn điều Tông Đồ Gio-an đã viết như sau: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình yêu”. Nhà danh họa Van Gogh cũng nói: “Cách tốt nhất để biết Thiên Chúa là hãy yêu nhiều. Hãy yêu bạn mình, yêu vợ mình, yêu một cái gì đó. Rồi bạn sẽ thấy mình đang đi đúng đường dẫn tới chỗ biết Thiên Chúa”.

Có một vực thẳm ngăn cách giữa việc nhận biết Chúa và yêu mến Chúa. Không yêu Chúa thì sẽ không nhận biết Ngài. Nhưng khi chúng ta yêu thì vực thẳm này được lấp đầy ngay. Yêu Chúa là nhận biết Chúa. Nơi nào có tình yêu thì nơi đó có Chúa và là Thiên Đàng, cũng như nơi nào có Chúa thực sự thì nơi đó chắc chắn sẽ có tình yêu đang ngự trị và trở thành Thiên Đàng.

4) Hiện nay công trình cứu chuộc của Chúa cần chúng ta góp phần hoàn tất: 

Công trình cứu độ loài người của Thiên Chúa gồm hai phần: Đức Giê-su đã hoàn tất phần đầu thuộc về Thiên Chúa là nhập thể và mở ra con đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang” để cứu độ nhân loại. Nhưng việc cứu độ chỉ hoàn tất với sự cộng tác của các tín hữu với ơn Thánh Thần để nhận được ơn tha tội và tích cực cứu độ anh em.

Vì thế, trước khi về trời, Đức Giê-su đã nhắc lại cho các môn đệ sứ vụ loan báo Tin Mừng để làm cho chương trình cứu độ được hoàn thành nơi mỗi người tín hữu, rồi mọi người cùng góp phần cải thiện môi trường mình đang sống ngày một sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn, để khu phố, xí nghiệp, cơ quan… mình đang làm việc trở thành Thiên Đàng yêu thương, mang lại bình an hạnh phúc là dấu chỉ sau này chúng ta sẽ được hạnh phúc đời đời trên Thiên Đàng.

Chúa Phục Sinh đã trao trách nhiệm cho các Tông Đồ cũng là cho mỗi tín hữu hôm nay là phải làm chứng nhân cho tình thương của Chúa: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Vậy gieo yêu thương để làm chứng cho Chúa hôm nay, đòi mỗi người chúng ta phải tha thứ, nhịn nhục, thăm viếng, giúp đỡ những người khó ưa sống chung trong gia đình, trong các đoàn thể của giáo xứ, nơi trường học, chợ búa, xí nghiệp, cơ quan, và bất cứ nơi nào chúng ta hiện diện…

  1. LỜI CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Khi Chúa về trời, sứ thần đã nhắc nhở các môn đệ: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn cứ đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời (Cv 1,10-11). Lạy Chúa, bấy lâu nay chúng con đã lơ là với lệnh Chúa truyền loan báo Tin Mừng. Chúng con thường chữa lỗi mình rằng: Tôi lo cho mình chưa xong, làm sao dám lo cho người khác! Tôi phải tối ngày lo kiếm tiền nuôi gia đình nên không có giờ rảnh để tham gia sinh hoạt hội đoàn; Chúng con thường nhát đảm sợ hãi khi đối diện với những lời chống đối hay chối từ… nên đến hôm nay chúng con vẫn chưa làm được gì cho Chúa. Xin giúp chúng con biết làm chứng cho Chúa bằng một đời sống vị tha bác ái, luôn nghĩ đến tha nhân. Xin cho chúng con biết chiếu ánh sáng của Chúa ra trước mặt người đời và trở nên muối ướp thiên hạ khỏi hư hỏng. Xin cho chúng con luôn sống chan hoà, như nắm men được hòa lẫn vào ba đấu bột, để cả khối bột là học đường, xí nghiệp, chợ búa, khu xóm, giáo xứ… được dậy lên men tình yêu mến Chúa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.

Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

SỨC MẠHN TỪ TRỜI CAO

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu

Suy Niệm

Ðức Giêsu được đưa về trời khiến cả nhân loại hoan hỷ.
Con Thiên Chúa làm người, long đong với phận người,
nếm cái nghèo đói, nhọc nhằn, nếm nỗi khổ đau, cay đắng.
Cuộc đời Ngài tưởng như là một thất bại ê chề.
nhưng rồi Ngài đã được phục sinh, đã hiện ra,
và được khải hoàn đưa vào thế giới của Thiên Chúa.
Ngài từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.
Sứ mạng Cha giao, tuy khó khăn, nhưng Ngài đã hoàn tất.
Ta cần chiêm ngắm giây phút Ngài được siêu thăng.
Ngài giơ tay chúc lành cho các môn đệ như vị thượng tế.
Ngài về trời trong tư thế đang chúc lành.
Chúc lành cho trái đất mà Ngài đã sống.
Chúc lành cho mọi người là người như Ngài.
Hôm nay chúng ta vui vì biết mình có người Anh trưởng
đã được nâng lên đến tột đỉnh vinh quang thần linh.
Con người đầu tiên với tất cả nhân tính như ta
đã được siêu tôn trên trời, dưới đất và nơi âm phủ.
Sự thành công của Ðức Giêsu là niềm hy vọng cho ta.
Cùng đi với Ngài trên con đường cheo leo ấy,
Chúng ta tin mình sẽ đến nơi mà Ngài đã đến.

Ðức Giêsu về trời sau khi hoàn thành sứ vụ dưới đất.
Ngài muốn ta trưởng thành và gánh lấy trách nhiệm.
Bước chân Ngài mới chỉ đi hết xứ Palestina bé nhỏ.
Còn cả một thế giới mênh mông ngút ngàn.
Còn bao dân tộc xa gần chưa hề nghe rao giảng.
Ngài muốn ta làm chứng nhân của Ngài đến tận thế.
Thiên thần bảo chúng ta không được khoanh tay nhìn trời,
vì còn quá nhiều việc phải làm trước mắt.
Chúng ta phải nhiệt tình xây dựng quê hương này
huynh đệ hơn, công bằng hơn, bác ái hơn, văn minh hơn,
để nó xứng đáng đón ngày Ngài trở lại.
Chúng ta không được khoanh tay nhìn trời,
nhưng lòng chúng ta lại phải thường xuyên hướng lên trời.
Xây dựng trái đất mà không hướng lòng về trời,
thì sẽ không tìm được câu trả lời tối ưu.
Chúng ta cần sức mạnh từ trên cao của Thánh Thần
để giải quyết những vấn đề chằng chịt của trái đất:
ma túy, trụy lạc, tham nhũng, ô nhiễm, nghèo đói
và nhất là vấn đề xây dựng con người.

Khoa học kỹ thuật tiến bộ làm cuộc sống nhẹ nhàng
nhưng cũng thường làm con người thêm nặng nề.
Con người như bị dính vào những sản phẩm mình tạo ra,
bị nô lệ cho những nhu cầu không có thực.
Trái đất này vẫn có sức thu hút ghê gớm
khiến ta muốn chọn nó làm quê hương vĩnh hằng,
và quên rằng quê thật của ta ở trên trời cao (Pl 3,20).
“Hãy tìm kiếm những điều trên cao” (Cl 3,1).
Ðừng dập tắt nỗi khát khao những điều cao cả.
Ước gì Chúa Giêsu, Ðấng được đưa lên cao,
kéo ta lên khỏi cái tầm thường ô trọc mỗi ngày.

 Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết
nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.

Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.

Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này,
và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời cao;
và những vẻ đẹp của trần gian
không ngăn bước chân chúng con tiến về bên Chúa.

Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.

Về mục lục

.