Các Bài Suy niệm Chúa Nhật Truyền giáo

937

KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO

Mục lục

  1. Vẫn mãi là tin yêu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  2.  Được rửa tội và được sai đi  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  3.  Hãy loan báo Tin mừng (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
  4.  Khiêm nhường trong truyền giáo  (Gm. Bùi Tuần)
  5.  Cầu nguyện cho việc truyền giáo  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
  6. Say mê Thiên Chúa, say mê con người (Lm. Giuse Nguyễn)
  7. Theo đạo phải chăng là một gánh nặng  (Lm. Giuse Lê Danh Tường)
  8.  Tâm hồn truyền giáo (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
  9. Được rửa tội và được sai đi loan báo Tin mừng (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
  10.  Đừng trở thành bàn tay bại xụi của Chúa  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
  11.  Các con hãy đi  (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)
  12. Tin mừng thúc bách tôi  (Lm. G. Nguyễn Cao Luật)
  13. Khánh Nhật Truyền giáo (Jorathe Nắng Tím)
  14.  Truyền giáo trong thế giới hôm nay  (Lm. Đan Vinh)
  15. Vì Đấng yêu tôi  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  16.  Giáo dân truyền giáo (Lm. Jos Hoàng Mạnh Hùng)

 

VẪN MÃI LÀ TIN YÊU
Tuần 30-C. Truyền giáo: Mt 28, 16-20

Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc

Thích an nhàn, ngại va chạm, không muốn để chuyện đáng tiếc xảy ra nơi tình bạn bè, lối xóm, thiên hạ cho là bạn khéo tưởng tượng. Thực ra, đời người đâu phải chỉ là chuyện sướng khổ, thích hay muốn, mà còn là quá trình dài: học và hành, hầu đạt tới hạnh phúc thật. Tìm thầy chạy thợ, lo cơm áo gạo tiền, chính là trách nhiệm, là bổn phận, rất thiêng liêng trước gia đình, xã hội. Cổ nhân dạy: đừng lợi dụng những người yêu quý bạn, đừng nói rất bận với những người đã giúp đỡ bạn, đừng lừa dối những người thật sự tin tưởng bạn, đừng quên những người luôn nhớ đến bạn. Vâng, trở về với cõi lòng mình, điều chỉnh lại cách sống, ta sẽ thấy giá trị thật của tình yêu, và con đường dẫn đến hạnh phúc sẽ không đơn điệu, mơ hồ, nhưng ngập tràn niềm vui và sức sống vô biên.

Đi về Galilê, đến núi Thầy đã chỉ trước, có làm mất sự tự do của người học trò không, hay phải hiểu đó là tính kỷ luật và nét đẹp nơi những ai là học trò Đức Giêsu ? Gọi dạ bảo vâng, ngoan như chiên, không làm giảm đi khí phách người “nam nhi quân tử”, nhưng luôn phản ánh đúng tinh thần: có yêu thầy mới được làm thầy. Ở đời chỉ có thể thấu hiểu những gì đã trải qua, nhưng ta phải tiếp tục sống và hướng về phía trước. Các học trò Đức Giêsu đã phải vượt qua đau khổ vì mất Thầy, và giờ đây các ông vui mừng vì được sống sứ mạng đặc biệt: “mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy, vậy các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân…”. Hướng về cội nguồn yêu thương, đến với Cha là đến với Thầy, là đến với tình đệ huynh. Rồi không phải các ông, mà cả muôn thế hệ sẽ thấy sự kỳ diệu của tình hiệp thông: “và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.

Vẫn mãi là tin yêu, vẫn mãi là sống liên đới giữa tình thầy trò: trăng tròn chỉ có đêm rằm, tình ta tháng tháng muôn năm vẫn tròn. Đúng, phải là tin là yêu, Đức Giêsu mới cho các học trò chung chia sứ vụ giảng dạy muôn dân. Phải vừa tin vừa yêu, những kẻ “chài lưới” mới cảm nhận sức mạnh và quyền năng của Thầy, đang biến đổi họ nên người môn đệ không còn “tham sống sợ chết”. Có hiểu, có yêu, có tin, người ta sẽ chắc chắn hơn về giá trị thật của cuộc sống: buông không đành, nghĩ không thông, nhìn không thấu và quên không được. Các môn đệ dù giới hạn, bất xứng, các ông vẫn mãi là đối tượng của Đấng là Thầy là Chúa nâng đỡ, chúc phúc, khi các ông hiệp thông cầu nguyện. Nếu các môn đệ của Đức Giêsu có thể chia sẻ lúc này, hẳn các ngài sẽ nói: sự sáng suốt của con người đến từ kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm đến từ sự tin yêu.

Vẫn mãi là tin yêu, vẫn mãi là bình an là hạnh phúc, vì sứ vụ loan báo tin mừng cho muôn dân, vì sự hiện diện và tình yêu thương của Đấng cứu độ trần gian. Có thể việc truyền giáo còn nhiều hạn chế, chắc chắn Đức Giêsu thấu biết nguyên nhân làm cản trở việc sinh hoa kết trái. Vì thế mà tất cả những ai thuộc về Đức Kitô, rất cần phải xác tín: “mọi quyền năng đã được ban cho Thầy”. Có thực mới vực được đạo, muốn sống đức tin nhất định phải có tiền của, muốn truyền giáo phải được đầu tư. Đúng, truyền giáo cần phải có niềm tin yêu, phải có nhiệt huyết tông đồ, đặc biệt là phải có Chúa ở cùng. Sinh ra làm người ai cũng được hưởng quyền lợi từ gia đình, xã hội; sinh ra làm con Chúa, không những mọi người được yêu thương, được tham dự vào sứ mạng của Đức Kitô, sau hết, ai cũng phải trả lời về nén bạc mình đã nhận.

Vẫn mãi là tin yêu, vẫn mãi mãi là ơn ban, đó là sự thật: tài trí hơn người, nhà cửa hoành tráng, tiện nghi, tài khoản dồi dào ở nhiều ngân hàng, cũng chỉ là nơi tạm thời, tất cả sẽ dừng lại theo quy luật sinh tử. Tiền nhân có câu: chớ nên hỏi tại sao ta có hoàn cảnh này ? nhưng hãy hỏi, ta phải sống thế nào để có bình an, hạnh phúc. Từ việc cảm nhận được Thầy yêu thương, những người học trò năm đó đã tín thác và xây dựng đền thờ tâm hồn mình, đã ý thức sứ mạng Thầy trao: giữa nói và làm không được mâu thuẫn. Các môn đệ vẫn mãi tin yêu, vẫn mãi là chứng nhân của tình yêu, bởi truyền giáo không nhất thiết phải thông minh xuất chúng, nhưng truyền giáo rất cần một trái tim biết yêu thương và một tâm hồn rộng mở. Người môn đệ thuộc về Đức Kitô, xưa hay nay gì cũng thế, không thể nghe, nhìn, mà phải sống, phải cảm nhận bằng niềm tin: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.

Vẫn mãi là tin yêu, vẫn mãi là những điều kỳ diệu mỗi khi ta hiệp thông cầu nguyện, để rồi tình yêu và sự bình an nhắc nhớ việc sống niềm tin: “… giảng dạy họ tuân giữ những gì Thầy đã truyền cho các con”. Ở đời vẫn cho rằng: những kẻ may mắn thì nhận được cơ hội, những người dũng cảm sẽ tạo ra cơ hội, những người chiến thắng là những người biết chuyển khó khăn thành cơ hội. Các học trò của Đức Giêsu vẫn đang trả lời: những ai có Đức Giêsu là người thuộc về Chúa và có tất cả. Người xưa để lại cho hậu thế bốn nguyên tắc vàng làm lẽ sống: trung thực khi nghèo khó, giản dị khi giầu có, lịch sự khi có uy quyền, im lặng khi giận dữ. Đức Giêsu vẫn đang lưu ý chúng ta “quyền năng và tình yêu”, chính là sức mạnh cần thiết cho việc sống niềm tin và chu toàn sứ mạng của người theo Đức Kitô làm chứng nhân tin mừng. Amen.

Về mục lục

.

ĐƯỢC RỬA TỘI VÀ ĐƯỢC SAI ĐI

TGM. Giuse Vũ Văn Thiên

“Được rửa tội và được sai đi, Giáo Hội Chúa Kitô thi hành sứ mạng trong thế giới”, đó là chủ đề cho tháng Mười năm nay, được Đức Thánh Cha Phanxiccô tuyên bố là “Tháng Truyền Giáo Ngoại Thường”. Mục đích của Tháng truyền giáo ngoại thường là giúp các tín hữu thấy tính thời sự và cấp thiết của công cuộc loan báo Tin Mừng, vì lời Chúa Giêsu sai các tông đồ ra đi loan truyền Tin Mừng vẫn mang tính thời sự. Công đồng Vantican II khẳng định: “Truyền giáo là bản chất của Giáo Hội lữ hành”. Tuy vậy, trong suy tư và thực hành của số đông những người Công giáo, khái niệm “Truyền giáo” thực sự ít được để ý đến. Làm thế nào để hâm nóng nơi mỗi người tín hữu tinh thần truyền giáo, là căn bản của đời sống Kitô hữu? Đó là một trong những băn khoăn của Giáo Hội, của Đức Thánh Cha và của những vị chủ chăn ở mọi cấp độ.

Khái niệm “được sai đi” gắn liền với Bí tích Thanh tẩy. Bởi lẽ Bí tích này trao cho chúng ta ba sứ mạng quan trọng: Ngôn sứ, Tư tế và Vương đế. Chính vì thế, người giáo dân không được giữ lối suy nghĩ cũ kỹ trước đây coi việc truyền giáo là của “nhà tu” hoặc của một số người được tuyển lựa. Mỗi tín hữu đều có bổn phận thực thi sứ mạng này, tùy hoàn cảnh, khả năng và điều kiện của mình. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, một nữ tu sống trong Đan viện Các-men, không bao giờ ra ngoài và không tiếp xúc với ai. Tuy vậy, thánh nữ có tinh thần truyền giáo, qua những ước ao cháy bỏng để “đem Thánh giá đi trồng tại mọi miền đất trên thế giới” như lời Thánh nữ đã viết. Vì vậy, Thánh nữ cộng tác vào sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội bằng lời cầu nguyện. Nhiệt huyết truyền giáo được thể hiện qua những lời cầu nguyện sốt sắng và những hy sinh trong cuộc sống hằng ngày. Vì lẽ đó, Thánh Têrêsa được đặt làm Bổn mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với Thánh Phanxicô Xaviê, là người rảo khắp vùng Á châu để rao giảng Tin Mừng. Qua việc chọn Thánh Têrêsa làm Bổn mạng các xứ truyền giáo, Giáo Hội khẳng định với chúng ta: hiệu quả của công cuộc truyền giáo không chỉ đến từ những hoạt động bên ngoài, mà còn đến từ lời cầu nguyện và những thao thức làm cho Chúa Giêsu được mọi người nhận biết.

Nhìn lại thực tế các cộng đoàn tín hữu Công giáo tại Việt Nam, một tác giả đã nhận định: “Giáo dân tự hài lòng và an tâm với những sinh hoạt và tổ chức nội bộ, chưa ý thức vận dụng những thuận lợi sẵn có này cho công cuộc truyền giáo. Các linh mục chuyên chăm việc mục vụ hơn là truyền giáo, ưu tiên lo cho giáo dân hơn là đi tìm lương dân, hoạt động nghiêng về điều hành hơn là mở rộng, quản lý hơn là khám phá, suy nghĩ theo lối mòn hơn là tư duy cải biến, chuộng an thân hơn là dấn thân” (Trích bài viết của Lm G.B Trương Thành Công trong buổi gặp gỡ tại Vinh từ ngày 21-23/8/2019 do UB LBTM của HĐGM VN tổ chức). Quả vậy, hầu hết nơi các cộng đoàn và các cá nhân, chúng ta hài lòng với một tổ chức ổn định trong giáo xứ, nên ít để ý tới việc “đi ra các vùng ngoại biên” như Đức Thánh Cha mời gọi.

“Tháng truyền giáo ngoại thường” đã đến phần cuối và sẽ kết thúc. Tuy vậy tinh thần truyền giáo gắn liền với đời sống đức tin của người Kitô hữu. Cũng trong bài viết được nêu trên đây, tác giả nêu ba bước trong lộ trình truyền giáo cho lương dân: tiếp cận, xây dựng yêu thương và kể lại những điều may lành Chúa làm cho bản thân, như chứng từ chân thực về đức tin và vào sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời. Phương pháp này nhằm tạo sự thân thiện đối với anh chị em không cùng tôn giáo, không mang tính chiêu dụ nhưng khiêm tốn và chân thành trình bày đức tin của mình cho người khác.

Điều cần phải thực hiện trước hết khi nói đến truyền giáo, đó là xây dựng gia đình bền vững trong đức tin và trong tình yêu thương. Một gia đình tốt sẽ có sức lan tỏa sức mạnh truyền giáo đến môi trường xung quanh. Tình nghĩa vợ chồng, mối tương quan hài hòa giữa anh chị em và các thế hệ con cháu… tất cả là một chứng từ hùng hồn và hiệu quả cho đời sống đức tin. Khởi đi từ gia đình, chúng ta liên hệ đến khái niệm “gia đình” rộng lớn hơn, tức là giáo xứ, vì giáo xứ là một gia đình lớn gồm nhiều gia đình nhỏ hợp lại. Tình liên đới hiệp thông nơi cộng đoàn giáo xứ là một trong những điều kiện căn bản để thực thi sứ mạng truyền giáo. Tiếc thay đây đó còn tồn tại những chia rẽ nghiêm trọng nơi các cộng đoàn, như phản chứng của Tin Mừng và làm méo mó hình ảnh của Giáo Hội Chúa Kitô. Những hoạt động từ thiện nhằm giúp những người cơ nhỡ, dù là người đồng đạo hay anh chị em lương dân, đều diễn tả sinh động đức Ái là cốt lõi của Tin Mừng và giúp mọi người nhận ra các tín hữu là con của Cha trên trời.

“Có một thuộc tính không thể thiếu đối với những người bước vào đời sống tông đồ. Một điều tối quan trọng và thiết yếu, đó là họ phải có đời sống thánh thiện, Bởi vì ai rao giảng Thiên Chúa thì bản thân họ phải là một người của Thiên Chúa…” (Maximum Illud, số 26). Sự thánh thiện của mỗi chúng ta là điều cần thiết để Tin Mừng của Chúa được lan tỏa trong cuộc sống hôm nay. Đó cũng là điều mỗi người phải thực hiện trước hết, nếu muốn trở nên tín hữu đích thực và những thừa sai loan báo Tin Mừng.

Về mục lục

.

HÃY LOAN BÁO TIN MỪNG

TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Một đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi không? Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi từ xa nhìn một đoàn vật người ta có thể phân biệt được con nào là con bò và con nào là con trâu không? Thày lắc đầu: Không phải. Đệ tử khác trả lời: Thưa thày có phải ánh sáng tới và bóng tối lui là khi từ xa nhìn vào vườn cây, người ta có thể phân biệt được cây nào là cây xoài cây nào là cây mít không? Thày vẫn lắc đầu: Không phải. Thấy không ai trả lời được, thày mới giải nghĩa: Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nào ta nhìn vào mặt người xa lạ và nhận ra đó là anh em mình.

Thật là khó hiểu. Tuy trên đời ta thấy có nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng mặt trời. Có ánh sáng đèn dầu, đèn điện. Có những ánh sáng như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng tất cả những ánh sáng đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có thứ ánh sáng nào soi vào mặt người xa lạ mà biến người ấy thành người thân của mình.

Mẹ Têrêxa dường như đã tìm ra thứ ánh sáng ấy.

Mẹ Têrêxa là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn độ. Đến Ấn độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo.

Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không buồn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đã đi thăm mọi người. Mọi người đến thăm ông. Cuộc đời ông vui tươi trở lại.

Trước kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hoả soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc Âm. Khi người Samaritano nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng loé lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.

Cứ như thế Mẹ Têrêxa miệt mài phục vụ người nghèo. Lập những trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc để họ được chết, được chôn cất như một con người. Nuôi trẻ mồ côi. Xây bệnh viện. Xây trường học. Công việc càng ngày càng mở rộng. Số người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ đã lập dòng Nữ tử Thừa sai Bác ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện nay nhà dòng đã có mặt trên 132 quốc gia. Mẹ được thế giới biết tiếng. Mẹ được nhiều giải thưởng trong đó có giải Nobel Hoà bình. Năm 1997, khi Mẹ qua đời, 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Cliton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn độ, đa số dân theo Ấn độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, đã chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc táng. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về trời.

Mẹ Têrêxa là một nhà truyền giáo thành công của thế kỷ 20. Vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn soi trong đêm tối. Giữa đêm tối vật chất hưởng thụ, Mẹ đã thắp lên ngọn đèn siêu nhiên của thiên đàng. Giữa đêm tối rụt rè nghi kỵ Mẹ đã thắp lên ngọn đèn cởi mở tin yêu. Giữa đêm tối lạnh lẽo cô đơn. Mẹ đã thắp lên một ngọn đèn ấm áp tình người. Trái tim Mẹ là một ngọn đèn sáng. Ánh sáng ấy toả lan tới muôn người làm cho mọi người nhận biết khuôn mặt hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô và làm cho mọi người nhìn nhau là anh em.

Vào thời Cộng sản còn mạnh và còn chống đối Công giáo kịch liệt. Mẹ Têrêxa vẫn có thể lập nhà ở Nga, ở Cuba và cả ở Việt Nam. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã chiếu toả ánh sáng Tin Mừng khắp thế giới.

Hôm nay Giáo Hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền giáo. Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ soi sáng khắp nơi. Thế giới sẽ bừng sáng và mọi người sẽ nhìn nhận nhau là anh em.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Nhờ đâu Mẹ Têrêxa đến được cả những nước Cộng sản?

2- Nhờ đâu việc truyền giáo của Mẹ Têrêxa thành công tốt đẹp?

3- Đời sống bạn là ánh sáng hay là bóng tối cho những người chung quanh?

4- Bạn quyết tâm làm gì để loan báo Tin Mừng cho mọi người?

Về mục lục

.

KHIÊM NHƯỜNG TRONG TRUYỀN GIÁO

GM. Bùi Tuần

Người truyền giáo tốt có thể là người không hiểu biết nhiều và sâu sắc về Chúa, nhưng nhất định phải là người có sự sống của Chúa trong mình.

Tôi vẫn nghĩ như vậy. Và tôi có kinh nghiệm như thế.

Người ta không nhìn thấy Chúa trong họ. Nhưng người ta có thể cảm được phần nào sự hiện diện của Chúa trong họ qua một số dấu chỉ. Một trong những dấu chỉ dễ thấy nhưng lại chắc chắn, đó là sự khiêm nhường.

Trước khi khiêm nhường được nâng lên hàng nhân đức siêu nhiên, nó đã là một đức tính nhân bản.

Ngay trên lãnh vực nhân bản, khiêm nhường vẫn được coi là một giá trị cao quí. Văn hoá Việt Nam vốn ca ngợi người khiêm tốn. Lễ giáo Việt Nam vốn đề cao đức khiêm nhường, coi khiêm nhường như một yếu tố của đạo làm người.

Trong xử thế, khiêm nhường là chià khoá mở lòng người ta, gây nên thiện cảm. Nhờ thiện cảm, người ta dễ chấp nhận ta, và dễ nghe ta. Trái lại, kiêu căng dễ gây nên ác cảm. Khi ác cảm đã chớm nở, thì lý luận dù đanh thép đến đâu, chứng từ dù rõ ràng đến mấy, người ta cũng không muốn đón nhận ta và những gì ta trình bày, kể cả khi ta trình bày Tin Mừng cứu độ.

Cái kiêu căng dễ xúc phạm đến người khác nhất, chính là sự tự đắc cho mình là đúng, là đẹp, là đáng kính trọng; còn người khác thì bị coi là sai, là xấu, là phải loại trừ. Nhất là trong việc phê phán tôn giáo, tín ngưỡng và những lựa chọn liên quan.

Người tự tôn, hay khinh miệt người khác rất dễ rơi vào những sai lầm trầm trọng và sự mù quáng thê thảm. Hơn nữa, họ có thể làm cho chính mình lâm vào tình trạng điên rồ. Để rồi, sẽ làm sụp đổ mọi sự nghiệp đạo đức của mình chỉ trong giây phút. Thảm thương nhất là kẻ kiêu căng cứng lòng sẽ vô tình mở rộng cửa lòng mình, rước quỷ Satan là thần kiêu ngạo vào ngự trị trong đó, để rồi lập liên minh với các hình thức kiêu căng khác, chống lại Nước Thiên Chúa.

Đọc Phúc Âm, tôi thấy Chúa Giêsu nhắc bảo chúng ta phải hết sức tránh mọi hình thức kiêu căng như:

Đừng thích tìm địa vị cao trước công chúng, như trong đám tiệc (Lc 14,7). Đừng giả hình đạo đức bằng cái vỏ bề ngoài, còn bên trong thì dơ bẩn (Mt 23,5-25). Đừng căn cứ vào mấy việc đạo đức của mình, để khinh chê người khác (Lc 18,9-14).

Đang khi đó, Kinh Thánh rất khen người khiêm nhường. Đến mức Chúa Giêsu coi họ là những người được Chúa Cha mạc khải cho biết nhiều điều cao siêu, mà Người không cho những người khôn ngoan và thông thái biết (Lc 10,21). Chính bản thân Chúa Giêsu cũng rất khiêm nhường. Ngài nói: “Hãy học với Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Hơn nữa, suốt cuộc đời, từ khi sinh ra trong hang đá cho đến lúc chết trên thánh giá, Chúa Giêsu luôn làm chứng Đấng cứu thế không phải là một quyền lực, nhưng là tình yêu xót thương phục vụ khiêm nhường.

Do đó, sự khiêm nhường của người truyền giáo không phải chỉ là một đức tính nhân bản, mà còn phải là một nhân đức được chia sẻ từ sự khiêm nhường của Đức Kitô. Đức Kitô truyền sang cho họ sự khiêm tốn của Người, để nhờ đó, họ sẽ luôn nhận được thêm chân lý và sự sống cứu độ của Người.

Chính ở điểm này, mà đến lượt mình, chính người truyền giáo cũng là người cần được Chúa Giêsu thường xuyên truyền giáo cho. Và đây chính là một kinh nghiệm quí báu họ có được về người được truyền giáo.

Kinh nghiệm cho thấy người được truyền giáo rất cần có lòng khiêm tốn.

Thuở xưa, các thầy thượng tế, các kỳ lão, các kinh sư, các biệt phái đã nghe tận tai chính Chúa Giêsu giảng, đã xem tận mắt những phép lạ Chúa Giêsu làm. Nhưng không mấy người trong họ đã tin. Hơn nữa, càng nghe thấy và càng nhìn thấy Chúa Giêsu, họ càng đâm ghét. Sau cùng họ đã giết Người.

Sở dĩ Tin Mừng đã không vào lòng họ được, chính là vì sự kiêu căng tự đắc đã khoá chặt lòng họ.

Thời nay cũng thế. Những người đơn sơ, khiêm tốn dễ đón nhận được những cái mới mẻ của Tin Mừng hơn những người tự phụ kiêu căng.

Vì thế, tôi nghĩ rằng: Người truyền giáo cần phải khiêm nhường. Người được truyền giáo cũng cần khiêm nhường.

Để có đức khiêm nhường, chúng ta không thể coi thường việc tập luyện mình về nhiều mặt. Một người không được uốn nắn tập luyện kỹ lưỡng về đức khiêm nhường sẽ dễ trở nên hư hỏng: Hư hỏng do những thất bại và do cả những thành công, do những thực tế cuộc đời và cả do những ước mơ và ảo tưởng của mình, nhất là do sự cố chấp tôn thờ cái tôi và làm nô lệ cho ý riêng mình.

Không những chúng ta cần tập luyện để nên khiêm nhường, mà cũng cần cầu nguyện khẩn xin Chúa ban ơn khiêm nhường.

Ơn khiêm nhường, mà Chúa ban cho kẻ cậy trông nài van Chúa, sẽ đặt ta dưới cái nhìn thánh thiện của Chúa. Nhờ đó ta sẽ nhận ra Chúa nơi người khác và ta là kẻ tội lỗi, bất xứng, mọi sự Chúa ban cho ta đều do tình xót thương nhưng không của Chúa. Càng được ơn khiêm nhường, ta càng hiểu thấm thiá lời thánh Giacôbê: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Gc 4,6). Và chúng ta cũng sẽ càng thấy rõ thói quen tìm đắc thắng, phô trương, trịch thượng, bất bao dung trong truyền giáo không những đang trở nên quá lỗi thời, mà còn gây nhiều thiệt hại cho Hội Thánh. Bởi vì đó là những điều rất trái nghịch với thánh ý Chúa.

Một điều lợi nữa, mà ơn khiêm nhường hôm nay sẽ đem lại cho ta, đó là nó giúp ta biết kiểm điểm lại bổn phận đón nhận Tin Mừng và bổn phận loan báo Tin Mừng. Ai trong chúng ta cũng có hai bổn phận đó.

Trong hoàn cảnh cụ thể ta đang sống, Chúa vẫn gửi cho ta vô số Tin Mừng mới mẻ. Ta đã đón nhận thế nào?

Trong địa vị cụ thể của ta và với những phương tiện cụ thể của ta, ai trong chúng ta cũng vẫn có thể góp phần không nhỏ vào việc loan báo phần không nhỏ vào việc loan báo Tin Mừng, hoặc bằng cách này, hoặc bằng cách khác. Ta đã thực hiện bổn phận đó thế nào?

Nếu khiêm tốn biết mình, khiêm tốn ăn năn, khiêm tốn sửa mình về bổn phận truyền giáo, chúng ta sẽ có một lương tâm truyền giáo đổi mới. Để từ nay, ta biết nhận lãnh, biết sinh lời và biết chia sẻ Tin Mừng cho những người gần xa, mà ta có thể gặp.

Nếu ta ý thức được như vậy và cố gắng làm như vậy, thì đời ta sẽ mang ý nghĩa cao đẹp, đi theo đúng hướng về với Cha trên trời.

Về mục lục

.

CẦU NGUYỆN CHO VIỆC TRUYỀN GIÁO

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Có người nói với tôi: “Thưa cha gia đình ông B sống trong giáo xứ bao nhiêu năm mà chẳng chịu theo đạo?” Tôi hỏi lại: “Bạn đã bao giờ cầu nguyện cho ông B đó theo đạo chưa? Nếu không làm gì mà họ theo đạo mình cũng khó phải không?”. Cũng có người nói: “anh C đó hay đi chơi với chúng con mà chẳng thấy theo đạo?”. Tôi nói: “Chúng con có ai  cầu nguyện cho anh C theo đạo chưa mới là vấn đề?”.

Thực vậy, việc truyền giáo không dựa theo khả năng của chúng ta mà dựa vào sức mạnh của quyền năng Thiên Chúa. Chúa Giê-su khi sai 72 môn đệ ra đi thì Ngài đã nhắc các ông việc làm đầu tiên là cầu nguyện : “các con hãy cầu nguyện xin chủ ruộng sai thợ đến gặt”. Chúa muốn nhắc chúng ta việc truyền giáo không thể dựa vào sức mình mà phải dựa vào quyền năng của Chúa. Thế nên phải cầu  nguyện để ơn Chúa tác động, lôi kéo, còn chúng ta chỉ là khí cụ nhỏ bé trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa mà thôi.

Vậy cầu nguyện là gì?

Cầu nguyện theo thánh Augstinô là thưa chuyện với Chúa, như một người con hiếu thảo thưa chuyện với cha mẹ, hoặc như hai người bạn chân tình tâm sự với nhau.

Và cầu nguyện như thế nào?

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cầu nguyện trong kiên trì và tín thác. Thiên Chúa sẽ không bỏ rơi những ai kêu cầu Người, nhất là những người thấp hèn, bé nhỏ, miễn là biết đặt niềm tin tưởng vào Chúa.

Bà goá  mà Phúc âm nhắc tới là một phụ nữ nghèo và “thấp cổ bé miệng”, bà ta chẳng hy vọng được xét theo lẽ công bằng. Nhưng bà có khí giới là sự kiên trì. Sự kiên trì đã đánh gục tính kiêu ngạo của ông quan, trời chẳng sợ, người chẳng nể, thế mà phải nhượng bộ xử tốt cho bà.

Việc truyền giáo cũng phải khởi đi từ lời cầu nguyện của mọi thành phần dân Chúa. Cầu nguyện trong kiên trì để Chúa sẽ làm những điều tốt nhất cho giáo hội của Chúa.

Mỗi năm chúng ta tổ chức ngày khánh nhật truyền giáo rất linh đình nhưng thử hỏi con số theo đạo được bao nhiêu? Chúng ta tự hào có một lực lượng rất đông tông đồ giáo dân nhiệt thành thăm viếng, tặng quà cho anh chị em lương dân, nhưng thử hỏi được mấy người đã nhờ những cuộc thăm viếng phát quà của chúng ta mà họ theo đạo? Chúng ta tự hào là Đạo chúng ta là đạo yêu thương, nhưng thử lắng nghe lương dân họ nói gì về người có đạo? Người có đạo vẫn sống thiếu tình yêu, vẫn sống lỗi công bằng và bác ái? Nơi xứ đạo vẫn còn nhiều tệ nạn xì ke ma tuý, băng nhóm “Đức ma tuý” hay “Huy cần sa” mà không ai dám ý kiến chỉ làm ngơ cho cái xấu lộng hành? Nơi xứ đạo vẫn còn tụ điểm cờ bạc, cá độ làm sao có thể thu hút người ngoại theo đạo? . . .

Thế nên, chúng ta cần phải nhắc lại với nhau rằng việc truyền giáo không dựa trên con người mà là dựa vào quyền năng của Thiên Chúa. Các tông đồ năm xưa từng cầu nguyện và khi tràn đầy Chúa Thánh Thần họ mới ra đi loan báo Tin mừng. Các ngài đã ra đi dưới bóng của Chúa Thánh Thần nên đã mang lại mùa xuân cứu độ trải rộng khắp mọi nơi trên địa cầu.

Thiết tưởng việc truyền giáo phải khởi đi bằng một cuộc hiệu triệu cho toàn thể tín hữu về bổn phận cầu nguyện trong việc truyền giáo. Cầu nguyện không chỉ cho có nhiều nhà truyền giáo để đến với lương dân. Cầu nguyện một cách cụ thể cho ông A, anh B mà mình quen biết được ơn trở về với Chúa. Cầu nguyện kèm theo những dịp thăm viếng chia sẻ bác ái sẽ làm cho muôn dân cảm mến Thiên Chúa và khao khát tìm kiếm Ngài. Đó mới là cách chúng ta đang biến mình làm khí cụ của Chúa để mang tin mừng đến cho mọi nơi. Chúng ta đừng nói “tại sao anh A không theo đạo?”, mà phải nói: “tại sao tôi không cầu nguyện cho anh A, người bạn thân của tôi được gặp Chúa?”. Đó mới là cách thức truyền giáo hữu hiệu nhất.

Xin Chúa giúp chúng ta luôn ý thức việc truyền giáo và sống tinh thần truyền giáo trong lời cầu nguyện và đời sống chứng nhân hằng ngày của mình. Amen

Về mục lục

.

SAY MÊ THIÊN CHÚA, SAY MÊ CON NGƯỜI

Lm. Giuse Nguyễn

 Trong Tông thư gửi Thánh bộ Truyền giảng Tin Mừng cho các dân tộc ngày 22/10/2017, ĐTC. Phanxicô nhắc lại những nét chính yếu trong Thông điệp Maximum Illud về hoạt động của các nhà truyền giáo trên thế giới của ĐTC. Bênêđictô XV (30-11-1919). Từ đó Ngài mời gọi phải có biện pháp hữu hiệu cho việc truyền giáo trong thời đại hôm nay ; phải mạnh dạn, không sợ hãi với quyết định truyền giáo ; nhất là phải mạnh mẽ cải tổ việc mục vụ để tất cả mọi hoạt động phải quy về việc Truyền giáo.

ĐTC đề nghị : “Tháng 10 năm 2019 sẽ là Tháng Truyền Giáo ngoại thường để tái đánh thức một cách mạnh mẽ hơn nữa  ý thức về Missio Ad Gentes – sứ vụ đến với muôn dân -,… để Tình Yêu đối với sứ vụ truyền giáo được lớn lên, mà sứ vụ truyền giáo ấy chính là một niềm say mê của Chúa Giêsu, nhưng đồng thời cũng là niềm say mê của dân Ngài.” Tất cả những đề nghị trên chỉ có thể được thực hiện với niềm say mê.

Niềm say mê đó được ĐTC viết trong sứ điệp Truyền giáo 2019 gởi cho toàn thể cộng đồng dân Chúa với chủ đề: “Được chịu phép rửa và được sai đi: Giáo Hội của Chúa Kitô trong sứ mạng giữa thế giới”. Niềm say mê đó được khởi hứng bằng việc nhận món quà nhưng không qua Bí tích Rửa tội, thì cũng phải tự hào cho đi cách nhưng không. Vì thế, Chúa Nhật Truyền giáo hôm nay thêm một lần nữa nhắc nhở các Kitô hữu về niềm tin vào Đức Giêsu mà họ đã được Thiên Chúa qua Giáo hội ưu ái ban tặng để họ biết giữ gìn; từ đó thôi thúc họ ban tặng lại cho người khác bằng “đôi mắt và con tim của Chúa”.

“Đôi mắt” đó luôn hướng về Thiên Chúa Cha bằng đời sống cầu nguyện: “Đức Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện” (Ga 17, 11b)

“Trái tim” đó luôn hướng về mọi người: “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con” (Ga 17, 20).

Quả thật, trong suốt cuộc đời sứ vụ, Đức Giêsu đã thể hiện niềm say mê Thiên Chúa và say mê con người. “Niềm say mê của Chúa Giêsu”, cũng phải là “niềm say mê của dân Ngài”. Muốn Truyền giáo không phải là             quan tâm đến việc làm gì, nhưng phải là làm như thế nào. Vì thế, Truyền giáo là thể hiện niềm say mê của Chúa Giêsu trong cuộc đời chúng ta.

Đức Giêsu “say mê Thiên Chúa”. Các Kitô hữu cũng phải vậy. Đó là nhắc nhở ta muốn truyền giáo trước hết phải quay về với nguồn cội đức tin của mình là Thiên Chúa chứ không là ai khác.

Một số người Công giáo Việt Nam đang bị lệch lạc trong hình thức thờ phượng. Vì vậy họ khó mà “Truyền Giáo” trong xã hội hôm nay. Lệch lạc khi chúng ta là người Công giáo mà vẫn thờ thần tài, vẫn xem thầy xem bói, xem ngày xem tháng.

Đứng trước những nguy hiểm đó, Ủy ban Văn hóa thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam đã gởi văn bản “Hướng Dẫn Việc Tôn Kính Tổ Tiên”, trong đó có phần nói việc “những thói tục trái với đức tin Công giáo”, nói rõ:

“Giáo hội tại Việt Nam luôn tôn trọng nền văn hóa dân tộc mình, nhưng giáo hữu không được thực hiện những thói tục ngược chiều với đức tin Công giáo sau đây:

  • Coi tuổi, chọn ‘ngày lành tháng tốt’ là đi ngược với xác quyết: “Đức Kitô là chủ thời gian và muôn thế hệ”.
  • Cúng vái và đặt tượng Thần Tài, Ông Địa tại cửa hàng hay nhà riêng để cầu xin tiền tài như các lương dân quen làm là lỗi phạm giới răn thứ nhất: “thờ phượng và kính mến mộtThiên Chúa duy nhất”.
  • Đặt hồn bạch hay linh vị,mở cửa mả… là ngược với đức tin Công giáo.

Quả thật khi không có một niềm xác tin vào Thiên Chúa thì chúng ta khó mà sống đạo, huống hồ chi đến việc truyền đạo. Hãy thành tâm suy nghĩ về điều này để chúng ta một lòng say mê Thiên Chúa.

ĐTC. Phanxicô đã khẳng định: “phải mạnh dạn, không sợ hãi với quyết định truyền giáo”. Chúng ta cứ nói và cổ vũ cho việc truyền giáo, nhưng chúng ta đã dám mạnh dạn dấn thân chưa? Mạnh dạn bằng việc loại bỏ những thói quen thờ phượng không đúng đắn xưa nay, bằng việc tin tưởng và sống theo sự hướng dẫn của Chúa. Ước mong sẽ không còn bóng dáng của những việc mê tín dị đoan, của những niềm tin lệch lạc trong cộng đoàn, trong giáo xứ, có như vậy mới mong Tin Mừng của Đức Giêsu hiện diện trong môi trường chúng ta đang sống.

Đức Giêsu “say mê con người” qua việc Ngài dành cho nhân loại một tình yêu thương nồng nàn và dám mạnh dạn hy sinh tất cả cho nhân loại chúng ta. Tình yêu đó hướng đến mọi người, nhưng nhất là những người nghèo khổ, bệnh tật, già yếu, những người có hoàn cảnh khó khăn… Để Ngài sẵn sàng hy sinh, phục vụ họ.

Mối bận tâm trong cuộc đời Đức Giêsu không phải là vật chất, tiện nghi, những gì cho mình, nhưng là cho cộng đoàn, cho người khác.

Cách thức để truyền giáo hữu hiệu trong thời đại hôm nay chính là việc “say mê con người”, nghĩa là biết tôn trọng sự sống, biết nâng cao phẩm giá con người bằng tất cả sự nổ lực của bản thân, của cộng đoàn.

Chắc chắn khi thực hiện những điều này, Kitô hữu sẽ mất mát nhiều thứ: vật chất, thời giờ, sức khỏe…, nhưng nếu đã là đam mê thì người ta sẽ sẵn sàng làm tất cả.

Ước mong mọi người trong giáo xứ chúng ta sẽ “say mê con người” bằng cách biết tôn trọng sự sống và góp phần nâng cao phẩm giá con người.

Xin Chúa qua lời bầu cử của Mẹ Maria, người nữ Truyền giáo cho ngày Chúa Nhật Truyền giáo trong tháng Truyền giáo ngoại thường này giúp các Kitô hữu ý thức về việc “say mê Thiên Chúa và say mê con người” để chúng con lo củng cố đức tin và tình mến. Đó chính là phương tiện Truyền giáo hữu hiệu trong mọi thời đại, nhất là ngày hôm nay.

Về mục lục

.

THEO ĐẠO PHẢI CHĂNG LÀ MỘT GÁNH NẶNG

Lm. Giuse Lê Danh Tường

Người bổn đạo gốc sinh ra trong một gia đình Công giáo, được lãnh nhận bí tích Rửa tội từ khi còn nhỏ; lớn lên, học bổn xưng tội lần đầu, chịu phép Thêm sức; rồi khi lập gia đình thì học thêm chút ít về giáo lý hôn nhân. Ta theo đạo là vì gia đình ta có đạo. Ta giữ những luật lệ trong đạo và kể như ta đã là người có đạo. Chính vì thế mà đôi khi đạo trở nên một gánh nặng cho cuộc sống của ta, một cuộc sống vốn đã có quá nhiều khó khăn và nặng nhọc. Nhưng phải chăng theo Đạo là như thế?

Nếu theo đạo mà lại trở nên một gánh nặng thì có lẽ ta nên xem lại. Hoặc là ta đã sai lầm khi theo đạo, hoặc là ta đã sai lầm trong cách sống đạo.

Dù là người có đạo hay không có đạo, ta đều thấy rằng: khi tôi làm điều gì sai trái thì tôi cần được tha thứ, khi ta gặp khó khăn thì ta cần giúp đỡ, khi ta đổ vỡ thì ta cần sự bù đắp. Người ta chạy đến ông thần nọ bà thánh kia là để cầu xin che chở, cầu xin cứu giúp, cầu xin ban ơn, cầu xin chỉ dẫn.

Tìm đến sự trợ giúp của thần thánh là khôn ngoan. Nhưng đâu là nơi ta tìm về, đâu là nơi ta cậy dựa? Đức Giê-su, chính Ngài là Chúa và là người. Chính Ngài là Đấng mà mọi người xưng mình có Đạo đi theo. Chính Ngài là Đạo, là Đường.

Chúa Giêsu là vị thần đích thực, là Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Ngài đã ở với ta để nói cho ta biết Thiên Chúa là thế nào và cũng nói cho ta hay làm người thì phải sống làm sao. Chính Chúa Giêsu, Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Đạo là đường. Ta theo đạo là đi theo con đường của Chúa Giêsu, sống theo cách sống của Ngài, làm theo cách Ngài đã làm, đối xử với người khác theo cách Ngài đối xử. Và hơn thế nữa, chính Ngài nâng đỡ ta trong mọi cảnh huống của cuộc đời.

Khi bạn lầm lỗi hay khi phạm tội bạn cần được tha thứ, bạn đến với Chúa Giêsu. Ngài luôn sẵn sàng tha thứ cho bạn, đón nhận bạn vào trong vòng tay yêu thương của Ngài. Bạn sẽ được bình an.

Khi bạn bị oan ức, bị sỉ nhục, bạn chạy đến với Chúa Giêsu, bạn sẽ được Ngài đồng cảm với bạn, chia sẻ với bạn. Bởi chính Ngài đã bị người ta sỉ vả, bị hiểu lầm đến độ bị kết án tử hình trên cây thập giá một cách oan uổng.

Bạn bị đổ vỡ cần được hàn gắn, bạn đến với Chúa Giêsu bạn sẽ được Ngài yêu thương vỗ về và hàn gắn vết thương cho bạn. Ngài sẽ làm cho bạn trở nên phong phú hơn bạn tưởng.

Khi bạn có những tâm sự mà không biết nói với ai, bạn đến với Chúa Giêsu, Ngài luôn sẵn sàng lắng nghe bạn và cảm thông với bạn.

Nếu bạn đang lâm cảnh túng bấn, đói khổ, bạn đến với Chúa Giêsu, bạn sẽ gặp Ngài, một Đấng vốn là Thiên Chúa nhưng đã sống một kiếp người nghèo khổ tột cùng: sinh ra trong hang đá bò lừa, sống nơi thôn giã, lang thang không nơi gối đầu và chết nhục nhã, tàn tạ trên cây thập giá. Bạn sẽ nhận thấy giá trị đích thực của cuộc sống và tìm ra lối thoát cho cuộc đời.

Khi bạn bị người mà mình hết mực yêu thương quay lại phản bội bạn, bạn đến với Chúa Giêsu bạn sẽ được Ngài yêu thương và chia sẻ với bạn. Bởi chính Ngài đã yêu thương con người ta, yêu đến tột cùng, yêu đến chết vì người yêu. Thế nhưng biết bao con người đã phản bội lại tình yêu của Ngài, quay lại sỉ vả Ngài thậm tệ.

Bạn đang cần sự chỉ dẫn, bạn đến với Chúa Giêsu, Ngài sẽ chỉ dẫn cho bạn. Hơn nữa, Ngài còn tìm cách giúp đỡ bạn, tiếp sức cho bạn để bạn đạt đến điều Ngài chỉ dẫn. Nếu cần một bằng chứng để chứng minh cho sự thật mà Ngài chỉ dẫn thì Chúa Giêsu đã lấy cái chết của mình, lấy chính mạng sống mình để làm chứng cho sự thật ấy.

Theo đạo là thế, là đi theo Đức Giêsu, là gặp gỡ Ngài, là sống với Ngài, là chia sẻ với Ngài, là kết hiệp với Ngài mọi nơi mọi lúc trong cuộc sống của ta, chứ không phải chỉ trong nhà thờ lúc đi lễ mà thôi. Theo đạo không phải chỉ để giữ một số luật lệ trong đạo cho qua. Nhưng theo đạo là sống một cuộc sống gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu.

Thế nhưng, ta thử nhìn xem đã có bao nhiều người gặp gỡ Chúa Giêsu, bao nhiêu người sống gắn bó với Chúa Giêsu. Xung quanh ta còn hàng vạn hàng vạn người chưa được biết về Chúa Giêsu. Nếu ta đã nhận biết Chúa Giêsu mà ta không giới thiệu Ngài cho những người đang sống xung quanh ta thì ta đã sống quá ích kỷ chăng: thấy hay, thấy tốt mà chỉ biết khư khư giữ cho mình.

Trong những câu chuyện hàng ngày với hàng xóm, trong những giờ giải lao nơi công sở với đồng nghiệp, trong những giờ ra chơi với các bạn cùng lớp tại sao lại không nói về Chúa Giêsu? Việc nhận biết Chúa Giêsu sẽ đưa ta đến sự nhận biết nhau là anh em con một Cha trên Trời. Đẹp làm sao khi mọi người cùng sống yêu thương, đùm bọc nhau theo gương Chúa Giêsu, trong tình yêu của Chúa Giêsu. Truyền giáo là ra đi giới thiệu cho người khác biết về Chúa Giêsu để mọi người cùng trở về đón nhận nguồn ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã thực hiện cho ta.

Lạy Chúa Giêsu, xung quanh chúng con còn hàng vạn, hàng triệu người chưa được biết đến Chúa. Xin Chúa hun đúc tâm hồn chúng con để chúng con biết can đảm nói về Ngài cho mọi người đang sống xung quanh chúng con.

Về mục lục

.

TÂM HỒN TRUYỀN GIÁO

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Nhà truyền giáo không tự dưng biết Lời Chúa để thành người rao giảng. Không có siêu nhiên nào mà không gắn liền tự nhiên. Mẹ Maria là nữ vương truyền giáo, bởi tâm hồn Mẹ được ướp trong kinh nguyện gia đình, hội đường để Lời Chúa trở nên Người. Mẹ được sứ thần Gabriel chào chúc: “Kính Mừng Maria đầy ơn phúc”. Mẹ Maria một tâm hồn truyền giáo tuyệt diệu!

Gia Đình Nơi Ươm Mầm truyền giáo.

Thưở xưa, thời của Đức Maria, mọi đứa trẻ Do Thái tới tuổi hiểu biết một chút, đều có một niềm vui khi đến ngày Sabat. Một tâm hồn tôn giáo được hun đúc từ tấm bé. Mặt tươi vui, quần áo đẹp nhất, tung tằng cùng cha mẹ khao khát đến hội đường hằng tuần, tham dự cầu nguyện, nghe kinh Tora và giảng giải.

Việc giáo dục con trẻ, người chính yếu là người mẹ trong năm năm đầu đời. Người mẹ luôn nhắc lại cho con cháu mình điều thiết yếu trong sách Đệ Nhị Luật: “ Ngươi sẽ yêu mến Yavê Thiên Chúa của ngươi hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết sức lực ngươi.  Các lời ta truyền cho ngươi hôm nay hãy ở nơi lòng ngươi, ngươi sẽ lặp lại cho con cái ngươi; và ngươi sẽ ôn lại khi ngươi ngồi nhà và khi ngươi đi đường; khi ngươi nằm và khi ngươi dậy.” (Đnl 6, 5 – 7). Từ trong gia đình cha mẹ và con thấm nhuần kinh nguyện, Lời Chúa, ngay trong những hoạt động thường ngày cũng đượm chất thiêng liêng, thành kính.

Nơi trường học.

Bé từ năm tuổi trở lên đi học ở “nhà đọc sách” về kinh Tora, đến trưa về nhà. Khi ở nhà đứa trẻ phụ giúp cha mẹ, làm việc nhà hay việc nông hoặc một nghề của cha mẹ. Trẻ được học tiếng Hip ri vỡ lòng, rồi nghe đọc từng trang trong kinh Tora, đứa trẻ thông mình, ghi nhớ nhiều đoạn trong sách, sau này có thể trao đổi lưu loát về Lời Chúa cho cả người lớn hơn mình.

Đối với người Do Thái về hiểu biết Lời Chúa không quan trọng lớn tuổi hay nhỏ tuổi, mọi người đều có quyền trao đổi và giảng nghĩa như nhau. Có thể thấy điều này năm 12 tuổi Chúa Giê su lên đền thờ Giê ru sa lem, vừa nghe vừa hỏi, trả lời cùng các kỳ lão về Lời Chúa. Sử gia Josephus vào thế kỷ thứ nhất có thể tự hào về dân tộc mình: “Nếu ai có hỏi về lề luật, sách Thánh, anh ta sẽ đọc thuộc dễ dàng còn hơn tên của mình”.

Khi Thánh Luca trình bày sự việc xảy ra khi Chúa Giê su sinh ra: “Còn Maria thì bà giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng.” (Lc 2, 19). Điều này đã được ghi từ tấm bé trong cuộc đời của Mẹ Maria. Có câu truyện kể lại: Một người cắc cớ hỏi một nhà khôn ngoan Do Thái, “làm sao tiêu diệt được người Do Thái, người khôn ngoan trả lời: Nếu ông đi quanh hội đường người Do Thái mà không còn nghe tiếng kinh Tora con trẻ đọc, lúc ấy người Do Thái sẽ bị tận diệt.

Lên mười tuổi, đứa trẻ sẽ học lên cao hơn nơi “nhà học hỏi”. Ở đây thầy trò học hỏi theo lý luận từ sơ cấp đến cao cấp. Nghe những câu dụ ngôn và tự trả lời bằng Lời Chúa ứng với dụ ngôn. Cách học hỏi này, cho Chúa Giê su kinh nghiệm và có thể sáng tác những dụ ngôn minh hoạ hoặc trả lời một câu hỏi hóc búa, ác ý của kẻ chống đối Ngài bằng một bài học Lời Chúa.

Tâm hồn truyền giáo.

Nhà truyền giáo là người đón Chúa sinh hạ trong lòng mình và cũng đem Chúa đến sinh hạ trong lòng người khác.

Đối với người nữ trong xã hội Do thái, công việc chính yếu là nội tướng trong nhà, kéo len, đan sợi, nhà cửa, bếp ăn, giữ hơi ấm trong gia đình. Ngoài ra, còn là người nối tương quan với mọi người trong khu xóm bằng tính cách dịu dàng, tế nhị, giúp đỡ, làm nên làng xóm yêu thương. Sách Thánh đã dạy trong thập giới: “Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Lv 19, 18)

Được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Mẹ Maria mau mắn lên đường đến thăm người chị em họ đã mang thai được 6 tháng. Việc thăm viếng không chỉ là đi đến thể hiện tình bác ái, mà với Mẹ Maria là mang Chúa Giê su đến và sinh hạ trong tâm hồn người mình gặp gỡ. Bởi vậy phản ứng đầu tiên của bà Isave vừa gặp Mẹ Maria thưa lên: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến thăm, Tai tôi vừa nghe em chào thì hài nhi nhảy trong lòng tôi” ( Lc 1, 41).

Một tâm hồn truyền giáo với Mẹ Maria là thưa “Xin Vâng, cứ làm cho tôi như lời Sứ Thần truyền” (Lc 1, 38). Suốt cả cuộc đời của Mẹ từ khi cưu mang Con Chúa, khi sinh hạ, khi sang Ai cập, khi sống tại NaZareth. Khi cùng với anh chị em mình đến tìm gặp con vì lời đồn thổi, khi chứng kiến con bị người đời tố cáo, đánh đòn, vác thập giá, chết trên Thánh Giá, hạ xác, táng xác. Tất cả sự kiện ấy đến với Mẹ như đã xin vâng như lời cụ Simeon loan báo: “Này! Ngài có mệnh làm cớ cho nhiều người bổ nhào và chỗi dậy trong Israel, và làm dấu gợi lên chống đối, và hồn bà, mũi gươm sẽ đâm thâu – ngõ hầu ý nghĩa của nhiều tâm hồn phải bày ra”. (Lc 2, 34 – 35).

Theo gương mẹ Maria sống đời truyền giáo, xin Mẹ giúp chúng con có “một tâm hồn truyền giáo” là: Hằng suy gẫm Lời Chúa, để Lời Chúa sinh hạ nơi chính chúng con và nhờ Chúa chúng con đến với anh chị em, với mọi người.

Về mục lục

.

ĐƯỢC RỬA TỘI VÀ ĐƯỢC SAI ĐI LOAN BÁO TIN MỪNG

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Tháng 10, tháng truyền giáo

Tháng 10 tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy khám phá lại nét đẹp của lời kinh này và siêng năng đọc kinh Mân Côi. Tháng 10 năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi toàn thể Giáo Hội cử hành “Tháng ngoại thường về truyền giáo” để cầu nguyện cho hòa bình thế giới và  làm mới mẻ lại tinh thần Loan Báo Tin Mừng nơi người Kitô hữu.

Giáo hội tự bản chất là truyền giáo.

Nếu như Isaia con trai Amót được thị kiến: “Các dân nước sẽ đổ xô về núi Chúa… trong ngày sau hết” (x. Is 1, 1-5). Thánh Phaolô cho người con tình thần của mình biết rằng: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi” (x.1 Tm 2, 4 – 6). Cả bốn sách Tin Mừng đều nêu bật ý nghĩa của việc truyền giáo. Nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội, chứng tỏ bản chất của Giáo hội là truyền giáo. Chính Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với các tông đồ nơi Phòng Tiệc Ly như sau: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo hội ra đi cho đến tận cùng trái đất. Ðây là một sứ mạng duy nhất, một sứ điệp duy nhất, phát xuất từ Thiên Chúa và được gửi đến cho mọi người, ngõ hầu họ được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa.

“Chúa Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thư ba, từ cõi chết sống lại và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân. Chính anh em là chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24, 46-48).

Nhân dịp Đại Năm Thánh 2000, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Sứ mạng của Giáo Hội kéo dài sứ mạng của Chúa Kitô. Giáo Hội không ngừng rao giảng cho thế giới Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, bằng việc rao giảng và bằng chứng tá của những con cái mình… nhờ việc thực hành mệnh lệnh tình thương đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em”. (Huấn Đức ngày 22 tháng 10/2000, tại Roma).

Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: Sứ vụ truyền giáo là bổn phận của toàn thể Giáo hội, vốn bởi bản chất là thừa sai (x.Ad gentes, số 2). Trích dẫn lời Chân phước Phaolô VI, ngài tiếp: “Giáo Hội hiện hữu để truyền giáo, để giảng thuyết và giáo huấn, để làm máng chuyển quà tặng của các ân sủng, để hoà giải các tội nhân với Thiên Chúa, để trường tồn hy lễ của Chúa Kitô trong Thánh Lễ, đó là việc tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người.”

Tháng truyền giáo ngoại thường

Đại chiến thế giới lần thứ I nổ ra đã cướp đi hàng triệu sinh mạng con người, hậu quả là thế giới hoang tàn, đổ nát, con người chia rẽ nhau…. Trong lúc như thế,  Đức Bênêđíctô XV đã viết tông thư MAXIMUM ILLUD (hoạt động truyền giáo trên toàn thế giới) để nâng đỡ những nạn nhân chiến tranh; cỗ võ người Kitô hữu dấn thân cho công cuộc truyền giáo và mang Tin Mừng Cứu độ đến mọi nơi trên thế giới.

Bởi vậy, nhân dịp kỷ niệm  100 năm Tông thư MAXIMUM ILLUD ( 1919 – 2019) về hoạt động truyền giáo trên toàn thế giới,   Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi toàn thể Giáo Hội cử hành “Tháng ngoại thường về truyền giáo” vào tháng mười năm 2019 này để cầu nguyện cho hòa bình thế giới và  làm mới mẻ lại tinh thần Loan Báo Tin Mừng nơi người Kitô hữu.

Sứ điệp Truyền giáo năm nay mang chủ đề: “Được rửa tội và được sai đi – Người tín hữu Chúa Kitô tham gia sứ mạng loan báo Tin Mừng”. Sứ điệp nhắc nhở chúng ta rằng mọi Kitô hữu đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy đều được sai đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo (x. Mc 16,15). Không ai được viện bất cứ lý do nào để miễn chuẩn sứ mạng này.

Loan báo Tin Mừng là sứ mạng của Thiên Chúa, được Chúa Giêsu thi hành trước, rồi trao cho các Tông đồ và Giáo Hội qua lệnh truyền: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loại thọ tạo” (Mc 16,15). Chúng ta phải lấy làm vinh dự được cộng tác vào sứ mạng cao quý này. Đức Thánh Cha Phanxicô quả quyết : “Mỗi người là một sứ mạng” (EG 273). Ngài muốn nói lên sự gắn bó mật thiết của mỗi Kitô hữu với Chúa và sứ mạng này.

Đức Thánh Cha Phanxicô quả quyết rằng: “Hội Thánh phát triển không bởi chiêu dụ, nhưng bởi thu hút” (EG số 14). Lịch sử Giáo Hội qua hàng thế kỷ đã minh chứng điều đó. Vì thế, chúng ta hãy sống thế nào để mọi người nhận thấy Đạo đem lại niềm vui, bình an và hạnh phúc đích thật, không những cho cuộc sống hôm nay mà còn cuộc sống vĩnh cửu trong Vương Quốc Thiên Chúa. Động lực của Đạo là tình yêu Thiên Chúa được Đức Giêsu Kitô diễn tả bằng chính cuộc sống của mình. Tình yêu này hấp dẫn và mời gọi tất cả mọi người trong gia đình nhân loại.

Giảng trong giờ Kinh Chiều tại Đền thờ Thánh Phêrô, dịp khai mạc Tháng Truyền giáo Ngoại thường ngày 01 tháng 10, Đức Thánh Cha nói: “Thiên Chúa không yêu cầu chúng ta cất giữ cuộc đời và đức tin của chúng ta, nhưng Ngài mời chúng ta làm cho nó sinh lợi. Tháng Truyền giáo Ngoại thường này thúc bách chúng ta trở thành những người chủ động với những nén bạc. Không phải như người cất giữ đức tin và nắm lấy ân sủng, nhưng trở thành những nhà truyền giáo”.

Truyền giáo, trước hết là sống chứng tá về một đời sống biết Chúa Giêsu, làm chứng: không phải bằng lời nói mà bằng cuộc sống. Chúng ta phải tự hỏi trong tháng này: chứng tá của tôi thế nào?

Nhờ lời chuyển cầu của thánh Phanxicô Xaviê, thánh nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu, Đấng Đáng kính Pauline Jaricot là quan thầy các xứ truyền giáo, nhất là của Mẹ Maria Ngôi Sao truyền giáo, mẫu gương loan báo Tin Mừng, cầu thay nguyện giúp cho Hội Thánh trở nên một mái nhà của tình yêu và một người mẹ cho mọi dân tộc và là nguồn suối tái sinh cho thế giới chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

ĐỪNG TRỞ THÀNH BÀN TAY BẠI XỤI CỦA CHÚA

Lm. Ignatiô Trần Ngà

Khi tôi muốn dùng tay để gắp thức ăn mà cánh tay bị bại xụi, không gắp được thức ăn cho mình, thì thật là điều đáng buồn.

Khi anh hay chị muốn viết một lá thư thăm người bạn xa cách lâu ngày, mà tay bị tê bại, nắm bút lên thì bút lại rơi xuống, cầm tờ giấy lên, giấy cũng rơi xuống luôn, thì cũng thật đáng buồn.

Khi người mẹ muốn đưa tay ra ẵm lấy đứa con thơ rất yêu quý, rất dễ thương, nhưng đôi tay của bà bị bại xụi, nên không ẵm được cháu như ý muốn thì thật là đau lòng.

Thiên Chúa cũng phải chịu một cảnh đau lòng như thế, hết thời này qua thời khác, vì có nhiều “phần thân thể” của Ngài bị bại, bị liệt nên không hoạt động được như ý Ngài mong muốn.

Khao khát mãnh liệt nhất của Thiên Chúa là đưa muôn vàn đứa con yêu quý của Ngài tản mác khắp nơi về đoàn tụ dưới mái nhà chung. Vì lòng khao khát cháy bỏng nầy, vì ước vọng tha thiết nầy, Thiên Chúa đã dùng nhiều cách để đưa loài người về với Ngài.

Thứ nhất: Ngài dùng các ngôn sứ mà phán dạy.

Trước hết, Thiên Chúa dùng các ngôn sứ thời Cựu Ước như Mô-sê, I-sai-a, Ê-li-a, Giê-rê-mi-a, Gioan Tẩy Giả… để giảng dạy cho dân Do-thái nhận biết, tôn thờ Ngài và trở về với Ngài. Nhưng đa số đã không đón nhận các ngôn sứ Chúa gửi đến, lại còn lên án các vị nầy.

Thứ hai: Thiên Chúa sai Người Con Một.

Sau thất bại thứ nhất, Thiên Chúa cho Người Con một xuống thế làm người, trực tiếp dạy dỗ loài người, nộp mình chịu chết để cứu độ loài người. Thư Do-thái viết về sự kiện nầy như sau: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết nầy, Thiên Chúa phán dạy chúng ta qua Người Con.” (Dt 1,1-2)

Thứ ba: Trao cho mỗi người chúng ta tiếp nối sứ mạng của Chúa cứu thế.

Sau 33 năm sống trên dương thế dùng nhiều cách để bày tỏ cho nhân loại nhận biết Thiên Chúa Cha và nộp mình chịu chết đền tội cho loài người, Chúa Giêsu lên trời và chuyển giao công trình cứu độ của Ngài cho Hội Thánh tiếp nối.

Để thực hiện việc nầy, Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Tẩy để nối kết chúng ta vào thân mình Ngài như cành nho liền với thân nho, như cánh tay nối liền cơ thể. Nhờ đó, chúng ta với Chúa Giêsu không còn là hai mà chỉ là một. Thế là từ đây, Chúa Giêsu tiếp tục công cuộc cứu độ của Ngài qua chúng ta là chi thể, là thân mình Ngài.

Đừng để cho đôi tay Chúa bị tê liệt

Thiên Chúa có một đoàn con đông đảo tản mác khắp nơi nhưng chưa hề biết mặt Cha mình là Thiên Chúa Cha, chưa từng quen biết Anh Cả của mình là Chúa Giêsu, không được chung sống và nuôi dưỡng trong gia đình Thiên Chúa. Họ là những anh chị em lương dân đang sống chung quanh chúng ta.

Chúa Giêsu khao khát ngày đêm dẫn dắt đoàn con lưu lạc nầy về đoàn tụ trong gia đình Hội Thánh. Ngài nhờ chúng ta là những bàn tay của Ngài chịu khó đưa ra để dẫn đưa họ về sum họp trong gia đình Thiên Chúa… Nếu chúng ta không chịu làm theo ý Ngài, thì đoàn con của Thiên Chúa là những anh chị em lương dân vẫn còn phải sống xa Cha Mẹ của mình là Thiên Chúa như những đứa con lưu lạc xa nhà. Như thế thì Thiên Chúa phải vô cùng đau khổ và chúng ta vô tình trở thành bàn tay bại xụi của Chúa Giêsu vì không “cử động được” như ý Ngài muốn.

Chúa Giêsu mong muốn ẵm lấy những anh chị em lương dân khắp nơi như người mẹ ẵm lấy những người con bé bỏng dễ thương vào lòng. Ngài nhờ đến chúng ta là đôi cánh tay của Ngài vươn ra, ẵm lấy những anh chị em đó, nhưng chúng ta không thực hiện ý Ngài. Như thế, anh chị em lương dân vẫn còn là những đứa con xa mẹ. Như thế, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục phải đau khổ vì không được bồng ẵm chăm sóc đoàn con; còn chúng ta, chúng ta vô tình trở thành đôi tay bại liệt của Chúa Giêsu, không cho Ngài thực hiện được ước vọng của Ngài qua chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa là Đầu, chúng con là chi thể, là chân tay của Chúa; xin đừng để chúng con trở thành đôi tay bại liệt, chẳng chịu “cử động” theo lệnh truyền của Chúa.

Xin cho chúng con mau mắn đáp lời mời gọi của Chúa, sẵn sàng lên đường, sẵn sàng hy sinh, sẵn sàng phục vụ để đem Tin Mừng của Chúa đến với anh chị em lương dân, để dẫn đưa đoàn con lưu lạc của Chúa về đoàn tụ trong gia đình Chúa.

Về mục lục

.

CÁC CON HÃY ĐI

             Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Hằng năm, Giáo hội dành một ngày gọi là ngày thế giới truyền giáo, để kêu gọi mọi tín hữu ý thức nhiệm vụ của mình là truyền giáo. Điều này công đồng Vat II đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong sắc lệnh Ad Gentes (2): “Mỗi Kitô hữu phải là một tông đồ cho Chúa”.

Bài Tin mừng mà chúng ta vừa nghe, thánh Máccô kể lại sau khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, Ngài hiện ra với các môn đệ và nói ” Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15).

“Các con hãy đi” đây là một lệnh truyền chứ không phải là một lời khuyên. Đức Giêsu được Thiên Chúa Cha sai đến trần gian này để loan báo Tin mừng và cứu rỗi nhân loại. Rồi Đức Giêsu sai các tông đồ “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân…”. Đến lượt các tông đồ tiếp tục sai tất cả mọi thành phần dân Chúa tham gia vào sứ mạng loan báo Tin mừng.

Bằng chứng sau mỗi lần kết thúc Thánh lễ, linh mục chủ tế nói ” Lễ xong chúc anh chị em đi bình an”. Có nghĩa là lễ xong anh chị em hãy đi. Hãy đi loan báo sự bình an của Chúa mà chúng ta đã lãnh nhận từ nơi đây. Hãy đi loan báo niềm tin mà anh chị em mới vừa tuyên xưng trong Thánh lễ này. Cho nên, chúng ta nên ý thức truyền giáo là bổn phận của mọi người và không phải là một việc làm tùy sở thích, muốn làm hay không cũng được, đây là một bổn phận, một nhiệm vụ bắt buộc, không ai có quyền trốn tránh và không ai có lý do nào tự miễn chuẩn cho mình hay tự bào chữa cho mình được.

Thế thì, chúng ta truyền giáo bằng cách nào? Thưa, Đức Giêsu đưa ra nhiều phương thế, nhưng ở đây xin chỉ xin đưa ra ba phương thế căn bản.

1/ Cầu nguyện: Chúa Giêsu nói “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đến gặt lúa”. Anh chị em biết thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu suốt đời sống trong bốn bức tường Dòng Kín không đi ra ngoài truyền giáo, nhưng tâm hồn thánh nữ từng giây, từng phút cầu nguyện cho các vị thừa sai, cầu nguyện cho việc truyền giáo. Thánh nữ không chỉ cầu nguyện trong nhà thờ, nhưng còn dâng những hi sinh nho nhỏ trong đời sống tu trì để cầu cho việc truyền giáo. Vì thế, thánh Nữ được Giáo hội tôn phong làm bổn mạng các xứ truyền giáo.

Không ai trong chúng ta có khả năng làm thay đổi được tâm hồn người khác. Anh chị em có thể là nhà giáo dục giúp kiến thức cho người khác, nhưng chúng ta không thể nào có khả năng làm thay đổi được tâm linh người khác nếu không ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy. Bởi thế, chúng ta cần cầu nguyện, nhờ ơn Chúa biến đổi đời sống của họ.

2/ Sống chứng nhân: Đạo chúng ta là đạo yêu thương, nên Chúa sai chúng ta đi loan báo tình thương Chúa Trời yêu thương loài người. Nhưng để công việc truyền giáo đem lại hoa trái, người tông đồ trước hết phải cảm nhận được tình Chúa yêu thương mình. Bởi lẽ sứ điệp mà chúng ta cần chuyển tải cho anh chị em là dung mạo lòng Chúa thương xót và yêu thương con người. Một khi cảm nhận rõ nét tình Chúa yêu thương mình, lời chứng của chúng ta mới có sức thuyết phục. Chớ gì, người Công giáo hiện diện ở đâu thì hãy cố gắng sống hiền hòa, sống tình liên đới, kết nối yêu thương để làm chứng cho đạo thánh Chúa.

3/ Loan báo: thế giới rất cần Tin mừng của Chúa Kitô. Hãy gieo Tin mừng vào tâm hồn người khác: Đọc Tin mừng cho họ nghe, giảng Tin mừng cho họ hiểu, tặng Tin mừng cho họ đọc, phổ biến Tin mừng bằng mọi cách nhất là qua các phương tiện truyền thông. Khi họ đã nghe, đã hiểu thì chắc chắn họ sẽ sống và được biến đổi. Cho nên Chúa sai chúng ta đi là để nói, để rao giảng, để giới thiệu Chúa cho anh chị em mình. Nhiều khi chúng ta ngại nói về Chúa hay không dám xưng mình là người theo đạo Chúa.

Vì thế, chúng ta hãy là những chứng nhân tình thương, đáp lại lệnh truyền của Chúa, là ra đi khỏi ngôi nhà êm ấm, ra đi khỏi tính ích kỷ của mình… để dấn thân vào những vùng ngoại biên, mà Đức thánh cha Phanxicô đã mời gọi. Để diễn tả lối sống mới của lòng thương xót. Ngôn ngữ mới của lòng thương xót và cung cách mới là lòng thương xót.

Cuối cùng, nhà truyền giáo cần noi gương Mẹ Maria: Noi gương Mẹ lên đường mang Chúa đến với mọi người như biến cố Mẹ đi thăm bà Êlizabet; Noi gương Mẹ biết quan tâm giúp đỡ sự thiếu thốn của kẻ khác như biến cố tại tiệc cưới Cana; Noi gương Mẹ biết can đảm chấp nhận thánh ý Chúa hy sinh Con Một vì nhân loại như biến cố trên thập giá. Đồng thời, chúng ta cần nhờ Mẹ Maria đồng hành và nâng đỡ trên mọi nẻo đường truyền giáo.

Cầu chúc anh chị em có một hồn truyền giáo, là mang bình an và niềm vui của Chúa đến chia sẻ cho những người chúng ta gặp gỡ, đặc biệt những người chưa nhận biết Chúa, được như thế là chúng ta chu toàn sứ mạng mà Chúa và Giáo hội đã trao phó cho chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

TIN MỪNG THÚC BÁCH TÔI

Lm G. Nguyễn Cao Luật

Hơn một năm trước đây, nhân loại trong bầu khí chuẩn bị buớc vào thiên niên kỷ thứ ba, kỷ niệm 2000 năm Mầu Niệm Nhập Thể. Trong dịp trọng đại đó, Giáo hội nhìn lại việc loan báo Tin Mừng cho thế giới, đồng thời đề ra những đường huớng mới cho một cuộc loan báo Tin Mừng cách cụ thể cho từng châu lục. Đặc biệt với giáo hội tại Á Châu đã vui mừng đón nhận được Văn kiện “Eccelesia in Asia – Giáo Hội Tại Á Châu” được công bố tại New Delhi (Ấn độ), tháng 11 năm 1999, như một “kim chỉ nam” cho giáo hội nơi đây chuẩn bị mừng Năm Đại Toàn xá 2000; đồng thời có dịp nhìn lại vấn đề truyền giáo của mình và tìm ra một hướng đi mới cho thiên niên kỷ này.

Và mới đây trong phiên họp chung ngày 10-10-2001, ĐHY Jan Schotte, Tổng thư ký Thượng Hội Đồng Giám Mục, đã loan báo các nghị phụ về việc công bố Văn kiện Hậu- Thượng Hội Đồng Giám Mục riêng của Châu Đại dương (Ecclesia in Ocaenia). Ngài nói: “Tôi vui mừng loan báo trong phiên họp chung này là Đức Thánh Cha, sau khi suy tư lâu dài và bàn hỏi, đã quyết định công bố Tông huấn Hậu- Thượng Hội Đồng “Ecclesia in Oceania” tại Vatican (thay vì đi đến một địa điểm trong miền này), trong một buổi tiếp kiến riêng, được ấn định vào ngày 22 tháng 11 năm 2001, lúc 11g30, tại Phòng Khánh Tiết Clementina của Phủ Giáo Hoàng, nhân dịp kỷ niệm năm thứ bốn của lễ nghi khai mạc khóa họp riêng cho Châu Đại dương”.

ĐHY Jan Schotte nhấn mạnh: “Trong lúc này, tôi xin các Nghị phụ cầu nguyện cho Giáo hội tại Châu Đại Dương, đã từ lâu chờ đợi với nhiều lo âu về văn kiện này. Giáo hội trong miền này được mời gọi đón nhận giáo huấn Hậu Thượng Hội Đồng trong tinh thần yêu mến, được mời gọi phổ biến văn kiện này và thực hiện nội dung của nó trên cấp bậc giáo phận và giáo xứ với lòng nhiệt thành truyền giáo, đáp lại lời kêu gọi của Đức Thánh Cha tiến đến việc tái rao giảng Tin Mừng, cách riêng trong lúc bước vào Ngàn Năm thứ ba”.

Với những ý nghĩa đó, Chúa Nhật Truyền Giáo có chiều kích của một cuộc khởi khởi đầu mới trong nỗ lực loan báo Đức Giêsu cho thế giới.

Anh em sẽ làm chứng cho Thầy

Các tông đồ là những người được Đức Giêsu kêu gọi để chia sẻ cuộc sống của Người; các ông đã được tham dự và chứng kiến những biến cố khác nhau trong cuộc đời của Đức Giêsu. Những điều đó không phải chỉ là những sự kiện lịch sử,?không phải chỉ làô1 xảy ra trong quá khứ. Các tông đồ không phải chỉ là những chứng nhân về những sự kiện tầm thường. Trái lại đây là những biến cố làm đảo lộn lịch sử, những biến cố đem lại ơn giải thoát cho con người, và các tông đồ là những người loan báo, những người tiếp tục thực hiện công trình ấy.

Những biến cố tập trung vào sự kiện: Đức Ki-tô đã chết và sống lại. Các tông đồ không làm chứng về điều gì khác ngoài sự kiện đó. Đó không phải là hoạt động của con người, nhưng là những hoạt động của Thiên Chúa, để thể hiện tình thương và ơn cứu độ cho thế giới. Loan truyền sứ điệp ấy có nghĩa là làm chứng về biến cố quan trọng này. Vì đó là biến cố quan trọng nên phải dồn hết mọi nỗ lực, mọi khả năng để loan báo, để làm chứng. Phải làm chứng bằng lời nói, bằng đời sống và có khi bằng máu nữa.

Do đó, ý thức được tầm quan trọng của sứ điệp, các tông đồ, những người đã được chứng kiến tận mắt, đã đem hết cuộc đời của mình để làm chứng: các ông đã giảng dạy, đã viết thơ, viết sách, đã chịu nhiều gian nan vất vả với một ước mong duy nhất là sứ điệp phục sinh được công bố cho tất cả mọi người. Các ông đã không ngần ngại chịu đổ máu, chịu hy sinh cuộc đời, bởi vì các ông được sai đi làm nhân chứng, theo gương Vị Thầy, Đấng đã gọi và sai các ông đi.

Và, như lịch sử cho thấy, việc loan báo sứ điệp Ki-tô giáo trong những thế kỷ đầu tiên dựa trên biến cố nền tảng này. Các ki-tô hữu thời sơ khai không chú trọng về các quy luật luân lý, cũng không trình bày nhiều về các chi tiết trong cuộc đời Đức Giêsu, nhưng tất cả cuộc sống, mọi sinh hoạt của họ đều xoay quanh biến cố phục sinh, vì họ hiểu rằng, đó là biến cố trọng tâm của lịch sử ơn cứu độ.

Như vậy, sứ điệp Ki-tô giáo không phải là một ý tưởng sáng tạo, một sáng kiến độc đáo chi phối những khám phá mới; cũng không phải là việc tìm kiếm các chân lý, nhưng chính là xác quyết sự kiện: Đức Ki-tô đã chết và sống lại. Ki-tô giáo trước hết là một biến cố, và người loan báo phải làm chứng về biến cố ấy.

Tin Mừng thúc bách tôi

Ơn cứu độ phải được loan đi cho đến tận cùng vũ trụ. Đó là sự nôn nóng của một tâm hồn đã được đổ tràn tình thương của Thiên Chúa. Đó cũng là thao thức của một tâm hồn đã được cảm hóa nhờ sự chết và sống lại của Đức Ki-tô, và đó cũng là niềm phấn khởi của tâm hồn tràn đầy sức sống và gắn bó sâu xa với Đức Ki-tô.

Người làm chứng phải là người có kinh nghiệm về điều mình làm chứng. Tin Mừng không phải chỉ là những điều được rao giảng, được công bố, nhưng chính là cuộc sống, là những tiếp xúc thâm sâu với Đức Giêsu, để rồi từ đó mới chuyển qua những hoạt động cụ thể, những công việc bên ngoài.

Đã có một thời người ta quan niệm việc truyền giáo như là những hoạt động rầm rộ nhằm áp đặt, lôi kéo người khác theo đạo. Dĩ nhiên, những công việc này rất ích lợi nếu phát xuất từ tấm lòng nhiệt tình với Tin Mừng, với ơn cứu độ. Khốn thay, không phải lúc nào cũng được như thế. Không những người ta đã bó buộc, đã áp đặt, nhưng còn lợi dụng danh nghĩa truyền giáo để mưu tìm những ích lợi cho riêng mình…

Tuy thế, chúng ta không hề có ý phủ nhận công lao vất vả của các vị truyền giáo đã đem Tin Mừng đi khắp thế giới. Chỉ có điều là, vẫn có những bóng đen trong lịch sử truyền giáo, và điều ấy phải là một kinh nghiệm sâu sắc cho cuộc loan báo Tin Mừng mới.

Như vậy, truyền giáo không phải là lôi bè, kết đảng làm sao lôi kéo nhiều người về với phe mình. Nhưng truyền giáo phải là tiếng gọi, là nhu cầu bên trong của cõi lòng tha thiết yêu thương, của tâm hồn có được kinh nghiệm về Đức Giêsu. Ngoài ra, truyền giáo cũng chính là để mọi người được sống trong tình thương, được tôn trọng để từ đó Nước Chúa được hiển trị và muôn người hợp nhất nên một trong ơn cứu độ nhờ mầu nhiệm Đức Ki-tô chịu chết và sống lại.

Từ đó, con đường hành động của người Ki-tô hữu không thể nào khác hơn con đường của Thầy mình: là hạt lúa mì gieo vào lòng đất, chịu thối rữa đi; là phải cúi xuống rửa chân cho anh em mình, là phải sẵn sàng phục vụ giúp đỡ những người khó khăn bên cạnh mình … nghĩa là phải đối xử với mọi người cách chân tình, đầy tâm tình yêu mến và kính trọng, bởi vì tâm hồn mình đang thấm đầy tình yêu và sức sống của Đức Ki-tô, Đấng đã chịu chết và sống lại cho tất cả mọi người.

Tin Mừng là tin mừng tình thương, chỉ khi nào con người sống trong tình thương, và loan báo, thể hiện tình thương đó, khi ấy mới thực sự là truyền giáo.

Lạy Chúa, con là sứ giả của Chúa

“Lạy Chúa, Chúa đã muốn chọn con để cộng tác vào việc loan báo Tin Mừng của Chúa. Chúa muốn đến với nhân loại qua cuộc đời của con. Chúa muốn đi sâu vào cõi thâm cung của lòng người qua trung gian của con.

Con là người được tham dự vào công trình của Chúa, con là sứ giả của Chúa. Không còn gì vĩ đại hơn, không còn danh hiệu nào vinh dự hơn.

Vâng, lạy Chúa, Con biết rõ điều đó.

Chính Chúa đã kêu gọi con, đã đổ xuống trên con tình thương của Chúa. Chính Chúa đã đóng dấu ấn của Chúa trên con, dù con khốn khổ và nghèo hèn. Chúa đã muốn dùng con để công bố những điều kỳ diệu mà không sợ rằng chân lý bị suy suyển vì tội lỗi của con.

Riêng con, con rất vui mừng và sung sướng được góp phần nhỏ nhoi của mình vào công việc lớn lao của Chúa. Con cảm thấy hạnh phúc vì được trở nên khí cụ để Chúa bày tỏ quyền năng.

Xin cho con luôn cảm thấy ngỡ ngàng khi thấy có những người nhận ra được Chúa đã sai con đi và đã đón nhận con với tư cách là sứ giả của Chúa.

Xin cho con cảm nhận được niềm vui chân thật đó mỗi khi con được đón nhận, dù con thật bất xứng.

Nhưng lạy Chúa,

Con cũng nhận ra đây là một gánh nặng.

Con phải hoàn thành sứ mạng đã được trao phó “khi thuận tiện cũng như lúc khó khăn”.

Con phải loan báo về Chúa, phải làm chứng – vì khốn cho con, nếu con không rao giảng. Con không thể tháo lui, bỏ mặc sứ mạng của mình.

Con phải ra đi, ra khỏi mình để loan báo, để thể hiện ơn cứu độ của Chúa cho mọi người, dù người đó là ai chăng nữa.

Đôi lúc con cảm thấy mình không đủ sức để chu toàn sứ vụ, đôi lúc con cảm thấy sứ vụ quá khó khăn mà dường như con không thể vượt qua.

Xin con luôn nhớ rằng Chúa vẫn ở bên con, vẫn là người hướng dẫn, vẫn là người chịu trách nhiệm về sứ vụ đã trao cho con.

Xin cho con đủ tin tưởng và can đảm để trở thành một khí cụ tốt …

Và lạy Chúa,

Làm sao con có thể thông truyền chân lý của Chúa mà chính con lại đã không đích thân chiếm lấy chân lý ấy, và Chúa cũng đã chẳng chiếm lấy con rồi?

Làm sao con có thể loan báo Tin Mừng mà đã không được Tin Mừng ấy ghi dấu sâu xa nơi tâm hồn mình.

Làm sao con có thể làm chứng về Chúa nếu con đã không có kinh nghiệm về Chúa?

Con hiểu rằng Chúa là Ánh Sáng, và ánh sáng đó bừng lên là nhờ chất dầu của cuộc đời con.

Con phải để cho ánh sáng đó bừng lên trong cuộc đời mình trước khi bừng lên trong thế giới.

Cuối cùng, lạy Chúa,

Chúa đã muốn sử dụng con, xin đừng để con thành một ngăn trở. Xin đừng để những vụng về, những yếu đưối của con làm hỏng đi công trình của Chúa, trái lại, xin cho mọi người đón nhận được Chúa qua cuộc đời của con.”

Theo Karl Rahner

Về mục lục

.

KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO

Jorathe Nắng Tím

Tin Mừng Chúa Nhật Truyền Giáo chia thành hai phần với nội dung hoàn toàn trái ngược : phần nhất từ câu 35 đến câu 41 là câu chuyện hai tông đồ Gioan và Giacôbê quấn quýt, bám chặt Đức Giêsu để chạy chức, chạy quyền với lời van xin tha thiết : “Xin cho chúng con được ngồi, một người bên hữu, một người bên tả trong vinh quang của Thầy”, và phần hai từ câu 41 đến 45 với giáo huấn của Đức Giêsu : Ai muốn làm lớn thì hãy trở nên tôi tớ, vì “Con Người không đến để được phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống mình làm giá chuộc tội thay cho nhiều người” (Mc 10,45).

  1. Sống đạo là truyền giáo:

Truyền giáo là căn tính của Giáo Hội, nên không có Giáo Hội, nếu không có Truyền Giáo, vì căn tính và sứ vụ của Giáo Hội là : “Hãy đi khắp thiên hạ rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu thanh tẩy thì sẽ được cứu rỗi …” (Mc 15,15-16).

Một cách cụ thể, truyền giáo là “loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”, điều mà mọi tín hữu đều long trọng xướng lên ở phút cao điểm của thánh lễ. Đây chính là lẽ sống, đường sống, và sinh hoạt của đời người Kitô hữu. Họ sống đạo khi loan truyền Đức Giêsu chịu đóng đinh, chết và sống lại. Họ trở thành người có Đạo một cách thiết thực, sống động và chính danh khi loan báo cho mọi người Thiên Chúa vì yêu thương con người đã làm người, chết cho con người và sống lại để con người được sống. Sống đạo và truyền đạo là một, vì chung một mục đích, chung một hoạt động. Vì thế sẽ không có tín hữu sống đạo mà không truyền giáo, cũng như không có nhà truyền giáo nào bị coi là không sống đạo.

Từ chối bổn phận truyền giáo là không sống đạo ; phủ nhận trách nhiệm loan báo Đức Giêsu cho mọi người chung quanh là mặc nhiên chối đạo ; bỏ quên sứ mệnh “được sai đi” khi chịu bí tích thánh tẩy là đào ngũ, bởi loan báo Đức Giêsu, tuyên xưng Đức Giêsu, giới thiệu Đức Giêsu, dẫn người ta đến gặp Đức Giêsu, tạo điều kiện để Đức Giêsu ngự đến trong nhà người khác, chuẩn bị mảnh đất tâm hồn tha nhân để hạt giống Tin Mừng của Đức Giêsu được mọc lên tươi tốt là căn tính, điều kiện không thể thiếu để trở thành người có đạo, người sống đạo, người có Đức Giêsu.

Như thế, người Kitô hữu trước hết phải được sứ mệnh truyền giáo cuốn hút, bằng xác tín mãnh liệt : mình được sai đi qua bí tích Thánh tẩy. Có tin rằng mình được Thiên Chúa sai đi qua Giáo Hội, chúng ta mới tự tin và hăng hái lên đường truyền giáo. Sở dĩ nhiều người công giáo đã không tha thiết với sứ vụ truyền giáo là vì não trạng : truyền giáo là việc của các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chứ không phải việc của “con chiên, giáo dân”. Chính não trạng này, cộng thêm não trạng “giáo sĩ trị” đã làm hoang mang và chùn chân người giáo dân trong sứ vụ truyền giáo của mình.

Nhờ được sứ vụ truyền giáo cuốn hút, chúng ta sẽ nhận ra trách nhiệm của mình với thế giới, với mọi người chung quanh : trách nhiệm loan báo Tin Mừng để mọi người được hạnh phúc như chúng ta.

Chính trong trách nhiệm làm cho thế giới được hạnh phúc nhờ lãnh nhận Tin Mừng của Đức Giêsu, chúng ta nhận được niềm vui đích thực của Tin Mừng, niềm vui mà Thiên Chúa hứa ban cho những ai đi theo Ngài để làm chứng Thiên Chúa yêu thương và cứu độ mọi người.

  1. Truyền giáo là Phục Vụ:

Có lẽ, anh chị cũng như tôi, chúng ta đã có lần suy nghĩ và tự hỏi : Vẫn biết truyền giáo là loan báo Đức Giêsu làm người, đã chết và sống lại ; truyền giáo là giới thiệu Đức Giêsu – Thiên Chúa làm người cho mọi người, mọi nơi, mọi thời, nhưng cụ thể, chúng ta bắt đầu truyền giáo từ đâu, từ công việc nào ?

Quả thực, câu hỏi rất quan trọng và ít nhiều đã làm chúng ta băn khoăn. Trong Tin Mừng của ngày Truyền Giáo hôm nay, Đức Giêsu trả lời chúng ta rất rõ ràng, chính xác : Truyền giáo là Phục Vụ mọi người như tôi tớ.

Hai tông đồ Giacôbê và Gioan đã năn nỉ hai chỗ quan trọng trong vương quốc của Đức Giêsu, và cả hai đã nhận được câu trả lời : “Các ngươi biết : các kẻ được coi là thủ lĩnh các dân tộc thì làm chúa trên họ, và những người làm lớn thì bắt người khác phục quyền mình. Nhưng các ngươi thì không như thế ! Ai muốn làm lớn trong các ngươi thì hãy hầu hạ các ngươi, và ai muốn làm đầu các ngươi thì hãy làm tôi tớ mọi người” (Mc 10,42-44).

Đức Giêsu đã không ngần ngại làm vỡ mộng “quan lớn” của hai tông đồ, bằng đưa ra một đường lối hoàn toàn trái ngược : phục vụ mọi người như đầy tớ. Làm môn đệ, tông đồ, chứng nhân, người được sai đi loan báo Tin Mừng của Ngài sẽ không cai trị ai, không bắt ai phục dịch, hầu hạ mình, càng không đàn áp, khống chế, bóc lột ai vì tư lợi, nhưng tự nguyện trở nên tôi tớ để phục vụ mọi người. Từ đây, tông đồ không còn nuôi giấc mộng bá quyền, cai trị, nhưng chỉ còn một thách đố trước mắt là qùy xuống rửa chân cho mọi người như tôi tớ ; nhà truyền giáo không còn lên đường với não trạng “kẻ cả, người trên” bố thí Tin Mừng, nhưng là loan báo Tin Mừng bằng phục vụ mọi người như người anh em hèn mọn ; người được chọn lãnh đạo trong Giáo Hội cũng không còn tơ vương làm vua làm chúa, nhưng biết mình được chọn để trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đấng đến trong thế gian để “phục vụ chứ không phải để được phục vụ, đến để hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc nhiều người”.

Đức Giêsu đã đưa ra một nguyên tắc truyền giáo : Phục Vụ ; đã chỉ cho chúng ta một phương án truyền giáo : Phục Vụ ; đã dậy chúng ta một bài học truyền giáo : Phục Vụ bằng quả quyết sứ mệnh của Ngài là Phục Vụ : “Con Người không đến để được phục vụ, nhưng là để phục vụ” (Mc 10,45).

Không còn gì chính xác hơn lời qủa quyết này, vì nếu sứ vụ cuả Đức Giêsu, Đấng đến trong thế giới để loan báo Tin Mừng Cứu Độ của Thiên Chúa được thực hiện bằng Phục Vụ mọi người, bằng qùy xuống rửa chân môn đệ mình như đầy tớ, thì những người khác được Ngài sai đi tiếp nối sứ vụ loan báo Tin Mừng sẽ không thể làm khác, nghiã là không thể né tránh đòi hỏi Phục Vụ, không thể khước từ lời mời gọi Phục Vụ, không thể khấu trừ điều kiện Phục Vụ. Trái lại, không phục vụ sẽ không thể loan truyền Đức Giêsu chịu chết cho ai, không phục vụ sẽ không có cách tuyên xưng Đức Giêsu sống lại cho người nào, không phục vụ sẽ vô phương làm chứng Đức Giêsu – Thiên Chúa làm người, chết cho con người vì yêu thương con người.

Phục Vụ từ nay không còn là việc làm có cũng được, không có cũng chẳng sao, nhưng là điều kiện mang tính quyết định thành bại trong đời sống đạo, cũng như trong công cuộc truyền giáo. Thiếu phục vụ, không ai tin lời chứng của chứng nhân ; không phục vụ, tiếng nói của nhà truyền giáo không thuyết phục ; bỏ quên phục vụ, dung mạo đích thực của Đức Giêsu sẽ không chỉ bị bóp méo, bôi nhọ, xấu xí, dị hợm, mà còn biến dạng thành kinh tởm, đe doạ, đáng ghét trên môi miệng người được sai đi.

Ước gì Lời Chúa đang mời gọi chúng ta lên đường truyền giáo bằng cúi xuống phục vụ mọi người như tôi tớ, loan báo Nước Thiên Chúa bằng qùy xuống rửa chân cho anh em như đầy tớ hèn mọn, giới thiệu Đức Giêsu là Tình Yêu thương xót và Tin Mừng Cứu Độ bằng hiến mạng sống cho hạnh phúc của anh em được thực hiện ngay hôm nay bằng một việc làm cụ thể : phục vụ một người gần nhất đang cần sự giúp đỡ của chúng ta.

Về mục lục

.

TRUYỀN GIÁO TRONG THẾ GIỚI HÔM NAY

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mt 28,16-20.

(16) Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. (17) Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. (18) Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. (19) Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (20) Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.

2. Ý CHÍNH:

Trong bài Tin mừng của thánh Mát-thêu hôm nay, Đức Giê-su Phục Sinh hẹn các Tông đồ đến một ngọn núi tại miền Ga-li-lê. Ở đó sau khi tuyên bố được Chúa Cha trao toàn quyền trên trời dưới đất, Chúa Phục Sinh đã chỉ thị cho các Tông đồ đi khắp thế gian thâu nạp môn đồ cho Người, làm phép rửa cho họ “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Người cũng hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế.

3. CHÚ THÍCH:

-C 16-17: + Mười một môn đệ: Đây là Nhóm Mười Hai, nhưng thiếu Giu-đa, kẻ phản bội, và lúc đó Mát-thi-a chưa được bổ sung vào danh sách để thế chỗ Giu-đa (x. Cv 1,15-26). Nhóm này là Tông Đồ Đoàn được trao quyền lãnh đạo Hội Thánh. Còn về Giu-đa Ít-ca-ri-ốt: khi thấy Thầy Giê-su sắp bị kết án tử hình, anh ta đã hối hận, liền đem ba mươi quan tiền trả lại cho các đầu mục Do thái nhưng bị từ chối. Giu-đa thất vọng ném tiền vào gian cung thánh Đền thờ rồi đi thắt cổ tự tử (x. Mt 27,3-5). + Đi tới miền Ga-li-lê: Tức là đến miền đất dân ngoại theo chỉ thị của Chúa Phục Sinh, qua bà Ma-ri-a Mác-đa-la (x. Mt 28,10), và cũng để noi gương Đức Giê-su đã khởi đầu rao giảng Tin Mừng Nước Trời tại xứ Ga-li-lê (x. Mt 4,12-17), + Đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến: Ngày nay người ta không thể xác định đây là núi nào. Nhưng có lẽ Mát-thêu chỉ muốn nói đến ngọn núi với ý nghĩa tượng trưng: Núi là nơi Thiên Chúa gặp gỡ và mặc khải cho loài người. Chẳng hạn : Đức Chúa đã trao Thập Giới cho Mô-sê trên núi Khô-rép (x. Xh 24,13.15.18). Đức Giê-su cũng đã công bố Hiến Chương Nước Trời hay Tám Mối Phúc Thật trên núi, gọi là “Bài Giảng Trên Núi” (x. Mt 5,1-7,27). +Thấy Người, các ông bái lạy: Sau nhiều lần hiện ra để củng cố niềm tin cho môn đệ, trước khi về trời Chúa Phục Sinh đã hiện ra để trao cho các ông sứ mệnh loan Tin mừng đi khắp thế gian. Cử chỉ bái lạy nói lên các ông đã tin Chúa Giê-su là “Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa”. + Nhưng có mấy ông lại hoài nghi: Câu này xem ra mâu thuẫn với thái độ bái lạy vừa nói. Thực ra, hoài nghi là thái độ phải xảy ra nơi các môn đệ trước khi các ông đạt được đức tin hoàn hảo. Chắc là Mát-thêu muốn nói đến sự hoài nghi đã xảy ra trước đó mà ngài chưa lần nào đề cập đến. Như vậy đây chỉ là một sự trục trặc về lối hành văn, chứ không mâu thuẫn về mặt tư tưởng. Ngoài ra cũng có người cho rằng: Vì đây là cuộc hiện ra để “trao sứ mệnh” cho Nhóm Mười Một đại diện Hội Thánh, nên sự hoài nghi ở đây ám chỉ sự hòai nghi nói chung của Hội Thánh xưa nay: Mầu nhiệm Phục Sinh tuy là một sự thật hiển nhiên, nhưng bao giờ cũng vẫn có kẻ còn hoài nghi.

-C 18-19: +Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất: Lúc khởi đầu sứ mệnh, cũng trên núi cao, Đức Giê-su đã từ chối quyền hành trên các nước thế gian do Xa-tan hứa ban (x. Mt 4,8-10). Nhưng giờ đây Người tuyên bố đã được Thiên Chúa trao toàn quyền trên trời dưới đất, ứng nghiệm lời tuyên sấm của Ngôn sứ Đa-ni-en về sứ mệnh của Con Người như sau: “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; Muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; Vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong, khác hẳn với mọi vương quốc. Nó sẽ ăn hết toàn cõi đất, sẽ dẫm nát và nghiền tan” (Đn 7,14). + Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ: Hội Thánh phải dùng quyền Đức Giê-su ban để nhân danh Người mà làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người. Trước hết là dân Do Thái (x. Mt 10,5-6), rồi đến mọi dân nước trên thế giới (x. Mt 8,11). +Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần:  Để người ta trở nên môn đệ Đức Giê-su, các Tông đồ phải làm phép rửa tái sinh họ bằng nước và Thần Khí (x. Ga 3,3.5). Phép rửa được cử hành nhân danh Chúa Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (x. Mt 28,19).

-C 28,20: +Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em: Sứ mệnh các Tông đồ gồm cả quyền dạy dỗ các tín hữu cho tới khi Hội Thánh đạt tới tình trạng viên mãn (x. Ep 1,23).+Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế: Chúa Phục Sinh hứa sẽ luôn ở trong Hội Thánh cho đến ngày tận thế nhờ Chúa Thánh Thần và qua các vị mục tử, để giúp Hội Thánh chu toàn sứ mệnh “được sai đi”. Qua đó Đức Giê-su chứng tỏ là “Đấng Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23).

4.CÂU HỎI: 1)Tại sao chỉ có mười một Tông đồ hiện diện lúc Chúa lên trời? 2)Số phận của Giu-đa Ít-ca-ri-ốt thế nào sau khi phạm tội phản nộp Thầy? 3)Tại sao Chúa Phục Sinh  truyền cho các Tông đồ trở về Ga-li-lê? 4)Ngọn núi Chúa truyền cho các Tông đồ đến là núi nào? 5) Mấy kẻ còn hoài nghi gồm những ai và họ hoài nghi điều gì? 6) Đức Giê-su đã từ chối quyền hành trên các nước thế gian do Xa-tan hứa ban vào lúc nào? 7) Đức Giê-su đã được ai trao toàn quyền trên trời dưới đất, ứng nghiệm sấm ngôn của vị Ngôn sứ nào và nội dung lời sấm đó thế nào? 8) Sau khi thâu nạp môn đệ, Hội Thánh phải tiếp tục làm gì cho họ? 9) Làm thế nào để loan báo Tin Mừng cách hữu hiệu cho lương dân hôm nay?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.
  2. CÂU CHUYỆN: THÁNH TÊ-RÊ-XA HÀI ĐỒNG TRUYỀN GIÁO BẰNG CẦU NGUYỆN:

Tê-rê-xa sinh ngày 02 tháng 01 năm 1873 tại Alecon, Normandie, Pháp. “Tê-rê-xa Hài Ðồng Giê-su” là tên nhận khi khấn Dòng. Tê-rê-xa mồ côi mẹ từ năm bốn tuổi, được cha là ông Louis Martin săn sóc và giáo dục chu đáo. Dù ở tuổi vị thành niên chưa được phép tu Dòng, nhưng Tê-rê-xa năm 15 tuổi đã được Ðức Giáo Hoàng Lêô 13 đặc cách cho vào tu trong Dòng kín Carmêlô thành Lisieux, nước Pháp.

Tê-rê-xa chỉ là một nữ tu hèn mọn quanh năm suốt tháng đóng khung trong bốn bức tường tu kín cho đến khi lìa trần ngày 30-9-1897 và thời gian tu mới được 9 năm. Vậy mà chỉ 28 năm sau, năm 1925, Tê-rê-xa đã được Ðức Giáo Hoàng Piô XI tôn phong lên bậc Hiển Thánh. Hai năm sau, lại được đặt làm Quan Thày các Nhà Truyền Giáo và các Xứ Truyền Giáo, cùng với thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê. Gần đây Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II còn nâng Tê-rê-xa lên hàng Tiến Sĩ Hội Thánh vào năm 1997.

Thánh nữ Tê-rê-xa Hài Ðồng Giê-su chỉ là một thiếu nữ hèn mọn, không lập được thành tích gì nổi bật. Nhưng “đằng sau những việc nhỏ bé ấy lại ẩn chứa một tình yêu cao cả”: Yêu mến Chúa, rồi từ Chúa, yêu thương các nhà truyền giáo và các xứ truyền giáo. Làm việc truyền giáo bằng lời cầu nguyện, bằng những hy sinh hãm mình giống như “những bông hồng nhỏ” dâng lên Chúa Hài Ðồng để cầu xin cho lương dân sớm được ơn nhận biết Chúa.

Thánh Tê-rê-xa Hài Ðồng Giê-su, Tiến Sĩ Hội Thánh, Bổn Mạng các Xứ Truyền Giáo chính là tấm gương sáng cho giới trẻ về cách truyền giáo cho con người thời đại hôm nay. Đó là truyền giáo bằng một cuộc sống tin yêu như “Con thơ phó thác” trong tay Chúa quan phòng.

  1. THẢO LUẬN: Theo các cách truyền giáo của thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê, thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su, thánh nữ Tê-rê-xa Can-quýt-ta… Bạn thích cách truyền giáo của vị thánh nào nhất? Tại sao?
  2. SUY NIỆM:

1) SỨ VỤ TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG:

a) Chúa Giê-su đã truyền cho các môn đệ trước khi lên trời: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Đây là một sứ vụ đẹp lòng Thiên Chúa như ngôn sứ I-sai-a đã thốt lên: “Đẹp thay, những bước chân đi truyền rao Tin Mừng ơn cứu độ”. Thánh Phao-lô Tông đồ dân ngoại cũng viết: “Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin ? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe ? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng ? Làm sao rao giảng, nếu không được sai đi ?” (Rm 10,14-15). Nơi khác, ngài còn khẳng định : “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16).

b) Các tông đồ phải rao truyền mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su: Người là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, đã từ trời xuống thế làm người, để dạy đường lên trời cho nhân loại là ”Qua đau khổ vào trong vinh quang”. Tông đồ Phao-lô cũng viết: “Trước hết, tôi truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là : Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như Lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như Lời Kinh Thánh” (1 Cr 15,3-4).

2) PHẢI TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG THEO CÁCH NÀO ?:

a) Cách truyền giảng của thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su:

– Thánh nữ Tê-rê-xa đã truyền giáo bằng lời cầu nguyện và các việc bác ái hãm mình: Tê-rê-xa không giảng bằng lời nói nhưng bằng lòng ước ao của một con tim cháy lửa yêu mến Chúa, bằng cách làm các việc bổn phận thường ngày bằng một cách thức phi thường, nghĩa là nhằm để làm vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn.

– Mỗi người chúng ta hôm nay cần noi gương thánh Tê-rê-xa: năng dâng những lời nguyện tắt kèm theo nhưng việc bác ái hãm mình để cầu cho việc truyền giáo: “Lạy Chúa, con xin làm việc hãm mình này để cầu cho một người lương sớm nhận biết tin yêu Chúa và hy vọng sẽ được hưởng ơn cứu độ của Chúa giống như con”.

b) Cách truyền giảng của Mẹ Tê-rê-xa Can-quýt-ta:

– Thánh TÊ-RÊ-XA CAN-QUÝT-TA đã âm thầm loan báo Tin Mừng bằng những cử chỉ nhân ái với những người bệnh tật cùng khổ và bị bỏ rơi. Mẹ đã đi nhiều nơi trên thế giới để thành lập nhiều cộng đoàn tu viện theo lý tưởng thừa sai bác ái của Mẹ, lập ra nhiều nhà mở để tiếp đón các bệnh nhân gần chết đang bị bỏ rơi, không phân biệt tôn giáo mầu da tiếng nói… Việc bác ái từ thiện của Mẹ đã đánh động lương tâm của nhiều người trên thế giới, để cùng xây dựng Trời Mới Đất Mới. không còn đau khổ bệnh tật thù hận chết chóc…

– Mỗi người chúng ta hôm nay cũng phải thể hiện lòng bác ái yêu thương ngay trong gia đình ruột thịt, khu xóm, xứ đạo và môi trường xã hội chung quanh. Không nhất thiết phải làm những việc lớn lao tốn phí nhiều tiền bạc, mà chỉ cần làm những việc nhỏ bé vừa tầm tay của mình như ân cần thăm hỏi, chia sẻ giúp đỡ vật chất tinh thần, phục vụ những người cụ thể bằng những gì mình đang có, hợp tác với những người thiện chí dù khác biệt về chính kiến, tôn giáo… để xây dựng thế giới mới an lành hạnh phúc.

c) Cách truyền giảng của thánh Phan-xi-cô Xaviê:

– Thánh PHAN-XI-CÔ XA-VI-Ê đi truyền giáo ở vùng Đông Á bên Ấn Độ. Trong suốt 10 năm truyền giáo ngài đã đi cả trăm ngàn cây số. Đã rửa tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi. Cuối cùng ngài đã đến đảo Thượng Xuyên Trung quốc. Tại đây ngài ngã bệnh và qua đời ngày 3.12.1552, được phong thánh và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo. Ngài là vị truyền giáo vĩ đại cho cuộc truyền giáo thời mới: Ngài hòa nhập vào dân mà ngài muốn mang Tin Mừng đến ; sống nghèo với những người lao động. Ngài hoạt động thật năng nổ cho cuộc truyền đạo và kích thích được tinh thần này ở Âu Châu. Hàng nghìn người đã theo gương ngài để mang Tin Mừng đi muôn phương.

– Mỗi người chúng ta hôm nay cần trang bị cho mình vốn liếng Lời Chúa, nhờ Lời Chúa soi dẫn, chúng ta sẽ đi đến các vùng sâu vùng xa của đồng bào dân tộc, đến với các trại nuôi người già, trại cùi, cô nhi viện, v.v… để thi hành sứ vụ loan Tin Mừng của Chúa, noi gương thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê.

d) Cách truyền giảng của Chúa Giê-su và các Tông đồ:

Giới thiệu Chúa cho người khác: An-rê sau khi gặp Thầy Giê-su đã dẫn em là Si-mon đến với Đức Giê-su; Phi-lip-phê đã đưa bạn là Na-tha-na-en đến với Đức Giê-su…

Đi bước trước tiếp cận người lương: Đức Giê-su đã mở lời trước xin người phụ nữ Sa-ma-ri cho uống nước và từ đó đã nói với chị về Nước Hằng Sống. Rồi người phụ nữ này đã về làng đưa dân làng ra gặp Đức Giê-su và mời Người vào giảng Tin Mừng cho cả làng.

– Cần xin ơn Thánh Thần trợ giúp: Noi gương các Tông đồ xưa đã hăng say loan báo Tin Mừng và đem lại nhiều thành quả tốt đẹp nhờ được Thánh Thần biến đổi trong ngày lễ Ngũ Tuần. Còn chúng ta hôm nay cũng cần được ơn Thánh Thần thôi thúc mới hy vọng chu toàn sứ vụ giới thiệu Chúa cho anh em lương dân chung quanh chúng ta.

3) CHU TOÀN SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO HÔM NAY ?

– Cần năng cầu nguyện bằng những lời nguyện tắt để được kết hiệp mật thiết với Chúa.

Góp phần thánh hóa gia đình và xã hội mình đang sống ngày một tốt đẹp hơn: Nhờ biết sống tình bác ái yêu thương cụ thể, chúng ta sẽ làm cho môi trường sống ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn. Cúng cần ý thức đưa đức tin thấm nhập vào phim ảnh, bài hát, kịch nghệ, văn chương, hội họa, điêu khắc… hầu giúp anh em lương dân nhận biết tin yêu Chúa.

– Mỗi ngày quyết tâm đọc kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô để xin Chúa biến đổi chúng ta nên khí cụ bình an của Chúa, thành chứng nhân tình yêu của Chúa trước mặt mọi người.

– Hằng tuần dành ít nhất hai giờ để đi thăm những trại mồ côi, nhà dưỡng lão để chia sẻ tình thương cụ thể cho họ, sẵn sàng dấn thân phục vụ những bệnh nhân liệt giường cô đơn, để làm chứng cho Chúa như lời Chúa dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

Ðức Phao-lô VI đã dạy: “Con người thời đại ngày nay thích nghe các chứng nhân hơn là những thầy dạy, và nếu họ có nghe thầy dạy thì cũng bởi vì những thầy dạy này là các chứng nhân“.

  1. LỜI CẦU:

Lạy Chúa Giê-su, Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất là trái tim, một trái tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình…

Lạy Chúa Giê-su, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong lòng Hội Thánh: Nơi trái tim Hội Thánh con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả. Vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con chắc chắn sẽ được thực hiện.

(Dựa theo lời cầu nguyện của thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su)

Về mục lục

.

VÌ ĐẤNG YÊU TÔI

Lm. Jos. DĐH.

Luật công bằng tự nhiên mách bảo: có làm thì mới có ăn, có gieo vãi thì có quyền tận hưởng thành quả. Tiền nhân chúng ta cụ thể hơn khi nói đến tinh thần trách nhiệm của người quân tử: làm trai cho đáng nên trai, xuống đông, đông tĩnh, lên đoài, đoài yên. Tạ ơn trời đất, biết ơn bậc sinh thành, nhớ ơn các vĩ nhân, thế hệ con cháu đâu phải chỉ là những kẻ thụ hưởng gia sản của tiền nhân, vì mọi người đều được mời gọi ý thức phát huy tinh thần dân tộc: cha anh hùng, con hảo hán. Chính nguồn hạnh phúc hiện tại, hướng tới niềm an vui ở tương lai, người quân tử dù đức dù tài có hạn chế, cũng không thể đứng khoanh tay chờ thời, hay ngồi đó than thân trách phận, mà bằng ý chí quyết tâm một lòng sống niềm tin: con hơn cha, nhà có phúc.

Xã hội thời nào cũng phức tạp: có người tốt, sống chung với kẻ chưa tốt, có người thật thà chân thành, phải đối diện với kẻ lắm mưu nhiều kế ! Cũng vì phúc lộc dư tràn là có thật, nên từ sâu thẳm của tâm tư, phận làm con cháu đều được nhắc nhớ: uống nước nhớ nguồn. Khánh nhật truyền giáo, một ngày, một tuần, hay một đời truyền giáo, người tín hữu Kitô chúng ta đang hít thở, đang chung một thao thức, một niềm tin, một tình hiệp thông trong Đấng đã chết và sống lại vì yêu, vì muốn cứu độ chúng sinh. Khánh nhật truyền giáo là nét đặc trưng của Đại gia đình gồm tất cả các thành viên đang sống trong tình liên đới yêu thương. Vì tình yêu, Đức Kitô sẽ thắp sáng niềm tin nhằm giúp từng đối tượng trong Đại gia đình của Ngài hiểu: non kia ai đắp mà cao, sông kia biển rộng ai đào mà sâu. Đấng mà chúng ta gọi là Thầy là Chúa, Ngài sẽ mở ra cho chúng ta “hồng ân cứu độ”, lấp đầy khoảng trống tâm tư mỗi người bằng một điệp khúc “yêu đến cùng”.

Vì Đấng yêu tôi, vì tôi được yêu nên tôi biết yêu, một tình yêu vừa đầm ấm tình người, vừa thanh thoát linh thánh ở trong “sứ mạng riêng” của mọi thành viên gia đình Kitô. Trên phạm vi đức tin, người tín hữu đều biết bản chất của hội thánh là truyền giáo, truyền giáo không phải chỉ thuộc về một số đại diện: linh mục tu sĩ, truyền giáo là mang bình an, mang tin vui đến cho mọi người. Trên thực hành, nhiều người cho rằng truyền giáo là sống gương sáng đức tin bằng lời nói việc làm cho con cháu, cho anh chị em xung quanh mình, cả những thành phần chưa một lần bước chân đến nhà thờ. Có thực mới vực được đạo, có tình yêu Chúa trong lòng, ngoài môi miệng và cách cư xử của ta mới bày tỏ được lời hay ý đẹp. Đức Giêsu đã nói, đã có lệnh truyền đến các học trò: “Thầy đã được toàn quyền trên trời dưới đất, vậy anh em hãy đi khắp muôn dân thiên hạ rửa tội cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.

Vì yêu, năm xưa Đức kitô trực tiếp mời gọi các tông đồ truyền giáo, đã gián tiếp nhắc nhớ đến sứ mạng loan báo Tin mừng là của mọi người. Vì tình yêu Đức kitô, ngày hôm nay, trẻ hay già, giầu sang nghèo hèn, nhiều tài thiếu đức, đạo gốc đạo theo, giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân, tất cả đều được gọi là thành viên của gia đình Chúa, khi đã lãnh nhận bí tích rửa tội. Vì Đấng đã yêu, đã chết và sống lại, mỗi thành viên Kitô vừa có bổn phận, vừa có trách nhiệm chăm sóc, bảo vệ và phát sinh hoa trái thánh thiện như lòng Chúa mơ ước. Đấng kitô không thẩm vấn các học trò xem có đủ tài trí thông minh, năng lực bằng cấp, Đức Kitô không trao ban vật chất, phương tiện, ngựa, xe, cho các học trò, nhưng Ngài cần các môn đệ một tinh thần tông đồ.

Vì yêu, “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Vì yêu, người môn đệ mới cảm nhận được sức mạnh, quyền năng và ơn bình an của Thầy để dấn thân, phục vụ Tin mừng mà không sợ hãi thế lực trần gian. Cha ông chúng ta có câu: muốn làm phúc ở đâu, cũng phải bắt đầu từ nhà mình đã. Đúng, muốn làm môn đệ Đức kitô, muốn truyền giáo, trước hết tâm hồn mình phải có tình yêu Giêsu, có tinh thần người chiến sĩ theo Thầy… Vì Đấng yêu tôi, vì sự tự do của người môn đệ, khi sức mạnh của tình yêu Giêsu vừa đủ trong tâm trí, người môn đệ theo Đức kitô sẽ tự tin để nói rằng: yêu ai cứ bảo là yêu, phục vụ Đức kitô cứ bảo là phục vụ Đức kitô. Vì tình hiệp thông, các môn đệ đã hết tình hết mình sống lời căn dặn: “anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy”.

Vì Đấng đã yêu tôi, vì truyền giáo là sứ mạng của tất cả những ai theo Đức kitô, vì nơi lạnh nhất không phải là Bắc cực, mà là nơi không có tình người ; Đức kitô không hứa hẹn phần thưởng, nhưng Ngài đã quả quyết: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Mỗi ngày chúng ta có thể quên đi nhiều thứ, nhưng người môn đệ đi con đường Thầy Giêsu đã đi, không được quên Thầy luôn đồng hành và hiện diện bên chúng ta. Vì Đấng yêu tôi, người đời có thể hiểu sai, hoặc ghét những việc làm của các môn đệ Đức Giêsu, nhưng ta hãy tha thứ, hãy bỏ qua, dù ta từng bị thất bại, từng bị người đời cản trở, lên án bất công. Xin Thầy Chí Thánh tiếp tục biến đổi và thánh hoá những môn đệ của Thầy bằng tình yêu, bằng gương sáng đức tin, toả chiếu đến mọi người mọi nơi. Amen.

Về mục lục

.

GIÁO DÂN TRUYỀN GIÁO

Jos. Hoàng Mạnh Hùng

Lúc còn là một cậu thiếu niên, khi nghe đoạn Tin Mừng trong ngày lễ Chúa Nhật truyền giáo có câu “Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.” (Mc 16,15) cộng với tiếng hát hân hoan, ca ngợi:

Ôi đẹp thay những bước chân tiến vào giữa lòng thế giới
Loan tình thương Chúa Trời, loan niềm vui cứu đời
Cho mọi người và mọi nơi.
(Đẹp thay – Mi Trầm – Thánh ca cộng đồng)

Lòng tôi lại rạo rực ước mơ được trở thành một tông đồ đi đến những miền đất xa lạ để rao giảng Tin Mừng cho những người, những dân tộc chưa biết Chúa. Những cảnh tượng đồng lúa mênh mông trĩu nặng những hạt lúa chín vàng không có người gặt hái khiến tôi ngây ngất tưởng tượng như mình là một người thợ gặt chính hiệu dù chưa bao giờ cầm tới một cái liềm, cái hái!

Dần dà tôi cảm nghiệm ra rằng truyền giáo không chỉ như Thánh Phanxicô Xaviê từng bôn ba suốt đời nơi cuối trời góc biển nhưng còn là những lời kinh nguyện âm thầm trong nhà tu kín của Thánh nữ Têsêsa Hài đồng Giêsu. Ngoài ra còn biết bao hình thức truyền giáo khác nhau của hàng giáo sĩ và tu sĩ, là những người được huấn luyện trong trường lớp đặc biệt có bài bản để tiếp nối sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu.

Rồi khi được học hỏi về Sắc lệnh Tông đồ giáo dân, tôi mới vỡ lẽ thêm rằng: giáo dân cũng có bổn phận và quyền làm tông đồ vì qua bí tích Thánh Tẩy, họ cũng được tham gia vào chức vụ Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Giả của Đức Kitô. Đức Kitô là Ðầu của họ và họ trở thành chi thể của nhiệm thể Người. Họ được chính Chúa chỉ định làm việc tông đồ. Việc tông đồ được thực thi nhờ đức tin, đức cậy và đức ái.

Để thực hiện tông đồ giáo dân, có hai phương pháp hoạt động là tông đồ tập thể và tông đồ cá nhân. Các hội đoàn Công Giáo Tiến Hành trong đó có GĐPTTTCG là phương pháp hoạt động tông đồ tập thể được Giáo hội khuyến khích vì nó có tổ chức quy củ sẽ đáp ứng hữu hiệu hơn cho nhu cầu của con người và tín hữu.

Để có thể nói về Chúa cho mọi người, người tông đồ giáo dân cần phải được huấn luyện: huấn luyện chung cho mọi tín hữu và những lớp huấn luyện chuyên biệt cho đoàn thể tông đồ có nhiều đoàn viên và hoàn cảnh khác nhau. Đồng thời tự thân họ cũng phải cố công học hỏi để hiểu sâu Lời Chúa và để biết cảm thông với những người mình gặp gỡ. Biết lắng nghe, đọc, chiêm ngắm, suy niệm và sống Lời Chúa mỗi ngày là điều kiện nòng cốt để có thể chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho tha nhân, bởi ta không thể cho ai điều mình không có.

Trong Tông huấn ”Niềm Vui Phúc Âm”, Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định rằng “với các việc làm và cử chỉ của mình, cộng đoàn rao giảng Tin Mừng cần bước vào cuộc sống thường ngày của người khác …”. Không cần thiết phải đi đến những nơi xa xôi, không cần có khả năng thuyết giáo với những lí lẽ mang tính thuyết phục …mỗi giáo dân trong cuộc sống thường ngày có thể làm việc tông đồ như men ủ trong bột ở ngay trong môi trường sống “theo mức độ Đức Ki-tô ban cho” (Ep 4,7). Người tông đồ giáo dân ý thức mình sẽ đóng nhiều vai trò vừa trong Giáo hội vừa nơi xã hội, nơi làm việc, gia đình của mình… Nơi nào họ cũng mong mình trở thành ánh sáng, là men, là muối cho trần gian. (x Mt 5,13-14)

Khi thực hiện đọc kinh Đền tạ luân phiên tại các gia đình, các đoàn viên GĐPTTTCG đã đem Lời Chúa, câu kinh đến từng gia đình, khu xóm nơi gia đình mình sinh sống. Lời Chúa, câu kinh ta đọc đó cần phải được tỏa sáng bằng những việc làm thường ngày trong sinh hoạt cộng đồng.

Để trở nên men Tin Mừng cho mọi người, người tông đồ giáo dân phải là người có cuộc sống mẫu mực, luôn vui vẻ chu toàn bổn phận, nói đi đôi với làm, dám quên mình vì ích chung, quảng đại góp phần vào những việc bác ái – xã hội chung trong khu xóm, trong giáo xứ. Vì người khác chỉ có thể bị thu hút bởi những người sống có uy tín đối với mọi người và biết cách làm cho điều tốt đi vào lòng người.

Xã hội nói chung và từng khu xóm hiện nay đều có những hoàn cảnh sống trái ngược nhau: kẻ lắm tiền nhiều của, người nghèo khó neo đơn …. Muốn loan truyền Tin Mừng yêu thương cho tha nhân, mỗi người tông đồ giáo dân phải thực hiện việc bác ái ngay trong nơi làm việc, khu xóm và gia đình mình.

Quan tâm đến mọi người sống chung quanh, không phân biệt giai cấp, tín ngưỡng trong tinh thần bác ái – xã hội. Người tông đồ giáo dân cần bắt chước Đức Kitô khiêm hạ, chuyên lo làm đẹp lòng Thiên Chúa và yêu thương con người. Khi thực thi bác ái cần phải nhận ra hình ảnh Thiên Chúa nơi tha nhân và bất cứ sự gì trao tặng cho người nghèo là đã thực sự được dâng cho chính Đức Kitô

Lạy Chúa, xin cho ngày Chúa Nhật Truyền Giáo đánh thức nơi mỗi kitô hữu chúng con sự đam mê và nhiệt huyết cần thiết để đem Tin Mừng cho toàn thế giới. Xin cho chúng con luôn ý thức về trách nhiệm truyền giáo của một Kitô hữu và hun đúc trong chúng con ơn gọi làm tông đồ. Cho lòng chúng con luôn rộng mở khi đóng góp vào công việc mở mang nước Chúa. Xin cho chúng con lắng nghe và thực thi Lời Chúa mỗi ngày để gia đình chúng con trở thành một “cộng đoàn cầu nguyện, sống tình yêu hợp nhất thủy chung, phục vụ sự sống và hăng say loan báo Tin mừng”.

Xin Chúa giúp chúng con trở nên những tia sáng, hạt muối, hạt men tốt: nhập thể nhiều hơn vào những lãnh vực trần thế để biến cải môi trường mình sống trở nên tốt đẹp hơn. Cho chúng con biết quan tâm sống tinh thần Tin Mừng là tinh thần yêu thương trong gia đình, trước khi loan báo cho người khác cùng sống theo. Xin thánh hóa để chúng con trở nên những chứng nhân Tin Mừng, biết quan tâm tới đau khổ và hạnh phúc của những người khác trong giáo xứ, khu xóm của chúng con. Amen.

Về mục lục

.