Các bài suy niệm Chúa Nhật 5 Mùa Chay_ A

1668

CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY_A

Lời Chúa: Ed 37, 12-14; Rm 8, 8-11; Ga 11, 1-45

———

Mục lục

 

Sự Vĩ Đại Của Tình Yêu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

Hãy ra khỏi mồ.  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

Mùa dịch, sống lại tình bằng hữu (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

Trận đại dịch cho ta hiểu cuộc đời  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

Được sống lại  (Jorathe Nắng Tím)

Hãy ra khỏi mồ!  (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)

Hãy vững tin!  (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)

Chỉ có Chúa mới làm cho sống  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)

Hai cuộc đời  (Trầm Thiên Thu)

Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật V Mùa Chay_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

Thầy là sự sống lại và là sự sống  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

 

Mục lục

1. Hãy ra khỏi mồ  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Mở cửa mộ  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Chúa Kitô là sự sống lại và là sự sống (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

4. Gia đình thân thiện của Chúa  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

5. Những kẻ Chúa yêu  (Lm. Tôma Nguyễn Hoàng Phượng)

6. Quyền Năng và Yêu Thương (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

7. Sự sống  (Lm. Trần Việt Hùng)

8. Chúa khóc  (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)

9. Miền sinh, cõi tử  (Trầm Thiên Thu)

10. Suy niệm Chúa Nhật V mùa Chay – Năm A  (Lm. Anthony Trung Thành )

11. Tin Chúa Giêsu là Chúa của sự sống  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

12. Phải tin như thế nào? (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

13. Dấu chỉ phục sinh  (P. Trần Đình Phan Tiến)

14. Niềm tin sự sống lại  (Anna Cỏ May,  MTG.Thủ Đức)

15. Để đón nhận sự sống đời đời (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

16. Sống thật  (AM. Trần Bình An)

17. Tầm quan trọng của giây phút lâm tử  (JM. Lam Thy, ĐVD)

18. Niềm tin tín thác  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

19. Mơ ước chuẩn  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

20. Cùng chết với Ngài  (Lm. Vũ Đình Tường)

21. ‘Nếu Thầy có ở đây’!   (Lm. Uyen Nguyen)

22. “Ta là sự sống…”   (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

23. Biết quí trọng sự sống (Lm. Giuse Nguyễn)

24. Làm người đánh thức  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

25. Trở thành ngôn sứ của sự sống và tình thương  (Lm. Đan Vinh)

26. Chúa Nhật 5 Mùa Chay_A  (Lm. Antôn)

SỰ VĨ ĐẠI CỦA TÌNH YÊU
Tuần 5 mùa chay-A: Ga 1, 1-45

Lm. Jos DĐH, GP. Xuân Lộc

Chết vinh hơn sống nhục. Có bệnh vái tứ phương. Tự trong sâu thẳm cõi lòng, người xưa đã nói tới một quan niệm: tốt danh hơn lành áo, khao khát sống, nhưng là phải được sống an vui hạnh phúc. Sinh bệnh lão tử, đó là quy luật, song kinh tế gia đình ổn định, con cháu ngoan hiền, hẳn ta sẽ có ước muốn được trường thọ bên gia đình dài lâu. Xa người thân, vĩnh viễn ra đi không trở lại, bao giờ cũng là mất mát lớn, miễn cưỡng ta phải chấp nhận thôi ! Giầu sang phú quý khiến ta tự tin, khoẻ mạnh, ta sẽ có cảm giác trẻ trung, tình yêu dồi dào, sẽ cho ta cuộc sống đẹp và ý nghĩa hơn. Câu chuyện ba chị em Matta, ở Bêtania là một minh chứng đẹp về giá trị thật của tình yêu. Chúng ta không xoá tan được những khổ đau mất mát của ai, chẳng cứu giúp gì cho họ, có chăng là ta cảm thông và tỏ lòng yêu thương người gặp hoạn nạn, ít là thế.

Hai chị em Matta cho người báo tin: “thưa Thầy, người Thầy yêu mến đang đau nặng”. Trong đau khổ, chỉ cần một chút bình tĩnh, người ta sẽ biết phải làm gì, kêu cầu ai cứu giúp. Đồng ý rằng: việc người thì sáng, việc mình thì quáng, dù ta không đa năng, thì ít ra, vẫn còn một sự thật: cần cù bù cù lần. Không phải ai cũng làm được việc vĩ đại, nhưng mọi người đều làm được những việc nhỏ bé với tình yêu vĩ đại. Matta và Maria, phản ánh sự thật về tình yêu, về niềm tin vào sự hiện diện của Đức Giêsu: “lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết”. Đức Giêsu đứng trước nỗi khổ đau mất mát, Ngài rất tự tin vào tình yêu nơi Chúa Cha: “lạy Cha, con cảm tạ Cha đã nhậm lời con”. Sau lời cầu xin đầy tin tưởng, “Đức Giêsu lớn tiếng gọi: Lagiarô, hãy ra đây”. Phép lạ vĩ đại đã xảy ra, minh chứng tình yêu vượt lên trên sự chết.

Người hiểu biết thì hay nói, người thông minh thích lắng nghe, người công chính không tranh luận, mà luôn thao thức tìm sống thánh ý Chúa. Sau khi đã làm những việc cần làm, “Đức Giêsu nói: nào chúng ta cùng trở lại Giuđêa”! “Các môn đệ lên tiếng: thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm cách ném đá Thầy, vậy mà Thầy còn muốn trở lại nơi đó ư”? Vâng, sự vĩ đại của tình yêu không phải là hào phóng đến độ, gặp ai cũng ban phát, nhồi nhét ân huệ cho họ. Giá trị thật của tình yêu đâu phải là một thoả thuận về giá cả điều kiện, mà là đánh cược cuộc đời mình với trái tim và khối óc. Sự vĩ đại của tình yêu đã tiềm ẩn nơi gia đình Matta: Lagiarô đã chết, họ vẫn mong Đức Giêsu hiện diện. Xác chết 4 ngày, Đức Giêsu vẫn thuyết phục mọi người bình tĩnh theo Ngài: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống”.

Sự vĩ đại của tình yêu không hẳn là được nhiều người thương mến, theo chị em Matta, hãy làm gì để có tình yêu của Đức Giêsu là đủ, cuộc sống của bạn sẽ trả lời thế nào là sự vĩ đại trong tương quan Giêsu. Cả hai chị em Matta đều tin quyền năng, tình yêu, của Đức Giêsu, họ đã cùng thưa: “nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết”. Xã hội hôm nay rất có lý khi nói: phụ nữ không có sức hút, luôn cho rằng đàn ông con trai hết sức lăng nhăng; người đàn ông không có thực lực lại cho rằng, phụ nữ bây giờ sao thực tế quá ! Không thể có việc làm xấu, hành động tồi, mà cộng đồng gọi là vĩ đại. Chẳng làm sao có chuyện phục sinh kẻ chết, dù y học phát triển đáng nể. Nhưng đã xảy ra phép lạ vĩ đại, anh Lagiarô sống lại từ cõi chết, khi niềm tin yêu rất thật vang lên: “thưa Thầy, vâng, con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đã đến thế gian”.

Các bậc hiền nhân hôm nay nói rằng: yêu là đặt hạnh phúc của ta trong hạnh phúc của người khác. Tình yêu chỉ là danh từ, cho đến khi có một ai đó tác động để danh từ ấy trở nên thật ý nghĩa, vĩ đại. Nhiều người thắc mắc: lúc bấy giờ có nhiều kẻ đau khổ, nhiều gia đình đáng thương hơn cả chị em Matta, không phải là không có các luật sĩ đạo đức, ấy vậy phép lạ Đức Giêsu thực hiện thì giới hạn ? Phải chăng chỉ có tình yêu và niềm tin của chị em Matta mới đủ lực, đủ to lớn vĩ đại, để Đức Giêsu thổn thức và thực thi phép lạ ? Đúng, thời nào, đau khổ nào, mất mát nào, cũng có tình yêu thương ở trong đó, dù quan sát của ta có phần chủ quan. Niềm tin và tình yêu giống như chị em Matta hẳn không phải là số ít, hy vọng rằng Đức Giêsu phục sinh Lagiarô, ít nhiều cũng cho ta hiểu sứ mạng của Đấng Kitô là phục sinh các tâm hồn chứ không phải thể xác.

Thân xác Lagiarô sống lại rồi cũng sẽ chết theo quy luật, linh hồn Lagiarô và mỗi chúng ta hôm nay có sống lại hay không, thật sự quan trọng, đó sẽ là phép lạ vĩ đại mà Đức Kitô còn thực hiện. Những tâm hồn vĩ đại không phải sinh ra là họ đã dồi dào tình yêu thương, lòng quảng đại, danh tiếng lẫy lừng tứ phương. Những thành tựu vĩ đại không gặt hái từ sức mạnh của đồng tiền, mà từ ý chí quyết tâm với trái tim biết yêu thương. Đức Giêsu được gọi là Đấng Kitô, khi Ngài đã vượt qua đau khổ thập giá, và minh chứng được: Thiên Chúa là tình yêu. (1Ga 4, 8). Tình yêu mạnh hơn sự chết (Ga 15, 13). Niềm vui và hạnh phúc của chị em Matta và của chúng ta, chỉ gọi là vĩ đại, khi có tình yêu Giêsu, khi đã và đang sống niềm tin “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống đã đến thế gian”. Amen.

Về mục lục

HÃY RA KHỎI MỒ.

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

 “Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống”. Đó là một đề tài quan trọng trong Tin Mừng Thánh Gioan. Ý tưởng này được nhấn mạnh nhiều lần trong Tin Mừng thứ tư và trong các Thư được truyền thống Giáo Hội công nhận tác giả là Gioan. Khi nhấn mạnh đến đề tài này, tác giả Tin Mừng muốn trình bày Đức Giêsu chính là Thiên Chúa và là nguồn mạch sự sống. Bởi trong giáo huấn của Cựu ước, thì chỉ có Thiên Chúa mới làm chủ sự sống và sự chết. Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền mở huyệt và đưa những người trong âm phủ đi ra.

Hỡi dân Ta, này chính Ta sẽ mở huyệt cho các ngươi!”. Ngôn sứ Edêkien đã khơi lên nguồn hy vọng cho người Do Thái. Lời hứa “mở huyệt” này, vừa ám chỉ tới việc Chúa giải phóng Dân người khỏi ách nô lệ lúc bấy giờ để đưa về quê cha đất tổ, vừa hướng họ tới sự sống trường sinh vĩnh cửu, tức là sự sống Thiên Chúa sẽ ban cho con người sau khi chết. Theo giáo huấn của ngôn sứ Êdêkien, ngôi huyệt sẽ không còn là chỗ dừng chân mãi mãi, nhưng chỉ là tạm thời. Thiên Chúa quyền năng sẽ mở huyệt để thân xác con người không còn chết nữa, nhưng được sống với Chúa mãi mãi.

Chúa Giêsu nhiều lần khẳng định: chính Người là sự sống. “Ta là Đường, là Sự thật, và là Sự sống” (Ga 14,6). Trong các phép lạ Chúa làm, có những phép lạ cho kẻ chết sống lại, như trường hợp người thanh niên là con bà góa ở thành Naim, hay bé gái 12 tuổi đã chết mà Chúa cho sống lại. Phép lạ cho ông Lagiarô sống lại là một phép lạ điển hình, nhằm chứng minh những gì Chúa khẳng định về sự sống. Trong cuộc đối thoại với bà Mátta, chị của người chết, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Chính Thày là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thày, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin vào Thày, sẽ không bao giờ phải chết” (11, 25-26). Cũng như lời Chúa tuyên bố qua ngôn sứ Êdêkien, lời Chúa Giêsu vừa nhắc tới sự sống trần gian, vừa hướng tới sự sống vĩnh cửu. Người là Thiên Chúa, Đấng có quyền làm cho kẻ đã chết được sống lại. Người cũng là Đấng ban cho con người sự sống đời đời. Lời hứa với người trộm lành trên cây thập giá đã chứng minh điều đó: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với tôi” (Lc  23,43). Đức Giêsu đã dùng quyền năng Thiên Chúa kêu gọi ông Lagiarô ra khỏi mồ. Sự kiện này đã giúp cho người Do Thái tin vào Chúa. Thánh Gioan diễn tả một Đức Giêsu thực sự là “người”. Người chạm đến nỗi đau của con người, rơi lệ trước đau khổ của người khác và đưa họ từ cái chết đến sự sống. Chúa Giêsu không giống như một nhà phù thủy, nhưng là Thiên Chúa làm người có trái tim nhân loại, sẻ chia và mang lấy nỗi đau của con người, nhường cho con người hạnh phúc và vinh quang.

Tôi chính là Mục tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Những lời tuyên bố này cho thấy Chúa Giêsu hiến mình cho sự sống của con người. Hôm nay cũng như mọi thế hệ, Chúa vẫn tiếp tục hiến mình vì sự sống của chúng ta. Chuẩn bị cử hành mầu nhiệm thập giá và Phục sinh, đề tài “Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống” giúp chúng ta nhìn xuyên qua cái chết để thấy sự sống tuôn chảy từ thập giá. Nhờ cái chết của Chúa Giêsu mà nhân loại được sống. Người đã chết thay cho chúng ta. Người đã mang lấy án tử cho chúng ta được sống. Trên cây thập giá, Thiên Chúa đã làm cho Đức Giêsu thành tội nhân vì chúng ta.

Hãy ra khỏi mồ!”. Lệnh truyền này đã đưa ông Lagiarô từ cõi chết trở về cõi sống, đồng thời đem niềm vui cho thân bằng quyến thuộc. Mùa Chay là lời mời gọi đoạn tuyệt với tội lỗi để sống cuộc sống mới. Những thực hành Mùa Chay giúp ta ra khỏi nấm mồ tối của sự ích kỷ, chia rẽ và hận thù. Để bước ra khỏi huyệt mộ của tội lỗi, đòi hỏi mỗi chúng ta phải hy sinh cố gắng nhiều khi đến mức anh hùng. Vì thay đổi đời sống, hướng cuộc đời sang một ngã rẽ khác cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với quá khứ, dứt bỏ mọi ràng buộc để được sống trong tự do của con cái Chúa, hướng về tương lai tươi sáng trong bình an. Nhờ cuộc sống mới, họ giống như người đang đi trong ánh sáng mặt trời, không sợ vấp ngã. Bà Mátta, chị của Lagiarô, mặc dù tuyên xưng đức tin một cách quả quyết, cũng không hy vọng em mình có thể sống lại. Bà nói với Chúa: “Thưa Thày, nặng mùi rồi, vì em con đã ở trong mồ được bốn ngày” (Ga 11, 39). Chính trong lúc không một tia hy vọng theo lý luận thông thường của con người, thì quyền năng Thiên Chúa đã được tỏ bày. Chúa Giêsu đem hy vọng cho con người vào lúc họ cảm thấy bi đát nhất ở ngõ cụt của cuộc đời. Một thân xác bắt đầu thối rữa, nhờ quyền năng của Chúa, vẫn có thể được hồi sinh. Một con người dù tội lỗi tràn trề, nếu biết dừng lại sám hối, vẫn có thể được ơn tha thứ.

Những ai đã can đảm và dứt khoát bước ra khỏi huyệt mộ thì sẽ sống một cuộc sống mới. Cuộc sống ấy không còn bị xác thịt chi phối nữa, tức là không còn bị những đam mê xác thịt ràng buộc và cản trở. Họ được tự do thanh thoát mặc dù vẫn sống trong thân xác còn mang nhiều yếu đuối. Chính Chúa Thánh Thần thúc đẩy và đổi mới chúng ta, nhờ đó chúng ta có sức mạnh để vươn lên trong sự sống mới này (Bài đọc II).

Giữa đại dịch COVID-19, chúng ta không khỏi hoang mang lo sợ. Cả thế giới cầu nguyện nhưng dường như Thiên Chúa không để ý quan tâm. Lời Chúa hôm nay khích lệ chúng ta: hãy hy vọng và tín thác. Thiên Chúa có chương trình và phương pháp riêng của Ngài. Đến như thân xác ông Lagiarô đã bốc mùi và phân hủy Chúa còn làm cho sống lại. Lời cầu nguyện của chúng ta chắc chắn được Chúa nhận lời, vào lúc Chúa muốn, theo như cách Chúa muốn và nhằm tới ích lợi thực sự của chúng ta. Bởi lẽ, Thiên Chúa là Cha nhân hậu, luôn muốn điều tốt cho con cái của mình.

Về mục lục

MÙA DỊCH, SỐNG LẠI TÌNH BẰNG HỮU

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Mùa đại dịch Corona nhiều nơi trên thế giới, nhà hữu trách kêu gọi toàn dân không nên ra ngoài khi không cần thiết. Đây là thời gian dài khá đặc biệt, cha mẹ, con cái tụ họp để sống lại tình bằng hữu trong gia đình. Chúa là người bạn thân thiết của gia đình Matta và Maria đến thăm Lazarô, em hai cô vừa mất. Có những điều suy tư: Gia đình cùng vượt qua thử thách, yêu thương tha thứ và là nơi cầu nguyện.

Cùng nhau vượt qua thử thách.

Gia đình Matta và Maria có người em vừa mất. Gia đình nào cũng có những thử thách nhất định, trong gia đình ngoài xã hội. Những thử thách về tình yêu đã chết, anh chị em không còn đón nhận nhau, vợ chồng xung khắc… Ngoài xã hội đang cơn đại dịch hoành hành… Gia đình có dịp ở lại với nhau, dành cho nhau nhiều thời gian hơn, không còn là lúc tranh cãi ai đúng, ai sai, giữa cái lúc sự chết đang ở ngoài cửa. Trong nhà người này người kia bắt đầu có thời gian suy nghĩ lại những gì đã sống làm buồn lòng nhau. Lúc này, họ quan tâm nhau nhiều hơn, cùng nhau tập luyện thể lực, cùng nhau vào bếp và dọn dẹp. Những tương quan được tiến triển hơn nhờ có nhiều thời gian nói với nhau, chia sẻ cùng nhau.

Gia đình nơi yêu thương, tha thứ.

Không có thời gian nào đặc biệt hơn lúc này, ngày nào cũng nghe tin báo nhiều người chết vì dịch bệnh, không kịp chôn cất hay hỏa táng. Những tin báo thêm nhiều người bị virus xâm nhập, không còn chỗ trong bệnh viện, không còn đủ y bác sỹ để điều trị. Sự sống mong manh buộc mỗi người trở về với gia đình của mình để nối lại những tương quan đã đứt gẫy hoặc đang bị rạn nứt hoặc chưa sống đủ yêu thương..

Thời gian hâm nóng lại tình yêu như đã cam kết. Không chỉ giữa hai bên nam và nữ, mà thời gian này là bốn bên. Cha, mẹ, con cái và Thiên Chúa. Chúa luôn luôn là Đấng trung gian của giao ước vợ chồng, con cái. Như ngày đầu Chúa đã chúc phúc cho tình yêu đôi lứa, Chúa vẫn luôn đồng hành với gia đình và cả lúc con cái ra đời, Chúa vẫn ở cùng. Thời gian bận rộn công việc, lo kiếm sống, trau dồi tri thức bên ngoài Chúa, Chúa vẫn âm thầm ở đó giữa gia đình, giữa nơi học đường.  Có thời gian cùng nhau dừng lại giữa mùa dịch, cùng nhau ý thức lại sự hiện diện của Chúa qua kinh nguyện trong gia đình, trong Hội Thánh. Sống lại tình bằng hữu với Chúa và tình bằng hữu giữa cha mẹ và con cái. Qua cơn đại dịch này, tình yêu gia đình tiếp tục sinh hoa kết trái tốt đẹp hơn xưa.

Trở lại với bản văn Tin Mừng.

Chúa đến với gia đình Matta và Maria vào thời gian đau buồn vì người em mới mất. Sự kiện này loan báo một tin vui: Chúa là sự sống và là sự sống lại. Tin vui không xuất phát từ bên ngoài xã hội mà bắt đầu từ gia đình. Chúng ta đều ý thức gia đình là nơi trường học đầu tiên, cơ bản và không thể thay thế để dạy yêu thương. Nơi đó tình yêu khơi nguồn từ Thiên Chúa, một tình bạn mật thiết với gia đình. Chúa ở với gia đình khi vui cũng như lúc buồn. Có cả những lúc Chúa dùng bữa với gia đình, chia sẻ bữa ăn yêu thương. Một bàn tiệc vừa Lời Chúa vừa thực phẩm bổ dưỡng như tại gia đình Maria và Matta.

Tình bạn với Chúa êm ái, tế nhị biết bao. Khi gia đình báo tin, Chúa đã nghe biết có chuyện buồn đau, Chúa đã thu xếp để đến viếng thăm, các môn đệ khuyên đừng nên đến đó vì có người dọa ném đá giết Người. Chúa vẫn đến vì tình bạn, tình thân hữu. Sau này Chúa cũng cho các môn đệ biết: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình.” (Ga 15, 13). Tình yêu không có sợ hãi, tình yêu làm cho sống và như Gabriel Marcel viết: “yêu ai là muốn nói với người đó, em (anh) sẽ không chết” Tình yêu là ước ao người mình yêu được sống, được hiện diện bên nhau, hằng ngày được gặp nhau. Chúa có một tình bạn mật thiết như thế, sao gia đình mình lại không có Chúa?

Trong cơn đại dịch này, xin Chúa cho gia đình chúng con sống lại với Chúa, để gia đình chúng con sống mạnh mẽ hơn, dồi dào hơn trong tình yêu của Chúa và trong tương quan giữa các thành viên và làm cho nhân loại thêm yêu thương.

Về mục lục

TRẬN ĐẠI DỊCH CHO TA HIỂU CUỘC ĐỜI

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Có người nói một TRẬN đại dịch sẽ giúp chúng ta hiểu ra rằng: Nhân sinh vô thường, đời người vốn không có thứ gọi là “ngày tháng dài lâu”. Cuộc sống thật mong manh và ngắn ngủi, thật khó để biết được rằng: ngày mai và đại nạn, thứ nào sẽ đến trước?

Khi trải qua một lần sinh tử mới hiểu được mạng sống đáng quý biết nhường nào. Ở thế gian này, chỉ có cái chết mới làm ta đáng sợ. Tiền tài dù có giá trị đến đâu, cũng không giá trị bằng mạng sống. Danh lợi dù có quan trọng đến đâu, cũng không quan trọng bằng sức khỏe.

Sức khỏe mới thực sự là vốn liếng lớn nhất của đời người. Nếu không có sức khoẻ, thì dù có cả núi vàng biển bạc nhưng sẽ vô giá trị với người “thập tử nhất sinh”.

Trong đại dịch Virus Vũ Hán ta thấy 2 tiểu thư con nhà tiền bạc dự thừa. Một cô miền Bắc với thái độ “có tiền bố mày chẳng sợ ai!” nên vô tư đi dung dăng, thế nhưng, dân mạng cũng phải lo cho mạng sống mình nên nổi sóng ném đá khiến cô bẽ bãng ngộ ra rằng: mạng sống con người mới gía trị, cho dù chỉ là mạng sống một người nghèo nhưng vẫn bất khả xâm phạm. Một cô thứ hai là người giầu Miền Nam, khi biết mình mang bệnh cô đã xin gia đình thuê chuyên cơ riêng để về nước cho an toàn và không ảnh hưởng đến ai! Gia đình đã sẵn lòng bỏ ra gần 10 tỉ đồng để đón cô về. Điều này cho ta thấy, đến 1 lúc, tiền bạc gần như vô nghĩa trước bệnh dịch. Nhiều người cãi nhau, phê phán chuyện đắt, rẻ, sang giàu. Nhưng cũng giống như ung thư, thì người nghèo cũng phải bán nhà, bán trâu hay cầm cố ruộng vườn chỉ để mong giữ được mạng sống của mình.

Vậy giả dụ như hôm nay chúng ta được như Lagiaro đã chết và Chúa cho sống lại, chúng ta sẽ sống cuộc đời như thế nào khi đã cảm nghiệm được cuộc sinh tử? Chúng ta sẽ sống cuộc sống mới như thế nào? Liệu có còn muốn bon chen, tích góp, giành giật hay sống dành thời gian cho có ý nghĩa với gia đình, với cuộc đời? Nếu ai đã từng trải qua cơn thập tử nhất sinh có lẽ sẽ cảm nghiệm điều này: tiền tài, danh vọng chẳng là gì một khi đã nhắm mắt xuôi tay. Một khi mình không có nắm giữ được chúng nữa thì những gì mình tích góp cũng uổng công.

La-gia-rô dầu được Chúa trả lại sự sống một lần nhưng rồi với quy luật thời gian, ông cũng chết như bao người khác. Điều quan trọng là Lagiaro đã biết được cần phải mang theo những gì cho hành trang đời sau. Chắc chắn không phải là tiền bạc, danh vọng, hay kiến thức mà là những điều thiện, việc phúc đức chúng ta đã gieo xuống nhân gian.

Chính cuộc đời Chúa Giê-su đã nêu gương cho chúng ta khi chính Ngài luôn sống đẹp lòng Chúa Cha và hy sinh phục vụ nhân sinh. Ngài đã đi đến tận cùng của tình yêu là dám chết cho người mình yêu. Ước gì chúng ta biết noi gương Chúa Giê-su sống trọn vẹn thời gian trong sự kết hợp với Chúa Cha và phục vụ tha nhân với hết khả năng của mình. Có như vậy chúng ta mới sống tròn ý nghĩa cuộc đời là tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Amen

Về mục lục

ĐƯỢC SỐNG LẠI

Jorathe Nắng Tím

Được sống đã là một hạnh phúc, nay được sống lại thì niềm vui phải ngàn lần lớn hơn, nên khó có lời để diễn tả nước mắt hạnh phúc, thay cho giòng lệ xót xa, tiếc thương của hai chị em Mácta và Maria khi em trai Ladarô chết đã bốn ngày vừa được Đức Giêsu gọi ra khỏi mồ, trong khi “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” (Ga 11,44).

Tin Mừng cho chúng ta biết : gia đình ba chị em Mátta, Maria và Ladarô là chỗ thân tình của Đức Giêsu, nơi Ngài và các môn đệ thường ghé nghỉ ngơi trên đường truyền giáo, như thánh sử Gioan ghi rõ : “Đức Giêsu qúy mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô” (Ga 11,5), nên khi Ladarô lâm bệnh, hai cô chị đã cho người đến báo với Đức Giêsu : “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng” (Ga 11,3).

Cứ sự thường, khi nghe người thân đau nặng, người ta tức tốc, vội vàng về ngay, vì biết có thể không kịp gặp, bởi cơn bệnh có thể lấy đi bất cứ lúc nào sự sống của người thân. Nhưng hôm ấy, Đức Giêsu có một thái độ bình tĩnh đến khác thường, khi Ngài không về Bêtania ngay để gặp ba chị em trong cơn khốn quẫn, mà sự có mặt của Ngài vô cùng cần thiết đối với họ. Trái lại, “sau khi được tin anh Ladarô lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở” (Ga 11,6). Hơn thế nữa, Ngài còn tỏ ra vui, khi nói với các môn đệ : “Ladarô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin” (Ga 11,14).

Thái độ và việc làm của Đức Giêsu cho chúng ta thấy : điều quan trọng hơn đối với Ngài lúc này không phải Ladarô được khỏi bệnh, cho bằng anh được sống lại từ cõi chết để mọi người tin Ngài là Đấng làm cho con người được ra khỏi cái chết để đi vào sự sống với Ngài : “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26).

Qủa thật, khi mặc khải Chân Lý sự sống lại và sự sống này, Đức Giêsu đã giải toả nỗi lo nhức nhối của con người, khi biết mình phải chết, nhưng hoàn toàn vô vọng vì không biết sự gì tiếp nối sau cái chết, chết rồi đi đâu, có một sự sống khác sau khi chết hay chết là hết, chết là trở về tuyệt đối hư vô ?

Khi cho Ladarô ra khỏi mồ trở lại sự sống, Đức Giêsu đã thực hiện lời tuyên sấm của ngôn sứ Êdêkien : “Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời Đức Chúa. Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này với các xương ấy : Đây Ta sắp cho Thần Khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống. Ta sẽ đặt gân trên các ngươi, sẽ khiến thịt mọc trên các ngươi, sẽ trải da bọc lấy các ngươi. Ta sẽ đặt Thần Khí vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được sống. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa” (Ed 37,4-6). “Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta” (Ed 37,13).

Gọi ra khỏi mồ Ladarô, người đã chết ; mở huyệt cho dân ra khỏi gông cùm của chết chóc, Thiên Chúa đã qủa quyết : Ngài là Đấng nắm giữ sự sống của con người, và duy một mình Ngài mới cho con người được sống lại và được sống đời đời, mầu nhiệm sự sống mà Đức Giêsu đã mặc khải qua phép lạ cho Ladarô sống lại ở Bêtania.

Qua phép lạ này, chúng ta ghi nhận :

  1. Con đường chúng ta phải đi để được Thiên Chúa ban sự sống viên mãn và đời đời:
  2. Lắng Nghe Đức Giêsu :

Như hai chị em Mácta và Maria say mê lắng nghe Đức Giêsu, khi các cô quấn quýt bên Ngài, lúc thì nũng nịu bắt đền : “Nếu có Thầy ở đây, thì em con đã không chết” (Ga 11,21), vì các cô biết : khi nghe tin Ladarô, em trai các cô đau nặng, Đức Giêsu đã không thu xếp về ngay, mà vẫn “lưu lại hai ngày tại nơi đang ở” (Ga 11,6) ; lúc thì  một chút giận dỗi, phụng phịu : “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết” (Ga 11,24). Nhưng luôn luôn các cô chăm chú Lắng Nghe Lời Ngài.

  1. Đón nhận Đức Giêsu:

Gia đình Bêtania rất yêu mến và từ lâu đã luôn đón tiếp Đức Giêsu với tất cả lòng trân trọng, và chân tình qúy mến. Bất cứ lúc nào cả ba chị em đều dành cho Đức Giêsu tình cảm nồng nàn và sự đón tiếp ân cần, nồng hậu, cũng như sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ Ngài và các môn đệ trên đường truyền giáo.

Đức Giêsu cũng đáp lại tấm lòng của ba chị em bằng tình cảm đặc biệt của Ngài, như hôm nay, cả đám đông đều thấy Ngài khóc (Ga 11,35), vì “thổn thức trong lòng và xao xuyến” xót thương Ladarô và cảm thương hai chị em Mácta, Maria (x. Ga 11,33), và nhiều người có mặt đã ngạc nhiên nói với nhau : “Kìa xem ! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy !” (Ga 11,36).

Thực vậy, thánh sử Gioan đã ghi lại nét dễ thuơng của hai chị em Mácta và Maria, khi ân cần, vồn vã đón tiếp Đức Giêsu trong trình thuật phép lạ cho Ladarô sống lại :

  • “Vừa được tin Đức Giêsu tới, cô Mácta liền ra đón Người” (Ga 11,20).
  • Khi được chi Mácta gọi và nói nhỏ : “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy !… cô Maria vội đứng lên và đến với Đức Giêsu.” (Ga 11,28-29).

Tâm tình niềm nở, trông ngóng, mong mỏi được đón tiếp Đức Giêsu của hai cô được biểu hiện qua thái độ nhanh nhẩu, vội vàng, ngay lập tức diễn tả qua cụm từ “liền ra đón”, “vội đứng lên và đến với”. Tất cả đã nói lên các cô rất hân hoan, vui mừng được đón tiếp Đức Giêsu vào nhà mình, đến với mình, ở lại với mình trong bất cứ cảnh huống, tâm trạng nào.

  1. Tin Đức Giêsu:

Con đường thiêng liêng nào cũng phải dẫn đến niềm tin vào Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, cũng như các phép lạ Đức Giêsu làm cũng chỉ có mục đích “cho mọi người tin vào Ngài”, như Đức Giêsu đã nói với các môn đệ trước khi lên đường đến Bêtania : “Ladarô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin” (Ga 11,14), hoặc với Mácta : “Chị có tin thế không ?” (Ga 11,26), “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao ?” (Ga 11,40)

Thực vậy, con đường đến với “Đức Giêsu là Sự Sống Lại và là Sự Sống” chỉ có thể thực hiện khi đạt đến Niềm Tin : Đức Giêsu là Thiên Chúa Cứu Độ, Đấng đã đến trong  đời để cứu độ loài người và ban lại cho con người sự sống đời đời.

Tin là điều kiện không thể thiếu để “được sống lại và được sống” như Đức Giêsu khẳng định : “Ai tin vào Thầy thì dù có chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26).

Như thế, chúng ta không còn nghi ngờ, nghi nan về điều kiện để được sống lại và được sống đời đời, vì chính Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người đã công khai mặc khải. Vấn đề là chúng ta có cố gắng đi con đường về sự sống như ba chị em gia đình Bêtania không : Con đường “lắng nghe Chúa, đón tiếp Chúa, và tin vào Chúa”, bởi để tin vào Ngài, chúng ta phải bắt đầu bằng Lắng Nghe Ngài nói và đón tiếp Ngài vào cuộc đời chúng ta.

Và để tiến bước trên con đường Chúa muốn, chúng ta cần tháo cởi khỏi mình những giây nhợ của “cái tôi” ích kỷ, ganh ghét, kiêu căng, những “vải buộc” của thành kiến, kỳ thị, nhất là tấm vải che lương tâm, và bịt kín ánh sáng của Thần Khí, như lệnh truyền của Đức Giêsu : “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi”, khi Ladarô vừa ra khỏi mồ, “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” (Ga 11,44), bởi “Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là Sự Sống và Bình An” (Rm 8,6).

Về mục lục

HÃY RA KHỎI MỒ!

Bông hồng nhỏ

Đứng trước mầu nhiệm của sự chết, ai trong chúng ta cũng cảm nhận một nỗi đau dai dẳng trong trái tim. Bởi cái chết lấy đi người ta thương mến, nó là hiện thân của sự chia ly và đau khổ. Ai sẽ giải thoát ta khỏi quyền lực của sự chết?

Hôm nay, cùng với Thầy Giêsu và các môn đệ, ta ngậm ngùi trước sự ra đi đột ngột của anh Ladarô, người mà Thầy Giêsu rất thương mến. Căn nhà nhỏ ở Bêtania chính là điểm dừng chân rất quen thuộc của Thầy trò. Ba chị em Mátta, Maria và Ladarô luôn đón tiếp Thầy và các môn đệ với lòng quý mến. Thầy Giêsu rất quý mến ba chị em. Khi được tin anh Ladarô đau nặng, Thầy không đến ngay nhưng còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở. Tại sao Thầy không đến với anh trong lúc anh cần Thầy nhất? Chắc hẳn, hai chị em cô Mátta và Maria cũng đã rất mong Thầy đến, càng chờ mong nỗi khát khao trong lòng càng cháy bỏng. Ngày ngày túc trực để chăm sóc cậu em đang đau nặng, nhìn em đang phải trải qua những cơn đau hành hạ, hai cô càng cảm thấy lòng nhói đau. Khi em đã chết mà Thầy vẫn chưa đến, nỗi khát mong trong lòng trở thành sự tiếc nuối: “Nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết” (Ga 11, 21 ). Đó không phải là một sự ngẫu nhiên khi cả hai chị em cùng thưa với Thầy điều này. Thầy Giêsu cũng đã thổn thức trước sự ra đi của người mình thương mến. Thấy Maria và những người đi cùng đều khóc, Thầy đã xao xuyến và thổn thức trong lòng. Đi theo họ ra mộ, Thầy đã khóc (x. Ga 11, 33). Đó là giọt nước mắt của Thiên Chúa, Đấng nhập thể làm người để chung chia một kiếp người như chúng ta. Người mang lấy nỗi đau của nhân loại, Người nhận lấy thân phận yếu hèn của phận người nơi chính mình để cảm thông và nâng con người lên, để dẫn con người đến nương ẩn trong tình yêu của Thiên Chúa. Sự hiện diện của Thầy chính là niềm an ủi lớn lao cho hai chị em. Đứng trước ngôi mộ có phiến đá đậy lại, Người truyền cho họ đem phiến đá đi. Cô Mátta – chị người chết – liền thưa: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày.” (Ga 11, 39). Cô có biết được điều Thầy sẽ làm cho em mình không? Cô vẫn tin Thầy là Đấng phải đến thế gian, tin rằng em mình sẽ sống lại trong ngày kẻ chết sống lại. Thế nhưng, điều Thầy muốn thực hiện ngay lúc này vượt quá điều cô mong ước hay nghĩ tới.   “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” (Ga 11, 41). Thầy Giêsu ngước mắt lên và cầu nguyện cùng Thiên Chúa, Người muốn cho tất cả mọi người lắng nghe lời cầu nguyện ấy để họ tin rằng, Người là Đấng Chúa Cha đã sai đến (X. Ga 11, 42). “Anh Ladarô, hãy ra khỏi mồ!” (Ga 11, 43). Đó là tiếng gọi của Thiên Chúa dành cho kẻ đã chết. Người trả lại cho anh sự sống đã bị tử thần lấy đi. Người mang lại cho hai chị em Mátta và Maria niềm vui lớn lao.

Mỗi ngày, Thầy Giêsu cũng đứng trước ngôi mộ của ta và lên tiếng gọi. Người đã lên tiếng gọi ta bước ra khỏi cái mồ của sự ích kỷ, của ghen tương và thù hận, nơi đã làm cho ta chết đi trong tương quan với tha nhân. Như cô Mátta đứng trước mộ em mình và tin rằng, thi hài đã nặng mùi sau khi đã chôn được bốn ngày, ta cũng tin rằng một phần con người của ta hay của người khác đã chết đi, đã trở nên nặng mùi vì để lâu. Có những tổn thương luôn làm cho ta nhức nhối, khó chịu nhưng ta lại không muốn ai bước vào hay đụng tới. Thầy Giêsu đã gọi ta bước ra khỏi đau thương của lòng mình để nhận lấy sự sống mới. Nếu ta tin, “chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” thì cuộc đời của ta cũng sẽ được hồi sinh. Nếu ta tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa, ta cũng sẽ tin rằng, Ngài sẽ làm cho những người thân yêu của ta hồi sinh.

Lạy Chúa Giêsu! Con cảm tạ Chúa đã cho con được cùng khóc với Chúa, cảm tạ Chúa đã cùng khóc trong nỗi đau của riêng con, của anh chị em con. Xin gia tăng nghị lực yêu thương trong trái tim con và nâng đỡ con trong những đau thương của cuộc đời, để qua những thăng trầm thử thách, con luôn cảm nhận được bàn tay Chúa đỡ nâng con, trái tim Chúa đang ấp ủ con và tiếng Chúa vẫn vang lên, kéo con ra khỏi cái mồ của sự chết. Amen.

Về mục lục

HÃY VỮNG TIN!

Anna Cỏ may

 “Thưa thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết!”

Khi em trai mình là Ladarô bị đau nặng, hai chị em Mácta và Maria đã cho người đến nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng”. Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh” (Ga 11, 3-4). Chúa Giêsu đã không đi ngay, Ngài còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở. Sau đó, Chúa Giêsu mới đến với gia đình hai chị em. Lúc này, anh Ladarô đã chôn được bốn ngày trong mồ. Khi Chúa Giêsu vừa nới đến, cô Mácta liền ra đón Ngài mà nói: “Thưa Thầy, nếu Thầy ở đây thì em con đã không chết” (Ga 11,21). Cô Maria ra đón Chúa Giêsu cũng nói lời ấy. Như vậy, niềm tin của hai chị em mới dừng ở chỗ hiểu biết Ngài theo con mắt thế gian. Các cô tin Ngài sẽ chữa lành bệnh cho em mình, nhưng các cô chưa biết rằng, Ngài có thể lấy lại sự sống cho Ladarô cả khi anh đã chết. Hai chị em chỉ tin rằng Thầy sẽ cho em mình sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết. Cùng lúc thuận tiện có đám đông dân chúng đang ở đó, Ngài đã bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa, để cho mọi người tin vào Thiên Chúa và biết Ngài là ai. Chúa Giêsu theo họ đến trước mộ Ladarô. Vì đã được chôn bốn ngày, thi hài đã bắt đầu nặng mùi. Ngài nói: “Đem phiến đá này đi”. Cô Mácta đã ngăn cản Ngài, nhưng Ngài đã nói: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?”, rồi Ngài kêu lớn tiếng: “Anh Ladarô, hãy ra khỏi mồ!” (x. Ga 11, 39-43) . Người chết bước ra, trở lại cuộc sống trần gian.

Vậy, đâu là Chúa Giêsu đã mời chị em Mácta và đám đông tin vào?

Chúa Giêsu mời gọi các cô và mọi người hãy tin: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11, 25). Ngài là Đấng đem lại sự sống cho kẻ tin, là Đấng được sai đến để giải thoát con người khỏi sự thống trị của cái chết. Lời mời gọi đó vẫn lưu truyền cho những ai muốn được sống sự sống đời. Phần chúng ta, chúng ta đang tin Thiên Chúa như thế nào? Chúng ta tin Chúa Giêsu đang hiện diện và hoạt động ra sao trong thời đại này? Chỉ khi chúng ta có đức tin mạnh vào Thiên Chúa, chúng ta mới được cứu thoát.

Lạy Chúa! Chúa là nguồn hy vọng, là nơi nương tựa và là sức mạnh cho chúng con. Xin cho chúng con biết vững tin vào Chúa Giêsu, Đấng giải thoát chúng con khỏi quyền lực sự chết. Xin giúp chúng con biết nhận ra lòng thương xót của Chúa và mau mắn chạy đến nương ẩn nơi Ngài; để nhờ đó, chúng con được hưởng sự sống đời đời ngay từ ở đời này. Xin Chúa cho chúng con biết dùng chính đời sống chứng tá của mình mà tạ ơn Thiên Chúa. Amen.

Về mục lục

CHỈ CÓ CHÚA MỚI LÀM CHO SỐNG

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Chúng ta đang cử hành Chúa Nhật V Mùa Chay. Lời Chúa hôm nay nói nhiều về sự phục hồi hay sự phục sinh.

Bài đọc I trích sách tiên tri Êdêkien. Vị tiên tri này được luôn nhắc đến như là một nhân vật của Mùa Chay. Ông được nhìn thấy một thị kiến về những bộ xương khô nằm la liệt trên thung lũng. Đó là hình ảnh về dân tộc Ítraen đã bị tàn lụy do tội lỗi, bệnh tật và những khó khăn khi họ phải sống trong cảnh lưu đày. Tiên tri Êdêkien cũng nhắc nhở dân ý thức rằng, nếu họ sống ở trong đất nước mình, nhưng họ vẫn còn ở xa Thiên Chúa, thì họ vẫn còn ở trong sự lưu đày tinh thần hay vẫn ở trong sự chết rồi. Chỉ có Thần Khí Đức Chúa mới có thể giải thoát con người khỏi cảnh lưu đày và sự chết như thế. Nên Thiên Chúa hứa ban Thần Khí cho họ, nhờ đó, họ sẽ được tái sinh và phục hồi sự sống cách mạnh mẽ. Thiên Chúa phán: “Đây Ta sắp cho Thần Khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống… Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Ítraen” (Ed 37,6.13).

Trong bài đọc II, thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng chỉ có Thánh Thần của Chúa Giêsu mới có thể mang lại sự sống cho chúng ta: “Nếu… Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8,11).

Nói khác khác, không có Thần Khí của Đức Chúa, người ta dù khỏe mạnh cũng phải chết. Đó là lý do tại Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì” (Ga 6,63).

Đây là điều rất hiển nhiên trong đời sống của Saolê, một vị vua của Ítraen. Khi Thần Khí rời bỏ ông, lập tức ông trở thành khốn nạn và yếu đuối (1 Sm 16,14-16). Vì thế, Thần Khí Đức Chúa là sự hiển nhiên về hoạt động và sự sống Thiên Chúa trong chúng ta. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa” (Ep 4,30). Đây là điều rất quan trọng bởi vì Thần Thần là người hướng dẫn và nâng đỡ chúng ta.

Bài Tin Mừng Chúa Nhật này trình bày cho chúng ta về việc Chúa Giêsu chứng tỏ quyền năng của Người trên cái chết qua phép lạ cả thể cho Ladarô sống lại. Ladarô là người bạn được Chúa Giêsu yêu quý, anh bị bệnh nặng. Chị Mácta và Maria chạy đến xin Chúa cứu chữa, nhưng khi Chúa Giêsu đến, Ladarô đã chết được bốn ngày và được mai táng trong mồ. Khi chứng kiến cảnh đau buồn này, Chúa Giêsu đã khóc thương anh.

Máctha nói với Chúa: “Nếu Thầy ở đây, em con đã không chết,” có lẽ đó như là một lời trách móc. Nhưng Chúa Giêsu nói với chị: “Em chị sẽ sống lại.” Mácta nghĩ rằng Người đang nói về sự sống lại trong ngày sau hết. Chúa Giêsu xác nhận trong hiện tại: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Chị có tin thế không?” Cô trả lời: “Con tin.”

Họ tới mộ, Chúa Giêsu truyền cho họ lật viên đá cửa mồ, rồi Người lớn tiếng gọi: “Ladarô, hãy đi ra đây!” Và người chết chỗi dậy và đi ra khỏi mồ. Tin Mừng kể cho chúng ta điều đó.

Như thế, qua phép lạ này, Chúa Kitô minh chứng rằng Người thực sự là sự sống lại và sự sống. Người phép lạ này nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần.

Hơn nữa phép lạ cho Ladarô sống lại là hình bóng báo trước về sự phục sinh của Chúa Giêsu sau này. Ở đây cũng cần phân biệt sự phục sinh của Ladarô khác biệt với sự phục sinh của Chúa Giêsu. Ladarô chết và sống lại, nghĩa là quay lại sự sống trước đó (bios), là tạm thời. Còn Chúa Giêsu phục sinh là người đầu tiên đi vào sự sống mới, sống sự sống vĩnh cửu (zéon). Một khi đã sống lại, Chúa Giêsu không còn chết nữa; còn Ladarô sẽ phải chết.

Có những bài học mà chúng ta cần học từ bài Tin Mừng hôm nay. Trước hết, phép lạ này là một sự diễn tả về tình yêu. Chúa Giêsu yêu quý Ladarô, Người đến thăm anh và gia đình vì Người yêu quý họ. Niềm vui của họ là niềm vui của Người, và nỗi buồn của họ là nỗi buồn của Người.

Thứ đến, đức tin là yếu tố vô cùng quan trọng trong bất cứ phép lạ nào được thực hiện cho chúng ta. Chúa Giêsu nói với Mácta: “Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11,25. Như thế, tình yêu của Chúa Giêsu và đức tin của các người chị này làm cho quyền năng Chúa Thánh Thần hoạt động nơi Ladarô. Với đức tin, mọi sự đều có thể.

Bài học cuối cùng là Chúa Giêsu có quyền năng trên sự sống và sự chết. Người luôn sẵn sàng cứu giúp chúng ta với bất kỳ giá nào. Chúa Giêsu yêu mến và gọi chúng ta bằng tên riêng như Người gọi Ladarô: “Ladarô, hãy ra đây!” Nếu chúng ta lắng nghe và vâng lời Người, Người sẽ mang lại sự sống, sự phục sinh cho sự yếu hèn và thân xác hay chết nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần. Amen!

Về mục lục

CHÍNH THẦY LÀ SỰ SỐNG LẠI VÀ LÀ SỰ SỐNG

Lm. Đaminh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Ed 37:12-14;  Rm 8:8-11;  Ga 11:1-45)

          Tiếp theo các cuộc khảo hạch đức tin trong hai Chúa Nhật trước, hôm nay là lần chót anh chị em dự tòng tuyên xưng đức tin vào Chúa Ki-tô là sự sống lại và là sự sống, trước khi họ được rửa tội vào đêm Thứ Bảy Tuần Thánh.  Tường thuật phép lạ Chúa Giê-su cho anh La-da-rô sống lại sau khi anh chết đã bốn ngày là tâm điểm của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay (bài Tin Mừng).  Cô Mác-ta tuyên xưng đức tin vào Chúa Giê-su không những là điều anh chị em dự tòng phải biểu lộ đức tin mà cũng là điều tất cả chúng ta phải lấy làm nguồn hy vọng cho tương lai.  Nguyên lý của sự sống lại chính là quyền năng của Chúa Thánh Thần theo lời Thiên Chúa đã hứa qua ngôn sứ Ê-dê-ki-en (bài đọc 1).  Thánh Phao-lô suy tư về nguyên lý này và áp dụng vào đời sống Ki-tô hữu, để giúp ta sống theo Thần Khí bây giờ và được sống lại trong cuộc sống vĩnh cửu (bài đọc 2).

  1. Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống.  Lời tuyên bố của Chúa Giê-su ở đây đã đáp lại nguyện vọng và lòng tin của cô Mác-ta.  Cô biết Chúa Giê-su là Đấng chữa lành, vì Người đã làm nhiều phép lạ cứu chữa những kẻ bệnh tật.  Nhưng có thể cô chưa bao giờ nghe nói Chúa Giê-su cho kẻ chết sống lại.  Do đó cô trách nhẹ Chúa:  “Nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết”.  Rồi cô biểu lộ niềm hy vọng:  “Nhưng bây giờ con biết:  bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”.  Cô vẫn chưa dám tin Chúa là Đấng sẽ cho kẻ chết sống lại;  bằng chứng là cô chỉ nghĩ em cô sẽ sống lại “trong ngày sau hết” chứ không phải “bây giờ”!  Nhưng đây chính là cơ hội để Chúa mặc khải cho cô biết:  “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống.  Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống”.  Thật tuyệt vời khi Chúa Giê-su khéo dẫn dắt cô Mác-ta tới đức tin trọn vẹn:  “Thưa Thầy, con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”.  Cô Mác-ta cần được Chúa dẫn dắt trong hành trình đức tin.  Nhưng với cô em Ma-ri-a thì khác, đức tin của cô được biểu lộ qua hành động:  vừa thấy Chúa, cô đã phủ phục dưới chân Người và lập lại cùng câu nói của cô Mác-ta:  “Nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết”.  Đức tin của cô là yên lặng phó thác nơi quyền năng Chúa.  Cô không nài nỉ Chúa về điều Người sẽ xin cùng Thiên Chúa Cha, nhưng để Chúa hoàn toàn quyết định.  Nếu cân nhắc, có lẽ chúng ta phải nói rằng đức tin của cô Ma-ri-a đã có một chiều sâu khác thường, trong khi với Mác-ta thì Chúa vẫn phải nhắc nhở cô lúc Người bảo người ta đem phiến đá lấp cửa mộ đi:  “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?”
  2. Thần Khí của Thiên Chúa là nguyên lý cho sự sống lại.  Ngay buổi đầu tạo dựng, Thiên Chúa đã thổi “sinh khí vào lỗ mũi” con người để nó trở nên một sinh vật.  Sinh khí là sự sống của Thiên Chúa ban, không những cho sự sống phần xác mà cả sự sống phần hồn nữa.  Khi dân Ít-ra-en không sống theo đường lối và thánh chỉ của Thiên Chúa là họ đã cắt đứt liên hệ với Người, nói khác đi là cắt đứt khỏi sự sống của Người.  Họ sống phần xác, nhưng phần hồn đã bị chôn đáy huyệt rồi!  Tuy nhiên Thiên Chúa giàu lòng thương xót không nỡ để dân Người bị chôn vùi đáy huyệt của lưu đày, nên qua ngôn sứ Ê-dê-ki-en, Người đã hứa sẽ mở huyệt, đem họ về đất Ít-ra-en.  Sự “hồi sinh” của Ít-ra-en sau cuộc lưu đày là hình ảnh sống động nói lên cuộc sống lại của tâm hồn mỗi người chúng ta.  Thế nào chẳng có những lúc linh hồn chúng ta bị tội lỗi chôn vùi dưới đáy huyệt của nó.  Nhưng chắc chắn lòng Chúa thương xót sẽ mở cửa huyệt và đưa ta trở về với Người.
  3. Suy tư của thánh Phao-lô về vai trò của Chúa Thánh Thần trong sự sống lại.  Thánh Phao-lô phân biệt rõ ràng tính xác thịt trái ngược với Thần Khí của Đức Ki-tô.  Ngài khẳng định rằng nếu ta để cho tính xác thịt, tức tội lỗi, chi phối thì ta không thể vừa lòng Thiên Chúa được, nghĩa là ta sẽ chết chứ không được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa.  Nhưng vì ta có Thần Khí của Thiên Chúa cũng là Thần Khí của Đức Ki-tô ngự trong ta, nên ta “thuộc về Đức Ki-tô”, nghĩa là được sống với Chúa Ki-tô.  Rồi thánh Phao-lô còn quả quyết thêm rằng Thần Khí Chúa Ki-tô không chỉ đem lại sự sống cho linh hồn chúng ta, mà còn cho thân xác ta được sự sống mới trong ngày sau hết nữa.  Vai trò của Chúa Thánh Thần quan trọng như vậy mà chúng ta lại hay quên!

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Đã từ lâu tôi vẫn thắc mắc tại sao Chúa Giê-su không nói “Chính Thầy là sự sống và là sự sống lại”, mà Người lại nói “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”.  Sự đảo lộn vị trí này mang ý nghĩa gì?  Tại sao lại đặt sự sống lại trước sự sống?  Có lẽ chúng ta đều biết thánh sử Gio-an và thánh Phao-lô là các nhà thần học, nên các ngài thường trình bày vấn đề theo khía cạnh suy tư thần học.  Đối với chúng ta, trước hết Chúa Giê-su là sự sống lại, vì Người hồi sinh chúng ta và cứu ta khỏi cái chết do tội lỗi.  Sau khi chúng ta được tái sinh nhờ bí tích Rửa tội, ta sẽ tiếp tục sống đời sống mới trong tinh thần Chúa Ki-tô, tức là trong Chúa Thánh Thần.  Cuối cùng, sau cuộc sống trong Thánh Thần ở trần gian, ta sẽ được về nhà Cha trên trời để sống trong hạnh phúc vĩnh cửu.  Vậy nếu chúng ta đã cùng với chị em cô Mác-ta tuyên xưng Chúa Giê-su là sự sống lại và là sự sống, ta cũng hãy theo lời thánh Phao-lô mà sống chức phận con cái Chúa trong Thánh Thần!

Về mục lục

HAI CUỘC ĐỜI

Trầm Thiên Thu

Chết Đi Để Rồi Được Sống Lại

Sống Lại Rồi Sẽ Vui Trường Sinh

Mỗi người chỉ có một cuộc đời, nghĩa là không thể rút kinh nghiệm cho lần khác theo kiểu luân hồi. Và chắc chắn KHÔNG hề có kiếp luân hồi. Nhưng về tâm linh, con người có hai cuộc đời, hai lần sống – đời này và đời sau.

Thế gian có nhiều loại “cuộc,” nhưng có lẽ đặc biệt nhất là cuộc đời, với đủ thứ nhiêu khê. Thế nên luôn phải chiến đấu không ngừng, người đời gọi là bể khổ, Chúa Giêsu bảo phải vác thập giá.

Khổ đủ kiểu nên phải chiến đấu đủ thứ. Thánh Augustino phân tích: “Việc suy niệm của chúng ta về đời sống hiện tại phải ở trong lời ca ngợi Thiên Chúa; bởi vì niềm hoan lạc của đời sống muôn đời mai sau sẽ là lời ca ngợi Thiên Chúa. Ai chưa thực tập điều ấy ngay từ bây giờ thì không thể phù hợp với đời sống tương lai. Những lời cầu nguyện hằng ngày của các tín hữu đền bồi những sai lỗi sơ sài nhỏ mọn thường ngày của họ, những điều mà cuộc sống này không thể tránh được.” Thánh José Escriva nói: “Bằng những giọt nước mắt, những giọt nước mắt nam nhi nóng hổi, anh em có thể thanh tẩy được quá khứ và siêu nhiên hóa cuộc sống hiện tại của mình.” Chân phước Julian Norwich chia sẻ: “Khi bị trở tính và cô quạnh trong nỗi ngao ngán, chán chường với cuộc sống và bực dọc với bản thân, tôi đã nhẫn nại để tiếp tục sống giữa những khó khăn… và lập tức sau đó, Chúa lại ban cho linh hồn tôi niềm an ủi và thanh thản trong hoan lạc và vững tin.” Đúng là đời này khổ thật!

Cuộc đời cũng là cuộc sống, có sự sống bắt nguồn từ Thiên Chúa là Nguồn Sống. (Tv 36:10) Mỗi người đều có hai sự sống: Sự sống thể lý và sự sống tâm linh. Sự sống tâm linh quan trọng vì đó là sự sống của linh hồn, mà chính linh hồn mới làm cho thân xác sống, nhưng chỉ có Thiên Chúa mới thực sự là Nguồn Sống. (Tv 36:10) Chúa Giêsu đã minh định: “Chính Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.” (Ga 14:6) Đúng như Thánh Vịnh gia đã phân tích: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy Sinh Khí lại, chúng tắt thở ngay mà trở về cát bụi. Sinh Khí của Ngài, Ngài gửi tới, chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này.” (Tv 104:29-30)

Là người đời nhưng có những người “biết sống” rất khôn khéo. B. Brech nhận định: “Điều đáng sợ không phải là chết, mà là sống rỗng tuếch.” Còn Maxwell Winston Stone khuyên: “Đừng nghĩ đến cái chết về thể xác mà hãy trả lời câu hỏi: Bạn đã HOÀN THÀNH SỨ MỆNH CỦA CUỘC ĐỜI MÌNH chưa? Nhắc đến cái chết và chuẩn bị cho cuộc hành trình sang thế giới bên kia dường như khiến người ta bị quan, lo sợ. Nhưng theo nghĩa lạc quan, có một điều mới lạ sắp đến. Khi đó, bạn không còn cảm giác lo lắng hay sợ hãi nữa.” Rất độc đáo!

Thật vậy, “chính Ngài ban Sự Sống cho muôn vật, muôn loài,” (Nkm 9:6) nguyên tổ Ađam là người đầu tiên được đón nhận sự sống: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi Sinh Khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.” (St 2:7) Được sinh ra làm người là hồng ân rồi, dù chúng ta như thế nào – thậm chí có người sống đời thực vật, chứ chúng ta không có quyền đòi hỏi hoặc chọn lựa: “Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên.” (1 Sm 2:6; x. Kn 16:13 và Tv 30:4) Chắc chắn bất cứ ai cũng không thoát khỏi tay Ngài. (Tb 13:2; Ed 43:13)

Có bị bệnh mới biết quý sức khỏe, có gặp nguy hiểm mới nhận thức sự sống rất cần, cụ thể là trong tình hình phức tạp của đại dịch Corona hiện nay. Vì thế, ai cũng phải ý thức có trách nhiệm bảo vệ sự sống – cho mình và cho người khác. Sự sống liên quan không khí, dưỡng khí hoặc ô-xy chúng ta hít thở từng phút, từng giây. Thiếu không khí vài phút thì mọi vật chết hết, cả sinh vật và động vật. Chính không khí là đại hồng ân Thiên Chúa trao ban cho mọi loài, chúng ta sử dụng liên tục mà vẫn coi thường, vô ơn bạc nghĩa, dám làm ô nhiễm môi trường, hủy hoại môi sinh, tiêu diệt sự sống. Đó là tự hại chính mình, tức là tự sát.

Từ ngàn xưa, qua ngôn sứ Êdêkien, chính Thiên Chúa đã truyền lệnh cho Israel: “Ngươi hãy tuyên sấm, hãy nói với chúng rằng Đức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Israel. Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta!” (Ed 37:12-13). Được ra khỏi huyệt mộ là thoát khỏi cõi chết, là được sống. Thật là đại phúc nhãn tiền!

Như để giải thích, Thiên Chúa cho biết: “Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta làm.” (Ed 37:14) Chúng ta được Thiên Chúa “thổi hơi” để ban Thần Khí, nhờ đó mà chúng ta sống. Và còn hơn là sống, bởi vì chúng ta còn được sống dồi dào, (Ga 10:10) đúng như Chúa Giêsu đã hứa. Lời Chúa xác quyết “Ta đã phán là Ta làm” khiến chúng ta an tâm. Quả thật, Ngài rất thẳng thắn và không bao giờ sai lời. Tuyệt vời là thế, bởi vì Thiên Chúa luôn trung tín và yêu thương trọn niềm.

Bất cứ ai ở trong bóng tối là CHẾT, ở trong ánh sáng là SỐNG. Tất cả chúng ta đã từng “chết” khi ở trong bóng tối – bóng tối tội lỗi. Vì thế, chúng ta luôn phải van xin: “Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu.” (Tv 130:1-2) Đó là lời cầu cấp tốc, lời cầu khẩn cấp, như tiếng còi vang lên từ xe cứu thương, cứu hỏa – và còn hơn thế nữa.

Chính điều đó lại là hồng ân, nghĩa là chúng ta biết kịp thời đánh moóc  SOS nên được sống, nhờ Thiên Chúa cứu vớt. Vâng, ước gì mỗi khi gặp hoạn nạn, chúng ta luôn biết cầu xin và thành tín: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài.” (Tv 130:3-4) Tuy nhiên, muốn vậy cũng không hề dễ dàng nếu chúng ta không “hết lòng mong đợi và cậy trông ở lời Chúa.” (Tv 130:5) Thực sự muốn được sống thì phải tâm niệm rạch ròi: “Hồn tôi trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông. Hơn lính canh mong đợi hừng đông, bởi Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Ngài chan chứa. Chính Ngài sẽ cứu khỏi tội khiên muôn vàn.” (Tv 130:6-8) Và chỉ một mình Ngài mới có thể cứu sinh mà thôi.

Thánh Gioan Eudes so sánh: “Không khí chúng ta thở, cơm bánh chúng ta ăn, trái tim đập trong lồng ngực chúng ta cũng không cần thiết để giúp chúng ta có thể sống đúng là một con người cho bằng lời cầu nguyện giúp cho chúng ta có thể sống đúng là một tín hữu.” Chuyện sống – chết liên quan cả xác và hồn. Cụ thể là thân xác, nhưng cũng cần phân biệt “xác thịt” và “tính xác thịt”. Đôi khi “tính xác thịt” còn nguy hiểm hơn “xác thịt.” Có lẽ vì thế mà Giáo Hội “đề nghị” lời cầu nguyện trong mầu nhiệm thứ 5 Mùa Thương: “Xin cho con biết đóng đinh tính xác thịt vào Thánh Giá Chúa.” Đặc biệt là chính Chúa Giêsu cũng đã cảnh báo: “Tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” (Mt 26:41; Mc 14:38) Quả thật, không hề đơn giản!

Nếu nói vậy thì có lẽ có thể có người muốn “nổi loạn” và muốn “kiện” Chúa, vì cho rằng Ngài đã tạo nên một dạng thân-xác-yếu-hèn. Ý nói là Chúa đã “cài đặt” mặc định (default) như vậy rồi, y như máy vi tính đã “đóng băng” (Deep Freeze), chúng ta có thay đổi mọi thứ thì nó cũng trở về “mặc định” sau khi nó được khởi động lại (restart). Thế nhưng không phải như vậy. Lý do? Thứ nhất, đó là điều mầu nhiệm, chúng ta không đủ trình độ để hiểu thấu. Thứ nhì, đó là Thiên Chúa KHÔNG BAO GIỜ TẠO ĐIỀU XẤU, vì Ngài là Đấng chí thánh, nơi Ngài CHỈ CÓ ĐIỀU TỐT LÀNH mà thôi.

Tính xác thịt ra sao? Thánh Phaolô cho biết: “Những ai bị TÍNH XÁC THỊT chi phối thì KHÔNG THỂ vừa lòng Thiên Chúa.” (Rm 8:8) Thật nguy hiểm! Nhưng diễm phúc cho chúng ta bởi vì chúng ta được làm “con cái Thiên Chúa,” như Thánh Phaolô giải thích: “Anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Kitô thì không thuộc về Đức Kitô.” (Rm 8:9) Thế thì trên mức tuyệt vời rồi, và thực sự mỗi chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần. (1 Cr 3:16-17; 1 Cr 6:19)

Liên quan chuyện sống – chết, Thánh Phaolô vừa giải thích vừa xác định: “Nếu Đức Kitô ở trong anh em thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em ĐƯỢC SỐNG, vì anh em đã được TRỞ NÊN CÔNG CHÍNH. Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu SỐNG LẠI từ cõi chết, Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em mà làm cho thân xác của anh em được SỰ SỐNG MỚI.” (Rm 8:10-11)

Quyền sinh tử thuộc về Thiên Chúa, không một phàm nhân nào được làm hại sự sống của con người, dù sự sống đó chưa được sinh ra là một hài nhi. Đúng như vậy, bởi vì “Thiên Chúa nắm chủ quyền trên mọi xác phàm.” (Đn 14:5) Thật vậy, chính Chúa Cha đã ban cho Đức Kitô quyền trên mọi phàm nhân (Ga 17:12) và trên mọi chi tộc. (Kh 13:7)

Một câu chuyện cổ-tích-có-thật được Thánh sử Gioan kể lại qua trình thuật Ga 11:1-45 rất thú vị. Sự thể là có một người bị đau nặng tên là Ladarô, quê ở Bêtania, em trai của hai chị em cô Mácta và Maria (người sau này sẽ xức dầu thơm và lấy tóc lau chân Chúa Giêsu tại nhà ông Simôn Cùi – Mt 26:6-13; Mc 14:3-9; Lc 7:36-48; Ga 12:1-8). Anh Ladarô bị đau nặng và không tránh khỏi lưỡi hái tử thần. Nhà có đám tang.

Trước đó, khi thấy em trai bị bệnh nặng, hai chị em gái cho người đến báo tin buồn cho Đức Giêsu: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng.” Cách nói đó cho thấy Ladarô rõ ràng là “người mà Chúa Giêsu thương mến,” vậy mà Ngài vẫn thản nhiên bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.” Chúa Giêsu không dùng từ nào thừa hoặc thiếu, nhưng rất chính xác và đầy đủ, vì Ngài biết Ngài sắp làm gì.

Kinh Thánh cho thấy Chúa Giêsu quý cả ba chị em Mácta, Maria và Ladarô, nên lần đó Ngài đã lưu lại thêm hai ngày rồi mới cùng các môn đệ trở lại Giuđê. Các môn đệ thấy người Do Thái mới tìm cách ném đá Thầy, nên muốn can ngăn. Nhưng Ngài bảo: “Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng mặt trời. Còn ai đi ban đêm thì vấp ngã, vì không có ánh sáng nơi mình!” [*]

Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Ladarô, BẠN của chúng ta, đang yên giấc. Tuy vậy, Thầy đi ĐÁNH THỨC anh ấy đây.” Các môn đệ nói: “Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khoẻ lại.” Họ không hiểu ý của hai từ “yên giấc” mà Ngài sử dụng, họ cứ tưởng Ngài nói về giấc ngủ bình thường. Thế nhưng Ngài muốn đề cập SỰ CHẾT. Và rồi Ngài nói rõ: “Ladarô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy.” Ôi chao! Thấy người ta chết mà lại bảo là “mừng.” Coi bộ “căng” thật! Nhưng đúng vậy, Ngài mừng vì Ngài không có mặt ở đó để người ta thêm tin khi thấy việc Ngài làm: Cải tử hoàn sinh cho anh bạn Ladarô. Cái gì cũng có lý do của nó!

Nhờ vậy, hôm đó các môn đệ đã đồng tâm nhất trí muốn “cùng chết với Sư Phụ.” Tốt lắm, ít ra cũng phải vậy. Dù CHƯA làm được điều mình muốn thì ít ra cũng biết MUỐN điều mình MUỐN THỰC HIỆN, ý muốn thực sự rất quan trọng để có thể thực hiện.

Kinh Thánh không nói rõ nhưng chắc hẳn Ladarô bệnh nặng lắm nên mới mau chết như vậy. Mặc dù đường không xa, nhưng khi Chúa Giêsu đến nơi thì người ta đã an táng Ladarô được bốn ngày rồi. Làng Bêtania cách Giêrusalem không đầy ba cây số, nhưng thời đó cuốc bộ suốt nên mất nhiều thời gian. Có nhiều người Do Thái đến phúng điếu và chia buồn với chị em Mácta và Maria, bởi vì nghĩa tử là nghĩa tận.

Hôm đó, khi nghe tin Đức Giêsu đến, cô Mácta liền ra đón Ngài, còn cô Maria thì cứ ngồi ở nhà, cứ bình thường, như không có gì quan trọng. Hay thật, có lẽ phong cách của cô rất thản nhiên. Nhà hiếu chưa yên chuyện buồn thì lại có chuyện khác. Cuộc đời đúng là rắc rối thật, không như mình tưởng.

Lòng buồn rười rượi, nhưng Mácta vẫn tin tưởng nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy.” Ngài bảo: “Em chị sẽ sống lại!” Mácta thưa rằng cô vẫn tin kẻ chết sống lại trong ngày sau hết. Và Ngài nói: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết.” Ngài hỏi Mácta có tin như vậy hay không, Mácta mạnh mẽ xác tín: “Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.” Là một nữ nhi mà có lời tuyên xưng thật tuyệt vời!

Và rồi Mácta đi nói nhỏ với Maria: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy!” Nghe vậy, Maria vội đứng lên và đến với Đức Giêsu. Lúc đó, Ngài chưa vào làng, vẫn ở chỗ Mácta đã ra đón. Những người Do Thái thấy Maria vội vã đứng dậy đi ra thì cũng đi theo, vì họ tưởng cô ra mộ khóc em. Nhiều sự kiện đan xen nhau trong ngày hôm đó.

Vừa đến gần Đức Giêsu, Maria liền phủ phục dưới chân và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.” Cả hai chị em đều đặt tình huống “nếu” với Đức Giêsu. Thật là tội nghiệp hết sức! Thấy cô khóc, những người Do Thái đi với cô cũng khóc, rồi Đức Giêsu thổn thức trong lòng và cảm thấy xao xuyến. Lúc đó chắc là Maria khóc em trai dữ lắm. Rồi Ngài hỏi xác anh ấy ở đâu. Họ mời Ngài đến xem, và Ngài đã khóc. Thấy thế, người Do Thái bảo nhau: “Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!” Có vài người thắc mắc là Chúa Giêsu đã từng mở mắt cho người mù mà sao lại không làm cho anh ấy khỏi chết. Nghe họ nói vậy nên Chúa Giêsu lại thổn thức trong lòng. Thương lắm chứ, thế nên Ngài đã “chạnh lòng thương” tới ba lần! Rồi Ngài đi tới mộ Ladarô, phiến đá vẫn đậy kín cửa hang. Ngài bảo lấy phiến đá ra. Mácta bảo nặng mùi rồi, vì Ladarô đã an táng được bốn ngày. Chúa Giêsu nhắc lại chuyện đức tin. Và không ai dám có ý kiến gì. Họ lăn tảng đá ra…

Lúc đó, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.” Nói xong, Ngài kêu lớn tiếng: “Anh Ladarô, hãy ra khỏi mồ!” Thật lạ lùng, người chết bước ra trong khi vẫn còn quấn vải liệm. Chắc hẳn ai cũng vừa kinh ngạc vừa sợ hãi. Đức Giêsu bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.” Hai bà chị cũng ngạc nhiên không kém, nhưng họ rất vui mừng không chỉ vì em trai sống lại, mà chính họ biết niềm tin của họ hoàn toàn chính xác: Đúng Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ phải đến thế gian này.

Có điều đặc biệt trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, đó là Thánh sử Gioan cho biết rằng những người Do Thái đến đám tang La-da-rô hôm đó đã chứng kiến việc Đức Giêsu làm, và có NHIỀU KẺ ĐÃ TIN VÀO NGÀI. Những người đã tin vào Chúa Giêsu là những người thực sự diễm phúc. Nhận biết và tin là một hành trình, nhưng không phải ai cũng làm được.

Liên quan đức tin, chợt nhớ lại một mối phúc đặc biệt mà chính Chúa Giêsu, sau khi phục sinh, đã nói với tông đồ Tôma: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin.” (Ga 20:29) Không thấy thì khó tin hơn, nhưng khó hơn mà tin thì mới có phúc hơn.

Lạy Thiên Chúa hằng sống, chúng con còn yếu đuối lắm, xin thêm đức tin cho chúng con, bởi vì không có Ngài thì chúng con không thể làm gì được. (Ga 15:5) Lạy Cha toàn năng, xin biến đổi đức tin yếu kém của chúng con thành đức tin mạnh mẽ nhờ Con Yêu Dấu của Ngài – Đức Giêsu Kitô, để chúng con vẫn mãi thuộc về Ngài dù SỐNG hay CHẾT. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

 [*] Có lẽ vì “người Do Thái tìm cách ném đá Chúa Giêsu” nên ngày xưa, Chúa Nhật V Mùa Chay được các Kitô hữu “thân thương” gọi là “lễ ném đá.” Thời đó, các ảnh tượng trong nhà thờ đều được “che kín” bằng vải tím.

Về mục lục

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT V MÙA CHAY_A

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay hôm nay nói về sự sống lại, về đời sống mới.

Ed 37: 12-14

Qua một thị kiến về những bộ xương khô, ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo cho những người lưu đày ở Ba-by-lon biết rằng sẽ đến ngày Thiên Chúa ra tay giải thoát họ, và cuộc giải thoát này sẽ được sánh ví như cuộc tái sinh.

Rm 8: 8-11

Trong Bài Đọc II, thánh Phao-lô công bố: “Nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giê-su Ki-tô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su Ki-tô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống”.

Ga 11: 1-45

Trong Tin Mừng, Đức Giê-su nói với cô Mác-ta: “Thầy là sự sống lại và là sự sống”. Để minh chứng điều đó, Ngài cho anh La-za-rô sống lại sau khi anh đã được mai táng trong mồ bốn ngày rồi.

BÀI ĐỌC I (Ed 37: 12-14)

Như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en là tư tế trước khi được Thiên Chúa kêu gọi làm ngôn sứ của Ngài. Ông là vị ngôn sứ thứ ba trong bốn Đại Ngôn Sứ và là dung mạo vĩ đại nhất của Do Thái Giáo trong suốt thời lưu đày, vì thế được gọi là “cha của Do thái giáo”. Ông là vị ngôn sứ duy nhất trong số các ngôn sứ đã lãnh nhận ơn gọi ngôn sứ ngoài đất Ít-ra-en, ở Ba-by-lon. Ông kết hợp mật thiết tinh thần tư tế và tinh thần ngôn sứ.

Ê-dê-ki-en đã trải qua những thời điểm bi thảm nhất, đó là thành thánh Giê-ru-sa-lem bị đạo quân Ba-by-lon xâm chiếm vào năm 598. Ông thuộc vào đoàn người đầu tiên bị dẫn đi lưu đày tại Ba-by-lon. Ông chia sẻ cuộc sống lưu đày với dân Ít-ra-en tại một thị trấn nhỏ, không xa Ba-by-lon, được gọi là Tel-Aviv (tên mà quốc gia Do thái hiện nay đặt cho thủ đô của họ để tưởng nhớ đến vị ngôn sứ này, người đã tiên báo “sự hồi sinh” của dân Ít-ra-en) và ông đã qua đời ở đó vào năm 571.

  1. Hoàn cảnh của dân Ít-ra-en vào thời Ê-dê-ki-en

Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã lên án những bất trung của dân Chúa và loan báo sự trừng phạt sẽ giáng xuống trên Giê-ru-sa-lem. Nhưng khi những bất hạnh bất ngờ xảy đến, vị ngôn sứ loan báo thời kỳ Thiên Chúa xót thương. Thiên Chúa sẽ khai đường mở lối cho đoàn người lưu đày được trở về quê cha đất tổ. Cuộc giải thoát này sẽ như một cuộc tái sinh, một cuộc tạo dựng mới. Lời văn đầy những hình tượng.

  1. Hai lời hứa của Thiên Chúa

Trong thị kiến, vị ngôn sứ được Thiên Chúa dẫn đưa vào một thung lũng đầy những bộ xương khô (37: 1-2). Thị kiến này mô tả hoàn cảnh tù đày của dân Ít-ra-en tại Ba-by-lon được sánh ví với những bộ xương khô: “Hỡi con người, các xương đó chính là toàn thể nhà Ít-ra-en”, và niềm hy vọng được cứu thoát của họ đã tiêu tan: “Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã rồi đời” (37 : 11).

Trong hoàn cảnh bi thương tuyệt vọng đó, qua vị ngôn sứ của mình, Thiên Chúa hứa với dân Ngài hai điều. Trước tiên, Thiên Chúa hứa sẽ cứu họ khỏi cảnh từ đày và sẽ dẫn đưa họ trở về quê cha đất tổ: “Hỡi dân Ta, Ta sắp mở huyệt cho các ngươi. Ta sẽ đem các ngươi lên khỏi đó, và đưa ngươi về đất Ít-ra-en” (37: 12). Khi làm như vậy, Thiên Chúa cho thấy Ngài vẫn trung tín với Giao Ước của Ngài: “Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta” (37: 13).

Thứ nữa, Thiên Chúa hứa ban thần khí của Ngài, nhờ hơi thở sáng tạo, những kẻ lưu đày bất hạnh sẽ được tái tạo, có thể nói, được hoàn lại cho họ cuộc sống như trước đây trên quê cha đất tổ: “Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi, và các ngươi sẽ được hồi sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi”. Lời hứa thứ hai cũng kết thúc với lời quả quyết trung thành của Thiên Chúa với Giao Ước: “Bấy giờ các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Ta đã nói là Ta làm” (37: 14).

  1. Phục hưng một dân tộc

Lời Thiên Chúa hứa thứ nhất bắt đầu và kết thúc với lời kêu gọi gửi đến dân Ít-ra-en: “Hỡi dân Ta”. Lời Thiên Chúa hứa thứ hai được gửi đến toàn thể dân Ít-ra-en chứ không cá nhân. Như vậy, sấm ngôn này loan báo sự phục hưng của một đất nước, sự canh tân của một dân tộc, chứ không sự phục sinh của cá nhân. Quan niệm về sự phục sinh của cá nhân như thế vào thời của vị ngôn sứ Ê-dê-ki-en không thể nào nghĩ tưởng được. Sẽ phải chờ đợi đến thời kỳ Ma-ca-bê (giữa thế kỷ hai tCn) khi đó niềm hy vọng vào sự phục sinh cá nhân được phát biểu rất rõ nét. Niềm hy vọng này đã nâng đỡ các vị tử đạo khi các ngài nhất quyết trung thành niềm tin của mình, dù phải chịu các cực hình: “Vua là một tên hung thần, vua khai trừ chúng tôi ra khỏi cuộc đời hiện tại, nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì Luật pháp của vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời” (2Mcb 7: 9).

Louis Monloubou mời gọi người tín hữu hiện tại hóa thị kiến này vào trong lịch sử cuộc đời mình để khám phá sự hiện diện cứu độ của Thiên Chúa: “Ngày nay dân Thiên Chúa phải kinh qua những giải thoát mà Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử của cuộc đời mình, thậm chí trong chính thân xác của mình; ngõ hầu họ hiểu hơn, và rốt cuộc hiểu hơn ai thực sự là Thiên Chúa của mình, đối tượng niềm tin của mình không là một bóng ma nào đó, nhưng Đức Chúa, Đấng Cứu Độ. Cuối cùng ngày nay, Thiên Chúa chúng ta luôn luôn là Thiên Chúa nói với dân Ngài, khuyến khích họ, ở bên cạnh họ, như bạn đồng hành thân thiết, Đấng cứu độ trung tín và có hiệu quả”.

BÀI ĐỌC II (Rm 8: 8-11)

Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô họa nên một bức tranh tăm tối về nhân loại tội lỗi không thể tự sức mình giải thoát mình khỏi tội lỗi, vì thế cần phải đặt trọn niềm tin tưởng vào sự can thiệp của Thiên Chúa. Sau đó, thánh nhân mô tả đầy cảm xúc cuộc sống mới của người Ki-tô hữu: cuộc sống trong ân sủng, nghĩa là cuộc sống được Thần Khí tác động chứ không còn chịu xác thịt chi phối nữa. Đoạn văn hôm nay được trích từ chương 8, chương dâng hiến một sự bình an và niềm vui.

  1. Xác thịt và Thần Khí

Thánh Phao-lô thích vận dụng những cặp đối nghịch: luật và đức tin, xác thịt và thần khí, con người cũ và con người mới, chế độ lề luật và chế độ ân sủng, vân vân.

Thánh nhân ban cho từ ngữ “xác thịt” một nét nghĩa tiêu cực không được gặp thấy trong Cựu Ước. Qua từ ngữ xác thịt, Thánh Kinh chỉ toàn bộ con người được Thiên Chúa sáng tạo, vì thế, xác thịt thực chất không thể nào là xấu được. Ngôi Lời sẽ đảm nhận xác thịt và “làm người”. Khi ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo rằng Thiên Chúa sẽ ban tặng cho Ít-ra-en “một trái tim bằng thịt thay cho trái tim bằng đá” ông ban cho từ ngữ “xác thịt” tất cả sự cao quý của nó. Chắc chắn ở nơi nhân tính có một khía cạnh địa giới mà từ ngữ xác thịt gợi lên, do đó đối lập với thiên giới, thế giới thần linh.

Trong cặp đối nghịch xác thịt-thần khí, thánh nhân được gợi hứng từ cặp đối nghịch: địa giới-thiên giới, theo quan niệm mang đậm nét Do thái, chứ không theo quan niệm nhị nguyên Hy lạp: thân xác-linh hồn. Tuy nhiên, thánh nhân xem bản tính địa giới là bản tính xấu, được ghi dấu bởi tội lỗi.

  1. Sống theo Thần Khí

Dù vẫn còn ở trong sự đối nghịch giữa xác thịt và thần khí, kinh nghiệm của người Ki-tô hữu chứng nhận rằng tác động Thần Khí biến đổi tận bên trong con người. Thánh nhân ngỏ lời với những người lãnh bí tích Thánh Tẩy: “Anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em” (8: 9). Và thánh nhân chứng minh cho họ thấy việc phục sinh thân xác là tất yếu. Đây là nét độc đáo của đoạn văn này.

  1. Thần Khí là sự sống và là nguyên lý của sự sống lại

Do tội lỗi, thân xác của chúng ta tất yếu phải chết. Như ở nơi khác, thánh nhân đồng hóa thân xác phải chết với “con người cũ” phải bị diệt vong. Ấy vậy, Thần Khí ở nơi chúng ta là Sự Sống – chính ở đây mà quan niệm Do thái về một con người toàn diện, bất khả phân thân xác và thần thiêng, đóng một vai trò trong lập luận – Thần Khí này chắc chắn biến đổi thân xác chúng ta, thân xác sẽ trở thành “thần thiêng” và bất khả hư hoại.

Đây là điều thánh nhân đã nói với các tín hữu Cô-rin-tô rồi: “Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt, gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí. Nếu có thân thể có sinh khí, thì cũng có thân thể có thần khí” (1Cr 15: 42-44). Thánh Phao-lô là chứng nhân của Đấng Phục Sinh. Ánh sáng đã bao phủ thánh nhân trên đường đi Đa-mát và đã soi sáng cuộc đời ngài. Ở trung tâm những khai triển thần học của thánh nhân, chúng ta không ngừng gặp lại biến cố then chốt: sự kiện Phục Sinh. “Sự phục sinh của Đức Giê-su cấu tạo nên bước khởi đầu của cuộc tạo dựng mới mà chúng ta được dự phần vào nhờ đức tin. Từ đó phải rút ra những hiệu quả: trong đức ái, chúng ta sống như những con người được phục sinh; trong đức cậy, chúng ta đảm bảo sự phục sinh tương lai của chúng ta” (Karl Gatzweiler).

TIN MỪNG (Ga 11: 1-45)

Bài trình thuật: “Chúa Giê-su cho anh La-da-rô sống lại”, là bài trình thuật về dấu lạ dài nhất trong Tin Mừng Gioan, qua dấu lạ này, Đức Giê-su kín đáo loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Dấu lạ này cũng là lời cảnh báo tối hậu mà Đức Giêsu gửi đến cho những ai không chịu mở lòng ra mà tin vào Ngài. Vả lại, lời mời gọi tin vào Ngài là một chủ đề chạy xuyên suốt toàn bộ câu chuyện này. Sự căng thẳng giữa Đức Giê-su và dân Ngài, vốn hình thành nên hậu cảnh của Tin Mừng Gioan, không bao giờ đạt đến cao độ như thế ở nơi câu chuyện này.

– Dẫn nhập (11: 1-5)

Ngay từ đầu câu chuyện, người kể chuyện giới thiệu gia đình của ba chị em: cô Mác-ta, cô Ma-ri-a và anh La-da-rô quê ở Bê-ta-ni-a, một gia đình Chúa Giê-su yêu quý (11: 5), và hoàn cảnh mà họ gặp phải: “Anh La-da-rô, người bị đau nặng” (11: 2). Chỉ vừa mới đây, Chúa Giê-su cùng với các môn đệ “lánh sang bên kia sông Gio-đan, đến chỗ trước kia ông Gio-an đã làm phép rửa và Người đã ở lại đó” (10: 40) để tránh dân chúng ném đá Ngài, như các môn đệ nhắc cho Ngài (11: 9). Chính ở nơi đây mà hai chị em cô Mác-ta và cô Ma-ri-a nhờ người đến báo tin cho Đức Giê-su về bệnh tình của anh La-da-rô, em trai của hai cô: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang đau nặng” (11: 3). Đức Giê-su trả lời: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này Con Thiên Chúa được tôn vinh” (11: 4).

 Như thường xảy ra trong Tin Mừng Gioan, lời Đức Giê-su chứa đựng hai nghĩa. Quả thật, Đức Giê-su sẽ “được tôn vinh” qua dấu lạ mà Ngài sắp thực hiện, nhưng dấu lạ này sẽ dẫn Ngài đến cái chết của chính mình, vì Ngài sẽ khiến kẻ thù của Ngài công phẫn đến tận xương tủy. Đối với Tin Mừng Gioan, vinh quang của Đức Giê-su rực sáng nhất ở nơi cuộc Tử Nạn của Ngài. Thánh Giá là cửa ngõ đưa Ngài trở về nhà Cha Ngài. Tin Mừng Gioan sẽ làm sáng tỏ sự kiện Thiên Chúa đã đặt “vinh quang” của chính mình vào trong sứ mạng cứu độ con người, vì Ngài đã đặt vào đây tất cả tình yêu của Ngài.

  1. Cuộc đối thoại của Chúa Giê-su với các môn đệ (11: 6-16)

Khi được tin báo, thay vì khởi hành đến Bê-ta-ni-a ngay, Đức Giê-su lại trì hoãn. Sau hai ngày, Ngài mới tuyên bố: “Nào chúng ta cùng trở lại miền Giu-đê” (11: 7). Như vậy, Đức Giê-su đến Bê-ta-ni-a chỉ sau khi anh La-da-rô đã chết và mai táng trong mồ được bốn ngày rồi. Lý do của việc trì hoãn này chắc chắn là Ngài muốn gây ấn tượng ở nơi hành động của Ngài khi hoàn sinh người chết sau khi đã chết và mai táng trong mồ.

Các môn đệ lưu ý Thầy về hoàn cảnh nguy hiểm: “Thưa Thầy, mới đây người Do thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy còn đến đó sao?” (11: 8). Trong câu chuyện này, độc giả được loan báo rằng việc Ngài ra đi không nhằm bất kỳ lý do thuần túy nhân loại, nhưng mặc một ý nghĩa cao siêu, tức là bày tỏ vinh quang Thiên Chúa. Tuy nhiên, các môn đệ chưa ngộ được ý nghĩa cao siêu này. Phản ứng của họ là phản ứng cẩn trọng của con người: ở Giu-đê, cuộc sống của Đức Giê-su bị đe dọa, vì thế Ngài không nên trở lại đó để thăm người bạn đang lâm bệnh vào lúc này. Đây là đề tài: “một từ đa nghĩa”, rất quen thuộc của Tin Mừng Thứ Tư.

Đức Giê-su sẽ giúp cho các môn đệ vượt qua từ sự hiểu biết thuần túy địa giới đến một tiên cảm về mầu nhiệm. Như thông thường trong Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su khai lòng mở trí cho các môn đệ nhờ vào cách thức mặc khải bí nhiệm. Dựa trên ý nghĩa ẩn dụ “ngày và đêm”, Ngài công bố mầu nhiệm của Ngài. Theo nghĩa vật lý, thành ngữ này muốn nói rằng có thời gian cho mỗi việc, và thật thích hợp khi chọn ban ngày để bước đi ngỏ hầu tránh những tai nạn khi phải bước đi trong đêm tối. Theo nghĩa ẩn dụ (nghĩa của Tin Mừng Thứ Tư), “ngày” là thời gian của ánh sáng. Điều này muốn nói rằng bao lâu Đức Giê-su vẫn còn đó, phải tận dụng ánh sáng của Ngài, mặc khải mà Ngài đem đến. Vì thế, nỗi sợ hãi thật sự không xuất phát từ những nguy hiểm do con người tạo ra, nhưng từ sự vắng bóng Ánh Sáng. Việc Đức Giê-su tiến về Giê-ru-sa-lem không được đánh giá theo sự chuyển biến thận trọng của con người, đúng hơn, thuộc phạm vi bày tỏ Ánh Sáng. Vì thế, đây là một lời mời gọi hãy tin vào Ngài nhờ vào Ánh Sáng này, nhưng cũng là lời loan báo về viễn cảnh đầy đe dọa của đêm sắp đến: cái chết và cuộc chiến thắng bóng tối, tức là quyền lực tử thần (x. Ga 13: 30b).

Tiếp đó, dù không ai cho biết điều gì về bệnh tình của anh La-da-rô, Đức Giê-su công bố rằng anh La-da-rô đã chết qua hình ảnh giấc ngủ: “La-da-rô, bạn của chúng ta đang yên giấc; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây” (11: 11), như trước đây đối với bé gái của viên trưởng hội đường: “Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” (Mc 5: 39). Đức Giê-su vui mừng vì sứ điệp của Ngài sẽ dễ dàng được hiểu ở nơi dấu lạ Ngài sắp thực hiện.

Các môn đệ không còn tìm cách ngăn cản Ngài nữa. Một trong các môn đệ của Ngài, ông Tô-ma, tự phát và bạo dạn nói với các bạn đồng môn của mình: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để cùng chết với Thầy” (11: 16). Ông không ngờ rằng lời ông diễn tả chân tính người môn đệ của Đức Giê-su.

  1. Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với cô Mác-ta (11: 17-27)

Khởi đi từ câu 17, câu chuyện bắt đầu một giai đoạn mới: khung cảnh không còn ở Ga-li-lê, nhưng ở Bê-ta-ni-a, chiều kích mặc khải của dấu lạ không còn được loan báo, nhưng được vén mở. Chính trong khung cảnh của cuộc đối thoại với cô Mác-ta mà ý nghĩa dấu lạ dần dần được sáng tỏ.

A- Niềm tin của cô Mác-ta

 Trong khung cảnh Bê-ta-ni-a, chúng ta gặp lại tính tình khác nhau của hai chị em này: cô Mác-ta thì năng động, còn cô Ma-ri-a có đời sống nội tâm sâu lắng, đã được Tin Mừng Lu-ca ghi nhận trong một dịp Chúa Giê-su viếng thăm nhà của hai cô (Lc 10: 38-42). Tuy nhiên, trong câu chuyện của Tin Mừng Gioan, tính tình năng động của cô Mác-ta đã là cơ hội giúp Chúa Giê-su dẫn đưa cô, và qua cô dẫn đưa độc giả vào một mạc khải cao vời về chân tính của Ngài.

Dù bận rộn tiếp đón những người thân đến chia buồn, nhưng vừa khi nghe tin Chúa Giê-su đến, cô Mác-ta hối hả ra tận đầu làng để đón Ngài. Khi vừa mới gặp Chúa Giê-su, cô Mác-ta trách cứ Ngài, Ngài đã cứu chữa biết bao bệnh nhân, ấy vậy lại đã không đến kịp lúc để cứu chữa người bạn mà Ngài thương mến. Tuy trách cứ như vậy, nhưng cô vẫn nuôi hy vọng: “Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người sẽ ban cho Thầy” (11: 22). Nhưng Đức Giê-su muốn kiện toàn đức tin của cô, Ngài không muốn cô Mác-ta chỉ hài lòng thấy Ngài là “người của Thiên Chúa”, nghĩa là những gì Ngài cầu xin đều được Thiên Chúa nhận lời, nhưng cô còn phải nhận ra chân tính của Ngài.

B- “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”

Khi nói với cô Mác-ta: “Em chị sẽ sống lại” (11: 23), Chúa Giê-su cho cô biết đó là dự định của Ngài khi đến đây. Nhưng cô Mác-ta lại hiểu lời này là lời an ủi nên cô đáp: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sẽ sống lại” (11: 24). Ở nơi câu trả lời của cô hàm chứa niềm tin của đạo Do thái. Từ nhiều thế kỷ trước đó, niềm tin vào sự sống lại thuộc về gia sản tinh thần của đạo Do thái, ngoại trừ nhóm Sa-đu-xê-ô.

Chúa Giê-su tuyên bố: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” (11: 25a), lời tuyên bố này được Chúa Giê-su khai triển xa hơn: “Ai sống và tin vào Thầy, thì dù đã chết, thì cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (11: 25b). Những lời này của Đức Giê-su đã được hiểu theo nhiều cách khác nhau và được giải thích theo nhiều cách khác nhau, tuy nhiên một điều chắc chắn: Đức Giê-su khẳng định Ngài là nguồn mạch sự sống đời đời. Thêm nữa, tiến trình của câu chỉ ra rằng Ngài muốn hiệu đính, hay đúng hơn bổ túc lời khẳng định của cô Mác-ta: Đối với người Ki-tô hữu, còn hơn cả sự sống lại vào ngày sau cùng, một cuộc sống siêu nhiên vô tận khơi nguồn ở nơi sự hiệp nhất của họ với Đức Ki-tô ngay từ cõi thế này. Ngoài ra, Giáo Hội còn dạy rằng cuộc sống không kết thúc ở nơi cái chết. Trong Thánh Lễ Cầu Hồn, Giáo Hội khẳng định: “Cuộc sống không hề mất đi, nhưng thay đổi” (vita mutatur non tollitur).

Cuộc Mặc Khải chấm dứt với lời mời gọi dứt khoát theo thể nghi vấn: “Chị có tin thế không?” (11: 26). Câu hỏi này được đặt ra, ở bên kia cô Mác-ta, cho những ai hiểu lời hứa này của Đức Ki-tô. Cô Mác-ta đã lắng nghe. Cô đã đạt đến một niềm tin cao vời khi nhận ra Đức Giê-su là Đấng Ki-tô (Mê-si-a) và là Con Thiên Chúa: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”.

  1. Thực hiện dấu lạ (11: 28-44)

Sau lời tuyên xưng đức tin của cô Mác-ta, câu chuyện bước vào giai đoạn thứ ba, trực tiếp hướng đến việc thực hiện dấu lạ. Sự hiện diện của cô Ma-ri-a và của những người Do thái đem đến cho câu chuyện một hướng phát triển mới, một bước nhảy vọt. Việc thực hiện dấu lạ không đem đến những yếu tố mới cho phần mặc khải trước đó, nhưng cho phép ghi nhận thêm lần nữa vài phản ứng tiêu biểu của những người chứng kiến dấu lạ.

A- Đức Giê-su xúc động

Cảm xúc của Đức Giê-su được gợi lên đến ba lần: Ngài thổn thức tận đáy lòng (11: 33), Đức Giê-su liền khóc (11: 35), Đức Giê-su lại thổn thức tận đáy lòng (11: 38). Hơn bất cứ biến cố nào khác, biến cố này bày tỏ “nhân tính” của Đức Giê-su rất rõ ràng: sự xúc động của Ngài, sự dịu dàng của Ngài, nước mắt của Ngài, đồng thời cũng biểu lộ “thần tính” của Ngài, Đấng chủ tể sự sống và cái chết khi cho anh La-da-rô đã chết và được mai táng bốn ngày rồi được sống lại.

B- “Hãy cất phiến đá này đi”

Người kể chuyện kể tỉ mỉ ngôi mộ: “Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại”, vì những chi tiết này báo trước một cuộc mai táng khác, cuộc mai táng của chính Chúa Giê-su, theo đó cũng một phiến đá được lăn lấp mộ và được lăn ra khỏi mộ một cách mầu nhiệm.

Khi cầu nguyện lớn tiếng, Chúa Giê-su có chủ ý khơi động niềm tin của những người có mặt, niềm tin vào Ngài, niềm tin vào sự hiệp nhất của Ngài với Cha Ngài, niềm tin mà Ngài muốn các môn đệ của Ngài phải kiên vững ngay trước khi cuộc thử thách lớn lao sắp xảy đến và để họ nhớ lại quyền năng của Ngài trên sự chết vào buổi sáng Phục Sinh.

Khi mô tả cách chi tiết việc anh La-da-rô ra khỏi mồ, chân tay còn quấn vải liệm và mặt còn phủ khăn liệm, Tin Mừng Gioan có chủ ý nhấn mạnh với độc giả sự tương phản với cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su, Ngài bỏ lại trong mồ mọi liên hệ với cái chết, cái chết này Ngài đã chiến thắng cách vĩnh viễn, không còn tác động gì đến Ngài.

Đoạn Tin Mừng Gioan được trích trong Phụng Vụ hôm nay chấm dứt với câu 45 nhưng chúng ta phải đọc cho đến câu 53 để thấy dấu lạ của sự phục sinh này gây nên hai phản ứng trái ngược nhau từ phía người Do thái, những chứng nhân của dấu lạ: những người này tin (11: 45) trong khi những người khác “đi gặp nhóm Biệt phái và kể cho họ những gì Đức Giê-su đã làm” (11: 46), theo cách nào đó, đó là những người cộng tác vào quyết định của những kẻ thù của Đức Giê-su, bởi vì dấu lạ này còn là cái cớ để giai cấp lãnh đạo Do thái buộc tội và kết án tử cho Chúa Giê-su.

Về mục lục

THẦY LÀ SỰ SỐNG LẠI VÀ LÀ SỰ SỐNG

Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

Trận dịch do virus Vũ Hán đang càn quét thế giới, khiến cho con người cảm thấy cuộc sống thật quý giá và cũng thật mong manh. Tại Vũ Hán, có nhiều người đã đem tiền ném ra đường, vì với họ, nhiều tiền cũng không có ý nghĩa gì, chỉ có mạng sống là quan trọng mà thôi; có người phát điên vì bị cách ly quá lâu và sống trong sự căng thẳng đối diện từng ngày với cái chết. Trên Facebook có một suy tư được đăng tải với tựa đề: Một trận ôn dịch giúp ta minh bạnh được cuộc đời. Tác giả viết: Trên đời này ngoài chuyện sinh tử ra, mọi thứ khác đều là chuyện nhỏ. Tiền tài dẫu có tốt cũng không tốt được bằng sinh mệnh, danh lợi dẫu có lớn, cũng không lớn bằng sức khoẻ. Được sống mới là hạnh phúc nhất, sinh mệnh mới là của cải đáng quý nhất. Một trận ôn dịch khiến chúng ta minh bạch rằng: Chiếc giường đắt nhất là giường bệnh, thứ thuốc tốt nhất trên đời là sức khoẻ, chúng ta vất vả bán mạng, bán sức khỏe để kiếm tiền, làm lụng ngày đêm mà quên rằng thân thể và tâm hồn cũng cần được nuôi dưỡng, đến khi thân thể suy nhược lại rút hết tiền đã kiếm được để uống thuốc. Cuộc sống bộn bề với công việc khiến chúng ta mất đi các tương quan với những người thân bên cạnh. Một trận ôn dịch giúp chúng ta nhận ra rằng: gia đình vẫn là điều quan trọng nhất, trong gia đình có tình yêu thương của cha mẹ, của người bạn đời là những người luôn kề cận chúng ta khi chúng ta khó khăn nhất.

Thưa quý OBACE, Tin Mừng vẫn thường nói cho chúng ta những điều đó, nhưng dường như chúng ta vẫn để ngoài tai. Chỉ khi đối diện, cận kề với cái chết, người ta mới nhận ra, đâu là những giá trị chân thật và đâu là những điều hào nhoáng mau qua. Bước vào Chúa nhật thứ V Mùa chay, Lời Chúa một lần nữa quả quyết cho chúng ta: Chỉ có Thiên Chúa là nguồn sự sống và là Đấng ban sự sống, đó là món quà quý giá nhất Ngài ban cho nhân loại.

Bài đọc một kể về giai đoạn bi đát cùng cực nhất của dân Do Thái, khi họ đang từng ngày phải đối diện với đau khổ áp bức và cái chết bởi người Babylon gây ra. Người Do Thái đang trải qua những ngày tháng tuyệt vọng, tuy còn sống nhưng tâm hồn và ý chí, nghị lực của họ đã chết, như đã bị chôn vùi. Tiên Tri Ezekiel đã đem đến cho họ một luồng sinh khí của Thiên Chúa khi nói với họ: “Chính Ta sẽ mở huyệt mộ cho các ngươi, sẽ đem các ngươi ra khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Israel…Ta sẽ đặt Thần Khí của ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh… bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa.” Những lời này không chỉ là một lời hứa, mà là tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho Israel, Ngài trao ban thần khí tức là trao ban sự sống của Ngài, để họ được hồi sinh cả thể xác và tâm hồn. Vì Thiên Chúa là Chúa của sự sống chứ không phải Thiên Chúa của sự chết, Ngài đem lại sự sống cho nhân loại chứ không huỷ diệt nó.

Thần khí mà tiên tri Ezekiel nói đến, sau này được thánh Phaolô giải thích rõ hơn trong thư Rôma. Theo Thánh Phaolô, những người sống và để cho tính xác thịt làm chủ và chi phối, thì người ấy sẽ xa lìa Thiên Chúa là nguồn sống, còn những ai để cho Thần Khí của Thiên Chúa chi phối thì người ấy sẽ đón nhận được sự sống từ Thần Khí. Để đón nhận được sự sống của Đức Giêsu Kitô, đòi chúng ta phải tin Ngài là Thiên Chúa, là Đấng ban sự sống và là Đấng làm chủ sự sống và sự chết. Câu chuyện Chúa Giêsu cho Lazarô chết chôn trong mồ được chỗi dậy muốn nhấn mạnh điều đó. Đối với Chúa Giêsu, việc Lazarô đau bệnh và chết cũng chỉ giống như một giấc ngủ trưa. Vì thế khi được tin Lazarô đau bệnh, Chúa Giêsu không vội vàng, trái lại, Ngài còn cho thấy đây là dịp để mọi người nhận biết vinh quang Thiên Chúa.

Khi Chúa Giêsu đến nhà Matta và Maria, lúc đó Lazarô đã chết và được chôn bốn ngày. Đối với chị em cô Matta, Chúa Giêsu đã đến quá trễ, không thể thay đổi gì được nữa. Chúa Giêsu không muốn để một tâm hồn rơi vào đau khổ, tuyệt vọng như vậy, Ngài đã từng bước nâng đỡ và khơi lại niềm tin trong tâm hồn chị em cô Matta. Câu chuyện cho thấy: Khi nghe tin Chúa Giêsu đến thăm, cô Matta đã chạy ra đầu làng để đón Chúa Giêsu. Tuy nhiên, qua lời cô như trách Chúa, cho thấy, ánh sáng hy vọng trong tâm hồn cô chỉ còn leo lét: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng con biết bây giờ Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy.” Chị em cô Matta và Maria chỉ mới chỉ tin rằng Chúa Giêsu làm cho con gái ông Giairô sống lại là vì Chúa đã đến kịp thời, còn trường hợp của Lazarô, Chúa đến đã quá trễ. Chúa Giêsu không nỡ để cho một chút lửa đức tin nơi tâm hồn cô phải lụi tàn, Ngài đã động viên cô: “Em con sẽ sống lại…Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết.” Sau khi tuyên bố như thếChúa Giêsu đã muốn thẩm vấn cô Matta để cô phải tự nói lên đức tin của mình. Chúa hỏi:“Con có tin điều đó không? Cô Matta đáp: Thưa Thầy có. Con vẫn tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.”

Mặc dù tuyên xưng cách mạnh mẽ như thế, nhưng khi đi đến phần mộ, Chúa Giêsu bảo: “Hãy mở nắp mộ ra”, cô Matta lại can ngăn: “Thưa Thầy đã nặng mùi rồi vì đã chôn được bốn ngày.” Điều đó cho thấy từ đức tin đến thực tế luôn có một khoảng cách khó vượt qua, nhất là tin Đức Giêsu là Thiên Chúa quyền năng, Đấng có thể làm cho kẻ chết sống lại và trả lại cho con người sự sống. Một lần nữa Chúa Giêsu lại nâng đỡ đức tin của cô Matta và mọi người khi quả quyết rằng: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang Thiên Chúa sao?”

Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha vì Cha đã nhậm lời con…nhưng vì những người đang đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con. Nói xong, Ngài hô lớn: Anh Lazarô hãy ra đây. Người chết liền đi ra, chân tay còn quấn vải liệm và mặt còn phủ khăn. Chúa Giêsu bảo: Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.” Nhiều người Do Thái chứng kiến việc Đức Giêsu đã làm, đã tin vào Người. Chúa Giêsu không chủ trương làm phép lạ để thu hút nhiều người, nhưng Ngài làm phép lạ là để củng cố, nâng đỡ đức tin cho những người thành tâm thiện chí.

Với phép lạ cho Lazarô sống lại, Chúa Giêsu muốn cho chị em cô Matta xác tín cách chắc chắn hơn nữa vào lời quả quyết của Ngài: “Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin nơi Thầy thì sẽ được sống.” Hơn nữa, phép lạ này báo trước việc Chúa Giêsu sẽ chiến thắng ma quỷ và tội lỗi là kẻ gây ra cái chết cho nhân loại. Ngài dùng quyền năng của Thánh Thần đạp tung cửa mồ sự chết và sống lại trong vinh quang. Chúa Giêsu chiến thắng tử thần và ma quỷ, đem lại cho tất cả những ai tin Ngài là Đấng Cứu Thế, là chính Thiên Chúa thì sẽ được sống đời đời với Chúa.

Thưa quý OBACE, Thánh Phaolô quả quyết: “Thần Khí của Đức Kitô cũng chính là Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết… Thần Khí ấy cũng làm cho thân xác anh em được sự sống mới.” Như vậy, tin Đức Giêsu là sự sống lại và là sự sống, chúng ta cũng cần để cho Thần Khí của Đức Kitô làm chủ và hoạt động trong chúng ta, trao ban cho chúng ta sự sống. Sự sống là điều quan trọng nhất trong cuộc đời và sự sống phần linh hồn còn quan trọng hơn và phải là mục tiêu của mỗi người nhắm tới. Vì đánh mất sự sống là đánh mất tất cả, đánh mất sự sống đời đời là thất bại hoàn toàn.

Cái nguy hiểm của virus Vũ Hán là nó tấn công vào phổi khiến cho bệnh nhân không thở được và chết. Tội lỗi, dục vọng và những đam mê xác thịt, của cải danh vọng cũng giống như con virus này. Nó tấn công vào cuộc đời chúng ta, làm cho cuộc sống ra chậm chạp năng nề không đón nhận được hơi thở Thần Khí. Nó làm cho lá phổi của linh hồn không thể hoạt động, khiến ta bị chết ngạt trong cuộc đời của mình. Thứ virus dục vọng, đam mê, lười biếng này nó lây lan từ cha mẹ đến con cái, làm cho đời sống gia đình trở nên ngột ngạt, thiếu sức sống. Ma quỷ cũng gieo các loại virus kiêu ngạo, hưởng thụ, tham công tiếc việc, chạy theo bằng cấp vào các bạn trẻ, nó khuyến khích các bạn trẻ thăng tiến trong xã hội, nhưng lại làm ngơ để cho đời sống đức tin bị tấn công. Nó làm cho đời sống đạo của mỗi người ra èo uột, không hoạt động, không sức sống. Đó là những thứ virus gây bệnh nguy hiểm cho đời sống đức tin của mỗi người.

Xin Thần Khí của Thiên Chúa đã hoạt động trong Chúa Giêsu và làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, cũng hoạt động mạnh mẽ trong chúng ta, củng cố đức tin vào Chúa Giêsu là Đấng ban sự sống và biến chúng ta nên những con người mới, sống và hoạt động theo sự hướng dẫn của Thánh Thần. Amen

Về mục lục

 

HÃY RA KHỎI MỒ

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Từ đầu Mùa Chay, chúng ta đã được mời gọi sống tinh thần khổ chế, hãm mình hy sinh. Có thể nhiều người trong chúng ta đặt ra câu hỏi: “Mục đích của những hy sinh khổ chế của Mùa Chay là gì?” Phụng vụ hôm nay cho chúng ta cầu trả lời: Những hy sinh hãm minh của Mùa Chay giúp chúng ta “ra khỏi mồ”, hồi sinh và sống một cuộc sống mới.
 
Chúa Giêsu là nguồn sống đích thực. Người đến trần gian để ban cho con người sự sống. Người mời gọi con chúng ta bước ra khỏi cõi chết tối tăm để sống trong ánh sáng huy hoàng. Chính Người đã sống lại vinh quang từ cõi chết, như một bảo đảm cho những ai tin vào Người cũng được phục sinh với Người. Phép lạ làm cho ông Lagiarô đã chết được sống lại nhằm chứng minh những gì Chúa Giêsu đã khẳng định trước đó.
 
“Ngôi Lời là sự sống“, đó là một trong những chủ đề quan trọng của Tin Mừng Thánh Gioan. Điều này đã được khẳng định trong lời mở đầu của Tin Mừng (x. Ga 1,4). Sau này, tác giả còn tiếp tục triển khai ý niệm “Lời sự sống” (x. 1 Ga 1,2) để mời gọi các tín hữu, một khi đã được đón nhận Sự Sống là Chính Chúa Giêsu, hãy sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa.
 
Trở lại với trình thuật Chúa làm cho ông Lagiarô đã chết được sống lại. Đây là “dấu lạ” thứ bảy trong Tin Mừng thánh Gioan, cũng là dấu lạ cuối cùng trong tác phẩm (dấu lạ thứ tám ở chương 21 về mẻ lưới kỳ diệu được coi như phần bổ sung). Dấu lạ này cũng khép lại phần I của Tin Mừng, trước khi bước sang phần thứ II (từ chương 13) kể lại cuộc thương khó của Chúa. Câu chuyện không chỉ liên quan đến cá nhân ông Lagiarô, nhưng hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc.
 
Một chi tiết quan trọng không nên bỏ qua: các môn đệ cùng với Chúa Giêsu tiến về Bêthania, nơi có Lagiarô vừa qua đời. Qua câu nói của Tôma: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thày” (câu 16), chúng ta thấy các ông linh cảm về những gì sẽ xảy ra và sự cương quyết chấp nhận lên đường cùng Thày mình. Bầu không khí và câu nói của Tôma diễn tả các môn đệ đang cùng đi với Thày mình đến gần cái chết, vì ở đó những người Do Thái đang tìm ném đá Thày (câu 8).
 
“Hành trình đến sự chết” cũng là hành trình của Mùa Chay. Nhưng chúng ta tin rằng, hành trình ấy không kết thúc đau đớn và u ám trong nấm mộ. Những thực hành của Mùa Chay không dẫn chúng ta đến sự chết như đích điểm cuối cùng, nhưng đến sự sống. Bởi Thiên Chúa quyền năng sẽ mở những huyệt mộ và đưa chúng ta ra khỏi đó (Bài đọc I). Mỗi chúng ta đang sống trong những huyệt mộ của ghen ghét, ích kỷ, hẹp hòi. Chúa Giêsu đến để mở tung những huyệt mộ đó. Người dẫn chúng ta bước đi dưới ánh sáng thiêng liêng là chính bản thân Người. Nhờ ánh sáng này, chúng ta sẽ không còn vấp ngã (câu 10). Điều quan trọng là chúng ta có can đảm để lên đường với Người không. Trong một bối cảnh đầy lo âu và nguy hiểm đang rình rập, Tôma và các môn đệ đã cất bước theo Thày mình. Các ông đã được chứng kiến phép lạ Chúa làm, như một phần thưởng cho những ai can đảm trung thành.
 
Khi “gọi” người chết ra khỏi mồ, Đức Giêsu chứng tỏ quyền năng Thiên Chúa của mình. “Gọi” là chức năng và vai trò của “Lời”. Cũng như từ thuở đầu của công trình sáng tạo, Thiên Chúa đã dùng lời của Ngài gọi vạn vật từ hư vô đến hiện hữu. Nay, Ngài dùng Lời của Ngài mà gọi con người từ cõi chết đến cõi sống. Lời gọi này còn như một lệnh truyền, một lời sai bảo của người bậc trên đối với người cấp dưới. Chúa đã gọi con người từ bóng tối tới ánh sáng; từ cõi chết đến cõi sống. Hôm nay, Ngài đang dùng Lời của Ngài mà gọi chúng ta. Chúng ta có lắng nghe tiếng gọi của Con Thiên Chúa để từ cõi chết bước đến cõi sống không?
 
Chúa Giêsu đã đặt câu hỏi với Mátta là chị của người chết: “Chị có tin không?“. Tin vào Chúa trong lúc gian nan đau khổ là một hành vi can đảm, giống như chấp nhận lên đường với Người vào lúc nhiều bóng tối đe dọa phía trước. Lời tuyên xưng của Mát-ta: “Thưa Thày, con vẫn tin Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa” là mẫu mực cho chúng ta.  Lời tuyên xưng ấy giúp ta bừng sáng niềm hy vọng trong giây phút ảm đạm của cuộc đời. Lời tuyên xưng ấy kèm theo niềm xác tín nơi Chúa Giêsu và nơi Chúa Cha: “Con biết rằng bất cứ điều gì Thày xin cùng Thiên Chúa, Ngài cũng sẽ ban cho Thày”. Một người đã chết, nằm trong mộ bốn ngày, xét theo cái nhìn trần gian là không thể hồi sinh. Vậy mà đối với Thiên Chúa, lại là một điều có thể được. Bởi lẽ Ngài là Đấng quyền năng và giàu lòng thương xót.
 
Mátta và Maria tin chắc chắn vào sự sống lại ngày sau hết. Đó cũng là đức tin mà chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin kính. Tuy vậy, Chúa Giêsu muốn khẳng định, sự sống lại không chỉ ở ngày sau hết, tức là ngày tận thế, mà đã khởi đầu trong cuộc lữ hành trần gian hiện tại. Chúng ta phải luôn hồi sinh, phải luôn “sống lại”, tức là đổi mới cuộc đời, giã từ tội lỗi và bước ra khỏi nấm mồ. Những nấm mồ hôm nay, không chỉ là sự ghen ghét ích kỷ, mà còn là những khó khăn bế tắc của kiếp người. Biết bao người đang đắm chìm trong thất vọng. Họ như đang bị chôn vùi trong huyệt mộ, khi đứng trước đau khổ, bệnh tật, thất nghiệp, mâu thuẫn, nghèo đói… Họ rất đang cần được Chúa giải thoát khỏi những nấm mồ ấy.
 
“Hỡi anh Lagiarô, hãy ra khỏi mồ!“. Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đang dùng lời ấy mà kêu gọi chúng ta. Bạn và tôi, chúng ta đang ở đâu trong “hành trình đến sự chết”, khi Mùa Chay đã sắp đến hồi kết thúc? Xin Chúa cho chúng ta cam đảm bước ra khỏi những nấm mồ, vươn tới ánh sáng huy hoàng của Đấng phục sinh. Amen.

Về mục lục

.

MỞ CỬA MỘ

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt.

Tai họa ngày 11 tháng 09 năm 2001 trên đất Mỹ đã trở thành một nỗi ám ảnh đối với mọi người. Trong phút chốc, hai tòa tháp chọc trời đổ sập xuống, trở thành ngôi mộ khổng lồ chôn vùi mấy ngàn sinh mạng. Ngôi mộ gieo tang thương. Ngôi mộ gieo kinh hoàng. Ngôi mộ làm rung chuyển thế giới.

Ngôi mộ không chỉ hiện hữu từ khi toà tháp đôi đổ xuống. Trước đó ngôi mộ đã hiện diện trong trái tim của những người khủng bố. Sau đó ngôi mộ vẫn phủ màn u ám trên cuộc sống thân nhân bạn bè.

Như thế, ngôi mộ không chỉ xây bằng gạch đá. Nó được xây bằng những lực lượng chết chóc như sự hận thù, sự áp bức, sự độc ác… Ngôi mộ không chỉ chôn vùi sự sống. Nó chôn vùi cả niềm tin, cả niềm hy vọng.

Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã dõng dạc mở cửa mộ và truyền cho người chết chỗi dậy bước ra. Việc Chúa Giêsu mở cửa mộ cho Lagiarô mở ra những chân trời mới cho đời sống con người.

Khi mở cửa mộ, Người đã mở cánh cửa sự sống. Thông thường, ngôi mộ là vương quốc của tử thần. Cửa mộ là cửa mở vào thế giới chết chóc. Ai đã vào đó chẳng còn hy vọng thoát ra. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã mở cửa mộ để Lagiarô không phải bước vào sự chết nhưng bước vào sự sống. Khi mở cửa mộ, Người phá tan sào huyệt Thần Chết. Khi tháo những dải băng liệm cuốn quanh thân thể Lagiarô, Người giải phóng ông khỏi dây trói ràng buộc của tử thần.

Khi mở cửa mộ, Người đã mở cánh cửa niềm tin. Trước đó, niềm tin của Mácta chỉ là một niềm tin mơ hồ, chung chung của đa số người Do thái thời ấy. Nhưng sau khi thấy Lagiarô sống lại, niềm tin của bà trở nên cụ thể, sống động và vững vàng. Trước đó, nhiều người Do thái chưa tin vào Chúa Giêsu. Nhưng sau khi được chứng kiến Lagiarô từ cõi chết sống lại, họ không thể nào không tin. Tảng đá lấp cửa mồ tung ra cũng làm bật tung tảng đá nghi ngờ che lấp trái tim, đưa họ tới tin nhận Chúa là Thiên Chúa.

Khi mở cửa mộ, Người mở ra cánh cửa niềm vui. Chết chóc gieo tang tóc u buồn. Ngôi mộ bao giờ cũng gợi lên nỗi buồn. Buồn ly biệt. Buồn mất mát. Buồn thất bại. Cái buồn vốn hay lây. Nước mắt người thân dễ làm cay mắt ta. Nên Chúa Giêsu không ngăn được dòng lệ. Nhưng khi Lagiarô bước ra, cả một trời vui. Đám tang bỗng biến thành đám hội. Lời chia buồn đổi thành lời chúc mừng. Thiên Chúa đã biến tang tóc thành niềm vui. Niềm vui ấy trọn vẹn.

Khi mở cửa mộ, Chúa Giêsu mở cánh cửa hy vọng. Thiên Chúa đến biến đổi số phận con người. Con người không còn bị giam hãm trong thân phận hay chết, nhưng được thênh thang tự do trong cõi sống. Con người không sinh ra để chết đi nhưng để sống, sống mãi, vì Chúa là “sự sống”, “ai tin sẽ sống đời đời”. Con người không sinh ra để tàn lụi, nhưng để triển nở đến vô biên.

Trong mỗi người chúng ta có nhiều nấm mộ. Chúng ta bị giam hãm trong những nấm mộ tội lỗi, gian tham, ích kỷ, bất công, đam mê, ghen ghét hận thù, nghèo đói, thất học… Có những nấm mộ kiên cố, tự sức mình không thể phá nổi. Ta hãy xin Chúa đến mở những cửa mộ, lăn những tảng đá đè nặng đời ta, để ta được sự sống dồi dào của Chúa nuôi dưỡng. Đồng thời, ta cũng phải tiếp tay với Chúa, phá đi những nấm mộ vây bọc anh chị em chúng ta, để mọi người được sống và sống dồi dào như lòng Chúa mong ước, như định mệnh Chúa dành cho ta, những người con cái Chúa.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Tôi còn bị giam cầm trong những ngôi mộ nào?

2) Tôi còn muốn xây những ngôi mộ nào để chôn vùi anh em?

3) Hôm nay tôi phải làm gì để mở cửa mộ cho tôi và cho anh em?

4) Việc Chúa cho Lagiarô chết bốn ngày sống lại có ảnh hưởng gì trên tôi?

Về mục lục

.

CHÚA KITÔ LÀ SỰ SỐNG LẠI VÀ LÀ SỰ SỐNG

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Với Chúa nhật của Niềm Vui (Lætare) vừa qua, màu hồng Phụng Vụ của Giáo hội là màu của bình minh, hé mở ánh sáng huy hoàng của Đại Lễ Phục Sinh sắp tới. Dù còn hai tuần nữa, nhưng niềm vui ấy đã ló rạng trong các bài đọc Chúa nhật hôm nay, tuy không nói về sự sống lại của Chúa Giêsu vì đó là điều tất yếu, nhưng nói về sự phục sinh của chúng ta, chính Chúa Kitô ban cho chúng ta : trỗi dậy từ trong cõi chết.

Phục sinh Lagiarô báo trước cái chết của Chúa Giêsu

Sự kiện Lagiarô sống lại như một bi kịch giữa Sự Sống và Sự Chết, giữa Đấng được Chúa Cha sai đến là Đức Giêsu Kitô, Chúa của Sự Sống, và thủ lãnh sự chết tiềm ẩn nơi : bệnh tật, cái chết của Lagiarô, cũng như các âm mưu chống lại Chúa Giêsu.

Ngay từ đầu, Chúa Giêsu cho thấy những thử thách về bệnh tật của bạn mình, cũng như cái được cái mất trong cuộc thương khó của Ngài : “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa ” (Ga 11, 4). Chúa Giêsu biết rõ, Lagiarô chết và việc của Ngài nên nói với các môn đệ : ” Lagiarô đã chết ” ( Ga 11, 14). Nhưng Ngài sẽ cho sống lại, vì “sáng danh Thiên Chúa ” ( Ga 11, 4).

Đây là phép lạ thứ bẩy và cuối cùng thu hút sự chú ý nhất của dân chúng vào Chúa Giêsu trước khi Ngài bị bắt. Khi loan báo cho các môn đệ biết về ý muốn trở lại Giuđêa của Chúa Giêsu để gặp Lagiarô đã chết, các ông hết sức ngạc nhiên và lo lắng nên nói: “Thưa Thầy, mới đây người Do thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư ? “(Ga 11, 8). Quả thật, các nhà lãnh đạo Do thái đã để mất Chúa Giêsu vào dịp này : ” Bởi vậy từ ngày đó, họ quyết định giết Người ” (Ga 11, 53 ). Nhưng phản ứng của Chúa Giêsu là : ” Lagiarô đã chết, chúng ta hãy đi với anh ta” (Ga 11, 15), Ngài sẽ đánh bại sự chết, cứu con người khỏi chết và ban cho sự sống.

Niềm hy vọng của chúng ta

Trọng tâm của Tin Mừng hôm nay là câu : ” Ta là sự sống và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ “(Ga 11, 25-26). Nếu chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, Chúa Cha ” Đấng đặt Thánh Thần của Ngài trong chúng ta, và chúng ta đang sống “ sự sống của Người (Ez 1, 13) thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa cho sống lại ngày sau hết.

Chúa cho Lagiarô sống lại như Ngài đã làm cho con gái ông Giairô, con trai của bà góa thành Naim trở lại sự sống tự nhiên lần thứ hai trong một thời gian ngắn. Trái lại, Ðức Kitô sống lại từ cõi chết, không còn chết nữa, sự chết không còn bá chủ được Ngài nữa” (Rm 6, 9) vì Ngài sống sự sống của Thánh Thần Thiên Chúa. Nhưng “nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em” (Rm 8,11). Sao chúng ta không thể hy vọng được.

Phần lớn chúng ta mong đợi trở lại cuộc sống tự nhiên. Chắc chắn chúng ta sẽ chết, bởi vì “ thân xác chúng ta đã chết vì tội lỗi ” (Rm 8, 10) nhưng ” nếu Đức Kitô ở trong chúng ta và chúng ta ở trong Ngài với đức tin sống động, thì linh hồn chúng ta sẽ sống bằng sự sống của Thiên Chúa và được tham dự vào sự bất tử của Ngài. Hơn nữa : chúng ta tin vào phép rửa “ Vậy nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Ðức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới “. (Rm 6, 4).

Thật là đại tin mừng : ” Nơi Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại.  Và sự sáng rạng trong tối tăm, và tối tăm đã không tiêu diệt được sự sáng” ( Ga 1, 4-5). Nếu như tác giả Tin Mừng đã hai lần thuật lại điều Martha và Maria than với Chúa về đau khổ của hai bà : “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết“,  há không phải muốn nhấn mạnh rằng, từ nay, tiếng khóc không còn nữa đó sao? Chúa Giêsu thổn thức và xúc động. Người hỏi : ” Đã an táng Lagiarô ở đâu? ” Nước mắt Chúa như mưa, Lagiarô như hạt giống, và ngôi mộ như một thửa đất. Chúa Giêsu hô lớn tiếng, tiếng Ngài làm cho sự chết run sợ, Lagiarô đã bung lên như hạt giống, anh bước ra khỏi mồ và tôn thờ Đấng đã cho anh sống lại.

Mãnh lực của sự chết đã thống trị Lagiarô bốn ngày. Chúa Giêsu đã đánh bại sự chết ngày thứ ba, đúng như lời Ngài đã hứa rằng, Ngài sẽ sống lại ngày thứ ba sau khi chết (x. Mt 16, 21).

Hãy đẩy tảng đá ra ” (11, 39). Cái gì vậy, Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại, nay không thể mở cửa mồ hay phán một lời để di chuyển tảng đá đóng cửa mồ hay sao ? Chắc chắn, Ngài có thế khiến tảng đá lăn ra khỏi mồ bằng lời Ngài phán, khi Ngài bị treo trên thập giá, Ngài đã từng chẻ đôi tảng đá và mở tung các cửa mồ (Mt 27,51-52 ).

Hãy cởi ra cho anh ấy đi “(11, 44).  Chúa bảo người chung quanh cởi cho anh để họ nhận ra chính anh là người họ đã bọc vào trong khăn an táng, thân xác đã phân hủy, nay sống lại nhờ quyền năng Chúa.  

Hình ảnh báo trước và là lời hứa phục sinh cho các dự tòng

Là người thật, Ðức Kitô đã khóc Lagiarô, bạn hữu Người; là Thiên Chúa hằng sống, Người đã truyền cho Lagiarô sống lại ra khỏi mồ. (Kinh Tiền Tụng ). Hôm nay Chúa cũng tuyên bố : ” Ta là sự sống lại và là sự sống” và hỏi “Con có tin điều đó không?” Cùng với Martha chị của Lagiarô các anh chị em dự tòng thưa: “Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian” (Ga 11,). Chúa phục sinh Lagiarô là hình ảnh báo trước sự phục sinh cho các dự tòng là những người mong đợi trong Đêm Vọng Phục Sinh. Khi dìm mình trong nước nước Rửa tội, người dự tòng được giải thoát khỏi sự chết và sống lại với Chúa Kitô. Sự sống lại này, như lời tiên tri Êgiêkiêl : “Ta sẽ mở cửa mồ cho các người, Ta sẽ kéo các người ra khỏi mồ “ (Ez 37, 12-14). “Ta đặt thần khí ta vào tâm hồn anh em “ (Ez 37, 6) : nhờ Phép Rửa tội, Thần Khí Đức Kitô ngự vào trong chúng ta (Rm 8, 8-11), Thần Khí kết hợp người chịu phép rửa trong tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con ; khi đón nhận, chúng ta được tham dự vào tình yêu này của Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.

Về mục lục

.

GIA ĐÌNH THÂN THIỆN CỦA CHÚA

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Gia đình Matta, Maria và Lazaro, rất thân thiện với Chúa. Mỗi khi lên Giêrusalem Chúa Giêsu thường ghé thăm gia đình này. Các gia đình hôm nay, có là ngôi nhà Chúa thường xuyên lui tới và ở lại, để hạnh phúc và niềm vui của gia đình được tràn đầy, cùng để Chúa chia sẻ những nỗi gian truân và đau khổ.

Nhân sự kiện Lazaro chết.

Đó là câu chuyện đau buồn của một gia đình khi mất đi người thân, đặc biệt đó là người em út dễ thương trong gia đình. Sự đau buồn ấy được bộc lộ cách tự nhiên khi Matta chạy ra đón Chúa đã thưa: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết” (Ga 11, 21). Chị Matta biết về người bạn của gia đình có một vai trò rất lớn. Xét theo khía cạnh con người, có thể như Chúa Giêsu là chủ gia đình thay cho cha mẹ đã khuất bóng. Vai trò của Chúa có tầm ảnh hưởng lớn trong gia đình Matta. Là chỗ dựa tinh thần trong lúc đau thương, là niềm vui, khích lệ khi mọi sự suôn sẻ. Chúa ở cùng gia đình và Chúa cũng muốn có nhiều gia đình thân thiết, đón Chúa và mời Chúa ở lại làm chủ gia đình.

Như một người rất thân trong gia đình thổ lộ sự đau buồn, chị Matta cũng tỏ lộ một niềm tin: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 11, 14). Chúa Giêsu không những là một người thân thiết ruột thịt trong gia đình Matta, mà còn là Thiên Chúa ở cùng. Tin nhận như thế, nên chị Matta trong khi đau thương vẫn thấy niềm hy vọng tràn đầy và đầy tràn hơn nữa khi Chúa nói với chị: “”Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11, 25). Trong mọi đau thương, có Chúa ở cùng, gia đình lại tìm thấy niềm hy vọng.

Chúa khóc thương Lazaro.

Khóc thương Lazaro có lẽ thấy một hình ảnh của ngày Chúa khóc thương thành Giêrusalem: “ “Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được. (Lc 19,41). Điều phải chi, nghe như một tiếc nuối, Chúa thương tiếc cho các gia đình đang chịu nhiều thử thách đến đổ vỡ hoặc đang rơi vào sự đày đọa do kẻ gian ác gây ra. Một phần vì sự cứng lòng, từ chối Chúa trong các gia đình, để chạy theo hưởng thụ, lối sống ích kỷ, hoặc đam mê trần tục. Phần khác đau thương như Chúa chịu đòn roi của kẻ bất chính nơi người công chính. Các gia đình Chúa khóc thương, bao lâu nữa mới hết khổ đau?

Chúa khóc thương cũng là khát mong Chúa được chữa lành mọi đau thương của con người. Kẻ tội lỗi cũng như người công chính đều được Chúa xót thương. Chúa ra đi mang trên thân mình thập giá và vẫn mang trên thân mình thập giá ấy khi con người chưa mang hạnh phúc cho nhau.

Chúa là Đấng Ban Sự Sống.

Phúc Âm của Thánh Gioan, tiếp tục trình bày, Chúa là sự sáng và là sự sống. Việc sống lại của Lazaro cho thấy Chúa là sự sống và là sự sống lại. Người chiến thắng sự chết là người vượt thắng mọi tội lỗi. Chính vì vây cái chết về mặt thiêng liêng là cái chết trong sự tội đã được giải thoát nhờ sự chết của Chúa trên Thập giá để sống lại trong sự sống mới. Khung cảnh gia đình chị Matta là gương mẫu cho các gia đình thường xuyên đón Chúa. Sự chết về tội không còn chỗ bám trong gia đình, tội lỗi gây ra bất hạnh, xáo trộn, ghen tuông, tranh chấp hoặc đổ vỡ. Chúa đến trong gia đình và làm cho niềm vui của gia đình được sống và sống dồi dào.

“Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 26). Niềm tin vào Chúa bảo đảm cho sự sống thiêng liêng không còn chết vì tội lỗi do sự xấu gây nên nữa. Các gia đình tín hữu luôn được mời gọi giữ giờ kinh tối, các thành viên quy tụ dưới chân Chúa, như Maria ngồi nghe Lời Chúa, như Matta thuật lại những vui buồn trong đời sống hằng ngày cùng Chúa. Bầu khí giờ kinh tối, ấm áp tình Chúa, tình gia đình, như một hành trang theo suốt cuộc đời, khi ở chung hay khi đã ra riêng. Ký ức của gia đình và niềm tin nơi Chúa cùng lớn lên trong tâm hồn, để cũng một ngày kia nhận ra Chúa cũng thích đến ở với gia đình, cùng chia sẻ buồn vui.

Tình thân của Chúa với gia đình là một tình thân không chỉ dừng lại khía cạnh nhân loại mà còn là một tình thân giữa Chúa và gia đình. Một tình thân không những chỉ chia sẻ buồn vui mà còn là mang lại sự sống, sự sống dồi dào, thấy được phúc lộc từ Chúa thương ban đời này và đời sau. Một tình thân tuyệt diệu để cho thấy gia đình có Chúa là một gia đình hạnh phúc thật sự, đi qua mọi khổ đau và gian truân trong bình an.

Xin Chúa ban cho các gia đính chính Chúa là người bạn thân hữu, một Tình Chúa yêu thương hiểu biết và chia sẻ tận cùng những đau thương của các gia đình, và biến đau thương thành niềm vui, hy vọng, tin yêu, và trong cậy vững vàng.

Về mục lục

.

NHỮNG KẺ CHÚA YÊU

Lm Tôma Nguyễn Hoàng Phượng 

Đức Kitô, Đấng Cứu Thế cứu giúp và yêu thương hết mọi người. Nhưng có những người Ngài yêu thương một cách đặc biệt:

            1. Những người đó trước hết phải kể đến các tông đồ. Ngài tuyển chọn, huấn luyện và coi các ông là bạn thân. “Thầy không gọi các con là tôi tớ, nhưng gọi các con là bạn hữu”. (Ga 15,15).

            2. Trong 12 tông đồ, Gioan lại được Chúa thương đặc biệt hơn; Đúng thế, khi nói về Gioan, Phúc âm ghi: “Người môn đệ mà Chúa Giêsu yêu quý”. Và chỉ có mình ông mới được ban tặng danh xưng này. Dấu chỉ rõ nhất là dưới chân cây thánh giá, trước khi tắt thở, Chúa Giêsu trối Đức Mẹ cho thánh Gioan. Ngài trao người yêu thương nhất trên đời, là mẹ Ngài cho môn đệ Gioan: “Này là mẹ con”. Có kẻ nói vì Gioan độc thân, nên Chúa Giêsu thương ông đặc biệt hơn. Có thể là phần đúng. Nhưng nói thế tội nghiệp cho các môn đệ có gia đình. Theo tôi nghĩ: Tình yêu là một tặng phẩm Chúa muốn dành cho ai là tùy Chúa. Nhưng sống làm sao để được Chúa dành yêu thương cho mình mới là điều đáng để ý.

            3. Nói đến những kẻ Chúa yêu, còn phải kể đến một gia đình ở Bêtania. Đó là gia đình ba chị em: Matta, Maria và Lazarô. Phúc âm nhiều lần nhắc tới Chúa dừng chân tại gia đình này:

– Phúc âm kể lại việc Matta lăng xăng tiếp đón Chúa và các môn đệ khi phải lo cho các Ngài ăn uống. Chúa Giêsu nói với Matta: “Con lo lắng bối rối nhiều chuyện quá, một món đủ rồi”.

– Và nói đến cô em Maria ngồi dưới chân Chúa mà thưa chuyện….

– Phúc âm còn đề cập đến Lazarô, người Chúa Giêsu yêu quý.

– Phúc âm theo thánh Gioan đọc Chúa Nhật hôm nay, phác họa cho chúng ta biết Chúa Giêsu đã yêu thương gia đình này một cách đặc biệt.

– Matta và Maria nhờ người đi báo tin cho Chúa Giêsu biết Lazarô đang đau nặng. (Phải có liên hệ nào mới báo tin chứ)

– Câu nói có phần trách móc của hai chị em Matta và Maria: “Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết”. (Không thân tình ai mà trách móc?).

– Các tông đồ thưa cùng Chúa Giêsu: “Xin Thầy đừng về Bêtania, về đó nguy hiểm lắm, vì kẻ thù đang tìm cách hại Thầy”. Nhưng Chúa Giêsu vẫn về Bêtania.

– Nhất là sự kiện Chúa Giêsu xúc động, không cầm được nước mắt trước mộ Lazarô, khiến cho mọi người phải nhìn nhận: “Kìa xem ông ấy thương Lazarô dường nào”.

Yêu là cho đi, Chúa Giêsu cho đi cảm tình đặc biệt cho các tông đồ, cho Gioan, cho 3 chị em: Matta, Maria và Lazarô. Và Ngài đã phục hồi sự sống cho Lazarô.

Thưa anh em.

Ta phải sống thế nào để có thể chiếm được cảm tình đặc biệt của Chúa?

– Mỗi người hãy đi theo Chúa, gần gũi, gắn bó với Chúa như các tông đồ.

– Hãy nên thân mật với Chúa như 3 chị em nhà Matta, Maria và Lazarô.

– Hãy yêu thương Chúa như thánh Gioan. Nghĩa là phải được Chúa yêu và phải yêu Chúa suốt đời.

Lạy Chúa Giêsu đáng mên, Chúa đã yêu thương và phục hồi sự sống cho Lazarô. Trong mùa chay thánh này, xin Chúa cũng thương canh tân, đổi mới cuộc đời con và phục hồi tâm hồn con, để con chết đi đối với tội lỗi và sống lại với Chúa Kitô.

Về mục lục

.

QUYỀN NĂNG VÀ YÊU THƯƠNG

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa Giêsu là Ngôi Lời nhập thể làm người. Ngài đồng hành cùng mọi người trong đời sống trần thế. Ngài đã từng đến chia sẻ niềm vui trong đám cưới tại Cana (x. Ga 2,1). Ngài đã buồn sầu thương khóc Ladarô cùng với hai chị em cô Matta (x. Ga 11,32-38)…

Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật. Tin Mừng các Chúa Nhật Mùa Chay kể chuyện rõ ràng, Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Chúa nhật I, Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong thân phận con người. Chúa nhật II, Chúa Giêsu Hiển Dung trong thần tính vinh quang trên núi Tabor. Chúa nhật III, Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống đem lại sự sống vĩnh cửu cho những ai tin vào Ngài. Chúa nhật IV, Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, ai đi theo Ngài sẽ bước đi trong ánh sáng. Chúa nhật V, Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ngài thì được sống đời đời.

Nhiều lần Chúa Giêsu nói về sự sống đời đời. Với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacob, Ngài xác quyết: Nước Ta ban sẽ vọt lên đem lại sự sống đời đời. Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Ngài nói với người Do thái: Ta là bánh ban sự sống. Nơi khác Ngài bảo: Ta là ánh sáng mang lại sự sống. Có lần Ngài khẳng định: Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Chúa Giêsu đến thế gian để cho con người được sống và sống dồi dào.

“Thầy là sự sống lại và sự sống”, lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Ladarô sống lại là một trong những lời kỳ diệu nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Kitô giáo và những người vô thần ngày nay. Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó là chính nền tảng, và là hy vọng của cuộc đời.

Ladarô đau nặng, Matta và Maria sai người đến báo tin cho Chúa Giêsu hay : “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng”. Chúa bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa”.

Cho dù Ladarô đã chết, nhưng Chúa Giêsu vẫn nói với các môn đệ: “Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó để anh em tin”. Chúa Giêsu và các môn đệ lên đường tới Bêtania. Matta đón Ngài và biểu lộ niềm tin tưởng tuyệt đối: “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. Ladarô đã chết nhưng Matta tin chắc chắn Chúa có thể làm cho em trai mình được sống bởi vì Ngài là Đấng quyền năng. Chúa Giêsu mạc khải: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Với lời xác quyết vừa trang trọng vừa lạ lùng này, Chúa Giêsu đòi hỏi Matta phải xác tín: “Con có tin điều đó không?”. Matta tuyên xưng: “Thưa Thầy có, con vẫn tin Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”. Matta biết Chúa Giêsu là Đấng quyền năng, Ngài có thể truyền lệnh cho sự chết cũng như Ngài đã truyền lệnh cho sóng gió phải im lặng. Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ. Ngài truyền cho Ladarô sống lại bước ra khỏi mồ, sau khi đã cầu nguyện và cảm tạ Chúa Cha. Trước sự thật hiển nhiên này, một số người đã tin theo Chúa. Một số khác, nhất là các Biệt phái và các Thượng tế lại chống đối cách quyết liệt hơn nữa. Họ hội họp với nhau và quyết định kết án tử hình cho Chúa.

Bài Tin Mừng hôm nay chứng minh cách tổng hợp, Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa quyền năng vừa là con người yêu thương. Quyền năng làm cho kẻ chết sống lại. Con người nhân ái đến thăm gia đình có người qua đời, trái tim rung động thổn thức. Chúa Giêsu khóc nức nở trước ngôi mộ của Ladarô khiến dư luận bàn tán: “Coi kìa. Ông ấy thương Ladarô biết dường nào!”. Thánh Gioan cũng thấy như vậy: “Đức Giêsu quý mến cô Mácta cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô”.

Ladarô đi vào đường hầm của sự chết. Chúa đã gọi anh quay trở lại: “Ladarô, hãy ra đây!Người chết đi ra, chân tay còn quấn những mãnh vải…”. Ladarô xuất hiện với cùng một thân xác như khi đi vào mồ. Anh nằm trong mộ bốn ngày rồi, thối rữa ra rồi.Thế mà Chúa bảo hãy đi ra. Anh đi ra thật. Giải băng còn quấn cứng ngắc…Sự hoảng hốt bao trùm. Niềm vui bùng nổ. Hàng ngàn người lại nườm nượp tuôn đến. Đến để xem người chết sống lại. Ladarô sống lại là hiện thân của một biến cố lịch sử ngàn năm một thuở.

Trong Cựu Ước, ngôn sứ Êlia đã làm cho con trai của bà góa ở Sarépta sống lại (x.1V 17,17-24), ngôn sứ Êlisa cũng làm cho đứa con trai của bà Sunêm sống lại (x.2V 4,32-37). Trong Tân Ước, Phêrô đã làm cho bà Tabitha đã chết sống lại (x.Cv 9,39-42). Chúa Giêsu đã làm cho người chết sống lại ít nhất ba lần: cho con trai bà góa thành Naim (x. Lc 7,11-15), cho con gái một ông trưởng hội đường (x. Mt 9,18-26; Mc 5,35-43; Lc 8,49-56), và cho Ladarô. Cũng như những người được hồng ân sống lại từ cõi chết, Ladarô sau này sẽ lại chết, người thân phải mai táng anh lần nữa.

Chúa Giêsu đối đầu với sự chết ngay trong lãnh địa thần chết. Ngài vào và ra khỏi đó như một người chủ vì Ngài nắm giữ chìa khóa sự chết và âm phủ (Kh 1,18). Ngài đã chịu chết nên Thiên Chúa đã ban triều thiên vinh quang cho Ngài (Dt 2,9); Ngài trở nên “trưởng tử giữa các vong nhân” (Cl 1,18). “Nhờ sự chết của mình, Chúa Giêsu đã giao hòa chúng ta với Thiên Chúa” (Rm 5,10) “để chúng ta được lãnh gia nghiệp đã hứa cho” (Dt 9,15). Đối với người Kitô hữu, chính cái chết thân xác mang một ý nghĩa mới. Chết không còn là một định luật con người đành phải tuân theo, đành phải chấp nhận hay một hình phạt do tội lỗi gây ra. Người Kitô hữu “chết cho Chúa”, như đã sống cho Chúa (Rm 14,7; Pl 1,20). Nếu họ hy sinh đổ máu để làm chứng cho Chúa, cái chết của họ là một hy lễ tiến dâng lên Thiên Chúa (1Tim 4,6) và đáng được triều thiên sự sống (Kh 2,10; 12,11).

Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống.Tin vào Ngài là thông hiệp vào sự sống lại sau khi chết, khiến cái chết không còn nghĩa lý gì nữa. Cái chết của Ladarô chỉ là một giấc ngũ (Ga 11,11), người tin Chúa sẽ coi nhẹ cái chết chỉ như một giấc ngũ, một chặng đường dẫn tới sự kết hợp vĩnh viễn với Chúa. Đức tin, nền tảng tư duy dẫn vào cuộc đổi mới đời mình và đổi mới cả môi trường trần thế đang là đất sống của con người tại thế. Từ chỗ là do định luật thiên nhiên đáng lo sợ, cái chết trở thành cõi phúc “Phúc thay những người chết trong Chúa” (Kh 14,13), để được sống đời sống mới và ở đó “không còn sự chết nữa” (Kh 21,4). Đối với những ai sống lại với Chúa Kitô sẽ không có “cái chết lần thứ hai” (Kh 20,6). Như thế đối với người Kitô hữu, chết là một phúc lợi vì được chính Chúa Kitô là sự sống (Pl 1,21).

Thiên Chúa là Đấng có quyền trên sự sống của con người. Chúa Giêsu hứa ban sự sống lại vào ngày sau hết cho những ai tin vào Ngài. Chúa Giêsu đã nối kết niềm tin vào sự sống lại của con người với niềm tin vào chính sự sống lại của Ngài: “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25; 1Cor 15,16-19). Chúa Giêsu đã đưa ra một chiều kích hiện sinh mới, mở ra cho ta con đường tiến tới chân lý sự sống bằng sự chết mà Ngài đã thực hiện. Chính sự tử nạn và phục sinh của Ngài làm cho mọi cái chết trở thành Tin Mừng của sự sống.

Chúa Giêsu không chỉ yêu thương chúng ta bằng tình yêu thần linh của một vị Thiên Chúa, mà còn yêu bằng chính tình cảm đầy tính người của con người. Và dù mang tính con người, tình yêu ấy vẫn rất bao la, quảng đại và triệt để: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1b). “Đến cùng” ở đây là tới mức tận cùng của tình yêu con người, không ai có thể yêu hơn được nữa: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).

Sự chết và sống lại của Chúa Giêsu Kitô không những đã chuộc lại những gì con người đã mất do tội lỗi nhưng còn là một cuộc sáng tạo. Nhờ sự chết và sống lại mà Ngài đã nối nhịp cầu hiệp thông liên kết giữa Thiên Chúa và con người, thiết lập một tương quan mới Cha con. Nhân loại từ đây không những được ơn tha thứ, được gột rửa sạch tội lỗi để khỏi án chết đời đời, nhưng còn được trở nên con cái Thiên Chúa, được gọi Người là Abba, Cha ơi (Rm 8,15).

Sự sống mà Thiên Chúa ban cho con người khi sáng tạo là sự sống trong tương quan giữa Hoá Công và thọ tạo. Sự sống mà Chúa Kitô đem lại cho con người là sự sống trong tương quan giữa Thiên Chúa là Cha và loài người được nâng lên địa vị làm con. Sự sống “tự nhiên” là một thực tại khách quan. Sự sống mới hay sự sống  “siêu nhiên” là một trạng thái ân tình mà con người phải đi vào để được thực sự thông hiệp với Thiên Chúa.

Tin và sống trong ân tình Chúa Kitô chính là chiến thắng sự chết, là mang trong mình mầm mống của sự sống đời đời. “Ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ chết” (Ga 11, 26; 1Ga,14). “Không bao giờ chết” là không bao giờ mất hiện hữu trong tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa, không bao giờ mất sự sống trong tương quan ân tình với Người.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con.

Xin cho chúng con được sống lại trong niềm tin vào Chúa để chúng con được sống dồi dào trong tình thương của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

SỰ SỐNG

Lm. Trần Việt Hùng 

La-gia-rô chết ba ngày,

Mồ chôn xác rữa, ai hay phận người.

Phàm nhân sống chết ở đời,

Tự nhiên theo luật, ơn trời trao ban.

Ma-ry tin nhắn nài van,

Chúa về thăm bạn, bệnh nan khó lành.

Vài ngày lưu lại trong thành,

Biết rằng ông chết, du hành hỏi han.

Họ hàng thân quyến khóc than,

Mar-tha gặp Chúa, kêu van đôi lời,

Em con vắn số cuộc đời,

Ơn Thầy cứu giúp, chưa rời thế gian.

Quyền Thầy cao cả trên ban,

Em con đã chết, yên hàn tấm thân.

Ra đi tới mộ sát gần,

Giê-su thổn thức, thế trần lệ rơi.

Thương thay kiếp sống con người,

Ngước lên cầu nguyên, tuyệt vời ân thiên.

Bước ra khỏi mộ nhãn tiền,

La-gia-rô sống, nhân hiền trời ban.

Người Ấn Độ có một suy tư nói rằng khi bạn mở mắt chào đời, bạn khóc và mọi người quanh bạn thì vui mừng. Bạn tiếp tục sống cuộc đời riêng tư. Khi bạn nhắm mắt lìa đời. Mọi người chung quanh sẽ khóc thương bạn, nhưng bạn lại vui trong an bình.

Câu truyện của ông Lazarô trong bài Phúc Âm hôm nay nhắc nhớ về cuộc đời của mỗi người chúng ta. Có sinh ắt có tử. Sinh ra là chúng ta bắt đầu đi dần tới sự chết. Lazarô chia sẻ cuộc sống như mỗi người chúng ta. Có sinh ra, lớn lên, rồi bệnh hoạn và chết. Khi chết đi đã có nhiều người thương tiếc. Chính Chúa Giêsu và các tông đồ cũng nhớ thương đến nhỏ lệ.

Đứng trước sự chết, con người đành bó tay. Một khi đã tắt hơi thở trở về cõi bên kia, khoa học văn minh cũng đầu hàng. Lazarô chết, có nhiều người đến viếng thăm. Người ta đã chôn xác ông ta được ba ngày rồi. Có nghĩa là theo luật tự nhiên xác đã đang rữa thối.

Rất may mắn, nơi đây có sự hiện diện của Đấng ban sự sống. Chúa Giêsu chính là nguồn sống. Chúa đã dùng quyền phép mình cho Lazarô chết ba ngày được sống lại. Quyền năng của Chúa cao vượt trí khôn loài người. Không ai có thể hiểu được. Mọi người trố mắt nhìn xem, nhưng không hiểu. Thiên Chúa đứng cạnh bên mà người ta vẫn không nhận ra. Chính Chúa đã phán: “Ta là sự sống và là sự sống lai. Ai tin vào Ta sẽ không phải chết”.

Chúng ta thường thấy trên các tấm bia mộ nơi nghĩa trang, đều có ghi tên tuổi và năm tháng ngày sinh và ngày từ trần. Các con số được ghi qua một gạch nối. Cuộc sống dài hay ngắn cũng chỉ có một gạch nối bẳng nhau. Gạch nối là biểu hiệu cho biết thời gian chúng ta đã sống bao lâu trên trần gian. Thật vậy, đời sống dài hay ngắn không quan trọng. Chỉ quan trọng là làm sao chúng ta sống một cuộc đời có ý nghĩa và để lại nhiều mến thương.

Chúa Giêsu sau khi bị kết án tử hình trên thập giá và chôn trong mồ, Chúa đã sống lại vinh hiển. Đây chính là niềm hy vọng sống lại ngày sau hết của chúng ta. Chúa Giêsu là đầu chi thể, tất cả chúng ta là chi thể mầu nhiệm của Ngài. Chúa đi trước mở lối cho chúng ta bước theo. Đặt niềm tin tưởng nơi Chúa Kitô phục sinh, chúng ta cũng sẽ được phục sinh với Ngài.      

Về mục lục

.

CHÚA KHÓC

 Lm. GB. Trần Văn Hào

Cái chết là ẩn số lớn nhất mãi luôn đeo bám phận người. Làm người ai cũng phải chết. Ẩn số này là bài toán không có lời giải đối với bao triết gia cũng như các lãnh tụ tôn giáo từ xưa đến nay. Nhưng đáp án cho bài toán nan giải này đã được Chúa Giêsu khải thị trong trình thuật Tin Mừng hôm nay. Trước khi cho Lazarô sống lại, Chúa đã nói với Matta : “Thầy là sự Phục sinh và là Sự Sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy thì không bao giờ phải chết”. Phép lạ làm cho Lazarô trỗi dậy sau 4 ngày được mai táng trong huyệt mộ đã chứng minh quyền năng Thiên Chúa nơi Đức Giêsu.

Chúa khóc.

Đứng trước cái chết của Lazarô, Chúa Giêsu đã thổn thức, đã xao xuyến trong lòng và đã khóc (c 33, 38). Chúa Giêsu là một Thiên Chúa rất Thiên Chúa, đồng thời cũng là một con người rất con người. Là Thiên Chúa quyền năng, Ngài có thể làm cho kẻ chết sống lại, điều mà con người không ai có thể làm được. Nhưng, là con người, Chúa cũng từng run sợ khi đối diện trước cái chết. Chung hòa kiếp sống làm người, Chúa vui với kẻ vui, khóc với người khóc. Ngài chung chia niềm vui cũng như nỗi buồn với bất cứ ai. Lặng đứng trước ngôi mộ nơi an táng người quá cố, Chúa Giêsu đã bật khóc.

Chúa Giêsu khóc không phải chỉ vì thương tiếc người bạn thân thiết đã ra đi. Ngài cũng không rơi lệ chỉ để tỏ bày lòng thương cảm đối với 2 chị em Matta và Maria. Nhưng Chúa đã khóc khi nghĩ đến phận người, và chính Ngài cũng đang chung chia thân phận bi thương ấy. Chúa biết trước rằng mình sẽ chết, một cái chết kinh hoàng và khủng khiếp giống như một tên tội phạm bị nhận xuống tận đáy bùn đen của xã hội loài người. Ngài sợ, và nỗi khiếp sợ này được tái hiện rõ nét hơn trong cơn hấp hối nơi vườn cây dầu. Ngài kinh hãi đến độ mồ hôi trộn với máu toát ra. Đứng trước mùi tử khí, Chúa đã khóc, những tiếng khóc kèm theo bao đau đớn vì biết trước rằng, mình sẽ phải nếm trải cái chết giống như vậy.

Chết là gì?

Đây là câu hỏi hóc búa nhất từ xưa đến nay. Đây cũng còn là bài toán trầm kha mà bao triết gia đã nhọc công vắt óc suy tư mà mãi vẫn không tìm ra được đáp án. Triết gia Jean Guitton, bạn thân của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã kể lại một giai thoại. Hồi còn nhỏ, ban đêm ông ngủ với mẹ. Nhà hàng xóm bên cạnh có người chết. Giữa đêm khuya tĩnh lặng, có tiếng khóc ai oán vang xa nghe thật não nuột. Thằng bé sợ quá ôm chồm lấy mẹ. Nó thì thầm hỏi : “Mẹ ơi, chết là gì hở mẹ?” Bà mẹ trẻ lúng túng không biết trả lời đứa bé thế nào. Bà bật dậy ngồi vào bàn lấy cuốn Kinh thánh ra đọc. Trong Tin Mừng Gioan bà đọc thấy đoạn viết: “Trước lễ vượt qua, Đức Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng (Ga 13,1)”. Gấp sách lại, bà trở về giường và trả lời đứa con:  “Con ơi, chết là trở về với Cha và yêu thương đến cùng”. Nơi Đức Giêsu, chết không phải là một dấu chấm hết, kết thúc cuộc đời cách vô nghĩa, nhưng là cửa ngõ mở thông dẫn đến một chân trời mới. Chết không phải là sự ra đi nhưng là cuộc hành trình trở về, trở về với Chúa Cha. Cái chết của Đức Giêsu trở nên cánh cửa đưa dẫn đến sự Phục sinh vinh thắng và đây là đáp án cho mọi ẩn số nơi thân phận bi thương của kiếp người. Thánh Augustinô đã viết: “Có một thời để sống, một thời để chết và một thời để đi vào vĩnh cửu. Thời để sống là lúc chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa. Thời để chết là lúc chúng ta đến gặp gỡ Ngài. Thời đi vào vĩnh cửu là lúc chúng ta chiếm hữu Ngài cách trọn vẹn”. Đáp án cho bài toán nan giải về sự chết chính là ở đây.

Lazarô đã chết và được Chúa cho phục sinh. Nhưng, chàng thanh niên được Chúa cho sống lại chỉ là tạm thời. Cuối cùng anh cũng phải chết một lần nữa, phải đi vào thân phận cát bụi. Khởi đầu mùa chay thánh với việc cử hành nghi thức xức tro, Giáo hội đã nhắc lại cho chúng ta về chân lý này.

Ta là Sự Phục sinh và là Sự Sống

‘Phép lạ xảy ra là để anh em tin’ (c 15). Chúa Giêsu đã nói trước như thế. Trong sách Tin Mừng thứ tư, thánh Gioan đã nhiều lần nhắc đi nhắc lại đích nhắm của Ngài là: “Tin vào Đức Giêsu – Đấng Kitô, và ai tin thì có sự sống đời đời”. Cũng vậy, việc Chúa cho Lazarô sống lại không phải nhằm phô diễn một kỳ tích để cho thiên hạ vỗ tay. Chúa cũng không thực hiện phép lạ chỉ vì có lòng thương cảm mang tính riêng tư đối với các thành viên trong gia đình Bêtania, mặc dầu người Do Thái xầm xì: “Kìa xem, ông ta thương Lazarô biết mấy”. Trước khi làm phép lạ, Chúa đã nói với Matta “Thầy là sự sống lại và là sự sống” và Ngài hỏi tiếp “Chị có tin như thế không”(c.26).

Trong các trình thuật của Gioan, đức tin luôn là điều kiện để dẫn tới các phép lạ.

Lời tuyên bố của Chúa Giêsu trên đây không phải là một lối nói cường điệu hóa như trong xã hội thời nay, nhiều người vẫn hay ‘nổ’ một cách kênh kiệu và khá lố bịch. Đức Giêsu là Thiên Chúa đầy quyền năng, một Thiên Chúa hằng sống, Đấng không bao giờ phải chết, nhưng Ngài đã đi vào trần gian, mang lấy kiếp người hèn hạ và đã đón nhận cái chết một cách bi thương. Đây là một nghịch lý cao cả và nghịch lý đó đã được giải mã nơi biến cố Phục sinh. Vì vậy, Giáo hội hôm nay muốn nhắc lại để chúng ta xác tín điều mà Chúa công bố : “Tôi là Sự Phục sinh và là Sự Sống”.

Kết luận

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu trên giường hấp hối đã thì thào nói với các chị em trong cộng đoàn : “Em sắp chết, nhưng không phải em chết mà em đang tiến về cõi sống”. Trong tập sách ‘Nhật ký một tâm hồn’, chị thánh cũng ghi lại : “Ơn gọi của tôi là tình yêu. Tình yêu là tất cả. Tình yêu vượt mọi thời gian và không gian. Ơn gọi của tôi không là gì khác ngoài tình yêu.” Tình yêu chính là tên gọi của Thiên Chúa như Thánh Gioan tông đồ đã khẳng quyết. Ai ở trong tình yêu người đó ở trong Thiên Chúa và sẽ không bao giờ phải chết, bởi vì Thiên Chúa là Đấng bất tử. Tư tưởng thần học này cũng được lập lại trong phụng vụ hôm nay để chúng ta suy gẫm. Trong sứ điệp mùa chay năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng mời gọi chúng ta hãy thực hành tình yêu cách cụ thể, đừng bắt chước thái độ sống của người phú hộ giàu có keo kiệt khi đối mặt với Lazarô nghèo khổ (Lc 16, 19-31). Nơi người phú hộ, sự ham mê của cải, thói ưa thích những lạc thú chóng qua và hay phô trương cái tôi, là ba hình thái loại trừ tình yêu chân thực, gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống và cuối cùng sẽ bị án phạt đời đời.

Trong mùa chay thánh, xin Chúa giúp chúng ta thực hiện cuộc hoán cải nội tâm để luôn biết bám chặt vào Đức Giêsu, Đấng là Sự Phục sinh và là Sự Sống, và là đối tượng duy nhấtcủa đức tin nơi chúng ta.

Về mục lục

.

MIỀN SINH, CÕI TỬ

Trầm Thiên Thu

Sinh – Tử là hai thái cực, hai đầu “mở” và “đóng” của cuộc lữ hành trần gian. Thật vậy, chính Chúa Giêsu cũng đã qua hai “ngưỡng” này – từ Belem tới Can-vê. Thế gian có nhiều loại “cuộc”, nhưng có lẽ đặc biệt nhất là cuộc đời, với đủ thứ nhiêu khê đan xen trong cái “cõi sống” đó!

Cuộc đời cũng là cuộc sống, là sự sống, nhưng không là Nguồn Sống. B. Brech nói: “Cái đáng sợ không phải là chết, mà là sống rỗng tuếch”. Cách “sống rỗng tuếch” là sống-như-chết, tức là “chết ngay khi còn sống”. Còn Maxwell Winston Stone nói: “Đừng nghĩ đến cái chết về thể xác mà hãy trả lời câu hỏi: Bạn đã hoàn thành sứ mệnh của cuộc đời mình chưa? Nhắc đến cái chết và chuẩn bị cho cuộc hành trình sang thế giới bên kia dường như khiến người ta bị quan, lo sợ. Nhưng theo nghĩa lạc quan, có một điều mới lạ sắp đến. Khi đó, bạn không còn cảm giác lo lắng hay sợ hãi nữa”. Biết nghĩ đến cái chết để cố gắng sống tốt hơn, chứ không để bi quan hoặc yếm thế.

Chắc chắn ai trong chúng ta cũng có hai sự sống: Sự sống thể lý và sự sống tâm linh. Người vô thần cũng có hai sự sống, dù họ cố ý chối bỏ phần tâm linh. Chắc chắn rằng sự sống tâm linh quan trọng hơn, vì đó là sự sống của linh hồn, mà chính linh hồn mới làm cho thân xác sống. Tuy nhiên, điều quan trọng phải ghi nhớ là chỉ có Thiên Chúa mới là Nguồn Sống (Tv 36:10). Thật vậy, Chúa Giêsu đã minh định: “Chính Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống (Ga 14:6). Và Thánh Vịnh gia cũng đã phân tích rạch ròi: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy Sinh Khí lại, chúng tắt thở ngay mà trở về cát bụi. Sinh Khí của Ngài, Ngài gửi tới, chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104:29-30).

Thật vậy, Cựu Ước đã xác định rằng “chính Ngài ban Sự Sống cho muôn vật, muôn loài” (Nkm 9:6), và nguyên tổ A-đam là người đầu tiên được đón nhận sự sống: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi Sinh Khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2:7). Được sinh ra làm người đã là một hồng ân rồi, dù chúng ta như thế nào – thậm chí là sống đời thực vật. Tất nhiên, chúng ta không có quyền đòi hỏi hoặc chọn lựa gì cả, bởi vì  “Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử”, Ngài có thể “đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên” (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13). Đó là quyền của Ngài, được thể hiện qua sự quan phòng và tiền định từ thuở đời đời.

Sự sống rất cần, vì thế mà mọi người đều có trách nhiệm bảo vệ sự sống. Sự sống liên quan không khí. Không khí là dưỡng khí, là ô-xy để chúng ta hít thở. Thiếu không khí vài phút là mọi vật chết hết. Chính không khí là đại hồng ân Thiên Chúa trao ban cho mọi loài, chúng ta sử dụng liên tục mà vẫn coi thường, thậm chí là vô ơn bạc nghĩa. Làm ô nhiễm môi trường là hủy hoại môi sinh, tiêu diệt sự sống, tự giết chính mình. Đó là tội lỗi!

Liên Hiệp Quốc cảnh báo rằng, kể từ Thế Chiến II tới nay, chúng ta đang sống trong cơn khủng hoảng nhân đạo dữ dội nhất. Hàng hàng lớp lớp đang chịu đói khát cả về thể lý lẫn tinh thần. Quả thật, đây là báo động đỏ cho thời đại của chúng ta ngày nay vậy.

Thuở xưa, Thiên Chúa đã nói với ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Ngươi hãy tuyên sấm, hãy nói với chúng rằng Đức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Ít-ra-en. Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta!” (Ed 37:12-13). Được ra khỏi huyệt mộ là thoát chết, tức là được sống. Thật là Đại Phúc cho ai được như vậy!

Và chẳng đâu xa, mỗi chúng ta đã và đang được nhận phúc lớn đó. Thật vậy, Thiên Chúa đã nói như một lời giải thích: “Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, Ta đã phán là Ta làm” (Ed 37:14). Chúng ta được Thiên Chúa “thổi hơi” để trao ban Thần Khí, nhờ đó mà chúng ta có thể sống. Và còn hơn thế nữa, vì chúng ta còn được sống dồi dào (Ga 10:10), theo mong muốn của Chúa Giêsu. Nếu chúng ta không thể sống dồi dào là lỗi tại chúng ta. Lời Chúa xác quyết “Ta đã phán là Ta làm” khiến chúng ta an tâm. Quả thật, Ngài không hề sai lời và Ngài rất thẳng thắn, một là một chứ không xấp xỉ hoặc tương đương. Tuyệt vời là như thế đấy!

Tình trạng “ở trong bóng tối” tức là CHẾT, tình trạng “ở trong ánh sáng” tức là SỐNG. Chúng ta chết vì chúng ta ở trong bóng tối – bóng tối tội lỗi. Vì thế, chúng ta luôn phải khẩn cầu: “Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu” (Tv 130:1-2). Đó là lời cầu cấp tốc, lời cầu khẩn cấp, như tiếng còi vang lên từ xe cứu thương hoặc hiệu lệnh báo động.

Ôi, lại một hồng ân nữa: Chúng ta biết đánh tín hiệu cấp cứu “S.O.S” nên được cứu sống, nhờ Thiên Chúa đến kịp. Vâng, ước gì mỗi khi gặp hoạn nạn, chúng ta luôn biết “dò làn sóng của Thiên Chúa” bằng cách van xin: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài” (Tv 130:3-5). Tuy nhiên, muốn được như vậy cũng không hề dễ dàng, nếu chúng ta không “hết lòng mong đợi và cậy trông ở lời Chúa” (Tv 130:5). Thật vậy, nếu thực sự muốn “sống cho đúng nghĩa”, chúng ta phải tâm niệm rạch ròi: “Hồn tôi trông chờ Chúa, hơn lính canh mong đợi hừng đông. Hơn lính canh mong đợi hừng đông, bởi Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chuộc nơi Ngài chan chứa. Chính Ngài sẽ cứu khỏi tội khiên muôn vàn” (Tv 130:6-8).

Thiên Chúa không ngừng phát “sóng hồng ân” liên tục 24/7, chúng ta không bắt được sóng của Ngài có thể là vì chúng ta không có ăng-ten, không muốn bắt “sóng thương xót” hoặc không muốn nghe các chương trình của Ngài vì cảm thấy “không hợp” với mình, cũng có thể vì thế mà chúng ta thích bắt các đài khác hợp ý mình hơn, nhưng khốn thay đó lại là các làn sóng của thế gian và Satan. Đó là “sống mà như chết”, thân xác thì sống thật đấy mà linh hồn lại chết rồi!

Chúng ta biết rằng chuyện sống – chết liên quan vấn đề xác – hồn. Điển hình và dễ nhận thấy là sự sống của thân xác. Nhưng cũng nên phân biệt rạch ròi hai vế là “xác thịt” (nhục thể, cụ thể) và “tính xác thịt” (trừu tượng). Đôi khi “tính xác thịt” còn nguy hiểm hơn “xác thịt”. Có lẽ vì thế mà Giáo hội “đề nghị” lời cầu nguyện trong mầu nhiệm thứ Năm của Mùa Thương: “Xin cho con biết đóng đinh tính xác thịt vào Thánh Giá Chúa”. Vả lại, chính Chúa Giêsu cũng đã cảnh báo: “Tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:41; Mc 14:38).

Rất có thể khi nghe nói như vậy sẽ có người muốn “nổi loạn” và muốn “kiện” Chúa. Tại sao? Bởi vì họ cho rằng Ngài đã tạo nên một dạng thân-xác-yếu-hèn. Ý nói là Chúa đã “cài đặt” mặc định (default) như vậy rồi, y như máy vi tính đã “đóng băng” (Deep Freeze), chúng ta có thay đổi mọi thứ thì nó cũng trở về “mặc định” sau khi nó được khởi động lại (restart). Nhưng KHÔNG phải như vậy. Thật ư? Vấn đề thứ nhất: đó là mầu nhiệm, chúng ta không đủ trình độ để hiểu. Vấn đề thứ nhì: Thiên Chúa không bao giờ tạo dựng điều xấu, vì Ngài là Đấng chí thánh, nơi Ngài CHỈ CÓ ĐIỀU TỐT chứ KHÔNG CÓ ĐIỀU XẤU.

Quả thật, Thánh Phaolô đã nói: “Những ai bị tính xác thịt chi phối thì không thể vừa lòng Thiên Chúa” (Rm 8:8). Nhưng chúng ta thật may mắn vì chính tội-nhân-chúng-ta được trở thành con cái của Thiên Chúa, điều mà Thánh Phaolô đã giải thích: “Anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Kitô thì không thuộc về Đức Kitô” (Rm 8:9). Còn hơn cả sự tuyệt vời!

Đối với chuyện sinh – tử, Thánh Phaolô giải thích và xác định chi tiết: “Nhưng nếu Đức Kitô ở trong anh em thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính. Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8:10-11).

Và Kinh Thánh cũng đã nói: “Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên” (1 Sm 2:6). Quả đúng là như vậy, vì “Thiên Chúa nắm chủ quyền trên mọi xác phàm” (Đn 14:5), chính “Chúa Cha đã ban cho Người [Đức Kitô] quyền trên mọi phàm nhân” (Ga 17:12) và “trên mọi chi tộc” (Kh 13:7). Rất rõ ràng, rất rạch ròi, không có gì mơ hồ!

Tin Mừng hôm nay là trình thuật Ga 11:1-45, kể lại một chuyện-cổ-tích-có-thật thế này: Một người bị đau nặng tên là La-da-rô, quê ở Bê-ta-ni-a, em trai của hai chị em cô Mác-ta và Ma-ri-a (người sau này sẽ xức dầu thơm và lấy tóc lau chân Chúa Giêsu). Một hôm, anh La-da-rô bị đau nặng và… tắt thở. Chuyện buồn xảy ra hằng ngày, không của riêng ai, vì ai cũng tới lúc này. Và ai cũng đã nhiều lần có cảm giác mất mát người thân hoặc bạn bè, càng nhiều tuổi càng trải qua nhiều cảm giác “lạ” này.

Ngay khi biết em trai bị bệnh nặng, khó qua khỏi, hai chị em gái cho người đến báo tin buồn cho Đức Giêsu: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng”. Chúng ta thấy rõ ràng La-da-rô là “người mà Chúa Giêsu thương mến”, thế nhưng Ngài vẫn thản nhiên bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh”. Giữa lúc dầu sôi lửa bỏng thế mà Chúa Giêsu vẫn bàng quan thế ư? Không phải đâu, Ngài không dùng từ nào thừa hoặc thiếu, nhưng rất chính xác và đầy đủ, vì Ngài biết Ngài là ai và Ngài sẽ làm gì.

Chúng ta được biết rằng Chúa Giêsu quý mến cả ba chị em Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô, bằng chứng là Ngài đã lưu lại thêm hai ngày ở nhà họ. Sau đó, Ngài cùng các môn đệ trở lại Giu-đê. Các môn đệ thấy người Do-thái mới tìm cách ném đá Thầy, nên muốn can ngăn. Nhưng Ngài vẫn bình tĩnh bảo họ: “Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng mặt trời. Còn ai đi ban đêm thì vấp ngã, vì không có ánh sáng nơi mình!”. Một bài học nữa về cách sống tâm linh mà Chúa Giêsu dạy cho chúng ta, đặc biệt là các Kitô hữu.

Khi đó, Chúa Giêsu bảo họ: “La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên giấc. Tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây”. Các môn đệ nói: “Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khoẻ lại”. Các môn đệ không hiểu ý của hai từ “yên giấc” mà Ngài dùng, họ tưởng Ngài nói về việc ngủ nghỉ bình thường. Thật ra Ngài muốn đề cập SỰ CHẾT. Và rồi Ngài phải nói toạc móng heo luôn: “La-da-rô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy”. Ôi chao! Thấy người ta chết mà lại bảo là “mừng”. Coi bộ “căng” dữ nghen! Thế nhưng đúng là như vậy, Ngài mừng vì Ngài không có mặt ở đó để người ta thêm tin khi thấy việc Ngài làm: Cải tử hoàn sinh cho La-da-rô.

Hôm đó, các đệ tử đã đồng tâm nhất trí muốn “cùng chết với Sư Phụ”. Tốt lắm, ít ra cũng là như thế! Cuộc sống cần nhớ điều này: Dù CHƯA LÀM được điều mình MUỐN thì ít ra cũng phải biết MUỐN điều mình MUỐN THỰC HIỆN.

Chắc hẳn là La-da-rô bệnh nặng lắm nên mới mau chết như vậy. Bởi vì dù đường không xa, nhưng khi Chúa Giêsu đến nơi, người ta đã an táng La-da-rô được bốn ngày rồi. Kinh Thánh cho biết rằng Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem không xa, chưa đầy ba cây số, nhưng thời đó cuốc bộ suốt nên mất nhiều thời gian. Có nhiều người Do-thái đến chia buồn với chị em Mác-ta và Ma-ri-a. Dân làng với nhau mà, có chuyện gì cũng chia sẻ với nhau – dù là việc hỉ hay việc hiếu.

Khi nghe tin Đức Giêsu đến, cô Mác-ta liền vội ra ngõ đón Ngài, còn cô Ma-ri-a thì cứ ngồi ở nhà, cứ bình thường, ra vẻ như chẳng có gì quan trọng. Phong cách bình thản như thế kể cũng hay thật đấy! Nhà hiếu chưa yên chuyện buồn thì lại có chuyện khác. Cuộc đời thật là rắc rối như mớ bòng bong vậy!

Vừa gặp Chúa Giêsu, Mác-ta nói ngay: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. Ngài liền bảo: “Em chị sẽ sống lại!”. Mác-ta thưa rằng cô vẫn tin kẻ chết sống lại trong ngày sau hết. Nhưng Ngài nói rõ: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết”. Ngài hỏi Mác-ta có tin thế không, Mác-ta cũng xác tín: “Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”. Một lời tuyên xưng tuyệt vời quá đỗi!

Sau đó, Mác-ta vội đi nói nhỏ với Ma-ri-a: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy!”. Nghe vậy, Ma-ri-a liền đứng lên và đến với Đức Giêsu. Lúc đó, Ngài chưa vào làng, vẫn ở chỗ Mác-ta đã ra đón. Những người Do-thái thấy Ma-ri-a vội vã đứng dậy đi ra thì cũng đi theo, vì họ tưởng cô ra mộ khóc em.

Khi đến gần Đức Giêsu, Ma-ri-a liền phủ phục dưới chân và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết”. Thật là tội nghiệp hết sức! Thấy cô khóc, những người Do-thái đi với cô cũng khóc, và chính Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến. Có lẽ Ma-ri-a khóc em trai dữ lắm, đặc biệt là thể hiện niềm thương nỗi nhớ của chị dành cho em. Khi đó, Ngài hỏi xác anh ấy ở đâu. Họ mời Ngài đến mộ, và Ngài cũng bật khóc. Thấy thế, người Do-thái bảo nhau: “Kìa xem! Ông ta thương anh La-da-rô biết mấy!”. Có vài người trong họ dặt vấn đề rằng Đức Giêsu đã từng mở mắt cho người mù mà sao lại không làm cho anh ấy khỏi chết. Nghe họ nói vậy nên Chúa Giêsu lại thổn thức trong lòng. Thương lắm chứ, thương cả người chết và người sống, thế nên Ngài đã thể hiện “chạnh lòng thương” tới ba lần! Rồi Ngài đi tới mộ La-da-rô, phiến đá vẫn đậy kín cửa hang. Ngài bảo người ta lăn phiến đá ra. Mác-ta vội ngăn lại, và bảo đã nặng mùi, bởi vì La-da-rô đã an táng được bốn ngày rồi. Lúc đó, Chúa Giêsu nhắc lại chuyện đức tin, và không ai có thể nói gì thêm nữa.

Ngay sau khi phiến đá được đem đi, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con”. Nói xong, Ngài nói lớn: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!”. Ôi chao, thật là diệu kỳ, người chết bật dậy và lù lù đi ra trong khi thân xác vẫn còn quấn vải liệm. Chắc hẳn lúc đó ai cũng phải kinh ngạc. Đức Giêsu điềm nhiên bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi”. Hai bà chị cũng ngạc nhiên không kém, nhưng họ rất vui mừng, không chỉ vì em trai sống lại mà chính là họ biết niềm tin của họ vào Thầy Giêsu là điều hoàn toàn chính xác.

Thánh sử Gioan cho biết thêm rằng trong số những người Do-thái đến đám tang La-da-rô hôm đó cũng đều được chứng kiến việc Đức Giêsu làm cho người chết sống lại, và trong số đó có nhiều kẻ đã tin vào Ngài. Họ thật diễm phúc vì đã tin. Tất nhiên cũng vẫn có những kẻ cứng lòng, một phần vì họ cố chấp, không muốn tin mặc dù thấy nhãn tiền. Ngày nay cũng vẫn có nhiều người cố chấp như thế đấy!

Hôm nay, khi đề cập vấn đề chuyện sinh – tử và có liên quan đức tin, chúng ta cùng nhớ lại một mối phúc đặc biệt – ngoài Tám Mối Phúc – mà Chúa Giêsu đã nói với tông đồ Tô-ma sau khi Ngài từ cõi chết sống lại: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20:29). Và đó cũng là lời “nhắc khéo” đối với chúng ta hôm nay vậy!

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng sinh, xin thương ban thêm đức tin cho con, bởi vì đức tin của con còn yếu đuối lắm, và con biết chắc rằng nếu không có Ngài thì con không thể làm được bất cứ điều gì (Ga 15:5). Abba – Lạy Cha! Xin giúp con biết cách biến đổi chính sự yếu đuối của con thành sức mạnh nhờ Đức Kitô, để dù SỐNG hay CHẾT, con vẫn mãi chỉ thuộc về Ngài mà thôi. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Người Tôi Trung đau khổ và Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT V MÙA CHAY – NĂM A

Lm. Anthony Trung Thành

Bệnh tật, chết chóc là những nỗi khổ của con người. Nhưng có khi qua bệnh tật, chết chóc con người lại nhận được những bài học có giá trị cho cuộc sống. Chúng ta có thể thấy được điều này qua “sự cố” của ông Ladarô mà câu chuyện Tin Mừng hôm nay kể lại.

1. Bài học thứ nhất: Sự liên đới và quan tâm giúp đỡ

Đó chính là tình liên đới giữa Đức Giêsu với ba chị em Martha, Maria và Ladarô: Xét về phạm vi tự nhiên, giữa Đức Giêsu và ba chị em của Martha có một mối tương quan tình bạn gần gũi, thân thiện và trong sạch. Hiện diện với nhau khi vui, có mặt với nhau khi buồn, đồng cảm với nhau trong mọi hoàn cảnh. Trong một xã hội mà con người dễ bị cám dỗ sống dửng dưng với nhau như hôm nay, thì tình liên đới tốt đẹp giữa Đức Giêsu với ba chị em nhà Martha là mẫu gương cho mỗi người chúng ta noi theo.

Đó là tình liên đới giữa các thành viên trong gia đình: Khi biết Ladarô bị bệnh, hai chị em Martha và Maria đã cho người nhắn tin cho Đức Giêsu: “Người Thầy yêu đau nặng” (Ga 11,3). Việc làm này thể hiện sự quan tâm của Martha, Maria đối với em là Ladarô. Trong cuộc sống, chúng ta cần có sự liên đới giúp đỡ nhau, nhất là giữa những người thân thuộc trong gia đình. Khi một ai đó trong gia đình bị bệnh, những thành viên khác cần quan tâm giúp đỡ, nhất là tìm thầy chạy thuốc, để người ốm đau được khám chữa bệnh một cách chu đáo hầu mong chóng khỏe lại.

2. Bài học thứ hai: Làm Sáng Danh Chúa

Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước, khi các môn đệ hỏi Đức Giêsu về trường hợp anh mù từ khi mới sinh. “Anh ta bị mù là do tội anh ta hay do tội của cha mẹ anh ta?” Đức Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9, 3). Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, khi Martha và Maria sai người đến báo tin cho Đức Giêsu biết “Người Thầy yêu đau nặng.” Đức Giêsu cũng trả lời rằng: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa và do đó Con Thiên Chúa sẽ được vinh hiển” (Ga 11,4). Và sau đó, diễn biến của câu chuyện Tin Mừng thực sự đã làm sáng danh Thiên Chúa. Bởi vì, qua câu chuyện Tin mừng này niềm tin của các Tông đồ được cũng cố, chính Đức Giêsu đã nói: “Ladarô đã chết. Nhưng Thầy mừng cho các con, vì Thầy không có mặt ở đó để các con tin. Vậy chúng ta hãy đi đến nhà ông”(Ga 11,14). Không những niềm tin các Tông đồ được cũng cố mà niềm tin nơi các người hiện diện cũng được cũng cố. Chính Martha thưa với Đức Giêsu khi Ngài hỏi về niềm tin rằng: “Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian” (Ga 11, 27). Và nhiều người Do thái cũng đã tin vào Đức Giêsu khi chứng kiến phép lạ này (x. Ga 11,45).

3. Bài học thứ ba: Giúp mọi người hiện diện tin vào sự sống đời sau

Phép lạ Đức Giêsu cho ông Ladarô sống lại báo trước sự phục sinh của Ngài sau này, đồng thời hé mở cho chúng ta thấy viễn tượng sống lại trong ngày sau hết như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy.”

Thật vậy, con người có hai sự sống: sự sống thể xác và sự sống linh hồn. Trong bài đọc II, Thánh Phaolô gọi là sự sống phần xác và sự sống theo Thần Khí. Cũng vậy, con người có hai cái chết: chết về phần xác và chết về phần linh hồn.

Đối với phần xác: Có ngày khai sinh, có ngày khai tử. Không ai sống mãi ở trên cõi đời này. Người trẻ cũng chết. Người già cũng chết. Người giàu cũng chết. Người nghèo cũng chết. Người có quyền cao chức trọng cũng chết. Người thường dân cũng chết. Ladarô trước khi được Đức Giêsu cho sống lại cũng đã chết 4 ngày và chắc chắn sau đó ông cũng phải chết. Đức Giêsu vì mang bản tính con người cho nên Ngài cũng chết. Nhưng đức tin kitô giáo dạy chúng ta “xác loài người ngày sau sẽ sống lại.”

Ngoài phần xác, con người còn có phần linh hồn. Linh hồn nhận được sự sống của Thiên Chúa khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Linh hồn được nuôi dưỡng nhờ Bí tích Thêm sức, Giao Hòa, Thánh Thể, Xức dầu… Sự sống linh hồn sẽ được kéo dài vĩnh viễn bên Chúa khi con người chết trong ơn nghĩa Chúa. Chúng ta gọi là chết lành. Đó là trường hợp của ông Ladarô trong “dụ ngôn nhà phú hộ và ông Ladarô” (x. Lc 16,19-31), đó là tình trạng của năm cô khôn ngoan trong “dụ ngôn mười trinh nữ” (x. Mt 25,1-13), đó là tình trạng của những người đứng bên hữu Đức Giêsu trong ngày phán xét (x. Mt 25, 31.46). Đó là tình trạng của các thánh trên Thiên đàng. Chính Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nói: “Nếu một mai bạn thấy tôi nằm chết, bạn đừng buồn, vì chính Cha chung của chúng ta là Thiên Chúa đã đến đón tôi đi, đơn giản vậy thôi.”

Nhưng sự sống linh hồn cũng có thể bị chết do tội lỗi. Khi con người cố tình phạm tội trọng thì coi như linh hồn đã chết. Nếu tình trạng đó kéo dài sau khi chết cả phần xác thì sẽ lâm vào tình trạng chết đời đời. Chúng ta gọi là chết dữ. Đó là tình trạng của nhà phú hộ trong “dụ ngôn người phú hộ và ông Ladarô,” năm cô trinh nữ khờ dại trong “dụ ngôn mười trinh nữ” và những người đứng bên tả Đức Giêsu trong ngày cánh chung.

Tóm lại, sự cố của ông Ladarô là cơ hội để con người thể hiện sự quan tâm và tình liên đới với nhau. Đặc biệt đây là dịp để làm sáng danh Chúa và củng cố niềm tin vào sự sống đời đời của chúng ta.

Lạy Chúa, chúng con cám tạ Chúa đã cho chúng con có đức tin, nhất là đức tin về sự sống đời sau. Xin cho mỗi người chúng con không chỉ tuyên xưng niềm tin mà còn thể hiện niềm tin đó trong cuộc sống để ngày sau chúng con được sống mãi với Chúa trên Thiên Đàng. Amen.

Về mục lục

.

TIN CHÚA GIÊSU LÀ CHÚA CỦA SỰ SỐNG

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Khao khát sống là khao khát mãnh liệt và sâu thẳm trong mỗi con người. Khi đối diện với bệnh tật, tai nạn bất thường, con người chợt nhận ra sự mong manh của cuộc sống. Cho dù y khoa đã phát triển đến mức độ cao, nhưng vẫn không giúp con người được an tâm mỗi khi đối diện với bệnh tật, không thể kéo dài được sự sống cho con người. Cái chết vẫn là điều ám ảnh nhiều người và là nỗi sợ hãi tột cùng cho những ai đang đối diện với nó.
Niềm tin dân gian cho rằng: Sống hay chết là do mệnh trời. Còn những Kitô hữu tin rằng: Thiên Chúa là Đấng hằng sống và là Đấng ban sự sống, Ngài không dựng nên sự chết. Cái chết là do ma quỷ và tội lỗi gây ra, cái chết trở thành đau khổ tột cùng của con người. Người đem cái chết đến cho nhân loại chính là nguyên tổ.
Lời Chúa tuần thứ V Mùa Chay hôm nay cho thấy, Thiên Chúa không vui khi thấy con người phải chết, Ngài không đành lòng khi nhìn thấy con người đau khổ dằn vặt bởi sự chết. Vì thế, qua miệng của Ezekien, Thiên Chúa đã báo trước cho Israel: Hỡi dân Ta, chính ta sẽ mở huyệt cho các ngươi, ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Israel. Lời này được cống bố khi dân Israel đang chịu cảnh lưu đầy khốn khổ tại Babylon, cuộc sống khổ sai khiến họ sống mà như đã chết.  Israel sống trong sự áp bức, ngục tù tăm tối, không hy vọng, không tương lai, như người đã chết bị vùi trong nấm mồ. Với lời tiên báo của Ezekien, Israel như được tăng sức mạnh, được hồi sinh và hy vọng Thiên chúa sẽ đưa họ ra khỏi cảnh chết chóc tù ngục này. Thiên Chúa không chỉ hứa đưa họ lên khỏi nấm mồ, mà còn hưa ban thần khí của Ngài vào tâm hồn họ để họ có thể sống một cuộc đời mới, với một sinh khi mới, có nghĩa là họ sẽ được hoàn toàn biến đổi. Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa đó khi cho họ được hồi hương trở về Giêrusalem tái thiết đền thờ, tái thiết quốc gia và tổ chức lại các việc tế tự. Từ đây, một trang sử mới mở ra cho cả dân tộc Israel.
Tuy nhiên, việc Thiên Chúa hồi sinh dân tộc Israel vẫn chỉ để báo trước về việc Thiên Chúa là chủ sự sống, Ngài có quyền trên sự chết, Ngài sẽ làm cho kẻ chết sống lại, ban tặng sự sống cho những ai tin tưởng nơi Ngài. Chúa Giêsu là hiện thân lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Ngài đến để chia sẻ thân phận đau khổ của con người, cảm thông với nỗi đau tột cùng khi con người phải đối diện và bất lực trước cái chết.
Tin Mừng Gioan muốn minh chứng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Đấng chạnh lòng thương và là Đấng có quyền trên sự sống và sự chết. Chúa Giêsu cũng là con người với tất cả những cảm xúc tự nhiên của con người. Sống trên trần gian, Chúa có những học trò thân tín là các tông đồ. Ngài cũng có những người bạn để tâm sự và thường lui tới thăm hỏi, như Lazarô và các chị em Matta, Maria. Thánh Gioan kể lại chuyện Matta và Maria cho người đến báo tin cho Chúa Giêsu: Người thầy yêu thương đang bệnh nặng. Chúa Giêsu đã không thể đến ngay để thăm người bạn và Ngài còn nói trước với các môn đệ: Qua căn bệnh của người bạn này, mọi người sẽ thấy quyền năng Thiên Chúa nơi Ngài. Khi đến nới, nhìn thấy cảnh đau khổ của chị em Matta và Maria, Chúa Giêsu đã không thể cầm lòng, Ngài đã khóc. Sự xúc động của Chúa Giêsu không chỉ là sự mủi lòng, nhưng là sự cảm thông sâu sắc bởi vì chính Ngài đã mất một người bạn thân, hai chị em cô Matta và Maria đã mất người em. Sự xúc động này còn là sự cảm thông trong thân phận con người khi đối diện với nỗi đau quá lớn, đó là sự chết, mà không ai có thể cưỡng lại được.
Là một người dễ xúc động và cảm thông, Chúa Giêsu đã rơi nước mắt trước cái chết của Lazarô, nhưng với quyền năng Thiên Chúa nơi Ngài, Ngài không chịu thua cái chết, Ngài không thể để cho cái chết mãi thống trị nhân loại. Chúa Giêsu sẽ thể hiện sức mạnh quyền năng của mình trên sự chết với điều kiện mọi người phải tin Ngài là Thiên Chúa. Tin Mừng cho thấy, để đi đến sự xác tín vào Chúa Giêsu, Đấng là sự sống lại và là sự sống, chị em cô Matta phải đi từng bước và được sự nâng đỡ của Chúa Giêsu.
Khung cảnh đầu tiên Tin Mừng giới thiệu là sự u buồn của cả hai chị em Matta, Maria, họ dường như đã hoàn toàn suy xụp vì cái chết của Lazarô. Khi nghe tin Chúa Giêsu đến, Matta đi đón Chúa, cô chỉ còn một chút hy vọng mong manh: Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, con biết Thấy xin gì cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy. Chúa Giêsu không nỡ để cho ánh lửa đức tin mong manh này bị vụt tắt, Ngài đã khích lệ Matta: Em con sẽ sống lại. Cô Matta đã chưa thể bước một bước dài trong đức tin để tin vào sự sống lại, nên cô đã trả lời: Con biết, vào ngày tận thế, khi mọi người sống lại thì em con cũng sống lại.
Một lần nữa, Chúa Giêsu đã khơi lên để mời gọi Matta tin: Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ sống. Ai sống mà tin vào Thầy thì không bao giờ phải chết. Chị có tin như thế không? Cô Matta đã công khai tuyên xưng niềm tin của mình: Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian. Qua lời tuyên xưng này, cô Matta đã tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, Đấng mà các tổ phụ, các tiên tri đã loan báo. Cô còn tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, tức là tin Ngài là chính Thiên Chúa, Đấng làm chủ sự sống va sự chết, Đấng tạo dựng vũ trụ muôn vật muôn loài, Ngài nắm giữ giềng mối của vạn vật mọi loài.
Đối với cô Matta, từ việc tuyên xưng đức tin đến việc thực hành cụ thể vẫn là một thử thách. Khi Chúa Giêsu ra lệnh: Hãy mở nắp mộ Lazarô ra thì cô Matta đã ngăn cản: Thưa Thầy, đã nặng mùi rồi, vì em con đã chết bốn ngày. Một lần nữa, Chúa Giêsu đã phải khích lệ đức tin của cô khi nói: Thầy đã nói với chị, nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa !
 Sau khi ngước mắt lên trời cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã cất tiếng gọi: Lazarô, hãy ra khỏi mồ! Người chết từ trong mồ bước ra, tay chân vẫn còn quấn băng vải. Chúa Giêsu ra lệnh cho mọi người: Cởi khăn và vải cho anh ấy, Lazarô đã được hồi sinh trở lại với cuộc sống. Nhiều người chứng kiến phép lạ đã tin vào Chúa Giêsu.
Con người chúng ta luôn cảm thấy cuộc sống thật mong manh, cảm thấy sợ hãi khi phải đối diện với đau khổ, bệnh tật, nhất là đối diện với cái chết. Cái chết luôn là nỗi đau khổ dày vò, không chỉ vì thân xác phải tàn lụi, nhưng là vì không biết điều gì sẽ xảy ra sau khi chết, và số phận của mình sau cái chết là gì? Nhiều người đã thất vọng buông xuôi trong sợ hãi.
Lời Chúa hôm nay khơi lên cho chúng ta niềm tin và hy vọng vào lời hứa của Chúa Giêsu: Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào thầy dù có chết cũng sẽ được sống và ai sống mà tin vào Thầy thì sẽ không phải chết. Tin vào Chúa Giêsu, chắc chắn không chỉ là lời tuyên xưng trên môi miệng, nhưng phải là sự gắn bó cuộc đời trọn vẹn với Chúa, trung thành theo Chúa cả lúc vui lẫn khi buồn, phó thác cho Chúa tất cả tương lai và cuộc đời mình. Chúng ta chỉ có thể được sống khi chúng ta đón nhận sự sống Chúa trao ban qua Bí tích Thánh Thể và qua Lời Chúa. Chúa đã hứa: Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời; và Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ Lời Chúa phán ra.
Cái chết thể xác là điều tất yếu của thân phận con người, nhưng sẽ vô cùng kinh khủng khi con người để cho mình phải chết cái chết về phần linh hồn. Xin cho chúng ta luôn trung thành theo Chúa và đón nhận sức sống của Chúa ngay từ hôm nay để chúng ta được nuôi dưỡng bằng sức sống của Chúa để khỏi chết đời đời. Amen.

Về mục lục

.

PHẢI TIN NHƯ THẾ NÀO?

 Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại!” chúng ta vẫn tuyên xưng như thế mỗi lần đọc kinh tin kính. Ki-tô hữu tin chắc một ngày kia mình sẽ được Chúa cho sống lại, cho dầu chưa một ai có kinh nghiệm về điều đó. Niềm tin này về mặt tâm lý thật rất quan trọng, vì trước hết nó có tác dụng kìm hãm con người khỏi một cuộc sống buông thả, sa đọa. Ta vẫn thường tự hỏi, những người tự xưng mình là vô thần là duy vật, nếu quả thực họ xác tín mình như thế, thì động lực nào thôi thúc họ làm lành lánh dữ đây? Thế nhưng câu chuyện thánh sử Gio-an viết về ông La-da-rô được Đức Giê-su cho sống lại sau bốn ngày đã chôn cất trong phần mộ lại không đơn giản chỉ nhằm minh chứng cho niềm tin rằng con người sẽ được sống lại. Đúng hơn đoạn Tin Mừng buộc mỗi người chúng ta giáp mặt với một vấn nạn còn quan trọng hơn thế nhiều: tôi có hay không đặt niềm tin trọn vẹn nơi một mình Đức Ki-tô Giê-su là chính nguồn sống và ‘là sự sống lại’ của tôi?

Giống như phần đa các người Do Thái khác, cô Mác-ta tin rằng hết thảy mọi người một ngày kia sẽ sống lại: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. Tuy nhiên Đức Giê-su không đòi cô chỉ tin có một điều như thế; khi hỏi: “Chị có tin thế không?” điều Người muốn cô (và mọi tín hữu) phải tuyên xưng là: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”; thoạt nghe có vẻ như cả hai câu nói lên cùng một điều duy nhất, tuy nhiên nhìn kĩ ta mới khám phá ra rằng: câu Đức Giê-su khảng định có nội dung khác hẳn với câu Mác-ta tuyên xưng.

Mà quả thực là như vậy! Đáp lại câu hỏi “Chị có tin thế không?” cô Mác-ta đã vội vã sử dụng công thức tuyên tín quen thuộc: “Thưa Thầy, có! Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”. Cô thành thực tin rằng: Đức Giê-su quả là đấng Ki-tô; và như thế có nghĩa là Người chắc chắn có mọi quyền năng được Thiên Chúa ban cho; rồi cũng chính nhờ quyền năng đó mà Người có thể cứu cậu em La-da-rô mình khỏi chết: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. Niềm tin đó tự nó đã cao đẹp lắm rồi, nhưng hình như vẫn còn quá yếu để cô nắm chắc rằng cậu em sẽ được sống lại. Quả vậy, khi Đức Giê-su truyền lăn phiến đá lấp cửa mồ ra, cô còn hớt hải phảng kháng:  “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày!” Đối với cô, quyền năng của Thiên Chúa chỉ có thể cứu sống La-da-rô khi chưa chết, chứ không thể làm cho ông anh ‘đã chết bốn ngày rồi’ chỗi dậy. Cho dù Đức Giê-su có quyền năng gì đi chăng nữa, thì cũng chỉ tới mức độ đó mà thôi.

Không thỏa mãn với niềm tin đó, Đức Giê-su khảng định cách chắc nịch và căn cơ hơn: “Chính Thầy là sự sống lại sự sống!” Người còn thêm: ai tin điều đó, tất nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng, nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” Làm cho một kẻ đã chết về thể lý sống lại thì rõ ràng quyền năng của Thiên Chúa đã được chứng tỏ, còn nếu hoàn lại sức sống thần linh cho một kẻ đã chết trong tội thì lại càng phải biểu lộ vinh quang đó cách rõ rệt hơn (xem Mc 2:9-10)! Thế nhưng không may là thường khi chúng ta lại có ấn tượng ngược lại. Hơn nữa tin rằng Thiên Chúa là đấng hằng sống thì dễ, nhưng nhận biết ‘Ngài sự sống lại’ thì ta chưa quen… Lý do là vì: nếu Thiên Chúa là sự sống lại, thì điều đó có nghĩa là: Người phải chết trước đã. Bất kỳ sự sống lại nào cũng đều phải kinh qua sự chết, cũng như bất cứ ai được sống lại về thể lý hay thần linh thì trước hết cũng đều phải kinh qua cái chết thể lý hay tinh thần; khảng định: “Chính Thầy sự sống lại”, Đức Giê-su tuyên bố trước cái chết của Người trên thập giá. Dầu là hiện thân của Thiên Chúa hằng sống, thì để sự sống lại, Người cũng nhất thiết phải kinh qua cái chết; nhất thiết phải tự hủy mình ra như không (xem Pl 2:7), phải bỏ trời xuống thế, phải mang lấy thân phận tội lỗi yếu hèn và nhận lấy cái chết của toàn nhân loại. Ta có thể nói: qua Đức Ki-tô, chính Thiên Chúa cũng trải qua cái chết; “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ… Ai tin vào con của người thì khỏi phải chết” (Ga 3:16-17; cũng cần xem thêm Ga 5:21.24). Vì là sự sống lại, nên Người không phải chỉ hằng sống và làm cho kẻ khác sống lại, mà chính Người cũng chết và sống lại; do đó sẽ là điều tự nhiên thôi: “Ai tin vào Thầy thì dù có chết cũng sẽ được sống!” Điều này chắc chắn Mác-ta không hiểu, nhưng Ki-tô hữu chúng ta thì phải khác; kinh nghiệm hàng ngày cống hiến cho ta muôn vàn dịp để thâm tín điều này, khởi đầu từ lãnh nhận Phép Rửa để nhen nhúm lên niềm tin sống lại; rồi những lần xưng tội sau những lỗi phạm và sa ngã…, trong đời sống mình Ki-tô hữu củng cố không ngừng niềm tin: Đức Ki-tô quả là, và liên tục là sự sống lại của tôi!

Phải, để tin chắc rằng Đức Giê-su chính là sự sống lại của mình, mỗi chúng ta đều cần có cảm nghiệm tội lỗi, một điều không khó vì trong suốt một đời người chẳng ai mà không có! Mùa Chay gửi tới các Ki-tô hữu sứ điệp: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng!” điều đó có nghĩa là: nhờ sám hối, tức là từ kinh nghiệm chết trong tội, chúng ta mới có thể tuyên xưng cách mạnh mẽ và tràn trề hy vọng: ‘Chúa chính là sự sống lại, là Cứu Chúa của tôi!’ Như thế, Thập Giá và Phục Sinh phải là một Tin Mừng liên hoàn duy nhất, chết và sống lại chỉ là hai mặt của cùng một lòng thương xót thứ tha của Thiên Chúa đối với con người mà thôi.

Tôi cần học lấy bài học quan trọng này, nhất là vào dịp cuối Mùa Chay thánh: nếu cùng chết với Đức Ki-tô, tôi chắc chắc sẽ cùng được sống lại với Người (xem Rm 6:4).

Lạy Chúa từ nhân, bây giờ thì con mới hiểu: chỉ có Chúa mới có thể biến kinh nghiệm ‘chết trong tội’ của con thành nguồn sống mới dồi dào; con mới hiểu được sức sống phục sinh được thánh Âu-tinh phát hiện trong cái chết của tội lỗi mình, để rồi ngài dám hét to lên: “Ôi tội hồng phúc!” Xin cho con cũng biết ngợi ca và tôn vinh Chúa không ngừng về ‘yếu tính’ tuyệt vời này của Người. Xin Chúa làm cho đời con, giữa các kinh nghiệm u tối của tội lỗi, luôn tìm thấy nơi Chúa ánh vinh quang bất diệt của sự sống lại. A-men

Về mục lục

.

DẤU CHỈ PHỤC SINH

P. Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn, Lời Chúa tuần IV Mùa Chay cho chúng ta biết Đức Kitô là “Ánh Sáng thế gian “, ánh sáng thật. Vâng, ý nghĩa” ánh sáng “ , thật quan trọng. Bởi vì, không ai tiêu diệt được ánh sáng, người ta dù tìm mọi cách để “ quy chụp” ánh sáng, nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nhưng không ai có thể “che đậy”  được ánh sáng thật, vâng, vì ánh sáng thật xuyên qua kẽ lá, xuyên qua bất cứ nơi nào có khe hỡ, dù là lỗ kim.

Vì vậy, Chúa Giêsu là “Ánh Sáng chân lý ”, tức là ánh sáng mặt trời, Người được gọi là: “Mặt Trời công chính”. Hôm nay đây, Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Chay, Chúa Giêsu nhắc lại Người là “Ánh Sáng” đó ( Ga 11, 9 -10). Chúa Nhật V Mùa Chay là Chúa Nhật cuối Mùa Chay, cho chúng ta biết Chúa Giêsu là Đấng hằng sống, nơi Người không có sự chết, nhưng , Người sẽ bước qua cuộc “Tử Nạn”, cho thấy tội ác nơi phàm nhân lớn lao đến độ nào.

Vâng, “Ánh Sáng chân lý” có nghĩa là “bất tử”, Chúa Giêsu không phải là “thầy phù thủy”, việc Người làm hôm nay minh chứng điều ấy. Vâng, Lazaro không phải là người đầu tiên và duy nhất được Chúa Giêsu cho “sống lại”. Tin Mừng ( Ga 5, 50) cũng thuật lại phép lạ thứ hai ở Cana, Chúa Giêsu cho con trai của viên sĩ quan “không chết”, có nghĩa là sống.

Nhưng, việc Chúa Giêsu cho Lazaro sống lại hôm nay minh chứng cách xác thực, rõ ràng hơn, vì Lazaro “đã chết” hơn bốn ngày rồi. Điều nầy chính là ý nghĩa tiên trưng cho sự” phục sinh “ của Người. Chúng ta thấy, ý nghĩa của việc Chúa Giêsu cho Lazaro phục sinh là hình ảnh sống lại của Người. Việc minh chứng nầy như trong hai câu ( Ga 11, 41 -42), Chúa Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha,

                 rằng : “ Lạy Cha, Con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời Con. Phần Con, Con biết Cha hằng nhậm lời Con, nhưng, vì dân chúng đứng quanh đây, nên Con đã nói để họ tin là Cha đã sai Con.” (c 41  -42)

Vâng, điều quan trọng là : ” Cha đã sai Con “, câu nầy cho thấy, Chúa Giêsu không tự ý làm điều gì ngoài Thánh Ý Chúa Cha. Chúa Giêsu luôn thi hành Thánh Ý Chúa Cha. Người không tự mình làm điều gì khác, vì vậy, việc cho Lazaro sống lại là một việc nằm trong “kế hoạch” cứu độ loài người của Thiên Chúa, chứ không phải là “ý riêng” của Chúa Giêsu. Mọi việc làm của bất cứ ai “nhân danh “ Thiên Chúa mà hành động, đều là do bởi Thiên Chúa, vì vậy, khác với “ phù thủy ” là vậy.

Ai cũng biết, việc cho người chết sống lại không phải là một điều “bình thường”, điều nầy xác tín Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, bởi vì, ngoài Thiên Chúa ra không có sự sống thật, minh chứng cho thấy “quyền sống” và “làm cho sống “ ở nơi Thiên Chúa. Vì, Thiên Chúa có thể cho phép satan làm mọi thứ, nhưng satan không làm cho “sống”, vì satan có nghĩa là ”sự chết”.

Vâng, cái chết về phần nhân tính, thật đáng sợ, ai cũng phải sợ, phương chi là chết về phần linh hồn. Như vậy, chúng ta thấy ý nghĩa của “kế hoạch” cứu độ bởi Thiên Chúa, qua Đức Giêsu- Kitô là như vậy. Theo đó, chúng ta thấy ân sủng của Thiên Chúa là tình yêu vô biên, lòng thương xót cao cả là như vậy.

Người ta thường nói tinh yêu là “ mù quáng”, bởi vì tình yêu nơi nhân thế vốn nó đã mù quáng, vì nơi nhân thế không có ánh sáng thật, nhưng tình yêu nơi Đức Kitô là Con Thiên Chúa, có nghĩa là Ngôi Lời làm Người, là sự sáng thật, và là Thiên Chúa thật. Vì vậy, Chúa Giêsu đã nói : “Thầy chính là ánh sáng ban sự sống”.

Hôm nay, ánh sáng ấy, một lần nữa xác tín : “ Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống….” ( c 25), vì vậy ,  “Ai tin vào Thầy, thì dù có chết cũng sẽ được sống “.

Điều trên cho thấy, ngoài Chúa Giêsu ra không có sự “phục sinh”. Như vậy, chúng ta, “Áng Sáng Giêsu” là “Sự Sống Thần Linh”, từ ánh sáng tự nhiên, như ánh sáng mặt trời, hay ánh sáng của lửa, chúng ta nhìn thấy được, suy đến phần Nhân Tính của Chúa Giêsu, dù Người sẽ chết trên Thập Gía,  đến ánh sáng siêu nhiên là phần Thiên Tính của Người, tức nguyên lý của sự sống là Thần Khí, ( Thần là : sự sống ; Khí là : sự siêu nhiên, sự sống bay bổng), ( cũng có thể hiểu Thần là : Thiên Chúa, như vậy, Thiên Chúa là : Sự Sống) , ( như vậy, Thần Khí là sự sống của Thiên Chúa, vì vậy, người ta biết được Thiên Chúa hằng sống, linh hồn bất tử là như thế ), chúng ta thấy, Chúa Giêsu là sự sống siêu nhiên, làm chủ sự sống, tức Người là nguyên lý của sự sống, vì vậy, Người nói: “ Chính Thầy là sự sống lại và là  sự sống…” ( c 25).

Nhưng, điều kiện để được đón nhận sự sống “ vĩnh cửu ” nơi Chúa Giêsu là “ Lòng Tin “.

NIỀM TIN NƠI HAI CHỊ EM MACTA và MARIA :

  • Khi Chúa Giêsu đến nhà Lazaro, thì hai chị em Macta và Maria đều thưa với Chúa như sau : “ Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây , thì em con không chết” ( c 21, và c 32).
  • Chúa Giêsu nói : “ Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy , thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không ? “ ( c 25 -26)

Theo đó, Chúa Giêsu đã thẩm vấn niềm tin của Macta và chị đã thưa với Chúa như trên. Tiếp đến, chị Maria cũng đã tuyên xưng niềm tin như thế vào Chúa Giêsu .

Như vậy, điều kiện để được “ phục sinh ”, có nghĩa là đón nhận ơn cứu độ là phải “TIN “ vào Chúa Giêsu . Một sự tuyên xưng cần thiết và quan trọng không thể thiếu.

Bai đọc II (Rm 8, 8 -11) thánh Phaolo đã xác quyết như trên : “ Ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì không thuộc về Đức Kitô” ( c 9 c). Như vậy, ai không thuộc về Đức Kitô, thì không có phục sinh.

Khởi đi từ bài đọc I hôm nay ( Ed 37, 12 -14), : “ Đây Ta sẽ mở mồ mã các ngươi ra… Ta sẽ phú linh hồn vào thân xác các ngươi, thì các ngươi sẽ sống lại…”. Vậy, người Dothai vẫn “tin xác loài người ngày sau sống lại” là như thế, cũng là câu mà chị Macta đã thưa với Chúa Giêsu. Nhưng, khi Chúa Giêsu đến thì : “Chính Người là sự sống lại và là sự sống”. ( c 25).

Thánh Vịnh 129 cho chúng ta thấy : “sự sám hối chân thành và xin ơn tha thứ sẽ được ơn giải thoát “. Vì,  “ Nếu Chúa chấp tội, nào ai sống nổi, nhưng Chúa ban ơn khoan hồng khiến người đời suy phục kính tôn “ ( c 4).

Lạy Chúa Giêsu , Chúa đã mở mắt cho người mù, là cho biết Người là ” ánh sáng thế gian”, ánh sáng đức tin sẽ soi dẫn chúng con đến mầu nhiệm phục sinh, mà hôm nay Chúa đã cho Lazaro sống lại. Vì, Chúa chính là SỰ SỐNG LẠI VÀ LÀ SỰ SỐNG. Xin Chúa cũng mở lòng trí chúng con ra mà nhận biết Người là SỰ SỐNGTHẬT VÀ VĨNH CỬU . Muốn vậy, chúng con phải biết thi ân, giáng phúc cho tha nhân. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn đời./. Amen

Về mục lục

.

NIỀM TIN SỰ SỐNG LẠI

Anna Cỏ May

Ngày hôm nay có nhiều người và cả các bác sĩ đã phải ngạc nhiên trước những điều lạ. Một bệnh nhân tưởng chừng gần chết, vậy mà lại bình phục rất nhanh. Và họ cho đó là nhờ ơn trên. “Thánh An tôn hay làm phép lạ”. Đó là lời kinh cầu của mọi người xin Thánh nhân cứu giúp cho mau khỏi bệnh, được bình an và gia đình tai qua nạn khỏi. Đã không ít người được như ý muốn.

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy một phép lạ còn cao vượt hơn nữa. Phép lạ do Chúa Giê-su làm. Người được hưởng phép lạ ấy là ông La-da-rô đã chết và được sống lại.

  1. Lời nhắn tin của hai chị em

Trong những lần ghé tại Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su và các môn đệ thường đến trọ tại gia đình chị em Mát-ta. Sự ghé trọ đã tạo nên một mối thân tình cảm mến của gia đình với Chúa Giê-su. Vì mối thiện cảm ấy, khi em trai là La-da-rô bệnh nặng, Mát-ta cho người đến nói với Chúa Giê-su một câu ngắn ngủi: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng.”(x.Ga 11, 3). Lúc ấy Chúa Giê-su đang rao giảng tại xứ Pê-rê bên kia sông Gio-đan.

Đối với chúng ta, khi một người bạn thân mình mến hay một gia đình mình quen biết như người nhà, chẳng may họ gặp chuyện, ta liền chạy đến giúp đỡ. Còn trong Tin Mừng không nói gì về biểu hiện bất ngờ, sự lo lắng, hay đau buồn gì của Chúa. Người chỉ bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này Con Thiên Chúa được tôn vinh.”(x. Ga 11, 4). Lời Người nói khiến các môn đệ hiểu rằng La-da-rô chưa chết. Đối với người nhà La-da-rô thì họ đau khổ và thất vọng vô cùng. Chính giờ phút này là cơ hội để Chúa làm phép lạ, bẻ gãy sự chết và làm vinh danh Thiên Chúa. Chúa Giêsu còn lưu lại ở đó hai ngày.

  1. Ánh sáng đức tin

Sau hai ngày, Chúa Giê-su bảo các môn đệ: “Nào chúng ta cùng trở lại miền Giu-đê !”(x. Ga 11, 7). Các môn đệ lo lắng thưa rằng: “Thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm cách ném Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?” Đây là nỗi lo cho Thầy hay lo lắng cho bản thân đây? Chúa Giê-su biết rõ các môn đệ đang lắng lo, liền trấn an họ: “Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng mặt trời. Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình” (x.Ga 11, 9-10). Ngài muốn nói cho các môn đệ biết về ánh sáng và bóng tối. Chính Người là ánh sáng và Người luôn đi trong ánh sáng. Ánh sáng luôn thắng bóng tối, vì thế không có gì phải sợ.

Tuy vậy, các môn đệ vẫn sợ và tiếp tục ngăn cản Thầy mình: “Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khỏe lại.”(x.Ga 11, 12). Chúa Giê-su không nói bóng nói gió nữa mà khẳng định luôn: “La-da-rô đã chết”. Các môn đệ nghe lời ấy, liền đi cùng Chúa đến miền Giu-đê nhưng bên trong đang cố gắng lấy lại bình an.

  1. Mát-ta mất hết hi vọng

Khi Chúa Giêsu đến Giu-đê, thì La-da-rô đã được chôn bốn ngày rồi. Theo tục lệ Do-thái, việc an táng thường được cử hành cùng trong một ngày với ngày chết. Vì họ cho rằng, sau khi chết linh hồn người cố thường lượn lờ xung quanh để muốn chiếm đoạt thể xác, nên phải chôn cùng ngày. Đến ngày thứ tư thân xác mục rữa thì linh hồn sẽ ra đi vinh viễn. Ngày nay, chúng ta thường cho là “chết lâm sàng”. Chính vì vậy cô Mát-ta đã mất hy vọng, không còn tin em mình có thể sống lại. Nên khi Chúa đến cô đã nói rằng: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.” (x.Ga11, 21). Với ý nghĩ và mất niềm hy vọng, cô đã hiểu khác đi lời Chúa: “Em chị sẽ sống lại!” Cô Mát-ta thưa: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết.” Chúa Giê-su liền phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống.”(x.Ga 11, 23-25). Chúa Ki-tô là nguồn sự sống thiêng liêng và là nguồn lực sự sống lại. Ai tin vào Người thì linh hồn được hưởng một sự sống mà thần chết không tiêu diệt được và thể xác con người được sống lại trong vinh quang của Người.

  1. Chúa Giê-su rơi lệ

Đứng trước cảnh than khóc thảm thiết của chị em Mát-ta và mọi người, Chúa Giê-su “thổn thức và xao động”. Ngài biết rõ La-da-rô được cất ở đâu, nhưng vì cuộc sống Ngài đã tỏ ra như không biết: “Các ông để xác ông ấy ở đâu?”. Không ai nghĩ rằng Ngài sẽ làm phép lạ nên liền nói : “Thưa Thầy, xin đến mà xem.”(x. Ga 11, 34). Đến nơi phần mộ, Chúa Giê-su rơi lệ. Đây là lần đầu tiên người ta thấy Người khóc. Vì thế người Do-thái xầm xì với nhau, cũng có kẻ mỉa mai Người. Đó là một phản ứng tự nhiên về sự yếu đuối nơi con người là không chấp nhận người khác hơn mình cùng lòng ghen tương đố kỷ.

Chúng ta cũng sẽ ngạc nhiên như họ, vì Người vừa là Thiên Chúa vừa là con người lại xúc động rơi lệ. Thật là mầu nhiệm. Chúng ta không cầm lòng được trước những xúc động và dễ cho bản năng xao động theo cảm quan, lúc lo âu, lúc sợ sệt… Chúa xúc động trước những người nghèo khổ và tội lỗi. nhưng sự bộc lộ ấy chỉ trong chốc lát. Ngài không để nó ảnh hưởng đến công việc. Điều ấy cho chúng ta thấy Ngài hoàn toàn mang lấy những cảm xúc như chúng ta và Người hiểu rõ nỗi đau từng người.

  1. Chúa Giê-su làm phép lạ

Chúa Giê-su nói: “Đem phiến đá này đi.” Cô Mát-ta có phản ứng tự nhiên: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày.” (x.Ga 11, 39). Chúa Giê-su có lẽ sẽ có cảm giác buồn vì cô. Cô đã mất niềm hy vọng và niềm tin vào Chúa. Nhưng Người vẫn kiên trì tiếp tục nói với cô: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?”(x.Ga 11,40). Người mời gọi cô hãy có một lòng tin để đón nhận và tiên báo một phép lạ sắp xảy ra. Người ta đẩy tảng đá ra, mọi người có lẽ đang chăm chú nhìn Chúa sẽ làm gì. Còn Chúa Giê-su vẫn làm như Người thường làm, đó là cầu nguyện với Chúa Cha trước. Sau đó, Chúa phán: “Anh La-da-rô hãy ra khỏi mồ!” (x.Ga 11,43). Tức thì người chết liền đi ra. Trông thấy thế dân chúng không khỏi xúc động và tin vào Người. Bởi vì phép lạ Người làm giữa thanh thiên bạch nhật, vì La-da-rô đã chôn bốn ngày.

Chúa Giê-su làm phép lạ không hẳn vì tình bạn hữu hay vì tình thân thiết. Người còn tiên báo về cái chết và sự sống lại của Người đang gần kề. Vinh quang của Người sắp tỏ lộ. Đối với các Thượng tế thì họ lo sợ tìm cách ngăn cản một uy quyền đang lộ diện. Họ bàn bạc tìm cách giết Chúa. Bản án tử đã được treo lơ lửng trên đầu Người. Họ chỉ chờ cơ hội thuận tiện kết án Người mà thôi.

Lạy Chúa chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con biết trước cái chết và sự sống lại của Chúa qua ông La-da-rô. Xin cho chúng con hằng vững niềm tin vào Người trong mọi hoàn cảnh, và luôn phó thác vào Chúa cho đến giây phút cuối cùng. Nhờ đó, chúng con được hưởng vinh phúc trên Thiên đàng với Chúa. Amen.

Về mục lục

.

ĐỂ ĐÓN NHẬN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Trong muôn vàn nỗi sợ, thì sợ chết đứng hàng đầu. Thiết tưởng trên đời không có gì làm người ta khiếp sợ cho bằng sự chết. Tin khủng khiếp nhất là tin bị mắc bệnh ung thư, bị án tử hình… 

Và không gì đáng quý trọng, đáng khao khát trên đời cho bằng được vui sống, sống trong hạnh phúc và vĩnh cửu. 

Sự giòn mỏng của kiếp người  

Tuy nhiên, sự sống đời này lại rất mỏng giòn, mong manh, tạm bợ. Các em nhỏ ngày xưa có trò chơi thổi bong bóng thật hay. Các em hòa một ít xà phòng trong ly nước, rồi dùng một cọng rơm nhúng vào đó và bắt đầu thổi. Thế là rất nhiều quả bóng lớn nhỏ khác nhau xuất ra từ đầu cọng rơm, bay nhởn nhơ trong không gian, long lanh hấp dẫn, óng ánh muôn màu. Nhưng rồi, chỉ vài giây sau, bong bóng nầy nối tiếp bong bóng kia, bụp, bụp bụp…! Tan biến hết! Tất cả trở về hư không! 

Đời sống con người cũng thế. Chúng ta xuất hiện trên đời như những chiếc bong bóng xuất ra từ đầu cọng rơm, chúng ta nhởn nhơ trong cuộc đời, cuộc đời chúng ta cũng lóng lanh sắc màu như những quả bóng xà phòng kia và số phận chúng ta cũng như những quả bóng bé bỏng đó, kẻ trước người sau nối tiếp nhau từ giã cuộc đời. 

Đứng trước thân phận giòn mỏng, phù du của kiếp người, một nhà thơ Nguyễn Công Trứ than rằng: “Ôi, nhân sinh là thế, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao…” 

Nhờ đâu có cuộc sống lâu bền? 

Ai trong chúng ta cũng khát khao được sống, nhưng là muốn có được một đời sống lâu dài chứ không phải là đời sống giòn mỏng, tạm bợ; muốn có được một đời sống hoan lạc chứ không chỉ là một cuộc sống đầy gian truân khổ ải ở trần gian. 

Nhưng làm sao để có được đời sống tuyệt vời như mong ước? 

Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su bày tỏ cho chúng ta một bí mật tuyệt vời, một bí quyết giúp chúng ta chiếm hữu cho mình sự sống lâu bền bất tận, một đời sống hoan lạc trên thiên quốc. Bí mật đó, bí quyết đó đã được Chúa Giê-su bày tỏ từ hai ngàn năm qua, khi Chúa nói với Mác-ta là chị của La-da-rô,  khi anh này đã được mai táng bốn ngày: 

“Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Và bất cứ ai sống mà tin vào Ta sẽ không chết bao giờ.”  

Để minh chứng cho lời mình nói, Đức Giê-su đã làm cho La-da-rô sống lại, dù ông nầy đã an giấc trong mộ. 

Qua sự kiện nầy, Chúa Giê-su muốn tỏ cho chúng ta biết Ngài là nguồn ban sự sống.  

Như mặt trời là nguồn sáng cho địa cầu thế nào thì Chúa Giê-su là nguồn ban sự sống đời đời cho nhân loại như thế. Ngài đã ban lại sự sống cho người đã chết chôn trong mồ và chính Ngài sau khi chết đã tự mình sống lại.           

Làm sao để đón nhận sự sống đời đời từ Chúa Giê-su? 

Muốn đạt tới sự sống đời đời, thì chúng ta cần phải tin vào Đức Giê-su Ki-tô, như lời Ngài phán: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ.” 

Nhưng tin là gì?  Tin ở đây không phải là tin suông. Vì “đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Tin vào Đức Giê-su là gắn bó đời mình với Đức Giê-su, kết hợp với Ngài và sống như Ngài đã sống, là yêu thương phục vụ mọi người như Ngài đã nêu gương…  

Lạy Chúa Giê-su là nguồn ban sự sống,

Bóng đèn muốn được toả sáng thì phải được nối kết với nguồn điện;

Cành nho muốn được trổ sinh hoa trái phải được tháp nhập vào thân nho;

Bàn tay muốn sống còn và hoạt động thì phải nối liền với thân thể.  

Xin cho chúng con luôn kết hợp với Chúa cách mật thiết, như bóng đèn với nguồn điện, như cành nho với thân nho, như bàn tay với thân thể… để được đón nhận sự sống đời đời do Chúa truyền ban.

Về mục lục

.

SỐNG THẬT

AM. Trần Bình An

Hơn 1000 năm trước, một nhà sư Nhật Bản có tên Kukai tự ướp xác bản thân ở ngôi chùa trên núi Koya, tỉnh Wakayama. Theo  Epoch Times, nghi thức ướp xác Sokushinbutsu sẽ dẫn tới cái chết và bảo tồn cơ thể hoàn chỉnh. 

Kukai (774-835) là một nhà sư, công chức, học giả, nhà thơ, nghệ sĩ, đồng thời là người sáng lập của giáo phái bí truyền Shingon (kết hợp các yếu tố từ Phật giáo, Đạo Shinto, Đạo giáo, và nhiều tôn giáo khác). Cuối đời, Kukai đi vào trạng thái thiền định sâu, không sử dụng thực phẩm và nước, dẫn đến cái chết tự nguyện. Kukai được chôn trên núi Koya ở tỉnh Wakayama. Sau khai quật, các chuyên gia phát hiện thân xác nhà sư giống như một người đang ngủ, làn da không thay đổi và tóc mọc dài ra. Kể từ thời điểm đó, nghi thức ướp xác Sokushinbutsu bắt đầu phát triển. Một số tín đồ của giáo phái Shingon tự ướp xác, nhưng không xem đây là hành động tự sát mà như một hình thức giác ngộ. 

Quá trình tự ướp xác trải qua nhiều bước nghiêm ngặt và đau đớn. Trong 1000 ngày đầu tiên, họ có chế độ ăn đặc biệt gồm hạt và trái cây, thực hiện nhiều hoạt động thể chất để đẩy chất béo ra khỏi cơ thể. 

Họ chỉ ăn vỏ cây và rễ cây trong 1000 ngày tiếp theo và bắt đầu uống trà độc làm từ nhựa cây Urushi, gây nôn mửa và nhanh chóng làm mất các chất dịch của cơ thể, ở giai đoạn gần cuối. Chất độc đóng vai trò như một chất bảo quản, hạn chế vi khuẩn có thể làm phân hủy cơ thể. 

Sau khoảng sáu năm, các nhà sư tự nhốt mình trong một ngôi mộ bằng đá chỉ lớn hơn cơ thể một chút và đi sâu vào trạng thái thiền định, trong tư thế ngồi thiền “hoa sen” cho đến khi qua đời. Ống khí nhỏ sẽ cung cấp oxy cho ngôi mộ, trong khi nhà sư sẽ rung chuông để mọi người bên ngoài biết ông vẫn còn sống. Khi tiếng chuông không còn, ống dẫn khí oxy sẽ được gỡ bỏ và ngôi mộ bị bịt kín trong 1000 ngày. Sau khi mở ngôi mộ và xác nhận quá trình ướp xác thành công, nhà sư sẽ được tôn là Phật và thờ phụng trong chùa. Nếu cơ thể bị phân hủy, họ sẽ được chôn lại xuống đất. 

Hàng trăm nhà sư được cho là đã tự ướp xác, nhưng chỉ có 28 người thành công. Phương pháp tự ướp xác kéo dài đến khoảng thế kỷ thứ 19. (Lê Hùng, Nhà sư Nhật tự ướp xác như thế nào, Vnexpress) 

Chay tịnh để chuẩn bị chết, trở thành xác ướp, mai này thành Phật, được sùng bái. Nhà sư Kukai đã diệt được bản năng sống, nhưng chưa diệt nổi tam độc, tham, sân si, háo danh lợi. Như thế chỉ là sống vọng tưởng, chưa thể giác ngộ. Còn sống đúng với phận làm con Chúa, ngay bây giờ và tương lai, mới thiệt sự giá trị, hữu lý và xứng đáng đầu tư trọn vẹn cuộc đời tin theo Chúa. 

Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, Tin Mừng Gioan hôm nay tường thuật phép lạ Chúa cho Lazarô sống lại, sau bốn ngày chết trong mồ, hướng Kitô hữu đến cùng đích cao quý cuộc đời. Hai người chị đã hoàn toàn tin cậy Đức Giêsu: “Lạy Thầy, người Thầy yêu đau liệt.” Nhưng Người muốn thử thách những người thân yêu. 

Theo Chúa, cái chết chỉ là giấc ngủ 

“Ladarô bạn chúng ta đang ngủ, dầu vậy Ta đi đánh thức ông.” Dẫu người bạn Lazarô đã giã biệt người thân, chôn trong mồ, Đức Giêsu vẫn coi như Lazarô chỉ mới thiếp vào giấc ngủ ngắn ngủi, rồi sẽ thức dậy sống cuộc đời mới. 

Khi người tín hữu Kitô được nhận phép Thánh Tẩy, liền được hồi sinh, được nhận lãnh ân sủng Đức Chúa Thánh Thần với những hoa trái: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ.” (Gl 5: 22-23) Nhưng tội lỗi, thói xấu, đam mê xác thịt lại xiềng xích, trói buộc con người vào lại sự chết. 

Theo Chúa, được giải thoát khỏi cái chết 

Dẫu trầm luân trong ngục tù sự dữ tối tăm, ai tin theo Chúa, sẽ được giải thoát khỏi phận nô lệ, được thanh thoả, tự do làm con Chúa, nhờ ơn Cứu Chuộc của Đức Giêsu Kitô. Cả hai bà chị Martha và Maria đều tuyên xưng niềm tin, niềm cậy trông chân thật, mạnh mẽ, vững chãi vào Đức Giêsu, dù lòng đang xót xa, đau buồn.“Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết.” 

Mặc dù chú em Lazarô đã chết bốn ngày trong mồ, nhưng hai bà chị vẫn không hề chao đảo, nghi ngờ, khủng hoảng niềm tin, sói mòn niềm hy vọng. “Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy.”

Theo Chúa, sống viên mãn 

Nhân cứu thoát Lazarô ra khỏi cái chết xác thịt, Đức Giêsu mạc khải cho nhân loại biết Người chính là Đấng Ban Sự Sống: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ.” Cái chết phần hồn đời đời mới đáng sợ hơn cái chết phần xác phù du. Chỉ duy nhất Đức Giêsu mới có thể giải cứu con người khỏi trầm luân vĩnh viễn. 

Sống theo Chúa, lắng nghe và thực hiện Lời Chúa thì chắc chắn được Chúa thương cứu rỗi, sống vinh phúc bên Chúa.“Ai tuân giữ lời tôi, sẽ không bao giờ phải chết.” (Ga 8, 51) Người luôn ao ước mọi người đều trung kiên sống theo Người, để có thể chiến thắng và vượt qua sự chết.”Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.” (Mt 18, 14) 

Vào tuần 5 Mùa Chay, Đức Giêsu đang mong chờ tín hữu Kitô chân thành sốt sắng ăn năn, sám hối, can đảm từ bỏ bản thân, thế gian và ma quỷ, để trở về với Đấng Hằng Sống. Người từng tận tình nhắn nhủ: “Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.”(Lc 13, 3) 

Không phải tin một Chúa xa xôi mơ hồ, nhưng tin như Phêrô:    “Thày là Con Thiên Chúa hằng sống,” tin như Gioan: “Thiên Chúa là Tình Yêu.” (Đường Hy Vọng, số 277)

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con can đảm bỏ mình và mọi sự thế gian, quyết tâm theo Chúa, nghe Chúa, thực hành Lời Chúa, để chúng con được sống viên mãn. 

Khấn xin Mẹ Maria luôn cần bầu cho chúng con tràn đầy ba ơn trụ Tin, Cậy, Mến, để chúng con vững bền theo Chúa đến trọn đời, Amen.

Về mục lục

.

TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÂY PHÚT LÂM TỬ

JM. Lam Thy  

Khi suy niệm Lời Chúa Chúa nhật V Mùa Chay năm A (Bài đọc 1: “Xương cốt trong nấm mộ” – Ed 37, 12-14;  Bài đọc 2: “Tính xác thịt” – Rm 8, 8-11;  Bài Tin Mừng: “Anh La-da-rô chết đã 4 ngày được Đức Ki-tô làm phép lạ cho sống lại” – Ga 11, 1-45), kẻ viết bài này chợt giật mình nghĩ về cái chết. Vì biết chắc chắn là con người không ai thoát khỏi cái vòng kim cô “sinh – lão – bệnh – tử”, nên giáo lý Ki-tô giáo luôn nhắc nhở tín hữu phải hằng ghi nhớ là sau cái giờ phút lâm chung khắc nghiệt ấy, là một cõi sống (hoặc sống trong nơi vinh hiển, hoặc sống trong lò lửa không bao giờ tắt). Đó là lý do Giáo hội luôn kêu mời con cái cầu nguyện hàng ngày cho thời hiện tại của cuôc sống và cả tương lai khi giây phút lâm tử cận kề (“Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.” – Kinh Kính mừng). Ý thức tầm quan trọng đặc biệt của giây phút lâm tử, Tông thư Lòng Thương Xót và Nỗi Thống Khổ “Misericordia et Misera” (số 15) đã dạy:

“Cả ở đây nữa, chúng ta cũng thấy được tầm quan trọng đặc biệt của giây phút lâm tử. Giáo Hội bao giờ cũng cảm nghiệm thấy được cuộc vượt qua thảm thương này trong ánh sáng của Chúa Ki-tô phục sinh, một cuộc phục si-nh mở đường cho niềm tin tưởng vào sự sống đời sau. Chúng ta phải đương đầu với một thử thách lớn lao, nhất là trong nền văn hóa đương đại, một nền văn hóa thường có khuynh hướng coi thường cái chết cho đến độ coi nó như là một thứ ảo ảnh hay phủ lấp nó đi. Tuy nhiên, cần phải đối diện với cái chết và sửa soạn cho một cuộc vượt qua đớn đau và bất khả tránh, nhưng lại là một cuộc vượt qua chất chứa đầy những ý nghĩa, vì nó là tác động tối hậu của tình yêu đối với những ai chúng ta bỏ lại đằng sau cũng như đối với Thiên Chúa là Đấng chúng ta tiến lên gặp gỡ. Trong tất cả mọi tôn giáo, giây phút lâm tử, cũng như giây phút sinh vào đời, được hỗ trợ bởi sự hiện diện của đạo giáo. Là Ki-tô hữu, chúng ta cử hành phụng vụ an táng như là một việc cầu nguyện tràn đầy hy vọng cho linh hồn người quá cố cũng như cho niềm an ủi của những người đang phải chịu cảnh mất mát đi một người thân yêu.” 

Trở lại với bài Tin Mừng hôm nay (Ga 11, 1-45) trình thuật phép lạ Đức Giê-su cho anh La-da-rô chết chôn đã 4 ngày được sống lại. Sự kiện anh La-da-rô bị đau nặng đã được chị Mac-ta và Maria cho người đến báo tin cho Đức Ki-tô (chắc cũng có ý muốn xin Người chữa bệnh cho em mình); nhưng Người lại không tới liền mà mãi 2 ngày sau mới tới. Việc làm này mang ý nghĩa gì? Nếu Người tới liền, thì có thể anh La-da-rô sẽ không chết và như thế thì Đức Ki-tô cũng chỉ là một thầy lang giỏi chữa bệnh mà thôi. Còn nếu Người tới mà La-da-rô vẫn chết và dù sau đó có được Chúa cho sống lại, thì người đời (thông qua các môn đệ) vẫn bán tín bán nghi, làm sao có thể hiểu được rằng “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.” (Ga 11, 4). 

Đúng là các môn đệ đã không hiểu được ý nghĩa sâu xa trong Lời dạy của Đức Ki-tô, nên khi nghe Người nói: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu” và sau đó Người còn nói: “La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên giấc; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây.” (Ga 11, 11), các ngài đã cho là La-da-rô chỉ ngủ thiếp đi và sau giấc ngủ sẽ khoẻ lại. Sự kiện này khiến nghĩ tới lần Đức Giê-su chữa con gái ông trưởng hội đường (Mc 5, 35-43). Lần đó, Đức Giê-su cũng nói: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” (Mc 5, 39). Con gái ông trưởng hội đường đã chết, mọi người thương cảm than khóc, thì Đức Giê-su lại bảo là “nó ngủ đấy”. Lần này, nếu các môn đệ có cho rằng La-da-rô ngủ thì cũng không lạ. Và vì thế, Đức Ki-tô phải nói rõ hẳn ra: “La-da-rô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy.” (Ga 11, 14-15). 

Lời dạy “Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin” (Ga 11, 15) đã minh hoạ rõ ràng là Đức Ki-tô  có chủ định để La-da-rô chết chôn được 4 ngày mới lại thăm và tỏ uy quyền của Thiên Chúa cho anh ta sống lại. Đúng là đáng mừng cho các môn đệ lúc nào cũng cứ nửa tín nửa ngờ, thì đây là dịp được “thực mục sở thị” một phép lạ chỉ có Thiên Chúa mới làm được. Vâng, Đức Giê-su không có mặt khi anh La-da-rô chết, và Người còn để anh được chôn trong hang đá tới 4 ngày, xác chết đã nặng mùi, như thế thì các môn đệ mới thực sự tin rằng anh La-da-rô đã chết (chớ không phải chỉ ngủ say). Và nhờ đó, khi Đức Ki-tô tới kêu anh ta ra khỏi mồ, mọi người mới tin thật rằng: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống.” (Ga 11, 25). 

Quả thật, với các môn đệ lúc nào cũng bán tín bán nghi thì không còn cách nào để có thể củng cố đức tin cho các ngài hơn là dịp này. Được củng cố đức tin đến như thế, mà tới giờ phút phải bày tỏ niềm xác tín (Thầy bước vào cuộc khổ nạn, chết trên thập tự và sống lại hiển vinh) cũng vẫn còn nửa tin nửa ngờ. Đã không tin lúc Thầy còn sống và làm phép lạ, mà cả đến khi Thầy từ cõi chết sống lại hiển nhiên cũng vẫn hoài nghi. Tuy chỉ có một Tô-ma không có mặt lúc Thầy hiện ra nên mới bày tỏ sự hoài nghi (“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” – Ga 29, 25); nhưng còn những vị được diện kiến Thầy mình phục sinh hiện ra thì đã tin chưa? Nếu tin thì sao lại xảy ra cảnh “các ông kinh hồn bạt vía tưởng là thấy ma!” (Lc 24, 37)?

Ngay ở cái thế kỷ XXI này, sự hoài nghi còn vượt xa các Tông đồ tiên khởi. Hoá cho nên các ngài sống cách đây 2000 năm, nếu cứ hay nửa tin nửa ngờ cũng chẳng có gì đáng phàn nàn, vì bản chất con người là thế. Các tông đồ ở liền bên với Thầy mà cũng chỉ tin khi được trông thấy nhãn tiền người chết “chôn trong mồ đã 4 ngày và nặng mùi rồi”, Đức Ki-tô không hề chạm đến anh ta mà chỉ hô lớn tiếng: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!”, thì ngay lập tức anh ta bước ra khỏi mồ với khăn liệm còn quấn trên người. Một cách cụ thể thì các Tông đồ tiên khởi cũng như các Ki-tô hữu ở tiền bán thế kỷ XXI này vẫn rất cần được củng cố đức tin. Ấy cũng bởi vì: “Với Mác-ta, đang khóc thương cái chết của em trai mình là La-da-rô, Chúa Giê-su bảo: “Tôi đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa đó sao?” (Ga 11, 40). Ai tin, sẽ thấy; họ thấy bằng thứ ánh sáng đang soi sáng trọn cuộc hành trình của họ, vì ánh sáng này phát xuất từ Chúa Ki-tô phục sinh, sao mai không bao giờ lặn.”  (Thông điệp Ánh Sáng Đức Tin “Lumen Fidei”, số 1). 

Cuối cùng thì vấn đề đặt ra là “nếu chị tin, chị sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa”. Các ngôn sứ thời Cựu Ước cũng không ngoại lệ. Thật thế, “Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Ít-ra-en. Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta. Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh.” (Ed 37, 12-14). Vậy thì người Ki-tô hữu ở thế kỷ XXI này còn đợi gì mà không chân thành tái đặt trọn niềm tin của mình nơi Đấng đã phán dạy: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết.” 

Nói tóm lại, xin đừng ỷ tài cậy sức, mà coi thường cái chết như những trào lưu văn hóa cấp tiến thời đại, nhưng đồng thới cũng đừng sợ hãi thái quá để rồi chạy hết đền nọ đến miếu kia cúng vái các ngẫu tượng. Người Ki-tô hữu ngày hôm nay “cần phải đối diện với cái chết và sửa soạn cho một cuộc vượt qua đớn đau và bất khả tránh, nhưng lại là một cuộc vượt qua chất chứa đầy những ý nghĩa, vì nó là tác động tối hậu của tình yêu đối với những ai chúng ta bỏ lại đằng sau cũng như đối với Thiên Chúa là Đấng chúng ta tiến lên gặp gỡ.” (Tông thư Lòng Thương Xót và Nỗi Thống Khổ “Misericordia et Misera”, số 15). Nói cách khác, người Ki-tô hữu hãy tái đặt trọn niềm tin vào Đấng Phục Sinh, để cầu xin Người ban Thánh Linh thêm sức mạnh vượt qua thử thách, đồng thời củng cố đức tin cho vững mạnh. 

Muốn đạt ước nguyện, xin hãy chạy đến với Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đức Tin, mà khẩn thiết van nài: “Lạy Mẹ, xin Mẹ giúp đỡ đức tin chúng con! Xin Mẹ gieo vào đức tin chúng con niềm vui của Đấng Phục Sinh. Xin Mẹ nhắc nhở chúng con rằng người tin không bao giờ đơn độc. Xin Mẹ dạy chúng con biết nhìn mọi sự bằng con mắt của Chúa Giê-su, để Người là ánh sáng soi đường chúng con đi. Và ánh sáng đức tin này luôn gia tăng nơi chúng con, cho tới hừng đông của ngày bất tận là chính Chúa Ki-tô, Con Mẹ, Chúa chúng con!” (Thông điệp “Lumen Fidei – Ánh Sáng Đức Tin”, kết luận). Ước được như vậy. Amen.

Về mục lục

.

NIỀM TIN TÍN THÁC

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Người ta hay nói chơi rằng: “đời là bể khổ và qua được bể khổ là qua đời!”. Xem ra cuộc đời là một chuỗi năm tháng dài đầy những khổ đau và mất mát. Bể khổ cuộc đời cứ đan xen trong kiếp người đến nỗi mà cụ Nguyễn Du phải thốt lên rằng:

“Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”

Nhìn trò bãi bể nương dâu ấy con người thường ngậm ngùi nuối tiếc mà than thở:

“Khóc vì nỗi thiết tha sự thế
Ai bày trò bãi bể nương dâu”

Nhưng có người lại hỏi rằng: Đời có thật là “bể khổ” không? Hay chỉ những người nghèo mới khổ, người giầu có tiền rừng bạc biển, “có tiền là có tất cả”, dùng tiền mua được cả vua chúa, kẻ hầu người hạ, muốn gì được nấy, trong nhà thì chăn êm nệm ấm, ra ngoài thì mọi người nể sợ, cuộc đời sướng như thần tiên, có gì là khổ đâu?

Nếu hiểu bể khổ là nỗi đau của những mất mát, những thua thiệt thì giầu nghèo đều có nỗi đau ấy! Có người giầu sang nhưng một cơn gió thoảng họ cũng ra đi để lại tất cả. Có người bị nỗi đau của mất mát tài sản sau thời gian vất vả tiềm kiếm. Có người mải làm giầu mà mất vợ con. Có người bị nỗi đau của thất nghiệp, của nợ nần, của nghèo đói. Có người bị nỗi đau của bệnh tật, của chia ly…
Có người nhìn nỗi đau như Trời định để tự an ủi mình. Có người lại nhìn nỗi đau như Trời phạt hay bị Trời bỏ rơi nên oán trách trời đất. Dường như con người hay có cái nhìn đổ lỗi cho Trời. Tất cả cái xui xẻo đều do Trời không thương mình nên đầy đọa, bỏ rời mình. Nếu Trời ủng hộ thì ta đâu có bi cục của bãi bể nương dâu?

Đây cũng là cái nhìn của Matta. Bao lâu nay bà vẫn coi Chúa Giê-su là bạn tâm huyết thì đâu sợ gia đình gặp tai ương. Có Chúa thì đời bà sẽ tránh mọi rủi ro. Nhưng rồi em bà là Lagiaro lại chết. Cái chết tuổi xuân xanh của em khiến bà hụt hẫng mà trách Chúa. “Nếu Thầy ở đây thì em con không chết”. Tiếng bà nuốt nghẹn những nuối tiếc chia ly. Bà không cam lòng khi thấy em mình chết trẻ. Bà càng không hiểu tại sao Thầy Giê-su lại không đến giúp em mình khi nghe tin Lagiaro đau bệnh?
Ở đây chúng ta thấy thái độ của Chúa Giê-su rất điềm đạm và giầu tình thương. Ngài muốn qua biến cố này củng cố thêm đức tin cho Matta. Chúa nói với Matta rằng: “nếu ngay bây giờ con tin thì con vẫn thấy điều kỳ diệu xảy ra”. Việc người chết sống lại là không thể đối với loài người nhưng không khó đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa có thể từ hư vô mà tạo thành vạn vật. Thiên Chúa có thể chuyển bại thành thắng. Thiên Chúa có thể phục sinh kể chết vì Ngài là Đấng quyền năng. Thế nên, hãy tín thác nơi Ngài. Ngài có thể giúp con người vượt qua mọi bể dâu cuộc đời.

Matta đã tin và đã thấy việc kỳ diệu. Matta càng xác tín hơn về niềm tin của mình khi bà thưa cùng Chúa: “Thưa Thầy con tin. Con tin Ngài là Đức Ky tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”. Và rồi chính nhờ đức tin ấy bà đã “thấy vinh quang Thiên Chúa”.

Cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những cái khổ tột cùng của nghèo đói, bệnh tật, chết chóc. . . Con người luôn phải đương đầu với sự dữ. Những bất hạnh rủi ro luôn rình rập và đổ xuống trên cuộc đời chúng ta. Nhìn cuộc đời khổ nhiều hơn vui khiến chúng ta vẫn từng hỏi: Chúa ở đâu sao để cuộc đời luôn giăng đầy sầu đau? Chúa có nhìn thấy những bất hạnh mà con đang gặp phải trong cuộc đời vốn dĩ lắm nổi trôi lại nhiều phiền muộn này?

Bài phúc âm hôm nay, mời gọi chúng ta đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn luôn quan tâm đến chúng ta. Người luôn đi bước trước để an ủi, nâng đỡ chúng ta. Người cũng đang mời gọi chúng ta đặt niềm tin vào Chúa như Matta để trong những biến cố đau thương nhất của cuộc đời chúng ta vẫn có thể thưa lên cùng Chúa: Con tin Chúa có thể làm những điều tốt đẹp nhất cho con.

Đau khổ là một sự dữ. Bất hạnh của cuộc đời là đêm tối của đức tin. Chính trong những bất hạnh đó, chúng ta mới thấy con người thật nhỏ bé, tầm thường, để biết đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Con người luôn bất lực trước sự dữ, nhưng nếu Thiên Chúa muốn, Ngài có thể giải thoát chúng ta ngay bây giờ khỏi mọi điều sự dữ. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết đặt niềm tin tưởng cậy trông vào Chúa ngay giữa những gian nan của dòng đời và ngay giữa những bất hạnh của cuộc đời chúng ta. Amen

Về mục lục

.

MƠ ƯỚC CHUẨN

Lm. Jos. DĐH.

Điều chú ý đối với các chị em phụ nữ thiết tưởng là dược thảo nào sẽ giúp họ xinh đẹp, trẻ mãi, là duyên thắm tình nồng, là ở mãi bên tình yêu chồng con. Thao thức của giới “mày râu” phải chăng là có danh có tiếng, sẽ được lịch sử ghi công ? Thước đo của xã hội về thành đạt, hạnh phúc, có thể còn rất mông lung, nhưng thông thường người ta quan tâm hơn cả vẫn là tài cao đức rộng. Dù sao thì cũng có những trường hợp cha mẹ chỉ mơ ước con cháu nên người hữu ích, con cái thì ước muốn được sống trong bầu khí gia đình trên thuận dưới hòa, người người biết cư xử tốt với nhau.

Sự kiện phi thường đến độ người chết 4 ngày mà Đức Giêsu cho sống lại, đúng là điều chưa mấy ai nghĩ tới, dù muốn được sống hoài, sống mãi, nhiều người ta đã từng mơ ước. Để phép lạ kẻ chết sống lại xảy ra, chị em Martha phải có thời gian quen biết Đức Giêsu, tin tưởng Ngài là Đấng quyền năng và đầy tình yêu thương: “nếu Thầy có mặt ở đây, thì em con không chết”. Mơ ước tình chị em không bị chia cắt, hiểu biết sống chết là quy luật chung không thể né tránh ; nhưng khao khát gặp Chúa Giêsu trong cầu nguyện, và mong muốn có Chúa Giêsu trong đời là tùy tự do của mỗi người.

Mơ ước như thế nào là đúng, đủ, vừa, cho cuộc sống hiện tại và tương lai ? Sống có trước có sau, sống có tình có nghĩa là đặt tình yêu thương vào trong các mối tương quan gia đình xã hội: anh em chín bỏ làm mười, lọt sàng xuống nia ? Đức Giêsu đặt để tình yêu thương vượt trên tình bạn bè thân thiết với chị em Martha, Ngài mở ra cho chị em họ một ý thức về sự sống mới hơn tình thầy trò: “em con sẽ sống lại”. Thiên Chúa làm được mọi sự, người Do-thái và Martha đều quan niệm như thế: “ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy”.

Mơ ước chuẩn nhất mà Chúa Giêsu gợi mở là hãy thể hiện niềm tin “Ta là sự sống lại và là sự sống”, nếu thiếu niềm tin căn bản đó, việc yêu mến, nhận biết tài năng đức độ về Đức Giêsu chỉ là “cảm tính”, hời hợt, loáng thoáng mà thôi. Đức Giêsu là Thầy, Đức Giêsu là Chúa, nghĩa là Đức Giêsu sẽ minh chứng tình yêu của Ngài đối với nhân loại, với niềm tin chân thật: “vâng, con tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến thế gian”. Niềm tin phải được lớn lên, niềm tin phải được trả lời bằng hành động, dù Lagiarô đã chết 4 ngày, đã nặng mùi rồi, nhưng họ cần vâng lời Thầy: “hãy đẩy tảng đá ra”. Chúa Giêsu tiếp tục khơi dậy niềm tin cho chị em Martha: “Ta đã chẳng bảo con rằng, nếu con tin thì con sẽ xem thấy vinh quang Thiên Chúa sao”?

Tin nông cạn, tin ở mức độ môi miệng, lý thuyết, tin như thế cùng lắm người ta chỉ nhận biết Đức Giêsu là tài giỏi theo lập luận hết sức thô thiển: “xem kìa, Ngài thương ông ấy biết bao”. “Ông ấy đã mở mắt người mù từ khi mới sinh mà không làm cho người này khỏi chết ư ?”. Niềm tin phải được xây dựng trên tảng là Đức Kitô, nếu không, Martha và Maria cũng chỉ có niềm vui tạm thời vì gặp lại thân xác bất động của Lagiarô sống lại trong một thời gian, nhất định rồi thân xác em họ sẽ lại chết. Chuẩn mực mà Đức Giêsu hướng chị em Marta và chúng ta là đức phải có hành động: “lạy Cha, Con cảm ta Cha vì đã nhậm lời Con. Con biết Cha hằng nghe lời Con, nhưng Con nói lên vì những người đứng xung quanh đây, để họ tin rằng Cha đã sai Con”.

Đức Giêsu là Thầy, là Chúa, khi Ngài vượt qua đau khổ sự chết rồi mới phục sinh, đó là đức tin căn bản mà người Kitô hữu chúng ta hằng tuyên xưng. Đức tin sống động mà Đức Giêsu đã thể hiện là sự vâng phục Thiên Chúa Cha, yêu đến cùng, chịu chết treo trên thập giá, chịu mai táng trong mồ đá rồi sống lại hiển vinh. Mơ ước của Đức Giêsu là tất cả mọi người đều cản nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa, được ơn cứu độ dựa trên hành động của đức tin. “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta dù có chết cũng sẽ được sống, và kẻ nào sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ”.

Để minh chứng hạnh phúc đời người không phải dựa trên bạc vàng, chỉ cần xây dựng trên tình yêu, Hoàng Thi Thơ, đã đưa hồn nhạc vào các tác phẩm của mình, ông đặt để trên sự lãng mạn của tình yêu đôi lứa: mộng vàng hai đứa có chi là quá xa xôi, ta mơ một mái nhà tranh, ta mơ một túp lều tình, tình mình đẹp mãi có anh và em. Chị em Marta xây dựng tình yêu thương trong Đức Giêsu, và chị em họ đã có cảm nghiệm tình yêu lớn mạnh dần: Đức Giêsu là Thầy, là Chúa, là Đấng Kitô. Sự sống lại còn là cơ hội cho tất cả những ai biết đặt niềm tin trên tình yêu Đức Kitô, biết sống đức yêu thương bằng hành động. Sự sống lại sẽ còn là phép lạ cho đời người Kitô hữu, cho tất cả những ai hằng mơ ước hạnh phúc thật: “vâng, con đã tin Thầy là Đấng Kitô”. Amen.

Về mục lục

.

CÙNG CHẾT VỚI NGÀI

Lm Vũđình Tường

Đức Kitô nói với các môn đệ Lazarus bạn của chúng ta đang ngủ, chúng ta đi Judea đánh thức anh ấy. Các ông không hiểu nên Đức Kitô nói rõ hơn. Lazarô đã chết chúng ta đến cứu anh ấy. Nghe vậy các tông đồ hoảng sợ bởi trước đó các ông biết rõ lãnh đạo Do Thái tìm cách giết Đức Kitô nên các ông lên tiếng. Họ đang tìm cách hãm hại Thầy mà Thầy lại đến đó sao? Ông Thomas lên tiếng nói với các bạn thì chúng ta cùng đi để cùng chết với Ngài. Theo mạch văn thì câu trên có giọng điệu phản đối hơn là hỗ trợ í kiến đi gặp chị em Martha và Maria. Khi nói câu trên có lẽ Thomas không thể nào biết được cùng chết với Đức Kitô là một đặc ân, không phải là một án phạt khổ hình. Từ lúc gặp Đức Kitô Phục Sinh Thomas và các tông đồ trở thành con người mới, sống cho Đức Kitô và các ông đều đổ máu mình ra làm chứng nhân cho Đức Kitô, ngoại trừ Gioan chết bệnh ở tuổi già. Việc hy sinh mạng sống mình cho Đức Kitô là bằng chứng tình yêu các ông yêu mến Đức Kitô hơn cả chính mạng sống mình. Không gì trên đời quí hơn là yêu mến Đức Kitô và chết cho Đức Kitô vì đó là một đặc ân. Kitô hữu có cuộc sống như những người khác nhưng khi đến giờ lìa bỏ cuộc sống trần thế, tất cả chúng ta đều ước mong được cùng chết với Đức Kitô bởi đó là một đặc ân. Mục đích của cuộc sống nơi trần thế là làm chứng nhân cho Đức Kitô Phục Sinh và khi chết được cùng chết với Ngài. Cùng chết với Ngài sẽ cùng được sống lại với Ngài, hưởng cuộc sống trường sinh, nơi không còn than khóc, đau khổ.

Không ai có thể trốn được sự chết. Tất cả chúng ta đều trải qua sự chết và muốn chết ở tuổi già, chết cách tự nhiên mà không phải chết cách đau khổ. Chết đau khổ, bị hành hạ thân xác, bêu xấu, tủi nhục vì đức tin là một án phạt ghê rợn, nặng nề nhất xã hội bắt người đó phải chịu. Giáo Hội thương tiếc những tín hữu bị bách hại vì đức tin, đồng thời Giáo Hội cũng tuyên xưng danh tánh và và lòng mến người đó dành riêng cho Đức Kitô. Họ trở thành anh hùng trong danh sách các thánh nam nữ. Anh hùng bởi họ cho kẻ chém giết họ biết lòng mến Đức Kitô của họ mạnh hơn cả đau khổ, tình yêu họ dành cho Đức Kitô thắng vượt cả sự chết và cái chết đau khổ của họ không đi vào quên lãnh nhưng được tuyên xưng là anh hùng tử đạo. Họ bị chết nơi phòng giam kín hay một địa phương nào đó nhưng tình yêu của họ dành cho Đức Kitô được Giáo Hội qua mọi thời đại, không ngừng nghỉ tuyên xưng hàng năm với ngày lễ tưởng nhớ, lễ kính trọng thể vượt không gian và thời gian cùng toàn thế giới ca tụng.

Kitô hữu vững tin và tin mãnh liệt là được chết cùng và cho Đức Kitô là một đặc ân, đặc sủng, không phải ai cũng được mà dành riêng cho Kitô hữu trung tín, yêu mến Đức Kitô một cách chân thành. Kitô hữu ước mong khi chết được cùng chết với Đức Kitô và không bị chết cách cô đơn, buồn tủi bởi có Đức Kitô cùng đồng hành trên con đường mà không một ai, kể cả người thân, nơi trần gian có thể giúp. Chết với Đức Kitô chính là chết trong ân sủng Chúa, chết trong tin yêu, hy vọng và lòng mến, mến Chúa, yêu tha nhân.

Khi ban sự sống lại cho Lazarus Đức Kitô cho biết Ngài là Chúa của sự sống và sự sống lại. Cái chết trên thập tự của Ngài sẽ được Chúa Cha, chúa của sự sống, qua sự hoạt động của Chúa Thánh Thần mang sự sống lại cho Đức Kitô. Kẻ bắt bớ, kẻ kết án, kẻ tra tấn, kẻ làm nhục Đức Kitô trên tin tưởng họ đã chiến thắng vẻ vang, đã thực hiện đuợc ước mơ họ mong thực hiện. Ba ngày sau ước mơ của họ tan thành mây khoí, bởi Thiên Chúa ban sự sống lại cho Đức Kitô, Ngài có thể thua nhiều trận chiến nhưng thắng trận chiến cuối cùng. khải hoàn, Phục Sinh, Đức Kitô thắng vượt thần chết. Con người luôn sợ thần chết. Đức Kitô đã không sợ mà còn bắt thần chết phục tùng, vâng lời Ngài.
Chúng ta xin ơn được chết cùng với Đức Kitô.

Về mục lục

.

‘NẾU THẦY CÓ Ở ĐÂY’!

Lm Uyen Nguyen

Chúa nhựt 5 MC A triển khai chủ đề ĐGS ‘mối lợi tuyệt vời’ (Pl.9,8a) theo Thánh Phaolô. Ai đặt trọn niềm tin vào Người, ắt được mối lợi ấy! Do điều này, Phaolô đã dám cả quyết: Tôi coi tất cả như rác, vì được biết ĐKT-Giêsu Chúa của tôi’ (ibđ.9,8b).

Tại sao ĐGS là mối lợi tuyệt vời?

Niềm tin của Phaolô không khác niềm tin trước đó của người phụ nữ Matta, người chị trong gia đình có ba chị em sống ở Bêtania đồng thời với ĐGS, được Người yêu mến. Khi được tin ĐGS đến, dù đang ôm nặng nỗi đau buồn do cái chết đứa em trai Lagiarô những ngày qua, Matta vẫn nhiệt tình như mọi lần, nhanh chân ra tiếp Người và thưa với Người trong lời nói đầu gặp gỡ mang dư âm tiếc nuối: ‘Nếu có Thầy ở đây (c.21a)!

Dù là lời ngắn gọn, cũng biểu tỏ được niềm tin cậy vững vàng đặt vào ĐGS, bất chấp có gì đó phản ảnh dư âm muộn phiền mà vẫn giữ được tâm tình cảm thông yêu mến.

Sở dĩ Matta tin tưởng cậy trông vào ĐGS để nói được như vậy, vì bà hiểu ĐGS, dù trong mức độ hạn định của một người phàm. Khi nghe tin Người đến, bà ra đón. Qua hành vi và lời nói, bà bày tỏ cả khối niềm tin cậy vào Người. Niềm cậy tin vào quyền năng của Người: ‘Nếu Thầy có ở đây thì em con đã không chết! Niềm tin cậy vào uy lực trong lời cầu xin hiệu quả với TC của Người: ‘Bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng TC, Ngài cũng sẽ ban cho Thầy’ (c.22). Tin vào Cựu Ước khi đối đáp nhuần nhuyễn theo sau lời Thầy nói: ‘Em chị sẽ sống lại’ (c.23). Matta: ‘Con biết em con sẽ sống lạị, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết’ (c.24). Sống lại ngày sau hết là niềm tin từ Cựu Ước.

Không chỉ vậy, với Gioan, Matta còn hiểu rõ vai trò và sứ mệnh ĐGS, khi bà nói với Người: ‘Con vẫn tin Thầy là ĐKT, Con TC, Đấng phải đến thế gian’ (c.27). Ý tưởng này chủ yếu để Gioan kín đáo chuyển hướng và đặt ĐGS vào biến cố thương khó, viễn cảnh sẽ xảy ra đang đến gần, lồng trong cái chết cùng sự phục hồi sự sống thể lý đầy tính biểu tượng ở đây bây giờ của Lagiarô. Điều đó được minh chứng, khi hai người được Mat-ta sai đi báo tin, Người đã nói cách xác quyết và chắc chắn điều sẽ xảy ra bằng một lối văn bâng quơ mà không dành riêng cho ai: ‘Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của TC. Qua cơn bệnh này, Con TC được tôn vinh’ (c.4). ‘Tôn vinh’ là sự vinh quang và hiển vinh của ĐGS trên cây thập giá.

Ai cũng biết, Gioan là một tông đồ mang đậm Thần Khí ĐGS, đã trên dưới gần 80 năm đi rao giảng, sau cùng ngồi lại viết TM dưới tác động TT hướng dẫn, trong suy gẫm cầu nguyện, ngài nhớ lại lời Thầy nói với anh em khi đó rất hàm ý: ‘Lagiarô đã chết! Thầy mừng cho anh em, vì Thầy không có mặt ở đó, để anh em tin’ (c.15). Thử hỏi tin điều gì trong lời nói không có đối tượng của Người? Tin Người là Đấng Kitô Con TC hằng sống, phải đến trong trần gian, như Matta đã tuyên nhận? Điều này Phêrô đã mạnh dạn tuyên tín thay anh em trên đường hướng ra Cêsarê Philipphê: ‘Thầy là Đấng Kitô, Con TC hằng sống’. Tin Người cứu sống Lagiarô? Điều này đã rõ khi Người cứu sống, qua lời nói từ xa, đứa con của viên sĩ quan nhà vua đã chết và con trai bà góa thành Naim đang trên đường đi chôn ra cổng thành, cũng như bao kẻ khác! Ở đây với một chút khác biệt, Lagiarô đã chết bốn ngày, nghĩa là Lagiarô đã chết hoàn toàn, hồn thiêng không sao có thể trở lại với xác thối rửa theo niềm tin dân gian Do Thái. Cái chết ấy được coi là không có tài phép nào cứu chữa được nữa. ĐGS bộc lộ uy quyền TC chiến thắng tử thần. Bảo chứng cho niềm tin: Người là TC hằng hữu.

Điều mà Gioan chú tâm lưu truyền qua phép lạ hồi sinh sự sống Lagiarô: dành cho mọi người đồng thời cũng như các thế hệ kế thừa, là niềm tin mà Người đặt vào Matta: ‘Em chị sống lại! Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, dù đã chết, cũng sẽ được sống! Ai sống mà tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết’ (c.25-26). Lời ĐGS nói hôm nay đồng nhất với lời trước kia, sau khi chữa lành một người bệnh trong ngày Sabbat, khi này, người Do Thái lên án Người. Người nói với họ: ‘Chúa Cha làm cho kẻ chết chổi dậy và ban cho họ sự sống thế nào, thì Người Con cũng ban sự sống cho ai tùy ý’ (Gn.5,21), Người tự xác quyết mình là Con TC sẽ làm được, vì Con TC được sai đến làm người, rồi đây Con Người sẽ bị nộp, bị kết án đóng đinh trên cây thập tự, Người cũng sẽ chết và sống lại như lời đã nói. Nói được làm được, Lagiarô sống lại thể lý là bằng chứng cho chính Người mai này sống lại vinh quang.

Nhìn lại, Khi biết tin người bạn Lagiarô đau nặng sắp chết. ĐGS còn ở lại đó hai ngày. Tại sao có sự ‘chậm trễ’ này? Sự chậm trể đó không là chuyện ngoài tâm ý của ĐGS theo Gioan. Sự chậm trễ nhằm dựng lên yếu tố hiển nhiên bộc lộ hành vi chiến thắng quyền lực tử thần của Người qua biểu tượng của Lagiarô đã chết, đã có mùi. Sự chậm trễ, còn hiểu xa hơn, để nói lên niềm tin vào ơn cứu độ được dành cho tất cả những ai đã tin vào Người, dù họ đến và chết trong trần gian trước hay sau Người.

Thân lạy CGS, Người Con dấu ái của Chúa Cha, Người chẳng nề tự hạ mình vâng lời làm Người cứu nhân độ thế. Xin cho mỗi người đừng phí phạm sự hi sinh của Người, luôn biết tích lũy để cứu lấy mình đáp đền ân sâu nghĩa nặng mà Người dành cho.  

Về mục lục

.

“TA LÀ SỰ SỐNG…”

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

Vào thời Chúa Giêsu, người ta chia làm hai phái: phái từ chối niềm tin có đời sau, thậm chí nhiều người theo nhóm Sađốc quá khích còn chống lại niềm tin phục sinh và đời vĩnh cửu.

Nhưng đa số người Do thái và phe nhóm Pharisêu thì tin rằng, phía sau cái chết, người ta sẽ bước vào sự sống mới. Đó cũng là đức tin truyền thống của Do thái giáo. Họ còn cho rằng, ngay khi từ giã cuộc đời, người ta sẽ lập tức bước vào sự sống vĩnh cửu, vì thế, nhiều người không thích gọi người chết là “chết”, nhưng gọi là “đi về sự sống”.

Trong Tin Mừng, bà Mattha sau khi đi đón và gặp Chúa Giêsu, đã thốt lên những lời hết sức tự nhiên, “Nếu Thầy có ở đây thì em con không chết”, có vẻ như bà trách Chúa đã không đến kịp lúc.
Nhưng chính khi lên tiếng trách móc, bà lại cho thấy một điều khác quan trọng hơn: vừa là lòng yêu mến Chúa của bà, vừa là đức tin mà bà luôn luôn đặt vững vàng nơi Chúa. Bà tin Chúa có mặt kịp thời, em bà vẫn sẽ sống.

Lòng tin mà bà Mattha đặt nơi Chúa qua lời trách móc đã không dừng lại. Trước Chúa Giêsu, bà đã xác quyết bằng lời mà đức tin truyền thống của người Do thái vẫn tin: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”.

Tuy thế, ngay trong giờ phút đang đối thoại với Chúa, điều cần thiết hơn mà Chúa muốn bà phải tuyên xưng, đó là em bà sẽ sống lại chính trong hiện tại này, chứ không phải chỉ là ngày tận thế.

Như vậy, dù bà Mattha đã tin vào sự sống đời đời, nhưng bà đã tin chưa đủ mạnh, nếu không muốn nói là không dám tin rằng, ngay lúc này, Chúa sẽ trả lại sự sống trần thế cho người em yêu quý của bà.

Như bao nhiêu người trên cõi đời này. Mattha không dám mơ sẽ có một ngày, em bà đã chết, đã chôn táng, đã bắt đầu rữa nát, lại có thể đội mồ bừng dậy…

Còn Chúa Giêsu, Người muốn đi xa hơn điều mà mọi người vẫn tin như truyền thống dạy, đó là buộc mọi người phải nhìn nhận, Chúa có quyền trên mạnh sống, trên sự sống của từng con người.

Vì thế, đối diện cái chết của người bạn thân của mình, Chúa Giêsu lại “mừng”: “Lagiarô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin”.

Nói cách khác, bắt đầu từ hôm nay, sau khi chứng kiến anh Lagiarô bước ra từ nấm mồ sau bốn ngày an táng, anh em càng phải lớn lên, càng phải trưởng thành hơn trong niềm xác tín: Thầy là sự sống và là sự sống lại.

Thật vậy, trọn cả trình thuật về việc Chúa Giêsu cho người thanh niên Lagiarô, bạn của Chúa sống lại tập trung vào lời tuyên bố then chốt: “Ta là sự sống lại và là sự sống”.

Không chỉ bằng lời, nhưng còn bằng hành động cho anh Lagiarô sống lại, Chúa Giêsu mạnh mẽ khẳng định rằng, không chỉ Người có quyền trên sự sống, nhưng một khi hứa ban sự sống lại, Người sẽ giữ lời hứa: Tất cả loài người chắc chắn sẽ sống lại trong ngày sau hết. Điều đó đã được thể hiện trước bằng sự sống lại của Lagiarô hôm nay.

Tuy nhiên, Chúa còn liên kết niềm tin sự sống lại của con người với niềm tin sự sống lại của Chúa qua lời mạc khải “Ta là sự sống lại và là sự sống”.

Vì thế, hôm nay Lagiarô được phục hồi (mang tính tạm bợ, sẽ lại chết như bao nhiêu người đã chết) sự sống trần thế, để hướng cái nhìn của chúng ta về chính sự phục sinh (chứ không phải “phục hồi” ) của Chúa.

Thánh Phaolô nhìn thấy sự phục sinh của chúng ta trong sự phục sinh của Chúa Giêsu nhờ ơn Chúa Thánh Thần:
“Nếu Thánh Thần ngự trong anh em, Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết sẽ dùng Thánh Thần của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác phải chết của anh em được sự sống mới” (Rm 8, 11).

Sách Giáo Lý Công Giáo cũng đồng thời tuyên xưng sự phục sinh của Chúa Kitô và sự phục sinh của chúng ta trong Chúa Kitô:

“Đức Kitô đã phục sinh với chính thân xác mình: ‘Hãy nhìn chân tay Thầy coi, đúng là Thầy đây mà’ (Lc 24, 39). Nhưng Người không trở về với đời sống trần thế. Cũng vậy, trong Người, mọi người sẽ sống lại với thân xác của mình, thân xác họ đang có bây giờ, nhưng thân xác đó sẽ biến đổi thành thân xác vinh hiển, thành thân xác có thần khí” (GLCG 999).

Cái chết luôn luôn là sự dữ làm cho người lâm vào, phải khiếp sợ, làm cho người thân cận còn sống đau buồn. Ngày nay, thế giới văn minh, cố tìm cách kéo dài sự sống, nhưng càng đi tìm sự sống trần thế bao nhiêu, người ta càng thất vọng bấy nhiêu. Bởi chưa một ai sống đầy một thế kỷ rưởi.

Ngược lại, thế giới hiện tại, bên cạnh những người sống lâu hơn, lại càng nhiều người có cuộc sống vắn vỏi hơn, thậm chí ngày càng có nhiều cái chết dữ hơn. Hằng ngày, theo dõi tin tức đó đây, biết được sự chết vẫn không ngừng bao vây thế giới văn minh, càng làm con người khiếp sợ hơn.

Chúng ta đau đớn, bởi quá nhiều người thân, người quen của mình, đang mạnh khỏe và không có bất cứ dấu hiệu gì ho thấy phải chết, lại đột tử, đột quỵ…

Chúng ta rùng mình trước những cuộc chiến tranh hiện đại; những vụ ám sát; những vụ đặt chất nổ; những vụ bắt cóc chặt đầu…

Chúng ta đau đớn đã có quá nhiều vụ chết vì phá thai; tự tử; ung thư; liệt kháng; nghiện ngập; những tai nạn giao thông bất kể là đường hàng không, hàng hải hay đường bộ; những căn bệnh lạ…

Biết bao nhiêu lần chúng ta nhói lên vì rung cảm, vì xúc động trước những thiên tai tàn phá khắp nơi trên thế giới sát hại từ vài ngàn người đến hàng trăm ngàn người…

Dù thế giới văn minh hơn, nhưng người ta vẫn không thể kéo dài sự sống mình hơn. Đó là thực tế đớn đau cho người ham sống cuộc sống trần thế.

Nhưng với Kitô hữu, dù cuộc sống trần thế có thế nào đi nữa, không làm họ thất vọng.

Dẫu không xa rời thực tế, bởi Kitô hữu luôn ý thức xây dựng trời cao khởi đi từ trần thế, họ vẫn biết rằng, sống hôm nay, đôi chân đặt nơi trần thế, lòng họ gởi vào trời cao.

Với Kitô hữu, Có Đấng đã từng phán “Ta là sự sống lại và là sự sống” soi dẫn, họ sống hôm nay nhưng hướng về ngày mai. Sống hôm nay nơi quê hương trần thế, họ vẫn biết đó là bệ phóng thúc giục họ về quê hương đời đời. Sống hôm nay như một chuyến lữ hành, họ sẽ đến chốn nghỉ ngơi bình an vô tận. Sống hôm nay, nhưng không cho hôm nay, mà cho một đời vĩnh cửu.

Vì thế, Kitô hữu sống hôm nay là sống trong tươi sáng, là sống đầy tin tưởng, là bước tới từng ngày trong hy vọng, là lòng vơi đầy hạnh phúc, tin yêu.

Cũng vì thế, Kitô hữu yêu mến trần thế, hòa nhập với trần thế, xây dựng trần thế bằng tất cả bổn phận, khả năng và hy vọng của mình.

Có hôm nay và có ngày mai. Như vậy, một mặt, họ không quá bám víu trần thế như chỉ có trần thế là đích đến của mình. Họ cũng không hời hợt với trần thế như chỉ có đời vĩnh cửu mà thôi.

Họ yêu mến trần thế và cũng yêu mến vĩnh cửu. Sự sống vĩnh cửu tốt đẹp, cũng như sự sống trên trần thế cũng không bao giờ bị họ rẻ rúng.

Do đó, sự chết chóc của trần thế, dù có gây xao xuyến, người sống niềm tin Kitô vẫn biết rằng tương lai bình an đang chờ họ.

Dù sự dữ và cái chết vây lấy thế giới, người sống niềm tin Kitô vẫn ngẩng cao đầu, vì tình yêu cứu độ của Thiên Chúa thắp sáng niềm tin của họ.

Tắt một lời, tất cả triết lý về sự sống, Kitô hữu xây dựng trên lời phán hứa không bao giờ qua đi của Chúa mình: “Ta là sự sống lại và là sự sống”.

Về mục lục

.

BIẾT QUÍ TRỌNG SỰ SỐNG

Lm. Giuse Nguyễn

Hai câu thơ của thi sĩ Ấn Độ Kahli Gibran đã được nhà văn Nguyễn Nhật Ánh dịch ra tiếng Việt, và trở thành nổi tiếng: “Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy, ta có thêm ngày nữa để yêu thương”. Tác giả cám ơn cuộc đời đã cho mình sự sống, và quyết tâm dùng sự sống đó để yêu thương. Còn Thiên Chúa đã vì yêu thương nên đã trao ban sự sống cho con người, và Ngài mời gọi con người hãy biết quý trọng sự sống đó.

I.  PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

  1. Bài đọc I: Ed 37, 12-14

Khi Giuđa bị lưu đày ở Babylon, Thiên Chúa đã sai tiên tri Êdêkiel loan báo cho họ biết Ngài sẽ giải phóng họ, nhưng nhiều người đã nghi ngờ về điều đó vì sức mạnh của vua Nabucônôđôso quá lớn. Tiên tri cho họ biết dân tộc của họ hoàn toàn không có khả năng hồi hương, giống như bộ xương khô, nhưng Thiên Chúa sẽ ban Thần Khí của Ngài để bộ xương khô đó có sự sống mới.

  1. Bài đọc 2: Rm 8, 8-11

Cũng chính Thần Khí đó làm cho Đức Giêsu sống lại, mà sự sống lại của Đức Giêsu cũng chính là để đem lại sự sống mới cho con người: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8, 11)

  1. Tin Mừng: Ga 11, 1-45

Câu chuyện của đoạn Tin Mừng này có ngụ ý rõ ràng của Đức Giêsu khi Ngài hay tin Ladarô đau nặng, nhưng Ngài không đến ngày, mà lại nói: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa” (Ga 11, 4). Đợi đến khi Ladarô chết và người ta đem chôn được 4 ngày Ngài mới đến. Chắc chắn Ngài muốn dùng sự kiện này để mặc khải một chân lý cao cả nào đó. Chân lý cao cả đó là: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25-26). Vì thương mến người bạn mà Đức Giêsu đã cho anh ta được sống lại trong sự sống tự nhiên.

Trong mối thân tình, Ladarô không chỉ xem Đức Giêsu là một người bạn, mà hơn thế nữa, giống như chị của anh là Matta, anh còn tin Ngài “là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (Ga 11, 27). Nhờ niềm tin này, dù cho anh sẽ chết thêm một lần nữa về mặt thể lý, nhưng chắc chắn anh sẽ có sự sống đời đời. Trong khoảng thời gian còn lại của sự sống nhờ Đức Giêsu đã ban cho để chờ đợi ngày được sống muôn đời, chắc chắn anh sẽ trân quý từng giây phút, vì nó được ban cho bởi tình yêu của Đấng là sự sống.

Qua phụng vụ lời Chúa hôm nay, chúng ta nhận ra được sự sống là một ân ban của Thiên Chúa, để chúng ta phải biết quý trọng sự sống, cả đời này lẫn đời sau.

II.  QUÝ TRỌNG SỰ SỐNG ĐỜI NÀY

Sự sống đời này là sự sống tự nhiên mà Chúa đã ban cho riêng từng người, nó là huyền nhiệm từ khi được khởi sự cho đến lúc chấm dứt. Chúng ta không thể nào giải thích được về việc tại sao chúng ta có mặt ở trần gian này? Tồn tại được bao lâu? Tồn tại như thế nào?… Chỉ biết một điều, nó là tình yêu mà Thiên Chúa trân trọng trao gởi cho chúng ta, vì nếu không có Chúa chúng ta sẽ là không mãi mãi. Chính vì thế trong kinh Cám Ơn, chúng ta đã đọc: “Con cám ơn Đức Chúa Trời là Chúa lòng lành vô cùng, chẳng bỏ con, chẳng để con không đời đời, mà lại sinh ra con cho con đặng làm người”. Vì vậy hãy biết cám ơn Chúa vì đã cho mình được làm người, và bao lâu còn sống, hãy biết quý trọng sự sống đó.

  1. Tôn trọng sự sống

Giáo lý Hội thánh Công giáo dạy chúng ta quý trọng sự sống bằng cách tôn trọng sự sống của mình và của người khác.

Tôn trọng sự sống của mình bằng cách giữ gìn sức khỏe, lao động để nuôi sống bản thân, không được hủy hoại 1 chi thể nào và nhất là không được hủy hoại mạng sống bằng việc tự tử. Tránh những điều làm ảnh hưởng đến sức khỏe và mạng sống. Ví dụ thức khuya, dùng chất khích thích, đua xe, chạy xe mà không tuân thủ luật giao thông, hoặc muốn thể hiện bản thân mình bằng những việc lạng lách, nẹt bô, buông tay…

Tôn trọng sự sống của người khác bằng việc không được gây thương tích, hoặc tấn công người khác cả về thể lý lẫn tinh thần.

Tôn trọng sự sống cho chính mình và cho người khác một cách cụ thể qua việc chung tay xây dựng một hành tinh xanh, sạch, đẹp,… Tôn trọng sự sống còn được thể hiện bằng việc buôn bán những thực phẩm sạch, không ảnh hưởng đến sức khỏe. Tôn trọng sự sống còn là việc giữ cho môi trường sống không bị ô nhiễm bởi chất độc hoặc âm thanh quá lớn.

Đặc biệt trong năm Gia đình 2017 với chủ đề chuẩn bị cho người trẻ bước vào đời sống hôn nhân, nhắc nhở cho những người trẻ phải biết quý trọng sự sống ngay khi được hình thành, để các bạn phải biết tôn trọng, gìn giữ cho nhau, đừng vì đam mê mà dẫn đến những hậu quả đáng tiếc, để rồi giải quyết bằng việc hủy diệt sự sống.

Người ta luôn cảm phục những con người đã dám hy sinh để bảo vệ sự sống một cách trọn vẹn cho những đứa con của họ. Từ Bắc chí Nam đều có tấm gương những người mẹ như thế. Đó là chị Hoàng Thị Yến ở Hà Nội, khi mang thai cũng là lúc chị phát hiện mình bị ung thư, nhưng chị cương quyết không bỏ đứa con để cứu mạng sống của mình. Vì chị gữ lấy bào thai nên chị không thể uống thuốc kháng sinh hay nhận bất kỳ một phác đồ trị liệu nào để bảo vệ sức khỏe cho đứa con. Vì vậy đôi mắt của chị ngày càng yếu đi, và ngày chị “vượt cạn” cũng chính là ngày chị hoàn toàn không còn thấy gì. Đó là câu chuyện gây nhiều cảm xúc của chị Đậu Thị Huyền Trân, thiếu úy công an ở Hà Tĩnh, đã từ chối điều trị cho mình để giữ lấy con. Hình ảnh cảm động nhất là hình ảnh chị phải ngồi, có hai ý tá đỡ phía sau lưng để bác sĩ mổ bắt lấy đứa con vì chị không thể nằm được vì dịch tràn ngập phổi. Đó là câu chuyện của chị Nguyễn Thị Bé Thủy ở Tp. Cần Thơ đã quyết đinh: “dù chết cũng giữ lấy con” khi được bác sĩ đề nghị phá bỏ bào thai vì chị mắc bệnh tim…   

  1. Sống yêu thương

Không chỉ dừng lại ở việc tôn trọng sự sống, mà còn hơn thế nữa, phải biết sống yêu thương. Không chỉ tránh việc làm gây xúc phạm đến người khác, mà còn phải thực hiện những điều giúp người khác được thăng tiến hơn. Không thể đóng cửa nhà lại, ở trong nhà và nói: “Tôi không đụng chạm đến ai, thì cũng đừng ai đụng chạm đến tôi”; mà phải biết mở cửa ra, đến với những người xung quanh để thực thi tình bác ái. Đó cũng là một trong những thực hành cụ thể trong mùa chay thánh.

Trong chuyến thăm mục vụ Giáo phận Cần Thơ của vị đại diện không thường trú của Đức Thánh Cha tại Việt Nam, Đức TGM. Girelli đã để lại hình ảnh đẹp nhất không phải bằng những cuộc tiếp đón hoành tráng hay những bài phát biểu thâm thúy, sâu xa, ý nghĩa, mà chính là hình ảnh ngài biết cúi xuống bên những người nghèo khổ, tật nguyền ở họ đạo Tân Lập.

Chính vì thế, những hành động bác ái, yêu thương cụ thể là những hành động nói lên việc quý trọng sự sống một cách rõ ràng nhất.

III.  QUÝ TRỌNG SỰ SỐNG ĐỜI SAU

Con người là xác và hồn. Nếu biết quý trọng và bảo vệ sự sống tự nhiên bao nhiêu, thì càng phải biết lo cho sự sống siêu nhiên bấy nhiêu. Giữa sự sống đời này và sự sống đời sau, chắc chắn sự sống đời sau phải quan trọng hơn vì nó là vĩnh cửu, còn sự sống đời này chỉ là đời tạm, nay còn mai mất.

Thành công của ma quỷ cũng chính là cái ngu dại nhất của con người là chỉ lo cho sự sống đời này mà không nghĩ đến sự sống đời sau. Họ quần quật để làm ăn kiếm tiền mà không nghĩ đến lúc chết chẳng mang theo được gì. Họ tranh giành nhau từng chút trong cuộc sống mà không nghĩ đến lúc chết ai sẽ cho mình một câu kinh, một lời nguyện. Họ đắm mình trong những đam mê mà không nghĩ đến mai kia thân xác này sẽ bị giòi bọ rúc rỉa và cũng trở về cát bụi…

Kinh nghiệm cận tử của nhiều người cho thấy sau khi họ “trở về từ cõi chết”, dù trước đó họ có tin vào sự sống đời sau hay không, họ đều được thúc bách để sửa đổi cuộc sống hầu bước vào “vùng ánh sáng” mà họ đã thấy trong lúc cận tử. Chính vì thế nhiều người trước đó sống rất tệ, làm nhiều chuyện xấu, nhưng sau một cơn bệnh thập tử nhất sinh hay sau một tai nạn khủng khiếp, họ hoàn toàn thay đổi theo chiều hướng tích cực.

Ngược lại, có nhiều người được rửa tội, được học giáo lý ngay từ nhỏ, biết có sự sống đời sau, biết có sự thưởng phạt… nhưng họ vẫn làm những điều sai trái, dù được nhắc nhở bằng nhiều cách mà vẫn không biết dừng lại.

Lời Chúa hôm nay mặc khải cho chúng ta biết Đức Giêsu là sự sống lại và là sự sống. Ngài đã cho chúng ta được hiện hữu trên trần gian này, và đã dùng chính cái chết của Ngài để chuộc lại sự sống đời đời cho những ai tin vào Ngài. Quy tụ nhau nơi đây, chắc chắn chúng ta là những người muốn được hạnh phúc trong sự sống đời sau. Vì vậy hãy biết quý trọng sự sống hiện tại mà Chúa đã ban và quyết tâm sống cho trọn vẹn kiếp người. Nhưng đừng quên tìm kiếm sự sống đời đời bằng cách tin tưởng, sống gắn bó, thờ phượng Chúa cho phải đạo; tránh xa những điều sai lỗi, và nhất là sống thực tại Nước Trời ngay trong cuộc sống này bằng giá trị của tình yêu thương.

Nhưng trong thực tế, rất nhiều khi chúng ta không biết tôn trọng sự sống của chính mình và của người khác, và vì vậy làm tổn hại đến sự sống đời sau. Xét cho cùng cũng vì con người chúng ta yếu đuối, thích thỏa mãn tự do cá nhân mà không nghĩ đến hậu quả.

Đứng trước thực trạng xã hội hôm nay, trong năm gia đình và nhất là mùa chay thánh này, mỗi người chúng ta hãy ý thức lại sự yếu đuối của mình để xin Chúa ban thêm sức mạnh giúp chúng ta biết dừng lại trước những cám dỗ của ma quỷ, để đừng hành động mà thiếu suy nghĩ. Hãy nghĩ đến sự sống đời sau của chúng ta trong tất cả mọi việc.

Lạy Chúa, xin cho con con biết mến yêu cuộc sống này và quý trọng sự sống đời sau.

Về mục lục

.

LÀM NGƯỜI ĐÁNH THỨC

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa  

“Lazarô, bạn của chúng ta đang ngủ; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy dậy.” (Ga 11,11). Vì không hiểu ngụ ý của Chúa Giêsu, các tông đồ đã phản ứng cách tự nhiên:

“Nếu anh ấy đang ngủ thì tự khắc sẽ dậy”. Chúa Giêsu đã từng có lần nói về tình trạng một người đã chết như là đang ngủ, chẳng hạn với cô bé gái con ông Giairô, viên trưởng Hội đường (x.Mc 6,39). Như thế, việc làm cho một ai đó sống lại từ cõi chết được Chúa ví như  là đánh thức họ dậy. Và chúng ta cũng có thể loại suy cách nào đó rằng khi đánh thức một ai đó là giúp họ lại được sống hay được sống lại đúng phẩm vị của mình.

  1. Những người cần được đánh thức là những người đang ngủ mê.

-Trong những hạnh phúc trần thế chóng qua: Những thiện hảo đời này thật đáng quý nhưng chúng không thể lấp đầy ước vọng của con người. Dù cho đủ đầy những thành công về danh vị hay lợi lộc vật chất thì mọi sự rồi sẽ qua đi khi mà tuổi già chợt đến. Đặc biệt khi cái chết cận kề thì người ta mới nghiệm ra rằng chẳng có thể lấy gì mà mua được sự sống và mạng sống thật đáng quý biết bao. Có thể nói kiếp người là một chuỗi băn khoăn lo lắng mãi cho đến khi nghỉ yên trong lòng đất lạnh. Thế nhưng, tình trạng quá mãi lo lắng băn khoăn chính là một trong những hình thái mê ngủ vậy.

-Trong sự ganh đua hơn thiệt, được mất: Cái được, cái thua, cái mất, cái thắng ở đời này chỉ là tương đối. Rất nhiều khi những tưởng rằng thắng mà hoá thua, nghĩ rằng được mà lại mất. Nhiều vận động viên thể dục, thể thao trong các cuộc thi tài đã nghiệm thấy việc chiến thắng bản thân mới là điều quan trọng nhất. Và sự thật này thường được đón nhận khi người ta chiến bại hơn là chiến thắng.

2. Cùng với Đức Kitô, xin làm người đánh thức tha nhân. Một sự thật hiển nhiên dễ dàng đón nhận đó là sẽ chẳng một ai thoát được cái chết. Sự chết là một hiện tượng tất yếu của mọi loài xét như là sinh vật. Đã có sinh, thời có tử. Thế nhưng, cái chết là một sự thật mà con người, sinh vật bậc cao thường khó chấp nhận, đúng hơn là khó đón nhận vì luôn có đó khát vọng được trường sinh bất tử nơi lòng người. Chúa Kitô đã từng mời gọi “hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6,27). Để làm được điều này thì hãy tin vào Người là Đấng Thiên Chúa sai đến. Vì chính Người là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Người, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Người thì sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26). Tin vào Chúa Kitô là sống như Người đã sống “không phải đến để được người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ người ta và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28). Tin vào Chúa Kitô là đón nhận lời Người và đem ra thực hành trong cuộc sống.

Để làm người đánh thức tha nhân thì cùng với Chúa Kitô, chúng ta cần:

– Ra đi: Ra đi khỏi sự yên ổn cá nhân mình, ra đi khỏi tình yêu vị kỷ và dĩ nhiên là chấp nhận bao gian khó đang chờ phía trước. Tông đồ Tôma đã giận lẫy với các bạn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để cùng chết với Thầy” (Ga 11,16).

-Có tấm lòng xót thương: Thấy Chúa Giêsu khóc thương Lazarô, “người Do Thái mới nói: “ Kìa xem ! Ông ta thương Lazarô biết mấy” (Ga 11,35). Thiếu một trái tim biết thao thức trước hạnh phúc của tha nhân, biết thổn thức trước đau khổ của đồng loại thì đừng mong đánh thức được một ai.

-Đặt niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa: “Chúa Giêsu ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con…” (Ga 11,41). Chính nhờ và với quyền năng của Thiên Chúa thì những sự tốt lành mới tỏ hiện. Quả thật, chúng ta không thể đánh thức lòng người nếu không có ân sủng Chúa độ trì.

Thức tỉnh là một trong những đề tài được nhiều nhà đạo đức hôm nay nói đến. Mãi mê thế sự là một biểu hiện của con người mọi thời, đặc biệt thời đại hôm nay. Thỉnh thoảng người ta chợt bừng tỉnh khi đối diện với cái chết của người này, người kia hoặc đối diện với cái chết đang cận kề mình. Thế nhưng những thời khắc thức tỉnh ấy rất dễ thoáng qua hay là quá bất chợt và kết quả thu được chẳng là bao. Chính vì thế mãi rất cần những con người đánh thức tha nhân. Chúa Kitô đã tiên phong, bạn và tôi, chúng ta có sẵn sàng tiếp bước Người để làm người đánh thức không? Ước gì chúng ta góp với Đấng Cứu độ một tay làm cho nhân trần bừng tỉnh về sự sống trường sinh mà chúng ta thường tuyên xưng: “Tôi tin có sự sống đời đời”. Chính khi biết hướng đến sự sống đời đời thì con người sẽ biết sống sự sống đời này cách hữu ích và có ý nghĩa.

Về mục lục

.

TRỞ THÀNH NGÔN SỨ CỦA SỰ SỐNG VÀ TÌNH THƯƠNG

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Ga 11,3-45

(1) Có một người bị đau nặng, tên là La-da-rô, quê ở Bê-ta-ni-a, làng của hai chị em cô Mác-ta và Ma-ri-a. (2) Cô Ma-ri-a là người sau này sẽ xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Anh La-da-rô, người bị đau nặng, là em của cô. (3) Hai cô cho người đến nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng”. (4) Nghe vậy, Đức Giê-su bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh”. (5) Đức Giê-su quý mến cô Mác-ta, cùng hai người em là Ma-ri-a và anh La-da-rô. (6) Tuy nhiên, sau khi được tin anh La-da-rô lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở. (7) Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ: “Nào, chúng ta cùng trở lại miền Giu-đê !”. (8) Các môn đệ nói: “Thưa Thầy, mới đây người Do thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao ?” (9) Đức Giê-su trả lời: “Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao ? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế gian này. (10) Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình !”. (11) Người nói những lời này, sau đó Người lại bảo: “La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên giấc. Tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây”. (12) Các môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khỏe lại”. (13) Đức Giê-su nói về cái chết của anh La-da-rô, còn họ tưởng Người nói về giấc ngủ thường. (14) Bấy giờ Người mới nói rõ: “La-da-rô đã chết”. (15) Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy”. (16) Ông Tô-ma, gọi là Đi-đy-mô, nói với các bạn đồng môn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để cùng chết với Thầy !”. (17) Khi đến nơi, Đức Giê-su thấy anh La-da-rô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi. (18) Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem không đầy ba cây số. (19) Nhiều người Do thái đến chia buồn với hai cô Mác-ta và Ma-ri-a, vì em các cô mới qua đời. (20) Vừa được tin Đức Giê-su đến, cô Mác-ta liền ra đón Người. Còn cô Ma-ri-a thì ngồi ở nhà. (21) Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. (22) Nhưng bây giờ con biết: “Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. (23) Đức Giê-su nói: “Em chị sẽ sống lại !” (24) Cô Mác-ta thưa: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. (25) Đức Giê-su liền phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. (26) Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không ?” (27) Cô Mác-ta đáp: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”. (28) Nói xong, cô đi gọi em là Ma-ri-a, và nói nhỏ: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy !”. (29) Nghe vậy, cô Ma-ri-a vội đứng lên và đến với Đức Giê-su. (30) Lúc đó, Người chưa vào làng, nhưng vẫn còn ở chỗ cô Mác-ta đã ra đón Người. (31) Những người Do thái đang ở trong nhà với cô Ma-ri-a để chia buồn, thấy cô vội vã đứng dậy đi ra, liền đi theo, tưởng rằng cô ra mộ khóc em. (32) Khi đến gần Đức Giê-su, cô Ma-ri-a vừa thấy Người, liền phủ phục dưới chân và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết”. (33) Thấy cô khóc, và những người Do thái đi với cô cũng khóc, Đức Giê-su thổn thức trong lòng và xao xuyến. (34) Người hỏi: “Các người để xác anh ấy ở đâu ?” Họ trả lời: “Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem”. (35) Đức Giê-su liền khóc. (36) Người Do thái mới nói: “Kìa xem ! Ông ta thương anh La-da-rô biết mấy !” (37) Có vài người trong nhóm họ nói: “Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể cho anh ấy khỏi chết ư ?” (38) Đức Giê-su thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại. (39) Đức Giê-su nói: “Đem phiến đá này đi”. Cô Mác-ta là chị người chết liền nói: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày”. (40) Đức Giê-su bảo: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao ?”. (41) Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giê-su ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. (42) Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con”. (43) Nói xong, Người kêu lớn tiếng: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ !”. (44) Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn, Đức Giê-su bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi”. Trong số những người Do thái đến thăm cô Ma-ri-a và được chứng kiến việc Đức Giê-su làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người.           

  1. Ý CHÍNH:

Đức Giê-su đến làng Bê-ta-ni-a thì La-da-rô đã chết và chôn được bốn ngày. Gặp hai bà Mác-ta và Ma-ri-a là chị người chết đang khóc thương em, Đức Giê-su đã trấn an họ rằng: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống” (25). Khi ra thăm mộ của La-da-rô, Đức Giê-su đã cầu nguyện với Chúa Cha rồi truyền cho La-da-rô ra khỏi mồ (43) và người chết liền chỗi dậy đi ra ngoài. Qua phép lạ phục sinh La-da-rô này, Đức Giê-su đã mặc khải Người chính là Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa hằng sống. Người sẽ ban sự sống và sự sống lại muôn đời cho những ai đặt trọn niềm tin nơi Người. Mỗi tín hữu phải trở thành ngôn sứ của sự sống.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 1-5: + La-da-rô: là tên của người bạn thân với Đức Giê-su, ở làng Bê-ta-ni-a (x. Ga 11,3). Ngoài La-da-rô này, cũng còn một người ăn xin tên là La-da-rô trong Tin Mừng Lu-ca (x. Lc 16,20). + Bê-ta-ni-a: Là một làng nằm ở phía Đông núi Cây Dầu, cách Giê-ru-sa-lem khoảng ba cây số (x. Ga 11,18). Đức Giê-su thường đến trọ tại làng này mỗi khi có dịp lên Giê-ru-sa-lem. Ngoài ra, còn một Bê-ta-ni-a khác là nơi Đức Giê-su chịu phép rửa (x. Lc 16,20). + Mác-ta: là chị lớn trong ba chị em. Bà có tính năng nổ hướng ngoại thể hiện khi đón tiếp Đức Giê-su (x. Lc 10,38-42). + Ma-ri-a: là em của Mác-ta, có tính trầm lặng hướng nội, sẵn sàng hy sinh bình dầu thơm quý giá để xức chân Người (x. Ga 12,1-8). Theo phần lớn các nhà chú giải Thánh Kinh: Bà Ma-ri-a này không phải là người đàn bà tội lỗi (x. Lc 7,36-50), không phải là người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8,3-11), cũng không phải Ma-ri-a Ma-đa-lê-na được trừ khỏi bảy quỷ ám (x. Lc 8,2).

– C 6-16: + Mới đây người Do thái tìm cách ném đá Thầy: Các môn đệ mang tâm trạng sợ hãi vì ý thức nguy hiểm: Thầy có thể bị kẻ thù giết hại tại Giê-ru-sa-lem. + Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao ?: Đức Giê-su quyết tuân theo chương trình Chúa Cha đã truyền. + La-da-rô, bạn của chúng ta đang yên giấc. Tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây: Đức Giê-su dùng chữ “ngủ” để ám chỉ cái chết, giống như trường hợp của con gái ông Gia-ia (x. Mc 5,39). Thánh Phao-lô cũng coi cái chết chỉ là một giấc ngủ (x. 1 Tx 4,14), là một bước phải vượt qua đến sự sống lại (x. Ep 5,14). + Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin: Đức Giê-su mừng vì môn đệ sắp được dịp chứng kiến Người truyền cho La-da-rô sống lại, để các ông vững tin nơi Người.

– C 17-27: + Khi đến nơi, Đức Giê-su thấy anh La-da-rô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi: Theo phong tục người Do thái thì người chết thường được chôn ngay trong ngày vừa chết (x. Cv 5,6). Người Do thái tin rằng trong ba ngày đầu, hồn vía người chết còn lảng vảng gần xác chết. Sang ngày thứ tư khi xác thối rữa, nó mới tan đi. Con số bốn ngày ở đây như muốn nói La-da-rô đã chết thật sự. + Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết: Thời Cựu Ước, nhiều người tin có sự kẻ chết sống lại (x Đn 12,2-3; 2 Mcb 7,23). Đến thời Đức Giê-su, nhóm Pha-ri-sêu cũng tin như vậy, nhưng nhóm Xa-đốc thì không tin (x Cv 23,8). Riêng Mác-ta tuy tin kẻ chết sẽ sống lại trong ngày tận thế như nhóm Pha-ri-sêu, nhưng vẫn muốn Đức Giê-su làm phép lạ cho em được sống lại ngay lúc này. + Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống: Đức Giê-su là sự sống phát xuất từ Chúa Cha (x. Ga 5,26). Người làm cho những kẻ tin Người được sống đời đời (x. Ga 5,24-25). Người cũng sẽ ban cho những kẻ tin được sống lại vào ngày cánh chung, dù xác của họ có bị tiêu hủy cũng sẽ được sống lại (x. Ga 5,28-29). + Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian: Mác-ta tuyên xưng Đức Giê-su chính là Đấng Thiên Sai (x. Ga 1,19).

– C 28-37: + Thấy cô khóc, và những người Do thái đi với cô cũng khóc, Đức Giê-su thổn thức trong lòng và xao xuyến: Theo thói tục của người Do thái, khi có khách đến viếng xác, thì người nhà bật khóc to, và khách cũng tự nhiên phát khóc lên theo.

– C 38-44: + Đức Giê-su thổn thức trong lòng: Trước sự đau khổ của tang gia, Đức Giê-su có thái độ cảm thông đầy tình người. Nhưng thực ra nguyên nhân sâu xa khiến Đức Giê-su khóc một phần còn vì sự cứng lòng tin của những người Do thái hiện diện (37) và vì niềm tin nửa vời của hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a (39). + Đem phiến đá này đi: Phần mộ của người Do thái giàu có thường khoét vào núi đá. Sau khi tắm rửa, xác chết được xức thuốc thơm, cột lại bằng giây băng vài và phủ khăn liệm, đưa vào mồ chôn cất rồi lấp ngòai cửa mồ bằng một tảng đá lớn, như hai môn đệ an táng Đức Giê-su sau này (x Ga 19,40-42). + Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày: Tuy Mác-ta vừa tuyên xưng đức tin, nhưng vẫn nghi ngờ Ngừơi có thể làm cho La-da-rô sống lại. + Chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao ?: Vinh quang ở đây là quyền năng Thiên Chúa tỏ hiện qua việc người sắp cho La-da-rô từ cõi chết sống lại. + Đức Giê-su ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con”: Người Do thái khi cầu nguyện thì quay mặt về hướng Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Còn ở đây Đức Giê-su lại ngước nhìn lên trời. Đây là lối cầu nguyện của các Ki-tô hữu sau này. + Người kêu lớn tiếng: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ !”: Đức Giê-su ra lệnh cho người chết sống lại. Điều đó cho thấy Người có quyền trên sự chết. + Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi: La-da-rô sau khi sống lại phải được người khác cởi khăn và vải liệm. Trái lại, Đức Giê-su sau khi phục sinh, những băng vải vẫn còn để lại trong mồ và khăn che đầu Người cũng được cuốn lại và xếp để riêng ra một nơi (x. Ga 20,5-7).

  1. CÂU HỎI:

1) Ma-ri-a Bê-ta-ni-a có phải là người đàn bà tội lỗi, người phụ nữ ngoại tình sắp bị ném đá hay bà Ma-ri-a Ma-đa-le-na hay không ? 2) Đức Giê-su nói La-da-rô đang yên giấc có ý ám chỉ điều gì ? Hai trường hợp khác tương tự là những trường hợp nào ? 3) Theo phong tục Do Thái thì người chết được chôn khi nào ? Ở đây việc La-da-rô được chôn bốn ngày rồi mang ý nghĩa gì ? 4) Thời Đức Giê-su, niềm tin về việc kẻ chết sống lại giữa hai phái Xa-đốc và Biệt phái khác nhau ra sao ? 5) Tại sao Đức Giê-su lại thổn thức trong lòng và xao xuyến khi thấy Mác-ta và người đi theo cô khóc ? 6) Khi nói: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày” Mác-ta có hòan tòan tin vào quyền năng phục sinh kẻ chết của Đức Giê-su không ? 7) Ngày nay các tín hữu hướng về đâu khi cầu nguyện ? Tại sao ? 8) Tình trạng của La-da-rô sau khi sống lại khác với tình trạng sống lại của Đức Giê-su thế nào ?

 

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống” (Ga 11,25).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) VỀ MỘT CON NGƯỜI ĐƯỢC SỐNG LẠI VỀ PHẦN LINH HỒN:

SI-TA ĐE-LI vốn là một kẻ chuyên quậy phá kẻ khác. Anh đã nhiều lần vào tù ra khám vì tội phá phách cướp giựt. Trong phiên tòa lần thứ năm, quan tòa đã phải tuyên bố như sau: “Có phạt anh thêm nữa cũng vô ích ! Nhưng chúng tôi vẫn phải cách ly anh. Chúng tôi đã làm hết cách. Quả thật chúng tôi đã hoàn toàn thất vọng về anh”. Vào tù lần này, ĐE-LI lại ngựa quen đường cũ: có những hành vi vô kỷ luật và đàn áp bạn tù yếu thế hơn anh, nên anh đã bị biệt giam trong hai tuần lễ. Nhưng một phép lạ đã xảy ra: Khi phải nằm thu mình trong căn hầm chật hẹp tăm tối, nằm trên nền đá ẩm mốc hôi hám, ĐE-LI đã có dịp suy nghĩ và nhớ lại những lỗi lầm đã phạm. Vốn là con một trong gia đình giàu có, được cha mẹ cho đi học, nhưng anh lại lười biếng và ăn cắp tiền của cha mẹ rồi sau đó bỏ nhà đi hoang. Từng được nhà trường đánh giá là một học sinh thông minh giàu sáng kiến, anh chỉ có thói xấu là ham vui. Vậy tại sao anh lại không sử dụng những tài năng đó để làm việc tốt hữu ích cho tha nhân, mà lại bỏ nhà đi hoang và phạm tội đàn áp bóc lột kẻ khác ? Rồi sau đó anh bắt đầu có những giấc mơ đẹp về Đức Giê-su, mà anh đã từng học biết khi còn theo học lớp giáo lý vỡ lòng. Dường như anh thấy Đức Giê-su đang âu yếm nhìn anh và mời anh hãy đi theo Người. Rồi hình ảnh những người từng bị anh gây thương tích lần lượt lướt qua tâm trí anh. Tự nhiên anh cảm thấy một tình cảm dào dạt đối với họ. Chính tình thương ấy đã tắm mát và chữa lành những vết thương trong tâm hồn sơ cứng của anh. Cảm nghiệm ấy đã dần dần biến đổi anh nên một người mới đầy tràn tình yêu của Đức Giê-su. Sau hai tuần lễ, ĐE-LI được ra khỏi ngục biệt giam và trở lại phòng giam thường phạm. Anh không còn thái độ bắt nạt bạn tù, trái lại còn sẵn sàng bênh vực những kẻ thân yếu thế cô. Anh xin cha tuyên úy nhà giam theo học lớp Thánh Kinh hằng tuần. Anh trở thành người học trò chăm chỉ và xuất sắc nhất trong đám bạn tù. Mấy năm sau, khi được mãn hạn tù, anh đã trở thành chủ tịch hội “Cải cách chế độ lao tù”. Khi nói về anh, cha tuyên úy nhà lao đã nói: “Si-ta Đe-li là một bằng chứng sống động nhất về một phép lạ đã xảy ra: Không những anh là một con người tội lỗi được ơn sám hối, mà còn là một tạo thành mới, một tín hữu tốt lành thánh thiện và là môn đệ đích thực của Chúa Giê-su”.

2) TÁC HẠI CỦA THÓI ƯA TRÌ HOÃN “HÃY ĐỢI ĐẤY”:

Pháp quan Archais ở Thebea đang ngồi uống rượu với một số đông dũng sĩ của mình, bỗng có một sứ giả bước vào mang cho ông một bức thư báo cáo về một âm mưu sát hại ông. Thay vì mở ngay bao thư ra đọc, ông nhét ngay vào trong túi và nói:

 – Để mai hãy hay.

Và qua ngày mai thì ông bị giết chết. Trước khi bức thư bị khui ra, thì cả chính phủ đã bị bắt sạch không thoát một ai.

Nếu ngày Chúa lại đến không ai biết trước thì mọi người đang sống phải chuẩn bị sẵn sàng cho ngày giờ đó. Ảo tưởng nguy hiểm nhất là ảo tưởng cho rằng, mình còn sống lâu, còn có đủ thời gian để kịp hồi tâm sám hối trước khi chết.

3) CẦN CAN ĐẢM ĐỂ SẴN SÀNG ĐÁP LẠI TIẾNG CHÚA:

Một linh mục tuyên úy đã thuật lại câu trả lời đầy xúc động sau đây của một thủy thủ bị bệnh hiểm nghèo sắp chết. Anh là một thủy thủ rất đạo đức. Sáng hôm đó, anh đã nhận Thánh Thể như của ăn đàng. Buổi chiều, khi linh mục đến gặp và nhận thấy anh rất yếu, liền hỏi:

– Con đã sẵn sàng cho chuyến đi quan trọng sắp tới chưa?

– Thưa Cha, hoàn toàn sẵn sàng!

– Con không sợ ư?

– Sợ ư? Tại sao con lại phải sợ?

Và đặt tay lên ngực, nơi anh đã rước Chúa đến buổi sáng, anh nói thêm:

– Thuyền trưởng đã xuống thuyền, vậy con còn sợ gì nữa chứ?

4) HIỆU QUẢ ĐÁNG NGỜ CỦA THUỐC TRƯỜNG SINH:

Vào thời chiến quốc, có người dâng lên Sở vương một viên thuốc trường sinh. Ông ta bưng viên thuốc này vào hoàng cung. Quan cảnh vệ gác cổng lliền hỏi: “Thuốc này có uống được không ?” Người kia đáp : “Uống được”.

Lập tức viên quan cảnh vệ liền mở viên thuốc quý ra, cầm cho vào miệng nuốt đi trước sự ngỡ ngàng của người dâng thuốc. Câu chuyện được báo cáo lên vua Sở. Vua liền truyền tống giam quan cảnh vệ vào ngục vì tội “khi quân” và xử tội chết.

Viên quan liền kêu oan rằng: “Hạ thần đã hỏi người dâng thuốc và ông ta nói: ”Thuốc có thể uống được” nên thần mới dám uống. Thế là hạ thần vô tội mà kẻ có lỗi chính là người dâng thuốc kia. Hơn nữa, người dâng thuốc lại nói đó là thuốc trường sinh nghĩa là ai uống vào sẽ được trường sinh bất tử. Thế mà thần uống vào lại sắp phải chết. Như vậy đây là “thuốc tử” chứ sao gọi là “thuốc bất tử” được?  Điều đó chứng tỏ người dâng thuốc là kẻ nói dối mà sao bệ hạ lại tin hắn?

Vua nghe quan cảnh vệ nói có lý, liền tha không giết nữa.

5) BAO NHIÊU TIỀN CŨNG KHÔNG MUA ĐƯỢC THÊM MỘT NGÀY SỐNG:

Có một người rất keo kiệt, lúc nào cũng chắt bóp chẳng dám ăn tiêu gì. Tích cóp cả đời, anh ta để dành được cả một gia tài lớn.

Không ngờ một ngày, Thần Chết đột nhiên xuất hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền kia. Anh ta bèn nài nỉ:

– Tôi chia một phần ba tài sản của tôi cho Ngài, chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi.

– Không được. – Thần Chết lắc đầu.

– Vậy tôi xin đưa một nửa để xin cho tôi sống thêm nửa năm nữa, được không? – Anh ta tiếp tục van xin.

– Không được. – Thần Chết vẫn không đồng ý.

Anh ta vội nói:

– Vậy… tôi xin giao hết của cải cho Ngài. Ngài cho tôi một ngày thôi, có được không?

– Không được. – Thần Chết vừa nói, vừa giơ cao chiếc lưỡi hái trên tay.

Người đàn ông tuyệt vọng cầu xin Thần Chết lần cuối:

– Thế thì Ngài cho tôi một phút để viết chúc thư vậy.

Lần này, Thần Chết gật đầu. Anh run rẩy viết một dòng cảnh báo: “Xin mọi người hãy nhớ điều này: Bao nhiêu tiền cũng không mua nổi thời gian sống thêm một ngày”.

Hóa ra ở đời điều quan trọng không phải là tiền mà là chúng ta có biết sử dụng thời gian có ý nghĩa hay không? Có tiền mà sống vô nghĩa thì thật uổng phí. Thế nên, mỗi người phải biết trân trọng thời gian. Ngay khi còn sống hãy luôn phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Đừng để uổng phí cuộc đời trong những đam mê “danh, lợi, thú” chỉ mang lại hạnh phúc bọt bèo chóng qua. Thời gian trôi qua sẽ không trở lại. Hãy sống sao để được hạnh phúc Nước Trời đời sau.

  1. SUY NIỆM:
  2. VỀ MẦU NHIỆM PHỤC SINH KẺ CHẾT:

Dùng quyền năng siêu nhiên để làm cho người bệnh nan y được khỏi bệnh thì nhiều người đã làm được, nhưng làm cho người đã chết được sống lại thì chỉ những người được Chúa ban ơn đặc biệt mới có thể làm được. Chẳng hạn:

Thời Cựu Ước: Ngôn sứ Ê-li-a đã làm cho con trai của bà góa ở Sa-rép-ta sống lại (x. 1 V 17,17-24); Ngôn sứ Ê-li-sa cũng phục sinh cho con trai của bà Su-nêm (x. 2 V 4,32-37).

Đến thời Tân Ước, tông đồ Phê-rô đã làm cho bà Ta-bi-tha đã chết được sống lại (x. Cv 9,39-42). Riêng Ðức Giê-su đã phục sinh kẻ chết ít nhất 3 lần: Cho con trai bà góa ở thành Na-in mới chết đang đem đi chôn sống lại (x. Lc 7,11-15); Cho con gái ông trưởng hội đường mới chết đang nằm trên giường được trỗi dậy (x. Mt 9,18-26); Cho anh bạn thân La-da-rô chết chôn trong mồ bốn ngày được sống lại ra khỏi mồ (x. Ga 11,34-45). Ba người này sau khi sống lại cũng chỉ sống thêm được một thời gian rồi lại phải chết. Sự sống lại của họ nhằm tiên báo việc Ðức Giê-su sau này sẽ chiến thắng thần chết. Người sẽ trải qua cái chết và đến ngày thứ ba sẽ từ cõi chết sống lại (x. Ga 20,1-10). Sự phục sinh của Người là bằng chứng bảo đảm cho niềm tin vào mầu nhiệm kẻ chết sống lại trong ngày tận thế như thánh Phao-lô đã khẳng định: “Nếu Ðức Kitô không sống lại, thì niềm tin và lời rao giảng của chúng tôi là vô ích” (1 Cr 15,14), và sự phục sinh của Người chứng tỏ Người thực là Con Thiên Chúa hằng sống.

  1. ĐỨC GIÊ-SU, CON THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI CÓ QUYỀN TRÊN SỰ CHẾT:

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho thấy: Ðức Giê-su vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm; Người chính là Đấng Thiên Sai mà các ngôn sứ đã tiên báo sẽ đến và dân Do thái trông mong.

– Là người phàm, nên Đức Giê-su đã xúc động thổn thức và khóc thương người bạn thân khi đứng trước mộ của anh (c 33-35), đến nỗi người ta phải thốt lên: “Kìa xem! Ông ta thương La-da-rô biết mấy!” (c 36). Nhưng là Thiên Chúa, Đức Giê-su đã phán một lời khiến La-da-rô chết 4 ngày được trỗi dậy và ra khỏi mồ. Vì Người “là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Người thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Người sẽ không bao giờ phải chết” (x. Ga 11,25-26).

+ Khi mở cửa mộ của La-da-rô, Đức Giê-su đã mở cánh cửa sự sống, phá tan sào huyệt của tử thần: Khi truyền cởi những dải băng liệm cuốn quanh người La-da-rô, Người giải phóng anh khỏi quyền lực của tử thần.

+ Khi mở cửa mộ của La-da-rô, Đức Giê-su cũng mở cánh cửa đức tin của Mác-ta: Trước đó, đức tin của Mác-ta chỉ mới là thứ đức tin chung chung giống như đa số người Do thái đương thời. Nhưng sau khi chứng kiến La-darô sống lại, đức tin của bà đã trở thành sống động vững chắc. Trước đó, nhiều người Do thái vẫn chưa tin Đức Giê-su. Nhưng sau khi chứng kiến La-da-rô từ cõi chết sống lại, họ đã đạt đến đức tin vào Đức Giê-su. Chính khi tảng đá lấp cửa mộ La-da-rô mở ra cũng phá tan tảng đá nghi ngờ, dẫn họ tới đức tin Đức Giê-su là Con Thiên Chúa.

+ Khi mở cửa mộ của La-da-rô, Đức Giê-su cũng mở cánh cửa niềm vui: Sự chết của La-da-rô gieo tang tóc u buồn cho hai bà chị Mác-ta và Ma-ri-a. Tiếng khóc của hai người này đã khiến Đức Giê-su cảm động và không ngăn được dòng lệ. Nhưng khi La-da-rô được Người cho sống lại, đám tang biến thành đám hội, lời phân ưu trở thành lời chúc mừng.

+ Khi mở cửa mộ của La-da-rô, Đức Giê-su cũng mở cánh cửa niềm hy vọng: Từ nay nhân loại hy vọng Đức Giê-su là “sự sống lại và là sự sống”, cũng sẽ làm cho những ai tin vào Người được tham phần vào sự sống đời đời với Người như Người đã nói:  “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26).

  1. MUỐN ĐƯỢC THAM PHẦN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI PHẢI BIẾT YÊU THƯƠNG:

– Đức Giê-su không chỉ yêu bằng thứ tình yêu thần linh, mà còn yêu thương bằng tình cảm nhân loại. Tình yêu của Người là thứ tình yêu tột đỉnh như Tin Mừng Gio-an viết: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng!” (Ga 13,1b). Yêu đến cùng là yêu tột cùng, đến nỗi sẵn sàng hy sinh mạng sống vì người mình yêu, như lời Đức Giê-su: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).

– Tình yêu của Ðức Giê-su đối với anh bạn thân La-da-rô được thể hiện qua thái độ xúc động khi trước mộ của anh. Tình yêu tự nhiên được thể hiện qua ánh mắt trìu mến, lời nói cử chỉ dịu dàng và thái độ quảng đại như bà mẹ hiền nựng đứa con thơ, như Thiên Chúa đã yêu thương con cái loài người chúng ta, đã sai Con Một đến chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho chúng ta và đã từ cõi chết sống lại để cứu sống chúng ta (x. 1 Ga 4,9). 

  1. TRỞ NÊN NGÔN SỨ CỦA SỰ SỐNG BẰNG VIỆC THỰC THI GIỚI RĂN YÊU THƯƠNG:

– Trong sứ điệp ngày Giới Trẻ Thế Giới năm 1996, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đã khuyên các bạn trẻ như sau: “Hãy trở nên những ngôn sứ của sự sống và tình thương, những ngôn sứ của niềm vui. Hiện nay tuy nhân loại ngày càng văn minh hơn. Nhưng vẫn có nhiều bóng tối của sự chết như: chiến tranh, đói kém, phá thai, tự tử, si-đa, ám sát, đặt mìn, tai nạn giao thông… Những cái chết về thể xác phản ảnh một cái chết nguy hiểm hơn. Đó là cái chết của Tình Yêu trong lòng con người ! Cái chết ấy sẽ thắng thế khi con người sống buông thả, chán chường và khép kín trong sự ích kỷ. Nhưng chúng ta có Đức Giê-su là “Sự Sống Lại và là Sự Sống”. Một khi chúng ta liên kết mật thiết với Đức Giê-su, chúng ta cũng có thể thông truyền sự sống và niềm vui cho thế giới, giống như Đức Giê-su xưa đã trả lại sự sống cho La-da-rô và lau khô giọt lệ cho hai chị em Mát-ta và Ma-ri-a… Ki-tô hữu phải sẵn sàng lao tới bất cứ nơi đâu có những anh em cần được giúp đỡ, những nơi có những giọt nước mắt cần được lau khô, những nơi có những lời cầu cứu đang mong chờ được đáp ứng”.

– Mỗi ngày chúng ta cần tích cực chuẩn bị cho cuộc sống mai sau, bằng một nếp sống bác ái cụ thể như: “Vui với người vui và khóc với người khóc”; bằng việc quan tâm thăm viếng, an ủi động viên, quảng đại chia sẻ tinh thần vật chất và khiêm tốn phục vụ những người nghèo khổ bệnh tật và bất hạnh… Yêu thương không phải bằng môi miệng nhưng bằng sự quan tâm tới người đau khổ nghèo đói bệnh tật bất hạnh đang sống ngay bên và sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu, phục vụ họ như phục vụ chính Đức Giê-su bị bỏ rơi.

  1. THẢO LUẬN:

Chúng ta cần phải làm gì để trở thành Ngôn Sứ của Sự Sống, sẵn sàng chia sẻ tình thương của Chúa cho đồng bào Việt Nam, cho những người bệnh tật đau khổ đang sống chung quanh chúng ta ?

  1. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay chúng con chưa chết nên không xin Chúa cho sống lại về phần xác, nhưng chúng con xin Chúa ban cho chúng con sống lại thật về phần linh hồn: để không những chúng con chiến thắng kẻ thù cuối cùng là sự chết, mà còn tiêu diệt những nguyên nhân dẫn tới cái chết như: thói tham lam tiền bạc, ham mê rượu chè, chích hút và những đam mê bất chính khác… Xin cho chúng con thắng vượt tất cả những gì hủy hoại sự sống thiêng liêng trong chúng con như: sự thất vọng, buồn chán, sống không lý tưởng…

– Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đổ tràn ngập tâm hồn chúng con Thần Khí và sức sống của Chúa.

Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa (Mẹ Têrêxa Calcutta).

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY_A

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.  Có một câu truyện được kể lại về một gia đình có một người con trai trong quân đội.  Vào khoảng 6 giờ chiều Thứ Sáu, người cha vừa đi làm về và đang đứng trước cảnh ngổn ngang của cái “garage” xe, dự tính sẽ thu dọn cho sạch sẽ sau bữa ăn tối. Thình lình ông nghe có người gọi tên ông. Ngẩng đầu lên ông nhìn thấy cha xứ và vợ của ông đang đứng trước cửa.  Ông ngạc nhiên và hỏi, “Có việc gì không?” Vợ ông trả lời: “Con trai lớn đã tử trận.”

Bàng hoàng và xúc động, ông vội ngồi xuống chiếc ghế sa-lông cũ và cảm thấy như là người mất hồn.  Ông hồi tưởng về lúc đứa con được 12 tuổi là một đoàn viên rất sốt sắng và nhanh nhẹn trong đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể trong giáo xứ.  Ông nhớ lại thời gian con ông giúp lễ cho cha xứ và mơ ước đứa con sau này sẽ trở thành linh mục. Cuối cùng, ông nhớ lại đứa con trong bộ quân phục sĩ quan Thủy quân lục chiến rất oai hùng.  Đây là đứa con mà ông luôn hãnh diện.  Một thời gian sau đó, người cha đã thú nhận rằng tin tử trận của đứa con đã làm ông bàng hoàng và xửng xốt đến độ ngay lúc đó không nói được với vợ một lời an ủi.  Đầu óc của ông lúc đó hoàn toàn nghĩ đến một thân xác lạnh cứng không lay động và không có sự sống của đứa con thân yêu.

Ông bà anh chị em thân mến.  Câu chuyện đau buồn trên đây hay những kinh nghiệm của những người có thân nhân qua đời giúp chúng ta hiểu được tâm trạng của Chúa Giê-su như thế nào khi nghe tin người bạn thân La-za-rô vừa qua đời.  Bài Tin mừng cho chúng ta biết Chúa cảm thấy bàng hoàng xúc động và rơi lệ. Sự kiện này cho chúng ta thấy bản tính con người thật của Chúa Giê-su như tất cả chúng ta. Chúng ta có thể nhận ra sự xúc động và thương cảm trong con người của Chúa như trong con người của chúng ta khi phải đối diện với hoàn cảnh tương tự. Chúng ta nhận thấy Chúa Giê-su cũng có một con tim biết yêu thương, biết xúc động và thương khóc như tất cả chúng ta, và cũng cảm thấy đau đớn trong thân xác như chúng ta.

Những dữ kiện này trong nhân tính của Chúa Giê-su rất quan trọng và chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ.  Tại sao chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ?  Thưa, vì những dữ kiện hay tâm trạng này tạo nên sự liên kết rất gần gũi giữa Chúa Giê-su với chúng ta.  Khi vâng lời Chúa Cha khiêm nhường xuống thế làm người và sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, Chúa Giê-su đã mặc lấy bản tính con người, ngoại trừ tội lỗi, và sống giữa con người nhân loại chúng ta.  Bởi vì Chúa biết yêu thương, bởi vì Chúa biết thương khóc, bởi vì Chúa biết sầu khổ cho nên Chúa hiểu và cảm thông khi chúng ta yêu thương, khi chúng ta thương khóc, khi chúng ta sầu khổ.  Nếu chúng ta ý thức và nhận ra những điều này thì sẽ là một sự kích động, và sẽ trở nên động lực giúp chúng ta can đảm tiếp tục vững tiến bước, khi chúng ta đối diện với những hoàn cảnh khó khăn, thử thách, đau khổ hay nghịch cảnh trong cuộc sống.  

Nhưng, ông bà anh chị em thân mến, bài Tin mừng hôm nay còn cho chúng ta biết một điều sâu xa và trọng đại hơn về Chúa Giê-su, và rất quan trọng cho đức tin của chúng ta, đó là, ngoài việc khóc thương La-za-rô, Chúa còn cho La-za-rô sống lại.   Hay nói một cách khác, bài Tin mừng hôm nay không những cho chúng ta biết những sự kiện liên quan đến nhân tính của Chúa, mà còn mặc khải cho chúng ta biết thiên tính của Ngài.  Chúa Giê-su không những là một con người giống như chúng ta mà còn là Con Thiên Chúa hoàn toàn khác với chúng ta.   Bài Tin mừng còn đi một bước xa hơn nữa là cho chúng ta biết một lời hứa của Chúa Giê-su.  Chúa tuyên bố: “Ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống.”  Hay nói một cách khác, Chúa sẽ ban cho chúng ta ơn sủng trọng đại hơn ơn sủng Chúa đã ban cho ông La-za-rô.  La-za-rô được Chúa cho sống lại, nhưng cũng đã già đi và cũng đã chết. Có nghĩa là Chúa ban cho ông “sự sống tạm thời” trong cuộc sống ở trần gian này.  Nhưng nếu chúng ta tin vào Chúa là Con Thiên Chúa, thì Chúa sẽ ban cho chúng ta “sự sống vĩnh cửu” ở cuộc sống đời sau.  

Nói tóm lại, bài Tin mừng hôm nay mạc khải cho chúng ta biết 2 sự kiện quan trọng của lịch sử ơn cứu độ trong Kinh Thánh.  Thứ nhất, Chúa Giê-su là một người thật, và vì là con người thật, Người có những cảm xúc như yêu thương và sầu khổ, cũng như có những cảm nghiệm đau đớn thể xác như chúng ta, vì vậy, Chúa liên kết mật thiết và cảm thông với chúng ta.  Chúa biết khi chúng ta sầu khổ, Người sẽ an ủi và tăng sức mạnh cho chúng ta trong những hoàn cảnh này.  Và điều quan trọng thứ hai, bài Tin mừng cho chúng ta biết thiên tính của Chúa Giê-su, Người là Con Thiên Chúa hằng sống và là Đấng Cứu Độ của chúng ta.  Chúa và chỉ Chúa mới có thể ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu mà thôi. 

Ông bà anh chị em thân mến.  Vì yêu thương và muốn cứu độ chúng ta, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Con Một Ngài xuống thế, trở thành một con người như chúng ta và hứa ban cho chúng ta sự sống của Thiên Chúa đời này và hạnh phúc đời sau.  Trong bài Tin mừng, Chúa nói với bà Mát-ta trong lúc đau buồn trước cái chết của em mình: “Ta là sự sống và là sự sống lại, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?”  Cùng với bà Mát-ta, chúng ta thưa cùng Chúa: “Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian.”  

Xin Chúa chỉ dạy chúng ta biết tìm kiếm cho mình sự sống vĩnh cửu ngay từ đời này. Biết tìm kiếm Chúa bằng đời sống cầu nguyện, hy sinh, phục vụ, bác ái và quảng đại, và thành tâm lắng nghe và can đảm sống Lời Chúa dạy.  Nhất là trong mùa chay thánh này nhận ra và đi theo con đường Chúa đã đi, để con người cũ ích kỷ chết đi, để được sự sống hạnh phúc đời đời như lời Chúa hứa.

Về mục lục

.