CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH NĂM B

785

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH_B

CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH

Lời Chúa: Cv 4,8-12; 1Ga 3,1-2; Ga 10,11-18

——–

.

Mục lục

1. Chúa dẫn con đi  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)

2. Mục Tử Nhân Lành  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Đóa hoa yêu thương  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Tâm tình sâu rộng của Mục Tử Nhân Lành  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

5. Chúa Nhật 4 Phục sinh_B  (Lm Antôn, giáo xứ Giuse, Tulsa)

6. “Mục tử phải có mùi chiên”  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

7. Quyền hành và trách nhiệm  (Trầm Thiên Thu)

8. Chúa Nhật Chúa Chiên Lành (Lm. Giuse Dương Hữu Tình, Gp. Hải Phòng)

9. Mục tử nhân lành hiến thân phục vụ đoàn chiên (Lm. Đan Vinh – HHTM)

10. Chúa Chiên Lành – Cầu cho ơn Thiên triệu (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

11. Gắn bó yêu thương (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

 

 

CHÚA DẪN CON ĐI

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Đường đời như con sông trôi về muôn hướng, ai cũng cần có người dẫn đường chỉ bảo để biết lẽ sống ở đời. Người công giáo tin rằng, cùng với cha mẹ và những người có trách nhiệm, họ còn có Chúa là Đấng dẫn đường. Đi theo con đường của Chúa, chắc chắn sẽ không bị lạc lối. Giữa muôn nẻo đường trần gian, có Chúa dẫn ta đi.

“Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống” (Ga 14, 6). Chúa Giêsu vừa là người dẫn đường, vừa là chính con đường. Đi trên con đường mang tên Giêsu, chúng ta sẽ đến gặp Chúa Cha. Chúng ta sẽ đến bến bờ hạnh phúc.

Chúa nhật thứ bốn của Mùa Phục sinh, Phụng vụ cả ba năm A,B,C đều giới thiệu với chúng ta: Chúa Giêsu là mục tử nhân lành. Đây chính là lời khẳng định của Chúa, được Thánh Gioan ghi lại. Trong đời sống du mục của người Do Thái, hình ảnh người mục tử rất  gần gũi, quen thuộc.

Mục tử là người có trách nhiệm hướng dẫn đoàn chiên. Nhờ sự chăm sóc của mục tử, đoàn chiên được an toàn và được đáp ứng những nhu cầu cần thiết. Tác giả thánh vịnh đã cảm nhận được sự chăm sóc của Chúa, và đã thốt lên : “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi” (Tv 23, 2-3). Giáo huấn của Chúa Giêsu trong Tin Mừng là những gợi ý hướng dẫn giúp ta tránh những tai họa và đạt được hạnh phúc lâu bền. Nhờ sự hướng dẫn của Chúa, chúng ta biết xây dựng mối tương quan tốt đẹp với Chúa và với anh chị em, nhờ đó, cuộc sống này trở nên hài hòa, liên đới và an bình.

Là Đấng hướng dẫn chúng ta đi trên con đường chính lộ, Chúa Giêsu còn là Đấng hiến mạng sống mình vì chúng ta. Chúng ta vừa cử hành lễ nghi Tuần Thánh và lễ Phục Sinh. Qua biến cố thập giá, Chúa Giêsu như mục tử hiến mạng sống để bảo vệ đoàn chiên. « Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên ». Chúa Giêsu đã chấp nhận chết cho chúng ta được sống, chấp nhận đau khổ để chúng ta được hạnh phúc. Thánh Phêrô, khi ngỏ lời với các thành viên Thượng Hội đồng Do Thái, đã nhấn mạnh tới hiệu quả mà sự chết của Chúa Giêsu đem lại. Một chứng từ sống động, đó là người què được chữa lành nhờ kêu cầu danh Đức Giêsu. Thánh Phêrô còn xác quyết: ngoài Chúa Giêsu, dưới gầm trời này, không ai có thể đem lại ơn cứu độ cho con người. Các thành viên công nghị đều ngạc nhiên khi nghe người dân chài ít học này giảng dạy những lẽ cao siêu. Mặc dù không dám công khai ủng hộ, nhưng họ cũng rất dè dặt trước việc cấm đoán thánh Phêrô và các tông đồ loan truyền Đức Giêsu Phục sinh.

Chúa Giêsu tuyên bố: Người là mục tử nhân lành và đích thực. Người phân biệt rõ, mục tử đích thực khác với người chăn chiên thuê. Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta,  luôn tồn tại những khuynh hướng muốn lôi kéo con người xa Chúa. Họ chủ trương: Thiên Chúa đã chết. Họ hô khẩu hiệu: Vật chất quyết định tất cả. Họ muốn thay thế Thiên Chúa bằng những phát minh của nền kỹ nghệ hiện đại. Họ đã lầm. Vật chất dồi dào, khoa học hiện đại, những điều đó rất cần để cải thiện đời sống con người. Nhưng chọn chúng làm đích điểm cuộc đời sẽ là một ảo tưởng và làm cho cuộc sống trở nên trống rỗng. Hãy đến với Chúa để được thụ giáo, để biết phân biệt đâu là thật giả, đâu là giá trị tạm thời, đâu là hạnh phúc vĩnh cửu.

« Anh em hãy xem Chúa yêu chúng ta dường nào ! Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa » (Bài đọc II). « Con Thiên Chúa », đó là tước hiệu của Chúa Giêsu. Nhờ tin vào Chúa Giêsu mà chúng ta cũng được vinh dự cao quý ấy trong mối tương quan với Chúa Cha. Mặc dù đang sống giữa đời đầy bon chen đau khổ, chúng ta vẫn là con Thiên Chúa, là con chiên trong đoàn chiên của Ngài, nhờ Đức Giêsu, với Đức Giêsu và trong Đức Giêsu. Suy tư về hình ảnh vị Mục Tử nhân lành nhắc bảo chúng ta vinh dự cao quý ấy.

« Tôi còn có những con chiên khác không thuộc ràn này… » Lệnh truyền ra đi loan báo Tin Mừng từ hai ngàn năm vẫn mang tính thời sự và cấp bách. Chúng ta là con chiên trong đoàn chiên của Chúa, chúng ta đã và đang làm gì để thuyết phục những người xung quanh nhận biết Ngài ? Đức Thánh Cha Phanxicô vừa ấn định sẽ mở Năm Thánh Lòng Thương Xót, khởi đầu vào ngày 8-12-2015. Ngài coi đây là con đường cẩn thiết và phương pháp phù hợp với bối cảnh xã hội hôm nay để đưa nhiều người gia nhập đoàn chiên của Chúa. Đức Thánh Cha nói: « Tôi thường suy nghĩ xem làm thế nào để Giáo Hội có thể làm nổi bật hơn sứ mạng của mình là làm chứng nhân về lòng từ bi. Đó là một con đường bắt đầu bằng sự hoán cải tinh thần. Vì thế, tôi quyết định ấn định Năm Thánh đặc biệt, có trọng tâm là lòng từ bi của Chúa. Đây sẽ là một Năm Thánh Lòng Thương Xót. Chúng ta muốn sống năm này dưới ánh sáng lời Chúa nói: ”Các con hãy có lòng thương xót như Chúa Cha” (x. Lc 6,36).

Khi thực thi đức thương yêu và lòng nhân hậu với những người xung quanh là chúng ta quảng diễn hình ảnh của Đức Giêsu Mục Tử. Qua chứng từ của chúng ta, chắc chắn đoàn chiên của Chúa sẽ thêm đông số. Như thế, ước mong của Vị Mục Tử sẽ được thực hiện trong cuộc sống hôm nay.

Hôm nay cũng là ngày cổ võ ơn gọi và cầu nguyện cho ơn Thiên triệu. Xin Chúa gửi đến cho Giáo Hội của Người những mục tử tốt lành thánh thiện, để trở thành hiện thân của Chúa giữa trần gian. Amen.

Về mục lục

.

MỤC TỬ NHÂN LÀNH

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Dân Do Thái là dân du mục. Cuộc đời họ gắn liền với đoàn vật và những đồng cỏ. Nên khi Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, người Do Thái hiểu ngay tức khắc. Đức Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc ấy để nói lên mối liên hệ của ta với Người và của Người với ta. Người là Mục tử nhân lành. Ta là đoàn chiên của Người. Người lãnh đạo đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha thiết. Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí, do học hỏi, nhưng phát xuất từ trái tim, do tình yêu. Khi yêu, trái tim trở nên vô cùng nhậy bén đến độ hiểu được hết những âm thanh của tâm hồn và tai người thường không nghe thấy, nhìn thấy hết những gì ẩn kín trong tâm hồn mà mắt thường không nhìn thấy, cảm nhận được hết những chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn mà không một nhà tâm lý học nào có thể cảm được. Khi Đức Giêsu nói: “Ta biết chiên Ta” có nghĩa là Người hiểu biết từng người trong chúng ta. Người không chỉ hiểu rõ hoàn cảnh sinh sống của chúng ta, mà còn thấu rõ tâm tư tình cảm của ta. Người biết những gánh nặng mà ta đang phải gánh. Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu. Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta. Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta. Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc. Sự quan tâm chăm sóc cũng phát xuất từ tình yêu. Có yêu mới quan tâm. Có quan tâm mới hiểu biết nhu cầu. Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc. Đức Giêsu yêu thương ta nên Người quan tâm đến ta. Người biết rõ những nhu cầu của ta. Người chăm sóc ta. Có những tình yêu muốn chiếm hữu. Đó là thứ tình yêu ích kỷ. Có những chăm sóc khiến ta trở nên ấu trĩ, yếu ớt, không lớn lên được. Đó là thứ chăm sóc độc đoán ràng buộc. Đức Giêsu chăm sóc không phải để ràng buộc ta nhưng để giúp ta sống trong tự do. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhưng là để giúp ta trưởng thành. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên yếu ớt nhút nhát, nhưng là để giúp ta mạnh mẽ, tự tin. Vì thế, Nguơì cung cấp cho ta những lương thực lành mạnh. Người đưa ta đến những đồng cỏ non, đến những giòng suối trong. Lương thực Người mang đến, đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là Thánh ý Chúa Cha. Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.

Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hy sinh. Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu. Càng yêu mến nhiều càng sẵn sàng hy sinh nhiều. Yêu đến sẵn sàng hy sinh mạng sống là một tình yêu cao cả không có gì sánh được. Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã thực hiện điều ấy. Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên. Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.

Hạnh phúc cho ta được là đoàn chiên của Người. Ta được an ủi vì Người hiểu ta. Ta an tâm vì Người hằng quan tâm chăm sóc ta. Ta sung sướng vì Người yêu thương đến nỗi chết vì ta.

Người muốn ta chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người. Người muốn ta lớn mạnh để đến lượt ta, chính ta trở thành mục tử nhân lành theo gương Người. Cha mẹ là mục tử của con cái. Thày cô giáo là mục tử của học sinh. Giám đốc là mục tử của công nhân. Y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân. Anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ.

Nhưng đặc biệt hơn hết, Người muốn có những người tiếp tục công việc của Người, chăm sóc đời sống tâm linh nhân loại. Chính vì thế, Giáo Hội dành ngày hôm nay để cầu nguyện cho ơn kêu gọi làm linh mục. Nhìn tình hình chung trên toàn thế giới, và riêng trong Giáo phận, ta thấy còn thiếu rất nhiều linh mục. Giáo dân cần linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ. Giáo dân cần linh mục như học sinh cần thầy cô giáo. Giáo dân cần linh mục như một người bạn sẵn sàng cảm thông, chia sẻ vui buồn trong đời sống và như một người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.

Hãy cầu nguyện cho có nhiều thanh niên sẵn sàng hiến thân làm linh mục. Hãy khuyến khích con cháu dâng mình cho Chúa, làm linh mục để phục vụ anh em. Nhất là hãy cầu nguyện cho các linh mục được trở nên những mục tử như Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đoàn chiên.

Lạy Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Xin biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong khu phố, trong xã hội. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Đức Giêsu hướng dẫn đoàn chiên bằng cách nào? Bằng quyền lực hay bằng tình yêu thương?

2- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Đức Kitô.

3- Bạn có cảm thấy trách nhiệm là mục tử của mình không? Bạn đã đối xử với đoàn chiên của mình thế nào?

4- Bạn nghĩ gì về đời sống tu trì? Bạn có cầu nguyện cho cha Xứ của bạn không?

Về mục lục

 

ĐÓA HOA YÊU THƯƠNG

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Cuộc sống cho ta những cái đẹp để mang lại niềm vui hạnh phúc cho ta. Cái đẹp của thiên nhiên cho ta thư thái bình an. Cái đẹp của tình người cho ta niềm vui hạnh phúc. Cái đẹp của tâm hồn cho ta tin tưởng lạc quan. Một trong những cái đẹp để lại cho ta những ấn tượng nhất không hẳn là cái đẹp hoàn mỹ, sắc sảo của thể xác mà là cái đẹp của những nghĩa cử hy sinh đầy ắp tình người. Hy sinh càng nhiều thì nghĩa cử càng cao đẹp bấy nhiêu.

Cư dân mạng vừa qua có dịp trầm trồ về tình yêu lứa đôi. Tại làng Liangwang thuộc Tế Nam, Sơn Đông, Trung Quốc, có một câu chuyện tình yêu khiến nhiều người không khỏi rung động. Sun Guofang, một người vợ chưa cưới đã dũng cảm hiến tặng một bên thận của mình để cứu sống người yêu bị nhiễm độc đường niệu cần cấy ghép. Cô nói rằng: “Đây là món quà giá trị nhất tôi có thể mang lại cho anh ấy trong ngày Valentine”.

Đây là một tình yêu đẹp. Đẹp như một đóa hoa mà ai đó nói rằng:

Sắc là dâng hiến

Hương là hy sinh

Thiên Chúa đã yêu thương con người bằng một tình yêu cao đẹp hơn thế ! Ngài yêu thương không phải dành tặng cho con người một quả thận, một đôi tay, một đôi mắt. . . ; Ngài dành tặng cho con người cả mạng sống hiến thân vì anh em. Tình yêu của Ngài là tình yêu dâng hiến đến hy sinh cả tính mạng cho con người. Tình yêu của Ngài rực rỡ như một sắc hoa và tỏa lan hương thơm nhờ hy sinh đến quên cả chình mình.

Tình yêu ấy hôm nay Ngài ví tựa như tình yêu của người mục tử dành cho đàn chiên. Một tình yêu vượt lên trên trách nhiệm để có thể lo cho đàn chiên. Thức ăn nước uống và nhất là canh thức để bảo vệ đàn chiên khỏi hiểm nguy của thú rừng luôn rình chờ. Thiên Chúa yêu con người. Tình yêu của Ngài luôn mang con người trong trái tim đến nỗi biết từng con chiên, lo lắng cho từng con chiên, chăm sóc cho từng con chiên. Ngài biết từng nỗi khổ của con người vì từng « sợi tóc trên đầu rơi xuống Ngài cũng biết ». Cái biết của Ngài là cái biết thông cảm, thương xót. Cái biết kèm theo sự dấn thân để xoa dịu nỗi khổ của con người.

Xin cho chúng ta biết nhận ra tình yêu của Thiên Chúa luôn ban tặng cho thế gian. Tình yêu của Ngài vẫn đong đầy trên cuộc đời chúng ta. Một tình yêu quan phòng, chở che, nâng đỡ chúng ta. Xin cho chúng ta cũng biết đền đáp tình yêu ấy bằng cả một đời họa lại chân dung đầy yêu thương của Chúa cho anh em. Nhất là nơi gia đình chúng ta, nơi mà ai cũng từng được yêu thương và cũng cần thể hiện tình yêu thương. Tình yêu nơi vợ chồng luôn hy sinh dâng hiến cho nhau. Tình yêu nơi cha mẹ luôn tận tụy cho con cái. Tình yêu nơi con cái luôn sống hiếu thảo với mẹ cha . . . Mỗi một tình yêu dâng hiến nơi gia đình là một đóa hoa đang trang trí cho gia đình thêm rạng rỡ và thơm hương. Ước gì mỗi người chúng ta luôn là một đóa hoa yêu thương dâng tặng gia đình như tình yêu của Thiên Chúa hiến dâng vì chúng ta. Amen.

Về mục lục

.
TÂM TÌNH SÂU RỘNG CỦA MỤC TỬ NHÂN LÀNH

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

‘Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó, nhưng họ không kiểu những điều Người nói với họ… Vậy Đức Giê-su lại nói…’ Tôi có cảm tưởng khi tự đồng hóa mình với hình ảnh người mục tử tốt lành, Đức Giê-su đã không chỉ muốn khảng định một khái niệm, một so sánh; đúng hơn Người đang muốn diễn đạt một tâm tình. Chính cái tâm tình ấy, chứ không phải là khái niệm hay ý tưởng (đã từng được diễn đạt trong Cựu Ước), là điều mà nhóm Pha-ri-sêu thủ lãnh thẳng thừng chối bỏ. Tâm tình mục tử độc đáo được Đức Giê-su áp dụng cho mình gồm hai yếu tố không thể tìm thấy nơi bất cứ một nhân vật nào khác, đó là:

– Yếu tố chiều sâu: “Anh gọi tên từng con… biết chiên của mình… và hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên”.

– Yếu tố chiều rộng: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi phải đưa chúng về”.

Chiều sâu của tâm tình: Chiên nhận biết và nghe tiếng của mục tử… đó là điều xảy ra hết sức tự nhiên, như phản ứng tất yếu trước tâm tình của Người Mục Tử chân chính được biểu lộ bằng hành động. “Anh gọi tên từng con…” (câu 3) Người Do Thái thừa hiểu ‘gọi tên’ có nghĩa là gì (xem St 2:20; Lc 1:59-63). Khi khảng định người mục tử ‘gọi tên từng con’, Đức Giê-su chắc hẳn muốn khảng định sự trân trọng của Mục Tử đối với từng con chiên, bất luận chúng thế nào. ‘Gọi tên’ trong cách nói của người Do Thái hàm ý, giữa mục tử và chiên có một mối liên hệ nhân vị hết sức mật thiết, vừa mang nội dung thuộc về nhau, vừa nói lên trách nhiệm chăm sóc phát huy, lại vừa trân trọng giá trị riêng của mỗi con chiên trong hiện hữu cũng như trong sứ mệnh của chúng. Và còn hơn thế nữa, “Tôi biết chiên của tôi!” Cũng như ‘gọi tên’, người Do Thái hiểu rõ ý nghĩa sâu sắc của từ ‘biết’ hơn hẳn chúng ta ngày nay (xem St 4:1; Lc 1:34). ‘Biết’ chính là kết hiệp bền chặt, là thấm nhập vào nhau, là truyền cho nhau sức sống trong yêu thương và quí chuộng. Nếu Mục Tử nhân lành quả là như thế, thì đúng là mối liên hệ giữa Người với chiên không còn gì là bình thường nữa, đúng hơn đã trở thành điên khùng rồi. “Ông ấy bị quỷ ám và điên khùng rồi, nghe ông ấy làm gì!” (câu 20) Nhưng đối với bất kỳ con chiên Ki-tô hữu nào, thì đi sâu vào tâm tình đó mới quả thật là cả một khám phá, là ‘nghe và thấu hiểu được’ tiếng yêu thương – nhân ái khôn lường của Mục Tử Giê-su.

Chiều rộng của tâm tình: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi phải đưa chúng về!” Có lẽ không mục tử nào lại có tâm tình khùng điên và phi lý đến thế: đã không thuộc ràn mình thì tại sao lại cất công đưa về, họa chăng là kẻ tham lam muốn chiếm đoạt? Phải, Vị Mục Tử Nhân Lành này quả thực là một mục tử vô cùng tham lam, chỉ vì cõi lòng của Người không chút hạn hẹp. Tình yêu dâng hiến đối với từng con chiên không ngăn cản Người tiếp nhận hết mọi con, không loại trừ bất cứ con nào, kể cả lúc chúng không thuộc về ràn của mình. Và không chỉ các chiên tốt lành khỏe mạnh, mà cả những con ốm đau ghẻ lở; không chỉ các chiên ngoan trong ràn, mà cả (đúng hơn, nhất là) những con tinh nghịch trốn chạy khỏi ràn; thậm chí cả các chiên thuộc các ràn tranh giành, đối kháng hoặc thù nghịch với Người. Con tim của Mục Tử này – và duy nhất chỉ có vị này trên trần gian – muốn ôm lấy tất cả, để… “hy sinh mạng sống” cho tất cả! Và rồi các chiên, một khi đã thuộc về ràn của Người, chắc hẳn sẽ không thể giữ cái thái độ hẹp hòi, khư khư bảo vệ quyền lợi riêng tư của mình. Tâm tình trải rộng của vị Mục Tử phải trở thành tâm tình của từng con chiên trong ràn, để có thể “vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chin mươi chin người công chính không cần sám hối ăn năn”; đồng thời chấp nhận cả những thiệt thòi, nếu đôi khi có cảm thấy vị Mục Tử của mình nhẫn tâm ‘để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất” (Lc 15: 4-7).

Trong tư cách linh mục tôi thiết nghĩ, nếu chỉ trong tư cách chiên mà tôi đã phải thấm nhập được vào cái tâm tình sâu rộng như trên, huống hồ chi là người, mà đôi khi vẫn thường được nhắc nhở trở nên ‘mục tử như lòng Chúa mong ước’. Nếu không liên tục chiêm ngắm vị Mục Tử Giê-su tự hiến trên thập giá, nếu không liên tục kết hiệp với Người, hỏi liệu tới khi nào tôi mới đáng mang danh là linh mục nhân lành của Chúa? Chính vì vậy mà sốt sáng cử hành Thánh Lễ mỗi ngày, đối với bất cứ linh mục chân chính nào, cũng có tầm quan trọng sống còn. Cầu nguyện cho có được các linh mục thông minh tài đức không phải điều khó, cái khó là có được nhiều mục tử hội nhập được tâm tình rộng sâu của Mục Tử Nhân Lành Giê-su!

Ôi Mục Tử Nhân Lành, xin cho mọi linh mục của Chúa hiểu được tâm tình Chúa có đối với từng con chiên trong chính bản thân của chúng. Trong tư cách là chiên được Chúa chăn nuôi, chính con phải là người đầu tiên hiểu ra rằng Chúa đã đích danh ‘gọi tên’ con, và ‘biết’ con, bất chấp những yếu đuối của con. Xin Chúa gợi cho con nhớ rằng, mỗi khi được một ai đó gọi mình là linh mục, con cũng biết tiến sâu thêm một bước nữa vào tâm tình rộng sâu của vị Mục Tử Nhân Lành duy nhất. A-men.

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH_B

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.   Chúa nhật thứ tư Phục sinh hôm nay được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên Lành, vì chúng ta nghe đoạn văn trong Tin mừng thánh Gioan nói về Chúa Giê-su là vị Mục Tử của chúng ta. Và Chúa nhật hôm nay, Giáo hội kêu gọi mọi người cầu nguyện cho ơn thiên triệu, ơn trở thành linh mục, tu sĩ để dạy dỗ, chăm sóc và hướng dẫn dân Chúa.

Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu cho chúng ta biết có 2 thành phần mục tử, là những người chăm sóc, lo lắng và bảo vệ chiên.  Một là những mục tử chăm sóc đoàn chiên của chính mình, và hai là những mục tử được thuê mướn để coi sóc chiên của chủ nông trại.  Thành phần mục tử thứ hai này trốn tránh khi có sự nguy hiểm đến, trong khi những mục tử thứ nhất can trường chiến đấu để bảo vệ chính đoàn chiên của mình, có những trường hợp mục tử bị thương và có những trường hợp phải hy sinh mạng sống để chiên được cứu sống.  Chúa Giê-su nói với chúng ta Người sẽ bị kết án, chết trên thập giá để bảo vệ và cứu chúng ta được sống, nhưng Người sẽ sống lại, và thật sự Chúa đã sống lại. Qua sự kiện này, Chúa cho chúng ta biết, điều thứ nhất, Người lo lắng cho chúng ta biết chừng nào.  Người sẽ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng cho chúng ta.  Và sự kiện này còn cho chúng ta biết điều thứ hai là quyền năng vô biên của Chúa.  Chúa đã tự hiến mạng sống mình qua cái chết, và đã trỗi dậy, đã phục sinh sống lại vinh hiển.

Ông bà anh chị em thân mến.  Thánh Phê-rô trong bài đọc 1 hôm nay quả quyết với chúng ta chỉ theo Chúa Giê-su chúng ta mới được an toàn và được cứu sống.  Và bài đọc một còn cho chúng ta biết thánh Phê-rô đã dùng quyền năng vô biên của Chúa Giê-su Ki-tô phục sinh để chữa lành bệnh và làm phép lạ cho kẻ tàn tật được khỏi.  Ngài đã xác quyết rằng “Chính nhờ danh Ðức Giêsu Kitô Nadarét, Chúa chúng ta, Người mà chư vị đã đóng đinh, và Thiên Chúa đã cho từ cõi chết sống lại, chính nhờ danh Người mà anh này được lành mạnh như chư vị thấy đây.”

Ngoài ra, qua bài Tin mừng, Chúa Giê-su còn cho chúng ta biết những sự kiện khác nữa: những người mục tử biết chiên của mình, và chiên nhận ra chủ chiên, như chủ và thú vật mà chúng ta nuôi trong nhà.  Làm sao chủ và thú vật trong nhà biết và nhận ra nhau?  Thưa vì dành nhiều thời giờ cho nhau.  Thú vật trong nhà cần sự chăm sóc và nuôi nấng của chủ.  Chủ nhà hiện diện 24 tiếng 1 ngày, 7 ngày một tuần.  Chúa Giê-su, Chúa Chiên Lành của chúng ta, hiện diện với chúng ta mọi lúc và biết rõ chúng ta hơn chúng ta biết chính chúng ta.  Chúa biết rõ có bao nhiêu sợi tóc trên đầu chúng ta.  Có ai trong chúng ta biết rõ chúng ta như vậy không?  Nếu chúng ta không biết rõ Chúa, chúng ta cần dành nhiều thời giờ hơn với Chúa qua sự cầu nguyện.  Chúng ta phải dành thời giờ cầu nguyện, tham dự Thánh lễ để biết Chúa hơn.

Ông bà anh chị em thân mến. Theo kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa, và để tiếp tục sứ mệnh của Chúa Giêsu, một số người được kêu gọi trở thành mục tử cho cộng đoàn dân Chúa, đó là các giám mục và linh mục.   Họ được trao cho trách nhiệm chăm lo, dạy dỗ và hướng dẫn công đoàn dân Chúa về mặt tinh thần. Trách nhiệm của các giám mục và linh mục ngày nay và trong xã hội này thật cao quí những cũng thật khó khăn và nặng nề!  Cao quí vì các họ phải thực tế hóa và hiện tại hóa tấm lòng, cách sống và sự hy sinh như Chúa Giêsu, qua đời sống giới hạn và yếu đuối của chính mình, để phục vụ cộng đồng dân Chúa được Chúa trao phó.  Khó khăn và nặng nề vì các giám mục và linh mục cũng vẫn là những con người phàm trần với nhiều yếu đuối và đam mê như mọi người khác.  Nhìn vào thực tế, chúng ta thấy các mục tử trong Giáo hội có một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống thiêng liêng của một cộng đoàn dân Chúa. Chính vì thế mà Giáo hội tha thiết kêu gọi tất cả mọi Kitô hữu cầu nguyện cách đặc biệt cho các vị.  Nếu không có ơn sủng đặc biệt của Thiên Chúa, thì không ai có thể chu toàn được những công việc ngược đờitrong xã hội ngày nay mà Tin mừng đòi hỏi.

Tôi xin được chia sẻ với ông bà anh chị em một phát biểu chân thành của một giáo dân mà tôi đọc được, viết như sau: “Vị chủ chăn gần chúng ta nhất là cha xứ. Tất cả công việc, những sự hy sinh của ngài cho giáo xứ gần như mọi người không để ý đến.  Hầu hết mọi người chỉ đi xem lễ rồi ra về, không giúp gì cho cha xứ, dù chỉ một việc nhỏ mọn là nhặt một cái rác, hay thu dọn bánh kẹo của con mình rơi xuống thảm. Ngược lại, những điều chúng ta không đồng ý, những lầm lẫn nhỏ mọn của cha xứ, thì chúng ta bàn ra, tán vào, rồi chống đối, chê bai, thậm chí nói xấu, hoặc tìm cách gây những chia rẽ.  Thay vì tiếp tay với cha xứ để giúp giáo xứ đoàn kết, thăng tiến thì có khi chúng ta lại kiêu căng, tự cao, tự ái, chia bè, chia nhóm để chống đối làm cho giáo xứ điêu tàn. Con chiên có thể bỏ đàn đi nơi khác, đi nhà thờ khác, nhưng chủ chăn thì không thể bỏ đàn chiên của mình. Chính Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết còn nhiều chiên chưa thuộc vào đàn, không chỉ hiểu là những người chưa nhận biết Chúa, mà cả những người đã nhận biết Chúa, nhưng không sống hoà hợp và yêu thương với mọi người trong giáo xứ hay cộng đoàn. Nếu trong gia đình của chúng ta có năm bảy người con, mỗi đứa có một cá tính khác biệt, có đứa vâng lời, có đứa ương ngạnh làm cha mẹ buồn lòng và có đứa hư thân mất nết làm cha mẹ đau xót xấu hổ, thì trong một giáo xứ, cộng đoàn có hàng trăm, hàng ngàn cá tính khác biệt mà cha xứ phải đối diện.”  Đó là lời phát biểu chân thành của một giáo dân để chúng ta cùng suy nghĩ.

Ông bà anh chị em thân mến.  Đi sâu hơn nữa vào tinh thần của Tin mừng, chúng ta nhận biết rằng: không chỉ các thừa tác viên có chức thánh mới có sứ vụ mục tử, mà mọi Ki-tô hữu lớn nhỏ, nam nữ, nhất là những bậc cha mẹ đều có sứ vụ mục tử của Chúa Giêsu Ki-tô. Vì thế trong gia đình, cha mẹ có sứ vụ mục tử đối với con cái; cũng như con cái có sứ vụ chăm lo cho cha mẹ; vợ chồng có sứ vụ mục tử đối với nhau; anh em chị em cũng có sứ vụ mục tử như vậy.  Trong cộng đoàn, mọi người đều có sứ vụ mục tử với nhau, vì mọi người  là con cái của Thiên Chúa, là anh em chị em với nhau, và đều thuộc về một đàn chiên duy nhất của Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh. Chính Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh, vị Mục Tử Tốt Lành, đã kết hợp chúng ta trở thành một cộng đoàn dân Chúa, và Người tiếp tục liên kết chúng ta bằng lời và Thánh Thể của Người.

Chúng ta tạ ơn Chúa vì hồng ân được thuộc về đàn chiên của Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta có một niềm tin vững chắc vào Chúa, luôn biết lắng nghe, đi và sống theo lời của Chúa Chiên dạy bảo.  Xin Chúa cũng giúp chúng ta biết yêu thương, hiệp nhất, cộng tác, giúp đỡ, hy sinh và quảng đại, để cùng nhau làm sáng danh Chúa Chiên Lành.  Và xin Chúa gởi thêm cho chúng ta nhiều mục tử có tấm lòng yêu thương, và sẵn lòng hy sinh dấn thân phục vụ cho mọi người trong cộng đoàn được Chúa trao phó.

Về mục lục

.

“MỤC TỬ PHẢI CÓ MÙI CHIÊN”

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Tại Đền thờ Thánh Phêrô, ĐTC Phanxicô cử hành Thánh Lễ Làm Phép Dầu vào lúc 9giờ30, ngày Thứ Năm Tuần Thánh (28.3.2013), ngài nói với các Linh mục: “Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi con chiên của mình”. Đức Thánh Cha đã gợi lên một hình ảnh thật ấn tượng: mục tử phải có mùi của chiên. Người chăn chiên sống gần gũi, gắn bó với đàn chiên, lo lắng chăm sóc, bảo vệ đàn chiên của mình đến nỗi mùi của chiên đã ngấm vào không những áo quần mà cả da thịt mục tử. Linh mục, người chăn chiên về đàng thiêng liêng cũng phải như vậy.

Mục tử phải có mùi của chiên vì tính cách đồng hành của Linh mục sống dấn thân trọn vẹn cho cộng đoàn giáo xứ. Để có mùi chiên, mục tử phải chung sống với đàn chiên; đây là sự đồng hành chia sẻ; sự đồng hành này được Phúc Âm diễn tả: “Mục tử gọi tên từng con chiên và chiên nghe tiếng của mục tử, mục tử đi trước chiên và chiên đi theo mục tử”. Để có mùi chiên, mục tử phải hiện diện giữa đàn chiên để chăm sóc và bảo vệ chiên để chiên “được sống và sống dồi dào”; đây là sự đồng hành và phục vụ; phục vụ cho sự phát triển “vì tôi còn có những chiên hkác không thuộc về ràn này, tôi cũng phải đưa chúng về”, và phục vụ cho sự hiệp nhất của cả đoàn để “chỉ còn một đoàn chiên và một mục tử”. Để có mùi chiên, mục tử đồng hành và phục vụ đến mức độ sống chết vì đàn chiên; đây là đồng hành và tự hiến “Mục tử nhân lành hiến mạng sống mình vì đàn chiên”. Mục tử vì đàn chiên chứ không phải đàn chiên vì mục tử[1].

Mục tử có mùi của chiên chính là mục tử có tình yêu với đàn chiên theo gương Mục Tử Tối Cao. Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Mục Tử Tốt Lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên”. Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống cho đàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng Mục Tử của Ngài. Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu so sánh mục tử và người làm thuê. Mục tử tốt lành luôn hết mình vì đàn chiên. Người làm thuê chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử hy sinh cho đàn chiên. Người làm thuê chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Người làm thuê chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình, sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên.

Mục tử tốt lành mang mùi của chiên có những đặc tính như sau[2].

  1. Mục tử tốt lành là người nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao.          

Lương thực thứ nhất là Lời Chúa. Chúa Giêsu phán: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bằng mọi lời do miệng Chúa phán ra” (Mt 4,4). Lời Chúa là hạt giống mang sự sống thiêng liêng (Lc 8,11). 

Lương thực thứ hai là Phép Thánh Thể. Chúa Giêsu phán: “Ta là bánh trường sinh… là bánh bởi trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga 5,48-51). 

Lương thực thứ ba là thánh ý Chúa Cha. Chúa Giêsu phán: “Lương thực của ta là thi hành thánh ý Chúa Cha, Đấng đã sai Ta” (Ga 4,34). 

Mục tử không tự mình làm ra những lương thực thiêng liêng này, và không được phân phát ra một cách máy móc, nhưng phải cộng tác chặt chẽ với Chúa Giêsu, kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, là mục tử tốt lành đứng đầu các mục tử. 

  1. Mục tử tốt lành là người kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu phán: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu là có một sự hiểu biết sâu xa về Chúa Giêsu do đã gặp gỡ Ngài và sống với Ngài thực sự. Khi thánh Phêrô tìm người thay thế Giuđa Iscariốt, ngài đã nói với cộng đoàn: “Trong số những anh em đã cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, kể từ khi Người được Ông Gioan làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời, phải có người trở thành chứng nhân cùng với chúng ta làm chứng Người đã phục sinh” (Cv 1,21-22). Với những lời trên đây, thánh Phêrô, khi chọn người mục tử thay thế Giuđa, đã chỉ đưa ra một tiêu chuẩn là: người đó đã phải cùng sống với Chúa Giêsu và đã tham dự cuộc đời cứu thế của Ngài, một đời mặc lấy thân phận đoàn chiên, yêu thương đoàn chiên, cứu độ đoàn chiên và còn hơn nữa, như lời Ngài nói: “Ta còn có những chiên không thuộc đoàn này. Ta cũng phải đưa chúng về” (Ga 10,16). Ngài cũng khẳng định: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (10,11).

Muốn được như vậy, người mục tử phải có những tâm tình của Chúa Giêsu. Nhất là sự khiêm nhường. Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ hãy học với Ngài, đặc biệt là về đức tính“hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29). Chính Ngài đã cứu chuộc loài người bằng sự hiền từ khiêm tốn, vâng phục thánh ý Chúa Cha.

  1. Mục tử tốt lành là người luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần

Để biết phân định sự thực và sự không thực về thánh ý Chúa Cha, người mục tử tốt lành rất cần ơn Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu phán: “Khi nào Thần Khí chân lý đến, Người sẽ dẫn anh em đến sự thật vẹn toàn” (Ga 16,13).Thần Khí chân lý là Chúa Thánh Linh. Khi Ngài đến, Ngài sẽ giúp cho mục tử làm mục vụ một cách rất mới, có hồn, đầy uy tín. Bởi vì Thánh Thần sẽ cho mục tử nếm được phần nào mùi vị ngọt ngào của sự sống Thiên Chúa trong Lời Chúa. Ngài sẽ cho mục tử nhìn thấy phần nào dung mạo đẹp đẽ của Thiên Chúa trong Phép Thánh Thể. Ngài sẽ cho mục tử cảm được phần nào lửa nồng nàn của tình xót thương Chúa ẩn tàng trong thánh ý Chúa. Những lúc đó, người mục tử sẽ phục vụ đoàn chiên với tất cả tâm hồn hòa tan trong quyền lực Thánh Linh, như thánh Phaolô xưa: “Khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run tẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn. Nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thánh Linh và quyền năng Thiên Chúa”. (1Cor 2,3-5). Thời nay người mục tử rất cần ơn Thánh Thần. Như ơn sáng suốt khôn ngoan trong phân định việc nên làm với cách nên làm, và việc không nên làm với cách không nên làm, ơn tiên liệu, ơn đối thoại, ơn đào tạo, ơn biết an ủi nâng đỡ đoàn chiên.

  1. Mục tử tốt lành luôn cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.

Thánh Thể là trung tâm, nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống và sứ vụ của Giáo Hội. Do đó, các mục tử phải chú tâm đến việc cử hành Thánh Thể thật sốt sắng và xứng đáng, nhất là ngày Chúa Nhật, và hướng dẫn cộng đoàn tham dự Thánh Lễ cách ý thức, tích cực và sống động hơn. Các ngài cũng cần thúc đẩy và canh tân việc sùng kính Thánh Thể, vốn đã từng nổi bật trong truyền thống Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam.Ý thức về thân phận tội lỗi của mình, các tín hữu cần khiêm nhường thống hối và đón nhận ơn tha thứ qua bí tích Giao Hòa, để xứng đáng là chi thể trong Nhiệm Thể Đức Kitô. Bí tích Giao Hòa vừa là bí tích của hiện tại qua việc tha tội vừa là bí tích của tương lai nhằm xây dựngtình hiệp thông giữa gia đình con cái Thiên Chúa. Ước mong các mục tử luôn quảng đại và sẵn sàng hơn nữa trong việc giúp các hối nhân lãnh nhận bí tích Giao Hòa[3].

Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước. Mục tử tốt lành luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, vị mục tử tốt lành biết rõ đàn chiên, yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Từ đó, vị mục tử tốt lành biết nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao đặc biệt là cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải. 

Ơn gọi Linh mục chính yếu là để “sống với Chúa, và để Ngài sai đi”(Mc 3, 14). Linh đạo Linh mục chính là nên thánh trong công việc mục vụ hàng ngày. Xin cầu nguyện cho các Linh mục luôn có mùi chiên với những đức tính tốt mà Thánh Kinh mô tả: 

– Yêu thương chiên với cả tâm hồn: “Chúa tập trung cả đàn chiên dưới cánh tay: lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” ( Is 40, 11). 

– Yêu quý từng con chiên: “Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao ? Và nếu may mà tìm được, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc” (Mt 18, 12-13). 

– Lo cho chiên: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong những đồng cỏ mầu mỡ” (Ed 34, 14). 

– Lo cho chiên được sống hạnh phúc: “Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” (Tv 23,1); làm chiên luôn vững dạ vì được bảo vệ: “Dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (23, 4). 

– Có tinh thần trách nhiệm cao đối với đàn chiên: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng” (Ed 34, 16). 

Linh mục Giuse Nguyễn Công Hoàng, Quản xứ Giáo xứ Mẹ Thiên Chúa, sống gắn bó với đoàn chiên. Siêng năng thăm viếng giáo dân, hay ghé thăm những gia đình lương dân, thường thăm cha mẹ của các tân tòng. Giúp đỡ người nghèo, hay đến thăm các bệnh nhân và người già cả. Gần gũi chơi thể thao hàng ngày với giới trẻ, ca hát sinh hoạt với thiếu nhi, vui tươi và hiền hòa với mọi người, một linh mục trẻ dễ mến dễ thương…Từ ngày ngài về nhận xứ, số giáo dân là 1.100. Sau 5 năm số giáo dân tăng lên là 1.544. Tăng 441 giáo dân, một con số thật lý tưởng cho một vùng truyền giáo và tái truyền giáo giữa địa bàn dân cư lương dân và anh chị em Tin lành tại Căn cứ 6[4]. Linh mục trẻ mới 5 năm chịu chức, mang mùi của chiên, trở thành gương sáng trong sứ vụ mục tử. 

Cha sở Gioan Vianney “là mục tử mang nặng mùi con chiên của mình”, ngài là bổn mạng các Linh mục. Hôm nay ngày cầu nguyện cho các mục tử, xin ngài giúp anh em linh mục chúng con luôn biết sống theo gương sáng mục tử của ngài. Amen.

 ————-

[1] x.ĐGM Giuse Trần Văn Toản, Suy niệm Tin Mừng CN 4 Phục Sinh B.

[2] x. ĐGM Bùi Tuần, Thao Thức 3, trang 147-153.

[3] Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010 của HĐGMVN, số 12

[4] x. gpphanthiet.com/news/Su-kien/Cha-Xu-Giuse-Nguyen-Cong-Hoang-Tham-Muc-Vu-Giao-Dan-1706.

Về mục lục

.

 

QUYỀN HÀNH VÀ TRÁCH NHỆM

Trầm Thiên Thu

Chúa Giêsu là Chúa Chiên Lành, là Cửa cho chiên ra vào (Ga 10:7), ai qua cửa đó thì được cứu và gặp được đồng cỏ xanh rì (Ga 10:7), Ngài đã xác nhận: “Chính Thy là con đường, là s tht và là s sng. Không ai đến vi Chúa Cha mà không qua Thy (Ga 14:6). Ngài là Chủ Chiên, là Mục Tử Nhân Lành, nên Ngài có quyền đối với đoàn chiên, nhưng quyền của Ngài là “quyền hy sinh” và “quyền yêu thương” – đặc biệt là “yêu thương đến cùng” (Ga 13:1).

Xã hội loài người có nhiều loại quyền, cơ bản nhất là nhân quyn – quyền của con người. Mọi người đều bình đẳng, vì ai sinh ra cũng có nhân phẩm và nhân vị. Nhà có gia phong, nước có quốc pháp, nhóm có nội quy. Mỗi quốc gia có ba quyền cơ bản: Quyền lập pháp, quyền tư pháp, và quyền hành pháp.

[1] Quyn lp pháp là quyền làm luật, xây dựng luật và ban hành những văn bản luật được áp dụng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. [2] Quyn tư pháp pháp là quyền bảo vệ luật pháp, do Tòa án và Viện Kiểm sát tiến hành, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện và chống lại các hành vi phạm pháp. Theo luật học, cơ quan tư pháp hay hệ thống tư pháp là hệ thống tòa án nhân danh quyền tối cao hoặc nhà nước để thc thi công lý, một cơ chế giải quyết các tranh chấp. [3] Quyn hành pháp do các cơ quan hành chính Nhà Nước thực thi để đảm bảo hoàn thành chức năng và nhiệm vụ của mình, bao gồm hai quyền: quyền lập quy và quyền hành chính.

Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10-12-1948 tại Palais de Chaillot (Paris, Pháp). Bản Tuyên ngôn đã được dịch ra ít nhất 375 ngôn ngữ.

Có CHỨC thì có QUYỀN, có QUYỀN nên dễ HÀNH người khác, và có QUYỀN rồi thì chỉ muốn có LỢI. Quyền hành hoặc quyền lực như con dao sắc bén, như chiếc kéo nhọn, phải rất cẩn thận kẻo tác hại. Chính mình bị tác hại đã đành, nguy hiểm nhất là tác hại người khác, làm khổ người khác – tức là ỷ thế cậy quyền mà “hành” người khác. Có điều “lạ” là người ta THÍCH có quyền hành nhưng lại KHÔNG MUỐN có trách nhiệm!

Bác học lừng danh Albert Einstein (1879-1955, người Đức) nói: “Quyn lc luôn luôn thu hút nhng k kém đo đc Force always attracts men of low morality. Một cách nhận xét nhẹ nhàng mà “đau điếng”.

Chúa Giêsu có mọi quyền hành – trên trời và dưới đất, nhưng Ngài lại không muốn dùng quyền để hành hạ người khác, mà Ngài chỉ muốn phục vụ, yêu thương và tha thứ. Ngài xác định: “Tôi là mc t tt lành, Tôi biết các chiên ca Tôi, và các chiên ca Tôi biết Tôi (Ga 10:14). Chủ chiên thật thì phải yêu thương chiên, nếu không thì chỉ là “thợ chiên”, là “kẻ chăn thuê” mà thôi – điều mà Phúc Âm hôm nay có đề cập. Thật vậy, những kẻ có chức quyền mà tránh né trách nhiệm, chỉ muốn dùng quyền mà hành người khác, Chúa Giêsu đã nguyền rủa là “đồ khốn” (Mt 23:13-30; Mc 12:40; Lc 11:39-48; Lc 20:47) và “đồ mãng xà” (Mt 23:33-36; Lc 11:49-51). Đáng sợ thật!

Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, ông Phêrô được đầy Thánh Thần và mạnh dạn nói: “Thưa quý v th lãnh trong dân và quý v k mc, hôm nay chúng tôi b thm vn v vic lành chúng tôi đã làm cho mt người tàn tt, v cách thc người y đã được cu cha. Vy xin tt c quý v và toàn dân Ít-ra-en biết cho rng: nhân danh chính Đc Giêsu Kitô, người Nadarét, Đng mà quý v đã đóng đinh vào thp giá, và Thiên Chúa đã làm cho tri dy t cõi chết, chính nh Đng y mà người này được lành mnh ra đng trước mt quý v (Cv 4:8-10). Phêrô hôm nay khác hẳn Phêrô hôm qua, không còn khiếp đảm, dám bênh vực sự thật, dám bảo vệ công lý. ĐGH Phanxicô cũng đã mạnh mẽ lên tiếng nói rằng Giáo Hi phi nói thng, nói tht.

Dùng ý Thánh Vịnh 118:22, ông Phêrô cho biết: “Đng y là tng đá mà quý v là th xây loi b, chính tng đá y li tr nên đá tng góc tường. Ngoài Người ra, không ai đem li ơn cu đ. Vì dưới gm tri này, không có mt danh nào khác đã được ban cho nhân loi, đ chúng ta phi nh vào danh đó mà được cu đ” (Cv 4:11-12).

Chết đi để sống lại. Chúa Giêsu đã trải qua “hành trình kỳ diệu” đó. Chúng ta chỉ là tội nhân nhưng lại được hưởng ơn tha thứ và được quyền sống, không chỉ sống ở đời tạm này mà còn được sống đời đời. Đặc quyền quá lớn, phàm nhân chúng ta có mơ cũng không thấy, nhưng đó lại là sự thật hiển nhiên, không chút mơ hồ, không là chiếc bánh vẽ. Vì thế, tác giả Thánh Vịnh tha thiết nhắn nhủ chúng ta: “Hãy t ơn Chúa vì Chúa nhân t, muôn ngàn đi Chúa vn trn tình thương (Tv 118:1 và 29).

Thật là khôn ngoan nếu biết tạ ơn Chúa, vì đó là điều minh nhiên: n thân bên cnh Chúa Tri thì hơn tin cy người trn gian. Cy vào thn thế vua quan, chng bng n náu bên Chúa Tri (Tv 118:8-9). Mỗi lần ngủ là chúng ta “chết lâm sàng”, giống như “chết giả” để có thể trải nghiệm sự chết vậy. Do đó, mỗi khi thức dậy, chúng ta lại trải nghiệm sự sống lại. Thật là kỳ diệu, vì thế hãy hân hoan dâng lời cảm tạ Thiên Chúa: “Ly Chúa, chính Ngài là Thiên Chúa ca con, xin dâng Ngài muôn câu cm t; ly Thiên Chúa con th, xin dâng Ngài vn tiếng tôn vinh (Tv 118:28).

Là con người của tình yêu, thích nói về tình yêu và nhìn theo lăng kính tình yêu, Thánh Gioan cho biết: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến ni cho chúng ta được gi là con Thiên Chúa – mà thc s chúng ta là con Thiên Chúa. S dĩ thế gian không nhn biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người (1 Ga 3:1). Nếu có hỏi “Bạn là ai?”, liệu chúng ta có mạnh dạn nói ngay rằng “Tôi là con (của) Thiên Chúa” hay không? Cũng dễ mà cũng không dễ đâu!

Không nhiều thì ít, chúng ta cũng có “máu” Tào Tháo hoặc dòng dõi của ông “đá xanh” Tôma. Con người yếu đuối thế đấy, nói tin mà vẫn “hình như…”, chưa tin thật 100% đâu. Thánh Gioan nói thêm: “Anh em thân mến, hin gi chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta s như thế nào, điu y chưa được bày t. Chúng ta biết rng khi Đc Kitô xut hin, chúng ta s nên ging như Người, vì Người thế nào, chúng ta s thy Người như vy (1 Ga 3:2). Quả là điều vô cùng lạ. Hiện nay chúng ta không thể nào tưởng tượng ra nổi. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, nhiều người được thấy Ngài mà không thể nhận ra Ngài, dù Ngài vẫn là Ngài như khi chưa chịu chết. Quen mà lạ, lạ mà quen.

Trình thuật Tin Mừng hôm nay chỉ có 8 câu do chính Chúa Giêsu nói chứ không có lời dẫn, ngắn gọn nhưng đầy đủ chi tiết cần thiết. Chúa Giêsu xác nhận và phân tích rạch ròi: “Tôi chính là Mc T nhân lành. Mc T nhân lành hy sinh mng sng mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phi là mc t, và vì chiên không thuc v anh, nên khi thy sói đến, anh b chiên mà chy. Sói v ly chiên và làm cho chiên tán lon, vì anh ta là k làm thuê, và không thiết gì đến chiên. Tôi chính là Mc T nhân lành. Tôi biết chiên ca tôi, và chiên ca tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mng sng mình cho đoàn chiên” (Ga 10:11-15). Hai lần Chúa Giêsu xác nhận Ngài là Mục Tử nhân lành, và hai lần đề cập sự “hy sinh mạng sống”, cho thấy tầm quan trọng của việc dấn thân và quên mình. Hạnh phúc thay Việt Nam chúng ta có một tấm gương sáng về mục tử, đó là Lm Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp (1897-1946).

Chúa Giêsu “mở rộng” hơn về vấn đề chức quyền và trách nhiệm truyền giáo: “Tôi còn có nhng chiên khác không thuc ràn này. Tôi cũng phi đưa chúng v. Chúng s nghe tiếng tôi. Và s ch có mt đoàn chiên và mt mc t. S dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mng sng mình đ ri ly li. Mng sng ca tôi, không ai ly đi được, nhưng chính tôi t ý hy sinh mng sng mình. Tôi có quyn hy sinh và có quyn ly li mng sng y. Đó là mnh lnh ca Cha tôi mà tôi đã nhn được (Ga 10:16-18). Ngài nhắc lại hai quyền của Ngài, khác hẳn các quyền chúng ta muốn. Ngài nói đến QUYỀN nhưng Ngài không nói đến LỢI, hoàn toàn khác hẳn với “sở thích” của chúng ta. Nghiêm túc xét mình thì thấy rằng chúng ta thật đáng xấu hổ vô cùng, vì chỉ nói hay mà làm chẳng ra gì!

Ly Thiên Chúa, xin giúp chúng con can đm chân nhn các nhược đim ca mình đ kh dĩ được biến đi nh ân sng thương xót ca Ngài, biết phc v ch không mun hưởng th (Mt 20:28; Mc 10:45). Chúng con cu xin nhân danh Thánh T Giêsu, Đng phc sinh cu đ chúng con. Amen.

Về mục lục

.

 

CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH

Lm. Giuse Dương Hữu Tình

Mùa Phục sinh gồm bảy Chúa nhật. Ba Chúa nhật đầu (I, II và III), Giáo hội không ngừng cho chúng ta suy ngắm những bài Tin Mừng ghi lại sự kiện Đấng Phục sinh “đến” với các tông đồ, môn đệ và một số người. Chúa nhật thứ bốn được dành riêng để suy ngắm về đề tài: Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, nên được gọi là Chúa nhật Chúa chiên lành. Ba Chúa nhật sau cùng (V, VI và VII), Giáo hội dành để suy ngắm những lời dạy của Chúa sau khi Chúa rửa chân cho các tông đồ được gọi là “những lời cáo biệt”, từ cuối chương 13 (Ga 13,31) đến hết chương 16 (Ga, 16,33), và những lời cầu nguyện của Chúa ở chương 17 trong Tin Mừng theo thánh Gioan.

Để diễn tả sự gắn bó thiết thân giữa Chúa và những người tin, Chúa Giêsu đã dùng nhiều hình ảnh quen thuộc như thầy trò, cây nho và mục tử-đoàn chiên. Vì là Chúa nhật dành riêng để suy ngắm đề tài Chúa là mục tử nhân lành, Giáo hội đã chọn chương 10 trong Tin Mừng theo thánh Gioan. Chương này gồm 42 câu, Giáo hội đã chọn những câu Chúa nói đến mục tử- đoàn chiên và chia thành ba phần để suy ngắm theo chu kỳ của năm phụng vụ. Năm A từ câu 1 đến câu 10. Năm B từ câu 11 đến câu 18. Năm C từ câu 27 đến câu 30.

Nếu cả phần đầu và phần hai nhắc nhiều đến sự phân biệt giữa mục tử đích thực với mục tử giả (hay kẻ làm thuê), thì phần hai phân biệt rõ hơn nữa tính cách đích thực của vị mục tử. Mục tử đích thực này không chỉ còn là người “đi qua cửa mà vào”, “chiên nghe tiếng của anh”, “anh gọi tên từng con”, “anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh”; nhưng còn là vị “Mục tử nhân lành”. Nhân lành ở đây không chỉ có nghĩa hiền lành, nhân từ nhưng còn cho thấy sự mạo hiểm trong sự nhân lành, đó là dám hy sinh cả tính mạng mình vì đoàn chiên của mình. Chỉ có 8 câu, từ câu 11 đến câu 18, thế mà có tới 5 lần Chúa Giêsu nói đến hai chữ “hy sinh”.

Nói đến hai từ “hy sinh” trong tương quan giữa mục tử- đoàn chiên xem ra có gì đó không ổn chăng? Con chiên, con cừu hay con gì đi nữa thì cũng chỉ là một con vật, chúng ta chỉ có thể có một tương quan tương đối đối với chúng mà thôi. Chúng không phải là con người mà ta phải trân trọng tới mức độ phải hy sinh cả tính mạng. Giả như phải để bảo vệ đàn chiên, người mục tử phải đánh nhau với chó sói, có khi nguy hiểm tới tính mạng, ta có thể khẳng định người mục tử đó đã chết vì yêu quý đàn chiên của mình không? Có lẽ không hoàn toàn như thế. Người mục tử vừa quý đàn chiên vừa tiếc tài sản của mình. Thế thì vì lý do gì Chúa lại khẳng định chắc như đinh đóng cột: “Tôi chính là Mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”? Chính lời tuyên bố này cho thấy tính giới hạn của hình ảnh mục tử-đoàn chiên. Mục tử- đàn chiên vốn có sự gắn bó thân thiết, có nảy sinh tình cảm thật sự, nhưng tình cảm giữa Chúa và dân của Người không chỉ giống như thứ tình cảm của người mục tử với đàn chiên. Tình yêu thương mà Người dành cho nhân loại, sự gắn bó mà Người đã kết thân với con người dường như đạt tới mức độ khác hoàn toàn, tới mức sẵn sàng “hy sinh”, tức là sẵn sàng chết. Chết để cho người mình yêu được sống. Khi nhận mình là Mục tử nhân lành, Chúa Giêsu có ý diễn tả “tình yêu đến cùng” ấy của Người, đồng thời Người cũng muốn tỏ lộ (mặc khải) cho ta biết Thiên Chúa- Cha của Người chính là Đấng có tình yêu như vậy: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại”, “Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được”.

Với đề tài Chúa là Mục tử nhân lành, chúng ta thật cảm động khi nhận ra có ai đó đang rất quan tâm đến ta, rất thương yêu ta tới mức sẵn sàng hy sinh cả mạng sống vì ta. “Ai đó” ấy chính là Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ, nhưng nhiều khi chúng ta chỉ tôn thờ Ngài như một Đấng cao cả, xa vời và nhiều khi rất xa cách. Không phải thế, Ngài chính là Đấng gắn bó, thân thiết với mỗi chúng ta. Câu Người nói: “Tôi biết chiên của tôi” như một lời xác quyết rằng Người đang dõi mắt theo ta từng bước trong cuộc đời. Còn chính chúng ta, liệu chúng ta có đang sống được như Người đã tin tưởng chúng ta mà khẳng định rằng: “và chiên của tôi biết tôi” không?

Về mục lục

.

 
MỤC TỬ NHÂN LÀNH HIẾN THÂN PHỤC VỤ ĐOÀN CHIÊN

 Lm. Đan Vinh

1/ TIN MỪNG: Ga 10,11-18

(11) Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. (12) Người làm thuê vì không phải là Mục Tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn. (13) Vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên. (14) Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi. (15) Như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. (16) Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. (17) Sỡ dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. (18) Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh chính mình. Tôi có quyền hy sinh và lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh Cha tôi mà tôi đã nhận được.

2/ CÂU CHUYỆN: MẸ SẴN SÀNG CHỊU CHẾT ĐỂ CHO CON MÌNH ĐƯỢC SỐNG

Vào năm 1995, một trận động đất với cường độ mạnh đã xảy ra tại Thành phố Kô-bê Nhật Bản. khiến cho nhiều nhà cửa trong thành phố sụp đổ trở thành những đống gạch khổng lồ, gây thiệt hại rất lớn cho thành phố về người và của. Các đội cứu hộ ngày đêm làm việc khẩn trương để lôi ra từ những đống gạch đổ nát nhiều xác chết và người bị thương. Nhưng cũng chính từ tai họa này, người ta đã khám phá ra một câu chuyện rất cảm động về một tình yêu hy sinh quên mình như sau:

Đến ngày thứ hai của cuộc đào bới, thì từ dưới một ngôi nhà đổ nát, người ta đã đào lên được hai mẹ con vẫn còn sống thoi thóp. Đứa con nhỏ mới được vài tháng tuổi đang nằm ngủ yên trong lòng mẹ, đang khi mẹ của em lại bị hôn mê bất tỉnh. Sau khi tỉnh dậy, một nhà báo đã phỏng vấn bà mẹ trẻ ấy như sau: “Làm thế nào mà hai mẹ con chị có thể sống được đến hai ngày dưới đống gạch đổ nát kia ?”. Chị đáp: “Tuy bị vùi dưới tòa nhà, nhưng rất may chúng tôi đã không bị đè chết. Mấy tiếng đồng hồ sau thì con tôi khóc đòi ăn đang khi tôi chẳng còn giọt sữa nào. Tôi quờ quạng tìm xem có cái gì ăn cho đỡ đói không. Bất ngờ bàn tay tôi chạm vào một con dao sắc trong cái giỏ bên mình. Tôi cầm dao rạch một đường ở ngón cái cho chảy máu, rồi ấn chỗ bị cắt cho con bú máu thay vì sữa mẹ. Sau khi bú ngón tay tôi được mươi phút thì cháu nằm im ngủ. Nhưng rồi lại tiếp tục khóc vì đói. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi cổ tay và cho cháu bú. Sau đó tôi ngất đi lúc nào không biết cho tới khi cả hai mẹ con được cứu sống”. Nhà báo tiếp tục hỏi: “Thế chị không nghĩ rằng khi làm như thế thì chị sẽ bị mất máu và sẽ bị chết hay sao?” Chị ta trả lời: “Lúc ấy, tôi không nghĩ đến mình, mà chỉ lo cho con tôi có cái gì bú để cho nó được sống!”.

3/ THẢO LUẬN: 1) Qua câu chuyện trên, hãy cho biết đặc điểm của một tình yêu đích thực là gì ? 2) Trong Tin Mừng Đức Giê-su dựa trên những đặc điểm nào để phân biệt 2 loại mục tử là mục tử chân chính và mục tử chăn thuê ? 3) Theo Đức Thánh Cha Phan-xi-cô: Các mục tử hôm nay cần làm gì cụ thể để noi gương Mục Tử lý tưởng Giê-su ?

4/ SUY NIỆM:

1) Hai loại mục tử

Mục tử là người chăn chiên, là người lãnh đạo chăm sóc đoàn chiên. Trong Tin mừng hôm nay Đức Giê-su đã phân biệt hai loại mục tử là: mục tử chân chính và mục tử giả hiệu như sau:

– Mục tử chân chính là chính Đức Giê-su: Như Người đã khẳng định: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành”. Đức Giê-su đã thể hiện vai trò mục tử nhân lành qua việc biết từng con chiên và được chiên đáp lại (x. Ga 10,14); Người hy sinh lo lắng phục vụ cho đoàn chiên: đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng về Nước Trời (x Mt 13,1-9), sẵn sàng tính mạng bảo vệ chiên (x. Ga 10,11), Người ban Thánh Thần để tha tội và lập bí tích Thánh Thể “để cho chiên được sống dồi dào” (Ga 10,10), chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân (x. Mt 8,16-17), xua trừ ma quỷ (x. Mt 9,32-34), nhân bánh ra nhiều (x. Mt 14,15-21), và rửa chân môn đồ để dạy bài học yêu thương (x. Ga 13,14)…

– Hạng thứ hai là mục tử giả hiệu hay là những kẻ chăn thuê, ám chỉ các đầu mục dân Do Thái đương thời gồm các kinh sư, người Pha-ri-sêu và các tư tế Đền thờ. Những người này không phải là chủ chiên thực sự nên «không thiết gì đến chiên» (10,13). Họ vô trách nhiệm: «Khi thấy sói đến, họ bỏ chiên mà chạy», để «sói vồ lấy chiên và làm cho đoàn chiên tán loạn» (10,12). Đối với hạng mục tử này, đoàn chiên chỉ có giá trị lợi dụng như ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm: «Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Sữa chiên thì các ngươi uống, len thì các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, nhưng đoàn chiên thì lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc» (Ed 34,2-4).

2) Kiểm điểm đời sống

– Ngày nay, hầu hết các vị mục tử trong Hội Thánh đều có lối hành xử tốt đẹp noi gương Mục Tử Giê-su: yêu thương quên mình, hy sinh tận tụy phục vụ đoàn chiên vô vụ lợi. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn một ít mục tử có lối hành xử quan liêu, vụ lề luật khi giải quyết công việc, trở thành phản chứng khiến lương dân đánh giá sai về các mục tử trong đạo. Ngày lễ Chúa Chiên nhân lành hằng năm là dịp để mọi tín hữu chúng ta, nhất là những mục tử đang có sứ vụ coi sóc đoàn chiên xét lại cung cách phục vụ của mình để cộng đoàn ngày thêm hiệp nhất và bình an.

– Có thể các mục tử chúng ta đã có nếp sống xa hoa, thể hiện qua hay thay đổi xe cộ đời mới nhất, dùng các vật dụng quần áo, ăn uống … không phù hợp với lối sống đơn sơ khó nghèo của Đức Giê-su: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,20).

– Có thể chúng ta đã “nói mà không làm” như các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình đã bị Đức Giê-su nặng lời quở trách (x. Mt 23,2-4).

– Có thể chúng ta đã quá dễ dãi khi giải quyết công việc theo ý riêng chứ không theo qui định chung của giáo luật hoặc trái lại: quá nguyên tắc, thiếu cảm thông và hành xử “vụ luật” thiếu tình người, trái với tinh thần nhân ái, luôn đề cao yếu tố con người noi gương Đức Giê-su: “Ngày sa-bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sa-bát” (Mc 2,27).

Ngày lễ Chúa chiên nhân lành là cơ hội thuận tiện để mỗi người tín hữu, đặc biệt các mục tử chúng ta hồi tâm và canh tân tu sửa lối hành xử theo gương Mục Tử lý tưởng là Đức Giê-su.

3) Mục tử lý tưởng theo giáo huấn của Đức Thánh Cha Pha-xi-cô

Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nhiều lần đã dạy dỗ những người có nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên Hội Thánh: Mục tử lý tưởng phải là “người gần gũi với dân chúng, là người cha, người anh em, với sự hiền dịu, kiên nhẫn và thương xót. Là những người yêu sự khó nghèo, sự khó nghèo nội tâm trước mặt Chúa, cũng như khó nghèo bên ngoài như sự đơn sơ và khắc khổ trong cuộc sống. Là những người không có “tâm lý của các ông hoàng”. Là những người không tham vọng làm phu quân của Giáo Hội. Là những người có khả năng thức tỉnh đoàn chiên được giao phó, và quan tâm duy trì sự hiệp nhất, canh giữ đoàn chiên, chú ý tới các hiểm nguy có thể đe dọa đoàn chiên. Nhất là, làm cho niềm hy vọng được lớn lên.

Ước gì các Mục Tử luôn có mặt trời và ánh sáng trong trái tim mình. Là những người có khả năng hỗ trợ Thiên Chúa nơi dân Người, với tình thương và lòng kiên nhẫn.

Mục Tử phải có lòng yêu mến con chiên, phải có mùi chiên do thường xuyên gần gũi tiếp xúc với con chiên.

Và cuối cùng để thi hành sứ vụ, vị mục tử có ba vị trí ở trong đoàn chiên như sau:

– Một là ở đàng trước đoàn chiên để dẫn đường.

– Hai là ở giữa để duy trì sự hiệp nhất và giữ vững tinh thần của đoàn chiên.

– Ba là ở đàng sau để tránh cho chiên khỏi đi tụt hậu, và tạo điều kiện để đoàn chiên đánh hơi, hầu tìm ra một hướng đi mới.

4) Ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu

Hiện nay trên thế giới nhất là tại các nước Âu Mỹ đang thiếu ơn gọi linh mục tu sĩ cách trầm trọng. Nhiều nhà thờ không có linh mục coi sóc, nhiều tu viện to lớn bị bỏ hoang vì không còn tu sĩ trẻ. Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng này, nhưng có lẽ nguyên nhân chính là do lỗi của mỗi tín hữu chúng ta: Vì chưa ý thức được tầm quan trọng của sứ vụ truyền giáo nên chúng ta chưa thiết tha nài xin Thiên Chúa sai thêm thợ gặt đến, chưa canh tân đời sống để làm chứng nhân cho tình thương của Chúa trước mặt người đời; Các bậc cha mẹ công giáo chưa quảng đại dâng con cho Chúa và không khuyến khích chúng đi tu làm linh mục và tu sĩ để phục vụ Chúa và Hội Thánh cách hữu hiệu hơn.

5/ LỜI CẦU

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin ban cho chúng con những linh mục biết quảng đại, hy sinh phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Xin ban cho chúng con những linh mục có trái tim biết yêu thương bằng tình yêu của Chúa, một trái tim mở rộng để sẵn sàng đón nhận hết mọi người, nhất là những người đau khổ và bị bỏ rơi. Xin ban cho chúng con những linh mục có đức tin vững mạnh, luôn sống kết hiệp mật thiết với Chúa, để giúp chúng con gặp được chính Chúa hầu có thể chia sẻ Chúa cho tha nhân. Xin ban cho chúng con những linh mục biết nhiệt tình rao giảng Lời Chúa, có sức làm bùng cháy ngọn lửa tin yêu trong lòng chúng con, giúp chúng con thêm đức tin để nhìn thấy Chúa trong mọi người và khiêm tốn phục vụ họ như phục vụ chính Chúa. Cuối cùng xin ban cho chúng con những linh mục là những vị chủ chiên tốt lành noi gương Chúa xưa, đến để cho chiên “được sống và sống dồi dào”.

Về mục lục

.

CHÚA CHIÊN LÀNH – CẦU CHO ƠN THIÊN TRIỆU

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Vào tháng Giêng vừa qua, một nhóm gồm 20 sinh viên từ Thành phố Hồ Chí Minh đi Tây Ninh để chinh phục núi Bà Đen. Tuy nhiên, chuyến leo núi của họ không thành công, cả nhóm bị lạc trên núi khi trời tối. Họ đã phải cầu cứu đội cứu hộ đưa cả nhóm ra khỏi bóng đêm sợ hãi của núi rừng. Nhiều người đã thắc mắc : Núi Bà là ngọn núi duy nhất nằm gữa đồng bằng, tại sao cả nhóm không tìm được đường xuống ? Sau đó, các thành viên cho biết, chuyến leo núi của họ không thành công là do có sự chia rẽ khi một số người bị mất sức, một số khác sợ bóng tối, sợ độ cao ; thêm vào đó, cả nhóm đã không chuẩn bị tốt những kỹ năng cũng như đồ dùng cho hành trình leo núi. Nhưng điều hết sức quan trọng, đó là cả nhóm đã không có được một lãnh đạo tốt để động viên tinh thần cả nhóm cũng như để giải quyết những sự việc bất thường xảy ra.

Nếu hành trình của một nhóm leo núi đã không thành công vì thiếu người dẫn đường, thì hành trình leo lên núi thánh của Thiên Chúa, hành trình đức tin, càng không thể thiếu người dẫn đường khôn ngoan, can đảm và giàu kinh nghiệm. Mừng lễ Chúa Chiên Lành, nhiều người chỉ dừng lại ở hình ảnh một đàn chiên ngoan ngoãn ăn cỏ và người chăn dắt chỉ là người lùa chiên, mà quên rằng, người chăn chiên còn quan trọng hơn như thế nhiều.

Con chiên trong văn hóa và đời sống của người Do Thái có một vị trí hết sức đặc biệt. Chiên không chỉ là tài sản mà còn là người bạn, là con cái và là thành viên của gia đình. Có thể người Việt không ôm con trâu, con bò, nhưng người Do Thái ôm con chiên như ngày nay người ta ôm thú cưng. Do đó, khi Chúa Giêsu dùng hình ảnh : Ta là Mục Tử tốt lành, thì người Do Thái sẽ hiểu ngay Chúa muốn nói đến tương quan của Ngài với mỗi người như mối thân tình của mục tử với đoàn chiên.

Chiên là loài vật hiền lành, chúng không thể tự vệ nên thường bị các thú dữ tấn công. Chúng là loài mắt kém, chân yếu nhưng tai rất thính. Vì mắt kém nên chúng rất dễ bị lọt xuống hố, vướng trong bụi gai ; và vì chân yếu nên chúng rất thường bị vấp té. Nhưng ngược lại, đôi tai thính của chúng phân biệt rất rõ tiếng của đồng loại và tiếng của người chăn. Vì vậy, người chăn chiên rất vất vả để chăm sóc cho đàn chiên của mình, người chăn thuê sẽ không làm được như vậy. Chúa Giêsu đã nói : Tôi là Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên. Chúng ta là đàn chiên của Chúa Giêsu. Giống như con chiên trong thực tế không có khả năng tự vệ, dễ bị sói dữ tấn công, thì cũng vậy, tội lỗi đã làm cho mắt chúng ta không còn sáng suốt để nhận ra đường đi, không đủ sáng để phân định điều tốt, điều xấu. Mắt chúng ta bị che mờ bởi sự tham lam tiền bạc và của cải vật chất khiến chúng ta dễ bị lạc đường. Chúa Giêsu là mục tử nhân lành và khôn ngoan. Ngài nhân lành để yêu thương, thông cảm, nâng đỡ và tha thứ ; Ngài khôn ngoan để dẫn chúng ta đi trên con đường an toàn, dẫn chúng ta đạt đến hạnh phúc nước trời. Là con chiên yếu đuối, con người dễ bị vấp té bởi những thử thách và cám dỗ do ma quỷ và thế gian bày ra. Vị Mục tử Giêsu đã ẵm bế, an ủi và chữa lành những vết thương trong tâm hồn và thể xác của chúng ta.

Khác với những kẻ chăn thuê, Chúa Giêsu là mục tử đích thực, Ngài đã hy sinh tính mạng để chiến đấu và bảo vệ đàn chiên khỏi sói dữ là ma quỷ tấn công. Ngài đã trải qua một cuộc chiến kinh hoàng, đã phải mang thương tích, chịu đánh đòn và bị người ta đóng đinh trên thập giá. Trong cái nhìn của người đời, thì cuộc chiến của Chúa Giêsu đã kết thúc với cái chết thảm bại. Nhưng trong quyền năng của Thiên Chúa, cái chết của Chúa Giêsu như một sự nghỉ ngơi lấy sức, sau đó, Ngài đã đạp mồ chỗi dậy để vĩnh viễn tiêu diệt thần chết, đem lại sự sống cho nhân loại. Từ cõi chết sống lại, Mục tử Giêsu đã quy tụ đàn chiên bị tản mác, đem lại sức sống mới cho nhân loại. Từ đây, tội lỗi được xóa bỏ, sự chết bị đập tan và Chúa Giêsu trở thành mục tử, thành người dẫn đường đưa đàn chiên tới sự sống hạnh phúc đời đời.

Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Đó vừa là điều kiện vừa là tiêu chuẩn để đánh giá xem chúng ta có thuộc về đàn chiên của Chúa Giêsu hay không. Là con chiên, chúng ta cần phải có một đôi tai thật thính để phân biệt tiếng nói của chủ với tiếng nói của kẻ lạ ; để nghe được tiếng nói của anh em khác với tiếng gầm gừ của sói dữ. Mục tử Giêsu sẽ dùng lời để an ủi, nâng đỡ, và cũng dùng lời để hướng dẫn chúng ta đi đúng con đường của Chúa. Bước theo sự hướng dẫn của Ngài, chúng ta không sợ rơi xuống vực thẳm, cũng không sợ đi lạc hay vấp chân vào đá. Ngài hướng dẫn chúng ta qua giới răn lề luật của Ngài, chỉ cho chúng ta con đường khiêm nhường và khó nghèo, con đường hẹp, là con đường an toàn nhất đưa chúng ta đến với Thiên Chúa. Ngài chỉ cho chúng ta con đường Bát Phúc để đưa chúng ta đến hạnh phúc thật. Mục tử Giêsu chỉ cho chúng ta đi theo con đường của Ngài là con đường yêu thương và phục vụ. Đi trên con đường này, chúng ta sẽ nhận ra Chúa và nhận ra anh em bên cạnh chúng ta.

Là con chiên có đôi tai thính để nghe được tiếng nói của mục tử, thì đồng thời cũng phải nghe được tiếng của những người bên cạnh. Nghe được tiếng của anh em sẽ giúp con chiên luôn đi bên cạnh anh em mình và tránh được tình trạng xa đàn và lạc đàn. Là con chiên trong đàn, chúng ta cũng cần phải lắng nghe tiếng nói của anh em mình. Thiên Chúa đang dùng những anh em bên cạnh để nhân danh Ngài tiếp tục hướng dẫn chúng ta. Hãy tin tưởng và lắng nghe theo sự hướng dẫn của Giáo Hội và các chủ chăn trong Giáo Hội. Các Ngài đang nhân danh Mục tử Giêsu và thay mặt Người để dẫn chúng ta. Thiên Chúa cũng đang dùng những người bên cạnh để nói với chúng ta, đó là cha mẹ, thầy cô và những người khôn ngoan. Nghe theo sự hướng dẫn của các ngài là nghe theo sự hướng dẫn của Chúa Giêsu.

Trong Sứ điệp Ngày Cầu nguyện cho Ơn gọi sống đời tu trì, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các bạn trẻ và hết mọi người hãy dám bước vào một cuộc “xuất hành mới” để trở nên những con người phục vụ Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài cách quảng đại hơn. Ngài mời gọi mỗi người hãy mạnh dạn bước theo Chúa Giêsu, đi vào hành trình của Ngài, ra khỏi chính mình cùng với sự yên ổn, êm ấm của mình để đáp lại lời mời gọi của Thiên chúa. Trước hết, cần ra khỏi con người cũ kỹ và tình trạng tội lỗi để bước vào con đường sám hối và hoán cải. Bước theo con đường này, Mục tử Giêsu sẽ canh tân, đổi mới cuộc đời chúng ta. Kế đến, là bước vào hành trình của đức tin, theo sự dẫn dắt của Mục tử Giêsu, là dám buông mình cho tình yêu của Chúa, để cho Chúa xếp đặt và sử dụng tuổi trẻ và khả năng của mình. Hành trình này sẽ đưa chúng ta xa tránh những lối sống ích kỷ, khô cứng, để mang lấy một cuộc sống quảng đại và tràn đầy tình yêu thương phục vụ. Hành trình này vẫn đang là những thách thức cho tất cả những ai là môn đệ của Chúa Giêsu, là con chiên trong đàn chiên của Ngài.

Đức Thánh Cha cũng thách thức các bạn trẻ, đừng để cuộc đời mình bị cuốn trôi uổng phí, đừng chỉ tìm kiếm tiền bạc, của cải, tiếng tăm trước mắt, cũng đừng để trái tim và tâm hồn mình trở nên khô cứng, hẹp hòi, nhưng hãy luôn sẵn sàng và quảng đại đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa. Các bạn đừng sợ bước vào cuộc xuất hành cùng với Chúa Giêsu, Ngài sẽ giải phóng và làm cho cuộc đời chúng ta thêm tươi đẹp hơn. Thiên Chúa không bao giờ lấy đi những gì của chúng ta, Ngài sẽ trả lại và còn trao tặng cho chúng ta nhiều điều tốt đẹp hơn.

Thiên Chúa cũng đang cậy nhờ mỗi người đến với anh em của mình để nói với họ rằng : Thiên Chúa yêu thương họ. Chúng ta có dám thực hiện điều Chúa cậy nhờ không ? Xin Chúa cho chúng ta có một đôi tai thật thính để lắng nghe được lời mời gọi của Mục tử Giêsu. Xin cho mỗi chúng ta có một tâm hồn quảng đại để đáp lại lời mời gọi của Chúa, trở thành những cộng tác viên đem tình yêu thương của Chúa đến cho anh chị em. Amen.

Về mục lục

.

GẮN BÓ YÊU THƯƠNG

Lm. Jos. DĐH

Chương trình quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, ta vẫn gặp ở mọi nơi, có thể nhà sản xuất họ đã đánh trúng tâm lý người tiêu dùng : ngon, bổ, rẻ, thường thu hút nhiều tầng lớp. Người tốt, sản phẩm chất lượng, ai cũng thích; người xấu, hàng giả hàng nhái, ai cũng khiếp, tuy nhiên nhiều người vẫn thích hàng khuyến mãi, dù đã ý thức lời cha ông dạy : “của rẻ là của ôi”. Lắng nghe, tìm kiếm người tốt, hàng chất lượng cao, sự chọn lựa ấy không phải chỉ nói lên sự “sành điệu”, mà xã hội văn minh, thời đại tân tiến còn nói đến, bất kể cái gì xấu, không tốt, rồi sẽ bị phế bỏ theo thời gian.

Chúa Giêsu hôm nay đã lấy hình ảnh mục-tử và chiên, để dẫn chúng ta đi sâu vào mầu nhiệm hiệp thông giữa Thiên Chúa và loài người. Ngài nói rất thật : “Ta là mục-tử tốt lành, mục-tử tốt lành thí mạng sống vì chiên”. Nếu như ai cũng ngao ngán bài học lý thuyết, trừu tượng, Chúa Giêsu đã hướng mọi người tới sự gắn bó cụ thể nơi mục-tử với đoàn chiên. Đoàn chiên sẽ tan tác, hoặc bị thú dữ ăn thịt nếu thiếu người mục-tử chăn dắt bảo vệ; mục-tử sẽ mất chỗ đứng hay bị xóa tên tuổi, nếu để chiên lạc hoặc chiên bị biến chất.

Khái niệm về xấu và tốt chúng ta đã có trong tâm trí, hình ảnh chiên cừu tung tăng chạy nhảy bên đồng cỏ xanh tươi, có thể chúng ta đã nhìn thấy qua phương tiện truyền thông. Người mục-tử trong ví trí giám mục, linh mục, tu sĩ, hay cha mẹ, chúng ta đã nghe; còn đâu là mục-tử tốt lành, hôm nay Chúa Giêsu đã khẳng định Ngài chính là mục-tử sẽ thí mạng vì đoàn chiên. Cái khó ở chỗ là phải có kiến thức, kinh nghiệm, người ta mới phân biệt được người tốt, việc tốt, hàng thật, hàng tốt. Chúa Giêsu hôm nay đã hướng chúng ta đến tình yêu, kêu gọi ta hãy là người tốt, có đầy tình yêu thương, vì chỉ khi yêu, người mục-tử mới dám sống chết để bảo vệ, bênh vực cho đoàn chiên mình được giao phó.

Cái đẹp gây được sự chú ý của người thời nay là cái đẹp toàn diện, sự tốt lành mà chúng ta hằng chờ đợi là niềm vui ngập tràn trong yêu thương. Khi đưa ra hai hình ảnh mục-tự thật và mục-tử giả, tốt và xấu, Chúa Giêsu đưa dẫn các độc giả tới “cái biết”, biết chọn lựa, biết khôn ngoan, biết làm cho “chữ tình” được sống động, nghĩa là mỗi người đừng dừng lại ở mơ ước hay thụ động chờ đợi. Hình ảnh người chăn chiên hiểu biết chiên của mình, và đoàn chiên sẽ không nghe theo tiếng người lạ, cho thấy ai cũng cần phải năng động, cần biết gắn bó yêu thương, nhằm đạt tới niềm vui dồi dào hạnh phúc.

Thánh Phêrô trong sách Công vụ hôm nay nói tới sự gắn bó yêu thương trong Đức Kitô, và chính khi tin tưởng vào Danh Đức Kitô mà người bại liệt được chữa khỏi. Sự hiện diện và quyền năng của Đấng Phục Sinh tỏ rõ người thật, việc thật, dẫn ta tới niềm vui và có kết quả tốt trong ơn Thiên Chúa cứu độ. Khoảng cách xa lạ sẽ được xóa bỏ, Đức Kitô chính là nền tảng vững chắc cho tình yêu thương được triển nở, niềm vui ơn cứu độ sẽ đến với tất cả những ai tin và sống theo tinh thần Đức Kitô.

Khi yêu, chúng ta thường diễn tả về tâm trạng của mình theo truyền thống tiền nhân : “yêu ai yêu cả đường đi, hoặc yêu là chết trong lòng một tí”, như thế đã là hay lắm rồi. Đức Giêsu hôm nay nói rằng : Ta là mục-tử tốt lành, Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta. Khi gắn bó trong tình yêu thương, người mục-tử có thể nghe, hiểu những âm thanh phát ra nơi đoàn chiên, đó là những lý do Vị Mục-tử dám thí mạng sống mình vì nhu cầu sống hạnh phúc của đoàn chiên.

Đã ở trong một đoàn chiên, không những chiên phải biết nghe theo sự hướng dẫn của người chăn chiên, mỗi con chiên còn có một sứ mạng giúp nhau biết yêu thương, biết sống đoàn kết để đạt tới niềm vui thật trong Đức Kitô là Chủ Chiên. Đó cũng là tâm tình của Thánh Gioan tông đồ nơi bài đọc 2 hôm nay chia sẻ về ơn được làm con trong tình yêu thương của Đức Kitô. Trong cộng đoàn giáo xứ, tin Đức Kitô, sống niềm tin trong Đức Kitô, mỗi người đều phải thể hiện sự hiệp nhất giữa các phần tử với nhau, dù nén bạc và khả năng mỗi người có khác nhau.

Kinh nghiệm của người xưa để lại : đẹp và rồi được yêu, ấy mới chỉ là phụ nữ; xấu mà biết cách làm cho mình được yêu, đó mới đáng gọi là công chúa. Thích sản phẩm tốt, muốn sở hữu được hàng hiệu, hàng tốt, mới chỉ là người say mê “cái đẹp”; bao trùm lên trên tất cả, chúng ta phải khiêm tốn trau dồi kiến thức và đón nhận ơn thánh hàng ngày để là người hoàn thiện, đó mới cao quí. Chúa Giêsu là Mục-tử nhân lành, Ngài đã chết vì yêu thương, vì tội lỗi nhân loại, chúng ta là đoàn chiên của Ngài, chỉ có thể đến được đồng cỏ xanh tươi khi chúng ta biết sống hiệp nhất với Hội Thánh trong ơn gọi theo Chúa Kitô của mình. Amen.

Về mục lục

.