Các bài suy niệm Chúa Nhật 18 Thường Niên A(Chúa Hiển Dung)

479

Mục lục

  1. Được Thấy Được Nghe( Lm. Jos DĐH, Gp. Xuân Lộc)
  2. Biến Đổi Cuộc Sống Trở Nên Giống Chúa Giêsu (Lm. Ngọc Dũng, SDB)
  3. Thị Kiến (Trầm Thiên Thu)
  4. Người Biến Đổi Hình Dạng (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
  5. Hãy Vâng Nghe Lời Người (Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)
  6. Con yêu dấu (Lm. Giuse Trần Việt Hùng
  7. Đức Giêsu – Con đường cứu độ duy nhất(Lm. Bùi Quang Tuấn)
  8. Ý nghĩa đời sống ta là gì? – Achille Degeest.
  9. Biến hình – Richard Gutzwiller
  10. Hãy Biết Mình(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

ĐƯỢC THẤY ĐƯỢC NGHE

Tuần 18 TN-A Chúa Hiển Dung: Mt 17, 1-9

Lm. Jos DĐH, Gp. Xuân Lộc

Cao sang quyền quý, bần cùng đói khổ, thông thái, dại khờ, tuy đối nghịch nhau, nhưng vẫn đang chung đường chung lối, và có chung ước muốn hạnh phúc. Cuộc sống cho biết: quá khó để “bắt ai” phải yêu mình, lại càng đáng sợ hơn khi “bắt mình” phải ngừng yêu. Thực ra, khác biệt và độ chênh lệch đều có nguyên nhân, ngay cả khi có ngàn lý do làm bạn buồn, chỉ cần một tác động nhỏ của tình yêu cũng đủ để khích lệ bạn vui. Khái niệm thành công là đạt được mục tiêu sau những nỗ lực, đầu tư. Cũng chẳng ai nói hạnh phúc là vì được dư đầy vật chất, tiền vàng không phải là không có sức mạnh, chẳng qua trên đời này làm gì có ai bán hạnh phúc ! Tất cả đều có cơ hội để thành công, hạnh phúc, miễn sao bạn sử dụng tốt những khả năng, hiểu biết, của bạn.

Được trải nghiệm, được tận mắt thấy cuộc sống có thật giả, được khích lệ động viên bằng sự ngọt ngào, trong đó có cả lời ai oán, điều tốt đẹp và sự xấu xa đan xen nhau. Đức Giêsu đưa đại diện ba môn đệ lên núi cao, dù không phải đi xem phong cảnh, các ông vẫn ý thức đó là vinh dự được sống tình hiệp thông, cầu nguyện với Thầy. Dù các ông lâng lâng bởi vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ, cùng sự thánh thiêng khó diễn tả, được nhìn thấy được nghe tỏ tường. Ba học trò đã nhìn thấy “Dung nhan Thầy chói lọi như mặt trời, áo Thầy trở nên trắng sáng…”. Bằng cảm nhận tự nhiên, các ông còn nhìn thấy Thầy đàm đạo với Môisê và Êlia. Tuy khoảnh khắc kỳ diệu không dài, nhưng đủ làm cho các ông ngây ngất hạnh phúc, muốn ở mãi nơi linh thánh đó. Bằng kinh nghiệm rất riêng tư: tất cả đều là anh hùng, là thiên tài, tất cả đều được yêu thương, quan trọng là chúng ta sẽ toả sáng bằng cách nào ?

Được thấy được gặp người tài giỏi, được nghe, được đối thoại với các đấng bậc có danh có tiếng, đã là vinh dự rồi. Ba học trò thật diễm phúc vì mắt được thấy tai được nghe, tâm hồn rạo rực phấn khởi, từ cuộc đàm đạo giữa Thầy của mình và hai nhân chứng cựu ước thật uy nghi. Tiền nhân chúng ta hết sức bén nhạy, cho rằng: chẳng ai thay đổi được quá khứ, nhưng mọi người có thể làm cho tương lai trở nên tốt đẹp. Theo Đức Giêsu làm môn đệ, các ông được học hỏi, tu luyện, được chứng kiến tình yêu của Thầy với Chúa Cha, với nhân loại tội lỗi, đặc biệt các ông được nghe giáo huấn và được lớn lên trong niềm tín thác cậy trông. Nội dung cuộc trao đổi ở núi cao, hẳn các ông không rõ, các ông ngây ngất hạnh phúc, khao khát được sống trong khung cảnh tuyệt vời đó: “lạy Thầy, nếu Thầy muốn con xin làm ba lều…..”

Được thấy, được nghe, những lời hay ý đẹp, còn việc hiểu và sống “cái biết” của mình, bao giờ cũng thiết thực cần phải chứng minh. Các chuyên gia về tình yêu rất lạc quan khi quả quyết: mỗi chúng ta đều là thiên thần có một cánh, do đó, để đạt đến hạnh phúc, rất cần chúng ta phải ôm lấy nhau để cùng bay. Biết đồng sức, đồng lòng, người ta sẽ thấy: ngay cả đêm 30 đen tối nhất, cũng phải kết thúc để bình minh ló rạng. Không dừng lại ở việc nhìn xem dung nhan các đấng trắng sáng, các ông còn nghe tiếng phán bảo: “đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Được lên núi cao, được chiêm ngắm sự kỳ diệu, bạn phải xuống núi để minh chứng mức độ hiểu biết, nghĩa là phải sống sứ mạng của mình. Với lời trấn an cần thiết, “tiến lại gần, Đức Giêsu chạm vào các ông và bảo: hãy chỗi dạy, đừng sợ”.

Được xem thấy, được nghe tỏ tường, cũng là trọng trách của những ai theo Đức Giêsu: “đang khi thầy trò từ trên núi đi xuống, Người truyền cho các ông, đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại”. Ở đời biết bao người không có bằng cấp nhưng vẫn thành công, nhưng chưa từng có ai không học mà lại thành công bao giờ. Biết bao người tầm thường, không tài giỏi đức độ, nhưng vẫn hạnh phúc, nhưng chưa có ai không sám hối ăn năn mà tâm hồn bình an. Người xưa có câu: nếu chỉ đọc, chỉ học, những gì mình thích, chẳng bao giờ bạn là người thông thái. Nếu các môn đệ chỉ muốn ở trên núi cao để chiêm ngưỡng vẻ đẹp thần bí nơi Thầy Giêsu, hẳn các ông cũng không được gọi là môn đệ Đức Giêsu. Được thấy Đức Giêsu, được nghe giáo huấn của Đức Giêsu, chính là lời mời gọi sống chứng nhân tình yêu Chúa trong các tương quan của mình.

Được nhìn, được nghe, được sống tinh thần yêu mến phục vụ, vẫn mãi mãi là sự tự do đáp trả của người theo Đức Giêsu. Được nhìn ngắm Dung mạo Đức Giêsu rực rỡ vinh quang, được chiêm ngắm hạnh phúc Nước Trời, đều phải cùng Đức Giêsu vượt qua đau khổ thập giá. Tình yêu chỉ kết thúc khi bạn ngừng quan tâm, hy vọng chỉ tan biến khi bạn ngừng tin tưởng, tai mắt của bạn chỉ vô dụng, khi bạn già nua vì tuổi tác. “Chỗi dậy đi, đừng sợ, các ông ngước mắt lên chẳng còn thấy ai, ngoài Đức Giêsu”. Cảm giác mơ màng, nửa say nửa tỉnh, hoặc tâm trạng sung sướng, sợ hãi, luôn phản ánh thân phận con người đầy giới hạn. Xin Chúa chúc lành để trái tim và khối óc chúng con luôn rạo rực, mắt tinh sáng, tai tinh thông, và đạt tới cùng đích trong tình yêu Giêsu. Amen.

Về mục lục

 

BIẾN ĐỔI CUỘC SỐNG TRỞ NÊN GIỐNG CHÚA GIÊSU

Lễ Chúa Hiển Dung

(Đn 7,9-10.13-14; 2 Pt 1:16-19; Mt 17:1-9)

Lm. Ngọc Dũng, SDB

Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội mừng kính lễ Chúa Hiển Dung. Đây là lễ có ý nghĩa sâu xa cho đời sống đức tin của các môn đệ [và mỗi người chúng ta] khi chúng ta đối diện với những đau khổ trong cuộc sống.

Trong bài đọc 1, Ngôn sứ Đanien trình bày cho chúng ta về hình ảnh vinh quang của Con Người. Đây là thị kiến về những gì xảy ra ở trên trời. Trong thị kiến, Đanien cho chúng ta hay: “có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện. Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Đn 13-14). Những lời này trình bày cho chúng ta hình ảnh một Con Người [Chúa Giêsu] thật vinh quang và uy quyền. Đây là niềm hy vọng của chúng ta, những người sống trong vương quốc của Ngài, là “thần dân” của Ngài. Hình ảnh này giúp chúng ta biết nhìn vượt qua những khó khăn và đau khổ trong cuộc sống để hướng tới một tương lai tươi sáng mà chính Chúa chuẩn bị cho chúng ta. Không có khó khăn nào mà không thể vượt qua. Cũng không có vấn đề nào trong cuộc sống mà không có lối giải quyết. Chúng ta sẽ vượt qua mọi sự với Đấng thống trị muôn dân, muôn nước.

Trong bài đọc 2, Thánh Phêrô nói cho chúng ta biết về sự thật của ngày quang lâm Đức Giêsu Kitô. Đây không phải là một câu chuyện được thêu dệt lên “dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người” (2 Pt 1:16). Thánh nhân dựa vào sự kiện Chúa Giêsu biến hình mà chính mình được thấy tận mắt. Điều này cho thấy thánh nhân nhìn sự kiện Chúa biến hình không chỉ là dấu chứng của sự phục sinh mà còn là dấu báo trước của ngày quang lâm khi Đức Giêsu đến trong vinh quang của Ngài. Những điều này đã được các ngôn sứ báo trước như chúng ta đã nghe trong bài đọc 1. Qua sự kiện biến hình, lời sấm của các ngôn sứ được thực hiện. Điều này làm chúng ta tin tưởng hơn: Thiên Chúa luôn trung thành với lời hứa của Ngài. Về phần mình, chúng ta có trung thành trong việc đặt trọn niềm tin vào Chúa không?

Sự kiện Chúa Hiển Dung là cách thức Ngài khẳng định con đường đến thập giá của Ngài: qua thập giá đến vinh quang. Sự kiện này chỉ được hiểu khi chúng ta liên kết với lời tiên báo của Chúa Giêsu về cuộc thương khó của Ngài được Thánh Luca trình thuật ngay trước sự kiện biến hình này (x. Lc 9:22-27). Nói cách khác, Chúa Giêsu, Đấng được công bố là Con Thiên Chúa khi chịu phép rửa (x. Lc 3:21-22), và là Đấng Thánh Luca mô tả như hiện thân của vinh quang Thiên Chúa trong thời gian sứ vụ công khai, là Con Thiên Chúa khi Ngài bước đi trên con đường thập giá. Chi tiết này nhắc nhở chúng ta về ơn gọi làm con Thiên Chúa của mình: Chúng ta phải luôn là con khi vinh quang cũng như khi thất bại, khi vui mừng cũng như khi đau khổ. Chúng ta là con Thiên Chúa mọi nơi, mọi lúc!

Trình thuật Tin Mừng hôm nay cũng được trình bày trong Tin Mừng Thánh Máccô (9:2-13) và Tin Mừng Thánh Luca (9:26-38). Sự kiện xảy ra “sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo. Người đưa các ông đi riêng với mình lên một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17:1-2). Thuật ngữ “sáu ngày sau đưa chúng ta về lại với kinh nghiệm của Xuất Hành (24:13-16), sự kiện mà qua đó Thiên Chúa mạc khải chính mình cho Môsê sau sáu ngày. Trong sách Đệ Nhị Luật thì nói đến ngày cuối cùng của lễ Lều. Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan đi riêng với Ngài. Ba người này cũng được đưa đi riêng với Ngài trong sự kiện ở vườn Cây Dầu (x. Mt 26:37). Trong sự kiện biến hình, Ngài đưa ba người “lên ngọn núi cao.” Trong Kinh Thánh, núi là biểu tượng của mạc khải, có thể nói là ngọn núi Sinai ở Galilê. Chi tiết trọng tâm của trình thuật biến hình là việc Chúa Giêsu “dung nhan Ngài chói ngời như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (x. Xh 34:29,35). Chi tiết này cho thấy Chúa Giêsu trở thành ánh sáng; bản tính của Ngài trở thành chói ngời, trong suốt trước cái nhìn của các môn đệ. Ánh sáng của Chúa Giêsu vẫn soi chiếu từng nẻo đường chúng ta đi. Giống như ba môn đệ, Chúa Giêsu cũng đưa chúng ta đi riêng với Ngài để ở với Ngài, để chứng kiến Ngài biến hình trước mắt chúng ta. Chúng ta có muốn ở với Ngài không?

Câu chuyện đưa chúng ta về với chi tiết Môsê and Êlia hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu (x. Mt 15:3). Đây chính là hai ngôn sứ trổi vượt của Thiên Chúa trong Cựu Ước, cả hai có liên quan đến núi Sinai-Horeb, là những người đại diện tương xứng cho luật và các ngôn sứ. Sự kiện này đã làm cho Phêrô nhận ra một phần nào đó chân tính của Chúa Giêsu nên thốt lên rằng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Mt 15:4). Thuật ngữ Thánh Mátthêu sử dụng là “Chúa” [Lord] thay cho từ “Thầy” [rabbi] trong Tin Mừng Thánh Máccô. Tuy nhiên, thuật ngữ này được Thánh Máccô sử dụng không phải để ám chỉ đến một thầy dạy người Do Thái, nhưng nhắc đến cách sử dụng của người Aram cổ, theo nguyên ngữ là “đấng vĩ đại của tôi,” một cách gọi kính trọng để gọi Thiên Chúa, các thiên thần hoặc những người uy quyền dưới đất.  Trong lời nói của Phêrô, chúng ta thấy có nói đến ngày lễ quan trọng của người Do Thái, đó là Lễ Lều (x. Lv 23:42). Bối cảnh phụng tự này là manh mối chính yếu mang lại ý nghĩa cho sự kiện biến hình. Chi tiết này cho thấy sự biến đổi xảy ra trong lúc hành vi phụng tự được cử hành. Chúng ta cũng thường tham dự các nghi thức phụng tự, chúng ta có được biến đổi để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu sau mỗi lần tham dự không?

Ý nghĩa của sự kiện biến hình hệ tại ở việc mạc khải của Thiên Chúa: “Ông [Phêrô] còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!’” (Mt 15:5). Trong truyền thống Kinh Thánh, đám mây sáng đại diện cho sự hiện diện của Thiên Chúa. Đó chính là shekinah [vinh quang], là đám mây huyền nhiệm mà trong đó con người gặp được và nghe Thiên Chúa nói. Tiếng nói từ đám mây khẳng định Chúa Giêsu là “Con yêu dấu.” Thêm vào điểm quy chiếu là Tv 2:7 và Đnl 18:15 của Thánh Máccô, Thánh Mátthêu đã thêm Is 42:1. Chúa Giêsu ở đây được chỉ rõ là Con Thiên Chúa, Người Tôi Tớ Đau Khổ, và ngôn sứ giống như Môsê. Cả Luật, các ngôn sứ và sách khôn ngoan làm chứng cho Chúa Giêsu. Chúng ta cũng được mời gọi làm chứng cho Chúa Giêsu qua chính đời sống thường ngày của chúng ta.

Trước sự kiện, “các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất. Bấy giờ Đức Giêsu lại gần, chạm vào các ông và bảo: ‘Trỗi dậy đi, đừng sợ!’ Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ thấy một mình Đức Giêsu mà thôi” (Mt 15:6-8). Theo Thánh Mátthêu, sự sợ hãi của các môn đệ được xem như là phản ứng trước mệnh lệnh của Thiên Chúa [lắng nghe Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Ngài] hơn là chính sự kiện như Thánh Máccô đề cập. Chính cái “chạm” của Chúa Giêsu đã làm tan biến nỗi sợ hãi của các môn đệ và có thể thánh hiến họ cho việc phục vụ khác. Việc Môsê và Êlia biết mất ám chỉ đến sự giảm tầm mức quan trọng trước mạc khải tròn đầy hơn của Chúa Giêsu. Những chi tiết trên đưa chúng ta vào trong quỹ đạo của niềm vui phục vụ. Tuy nhiên, để có được niềm vui này, chúng ta cần được Chúa Giêsu, Đấng là mạc khải tròn đầy của Chúa Cha chạm đến. Chúng ta có để Chúa Giêsu chạm đến chúng ta không? Hay chúng ta sợ khi được Chúa Giêsu chạm đến, chúng ta phải từ bỏ lối sống quen thuộc của mình?

Bài Tin Mừng kết thúc với sự kiện xuống núi: “Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông rằng: ‘Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy’” (Mt 15:9). Bằng việc gọi sự kiện vừa mới xảy ra là “thị kiến,” Thánh Mátthêu có thể đã đưa ra manh mối của bản chất sự kiện: một số đã cho rằng đây là một thị kiến theo Phêrô trong bối cảnh học hỏi Kinh Thánh trong thời gian lễ Lều, qua đó Phêrô đã nhận được sự hiểu biết xâu xa về vai trò của Chúa Giêsu. Như vậy, câu chuyện được xem là sự ngoại tại hoá một sự kiện thiêng liêng nội tại – dù nó là trước hoặc sau phục sinh, điều đó không thể khẳng định. Chúng ta cần lưu ý đến sự ảnh hưởng mang tính cánh chung của Đn 8:17; 10:9-10. Mọi sự đến lúc kết thúc mới biết được như thế nào. Vì vậy, chúng ta cần giữ thinh lặng, không nên xét đoán và lên án anh chị em mình.

Về mục lục

THỊ KIẾN

TRẦM THIÊN THU

Chúa Giêsu hiển dung hoặc biến hình là biến cố quan trọng xảy ra trên núi Tabor. Đó là Ngài cho ba môn đệ thân tín (Phêrô, Giacôbê và Gioan) được “nếm thử” vinh quang Nước Trời để củng cố đức tin cho các ông. Và rồi ông Giacôbê (lễ kính ngày 25 tháng 7) là người đầu tiên trong Nhóm Mười Hai đã hùng hồn minh chứng đức tin bằng cái chết.

Có một số người được thị kiến về những điều khác nhau. Thánh Teresa Avila (1515-1582) được thị kiến Hỏa ngục, Thánh Margaret Mary Alacoque (1647-1690) được thị kiến Thánh Tâm Chúa Giêsu, Chân phước Anne Catherine Emmerich (1774-1824) được thị kiến Bữa Tiệc Ly, Thánh Faustina Kowalska (1905-1938) cũng được thị kiến Hỏa ngục và có nhiệm vụ loan báo Sứ điệp Lòng Thương Xót của Thiên Chúa,…

Cựu Ước cũng đã có một số người được thị kiến. Ngôn sứ Đanien kể lại giấc mộng: “Tôi đang nhìn thì thấy đặt những chiếc ngai và một Đấng Lão Thành an tọa. Áo Người trắng như tuyết, tóc trên đầu Người tựa lông chiên tinh tuyền. Ngai của Người toàn là ngọn lửa, bánh xe của ngai cũng rừng rực lửa hồng. Từ trước nhan Người, một sông lửa cuồn cuộn chảy ra. Ngàn ngàn hầu hạ Người, vạn vạn túc trực trước Thánh Nhan. Toà bắt đầu xử, sổ sách được mở ra” (Ðn 7:9-10). Đó là quang cảnh Ngày Phán Xét, khi Đức Kitô tái lâm để phân biệt chiên với dê, tách cỏ lùng khỏi lúa. Đó là Giờ Công Lý, vì Giờ Thương Xót đã hết – tức là lúc Thẩm phán Tòa Thượng Thẩm xét xử mọi người để thưởng công hoặc tuyên án phạt đời đời.

Ngôn sứ Đanien cho biết thêm: “Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa: có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện. Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trịvinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Ðn 7:13-14). Những lời mô tả rất rõ ràng, cho thấy những hình ảnh chính xác và kỳ lạ. Nhưng đó là sự thật chứ không là chuyện vui đùa, cũng chẳng là huyền thoại hoặc cổ tích.

Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh đã động viên và tiên báo từ rất xa xưa: “Chúa là Vua hiển trị, hỡi địa cầu, hãy nhảy mừng lên, vui đi nào, ngàn muôn hải đảo! Mây u ám bao phủ quanh Người, bệ ngai rồng là công minh chính trực. Núi tan chảy như sáp, khi diện kiến Thánh Nhan vị Chúa Tể hoàn cầu. Trời xanh tuyên bố Người là Đấng chính trực, hết mọi dân được thấy vinh quang Người” (Tv 97:1-2, 5-6).

Mọi loài mọi vật đều phải tâm phục khẩu phục. Tại sao? Đây là lý do đơn giản mà chính xác: “Chính bởi vì Ngài là Đấng Cao Cả trên khắp địa cầu, Ngài trổi vượt chư thần hết thảy” (Tv 97:9).

Đã “thực mục sở thị” chính Thầy Giêsu và kinh nghiệm đầy mình với những tháng năm theo Thầy Giêsu rong ruổi khắp hang cùng ngõ ngách, Thánh Phêrô làm chứng: “Thật vậy, khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người” (2 Pr 1:16). Giáo hoàng tiên khởi cho biết thêm: “Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán với Người: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến” (2 Pr 1:17-18).

Và rồi Thánh Phêrô kết luận: “Như vậy, chúng tôi lại càng thêm tin tưởng vào lời các ngôn sứ. Anh em chú tâm vào đó là phải, vì lời ấy như chiếc đèn tỏ rạng giữa chốn tối tăm, cho đến khi ngày bừng sáng và sao mai mọc lên soi chiếu tâm hồn anh em” (2 Pr 1:19). Bảy mươi còn phải học bảy mốt, chúng ta chỉ là hậu duệ xa lắc xa lơ, không thể dám dại đột mà làm ngơ những lời chứng đó.

Tin không là điều dễ thực hiện trong một sớm một chiều, và khó lắm nên Chúa Giêsu mới khuyến khích: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29). Tin và ảo tưởng rất dễ lầm lẫn, thế nên phải có được khả năng minh định rạch ròi. Có những thứ được tận mắt thấy tỏ tường mà đôi khi chúng ta vẫn không tin, hoặc cứ bán tín bán nghi. Thật là khó lắm! Đức tin vẫn cần có lý trí, nếu không sẽ dễ bị cuồng tín, mà cuồng tín là phi tôn giáo. Sách “Gương Chúa Giêsu” phân biệt: “Lý trí con người yếu đuối nên thường có thể làm sai, duy chỉ có đức tin chân chính mới hoàn toàn không sai lầm”. Đức tin quan trọng, nhưng phải là Đức Tin Chân Chính.

Chúng ta không có diễm phúc được thị kiến như các thánh, nhưng chúng ta vẫn có nhiều cách thị kiến khác – như nhìn vào thiên nhiên hoặc các biến cố của cuộc đời. Rất nhiều thánh cũng chỉ “thị kiến” với đức tin giữa đời thường như vậy mà thôi.

Mới trước đó một tuần lễ, Chúa Giêsu nói rằng Ngài “phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16:21). Nghe Thầy nói vậy, các môn đệ chưng hửng, thất vọng và hụt hẫng. Bao năm gắn bó với Thầy, đồng lao cộng khổ với Sư Phụ, chấp nhận “nằm gai” với hy vọng được “nếm mật”, một lòng một dạ theo Thầy, bỏ ăn bỏ ngủ để lang thang khắp nơi với Thầy, chỉ mong đến lúc Thầy được vinh quang hiển hách thì mình cũng được hưởng chút công lao là chức tước và bổng lộc. Chính Giacôbê và Gioan đã hí hửng xin Thầy Giêsu: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang” (Mc 10:37). [Mt 20:20-23 nói rằng người mẹ xin dùm]. Thế mà ngờ đâu Thầy lại sắp đi chịu chết! Lâu đài kỳ vọng chợt sụp đổ như bị động đất mạnh, mộng vàng tương lai chợt tan thành mây khói. Công dã tràng rồi. Trắng tay. Thế là hết!

Chúa Giêsu biết các đệ tử đang “ấm ức” và hầu như tuyệt vọng, nên sau đó, Ngài dẫn ba “đệ tử ruột” lên núi, cho các ông tận mắt chứng kiến vinh quang rực rỡ của Ngài. Ngài biết sức chịu đựng của con người có giới hạn. Các môn đệ cũng là những con người. Nếu không mặc khải cho các ông biết chính Ngài thực sự là Thiên Chúa thật, có thể các ông sẽ rút lui không lời từ biệt, bỏ của chạy lấy người.

Trong trình thuật Mt 17:1-9, Thánh sử Mátthêu cho biết: Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người. Cảnh Thiên Đàng sao mà kỳ lạ và độc đáo quá đi, nhưng cũng thú vị lắm!

Là phàm nhân được thấy tiên cảnh thì còn gì sướng cho bằng, y như Lưu Nguyễn lạc vào Thiên Thai vậy, nên lúc đó ông Phêrô thưa ngay với Đức Giêsu: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Mt 17:4). Cho ba vị thôi, còn ba đệ tử đang sướng rơn, hồn lâng lâng, nhéo chả đau tí nào, thế nên họ chẳng cần chi cho mình nữa. Thế là “đã” lắm rồi.

Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17:5). Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàngngã sấp mặt xuống đất. Nghe tiếng nói mà không như tiếng nói, thấy người mà không như người, lạ vô cùng, phàm ngôn không thể diễn tả được. Hoảng sợ và té cái “đùng” vậy đó, thế nhưng lại thấy sung sướng vô cùng. Chỉ một thoáng thôi mà sao sướng thế không biết!

Bấy giờ Đức Giêsu lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!” (Mt 17:7). Mọi sự trở lại đời thường như trước đó. Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi. Giá mà được lâu lâu một chút nhỉ? Nhưng thôi, “nếm thử” vinh quang Thiên Chúa chút chút vậy cũng đủ tăng lực đức tin rồi. Lại phải vào đời và làm những việc cần thiết thôi… Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông rằng: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy” (Mt 17:9).

Chỉ trong chốc lát mà kỳ diệu thế đấy, chắc chắn phúc trường sinh thì hạnh phúc vô cùng. Đời đời cơ mà! Với kinh nghiệm bản thân, Thánh Phêrô cho biết: “Đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày” (2 Pr 3:8).

Lạy Thiên Chúa, xin tăng lực Đức Tin cho chúng con để chúng con vững bước lữ hành. Xin giúp chúng con cũng biết chia sẻ với tha nhân những gì chúng con cảm nhận được về Đức Tin để cùng nhau tiến về Thiên Quốc, nơi có Đại Huynh Giêsu đang chờ chúng con về đoàn tụ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

Về mục lục

 

NGƯỜI BIẾN ĐỔI HÌNH DẠNG

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J

Trong các hình ảnh người ta vẽ Ðức Giêsu,

ta thường thấy Ngài có vòng hào quang trên đầu.

Thật ra Con Thiên Chúa đã nên giống chúng ta.

Ngài mang khuôn mặt bình thường như ta.

Chính nơi khuôn mặt này mà ta thấy Thiên Chúa.

“Ai thấy Ta là thấy Cha” (Ga 14,9).

Khuôn mặt con người có thể phản ánh khuôn mặt Thiên Chúa.

Nơi khuôn mặt Ðức Giêsu, khuôn mặt như mọi người,

ta có thể gặp thấy Thiên Chúa vô hình,

Ðấng ngàn trùng thánh thiện và vô cùng siêu việt.

Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu,

khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ,

khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm của con người.

Chính vì thế họ ngây ngất hạnh phúc

khi thấy khuôn mặt ấy rực sáng vinh quang.

Họ muốn dựng lều để ở lại tận hưởng.

Tiếng từ đám mây phán ra

như một lời giới thiệu và nhắn nhủ:

“Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người,

các ngươi hãy vâng nghe lời Người.”

Thầy Giêsu vừa là Con, vừa là Người Tôi Trung (Is 42,1),

vừa là vị ngôn sứ đã từng được Môsê loan báo (Ðnl 18,15).

Phêrô không quên được kỷ niệm độc đáo này.

Ông viết: “Chúng tôi đã được thấy tận mắt

vẻ uy phong lẫm liệt của Người…

Chúng tôi đã nghe thấy tiếng từ trời phán ra

khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người” (2Pr 1,16-18).

Ðức Giêsu được biến hình sau khi chấp nhận cuộc khổ nạn,

sau khi thắng được cơn cám dỗ của Phêrô (Mt 16,23),

và kiên quyết đi trên con đường Cha muốn.

Biến hình là một bừng sáng ngắn ngủi, bất ngờ,

báo trước vinh quang phục sinh sắp đến.

Thân xác Ðức Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn

khi thân xác ấy chịu lăng nhục và đóng đinh

vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.

Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng,

nếu chúng ta dám yêu, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ,

để cái tôi đích thực được lộ ra, trong ngần.

Chúng ta cần có lần lên núi cao, thanh vắng,

để nhìn thấy khuôn mặt ngời sáng của Ðức Giêsu,

nhờ đó chúng ta dễ đón nhận

khuôn mặt bình thường của Ngài khi xuống núi,

và khuôn mặt khổ đau của Ngài trên thập tự.

Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng,

nhưng họ có thể cảm nghiệm được phần nào

khi thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi,

chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng.

Sám hối là đổi tâm hồn, đổi khuôn mặt

để chính tôi và cả Hội Thánh mang một khuôn mặt mới.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,

xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.

Mỗi lần con thấy Chúa,

xin biến đổi ánh mắt con.

Mỗi lần con rước Chúa,

xin biến đổi môi miệng con.

Mỗi lần con nghe lời Chúa,

xin biến đổi tai con.

Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn

sau mỗi lần gặp Chúa.

Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa

trong nụ cười của con,

thấy sự dịu dàng của Chúa

trong lời nói của con.

Thế giới hôm nay không cần những kitô hữu

có bộ mặt chán nản và thất vọng.

Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm

cùng đi với Chúa và với tha nhân

trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.

 

Về mục lục

HÃY VÂNG NGHE LỜI NGƯỜI

 Tác giả: Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Chúa Hiển Dung, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa Cha đã dùng hai chứng nhân Cựu Ước là ông Môsê và ông Êlia để củng cố niềm tin của các Tông Đồ vào mầu nhiệm cứu độ, và báo trước hồng ân lạ lùng Chúa Cha sẽ ban cho chúng ta là: nhận chúng ta làm nghĩa tử. Xin cho chúng ta biết nghe lời Con của Người, để mai sau, chúng ta được chung hưởng gia nghiệp với Con của Người.

 Chúa Cha đã nhận chúng ta làm nghĩa tử, và cho chúng ta được đồng thừa kế với Con của Người. Trong bài đọc một, ngôn sứ Đanien cho thấy: Chúa Cha đã ban cho Đức Kitô quyền thống trị, vinh quang và vương vị, quyền thống trị vĩnh cửu, không bao giờ bị mai một, chẳng bao giờ bị suy vong. Chúng ta sẽ được chung hưởng gia nghiệp đó với Đức Kitô với một điều kiện duy nhất là: hãy vâng nghe Lời Người.

 Bài Đáp Ca, với Thánh Vịnh 96, vịnh gia cũng cho thấy: gia nghiệp mà chúng ta sẽ được thừa hưởng đó chính là ơn cứu độ, mà chúng ta phải hát mừng và loan báo cho muôn dân biết, chỉ có một mình Chúa là Đấng Cứu Độ Duy Nhất: uy phong rực rỡ, dũng lực huy hoàng, toàn thể địa cầu phải run sợ.

 Trong bài đọc hai, thánh Phêrô khẳng quyết rằng: quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Kitô được các Tông Đồ loan báo không phải dựa trên những chuyện hoang đường, nhưng, dựa trên vẻ uy phong lẫm liệt mà chính các ngài đã tận mắt nhìn thấy, và đã tận tai nghe tiếng từ trời phán. Chính vì đã tận mắt nhìn thấy, và đã tận tai lắng nghe, nên thánh Phêrô cực kỳ chắc chắn và ngài muốn chúng ta cũng phải hết lòng tin tưởng vào lời ấy, bởi vì, lời ấy như chiếc đèn tỏ rạng và như sao mai: soi chiếu cho chúng ta biết đường để tiến tới ơn cứu độ, gia nghiệp đời đời của chúng ta.

 Trong bài Tin Mừng Lễ Chúa Hiển Dung, năm A này, thánh Mátthêu cho chúng ta thấy: Đức Kitô chính là Đấng Cứu Độ mà Chúa Cha đã hứa ban cho nhân loại, qua Dung Nhan chói lọi như mặt trời và y phục trắng tinh như ánh sáng, mà hai chứng nhân của Cựu Ước là Môsê và Êlia, được sai đến để củng cố niềm tin cho các Tông Đồ về mầu nhiệm cứu độ. Điều mà Chúa Cha muốn các Tông Đồ thực hiện, để trở nên nghĩa tử và đồng thừa kế với Đức Kitô là: hãy vâng nghe Lời Con của Người.

 Nhiệm cục mặc khải có khởi nguyên và nguồn cội nơi Chúa Cha, bởi vì, một lời Chúa phán ra làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú (x. Tv 33,6). Mọi lời Thiên Chúa hứa đều trở thành “có” nơi Đức Giêsu Kitô (x. 2 Cr 1,20). Đức Giêsu chính là “Lời Chung Cục” của Thiên Chúa. Người “vừa là Đầu vừa là Cuối” (x. Kh 1,17). Từ khi ban cho chúng ta: Con của Người, tức Ngôi Lời, Lời độc nhất và chung quyết, Chúa Cha đã nói với chúng ta cùng một trật và chỉ trong một lần: tất cả mọi sự trong Lời Duy Nhất ấy, và Người không còn gì để nói nữa. Vì thế, nếu chúng ta muốn tra vấn Thiên Chúa để xin Người ban cho chúng ta: những thị kiến hay mặc khải mới nào đó, thì sự tra vấn đó không những là một chuyện điên rồ, mà còn là một sự xúc phạm đến Thiên Chúa.

 Qua biến cố Biến Hình, Chúa Cha muốn chúng ta: hãy vâng nghe Lời của Con Người, nhưng, Lời đó là Lời nào? Thưa, Lời đó chính là Ngôi Lời Nhập Thể, Lời Hằng Hữu đã trở nên nhỏ bé, đến nỗi, có thể nằm gọn trong một máng cỏ, để con người có thể đụng chạm, sờ mó, và kinh nghiệm được. Với ý chí nhân loại của mình, Đức Giêsu đã hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Trong Mầu Nhiệm Vượt Qua, với “ngôn ngữ điên rồ của thập giá” (x. 1 Cr 1,18), Ngôi Lời đã trở nên im tiếng, Người đã nói lời yêu thương cho mức cùng kiệt, không giữ lại bất cứ điều gì, không còn gì để nói, Người đã “cạn lời”, khi đã “trút cạn” tình yêu cho nhân loại đến giọt nước giọt máu cuối cùng trong sự thinh lặng hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha.

 Mầu Nhiệm Thập Giá đã cho thấy: Chúa Cha đã nói qua sự thinh lặng của Người. Kinh nghiệm về sự xa cách với Cha, là kinh nghiệm “đêm tối” trong hành trình trần thế của Con Thiên Chúa,  đến nỗi, Người phải thốt lên: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15,34; Mt 27,46). Sự thinh lặng trao nộp chính Con Một của mình để cứu độ nhân loại, kết hợp sự thinh lặng tự hiến hoàn toàn không còn lời nào để nói của Ngôi Lời, đã trở thành Lời Hằng Sống, Lời Cứu Độ cho tất cả những ai biết lắng nghe và thông dự vào Lời của Con Thiên Chúa: “Lạy Cha, con xin phó hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). “Lời thinh lặng” của Thiên Chúa nối dài những Lời, mà Người đã nói trước đó. Trong những khoảnh khắc đen tối nhất của cuộc đời chúng ta, Thiên Chúa nói với chúng ta qua “lời thinh lặng” của Người. Ước gì khi suy niệm Lời Chúa, trong bối cảnh của ngày Lễ Chúa Biến Hình hôm nay, chúng ta quyết phải xin cho bằng được ơn mà các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin là: biết lắng nghe Lời của Con Chúa, nhất là, Lời thinh lặng, Lời “không lời” của thập giá, để chúng ta cũng có được kinh nghiệm như Đức Giêsu: trút cạn lời tình yêu, trút cạn cả con người mình, để thánh ý Chúa Cha được thể hiện trong cuộc đời chúng ta.

 Từ “Lời” thinh lặng, không lời, vô hình đầu tiên, Thiên Chúa đã sáng tạo ra thế giới hữu hình với muôn loài muôn vật, và từ “Lời” thinh lặng, không lời cuối cùng của Đấng chịu treo trên thập giá và “lời” im tiếng đầy can đảm của Đấng đứng kề bên thập giá, mà một nhân loại mới được sinh ra. Do bởi, tiếng “không” ồn ào, chát chúa, đầy cao ngạo của Ađam và Eva, mà cửa thiên đàng đã đóng lại, thì nay, do bởi tiếng “vâng” lắng dịu, ngoan ngùy, đầy khiêm cung của Đức Giêsu và của Đức Maria, mà cửa thiên đàng lại khai mở cho tất cả những ai biết lắng nghe và thông dự vào tiếng nói lặng thinh, không lời của thập giá, để trở nên nghĩa tử, đồng thừa kế, và đồng hình đồng dạng với Đấng đã yêu thương và thí mạng vì mình.

 Mầu Nhiệm Biến Hình là biến cố, mà Đức Giêsu đã chuẩn bị trước cho các môn đệ, để các ông vững tin: khi bước vào Mầu Nhiệm Thập Giá. Ước gì khi mừng Lễ Chúa Biến Hình hôm nay, chúng ta cũng hãy để cho Chúa: dẫn chúng ta đến dưới chân thập giá như Mẹ Maria, để chúng ta cũng nghe được một tiếng nói lặng thinh, một tiếng nói “không lời” của Đấng, đứng kề bên thập giá, một sự thinh lặng đầy can đảm thấu tận trời cao, xuất phát từ con tim ngoan ngùy, tĩnh lặng hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa, để như Mẹ, chúng ta cũng có thể cưu mang, và sinh hạ Lời Hằng Sống, Lời Cứu Độ cho thế giới hôm nay. Ước gì được như thế!

Về mục lục

CON YÊU DẤU

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể đã được tỏa sáng trên đỉnh núi. Chúa Giêsu biến hình, mặt Người chiếu sáng như mặt trời. Chúa Giêsu tỏ mình: Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.”(Ga. 9,5). Đây là hình ảnh Con Thiên Chúa thật. Thánh Matthêo đã diễn tả sự biến hình một cách ngắn gọn nhưng đã nói lên được ý nghĩa và sứ mệnh cứu độ của Chúa Giêsu. Từ khi Chúa Giêsu hạ sinh làm người, Chúa đã xuất hiện trước công chúng một cách âm thầm như mọi người trong tất cả mọi sinh hoạt. Chúa chấp nhận sự phát triển tiệm tiến trong thời gian và không gian tự nhiên.Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Hai, là Ngôi Lời, là Con Thiên Chúa và là Con yêu dấu của Chúa Cha. Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa. Ngôi Lời là Con Thiên Chúa (Ga. 1,1). Khi Ngôi Lời xuống trần, thiên thần đồng thanh ca tụng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc.2,14). Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan tại sông Giođan: Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.”(Mc. 1,11). Chúa Giêsu biến hình trên núi có tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người” (Mt.17,5). Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu tiếp tục hiện diện với các tông đồ qua nhiều cách và luôn chúc bình an cho các ông: “Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!” (Lc. 24,36). Chúng ta nhận thấy hình ảnh xuyên suốt qua cuộc đời Chúa Cứu Thế. Ngài là Con Thiên Chúa đến đem bình an cho nhân loại.

Chúa đã chia sẻ cuộc sống với con người một cách cụ thể. Chúa lao động để kiếm miếng cơm manh áo như mọi người. Hằng ngày, Chúa muốn học biết và trải qua những kinh nghiệm của đời thường. Chúa quan sát mọi việc trong nhà ngoài ngõ. Khi ra giảng đạo, Chúa dùng tất cả những câu truyện cụ thể kinh nghiệm trong đời sống. Chúa lấy tất cả những ví dụ dễ hiểu để truyền rao chân lý Nước Trời. Chúa dùng các tỉ dụ, ngụ ngôn, dụ ngôn hay câu truyện rất thật đi đôi với cuộc sống nơi vùng quê thôn dã. Chúa rành rẽ những phương thức gieo trồng, nấu nướng, ép nho và ủ rượu. Chúa học biết cách xử dụng muối ướp, men trong đấu bột, đèn để trên giá và mang đèn phải mang dầu theo.

Chúa lôi cuốn quần chúng lại gần qua lời giảng dậy đơn sơ, thẳng thắn và đầy uy quyền. Chúa không dùng những triết thuyết cao siêu, trừu tượng hay lý thuyết khô khan khó hiểu. Lời Chúa thật giản dị và cụ thể dành cho mọi tầng lớp. Ai nghe cũng có thể hiểu được ý nghĩa, trừ những người nhắm mắt và bịt tai không muốn lắng nghe. Từ những người chài lưới thất học quê mùa đến những thầy thông luật cũng đã thấm nhuần đạo lý của Chúa. Lời của Chúa thật trong sáng và có sức thuyết phục sâu đậm.

Chúa còn thực hiện rất nhiều phép lạ để chữa lành nọi thứ bệnh họan tật nguyền, cho kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người câm nói được, người què đi được, xua đuổi tà thần, hóa bánh ra nhiều để nuôi dân, truyền sóng biển im lặng, mẻ cá đầy tràn và cho kẻ chết sống lại… Đây là những phép lạ tỏ uy quyền của Chúa trên vạn vật. Chúa biến hình một sự kiện vĩ đại trong lịch sử cứu độ, Chúa tỏ mình cho các môn đệ thân tín. Chúa biến hình trở lại nguyên dạng đã có từ nguyên thủy. Một mầu nhiệm nhập thể không ai hiểu thấu. Chúa mặc lấy xác phàm với thân phận của con người giới hạn trong thời gian và không gian. Chính Ngài đã tự nguyện tước bỏ vinh quang và chấp nhận thân phận tôi đòi: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Ph. 2,8)

Chúa Giêsu có hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Một Thiên Chúa thật trong thân xác phàm nhân. Chính Thiên Chúa đó bị người đời khinh bỉ, tẩy chay, xua đuổi, chối từ, đánh đập, khặc nhổ trên mặt, nhạo cười, đội mạo gai, vác thánh giá, bị con người tội lỗi xét xử và kết án tử hình. Chính những con người đã từng chịu ơn đã giơ tay xin tha cho Baraba và giết Giêsu. Giết Con Thiên Chúa.

Chúa Giêsu là mặt trời công chính và là ánh sáng thế gian. Chúa Giêsu lại nói với người Do-thái: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.”(Ga. 8,12). Thiên Chúa cao cả sáng chói như mặt trời vậy mà bị con người vô tâm xô đẩy vùi dập, đánh đập tàn nhẫn, máu me dính bết châu thân, nhịn đói nhịn khát, bị đóng đinh chân tay vào thánh giá và bị treo lên lơ lửng cho chết dần. Ngài chính là Thiên Chúa. Con người phàm hèn mà dám giết chết Thiên Chúa trong xác phàm.

Tiếng từ trời cao: Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người (Mt.17,5). Loài người đã giết người Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha. Ngày nay nhiều người vẫn tiếp tục hùa nhau giết Con của Thiên Chúa và loại trừ Ngài ra khỏi đời sống. Người Con đó bị xét xử như một tội nhân và được xếp vào hàng các tội nhân đem đi xử tử. Người Con đẹp lòng Thiên Chúa Cha đã hy sinh mạng sống để cứu độ chúng sinh. Chúng ta suy gẫm và chăm chú nhìn hình ảnh người Con yêu dấu chết giang tay trên thập giá. Qua hơn hai ngàn năm, Ngài vẫn tiếp tục bị người đời tẩy chay, khinh bỉ và xua đuổi. Không phải người ta xua đuổi loại trừ một ông Giêsu nào đó, mà là đang loại trừ chính Con Một Thiên Chúa.

Con Ta yêu dấu chiếu sáng như mặt trời và áo Ngài trắng như tuyết. Chúa Giêsu là ánh sáng chiếu dọi vào đêm tối, nhưng bóng tối không tiếp nhận ánh sáng: Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối và bóng tối đã không diệt được ánh sáng (Ga. 1,5). Nhìn thấy ánh sáng chói lòa, các môn đệ sợ hãi và ngã sấp mình xuống đất. Ánh sáng của Chúa Kitô soi dọi thấu tận tâm can của các tông đồ, các ngài thốt lên rằng: Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm (Mt. 17,4). Thật sung sướng khi được ở bên Chúa.

Hình ảnh Chúa Giêsu biến hình trên núi đã hé mở một chút vinh quang của Ngài cho các tông đồ. Sự vinh quang luôn hiện diện trong Ngài qua lời giảng dậy, qua các phép lạ và qua chính con người của Ngài. Chúa Giêsu sẽ trở lại với vinh 59

quang đích thực khi Ngài hoàn tất công trình cứu độ qua con đường thập giá. Chúa Giêsu đã đổ tới giọt máu cuối cùng trong thân phận con người. Tình yêu trọn vẹn hiến dâng Chúa Cha để đền bù tội lỗi của chúng ta. Ngài yêu chúng ta tới cùng: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga. 15,13).

Chúng ta được cứu chuộc bằng giá máu của Con Thiên Chúa. Chúa Con đã hiến tế một lần là đủ để đền tội thay cho cả thế giới. Chúng ta hưởng nhờ ơn cứu độ mang lại nguồn sống. Chỉ nơi Đức Kitô chúng ta sẽ có sự sáng và sự sống: Ở nơi Người là sự sống và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga. 1,4). Chúa Giêsu biến hình mặc khải cho chúng ta về vinh quang ngày sau mà chúng ta hy vọng sẽ được chung hưởng ánh sáng ngàn thu với Ngài.

Trong cuộc lữ hành thế gian còn nhiều bóng tối che phủ và còn nhiều thử thách mà chúng ta phải vượt qua. Đừng khi nào chúng ta chán nản bỏ cuộc. Hãy nhớ rằng con đường Chúa đã đi qua là con đường thập giá. Phải đi qua đau khổ mới tới vinh quang. Nhiều lần Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta: Thầy đây, đừng sợ. Chúng ta hãy khẩn khoản xin với Chúa như thánh Phêrô: Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với! (Mt. 14, 30).

Sau khi biến hình sáng chói, Chúa Giêsu và các tông đồ phải đi xuống núi và trở về cuộc sống thực tế hằng ngày. Chúa Giêsu không muốn đi theo con đường tắt dễ dàng. Ngài muốn đi trọn con đường và sứ mệnh mà Cha đã trao phó. Sứ mệnh cứu độ không chỉ qua sự giảng dạy và thực hành các phép lạ, nhưng là chấp nhận đau khổ và cái chết. Không có một hy lễ nào cao trọng hơn hy tế của Chúa Giêsu trên thập giá. Con Thiên Chúa đã đi đến cùng tận trong tất cả mọi trạng huống của cuộc đời. Từ khi Chúa hạ thân nghèo hèn trong máng cỏ cho tới lúc thân trần treo trên thập giá. Không có một con người nào dám bươc xuống thẳm sâu như Chúa. Chúa đã bước xuống và cứu con người lên.

Chúng ta không thể đi con đường tắt để đến ơn cứu độ. Chúng ta hãy cố gắng sống tốt từng phút giây mà Chúa đã ban. Hoàn tất tốt giây phút hiện tại trong yêu thương tha thứ và chia sẻ bác ái. Hãy ngước nhìn lên thập giá của Chúa để tìm nguồn ủi an và gắn kết yêu thương. Chúa sẽ dẫn chúng ta đến nguồn ơn cứu độ. Chúng ta biết rằng phải qua thánh giá mới đạt tới vinh quang.

Đây chính là hồng ân cứu độ. Đây chính là tình yêu! Chúa đã chết vì yêu! Chúa đã chết vì tội lỗi chúng con. Chúng con dâng lời ngợi khen, cảm tạ và tán tụng danh Chúa đến muôn ngàn đời.

Về mục lục

ĐỨC GIÊSU-CON ĐƯỜNG CỨU ĐỘ DUY NHẤT

Lm. Bùi Quang Tuấn

“Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ai một mình Chúa Giêsu” (Mt 17:8).

Trong cuốn sách tựa đề “Gương Hiếu Thảo”, tác giả Phan Như Huyên có thuật lại gương chí hiếu của Công Chúa An Thường như sau: An Thường là con gái thứ tư của vua Minh Mạng. Nàng rất thông minh và thảo hiếu. Năm lên 9 tuổi, mẹ của công chúa bị bịnh. Lúc đó vào dịp lễ Vạn Thọ, các hoàng tử công chúa đều được triệu vào cung để chúc tuổi vua cha. Nhà vua cho các hoàng tử được ăn thịt dê. An Thường chỉ ngậm thịt trong miệng chứ không nuốt. Vua thấy lạ mới hỏi nguyên do, cô trả lời: “Con nghe nói thịt dê bổ lắm, nên con ngậm về cho mẹ đang bị bịnh ăn cho mau khỏe”. Nghe vậy, vua cảm động quá, mới truyền đem khay lấy thêm thịt để An Thường đưa về cho Mẹ. Đến khi Vua Minh Mạng chết, nàng để tang ba năm, sống bên lăng cha cho trọn đạo hiếu.

Khi đề cập đến đạo hiếu trong văn hoá Việt Nam, Đức TGM Stephanô Nguyễn Như Thể của TGP Huế tại Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu, đã phát biểu: Người Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của Khổng giáo, Lão giáo, Phật giáo. Cả ba tôn giáo đó đều cho lòng hiếu thảo là nhân đức căn bản của gia đình và xã hội. Việc sốt sắng tôn kính và phục vụ cha mẹ khi còn sống cũng như lúc qua đời là một bổn phận ưu tiên. Luân lý và văn minh đều tùy thuộc vào bổn phận này.

Có lẽ trong những quốc gia mà đạo hiếu bám rễ sâu vào lòng người như Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ…, nơi mà “tứ đại đồng đường”, ba bốn đời vẫn ở chung nhau dưới một mái nhà, thì việc rao giảng hay đón nhận Kitô giáo sẽ không phải là một chuyện dễ dàng. Tại sao thế?

Lý do là vì nhiều người cảm thấy băn khoăn muốn phải kháng khi nghe Đức Giêsu nói: “Ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ của Ta” (Lc 14:26).

Vấn đề được đặt ra là: “Trên thế gian này có gì cao đẹp cho bằng tình cảm cha mẹ con cái, vợ chồng, anh em, và có gì quí giá cho bằng sự sống, ấy thế mà Đức Giêsu nào đó lại bảo người ta phải hy sinh từ bỏ để có thế gắn bó với Ngài. Thử hỏi Đức Giêsu là ai mà đòi hỏi người ta một việc làm quá đáng như vậy? Phải chăng Đức Giêsu đang dạy con người sống bất hiếu?”

Điều cần xác minh trước hết, ấy là Chúa Giêsu không hề dạy người ta bất hiếu hay bất nghĩa. Ngài đã từng nhắc đi nhắc lại điều răn thứ 4 là giới răn dạy người ta thảo kính với mẹ cha. Khi một chàng thanh niên đến hỏi Chúa Giêsu làm thế nào để được hạnh phúc đời đời, câu trả lời của Ngài đã có phần: “ngươi phải thảo kính cha mẹ”. Ngay khi trên thập giá, trước lúc tắt hơi, Ngài vẫn quan tâm đến Mẹ Maria và lo liệu để Gioan đón Mẹ về nhà chăm nom. Thế nên không thể nào nói Chúa Giêsu bất hiếu hay dạy người ta sống bất hiếu được.

Vậy thì làm sao để lý giải được câu nói trên đây của Chúa Giêsu?

Thật ra có gì khó hiểu đâu nếu như có những con người đã vì một đất nước trần thế, một đất nước nay còn mai mất, nay vào tay chế độ này mai vào tay chế độ khác, mà họ còn dám dấn thân và hy sinh cha mẹ anh em cùng sự sống, thì với một đất nước vĩnh hằng, một đất nước được thống trị bởi Đức Giêsu, vua tình yêu và chân lý, thì có gì là khó hiểu khi có những con người dám liều bỏ hết tất cả để đi theo vị vua đó và xây dựng đất nước đó.

Mấy ai lại không biết một Thomas More dám bỏ vua Henry VIII, chấp nhận xa vợ con, và cuối cùng là mất mạng sống để bênh vực cho chân lý trung tín yêu thương, một vợ một chồng, mà Vua Giêsu đã truyền dạy.

Mấy ai lại không biết một Giêrađô Majella trốn nhà ra đi sau khi ghi vội cho mẹ mấy lời: “Mẹ ở nhà con đi làm thánh”. Hay một Charles Cornay đã can đảm bước qua mình song thân, lên đường đi rao truyền chân lý Nước Trời cho Việt Nam, chấp nhận biết bao khốn khó nghèo khổ, và rồi cuối cùng chấp nhận cái chết lăng trì vì con người có tên Giêsu.

Nhưng không phải là ai cũng hiểu rõ được bản chất thực sự của Đức Giêsu để dám bước theo Ngài cách can đảm và quyết liệt. Lắm khi người ta lại cho Ngài chỉ giống như một hiền triết, hay một vĩ nhân, hoặc một nhà sáng lập tôn giáo nào đó. Nhưng một hiền triết, một vĩ nhân, hay một người sáng lập tôn giáo như Đức Khổng, hay Đức Lão, hoặc Đức Phật, thì cũng chỉ là những con người nói về yêu thương và dạy về chân lý, khuyên bảo chúng sinh làm lành lánh dữ, chứ các ngài không là yêu thương, hay là chân lý. Nhưng Đức Giêsu thì trái lại, Ngài là yêu thương, là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống. Quan trọng là chỗ đó! (ĐC Fulton J. Sheen).

Thế thì, một khi nhận thức và xác tín Đức Giêsu chính là chân lý soi sáng đường đi cho con người, là tình yêu đưa đến một sự sống phong phú tràn đầy, thì việc bước theo Ngài, làm môn đệ của Ngài sẽ là bước đi tất yếu cho những ai muốn sống sự thật, muốn sống yêu thương, và muốn trở nên con người toàn vẹn. Ngoài Đức Giêsu Kitô, sẽ không còn ai có thể lấp đầy khát vọng đó.

“Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, chỉ trừ một mình Chúa Giêsu”. Hai nhà đại tiên tri và lãnh đạo tôn giáo là Êlia và Môisen biến mất. “Chỉ còn một mình Chúa Giêsu”. Theo nhận định của một nhà chú giải: rồi đây “mọi chủ thuyết triết học, mọi ý thức hệ vang bóng một thời rồi cũng sẽ bị lãng quên”. Các tinh hoa của mọi nẻo đường cũng chỉ qui về một mối trong Đức Giêsu, Đấng là Đường duy nhất dẫn đến Chân Thiện Mỹ của muôn vật muôn loài.

Thật chí lý thay niềm xác tín của Giáo hội: “Không có ơn Cứu Độ ngoài Đức Giêsu”.

Về mục lục

Ý NGHĨA ĐỜI SỐNG TA LÀ GÌ? – Achille Degeest.

 

Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’

Có thể nói rằng trong câu chuyện về việc Chúa Biến Hình, Chúa Cha mặc khải Chúa Con. Để suy niệm, chúng ta sẽ dừng lại một đôi khía cạnh đảo ngược, nghĩa là một ít đường nét trong khuôn mặt của Chúa Giêsu, Đấng mặc khải Chúa Cha. Làm như thế, ta sẽ trung thành với phần kết luận của câu chuyện, theo đó thì sự chú ý của ta được hướng về cá nhân Chúa Giêsu.

Việc Chúa Biến Hình là chứng tá của Chúa Cha về Chúa Giêsu. Cả đời Chúa Giêsu là một chứng tá về Chúa Cha. Người biết mình bởi đâu đến và đi về đâu, Người từ Chúa Cha mà đến và sẽ trở về với Chúa Cha. Đến lượt ta, trong Đức Kitô và nhờ Người, ta cũng biết nguồn gốc và cùng đích ta là đâu. Sau đây là một vài tỷ dụ về khuôn mặt ‘làm con’ của Đức Kitô.

1) Một chuyển động nội tâm đem lại ý nghĩa cho đời sống Đức Kitô và soi sáng nó. Người biết mình là kẻ được Chúa Cha thánh hiến và gởi vào thế gian để đem Tin Mừng Cứu Độ đến người nghèo khó, rao giảng sự giải thoát (khỏi tội lỗi) cho người tù đầy, và mở mắt cho kẻ đui mù (Lc 4,18). Là ‘phái viên’ của Chúa Cha, Người đặt sự thành tựu con người và đời sống mình trong lòng trung tín với ý Cha. Không phải là một sự trung tín an phận trước một chuyện chẳng đặng đừng, nhưng là một sự trung tín tích cực, tự phát, quyết liệt. Nó là dấu hiệu của Thánh Thần tình yêu hoạt động mãnh liệt trong Người.

Có lẽ đã có lần ta tự hỏi: đời tôi có ý nghĩa gì? Nếu ta sống trong thánh ý Chúa và nếu ta tận tình chu toàn thánh ý Chúa Cha, thì đời ta có một ý nghĩa và như Chúa Con, chúng ta cũng được biến hình cách thiêng liêng.

2) Chúa Giêsu muốn để cho Chúa Cha hiện rõ qua con người và đời sống mình. Ý chí đó đã quy định mọi hành vi, thái độ của Người. Người nói năng thế nào? Hoạt động ra sao? Người dám nói rằng lời Người nói không phải là của Người, nhưng của Đấng đã sai Người đến. Người quả quyết Người không hành động tự ý mình, nhưng chính Chúa Cha hành động qua Người. Nhìn Chúa Giêsu mà không đếm xỉa đến tương quan của Người với Chúa Cha, ta sẽ không hiểu nổi Người. Với người Kitô hữu cũng thế. Họ phải để cho Thiên Chúa ‘lộ dạng’ qua đời sống mình, bằng cách làm như Chúa Giêsu: nghĩa là thỉnh ý Chúa Cha về việc phải làm, phải nói. Thỉnh ý qua lời cầu nguyện, qua việc chạy tới Đức Giêsu là Đấng mặc khải Chúa Cha, trong niềm tin tưởng ở Chúa Thánh Thần và sự tuân phục đối với Hội Thánh.

Về mục lục

BIẾN HÌNH – Richard Gutzwiller.

Trích trong ‘Suy Niệm Tin Mừng Matthêu’

Quang cảnh trên núi biến hình tiên báo về Thiên đàng. Đức Kitô đã nói trước rằng: Nhiều người sẽ không chết trước khi thấy Con Người trong vinh quang. Lời này bây giờ đã hoàn toàn được thực hiện, nhưng chỉ trong khoảnh khắc, giống như một tia sáng leo lét của ánh lửa bùng lên rồi mất hút trên bờ vắng. Đoạn văn Thánh này chia làm hai phần rõ rệt:

PHẦN THỨ NHẤT: Đầy vẻ huy hoàng rạng rỡ của Thiên Chúa. Ba môn đệ được chiêm ngắm ánh sáng mỹ miều này: Trước hết Phêrô, viên chức đầu tiên của Giáo hội, người mà từ đây sẽ phải học ý nghĩa đau khổ theo Thiên Chúa và thay thế tư tưởng nhân loại bằng tư tưởng thần linh. Thứ đến Giacôbê, người tử đạo tiên khởi, hân hoan đổ máu làm chứng vì đã thấy vinh quang Chúa. Và cuối cùng Gioan, môn đệ yêu dấu sẽ phải học biết rằng, đau khổ là bằng chứng của tình yêu.

Họ thấy Chúa biến hình, mặt Ngài rực rỡ như mặt trời, áo Ngài trắng như tuyết. Hình dáng buồn tẻ của chân dung nhân loại hoàn toàn bị hủy diệt. Tất cả phát huy từ ánh sáng Thiên Chúa. Sau khi xác sống lại con người ta cũng mặc lấy xác thể, nhưng theo những luật sinh lý mới. Ánh sáng vẫn là vật chất nhưng chiếu tỏa với tính chất đặc biệt: Ánh sáng làm thân thể rạng ngời như người ta đã thấy nơi Đức Kitô vinh quang.

Môisen và Êlia xuất hiện. Môisen cứu dân khỏi ách nô lệ Ai Cập, hướng dẫn họ qua sa mạc, trao truyền cho họ luật pháp và giao ước của Đấng Thánh siêu phàm. Tuy nhiên, ông chỉ được phép ngắm nhìn Đất Hứa từ xa. Lúc này ông được gần Đức Kitô, chính Ngài sẽ giải thoát không những riêng dân Do Thái, nhưng toàn thể nhân loại khỏi ách nô lệ ma quỷ. Chính Ngài hướng dẫn họ cách vô ngộ qua sa mạc cuộc đời tạm gửi. Ngài ban cho họ giới răn tình yêu tân kỳ trong Giao Ước Mới của Giáo hội. Là Môisen đích thực, Ngài dẫn dắt Dân Chúa vào Đất Hứa đích thực, để thực hiện cuộc biến hình muôn thuở.

Êlia là người thứ nhất trong các đại tiên tri. Người đã cấm không được dành cho Baal là thần trái đất những quyền lợi như Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới là Chúa tể của trời cao và vũ trụ.

Trước hết, người đã thay việc phục vụ các ngẫu tượng bằng việc phục vụ Thiên Chúa. Với tư cách là kẻ vô địch của Thiên Chúa, người đã đương đầu với dân Do Thái. Rồi đây, Đức Kitô đến để giúp con người khỏi rơi vào thảm họa diệt vong của trần tục, vật chất, xác thịt. Ngài đem đến cho họ nước của Thiên Chúa, là Cha trên trời. Chính Ngài cũng đã đánh bại Hêrôđê và đại diện của đế quốc Rôma. Êlia làm chứng về Ngài vì theo lời Kinh Thánh dạy, đại tiên tri được nâng lên trời rồi trở lại dọn đường cho Chúa. Người đây, sẵn sàng đóng vai trò dọn đường cho Chúa lên trời, trong cảnh biến hình. Vậy luật pháp và các tiên tri cùng hòa hợp làm chứng. Từ nay Phêrô thấy trước rằng, tình trạng biến hình như được thiết lập vĩnh viễn nên đã xin dựng lều để giây lát vinh hiển được trường tồn.

Đó là một thái độ dễ hiểu, vì con người đã được tạo dựng để hưởng niềm hân hoan. Đau khổ không thể là cùng đích của con người, nhưng đau khổ chỉ là một bước đường phải qua. Mỗi lần Chúa nói tiên tri về đau khổ, Chúa đã kết thúc bằng một ám chỉ về phục sinh vinh quang. Ở đây cuộc phục sinh vinh quang đã được tuyên bố như một yếu tố nền tảng của giáo lý về đau khổ. Ánh quang chói sáng của việc biến hình, tình trạng chìm ngập trong ánh sáng, sự chiêm ngắm hạnh phúc vĩnh cửu đã truyền trao cho các môn đệ một mãnh lực giúp họ cương quyết trên bước đường đau khổ. Họ sẽ nhìn về tương lai và chờ ngày Chúa đến giữa lúc sống cuộc đời dương thế.

PHẦN THỨ HAI: Đám mây bao phủ làm tăng vẻ oai nghiêm rỡ ràng. Trên núi Sinai, cảnh trí huyền ảo là dấu hiệu sự hiện diện của Thiên Chúa. Cũng như đám mây trước kia bao phủ ngọn núi, lúc này vẻ huy hoàng của Chúa bao trùm muôn vật. Các môn đệ phải tự tìm hiểu để cảm nhận trước được vẻ uy nghiêm của Thiên Chúa. Trên núi Sinai, phảng phất đám mây giông bão; ở đây áng mây rực sáng an bình thanh thoát. Trên núi Sinai vang dội các mệnh lệnh thần linh, vì Môisen là tôi tớ Thiên Chúa mà Do Thái phải vâng lời. Còn trên núi biến hình cung giọng nhiệm mầu không chỉ thị tôi tớ nhưng là ấm tử.

Như thế, những đòi hỏi nghiêm khắc được thay thế bằng sứ điệp yêu thương: Ở núi Sinai, trước vẻ uy nghiêm Thiên Chúa, dân chúng kinh hoảng rụng rời, ở đây, các môn đệ cũng sợ hãi chúi mặt xuống đất. Chúa Giêsu nâng họ dậy, và làm cho họ hết sợ. Từ nay họ biết rằng: với Ngài chung cục thời gian đã điểm; không phải tất cả sẽ bị hủy diệt, nhưng tất cả sẽ bị vượt qua. Chắc chắn giờ cáo chung sẽ điểm, báo hiệu một tai họa: Đau khổ, sự chết, Thánh giá sẽ hiện diện. Nhưng đây cũng sẽ là khởi điểm một thời đại mới quyết liệt khai mào ánh sáng và biến hình. Đức Kitô hiện đến khai mào thời cánh chung, nhưng thời gian ấy còn kéo dài. Trong giây lát, Chúa đã cho thấy vẻ huy hoàng của giờ phút hoàn tất với đầy vẻ trang trọng để các môn đệ không bao giờ quên. Họ được lệnh phải bảo vệ bí mật về biến cố dị thường vĩ đại này, cho tới lúc Con Người phục sinh từ cõi chết. Bấy giờ người đầu tiên trong những kẻ chết sẽ thức giấc, sống đời sống mới đích thực. Những người khác theo sau và cứ thế bắt đầu viên mãn thời gian chung kết.

Đức Kitô còn cao trọng hơn ngàn lần những gì các môn đệ, và cả Phêrô đã tuyên xưng hay cảm thức về Ngài. Nhưng chỉ có sự cao trọng siêu phàm, siêu thời gian và phổ biến thực sự trong cảnh trời mới, đất mới: lúc đó thời gian biến thành vĩnh cửu, định mệnh đau thương của con người biến thành hạnh phúc; vẻ cao trọng đó đã hiển hiện huy hoàng trên núi biến hình. Từ đỉnh núi đó, vẻ cao trọng này soi sáng mọi vực thẳm tối tăm của nhân loại.

Về mục lục

HÃY BIẾT MÌNH

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Cái quý nhất của con người là được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Cái hạnh phúc lớn nhất của con người là gìn giữ nét đẹp cao qúy đó nơi phẩm giá làm người của mình. Và điều cần thiết nhất để có một cuộc sống tốt với mọi người là nhận ra tha nhân cũng chính là hình ảnh của Thiên Chúa.

Thế nhưng, nhiều người đã phủ nhận điều cao qúy nơi phẩm giá làm người của mình. Họ không tin rằng có Thiên Chúa. Họ chối từ sự sống thần linh mà Thiên Chúa đã ban cho con người. Từ đó người ta cũng không lo gìn giữ cái đẹp của phẩm giá làm người của mình. Họ chỉ thấy con người là một loài vật có ăn có uống. Thế giới của họ là một thế giới mạnh thắng, yếu thua, và “cá lớn nuốt cá bé”. Họ không nhận ra sự liên đới giữa người với người đều là hình ảnh Thiên Chúa, cần phải tôn trọng và sống tốt với nhau. Con người đã tự khước từ phẩm giá cao qúy là hình ảnh Thiên Chúa nên cũng dễ dàng từ khước nhau và đầy đoạ lẫn nhau. Thế giới vẫn đầy những bất công và hận thù. Con người vẫn vì những tham sân si mà làm hại lẫn nhau.

Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư tử rất kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư tử thường mắng thỏ và doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo thù.

Một lần kia nó nói với sư tử rằng:

– Thưa ông anh, em vừa gặp một thằng to lớn và trông giống anh lắm. Nó bảo em rằng: “Trên đời này nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám đối mặt với nó”. Thằng cha này không coi ai ra gì cả!

Sư tử tức giận và bảo rằng:

– “Thế mày có nhắc đến tên tao không?”

Thỏ trả lời:

– Sao lại không? Em vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi.

Sư tử càng tức điên người lên và hỏi:

– Nó ở đâu? dẫn tao đến ngay.

Thỏ liền dẫn sư tử ra sau núi, và chỉ một cái giếng ở đàng xa và bảo: Đấy, nó ở trong đó đấy!

Sư tử đi lại gần giếng vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy giếng. Quả thực, nó trông thấy ngay một tên, với cặp mắt giận dữ đang trừng trừng nhìn nó. Sư tử rống lên một tiếng, tên kia cũng rống lên một tiếng. Sư tử xù lông cổ lên tên kia cũng xù lông cổ lên. Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng hăm dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ dồn hết sức mình nhảy phốc xuống giếng để cho thằng khốn nạn kia một trận. Thế là, con sư tử ngạo mạn tự huỷ diệt đời mình dưới giếng sâu…

Thất bại của sư tử là không nhận ra mình nên đã lao vào cắn xé chính hình ảnh của mình. Sư tử chỉ muốn nhất. Sư tử chỉ muốn làm bá chủ nên sẵn sàng loại trừ tất cả các đối thủ có nguy cơ nguy hại đến vị trí số 1 của mình.

Nếu con người của mọi thời đại biết nhìn nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa và mọi người là anh em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với nhau hơn. Nếu con người nhận ra hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ muốn làm chúa sơn lâm nên lao đầu vào cắn xé đồng loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ trò để loại trừ đồng loại. Chồng đánh đập vợ. Cha mẹ đánh đập con cái. Anh em đầy đoạ nhau. Hàng xóm láng giềng đáng lẽ “tối lửa tắt đèn có nhau”, nhưng lại “bới lông tìm vết” và làm hại lẫn nhau.

Hôm nay, lễ Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà Chúa đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống “nhân chi sơ tính bản thiện” của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.

Lễ Hiển Dung hôm nay mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.

Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen.

Về mục lục